Được sự cho phép của tác giả, hôm nay xin được gửi tới các bạn một cuốn hồi ký nói về hành trình hơn 20 năm âm thầm độ đời, giúp người của cô Nguyễn Thị Thanh Lan. Xuyên suốt cuốn hồi ký là những tình tiết huyền bí mà cuộc đời của cô như là một định mệnh phải gắn liền với nó. Trong Huyền Môn Lược Ký sẽ có nhiều điều bổ ích mà những người đang trên con đường đạo có thể học hỏi và tìm ra cho mình một bài học quý giá. Xin chân trọng giới thiệu...


HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ



SÁCH NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM THỰC TẾ VỀ KHOA HỌC HUYỀN BÍ VÀ TÂM LINH.



THAY LỜI TỰA



Chúng ta - đang sống ở cõi Người, nơi tượng trưng cho thế giới hữu hình. Những gì liên quan đến thế giới vô hình hay siêu hình, siêu thức - con người chưa với tay được mấy!
Ngoài một số sách nghiên cứu tìm hiểu, sưu tầm, khảo biên hay linh ứng cũng chỉ nói chung chung, thiếu minh chứng va cụ thể. Lắm khi dẫn dắt người đọc vào chỗ mơ hồ - tạo ra sự hoang mang, khó hiểu hay lo lắng, bất an ở những người "yếu bóng vía", người có tri thức và hiểu biết dễ bài xích hoặc thiếu lòng tin...
Dù vậy, ít ai có thể phủ nhận rằng vẫn còn tồn tại đâu đó chung quanh chúng ta một thế giới, khác với thế giới mà ta đang nhìn thấy, sờ mó và cảm nhận được!
Quyển sách này là cả một quá trình dài 22 năm của môt con người bình thường, hoàn toàn tỉnh táo, có tri thức, khôn ngoan và không mê tín hay cuồng tín - Được bàn tay của các Đấng ứng vào để cứu độ nhân sinh, xoa dịu nỗi đau của con người từ thể xác đến linh hồn, gieo trồng hạt giống Thiện vốn từ lâu bị thui chột bởi lòng vị kỷ.
Bàn tay ấy không từ bỏ một ai, từ kẻ sang người hèn, từ người tốt đến kẻ xấu, người hiền lành đạo đức đến kẻ bạc ác vô tâm…
Bàn tay xuất phát từ trái tim vị tha yêu thương đồng loại, nguyện đem sức lực bé nhỏ của mình an ủi và dìu đỡ muôn loài, từ trái tim của người Phật tử cho đi không hề toan tính đắn đo.
Chưa có con người hay môt sinh vật nào bước vào ngưỡng cửa nhà ấy trở ra mà không được chút gì cho mình - và những gì nhận được ấy không hề phải trả giá!
Một người nguyên là một giáo viên chỉ thờ cúng theo gốc nhà đạo Phật, ít lui tới đình chùa lễ hội và cũng không chay tịnh quy y!
Lặng lẽ vô danh ở một góc đời nhỏ bé, hy sinh cả hạnh phúc riêng tư của mình, từ bỏ mọi cơ hội tiến thân hoặc kiếm sống để khoác lên vai môt trọng trách mà ít người biết được: làm sứ giả, làm nhịp cầu nối giữa các cõi âm và dương để xóa bỏ hận thù truyền kiếp, bắt vòng tay nhân ái, gieo trồng hạt giống thiện, xoa dịu niềm đau thể xác lẫn linh hồn...
Quyển sách này là kinh nghiệm thực tế kéo dài suốt 22 năm, trải qua từng ngày, từng giờ một! Bạn có thể vì tò mò tìm đọc, hoặc muốn nghiên cứu, tìm hiểu một cách nghiêm túc cũng được! Tất cả đều là người thật, việc thật, không hề được phóng đại hay cắt xén, bóp méo, bẻ cong. Nhân chứng sống đa số vẫn còn nguyên đó - và bạn có thể tùy tiện tra cứu lại, nếu muốn!
Bạn sẽ tìm thấy ở đây những "Luật bất thành văn" về sự giao tiếp, hành xử và liên hệ giữa cõi vô hình và hữu hình. Những quy tắc bất di bất dịch, mà dưới bàn tay tự nguyện của tác giả, nó trở nên linh động, uyển chuyển, đổi thay và cảm hóa...
Người xưa bảo: "Cây kim sợi chỉ không qua được lưới trời" - "Nhân quả báo đền" hoặc "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo"... Quyển sách này được viết lại chứng minh cho loài người biết rằng: tất cả vạn sự trên đòi đều có luân hồi, quả báo - và tấm lòng của các Đấng vẫn rộng cứu muôn loài, những ai còn biết tìm đến, hướng về!
Muôn vạn đạo pháp trên đời chẳng qua được đạo tâm hay còn gọi là "lòng nhân đạo".
Hạt giống thiện khéo gieo trồng sẽ đem đến an lành cho cõi nhân sinh! Xin phép mượn bài viết trước đây (Ngày 17/5/2005) để giới thiệu về tác giả cũng như tác phẩm "Huyền Môn Lược Ký".

Tháng 7 - Mùa Vu Lan Báo Hiếu, ngày xá tội vong nhân - Xin hướng về Phật Pháp đảnh lễ! Xin cúi đầu cảm tạ bàn tay huyền diệu của các Đấng đã ân cứu chúng sinh! Cầu xin phước báu quy về Cửu Huyền Thất Tổ muôn kiếp vạn loài được siêu sinh tịnh độ…


Tiết Lập Thu - Tháng Canh Thân - Ngày Nhâm Thìn - Năm Mậu Tý (Thượng Tam Nguyên niên kỷ)

Huệ Nghiêm Chuẩn đề!
Đệ Tử Diệu Thiện Kính Truyền!

" NAM MÔ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ".


CHỦNG TỬ PHẬT



Tôi chỉ biết một điều rằng Tôi không phải là một người thuộc về cõi trần hữu hạn này. Tôi từ nơi khác đến - và đến đây không phải để sống kiếp sống của một người trần thế bình thường. Mặc dù Tôi cũng sinh ra và lớn lên cùng mọi người, cũng ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, yêu thương và sân hận như họ!
Nhiệm vụ của Tôi là đem mình ra để chịu thế một ít khổ đau của người khác, nhờ đó họ được nhẹ nhàng hơn, và cũng bởi không phải là người của cõi thế này, tôi không cảm thấy phù hợp với nó. Tôi luôn luôn ốm đau, bệnh hoạn - bị dằn vặt bởi những suy tư, bất an rất nhỏ bé của đời thường - và Tôi luôn mất ngủ!
Hàng đêm, những diễn biến của cuộc sống lướt qua như tia chớp trong cái đầu kiệt nhược của Tôi - và Tôi luôn tự hỏi: "tại sao lại như vậy?" Tôi bị điều khiển bởi động lực vô hình, bị nó chi phối, dồn nén - xoay chuyển vá tạo tác, hành xử từng ngày, từng phút…
Nhưng khi cuộc sống của Tôi bị dồn vào ngõ cụt thì họ lại hiện ra, an ủi và nâng đỡ tôi bằng đôi tay dịu dàng của người mẹ, bằng sự rộng lượng của người cha, bằng những vần thơ như chắp thêm đôi cánh cho kẻ bị lưu đày và tôi lại đứng lên, bước tiếp trên hành trình của một kiếp người...
Tôi là một hạt giống trời gieo xuống mảnh đất trần thế đang bị cằn cỗi, xói mòn bởi lòng vị kỷ. Hạt giống ấy lớn lên thành một thân cây có bóng mát để cho người ta tìm tới, nghỉ lại trong chốc lát rồi lại đứng lên lê bước trên đường trần dài dằng dặc, đầy đắng cay và bất trắc!
Bóng mát kia chẳng từ bỏ một ai, nó cúi xuống đưa bàn tay bé nhỏ của mình, nâng lên từ đất bụi, từ những uế nhiễm trần gian những sinh linh mang hình hài tạo tác của Đấng Vĩnh Hằng, đang bị xô đẩy ngửa nghiêng đau khổ, nạn tai và tật bệnh...
Cũng chính vì là một bóng mát cho mọi người, nó phải chịu làm cây cộc đứng giữa đường, dang mình trong nắng lửa. Nó gục xuống rồi lại đứng lên, và bởi không phải là một người của kiếp sống hiện sinh, nó không có bản lĩnh để đối phó với mọi hòan cảnh bên mình, nó luôn luôn "khó ở" và tật bệnh!
Cùng đồng hành với "kẻ tự nguyện bị lưu đầy" này còn có một linh hồn khác luôn kề cận, an ủi sẻ chia, nhủ khuyên và định hướng khi xác trần chán chường và tuyệt vọng. Để rồi sau những đêm dài trăn trở, tôi lại đứng lên, làm tiếp những công việc không mang đến lợi nhuận cho mình!
Tấm giấy thông hành tôi mang theo "nhập thế'" còn có "quyền trợ giúp tha nhân", nhưng quyền trợ giúp ấy không hề có hiệu lực với chính mình!
Khi tôi muốn, tôi có thể tìm biết về người khác, một phần quá khứ hoặc tương lai, để từ đó giúp họ xoay chuyển mệnh trần. Song với chính bản thân thì tôi lại bất lực, những quyền năng tối thượng ấy không bao giờ định hướng cho tôi, nhưng nếu tôi sai bước, tôi sẽ bị đòn đau - rất đau!
Có điều lạ là quyền năng cứu sinh ấy không hề xuất hiện để thỏa mãn sự tò mò hiếu kỳ, thử nghiệm hay xét nét. Nó chỉ hiện diện khi cần thiết, và không lưu lại dấu tích sau khi hành sự. Chỉ còn lại một tôi lơ ngơ đi giữa chợ đời, khờ khạo chán chường và không màng sự thế!
Tôi biết trách ai đây về sự tồn tại chẳng bình thường của mình, ở nơi chốn mà sự hiện hữu được phân định bằng ranh giới thấp cao của "hiện vật trưng bày", của danh vị, tiền tài và bổng lộc!
Bạn bè bảo tôi: "Cô không chịu vận động đấu tranh với cuộc sống, thì thiếu thốn, tật bệnh là lẽ đương nhiên". Hoặc: "Cô làm việc mà không thu lơi nhuận thì sống bằng gì?"
Các em tôi thì nói: "Chị Hai mà làm gì. Cứ như người ở trên mây. Làm chuyện gì cũng ba bảy hăm mốt ngày là dẹp!". Hoặc: "Tôi bạc đầu đi từ Nam chí Bắc chưa thấy ai khờ như cô, bị hết người này đến người khác lừa và lơi dụng mà không có ý kiến gì!"
Đâu phải là tôi khờ khạo để bị người lợi dụng. Tôi biết, nhưng tôi không phản kháng đấy thôi! Thực ra tôi thương hại khi thấy họ chỉ biết mãn nguyện khi tranh đoạt của người khác làm của mình, mà không biết rằng có một thứ hạnh phúc cao hơn: "đó là hạnh phúc của sự ban phát, sự cho đi!"
Giáo lý của nhà Phật có dạy rằng: "Hãy bố thí bằng đôi tay dâng tặng". Tôi mãn nguyện khi tôi dâng tặng người khác đôi bàn tay và tấm lòng của chính mình. Mặc dù trong những đêm dài trăn trở tôi vẫn còn thấy xót xa khi người ta đến tìm nơi ngưỡng cửa nhà mình - và rời đi với những thứ mà mình không hề có được cho chính bản thân.
Mượn nén hương trầm dâng tiến, tôi gởi vào đây những đắng cay chua xót của một kiếp trần nhiều hệ lụy. Hương khói vô thường lãng đãng vòng quanh rồi tan loãng vào hư không trước mặt, liệu có đến tay các Đấng Thiện Toàn - Xin Người hãy ban cho tôi thêm một quyền lực: "Quyền tự cứu chính mình!"

17/5/2005
Huệ Nghiêm Chấp Bút!



DẪN NHẬP HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ



Tôi bắt đầu viết lại hồi ký đời mình sau 22 năm bước chân vào ngưỡng cửa của thế giới tâm linh, với tay nắm bắt những khái niệm về không gian bốn chiều - mà với tầm nhìn hạn hẹp của thế giới con người vốn vẫn rất mơ hồ từ nhiều thập kỷ nay.
Vận dụng cái ảo đưa vào đời thực, chuyển hóa đời sống con người – giống như bánh xe định nghiệp chuyển luân vô hình nhưng mỗi bước xe qua để lại dấu ấn hiện hữu trên mỗi số phận, rành rành như dấu tích hạt mưa rơi trên mặt đất kia, thấm sâu vào lòng đất - cho cỏ cây hoa lá lại đâm chồi...
Việc đón nhận và truyền tải ngọn gió Huyền Môn làm xáo trộn đời sống bình thường của một người như tôi. Đó cũng là quá trình tu tập, khi một phần Linh tử dấn thân vào cõi nhân gian, khoác tấm áo thô mà truy tầm đạo lý.
Sau 10 năm, một lần tôi đã viết tập hồi ký này- Để rồi trong cơn cuồng loạn tột cùng của nỗi đau thể xác và linh hồn, tôi đã đốt nó! Còn lại là những câu thơ như tiếng thét xé màn trời:

“Lửa Luyện Ngục cháy đỏ từng hốc mắt
Khói Thẩm Tra làm điên đảo hồn linh
Phép Ngôi Cao nghiêng ngửa cả bóng hình
Cơn Thử Thách vùi dập thân bèo bọt!
OÁN tự thủa chào đời trong tiếng khóc
HẬN từ ngày mang tấm áo thế nhân
CĂM từ khi đời không chốn nương thân
HỜN từ lúc sa chân vào ngõ cụt!”…


Bây giờ, sau 22 năm - khi ngọn lửa Huyền môn đạt đến đỉnh cao nhất của nó, trở thành lửa Tam Muội quyền năng huân tập và hàng phục. Khi thể xác con người chỉ còn trước mắt "tịch tịch bóng tà dương" - Tôi mới có cơ hội nhìn lại đời mình, và viết lại bằng những hồi ức không còn sự chuẩn xác của thời gian!
Tuy nhiên những người chứng kiến và nhận được "quyền năng siêu hình" vẫn còn đấy, bàn tay dịch chuyển định nghiệp còn nguyên dấu ấn - và còn đó một tôi bước lơ ngơ giữa dòng đời, lạc lõng và xa lạ ngay với cả thế giới loài người, đời mãi thời khắc trút bỏ manh áo trần du, trở về cõi nào chẳng biết…
Tôi viết những dòng hồi ký để lại cho đời sau, con cháu hay ai đó vì tò mò hay hữu duyên tìm đọc, sẽ lại thấy cháy lên lần nữa ngọn lửa Huyền môn. Có thể từ đây, hạt giống Thiện lại đâm chồi. Rồi "cây ấy nên rừng, công đức vạn đời sau!"
Tất cả những chi tiết, hòan cảnh cũng như tên gọi đều là sự thực. Có điều tôi xin phép chỉ viết tắt tên một số người để không làm ảnh hưởng đến đời sống riêng tư. Danh xưng của các Đấng thì tôi vẫn viết y nguyên như vậy, để tôn trọng bàn tay tạo tác, và cũng bởi tôi không có tư cách để thẩm tra, cùng với một lời thề: "Tôi xin thề trước các Đấng tối cao cũng như vời loài người hiện hữu rằng trọn bộ tập hồi ký này đều là sự thực". Có thiếu sót chăng là do trí nhớ không còn trọn vẹn hoặc giản lược đi những chi tiết không nên công bố, nhằm để tôn trọng một ai đó hoặc một Đấng quyền năng nào đó!
Bây giờ, xin mời gọi bước vào hành trình: Mở cửa "Huyền Môn"!...

"Huyền Môn" mở cửa, ta bắt gặp được ngay bút tích người khai phá. Xin chép lại đây hầu bạn, chút nỗi niềm tâm sự của "Lệnh Chủ" HUỆ NGHIÊM!

VÌ AI!

Ta vì ai xây, vì ai phá
Vì ai mà thua thắng chiến trường này
Đôi mắt đỏ những đêm sầu đất lạ
Ta vì ai lưu lạc giữa trùng vây!

Đêm trần thế như dòng kinh nhận tụng
Chuông mõ cười bên làn điệu ê a
Người sám hối lặng quỳ bên chánh điện
Ta xem đời khăn áo đợi mùa qua!

Và bể khổ chừng sâu không cùng tận
Lối sông Mê thuyền trẩy mãi dòng xa
Thấy bơ vơ những con người chìm đắm
Đợi một ngày cây nắng hạn chổ hoa!

Chuyện thương hải tang điền nào ai biết
Trả rồi vay - ấy là luật tuần hoàn
Mây Định số vươn mình trên sóng Trược
Nẻo Luân hồi mờ mịt dấu chân sang!

Ta đứng mãi giữa trần ai, ngơ ngác
Nhìn thế nhân - thương giận, giận rồi thương
Và mong chờ, để thấy mình bất lực
Đạo Hoằng khai hạn hẹp chốn Từ nghiêm!

Cõi thế ấy vẫn muôn màu quyến rũ
Rừng mê kia còn lắm kẻ sa chân
Đêm mù tối biết bao giờ mới rạng
Ta vì ai đợi xếp áo du trần!!


Huệ Nghiêm chấp bút!
(12/8/2004)

l. CHUYỂN "SẮC LỆNH"



Rằm tháng tư năm 1986. Đúng giờ Ngọ! Sau khi thắp hương trên ban thờ Phật, như một sự thúc giục nào đó, tôi lấy bàn Cơ ra (Cơ là trò chơi tiếp xúc với phần Âm bằng các con chữ. Đúng luật là phải hai người đặt mỗi người một ngón tay lên con trỏ thì Cơ mới chạy, và chỉ những người "yếu bóng vía" thì hồn âm mới nhập về được! Con trỏ lầm bằng gỗ từ ván hòm lấy cốt người chết. Hồn nhập về sau khi cầu nguyện và đọc bầi Kệ cầu hồn. Bản thân tôi có khả năng tự ngồi Cơ một mình và xem đó như một tròa chơi thỏa mãn trí tò mò…)
Con trỏ chạy lên dòng chữ "Phật Bà Quan Âm Bồ Tát giáng hạ!" làm tôi sợ hết hồn! Cơ nói: "con là người Nhà Phật, xuống thế với nhiệm vụ "độ đời". Căn duyên đã đến lúc; từ nay trở đi con có khả năng huyền nhiệm xoa dịu nỗi đau cho người khác, hướng họ trở về nẻo Chân, đường Đạo! Tùy cơ ứng biến, tùy duyên mà hóa độ, Điển Nhà Phật trợ con hành Đạo độ đời!"
Tôi lúc đó là giáo viên dạy trường Tân Thới Hiệp 1, vốn chỉ thờ Phật theo gốc nhà. Không phải là Phật tử thuận thành, chưa hề biết đến chay tịnh! Chỉ có điều tốt là tính hiền lành nhu thuận, có đức hiếu sinh, thích giúp đỡ người khác và không sát sanh hại vật...
Ngay đêm đó, tôi mơ một giấc mơ lạ: "Toi thấy mình đi trên một con đường quê ven bờ kênh lúc chiều nắng sắp tắt. Trước một ngã rẽ, tôi tần ngần: "Đây không phải là con đường của mình, đi lối kia mới đúng!" – Nước lớn tràn bờ chảy ngập chân cầu. Tôi thốt lên: "Mau lên, kẻo không còn kịp!"
Chạy qua khỏi cầu, nghe thấy nhiều tiếng rao, câu chàọ mời từ những chiếc xuồng trái cây đủ loại bắt mắt trông đến mê!: "Mình làm gì có tiền để mua!"
Trước mặt tôi, bước lên từ dưới bến là môt người đàn bà độ 50 tuổi cắp chiếc thúng bên hông, mặc quần đen, áo túi trắng cụt tay bằng loại vải thô. "Ai mua măng, măng cội tre già đây?!". Tiếng rao động trí tò mò, tôi dừng lại nhìn. Những chiếc nhú tre (loại tược non trồi ra từ ngang thân cây chính) tôi hỏi: "Măng này có đắng không dì?" - "Trắng chứ! Luộc rồi thì nó trắng!". Câu trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi!
Bà chìa ra l túi những trái bưởi non bằng nắm tay đứa bé, vừa rụng khỏi cành trơ cuống, bảo: "Mua bưởi đi cô, bưởi ngọt lắm, 10 đồng 4 trái". Tôi nghĩ thầm: "Chắc bà ấy nghèo lắm mới đi bán những thứ chẳng ai mua. Xem như mình cho bà 20 đồng, mua rồi lại kia vứt bỏ vậy!". Tôi nói: "Bán cho con 20 đồng bưởi với măng". Thấy bà cúi xuống loay hoay lượm nhặt, tôi chưa kịp đưa tiền thì giật mình tỉnh dậy…
Trải qua bao nhiêu năm sau tôi mới hiểu hết ý nghĩa giấc mơ, tôi làm bài thơ "Lòng Mẹ ":

LÒNG MẸ

Sáng nay đi chợ mua quả bưởi
Nho nhỏ mà sao vị ngọt đầm
Con nhớ ngày nào đêm mộng thấy
Mẹ về - cho quả bưởi chiều hôm!

“Con trẻ! Đời gian lao còn lắm
Gắng lên con nhé – ngày qua nhanh
Măng “cội tre già” luộc rồi trắng
Trải đời cay đắng con trưởng thành!

Vị ngọt ngày sau Mẹ định rồi
Lòng thương con trẻ chẳng hề vơi
Mẹ theo dìu dắt con từng bước
Đừng khóc nghe con – Mẹ cận kề!

Hương thắp đài cao, Mẹ ngậm cười
Cúi đầu con khấn: “Mẹ hiền ơi”
Con nguyện gìn lòng theo ý mẹ
Giữ đẹp hồn con, cứu hộ đời.

Nhân thế còn đau vạn kiếp người
Chấp tay con khấn: “Mẹ hiền ơi!”
Sinh chúng con trầm luân bể khổ
Mẹ ơi! Xin rộng dạ nương đời…

Con khóc rồi con lại mỉm cười
Quả bưởi ngày nao ngọt thắm môi
Lòng Mẹ theo con từng năm tháng
“Măng trắng” nhờ tay Mẹ sẵn bồi…

27/7/1994.

Vài hôm sau, trên bàn cơ có một vong linh về nói với tôi: "Tôi tên Nguyễn Văn Kính - 27 tuổi, người Cao Lãnh. Tôi chết do tự tử bằng thạch tín vì thất tình, giờ tôi đang đói, lạnh. Xin cô chô tôi chút cơm ăn và cho tôi trú nhờ trong sạp báo của cô!". Vốn có lòng thương người, tôi chấp nhận (lúc đó tôi đi dạy 1 buổi, còn 1 buổi bán quày sách báo).
Vì bận nhiều việc nên tôi quên mất lời hứa của mình. Đến tối ngày thứ ba di bán về đô 7 giờ tối, chồng tôi nói: "Ở nhà có mấy chuyện lạ quá! Đầu tiên là anh đang ngồi đọc báo thấy nguyên bàn thờ Phật rơi xuống đất, đổ vỡ tứ tung. Gần như cùng 1 lúc bé Tí đập bể cái ly kiểu quý của em, rồi tiếp theo bóng đèn tròn mới mua 2 hôm đứt bóng một cách gọn hơ!". Tôi chợt nhớ lời hứa của mình, đi mua giấy tiền cùng bánh về khấn cúng cho người tên Kính. Khi đã nhận và cảm ơn, tên K xin lỗi tôi bảo ba việc lúc nãy là do ông ta làm vì tôi không giữ lời hứa của mình! Tôi nói: "Bàn thờ là nơi linh thiêng của nhà người ta ông giật sập thì là người vô đạo. Ông biến đi, tôi không tiếp xúc với ông nữa!". Hồn nói: "Tôi muôn tạ ơn cô, mai cô mua vé số tôi cho cô trúng". Tôi không bằng lòng, hồn lại nói: “Sáng mai cô sẽ có một niềm vui nho nhỏ. Hay nhớ niềm vui ấy lầ do tôi mang đến!"
Sáng hôm sau tôi di dạy, chồng tôi đi làm ghé qua lớp học báo: “Sáng sớm có con gà trống màu vàng to độ chừng 3, 4 kg vào nhà mình leo lên bếp gas nằm, anh sợ nó nhảy đổ chén bát nên đuổi ra rồi khóa cửa lại."
Trưa về đến nhà, Má tôi báo: “Lũc nãy qua lấy gạo nấu cơm thấy con gà trống to nằm trên bếp má sợ nó nhảy đổ chén bát nên đuổi ra rồi khoá cửa". Út Thảo em tôi nói hớt: “Con gà trống tàu màu vàng phải không? Lúc con qua mở cửa lấy cây chổi thấy nó còn nằm chình ình trên bếp, sợ nó nhảy đổ chén bát con đuổi ra rồi mới khóa cửa lại". Ba người nói một câu nguyên văn như nhau! Tôi về, mở khóa cửa ra lại thấy con gà trống ấy nằm y chỗ cũ. Tôi sợ quá hét vang nhà, má với em chạy sang, con gầ vẫn giương mắt nhìn mọi người không nhúc nhích. (Lúc đó trong vườn nhà tôi có nuôi 17 con gà lai Úc, nặng 3, 4 kg môt con, những con gà trống không đời nào để cho trống lạ vào đất của mình).
Tôi sực nhớ, bèn khấn: “Tôi biết là của ông tặng tôi, nhưng như thế là ăn cắp, là có tội đấy! Coi như tôi nhận rồi cám ơn, ông đem trả lại cho người ta đi!" Tôi lấy cây xua lần nữa, con gà chạy mất!...
Vì chuyện này, tôi lại làm bạn với hồn tên Kính, thường xuyên ngồi lên bàn Cơ nói đủ thứ chuyện trên trời dưói đất.
Sau này tôi mới biết, hồn Kính là “Điển ông" giả như vậy để thử tôi! Sau này còn Thánh Minh rồi Thần Lam Sơn... nhiều người nữa, thảy đều là do Điển trên giả ra để thử lòng tôi mà thôi!
Dạo ấy Phật Bà Quan Thế Âm rất hay về nói chuyện cùng tôi, bắt đầu thời kỳ "rửa xác". Như thanh thép muốn làm thanh kiếm quý phải chịu rèn dập đớn đau, tôi bắt đầu chịu tra tấn, cực hình! Phật Bà thích về lúc nửa đêm, khi tôi đang ngủ chợt nghe có ai đó cấu một cái thật đau giật mình tỉnh giấc, tiếng vọng trong đầu: "Phật Bà ta về nè con". Là tôi lại ngồi dạy rửa mặt cho tỉnh táo và nói chuyện...
Trong thời gian này tôi chỉ thấy mường tượng là chiếc bóng chuyển động cùng với tiếng nói vang lên trong đầu. Tôi hỏi đáp bằng suy nghĩ cùng ý thức của chính mình, còn tiếng nói kia thì hoàn toàn không phải tiếng nói của tôi!
Tôi phải nhấn mạnh cùng độc giả rằng tất cả quá trình nhìn thấy, nhận biết và tiếp xúc của tôi cùng các Đấng trong suốt thời gian hơn 20 năm qua chỉ bằng "thể vía", "thần thức" chứ không phải bằng mắt và đôi tai của người trần.