LỬA THỬ VÀNG GIAN NAN THỬ ĐẠO

Chúng ta thử điểm lại một số các cột mốc quan trọng về sự diễn tiến của nền Ðạo, chúng ta sẽ thấy được sự huyền diệu trong câu nói xác định của Ðức Chí Tôn: "Chi chi cũng tại Tây Ninh mà thôi":

- 15-10-Bính Dần (1926): Lễ Khai Đạo tại Gò Kén.

- 16-10-Bính Dần (1926): Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài Nam phái.

- 09-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Lý Giáo-Tông lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài Nữ phái

- 12-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp-Thiên Đài.

- Từ 1926 đến đầu năm 1934: Các Chức sắc Cửu Trùng Đài tách ra lập Chi phái gồm quí Ngài: Ngô Văn Chiêu, Phối Sư Nguyễn Văn Ca, Giáo Hữu Nguyễn Văn Chính, Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, hai vị Quyền Ðầu Sư Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang.

- Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 Ất Hợi (dl 21 đến 31-8-1935) Các Ðấng thiêng liêng vâng lịnh Đức Chí Tôn “mới giáng cho Tân Kinh... Ấy là một giọt nước Cam lộ của Đức Từ-bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của toàn thế giới.

Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: đã trải qua mười năm Chí-Tôn mới mở cơ tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh này mà thôi.

Thương thay cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày Tân Kinh chuyển pháp. Ấy cũng là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ rỗi là trì tụng Di-lạc Chơn Kinh hầu các đẳng linh hồn đặng siêu thăng tịnh độ”. (Lời tựa Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo)

Ðây mới chính thực là Kinh Cao Ðài, Kinh Tận Độ chúng sanh và ban cho Phật Mẫu Chơn Kinh, dạy cách thờ phượng Ðức Phật Mẫu. Các bài kinh có trước năm 1935 đều là kinh thỉnh từ Tam giáo hay từ Ngũ Chi Minh Đạo.

Như vậy, chỉ có Tòa Thánh Tây Ninh mới hưởng được hồng ân nầy của Ðức Chí Tôn, còn các Chi phái không hưởng được, bởi vì họ tách ra trước ngày Tân Kinh chuyển pháp, nếu muốn hưởng đủ Tân Kinh thì phải qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh mà thôi. Cho nên được biết có một số Chức sắc Chi phái di chúc lại rằng khi họ qui liễu thì nhờ Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh đến cầu kinh và tổ chức tang lễ giùm.

Về tương lai của các Chi phái, Ðức Chí Tôn có tiên tri trong bài thi tứ tuyệt sau đây.

THI

“Ðạo Thầy nhiều nhánh các con ơi!
“Nhánh có trái bông, nhánh cụt còi.
“Rốt cuộc cành khô cùng lá héo,
“Còn gì tươi tốt để con coi.

Nay là qua 84 năm tuổi Đạo, cũng đủ thời gian cho toàn Đạo phân biệt rõ “nhánh nào có bông”“nhánh nào cụt còi”. Và phải chăng sự đoàn kết là sống mà chia rẻ là chết thì “Rốt cuộc cành khô cùng lá héo” mà thôi.

Phải chăng đây là cơ khảo: “Lửa thử vàng gian nan thử Đạo” của ba Đấng công đầu:

- Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,

- Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,

- Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.

Thử nhớ lại:

1- Thời kỳ kiến tạo Toà Thánh Tây Ninh:

Qua thời-kỳ kiến tạo để lập công, dành cho người biết dâng công đổi vị, thì bên Cửu-trùng-Đài chính Đức Quyền Giáo-Tông về mặt hữu-hình đã góp vào một công quả to lớn để dựng Đức-tin làm nền tảng Đại-Đạo ngày nay cùng với hai vị: Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp bên Hiệp Thiên-Đài. Với lời minh-chứng của Đức Hộ-Pháp như sau:

“Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam Nữ cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài một đôi triệu chơn linh mà có Đức-tin vững chắc như Đức-tin của:

- Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,

- Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,

- Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.

Nếu cả thảy đều có Đức-tin vững-vàng dường ấy Bần-Đạo dám nói chắc rằng: Các người dời núi Bà xuống châu-thành Sài-gòn cũng đặng. Có thể nói: nền Đạo Cao Đài này thiệt-hiện được như ngày nay là nhờ đức-tin của Thượng-Trung Nhựt."


Đức Hộ-Pháp nói lý do:

“Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ còn lại có ba người. Thật ra hồi ban sơ chỉ có ba người. Ba người ấy thiên-hạ kêu là ba người lỳ; ba người ấy là:

- Đức Cao-Thượng-Phẩm

- Đức Quyền Giáo-Tông

- Và Bần-Đạo đây (Hộ-Pháp)

“Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn. Bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí-Tôn và tự nhiên quyền-năng thiêng-liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO-ĐÀI này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc và giống-nòi.”


Đó là tấm lòng hiếu thảo của Đức Hộ-Pháp thì như vậy, còn lại tinh-thần của Đức Thượng-Phẩm thì…

Đức Hộ-Pháp nói tiếp:

“Bần-Đạo thú thật buổi nọ:

“Chỉ có ba Anh em, ôm sứ-mạng Thiêng liêng âý nơi mình. Lãnh sứ-mạng khó-khăn thì tưởng đâu Đạo Cao Đài thì cũng như Đạo Phật hay Minh-sư, Minh-đường. Đáo-để, cạo đầu vô chùa làm Thầy chùa tu là cùng, tưởng dễ-dàng lắm, kiếp sanh nơi thế, thời bấy giờ đã khổ-não tâm-hồn và xác thịt, lệ thuộc như thế. Ổng biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi, không bao lâu thấy cả con cái của Ngài đến cùng Ngài cả muôn cả triệu, chừng đó mới biết sợ-sệt. Chính mình buổi nọ, Đức Quyền Giáo-Tông ra hậu-điện, Người hỏi Bần-Đạo: làm cái gì vậy?

“Thấy thiên-hạ vào cửa Đạo quá chừng, Đại-Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy? Chính mình Bần-Đạo cũng không biết.

- Biết đâu ! Ông làm gì?

“Ông đến thâu tín-đồ nhiều quá ảnh than rằng: tới đâu hay tới đó, biết sao!


Kể từ đó bị khảo miết: Đức Cao Thượng-Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng, nằm trên giường bịnh cho tới hơi thở cuối cùng không buổi nào không bị khảo, không buổi nào không bị nhục-nhã. Cái luật thiên-nhiên không có điều gì xin-xỏ, điều gì cũng phải mua chuộc.

“Bần-Đạo đã quyết rồi, xin để Bần-Đạo kết luận: Bởi mua chuộc với cái khảo-đảo, nhục-nhã của đời, để bảo-trọng danh-giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang-trọng vô đối.”

Sự-nghiệp vẻ-vang của Đức Thượng-Phẩm như vậy chính do Ngài biết giữ được chữ “nhẫn” chữ “hòa”, một là để tô-bồi thiên-vị, hai là nâng cao phẩm-giá chơn-linh cao trọng của Ngài.

“Đức Cao Thượng-Phẩm là chơn-linh Hớn-Chung Ly: một vị Đại-Tiên trong Bát Tiên, làm sứ-mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nền Tôn giáo tại thế này. Người cùng với Hộ-Pháp họp thành cặp cơ phong Thánh lập Pháp Chánh Truyền và Tân-Luật để làm Hiến-chương cho nền Quốc Đạo.

“Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của Người để chấp cơ cùng Hộ-Pháp thì:

- Đâu có Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ.

- Đâu có Chức-sắc Thiên-phong Nam Nữ.

- Đâu có Hội-Thánh và các cơ-quan trong Đạo.

- Đâu có Pháp-Chánh-Truyền và Tân-luật.

- Đâu có đại-nghiệp hiện giờ cho nhơn-sanh thừa hưởng.”

Đến khi khởi công xây dựng Thánh-thất tức là nhà chung của Đạo (là Thánh-thất tạm trước khi xây Đền Thánh bây giờ) thì Đức Thượng-Phẩm là người đứng ra cùng góp công với nhân-sanh bứng gốc phá chồi, thật là Đấng đã khai sơn phá thạch cùng với Đức Hộ-Pháp tạo nên một ngôi thờ phượng khang-trang, một ngôi Tổ đình lưu lại cho nhơn-sanh một đức-tin tuyệt-đối. Nhưng đại nghiệp ấy mới nửa chừng Người phải về Thiêng-liêng làm nhiệm-vụ của Đức Chí-Tôn giao-phó, đành buông gánh Đại-Đạo cho Hộ-Pháp một tay lèo-lái, lại còn chịu lao-lý để gánh ách nạn cho dân-tộc. Với hai Đấng đầu công thật là công-trình vẹn-vẻ, vừa lo phần thể pháp, vừa thực hiện bí-pháp của Đạo, hai Ngài đã thể hiện cơ âm dương tương đắc vậy.

Ấy là hai Chức-sắc Đại-Thiên-phong nơi cửa Hiệp Thiên-Đài trong cơ kiến-tạo nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ:

- Một là Đức Hộ-Pháp, đầy lòng hiếu đạo cùng Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu.

- Hai là Đức Thượng-Phẩm đầy-đủ đức kiên-nhẫn với một đức-tin tuyệt-đối. Thử điểm lại đôi nét về:

TÌNH TRẠNG ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

Ðức Cao Thượng-Phẩm từ ngày về Thảo Xá Hiền Cung xem Ngài hình thể hao mòn, sức yếu thân gầy, sắc diện âu sầu buồn bã.

Sự nhận thức có lẽ Ngài thọ bịnh thất chí, vì hành Ðạo không được y theo sở nguyện trong nền Ðạo buổi sơ khai lo truyền giáo phổ độ nhơn sanh, mà Ngài lại an ổn tại tư gia, nên Ngài bực tức, vì Ðạo vì Thầy mà bị họ ngăn trở bước đường hành Ðạo.

Thiết tưởng những người có đủ đức tin nơi Chí Tôn thì dầu có sản nghiệp triệu phú cũng không thể ngồi an hưởng riêng cho được, huống chi Ðức Thượng-Phẩm là Môn Ðệ tin tưởng Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu buổi đầu tiên.

Khi Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo, giáng huyền diệu cơ bút thâu Môn Ðệ dạy thờ Thiên Nhãn trước hết cũng tại nhà của Ngài, nên lòng thành kính Ðạo thật là đầy đủ. Các Ðấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Ðạo, thì Ðức Thượng-Phẩm cùng Ðức Hộ-Pháp phò loan, hai Ngài lãnh hội giáo lý nhiều hơn hết.

Ðức Thượng-Phẩm là người cương quyết thi hành trọn Ðạo phế Ðời, thu xếp gia đình nghỉ làm việc Cò Mi, không màng danh lợi, trọn tin theo lời Thánh giáo của Chí Tôn về ở chùa Gò Kén thường xuyên hành Ðạo. Khi dời về Tòa Thánh thì Ngài cũng trọn tâm lo xây dựng cơ nghiệp Ðạo.

Ðến khi gặp cơn khảo đảo, bị nhơn sanh bạc đãi buộc lòng lui về tư gia, thì dầu đủ nghị lực tinh thần cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh, lương y khó phương điều trị cho lành mạnh. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài lo cuộc lễ tiếp rước Ðức Thượng-Phẩm về Tòa Thánh và tạo lập Tịnh Thất cho Thượng-Phẩm nhập tịnh.

Cả Chức Sắc Hội Thánh đồng tâm tuân lịnh Ðức Chí Tôn tức cấp lo tạo Tịnh Thất tại nơi cụm rừng (chỗ Báo Ân Từ hiện nay).

Ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thìn (1928):

Bảy giờ sáng một đoàn xe hơi Chức Sắc Ðại Thiên Phong Hiệp Thiên, Cửu Trùng đến Thảo Xá Hiền Cung rước Ðức Thượng-Phẩm thì Ngài cũng vui lòng lên xe về Tòa Thánh nhập Tịnh Thất. Hội Thánh có chọn Chức Sắc phụng sự mọi việc thường thức cho Ngài.

Ðức Thượng-Phẩm nhập Tịnh Thất một thời gian, bịnh tình cũng chưa thuyên giảm, hằng ngày kém ăn thiếu ngủ, Thánh thể xem đã gầy mòn.

Ngày 26 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928):

Ngài tỏ với người bạn thân là Bà Giáo Sư Hương Hiếu lo sắp đặt 6 giờ chiều trở về Thảo Xá, Ngài không cho Chức Sắc hay trước.

6 giờ chiều, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa lót nệm để Ngài nằm, đi theo xe hộ vệ chỉ có người bạn thân của Ngài và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, đưa Ngài về Thảo Xá.

7 giờ rưỡi, tới nơi đỡ vào phòng nghỉ ngơi, xem được khỏe như lúc mới lên xe. Từ đây, ở yên nơi Thảo Xá.

ÐỨC THƯỢNG PHẨM ÐĂNG TIÊN

Ngày 01 tháng 03 Kỷ Tỵ (1929) 11 giờ trưa, Ðức Thượng-Phẩm cho mời Ðức Hộ-Pháp, cùng ông Bảo Văn Pháp Quân, bà Giáo Sư Hương Hiếu, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ Sanh Thượng Ngươn Thanh.

Ðức Thượng-Phẩm nhìn Ðức Hộ-Pháp trối rằng:

“Nay Qua về chầu Ðức Chí Tôn, em ở lại hiệp với Chức Sắc chung lo nền Ðạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn”.

Nói rồi tuôn hai hàng nước mắt, kế day qua nói với bạn thân của Ngài căn dặn để trọn tâm lo tròn phận sự; nói dứt lời thì Ngài xuất linh hồn êm ái, gương mặt cũng như người đương ngủ. Có một điều phi thường là lời trối Ngài nói có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Cả Chức Sắc có mặt đều cảm động ngùi ngùi thương tiếc.

Khi Ngài dứt hơi thì đỡ ngồi dậy thúc xác ngồi kiết tường trước mặt lập bàn hương án chưng bông hoa trà quả. Ðức Hộ-Pháp ra kiểu cho thợ mộc đóng Liên Ðài hình Bát Quái; thời Tý 12 giờ đại liệm, rồi thành phục tế lễ theo nghi tiết. Hội Thánh thông tri cho toàn Ðạo các tỉnh đều hay đặng hành lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng-Phẩm được tiêu diêu nơi miền Tiên cảnh.

Quàn tại Thảo Xá 3 ngày, Chức Sắc và Ðạo Hữu nam nữ điếu tế rất đông. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài cầu cơ bút, Ðức Thượng-Phẩm giáng cơ tỏ vẻ vui mừng, được về bái mạng Ðức Chí Tôn cùng Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung, đều ban ơn công nghiệp buổi khai Ðạo tròn sứ mạng, Ngài tiếp cho một bài thi tứ tuyệt:

THI

Cao thanh miệng thế mặc chê khen,
Thượng trí màng chi tiếng thấp hèn.
Phẩm cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.

Ngài tỏ vẻ vui mừng nay đã thoát khỏi biển trần, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống.

Ngày 3 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929) Hội Thánh rước Liên Ðài về Tòa Thánh, sự sắp đặt thứ tự theo chương trình dưới đây:

1/-Tấm bảng Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, kế tiếp là phướn Thượng-Phẩm.

2/-Bàn Hương án để Bửu Ảnh có dàn hầu, lổ bộ và các tràng hoa.

3/-Nhạc Ta, nhạc Tây, nhạc Tiều, nhạc Thổ.

4/-Bàn đưa, phúng, vãng, trên một trăm tấm tiếp theo đồng nhi đọc kinh đưa.

5/-Thuyền Bát Nhã chở Liên Ðài tiếp sau tang gia hiếu quyến.

6/-Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài: Hộ-Pháp, Thượng-Sanh, cùng Thập Nhị Thời Quân, kế tiếp Chức Sắc Cửu Trùng Ðài Nam Nữ và Chức Việc, Ðạo Hữu. Số người đưa đoạn đầu vào đến Ðền Thánh mà đoạn chót còn ở tại Thảo Xá, đường dài 4.000 thước.

Cuộc rước Liên Ðài rất tôn nghiêm long trọng. Khi Thuyền Bát Nhã đến Tòa Thánh, di Liên Ðài vào Bửu Ðiện an vị nơi phẩm trật của Hiệp Thiên Ðài.

Ðêm mùng 3 hành lễ Ðức Chí Tôn, dâng sớ cầu nguyện Ơn Trên ban ân huệ cho chơn linh Ðức Thượng-Phẩm tiêu diêu cõi thọ.

Ngày mùng 4 tháng 3 Kỷ Tỵ: Chức Sắc và toàn Ðạo các Tỉnh tế lễ phúng điếu rất đông đảo, cùng thân bằng cố hữu phúng điếu, quàn Liên Ðài tại Bửu Ðiện tế lễ cầu siêu....

Tới ngày mùng 8 tháng 3, sớm mai 8 giờ, di Liên Ðài lên thuyền Bát Nhã đưa ra Bửu Tháp. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đọc ai điếu; Cửu Trùng Ðài Ðức Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt đọc ai điếu, trạng tỏ công nghiệp hành Ðạo của Ðức Thượng-Phẩm trong buổi sơ khai, đủ nghị lực tinh thần đối phó với quyền đời, nào là ngăn cấm áp chế không muốn cho mở mang căn bản nguồn cội của Ðại Ðạo nơi vùng Thánh Ðịa.

Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, thay mặt cho Nữ phái đọc ai điếu tỏ lòng mến tiếc Ngài vội đăng Tiên, Hiệp Thiên Ðài thiếu người phò loan đủ huyền diệu.

Khi đọc ai điếu xong, Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu nam nữ thành tâm kỉnh lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng-Phẩm được siêu thăng Tiên cảnh. Cuộc lễ thật long trọng.

Thợ hồ lo xây Tháp cho Ngài, có gắn cẩm thạch mạ chữ vàng nơi Bửu Tháp bát giác; sau lưng có khắc bài kỹ niệm để tỏ dấu cảm hoài và roi truyền hậu thế.

Sau đấy Ðức Cao Thượng-Phẩm có giáng cho hai bài thi khi di Liên Ðài ra Bửu Tháp:

THI

Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
Thung dung nhờ núp bóng Cao Ðài.
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách Thiên Thai.
Ngậm cười nêu quạt chờ sanh chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một ngày.

***

Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,
Cõi Thiên mừng đặng dứt giây oan.
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.
Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt,
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,
Ðể mắt xanh coi nước khải hoàn.

Công-quả phi-thường của Đức Quyền Giáo-Tông

Đức Hộ-Pháp đã giải:

Thật sự hồi ban sơ chỉ có ba người:

“Bần-Đạo nói không có gì! Đức Chí-Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng-tượng được. Khi Ngài đến thì chỉ có Đức Thượng-Phẩm và Bần-Đạo mà thôi. Về sau Bần đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm mới đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung-Nhựt đặng Chí Tôn chuyện vãng cùng Người. Đứng đầu trong trường chính-trị đã chịu ảnh-hưởng một tình thế bị trích-điểm cũng có, được tôn-sùng cũng có, được khen cũng có, bị chê cũng có. Buổi ấy bị họ ghen-ghét nên chê nhiều hơn khen. Chính mình Bần-Đạo lấy làm lạ tại sao Đức Chí Tôn biểu Thượng-Phẩm đến nơi đó?

“Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một người đó lại phi-thường! Giờ phút này Bần-đạo nói đến lấy làm lạ!

“Một là từ thử tới giờ Bần-đạo chưa ngó thấy. Đến chuyện vãng cùng Ngài, Đức Chí-Tôn nói cái chi chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Bần-đạo với Thượng-Phẩm chỉ là hai người dự thính không biết gì hết, mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi.

“Trong 24 giờ, một người đã là Thượng Nghị-viện, một cái gia-nghiệp đủ vinh-hiển, đủ cao-trọng, đủ đương đầu với thiên-hạ.

“Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Cho tới một cái lạ hơn hết là đương hút á-phiện, người phong-lưu như ai kia vậy bỏ một cái một, cả sự ăn chơi cũng thế.

“Đức Chí-Tôn kỳ hạn có 24 giờ mà thôi:

- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải trường trai.

- 24 giờ Anh Cả phải dâng cả sự-nghiệp cho thiên hạ.

- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải từ bỏ chức Thượng Nghị-viện, dâng mảnh thân phàm cho Đức Chí-Tôn làm ngọn cờ cứu-khổ.

“Một người, Bần-đạo thấy ban sơ có một người là Thượng-Phẩm, rồi sau lại có người này nữa: Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.

Ngồi nghĩ thầm cái đức-tin gì mà lạ-lùng như thế ! Giờ phút này Bần-Đạo mới hiểu hai vị Đại-Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề Đức Chí-Tôn đã giao-phó một sứ-mạng nặng-nề, khó-khăn để đảm-nhiệm trách-vụ gánh vác tạo dựng nền chơn-giáo của Ngài như thế này.

“Nói thật ra,

“Thưa cùng chư Chức-sắc Thiên-phong Cửu Trùng Đài Nam Nữ! Cái ngôi của Ngài tạo dựng, cái ngôi Giáo-Tông-Đường của Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết, cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất Việt-Nam này một cái báu vật quí giá vô cùng, từ thử tới giờ chưa hề có.

“Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo Hoàng Saint Pière thế nào, thì Bần-Đạo có lẽ nói rằng và cũng có thể mơ-ước: cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”


Hai hình ảnh tương phản:

Phải thấy rằng hai đối cảnh mà người cùng một Đạo phải xót xa đau đớn vô cùng. Lúc bình sanh ba Đấng đầu công khi nền chinh nghiêng bởi phản khắc Đạo quyền thì các Ngài bị nhục mạ, bị chửi mắng, kẻ đòi giết, người đòi trói ngoài gốc cây cao su, bỏ vào rừng cho cọp ăn. Các Ngài cũng nhẫn nhịn cho vượt qua. Nay qua rồi cái thảm cảnh kẻ tiên cáo cũng như người bị cáo, kết quả cũng đi vào cõi thiên thu. Nhưng các Ngài vẫn còn lưu lại cho nền Đạo này một tấm gương cao khiết, một hình ảnh tôn quí mà cả thế giới đều phải cúi đầu trước một kỳ công rạng rỡ với bước Đạo thăng tiến như ngày nay. Nơi cõi Thiên, các Ngài trở lại phẩm cũ ngôi xưa là hình ảnh của Bát Tiên. Hào quang đạo pháp đã toả sáng đến muôn triệu chơn linh mà các Ngài đương lo độ rỗi. Dù hữu hình hay vô vi các Ngài cũng vẫn là những ngôi sao sáng. Trái lại dù khi còn ở thế gian, còn mang xác hình nhục thể dù ai có làm khổ, làm khó các Ngài, vậy mà khi về cõi hư vô rồi thấy cảnh khổ đau đớn tội tình của bất cứ một chơn linh nào, các Ngài vẫn đứng ra cầu xin, độ rỗi, không có người thù.

Hãy theo dõi qua Đàn Cơ của các Đấng về báo:


Phò loan: Sĩ tải Hiển và Kiết.

Thánh Thất Chợ-lớn, ngày 7-6 Bính Tý (24-7-1936)

Lão chào hai em

Victor- Hugo

…Lão kính lời thăm Đức Hộ-Pháp, Lão mừng cho Ngài đủ mưu thủ thắng kế hề của Tương kỳ này. Cười!..

Ôi! Thương cho xác của Trang đã cứng đơ trong hòm mà phải bị hành tội giữa chúng sanh trước khi vào nằm nơi Thánh Địa. Mấy em thấy hình phạt tại thế chưa hử ? Ấy là đỡ đa! Nếu không vậy về luật Thiên điều làm sao chịu cho thấu, Em!

Lão tức cười quá. Người làm sao mà lỳ đến thế? Non nước này mà người ta chưa lột lớp hề, còn mang râu giễu gượng, rồi đây thương hại giùm cho người giữa đám dêu-hêu còn ngủ gục kia mới dỗ chúng nó cách nào cho yên. Mấy em nè! …”


Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo

Hộ-Pháp Đường, le 2è Juillet 1936 (10-6- Bính Tuất)

CAO THƯỢNG PHẨM

Chào chư vị Hiền huynh, Hiền hữu.

Cười…Hộ-Pháp xin nghe!

Rộn rực tuồng đời vẫn bấy nhiêu,
Công danh quyền tước ngược Thiên Điều.
Cái trung tâm trước quan chưa vẹn,
Nỗi Đạo tánh xưa lý chẳng nhiều.
Cầm đuốc soi lòng vừa phụ nữ,
Ôm hồ nhàn dạ bỏ nghề Nghiêu.
Thanh đao bầu phép không ăn nhịp,
Tỷ giống ông Tương với Ả Kiều.

Họ nghịch với nhau thây họ, can chi mình mà phỏng vấn.

Qua ..Ừ, mà giờ này Anh Trung đương mang bầu xuống Âm-quang đặng giục tỉnh Anh Trang, còn đương say mùi trong ảo mộng. Cười…

Ba phát quạt của Qua quạt một đường, anh Trang bay một ngã. Qua bị Bát Nương kiêu ngạo quá chừng, ai đời Chơn thần người tu mà nặng quá hủ lô nhà máy.

Thôi, để cho Anh Lớn tính sao thì tính, họ có ăn thua với nhau thì biết thế nào mở húi. Cười..

Anh Trung coi bộ rầu cháy ruột. Để Ảnh về Qua biểu đến thăm em. Thôi Qua kiếu. Thăng.




Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo

Phạm nghiệp ngày 11-6 Bính Tý (28-7-1936)

THƯỢNG TRUNG NHỰT

Chào mấy Em,

Thượng-Phẩm nói với Qua rằng mấy Em đợi.

Ôi! Qua nghĩ lại quá tức mình, mấy em nghĩ mà coi một kiếp sanh đâu có mấy lát, cái giả cuộc trần hoàn tuy xem như nháy mắt mà ảnh hưởng nó sâu sắc biết là bao. Nào là danh, nào vị, nào là tước, nào là quyền, nào vinh, nào trọng, rốt sự thì không còn mảy mún giá trị chút gì nơi cõi Hư linh Hằng sống. Bất quá như coi vui đặng dự một tiệc ngon ngọt của khách phong trần, say sưa một lát mà đòi phen chịu thảm cả đời.

Qua đến viếng Trang nơi Lạc-Hồn-Trì thấy nó nằm mê-man sảng sốt đau lòng hết sức, như lời Thất Nương và Bát Nương làm chứng, thì dầu cho Qua có đến gần nó lúc này cũng không bổ ích chút nào cả.

Phải đợi cho nó từ từ định tỉnh may ra có tay Thất Nương giải mộng, thỉnh thoảng định tĩnh tâm thần, nếu Qua cượng cầu thì chẳng khác nào hầu chuyện với một người điên, chọc thêm loạn trí.

Tám! Em nên thường phò loan đặng Qua truyền tin Trang cho Em hiểu, ấy là một điều mấy Em nên học hiểu. Khi nãy Qua thấy Em có khách nhiều thì phải?


Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo

Hộ-Pháp-Đường, 10-9- Bính Tý (le 24-10-1936)

THƯỢNG TRUNG NHỰT

Ê, Hộ-Pháp: Em hỏi Qua việc chú Trang, Qua lại nhắc em điều này: khi nọ em có nguyện với Đức Chí-Tôn rằng: Ngày nào có bịnh tà quái cầu tạng mặt em thì em hành pháp lại y như trước…

Đức Hộ-Pháp bạch: Thôi, em nhớ lại rồi.

Nhớ hả?

Còn vụ Trang hôm đầu tháng tám và vừa tỉnh giấc mê hồn, giuc chạy trốn đi đâu không biết. Qua và Thất Nương đương kiếm.

Hồi trưa này đến xin Hộ-Pháp vào cho thấy mặt tôi, đặng cầu ân xá mà mở miệng ú-ớ, bị “toa” đập chạy nữa, bây giờ không biết đi đâu, Qua thấy thê thảm quá. Nếu Qua và Thất Nương kiếm không đặng đem về, sợ lưu linh bậy bạ rồi chư Thần bắt cột tại Phược-trục-cung giam như tù tội.

Em Hộ-Pháp khi gặp bắt nhốt giùm Qua, rồi kêu Qua đến dìu dẫn kẻo tội nghiệp.

Ôi! Cậu Tương cũng sẽ như vậy nữa mà chớ; Qua xin lịnh Ngọc-Hư tha thứ nhưng không đặng, vì chưa có lời Em, nên Qua lo sợ quá sức.

Mấy em khá gắng giữ mình, đừng thất thệ với Chí Tôn: Khó lắm! Khó lắm!


Ông Cử Đa giáng cơ nói:

Đối với những người Chi phái:

… “Bần tăng lãnh lịnh gìn giữ các vị ấy để chờ ngày giải quả tiền khiên, rồi để lần hồi đem về cửa Đạo, nào dè Đức Lý Giáo-Tông ra Đạo Nghị Định thứ 8 làm cho các Chi phái không thế hồi phục, lại gây thêm lắm tội tình, ấy cũng vì nghiệt căn chưa mãn.

Nay nhờ Quyền Vạn linh ân xá thì còn vớt lại phân nửa, nhưng phải chịu trải qua nhiều cơn thử thách mới đáng cho vào hàng Môn đệ của Chí Tôn, còn các vị đầu đảng thì không phương phục hồi, bởi nặng mang nghiệp chướng, chỉ có đợi ngày chung cuộc ăn năn bằng khối linh hồn may được gởi xác phàm nơi cửa Đạo, còn lại một phần là con cái của Ma vương. Kết cuộc thì con Phật, con Ma, hai đường phân biệt.

Đây lời nói việc Thất Sơn buổi sau nầy là để làm nghĩa địa cho con cái của lũ Ma vương, mà cũng để lập nơi cho các bậc chơn tu buổi hậu lai đắc đạo.

Có mấy lời tỏ việc các Chi phái là bởi nguyên do, còn quốc sự thì chư Thiên mạng đã lãm tường chung thỉ. Xin chào chư Thiên mạng. THĂNG.


NỖI LÒNG TỪ PHỤ

Trước tình trạng chia phân

Phò loan: Hộ-Pháp Thượng-Phẩm

Tháng giêng Tân Mùi

Thầy, Các con.

Cười! ..Đáng kiếp cho bây lắm hứ! con thì đứa trắng, đứa đen, lại bị Tà quyền xung đột thì cũng tại nơi các con chẳng biết vâng lời Thầy dạy dỗ, mà cũng chẳng dạ thương Thầy mới ra thế ấy. Tiếc thay hơn năm chầy Thầy để hết gang tấc đem Thánh đức mà nhồi nắn các con, nay cũng còn thấy dưới mắt Thầy một cái thảm trạng thường tình gây cuộc nầy.

Các con ôi! Ai thì chẳng biết các con chớ Thầy đây há không thấu đáo đặng hay sao? Thầy hằng tiên tri trước rằng: Thầy lập một trường thử thách mà lập ngôi vị Thiêng liêng cho mỗi đứa con ra đáng giá. Cái vui và cái buồn của các con chẳng còn giống như thế tình thấy. Thầy cậy kẻ trau giồi Thánh đức của các con đến đỗi phải đem ra trao đổi tội tình, làm phước hạnh cho kẻ hung bạo hiếp đáp các con, Thầy tưởng khi là quá trí của các con, mà cũng quá trí Thầy đây nữa mà chớ!

Cười!... Vàng thau lẫn lộn, phải cậy lửa trui phân, Thầy đã đến nơi cảnh tục trần này mà đem các con ra khỏi vòng tôi đòi xác thịt, đồng thể với Quỉ nhân và Hoá nhân, thì chính mình Thầy đây còn bị nhiễm nhầm khí trược thay, huống lựa là các con!

Các con trước than Thầy đã than trước; các con trước khóc Thầy đã khóc trước rồi, ấy cái oan gia Thầy hỏi ai đào tạo? Thầy xin nói cho Thầy nghe?

Lũ con hoang, hễ ra khỏi nhà thì toan gây tội, oan nghiệt, căn nghiệp là do tại nơi các con, chớ không phải của Thầy dành để, vay trả phải cho rồi mới đáng qui hồi cựu vị, hiểu không con Thơ?

- Trung, Thầy chỉ trách con một điều là Thầy đã nương cậy thi hài hữu hình tay con, đặng dìu dắt con cái Thầy, tức là em của con, Thầy chẳng nệ Thơ kém đạo tâm, để cho con hưởng đủ mùi sang giàu vinh hiển, đặng cho con lịch lãm thế tình hầu cậy con nưng niu dạy dỗ các em con tận thức nhơn tâm, mà chỉ có mấy đứa em mà không thông tâm chí, để đến đỗi khi lịnh mà mang tội Thiêng liêng rất nên tội nghiệp vậy con?

- Thượng Trung Nhựt bạch…

- Thầy không phải cấm dùng roi dùng vọt, nhưng chỉnh cậy con phải biết tuỳ thế tuỳ thời. Thằng Thơ nó ngỗ nghịch với con là tại nơi con tập nó. Thầy đã nói với con rằng: Thầy gởi gắm nó cho con, con còn nhớ à?

- Thượng Trung Nhựt bạch…

- Nó khóc, nó kể bao nhiêu thì càng giục Thầy tái kiếp tạo thành thể Đạo. Thầy hỏi vậy chớ sự trông thấy của Thầy nơi các con là sự gì nói hử?

- Thượng Trung Nhựt bạch…

- Ừ, con há! Thầy nói một chữ, rồi bố trí cho con hiểu một mình chữ này nghe con “Tuỳ”!

- Tương, Thầy đã có dặn con từ trước mà ngần ngại nỗi gì? Thầy vì loạn lạc gian ác, các con giết lẫn nhau nên đến mà tạo Đạo cứu chúng sanh, duy có một điều ước vọng là các con cả thảy đều hoà thuận cùng nhau ấy là cơ giải hoà toàn thế giới.

Con đã rõ thấu chơn lý Đạo Thầy, con lại sợ chi mà không từ quan hành Đạo. Con nên cho chánh phủ hiểu rằng: Trong cơn ly loạn này, hoặc con nên hữu dụng cho cả lưỡng quốc Pháp Nam ra giáo dân qui thiện, hoặc là vô dụng mà làm một quan viên chức tước thường, rồi biểu cân thử hai lẽ trọng khinh mà định liệu.

Cười!... Còn con đừng sợ chúng nó để dạ hồ nghi, con lại để trao phần chúng nó định, thì Thầy nói trước rằng: Thầy sẽ biểu chúng nó định lẽ nào cho danh con nên cao trọng, còn cả sự chi để cho Thầy. Đạo có hư mới có nên, ấy là cơ nhồi nắn các con cho nên đạo hạnh, con đừng ưu tư phiền muộn, Thầy nói cùng đi nữa, dầu kẻ tội nhơn phải còn sa đắm trầm luân khổ hải một đôi trăm kiếp đi nữa cũng còn có thuở níu đặng tay Thầy, con an tâm lo việc Đạo

Thái-Bạch đổ tội cho con vì muốn lập HỘI NHƠN SANH mới gầy cơ loạn lạc ấy.

Trang, con cứ thi hành phận sự, ấy là phương thế của Thầy cứu vớt tội tình đó. Con cũng vậy, Thầy dặn con dụng oai-quyền mà lập nên thể Đạo, nhưng chẳng nên xao lãng tâm từ, con hiểu riêng Thầy không nên hết tiếng.

Thơ, Con! Con! Con! Con có nhiệt dạ thương Thầy thì nên cho Thầy xin những điều này nghe: bớt tánh nóng, đừng lẫy đương, con nên liệu phương tuỳ nhơn trí luật định, nếu con biết tôn trọng phẩm vị của con. Hễ con biết phạm thì ai ai cũng phạm, huống chi chính tay con đặt viết lập Luật cho đời mà con còn phạm thì ai kia không phạm, con nhớ không con?

Thầy cám lòng con thương tưởng Thầy, song còn tiếc một điều là con không biết ý Thầy, con giận lẫy. Thầy hỏi ai ra gánh vác lập thành thể Đạo hử?

Con phải giúp em con là Hương Thanh, rằm này khởi tạo Toà Thánh, kẻo Thái Bạch quở phạt thì con chịu đa nghe! Cười!...

Hương Thanh! Con tưởng vậy là đủ. Nhưng chưa! Cười! Thầy ban ơn cho các con. Thăng.


Ngày 21 tháng giêng năm Kỷ Tỵ ( 02-Mars 1929)

Thầy, các con.

Tắc, Thầy viết chậm chậm cho con đọc.

Tắc, Con truyền Thần vững vàng đặng đỡ bớt cho Anh con, nghe!

Cư, Thầy viết chậm chậm cho con đọc.

Ôi! Nếu các con trước biết thương yêu nhau dường này thì có đâu ra đến mang tội Ngọc-Hư, bị nạn quỉ khảo. Thầy đã đôi phen dạy-dỗ, các con chẳng chút đoái lời, đứa trắng, đứa đen, mất tình hoà khí.

Một khối đức tin Thầy nhọc công nhồi nắn đã rã-rời ra. Thầy tưởng chẳng cần nói các con cũng hiểu rõ sự đau thảm của thầy dường nào! Thì cũng vì các con mà Ngọc Hư Cung náo động. Nỗi Bảo-Đạo kiện thưa, nỗi Diêu-Trì binh vực. Kẻ thì trách Thầy quá yêu tha thứ, kẻ trách Thầy rộng mở Chơn-truyền. Thầy đứng giữa một mình đôi vai nghiêng gánh vác, Thầy chỉ mong một điều dù phải thế nào, xin miễn Thánh đức các con đặng vẹn giữ thì là thoả nguyện.

Thầy đoái lại thì Thầy chỉ thấy các con quên Thầy mà thôi. Tội nghiệp cho cái thân già này cầm quyền Thế giái Càn Khôn mà làm gì! Đến đỗi có một nắm tay con cái dắt dìu chưa đủ sức, lại phải chịu cho nó phụ rảy phản loạn lại thế nào! Thầy lại buộc phải nhìn nhận lại các điều phân định của Ngọc-Hư-Cung giữa Đại Hội, rồi đây Thầy phải giáng Cơ đặng chịu tội trước mặt nhơn sanh nữa, thẹn thùng, nhục nhã ấy vì đâu?

Thì cũng vì thương các con đó! Nếu Thầy có xác thịt như các con, thì biết bao phen Thầy đã ném cây Cân Thiêng liêng và bứt đứt trái tim yêu dấu của Thầy mà quăng đi luôn thể. Thầy chẳng nỡ nói nhiều, cực vì phải dạy nên cạn tỏ tấm tình, các con nên thương Thầy và hằng tưởng đến danh Đạo mà giữ-gìn tánh đức Thầy đã lập ngôi các con rồi, các con cũng nên gắng chí giúp Thầy lập vị cho các con luôn thể. Thầy thấy Diêu-Trì-Cung theo xem sóc các con Thầy thêm an dạ.

CƯ, TẮC, hai con đánh giây thép cho Trung hay và kêu mấy em Hiệp-Thên-Đài cho đủ mặt, ngày 27 An nam Thầy giáng dạy việc, nghe!

Cười!...Thầy không thế ở lâu đặng dạy riêng từ đứa, các con đừng phiền nghe!

Thầy ban ơn cho các con. Thăng.


Le 23 Octobre 1934,

Thầy, các con

Tương, đáng lẽ những lời Thầy đã dạy mấy con nơi Hiệp-Thiên-Đài tại Thánh-địa đủ cho các con dùng đặng chung trí lo với nhau mà chấn chỉnh nền Đạo.

Thầy buồn lòng trông thấy các con rời-rã, cũng tranh đấu, phân-phui, rốt cuộc thì các con vẫn đều nêu trò chơi, trò cười; không đứa nào tránh khỏi, mà chúng sanh phải chới với giữa bến khổ sông mê, không người dìu-dắt.

Các con đứa tranh quyền, đứa dục lợi, đứa buôn oán, đứa xu hờn; rồi thì lo bên mưu thần, bên bày chước khéo mà đánh đổ lẫn nhau làm cho nền Tín-ngưỡng đã un đúc bấy lâu, nay đã từ từ ngã xiêu và sập đổ nát.

Con ôi! Phải quấy mà làm gì?

Thầy đứng giữa một địa vị của ông Cha đương dòm ngó lũ con cường ngạnh, xung đột mà dành tiếng vô-vi của trò đời. Quấy cũng là con, phải cũng con. Thầy đổ luỵ mà khuyên các con một chữ HOÀ, quên cả sự cừu hờn riêng mà lo nhau đến cùng Thầy, mà rốt lại Thầy cũng đành tuyệt vọng với những tâm phàm trí tục. Chớ chi trong mấy đứa Thầy đã dạy, có một đứa biết lo Hoà, thì tôn chỉ của Đạo chẳng ra đến nỗi ấy.

Các con đã tự tung tự tác, Thầy chỉ buồn lòng mà coi Lý-Bạch kêu vào nơi Thiên-điều. Ngày giờ ấy cũng chẳng xa. Nhưng nếu đứa nào khôn được giữ từ tâm, bác ái và nối được chữ hoà trước ngày về cùng Thầy thì hoạ may mới còn trông ngôi cựu vị. Các con chẳng khứng dung chế cho nhau, thì nền Đạo phải còn lắm chinh nghiêng, chúng sanh còn lắm huyền đảo.

Công trình của con đã khởi xướng, nếu may mà được vẻ vô tư và trong ngoài thì có lẽ cũng bổ ích cho nền Đạo, nhưng nên nhớ nếu mà sái với Tôn chỉ hiệp nhứt và tự mình muốn chia rẽ thì luật Thiên Thơ không dung chế được.

Các con mỗi đứa tự mở một con đường thì Thầy vẫn không thế vui trông sự phân chia, nên hay là hư, phải hay là quấy. Thầy chỉ để cho tâm các con định lấy, tâm cứng-cỏi, Đạo điều-hoà thì cứ bước tới Thầy; tâm trí bất định, đạo hạnh không hoàn toàn thì con đường hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẵm đó. Vì sức các con đã rã-rời thì tài nào níu kéo, đỡ nâng khuyên nhủ nhau được. Con đường vô tư để tìm cứu khổ cho chúng sanh là con đường đạo đức, ngọn đèn thiêng liêng sẽ chực soi tỏ bước của các con, khác với con đường ấy là con đường của Quỉ Vương đem vậy.

Nên nhớ mấy lời Thầy, chẳng phải đọc sơ qua mà coi làm chơi, cần chiêm nghiệm kỹ lưỡng mà hiểu nghe!

Hại thay! Đã nhiều lần các con chẳng hiểu ý. Thầy cũng đau lòng mà thấy các con đi sái bước, nhưng than ôi! Cơ thử thách chỉ dùng với những đứa tâm phàm lẫn chất Thánh.


Đoàn kết thì sống chia rẻ là chết:

Câu thi:

“Rốt cuộc cành khô cùng lá héo,
“Còn gì tươi tốt để con coi.


Theo bài thi trên nầy, lúc đầu có một vài Chi phái bông trái sum suê, còn một vài Chi phái thì còi cọc, nhưng rốt cuộc rồi thì dầu sum suê hay còi cọc đều bị tàn tạ dần, rồi sẽ mất hẳn. Ðức Chí Tôn như ngầm nói rằng vấn đề qui hiệp là sống còn, còn không chịu qui hiệp thì dần dần suy tàn rồi mất hẳn.

Người tín đồ Cao Ðài hôm nay phải tự nhận thức rằng, chỉ có con đường duy nhứt để tự cứu lấy mình, cứu lấy linh hồn mình là tự giác trở về với nguồn cội Đạo để lập công quả, hoặc là bên Cửu Trùng Đài, hoặc là bên Hiệp-Thiên-Đài. Ðức Chí Tôn chưa cho phép mở Tịnh Thất và chưa ban cho pháp môn luyện đạo, bởi vì kỳ thi chung kết sắp mở trong Ðại ân xá của Chí Tôn là môn thi CÔNG QUẢ và chỉ thi môn nầy mà thôi.

Ðức Chí Tôn có lời dạy:

“Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các con nghe, nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ”.

Cho nên nếu cứ lo luyện đạo mà không lo công quả thì tới kỳ thi chung kết nầy, e phải đứng ngoài trường thi, chịu thiệt thòi thì mất cơ hội tiến hoá.

Trong kỳ Ðại Hội Nhơn Sanh năm Giáp Dần (1974) tại Tòa Thánh Tây Ninh, vị Chức sắc đại diện Lại Viện Cửu Trùng Đài báo cáo trước các Nghị viên và Phái viên nhơn sanh, số Chi phái Cao Ðài bằng lòng qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh như sau:

"Tổng số 36 Chi phái Cao Ðài, đã có 10 Chi phái chịu qui nhứt về Tòa Thánh Tây Ninh như:

1- Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt.

2- Phái đoàn Cao Ðài Chiếu Minh.

3- Hội Thánh Trung Ương Trung Việt (Tam Quan).

4- Hội Thánh Cao Ðài Thượng Ðế (Chiếu Minh Ðàn).

5- Phái đoàn Hội Thánh Tiền giang.

6- Phái đoàn Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý

7- Hội Thánh Hậu giang Minh Chơn Lý.

8- Cao Ðài Cứu Thế Thiện Huyệt Lâm Huyền Châu.

9- Giáo Hội Cao Ðài Thống nhứt."

Đức Hộ-Pháp nói:

“Có lần Bần-Đạo nghe lời Đức Lý thì Đại-Từ-Phụ thất vọng, thấy tội nghiệp Đại-Từ-Phụ quá đỗi. Đức Đại Từ-Phụ tính không thể gì bảo trọng mấy đứa kia được, biết Đức LÝ nhứt định đuổi những kẻ tà tâm ra khỏi nền Tôn giáo. Đại-Từ-Phụ biết không thể gì không biến sanh Chi phái, nếu nảy sanh Chi phái rồi thì không phương cứu vãng và trị loạn được, thì nền Chánh-giáo của Đức Chí Tôn không có giá trị gi hết”

Ai đã gây ra Phe phái hãy nghe Thầy để lời than:

“Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu, lại để lời tiên-tri mà dặn trước, nào dè Thánh ngôn các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không mới ra tội-lỗi, các con phạm thượng thế ấy.

Vậy từ đây quyền thưởng phạt đã giao vào tay Lý Thái-Bạch các con chịu lấy… Cả Môn-đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai, kẻ nào cưu tâm CHIA PHE PHÂN PHÁI là đứa thù nghịch của Thầy. Con hiểu à?

Con biết rằng: Thầy hằng dặn cả Môn-đệ, nhứt nhứt sự chi cũng phải đợi lịnh Thầy” (TNI/57)


Đức Hộ-Pháp cũng đã dạy phân rằng:

“Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương chữ Hòa mới toan thành lập, Chí-Tôn định thành Hội-Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép Tạo hóa cá nhân mà gầy nên ảnh tượng:

- Cửu-Trùng-Đài là thi hài ấy là TINH.

- Hiệp-Thiên-Đài là Chơn-thần ấy là KHÍ.

- Bát-quái-Đài là Linh-hồn ấy là THẦN.

Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đạo cho đặng.

Nếu có một quyền-hành nào tại thế này mà làm cho thân thể Chí-Tôn phải chia phui manh-mún ra đặng, thì là Đạo Ta là giả Đạo, tất nó phải tiêu diệt trong một phút ngắn-ngủi chi đây.

Còn như quả là Chí-Tôn vì Thương yêu con cái của Người, chính mình đến lập Đạo đặng giải thoát cho chúng sanh thì những mưu chước của Tà quyền ngăn cản bước Đạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí-Tôn, ắt là không mong bền vững.

Hại thay, cho những kẻ vô phần toan PHÂN PHÁI CHIA PHE làm cho xác Chí-Tôn phải tan tành rời-rã!

Khổ thay cho những kẻ không duyên CHỐI THÁNH-GIÁO, nghịch chơn truyền làm cho Chơn thần của Chí-Tôn phải ô-uế đê hèn muốn toan bỏ xác!

Đau-đớn thay cho những kẻ ấy!

Thê-thảm thay cho những kẻ ấy! Dám để tay vào mà tàn hại Chí-Tôn, cái tội-tình ấy lớn lao bao nã?! Coi lại gương Juda bán Đức Chúa Jésus-Christ còn nhẹ. Vì Juda ham ba chục ngươn bạc đặng nuôi Môn-đệ của Người mà bán Ngài, còn những kẻ này đây duy háo danh mà phản Đạo!

Chí-Tôn đã đến thế hạ mình đặng làm Thầy dạy-dỗ chúng ta, hằng trông mong giờ nào chúng ta biết hoà hiệp nơi lòng bác-ái, từ tâm của Người, là hiệp Một cùng Người, mới có đủ quyền-hành độ tận chúng sanh qui hồi cựu vị, mà đã sáu năm chầy rồi, thân thể hỡi còn rời-rã, ngất-ngơ, Chơn-thần hỡi còn dật-dờ mê-muội, thì thế nào các Đấng Thiêng-liêng hiệp một cùng Đời cho đặng, hầu mong sửa cải Thiên-thơ, tụ hội các nguyên-nhân đem về trong cửa Đạo?

Vì năm Đạo phân chia cho nên nhơn tâm bất nhất, Chí-Tôn đến đặng hiệp lại một nhà, ước cho con cái của Người biết Thương-yêu hòa thuận” (Pháp-Chánh-Truyền)


KẾT LUẬN

Thầy giáng Cơ cho thi vào đêm 24 Décembre 1925 lấy tên 12 Môn đệ đầu tiên làm kỹ niệm:

CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh.

Trong số 12 chữ lớn là tên 12 Môn đệ đầu tiên của Thầy nhưng vì có trùng hai tên Sang, nên thực tế là 13. Qua ngày Khai Đạo rằm tháng 10 năm Bính Dần thì ông Ngô văn Chiêu đã tách ra thì cũng còn lại đủ số 12.

Trong số 12 Môn-đệ đầu tiên thì có ba vị là:

- Cao-Quỳnh-Cư (tuổi Mậu-Tý 1888)

- Cao-Hoài-Sang (tuổi Tân-Sửu 1901)

- Phạm-Công-Tắc (tuổi Canh-Dần 1890)

Tức nhiên có 3 vị đứng đầu 12 chi là Tý, Sửu, Dần.

Như thế thì Số 12 là số đặc-biệt của Thầy, tức là 9+3=12; 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chủ-tể càn-khôn vũ trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.

Số 12 nếu tính theo hàng ngang thì số 1 đứng trước số 2, tức là lý Thái-cực đứng trước luật Âm Dương thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó. Thế nên Thầy nói chi chi cũng có luật-định hết thảy, không chi ngoài quyền sở định của tạo-hóa hết. Nhưng luật công bình có hai phần: một Âm, một Dương biến động, dù ngay trong luật định cũng có, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh.

Hết vòng biến đổi mới trở lại trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 lại trở lại trạng-thái Hư-vô, nên người tu đắc nhứt qui cơ là thành Đạo, nghĩa là hiệp cùng lý Thái-cực để trở lại trạng-thái tĩnh lặng nhiệm-mầu trong lý Hư-vô.

Trong lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực. Thái-cực biến hóa ba ngôi. Mỗi 3 ngôi lại biến thành cửu chuyển.

Ba ngôi ấy biến sanh là Đạo, Pháp và Thế đó (tức là ba ông Cư, Tắc, Sang). Tức nhiên:

- Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc Chưởng quản chi Pháp

- Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư Chưởng quản chi Đạo

- Thượng-Sanh Cao hoài Sang Chưởng quản Chi Thế

Thầy còn cho biết 4 người đã vào tay Chúa quỉ,

Nhưng sau cùng còn lại 6 người làm nên cơ Đạo. Số 6 là do 3+3 tức là lý tam âm tam dương đó vậy.

Hiện nay trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa Thánh Tây-ninh chỉ thấy tên sáu vị được thường xuyên nhắc đến là:

1-Trung (Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung)

2-Sang (Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang)

3-Hậu (Ngài Bảo-Pháp Nguyễn-Trung-Hậu)

4-Đức (Ngài Hiến-Pháp Trương-Hữu-Đức)

5-Tắc (Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc)

6-Cư (Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư)

Ngày 1-1 Đinh-Mão (dl 1-2- 1927)

Thầy giáng cơ có để lời than:

“Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thế nào không, còn nay ra thế nào chăng?

…Thầy lập Đạo năm rồi ngày này, thì Môn-đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại 8. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo. Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có sáu đứa Môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ. Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết cả bốn muôn Môn-đệ của Thầy ..”