Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái
(Tách rời Tây Ninh hoặc lập Chi phái )

01- Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn (1864-1939) đã Bỏ Đạo.

Hòa Thượng Như Nhãn, thế danh là Nguyễn Văn Tường, sanh năm 1864, con của ông Nguyễn Văn Bầu và bà Ðoàn Diệu Hoa, quê quán ở Ðức Hòa (Long An), đi tu từ năm 17 tuổi, qui y với Hòa Thượng Thích Trí Lượng (Minh Ðạt) trụ trì ở chùa Thiền Lâm Cổ Tự (xóm Chùa, tỉnh Tây Ninh), thọ Pháp danh là Thích Từ Phong.

Nguyên vào năm Mậu-Tý (1888) tại vùng Phú Lâm Chợ-Lớn (đường Bà Kế, khu vực Chợ Gạo, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6) bà Hồ Thị Lộc có xây một ngôi chùa lớn, đặt tên là Chùa Giác Hải, bà giao cho ông Thủ Tọa Nguyễn Minh Sự coi sóc. Ông Sự mất năm 1908.

Sư Thích Từ Phong về đây kế nghiệp, trụ trì Chùa Giác Hải. Năm 1912, Ngài Thích Từ Phong giữ chức Yết Ma và năm 1924 Ngài được phong chức Hòa Thượng, nên các Phật-tử tại vùng nầy thường gọi Ngài là Hòa-Thượng Giác-Hải.

Trong lúc trụ trì ở chùa Giác-Hải, Hòa-Thượng Giác Hải có quyên góp tiền bạc trong bổn đạo để mua đất và lập một cảnh chùa tại vùng Gò Kén, Tây Ninh, lấy tên là Từ Lâm Tự (sau đổi lại là Thiền Lâm Tự). Chùa được xây dựng trên một khu đất gò rộng 4 mẫu, trên Quốc lộ 22 Sài-Gòn Tây-Ninh, từ lộ vô khoảng 200 mét và cách thị xã Tây-Ninh chừng 5 cây số, phía trước cất chùa, phía sau làm nghĩa địa.

Trong số bổn đạo đóng góp tiền mua đất và xây chùa Từ Lâm ở Gò Kén, ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Bà Lâm Ngọc Thanh cũng có đóng góp tiền bạc vào nhiều hơn hết. Chùa mới vừa xây dựng xong phần chánh, chưa trang trí, chưa làm đường lớn từ quốc lộ vào chùa, không có Đông lang, Tây lang. Lúc đó là vào năm 1925.

Vào giữa năm Bính-Dần (1926) ông bà Nguyễn Ngọc Thơ được Ðức Chí-Tôn thâu làm Môn đệ, nhập vào Ðạo Cao Ðài. Hai ông bà cũng muốn Ðức Chí Tôn thâu phục Hòa-Thượng Như-Nhãn, nên ông bà thuyết phục Hòa Thượng đến dự một đàn cơ cầu Ðức Chí Tôn tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân-Ðịnh. Ðức Chí Tôn giáng cơ thâu nhận Hòa Thượng Như Nhãn.

Giữa tháng 7 năm Bính-Dần (1926) Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ.

Sau đó, do sự yêu cầu của ông bà Thơ, Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm (Gò Kén) cho Ðạo Cao Ðài dùng làm Thánh Thất tổ chức Lễ Khai Ðạo.

(Có lẽ trong thời gian xây dựng chùa Từ Lâm ở Gò Kén, Hòa thượng Giác Hải lấy hiệu là Như Nhãn).

Ngày 29-7-Bính Dần (dl 5-9-1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí-Tôn giáng cơ ân phong là: Quảng Pháp Thiền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Thái.

Ngày 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926) Ðại Lễ Khai Ðạo Cao Ðài được tổ chức long trọng tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh) có hằng vạn tín đồ Cao Ðài dự lễ, số quan khách ngoài đời cũng đến dự rất đông.

Ðêm 14 rạng 15 tháng 10 âm-lịch, tổ chức đàn cơ trong Thánh Thất, Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt trấn pháp sót một cửa, nên thừa dịp nầy, quỉ nhập vào đàn, một con quỉ nhập vào ông Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, một con quỉ khác nhập vào cô Vương Thanh Chi xưng là Lê Sơn Thánh Mẫu, nói năng lộn xộn rồi nắm tay nhau nhảy múa, khiến cho nhiều người mới vào Ðạo Cao Ðài bị mất đức tin.

Hòa Thượng Như Nhãn cũng bị mất đức tin. Mặc khác, số đệ tử của Hòa Thượng Như Nhãn yêu cầu Ngài bỏ Ðạo Cao Ðài và đòi chùa lại. Hòa Thượng Như Nhãn nghe theo và quyết định đòi chùa Từ Lâm, không hiến cho Ðạo Cao Ðài nữa, hẹn trong 3 tháng Ðạo Cao Ðài phải dời

Ngày 19-11-Bính Dần, Hòa Thượng Như Nhãn bị thiêng liêng quở phạt làm cho đau nặng.

Ngày 01-12-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ quở phái Thái và Hòa Thượng Như Nhãn, tỏ ý muốn phế bỏ phái Thái. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cầu xin Đức Chí Tôn tha thứ cho phái Thái và đừng bỏ phái Thái (phái Phật).

Ðức Lý Giáo-Tông giáng cơ trục xuất Hòa Thượng Như Nhãn ra khỏi Ðạo Cao Ðài.Tháng 2 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo-Tông quyết định trả chùa Từ Lâm cho Hòa Thượng Như Nhãn và chỉ dẫn Hội Thánh tìm mua được 96 mẫu đất tại làng Long Thành (Tây Ninh) để dời các cơ sở của Ðạo về nơi đây, lập thành Tòa Thánh Trung ương của Ðạo Cao Ðài.

Hòa Thượng Như Nhãn qui liễu vào ngày 5-12-Mậu Dần (dl 24-1-1939) hưởng thọ 75 tuổi. Tháp của Ngài được xây ngay trước Từ Lâm Tự (nay là Thiền Lâm Tự) Gò Kén (Tây ninh).

Trên bia mộ có đề chữ Hán, dịch ra như sau đây:

Ngài là Ðại Lão Hòa Thượng Thiền Tông Lâm Tế đời thứ 39.

Ngày sanh: 15-3-Giáp Tý (1864).

Ngày qui: 05-12-Mậu Dần (1939), thọ 75 tuổi.

Tháp của Hòa Thượng Như Nhãn xây ở chính giữa, hai tháp hai bên là của hai vị: Hoà Thượng Minh Ðạt, thầy của Ngài Như Nhãn và Hòa Thượng Hồng Tằng, học trò của Ngài Như Nhãn.

a/- Như Nhãn đòi Chùa nên toàn Đạo phải tìm mua đất làm Đền-Thánh:

Sự diễn tiến:

* Sau khi làm Lễ Khai Đạo tại chùa Từ Lâm (Gò Kén) ngày 15-10 Bính-Dần (dl 19-11-1926) chủ chùa Từ Lâm là Hòa-Thượng Như-Nhãn (Giác-Hải) đòi chùa lại, không hiến cho Hội-Thánh Cao-Đài nữa, kỳ hẹn trong 3 tháng buộc phải dời đi.

* Ngày 19-1 Đinh-Mão (dl 20-2-1927) tại Từ Lâm Tự, Đức Lý Giáo-Tông giáng cơ quyết định trả chùa lại cho Hòa-Thượng Như-Nhãn, rồi dạy Hội-Thánh đi chọn mua đất cất Tòa-Thánh, phải chọn đất tại Tây-Ninh nầy mà thôi. Đức Lý xin mua đất nơi khác nhưng Đức Chí-Tôn không chịu, bởi vì Tây-Ninh là Thánh-địa, nơi đây phong thổ thuận tiện cho người ngoại-quốc đến học Đạo.

* Ngày 20-1 Đinh-Mão (dl 21-2-1927) cũng tại Từ Lâm Tự, Đức Chí-Tôn giáng cơ xác định:

“Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi”.

Trước khi tìm mua đất thì Đạo Cao Đài làm Lễ Khai Đạo ngày 15-10 Bính-Dần (dl 19-11-1926) tại đây làm Thánh-Thất tạm, đặt tại Chùa Từ-Lâm (tục gọi là Chùa Gò Kén, Tây-Ninh).

Nguyên ngôi chùa nầy do Hòa-Thượng Như-Nhãn (cũng gọi là Hòa-Thượng Giác-Hải) góp tiền bổn đạo mua đất và xây dựng nên. Kịp khi Đức Chí-Tôn giáng cơ mở Đạo, Đức Chí-Tôn dùng Huyền-diệu Cơ Bút độ được Hòa Thượng Như-Nhãn theo Đạo và trở thành một vị Chức sắc Đại-Thiên-phong của Đạo Cao-Đài, nên Hòa-Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ-Lâm cho Hội-Thánh Cao-Đài làm Thánh-Thất, tổ chức Lễ Khai Đạo. Nhưng sau ngày Lễ Khai Đạo, Hòa-Thượng Như-Nhãn một phần bị mất Đức tin, một phần bị nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ xúi giục và hăm dọa, Hòa-Thượng Như-Nhãn không theo Đạo Cao Đài nữa và đòi chùa lại, không hiến cho Hội Thánh.

Hội-Thánh Cao-Đài phải trả chùa lại cho Ông Như Nhãn và hứa trong 3 tháng sẽ tìm đất mới để dọn đi.

“Kể từ Rằm tháng 10 năm Bính-Dần (1926) tới Rằm tháng Giêng Đinh-Mão (1927) là đúng kỳ hứa trả chùa Từ Lâm (Gò Kén) là 3 tháng, nhưng tới tháng 2 năm Đinh-Mão, đã quá kỳ hạn 1 tháng mà Hội Thánh chưa trả chùa lại được, vì chưa kiếm được đất để mua, còn Ông Hòa Thượng Giác Hải thì cứ đòi chùa lại hoài.”

(Đạo-Sử I /51)

Vì sự đòi Chùa ấy nên Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy tại chùa Gò-Kén ngày 19-1 Đinh-Mão (dl 20-2-1927):

“Ngày nay Lão nhứt định chùa nầy trả lại. Xong trước khi trả, phải cất Thánh Thất cho xong y như lời dạy. Chư Đạo hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi, vì là Thánh địa. Vả lại phong thổ thuận cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Đạo. Lão muốn nơi khác mà Đức Chí Tôn không chịu.

Thượng Trung Nhựt ! Phải làm thế nào chừa đất dư ra ít nữa là 50 mẫu là trọn cả bản đồ Bạch Ngọc Kinh và cho đủ Thánh địa ấy. Hiền hữu đi chọn đất về cho Lão hay, cầu khẩn Chí Tôn nghe !”

(Trích Đạo-Sử. II/ 222)

Hôm sau, cũng tại chùa Gò Kén, ngày 20-1 Đinh Mão (Dl 21-2-1927) Đức Chí-Tôn giáng dạy như sau :

“Các con nghe! Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh địa. Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh dạy dỗ dân vô đạo, Thầy ban quyền thưởng phạt, đặng răn làng ấy cho đến ngày chúng nó biết ăn năn cải quá. Vậy thì Làng Long Thành, các con khá an lòng.

Còn Tòa Thánh thì muốn để cho có nhơn lực hiệp cùng Thiên ý là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước. Từ Thầy đến lập Đạo cho đến giờ, Thầy chưa hề một mình chuyên quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội Thánh vừa lòng thì là đẹp lòng Thầy.

Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi.

Các con đã hiểu Thánh ý Thầy, phải cần kiệm mỗi sự chi về phương tiện mà thôi.

Thơ! Thầy giao cho con góp tư bổn trong một tháng cho rồi, dặn các em con rằng: “Danh thể Đạo nơi Tòa Thánh, nghe à !”. Sau Thái Bạch sẽ dạy con kiểu vở.

Cẩm Giang thì các con phải chịu khổ về phần ăn uống, Bén Kéo thì địa thế hẹp hòi, chớ chi các con khôn ngoan lấy cớ rằng: vì ích lợi lương sanh, vì đạo đức mà ký Chánh phủ cho các con mé rừng Cấm bên kia đường thì đẹp lắm. Các con liệu thử!

Thơ! Suối Vàng thì đặng, phương chuyên chở không thuận tiện, song phong thổ tốt đẹp. Con cũng yêu cầu Hội Thánh xét nét, nghe à ! Thầy ban ơn cho các con."

(ĐS. II. 223) & [TNHT. I. 98]

Tiếp theo, cũng tại chùa Gò Kén, ngày 21-1 Đinh Mão (Dl 22-2-1927) Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy tìm đất Thánh Địa:

“Thượng Trung Nhựt! Thái Thơ Thanh! Cười! Nhị vị Hiền hữu muốn cho Đạo phải mang tiếng rằng: Trốn lánh hay sao mà tính dời Tòa-Thánh xa dữ vậy hử? Tỷ như Lão muốn lập Tòa Thánh gần bên thành binh, chư Hiền hữu tưởng sao?

- Trung bạch: Có hai làng cúng đất.

- Mua thì đặng, khó gì! Một nơi chí Thánh trước mắt mà chư Hiền hữu chẳng biết xem, ấy cũng còn hai phần phàm.

Thái Thơ Thanh! Lão cậy Hiền hữu một phen nữa, mai nầy đi lên đường trên gọi là đường dây thép, nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ, coi Hiền hữu thấy đặng chăng cho biết.

Lão đã nói rằng: Mỗi sự chi đều bày trước mắt nhơn sanh hết. Chư Hiền hữu đừng sợ ai hết, hễ sợ thì chối quyền Thiêng liêng của Chí Tôn thì còn gì Đạo! nghe à !" (Đạo-Sử. II./ 224)

b/- Đức Hộ-Pháp nói về việc mượn chùa Từ Lâm của Hoà Thượng Giác Hải

“Đức Chí Tôn nói “chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi”. Ngó lại thấy hiện tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ Lâm Tự của nhà Thiền tức của Hòa Thượng Giác Hải làm mới nửa chừng, họ muốn cho mượn đặng lợi dụng mình làm cho xong. Xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền Đời quyền Đạo xúm lại đè nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá trị, đòi chùa lại, đuổi đi.

Thật vậy, họ đuổi đi, phải đi cấp thời, mua được đất Long Thành ngó lại toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ. Như thế ấy mà nói chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức tin không vững chắc còn có nước trốn mà đi. Một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức tin một chút nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương lai sẽ như thế nào? Nếu nên thì mình theo, bằng không nên thì đả đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì thương chúng sanh kính trọng con cái Đức Chí Tôn đem đức tin để trọn vẹn nơi Ngài lo lắng cho tương lai của nhơn sanh, tự hỏi: nếu lời hứa của Đức Chí Tôn không thành tựu thì Đạo Cao Đài thành sao đặng, vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả nhiệt huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí Tôn đem cả đức tin thực hiện cho thành tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn loại mà hy sinh tạo nghiệp. Bần Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh mạng về gởi rừng nầy nơi nước độc bệnh chướng, nhìn lại Thánh Địa biết bao nhiêu mồ mã, biết bao xương máu.”


02- Ngài Ngô Văn Chiêu (1878-1932) (Bỏ Toà Thánh tách ra lập Chiếu Minh vô vi)

A-

1. Bên lề cuộc sống của Ngài Ngô văn Chiêu:

Ngày 29-03-Bính Dần (Thứ hai: 10-5-1926) Đức Thượng Đế giáng Cơ dạy Đức Hộ-Pháp:

- Tắc! lập tức đi ngay đến nhà Trung có việc cần kíp!

Dù đêm đã khuya, nhưng lịnh của Đức Chí-Tôn, Ngài phải thi hành, đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Lê-văn Trung ở số 39 đường Quai Testard Chợ-lớn. Đến nơi, vài phút sau thì cụ Ngô-văn-Chiêu cũng đến. Xuống xe, cụ tỏ vẻ đau đớn dường như không tự đi đứng được, hai Ngài Trung và Tắc phải dìu cụ vào nhà. Cụ Chiêu tiết lộ:

- Năm 1919 nơi đảo Phú Quốc, Đức Chí-Tôn thâu nhận cụ làm Đệ-tử và dạy đạo cho. Cụ Ngô đã ước hứa với Thầy là “sẽ truyền Đạo của Thầy để cứu đời”. Nay vì phong trào cầu Cơ của quí vị tiền khai Đại-Đạo đã thu hút cả hàng thượng lưu trí thức cùng cả giới nông, công, thương, nghèo hèn, khiến cho chánh quyền thực dân Pháp lo ngại nên gây áp lực buộc cụ Chiêu phải lấy tư cách người Anh Cả của nhóm đệ tử đầu tiên phải ra lịnh cho tất cả: ngưng việc cầu cơ ! Chấm dứt việc chúng sinh cầu Đạo Nếu không tuân lịnh chúng sẽ cho Ngài nghỉ việc và truy tố ra Toà về tội “Không chấp hành lời cam kết” phải bồi thường “Ngân khoản đào tạo”. Những án phạt vừa kể, Cụ Chiêu còn có thể chịu đựng được, nhưng chúng còn doạ là cắt học bổng của con cháu cụ đang du học bên Pháp và cấm cả việc chuyển ngân của gia đình cho con cháu nữa. Do vậy mà lời phát nguyện khi xưa của cụ với ông Thầy Trời khó mà thực hiện được.

Cụ Ngô văn Chiêu mới sở cậy Ngài Lê-văn-Trung ra gánh vác việc Đạo trong tương lai. Sau cùng Cụ Chiêu quyết định làm theo sự đòi hỏi của người Pháp. Cụ Chiêu đã chủ trương câu “Ngô thân bất độ hà thân độ” (thân tôi chưa độ được thì làm sao độ người).

Bấy giờ Cụ Chiêu tách ra khỏi nhóm Đệ-tử tiền khai Đại-Đạo ở Toà-Thánh Tây-ninh và tự lập ra Chi-Phái Chiếu Minh và tu vô vi.

Phái nầy do Ngài Ngô Văn Chiêu lập ra vào đầu năm 1927, sau khi Ngài đã bị truất ngôi Giáo-Tông, lúc đầu gọi là Cơ Tuyển Ðộ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi ở tại Châu Thành Cần Thơ. Sau khi Ngài Chiêu đăng Tiên thì ông Tư Huỳnh lãnh đạo.

Phái Chiếu Minh chuyên về Nội giáo Vô Vi, Tâm pháp bí truyền luyện đạo, nên lựa chọn và thâu nhận rất ít tín đồ, hoạt động hạn hẹp ở ba nơi: Cần Thơ (Tổ đình), Phú Quốc và Sài Gòn. Hiện nay Phái Chiếu Minh lại phân ra: Chiếu Minh Long Châu và Chiếu Minh Ðàn.

2- Tiểu sử Ngài Ngô Văn Chiêu:

Ngài Ngô Văn Chiêu, sanh ngày 7 tháng Giêng năm Mậu-Dần (dl 8-2-1878) tại Bình Tây, Chợ Lớn, thân mẫu là bà Lâm-Thị-Quí và thân phụ là ông Ngô-Văn-Xuân thuộc dòng dõi quan Thị Lang của triều đình Huế.

Khi Ngài Chiêu được 6 tuổi, ông bà thân của Ngài tìm được việc làm ở Hà-Nội nên đem Ngài gởi cho người em ruột là bà Ngô Thị Đây ở Mỹ Tho. Bà Đây có chồng là người Hoa, mở tiệm thuốc Bắc tại xã Điều Hòa, cạnh nhà việc, thuộc Mỹ Tho.

Ngài Chiêu ở với cô ruột và được cô cho đi học, đến năm 12 tuổi thì nhờ người quen cũ của cha bảo lãnh xin vào học nội trú tại Collège Mỹ Tho. Sau đó Ngài lên Sài Gòn học tại trường Chasseloup Laubat và đậu bằng Thành Chung năm Ngài được 21 tuổi.

Ngày 23-3-1899, Ngài Ngô Văn Chiêu được nhận vào làm Thơ ký tại Sở Tân Đáo Sài Gòn.

Ngài theo sự hướng dẫn của người cô ruột, kết hôn với bà Bùi Thị Thân, người làng Thạnh Trị, đang làm nghề buôn bán tại chợ Mỹ Tho. Ông Bà sanh được cả thảy 9 người con, cả trai lẫn gái.

Ngày 1-1-1903, Ngài Ngô Văn Chiêu được đổi về tùng sự tại Dinh Thượng Thơ (Bureau du Gouvernement de Cochinchine).

Ngày 1-5-1909, Ngài được đổi xuống làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh Tân An.

Ngày 1-1-1917, Ngài đậu Tri Huyện, vẫn tiếp tục làm công chức tại Tân An. Ngài mua một căn nhà lá tại thị xã Tân An, sửa lại thành ba gian lợp ngói và đưa cả gia đình gồm vợ con về sống nơi căn nhà nầy.

Đầu năm 1920, Ngài Chiêu buồn rầu vì thân mẫu mới mất nên Ngài xin đổi đi Hà Tiên.

Ngày 1-3-1920, Ngài được đổi xuống Hà Tiên, làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh Hà Tiên được 8 tháng thì Ngài được chuyển ra làm Chủ Quận Phú Quốc ngày 26-10-1920 và làm việc tại đây được 4 năm.

Ngày1-1-1924, Ngài được thăng lên ngạch Tri Phủ.

Ngày 30-7-1924, Ngài được đổi về Sài Gòn, làm việc tại Phòng Thương Mại trong Dinh Thống Đốc Nam Kỳ.

Ngài Ngô Văn Chiêu mướn nhà ở nhiều nơi, nhưng sau rốt Ngài đến ở lầu 2 nhà số 110 đường Bonard (nay là đường Lê Lợi) Sài Gòn.

Năm 1931, Ngài Ngô Văn Chiêu 54 tuổi, Ngài xin nghỉ làm công chức, lui về an dưỡng ở Cần Thơ.

Trên bước đường làm quan cho nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ đang cai trị Nam Kỳ, Ngài Ngô Văn Chiêu nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chánh trực, công bình. Đối với bạn đồng liêu, Ngài rất khiêm tốn, ôn hòa. Đối với dân chúng, Ngài rất thân dân, hết lòng giúp đỡ, nhưng không bao giờ thọ lãnh lễ vật hay tiền bạc đền ơn đáp nghĩa. Lúc làm Chủ Quận, khi gặp nghi án thì Ngài chẳng nề khó nhọc, điều tra cho ra manh mối để tránh cho người dân bị hàm oan hay bị ức hiếp.

Lúc Ngài ở Phú Quốc, Ngài đã biết Đạo rồi, nên khi gặp những vụ thưa kiện, Ngài thường khuyên giải cả đôi bên giải hòa cùng nhau, khi hai bên chẳng chịu thì Ngài làm tờ giải lên tỉnh Hà Tiên.

3- Quá trình Ngài Chiêu ngộ Đạo Cao Đài:

Việc ở Tòa Hành Chánh tỉnh Tân An thì phong trào cầu cơ thỉnh Tiên cũng đang chớm nở tại đó. Ngài rất ngưỡng mộ, nên hợp tác với các bạn thân gồm quí ông: Đoàn Văn Kim (Một Kim), Lê Kiển Thọ (Bộ Thọ), Trần Phong Sắc, Nguyễn Văn Vân, tạo thành một nhóm cầu cơ, xin những bài thuốc chữa bịnh. Trong nhóm chọn ông Trần Phong Sắc làm Pháp đàn, ông Thọ làm đồng tử, Ngài Chiêu làm độc giả, ông Vân làm điển ký (ghi chép bài cầu cơ). Nhà Ngài Chiêu có thờ Đức Quan Thánh và Quan Âm Bồ Tát, nhà ông Thọ thì thờ Bát Tiên.

Vào ngày rằm âm lịch mỗi tháng, Ngài Ngô Văn Chiêu đều tổ chức cầu cơ tại nhà của Ngài. Bài kinh cầu cơ lấy trong kinh Vạn Pháp Qui Tông, nhờ mấy đứa trẻ nhỏ, tắm rửa sạch sẽ, quần áo tươm tất, làm đồng nhi tụng kinh.

Cuối năm 1917, thân mẫu của Ngài Chiêu lâm trọng bịnh, Ngài phải xuống đàn Cái Khế ở Cần Thơ để cầu xin thuốc cho mẹ uống. Ơn Trên giáng cơ cho bài thuốc, Ngài đem về cho mẹ uống thì mẹ Ngài hết bịnh, mạnh được vài năm. Sau đó thì mẹ Ngài bị bịnh trở lại, Ngài Chiêu trở xuống đàn Cái Khế cầu xin thuốc cho mẹ nữa, Ơn Trên chỉ giáng dạy đạo lý chớ không cho thuốc. Ngài vì quá thương mẹ nên đi lên đàn cơ ở Thủ Dầu Một xin thuốc một lần nữa.

Ông Trần Hiển Vinh chủ đàn Minh-Thiện ở Thủ Dầu Một có thuật lại rằng: Bữa ấy, Ngài Ngô Văn Chiêu cùng ông Phủ Kim đến hầu đàn. Ông Kim quì ở trong, Ngài Chiêu quì ở góc ngoài. Khi Đức Quan Thánh giáng cơ, liền gọi tên Ngài Ngô Văn Chiêu và cho 4 câu thi, đại ý nói vườn thuốc của Phật Tổ đã bị trốc gốc. Qua bài thi nầy, Ngài Chiêu biết số mệnh của mẹ Ngài không qua khỏi. Đến cuối năm 1919 thì Bà từ trần.

1/. Đấng Cao Đài Tiên Ông giáng cơ xưng danh lần đầu tiên:

Đầu năm 1920, vài tháng trước khi Ngài Chiêu có lịnh đổi xuống Hà Tiên, Ngài được lịnh bề trên bảo chỉnh đốn việc cầu cơ thỉnh Tiên.

Ông Trần Phong Sắc vẫn làm Pháp đàn, hai đồng tử là: ông Nguyễn Văn Vân ngồi đồng dương và ông Lê Kiển Thọ (Bộ Thọ) ngồi đồng âm, Ngài Chiêu làm độc giả, ông Đoàn văn Kim làm điển ký.

Đồng nhi đọc bài kinh cầu cơ đến câu:

Ngũ chơn bửu khí lâm triều thế,
Giá hạc đằng vân xiển tự nguyên.

Liền có một vị Tiên Ông nhập cơ viết xưng là Cao Đài Tiên Ông, cơ gõ mạnh bảo ông Trần Phong Sắc sửa lại hai câu ấy. Ông Sắc vốn là nhà Nho sành sỏi, liền trả lời một cách ngang ngang có vẻ bất kính: “Bài thỉnh cơ nầy đã có cả trăm năm nay từ Trung quốc truyền qua, ai dám cho là sái, nay Tiên Ông bảo sửa, vậy trật hay sao?”

Tiên Ông quơ cần cơ đập vào đầu ông Sắc vì tội vô lễ, ông Sắc sụt lẹ xuống né khỏi, kế Cao Đài Tiên Ông kêu Ngài Chiêu bảo sửa. Ngài Chiêu liền sửa và bạch rằng:

“Bửu chơn Ngũ khí lâm triều thế”.

Tiên Ông khen Ngài Chiêu sửa trúng.

Kể từ đó, ông Sắc không làm Pháp đàn nữa. Cả nhóm không biết Cao Đài Tiên Ông là ai, nhưng Ngài Chiêu thì đoán rằng, Đấng ấy là Thượng Đế, nên mới dám sửa kinh đời xưa.

2/. Thời gian tùng sự tại Hà Tiên:

Vừa làm tuần bá nhựt (100 ngày) cho thân mẫu xong thì Ngài Ngô Văn Chiêu được giấy đổi đi Hà Tiên.

Lúc đó, ở Hà Tiên cũng có quí ông: Đốc phủ Sự, Lâm Tấn Đức, Nguyễn Thành Diêu, ông Phán Ngàn, lập thành nhóm cầu cơ thỉnh Tiên, nhưng năm lần bảy lượt mới có Tiên giáng. Khi Ngài Ngô Văn Chiêu xuống tới đó, Ngài liền gia nhập nhóm cầu cơ nầy, thì lạ thay, khi Ngài Chiêu nguyện vái, đọc bài cầu cơ, thì có Tiên giáng liền.

Những buổi cầu cơ lúc đó tổ chức trên núi Thạch Động.

Một vị Tiên Cô xưng là Ngô Kim Liên giáng cho Ngài hai bài thi tứ tuyệt có ý khuyên Ngài tu hành:

Văng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu,
Rằng Trời cùng Đất vẫn xa mù.
Non Tây ngảnh lại đường gai góc,
Gắng chí cho thành bực trượng phu.

Ngần trăng tỏ rõ giữa trời thu,
Cái cảnh Tây phương vẫn mịt mù.
Mắt tục nào ai trông thấy đấy,
Lắm công trình mới đúng công phu.

3/. Lúc làm Chủ Quận Phú Quốc:

Trong thời gian làm Chủ Quận Phú Quốc, Ngài Ngô Văn Chiêu thường lên núi Dương Đông cầu cơ thỉnh Tiên. Trước nhứt Ngài cầu ở Chùa Quan Âm. Ngài thường đi với cô Ba Lan là em bạn dì và mấy người hầu đàn như: Hương Hào Khâu, ông giáo Mẫn, ông Hương Đa, Biện Tý, Ba Đồng, bà năm Vàng, bà phủ Phẩm, Hội Đồng Phanh, với năm ba đứa nhỏ sạch sẽ theo làm đồng tử. Độc giả thì có: Hai Huỳnh, Tư Xuân, Tư Ngưng, Ba Nguơn, Năm Nhơn, Mười Đức, ...

Ngài Chiêu đã cầu Tiên nhiều lần, nhưng có một vị Tiên Ông giáng cơ chẳng chịu xưng tên, biểu Ngài Chiêu làm đệ tử thì Tiên Ông sẽ dạy Đạo cho và bảo đừng tụng kinh Minh Thánh nữa.

Bữa kia, Tiên Ông giáng bảo Ngài lo tu và ăn chay thêm cho đủ 10 ngày trong một tháng. Ngài nghĩ bụng: Mình đang làm quan, nay người nầy mời, mai người kia thỉnh, nếu chịu ăn chay 10 ngày rồi, sau rủi quên ăn mặn thì có tội với Trời Phật. Nhưng nếu theo lời dạy của Tiên Ông mà có kết quả thì cũng ráng ăn. Nếu ăn chay 10 ngày mà chết cũng bị luân hồi thì thà ăn chay 2 ngày trong tháng còn hơn, miễn là mình lo tu nhơn tích đức, chẳng làm gì trái lương tâm thì thôi. Ngài nghĩ trong trí như vậy, định khi gặp Tiên Ông giáng cơ thì bạch rõ.

a) Đàn cơ mùng 1-1-Tân Dậu (dl 8-2-1921) tại Chùa Quan Âm, Phú Quốc.

Tiên Ông giáng cơ. Ngài Chiêu chưa kịp bạch hỏi Tiên Ông điều chi thì cơ viết:

"Chiêu! tam niên trường trai.”

Tiên Ông bảo như thế làm cho Ngài rất bối rối, bởi vì Ngài chưa chịu ăn chay 10 ngày, mà nay Tiên Ông bảo ăn chay trường ba năm thì lâu quá, chẳng biết có chịu nỗi không. Ngài Chiêu liền bạch với Tiên Ông, xin Tiên Ông bảo lãnh, nếu đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có ấn chứng chi mới được.

Tiên Ông bảo cứ giữ y lời dạy thì đệ tử sau sẽ hiểu rõ. Ngài Ngô Văn Chiêu bắt đầu ăn trường chay và học đạo kể từ ngày đó: Mùng 1 Tết năm Tân Dậu (1921).

b) Thờ Thiên Nhãn:

Một bữa kia, Tiên Ông dạy Ngài Ngô Văn Chiêu phải tạo ra một dấu hiệu chi để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập.

Tiên Ông nói: Chữ Thập cũng được, song đó là dấu hiệu riêng của một nền đạo đã có rồi. Phải suy nghĩ tìm cho ra, có Tiên Ông giúp sức.

Ngài xin hoãn lại một tuần lễ để suy nghĩ. Mãn tuần rồi mà Ngài vẫn chưa tìm ra.

Một buổi sáng lối 8 giờ, Ngài đang ngồi trên võng sau dinh quận, bỗng Ngài thấy trước mặt, cách chừng hai thước, hiện ra một con Mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời. Ngài lấy làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn, đợi chừng nửa phút, Ngài mở mắt ra thì vẫn thấy con Mắt ấy mà lại càng chói sáng hơn nữa. Ngài bèn chấp tay vái rằng:

- Bạch Tiên Ông, đệ tử biết rõ huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì.

Vái xong thì con Mắt lu dần và biến mất.

Thấy như vậy rồi, nhưng Ngài Ngô Văn Chiêu vẫn chưa thiệt tin, nên chưa vẽ hình Thiên Nhãn để thờ.

Cách vài ngày sau, Ngài Chiêu cũng thấy Thiên Nhãn hiện ra y như trước. Ngài vái sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ thì con Mắt tự nhiên biến mất.

Sau khi thấy Thiên Nhãn hai lần rồi, Ngài cầu cơ xin Tiên Ông dạy cách thờ phượng. Tiên Ông dạy vẽ con Mắt như đã thấy để thờ và Tiên Ông xưng là: “CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT ”.

Tiên Ông dạy Ngài Chiêu gọi Tiên Ông bằng Thầy và kể từ ngày đó, Ngài Ngô Văn Chiêu chánh thức làm đệ tử đầu tiên của Đấng Thượng Đế.

Ngài nguyện với Đấng Cao Đài: “Nếu độ cho tôi thành Đạo thì tôi sẽ độ lại chúng sanh tùy theo phước đức của mỗi người.”

c) Cảnh Bồng Lai:

Lúc ấy Ngài Ngô Văn Chiêu đã tu theo Cao Đài Tiên Ông đã được 3 năm. Một bữa kia, Đấng Cao Đài Tiên Ông giáng cơ khen Ngài tu kỹ và ban cho đặc ân muốn chi thì Thầy ban cho.

Ngài Ngô Văn Chiêu bạch rằng:

- Bạch Thầy, nghe nói cảnh Bồng Lai xinh đẹp vô cùng, Thầy có thể cho đệ tử thấy cảnh ấy không?

Cơ gõ mạnh một cái chớ không viết câu trả lời.

Cách ít lâu sau, vào một buổi chiều cuối tháng Giêng năm Giáp Tý (1924) Ngài Chiêu ra hứng mát ở mé biển, Ngài trèo lên một hòn đá lớn ngoài Dinh Cậu, ngồi ngó ra biển, sóng dợn ba đào. Bỗng Ngài thấy giữa chỗ trời nước giáp nhau, lộ ra một cảnh thật là xinh đẹp, cảnh nầy vừa khuất thì hiện ra cảnh khác cũng xinh đẹp không kém. Sau cùng Ngài thấy một cảnh rất đặc biệt, trên có Thiên Nhãn, sổ ngay xuống một hàng có Nhựt, Nguyệt, Tinh đẹp đẽ vô cùng. Ngài ngồi xem mê mẩn, được chừng 15 phút thì cảnh ấy mờ dần rồi biến mất.

Sau đó, Ngài Chiêu cầu cơ thì Đức Cao Đài Tiên Ông cho biết, đó là cảnh Bồng Lai theo như lời Ngài ước nguyện muốn thấy để nung chí tu hành.

Khi Ngài Chiêu sắp đổi về Sài Gòn, Đức Cao Đài Tiên Ông giáng cơ ban cho Ngài bài thi sau đây:

Kín ngoài rồi lại kín trong,
Đường xa phong cẩn thưởng lòng để vui.
Công đầu chịu cực đừng lui,
Thiên tào thăng thưởng đạo mùi ngọt ngon.

Ba năm lòng sáng như son,
Trèo non xuống biển vuông tròn công phu.
Chớ phiền mỏi mệt lòng tu,
Trăng kia mây vẹt, Đường Ngu gặp hiền.

Mựa toan vụ thấy Thanh Thiên,
Các đào rõ biết mối truyền chánh tông.
Giờ nầy Thầy điểm thâm công,
Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên.

Ngoài trong sạch tợ bạch liên,
Khá lòng gìn giữ mối giềng chớ xao.
Chiêu chiêu nguyệt thấu thanh thao,
Trên đầu cũng có Thiên Tào xét xem.

Thấm mùi con biết lân nem,
Đề hồ con uống Thầy xem ân cần.
Đạo luyện khắc kỷ phục thân,
Chiêu con khá giữ, Thầy phân cạn lời.

Thầy lại dạy rằng:

- Con đổi về Sài Gòn, đồng tử không theo con được. Vậy con phải rót một ly rượu, con uống phân nửa, còn phân nửa thì cho đồng tử uống, gọi là lễ tiễn biệt nhau.

Ngài làm y theo lời dạy. Lúc đó đồng Ngưng đang mê mà đôi hàng nước mắt chảy tuôn tỏ nỗi đau lòng kẻ ở người đi. Thấy vậy, Ngài Chiêu cũng khó cầm giọt lệ.

4. Thời kỳ làm việc ở Sài Gòn:

Ngài Ngô Văn Chiêu được lịnh đổi về Sài Gòn,

Ngài rời đảo Phú Quốc ngày 29-7-1924, Ngài về đến Sài Gòn vào chiều ngày hôm sau 30-6-GiápTý (dl 30-7-1924).

Ngài thuê nhà ở lầu 2 số nhà 110 đường Bonard (nay là đường Lê Lợi) Sài Gòn. Mỗi ngày đi làm việc hai buổi tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ, Ngài thường lui tới Chùa Ngọc Hoàng ở Dakao, ít giao thiệp với người ngoài, dành thì giờ công phu.

Cuối năm Ất Sửu (1925), Đức Cao Đài Tiên Ông dạy Ngài Chiêu đem mối đạo truyền ra. Ngài độ được 4 vị:

- Quan Phủ Vương Quan Kỳ

- Ông Phán Nguyễn Văn Hoài

- Ông Phán Võ Văn Sang

- Đốc học Đoàn Văn Bản.

Ông Vương Quan Kỳ sau khi vào Đạo lại khuyên được 5 ông sau đây cùng vào Đạo:

- Ông Nguyễn Thành Cương

- Ông Nguyễn Thành Diêu

- Ông Nguyễn Hữu Đắc

- Ông Lê Văn Bảy, tự Tý.

- Ông Võ Văn Mân.

5. Đức Chí Tôn lập thêm một nhóm Phò cơ khác:

Trong lúc đó, vào hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925) một nhóm công chức tại Sài Gòn, do sự thúc đẩy của thiêng liêng, đã họp nhau Xây bàn thỉnh các vong linh để tìm hiểu về thế giới vô hình. Nhóm nầy gồm quí Ngài:

- Cao Quỳnh Cư

- Phạm Công Tắc

- Cao Hoài Sang

- Cao Quỳnh Diêu.

Quí ông khởi xây bàn tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa gần chợ Thái Bình Sài Gòn. Có nhiều Đấng vô hình giáng bàn để tạo cho quí ông niềm tin. Sau đó, Đấng Thượng Đế tá danh AĂÂ giáng bàn độ được 4 ông vào Đạo và gọi Đấng AĂÂ bằng Thầy và Đấng ấy gọi quí ông là Môn đệ.

Thất Nương giáng dạy quí ông dùng Ngọc Cơ để cầu Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng cho được dễ dàng và mau lẹ hơn.

Đêm Trung Thu năm Ất-Sửu (dl 1-10-1925) quí Ngài thiết lễ Hội Yến Diêu trì Cung tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, số 134 đường Bourdais Sài Gòn, có Đức Phật Mẫu cùng với Cửu vị Tiên Nương Diêu trì Cung giáng chứng lễ và mỗi Đấng cho một bài thi bốn câu làm kỹ niệm.

Đến ngày 1-11-Ất Sửu (dl 16-12-1925) Đức Phật Mẫu dạy ba Ngài: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang Vọng Thiên cầu Đạo.

Đêm Noel năm 1925 (âl 10-11-Ất Sửu) Đấng AĂÂ mới cho biết Ngài là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Ngày 05-12-Ất Sửu (dl 18-1-1926) Đức Chí Tôn dạy hai Ngài Cư, Tắc đem Ngọc cơ đến nhà Ngài Cựu Hội Đồng Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung để Thầy độ ông Trung.

Lúc bấy giờ, nhóm phò cơ nầy được 7 vị:

- Ông Cao Quỳnh Cư

- Ông Phạm Công Tắc

- Ông Cao Hoài Sang

- Ông Cao Quỳnh Diêu.

- Ngài Lê Văn Trung

- Ngài Nguyễn Trung Hậu

- Trương Hữu Đức.

Nhóm nầy chưa biết gì về nhóm của Ngài Ngô Văn Chiêu, nên chưa có liên lạc hay tiếp xúc.

6. Sự hợp tác giữa hai nhóm:

Ngày 9-12-Ất Sửu (dl 22-1-1926) Đức Chí Tôn dạy quí Ngài: Cư, Tắc, Sang, Trung, Hậu, Đức, phải đến chung hiệp với Quan Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo. Ngài còn dạy thêm rằng: Mỗi mỗi việc chi phải do nơi Chiêu là Anh Cả.

Khi hai nhóm hợp lại thì tổng cộng được 13 vị, là:

1- Ngô Văn Chiêu. 2- Lý Trọng Quí.
3- Lê Văn Giảng. 4- Võ Văn Sang.
5- Nguyễn Văn Hoài. 6- Đoàn Văn Bản.
7- Vương Quan Kỳ 8- Lê Văn Trung.
9- Cao Quỳnh Cư 10- Phạm Công Tắc.
11- Cao Hoài Sang 12- Nguyễn Trung Hậu.
13- Trương Hữu Đức.
Đêm 30-12- Ất Sửu là đêm giao thừa, sắp bước qua năm mới Bính-Dần, Đức Chí Tôn khiến quí Ngài trong hai nhóm đến thăm từng tư gia của mỗi Môn đệ. Tại mỗi nhà, Đức Chí Tôn giáng ban cho một bài thi, tới khuya, gần đúng giao thừa thì đến nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn.

Tại nhà Ngài Lê Văn Trung, Đức Chí Tôn giáng dạy:

“Chư đệ tử nghe!

Chiêu, buổi trước hứa lời truyền Đạo cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ mối Đạo, dìu dắt cả Môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó.

Ông Chiêu bạch hỏi Đức Chí Tôn:

- Qua đến năm 1933 thì Đạo mới lập thành?

Đức Chí Tôn đáp: - Phải.

Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo.

Bản, Sang, Giảng, Quí, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo.

Đức, Hậu, tập cơ, sau theo mấy anh con mà độ người. Nghe và tuân theo."

Đó là lời Thánh giáo đầu tiên của Đức Chí Tôn tại đàn cơ nơi nhà Ngài Lê Văn Trung, kỹ niệm ngày Khai Cơ Phổ Độ của Đạo Cao Đài. Đó là giờ Tý ngày 01 tháng Giêng năm Bính-Dần (dl 13-2-1926).

Đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (đêm thứ Bảy rạng Chúa nhựt 21-2-1926), Lễ Vía Đức Chí-Tôn được tổ chức tại nhà Ngài Vương Quan Kỳ ở đường Lagrandière, các Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn hiện diện đầy đủ, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo.

Nhân dịp nầy, Ngài Ngô Văn Chiêu bạch xin Đức Chí Tôn lấy tên của mấy Môn đệ mà cho một bài thi làm kỹ niệm.

Đức Chí Tôn liền cho một bài thi tứ tuyệt:

CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG, QUÍ, GIẢNG, thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ Thiên Địa cảnh,
Huờn Minh Mân đáo thủ đài danh.

Đức Chí Tôn có 13 môn đệ đầu tiên nhưng Đức Chí Tôn chỉ điểm danh 12 vị, vì chữ SANG là tên của hai ông: Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang.

Huờn Minh Mân là tên của ba vị hầu đàn.

7. Đức Chí Tôn dự bị phong Ngài Ngô Văn Chiêu vào chức Giáo-Tông:

Thánh giáo ngày 6-3-Bính Dần (dl 17-4-1926) Đức Chí Tôn dạy như sau:

“Thầy,

Trung, Cư, Tắc, ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng, trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng, có chữ CÀN ☰ thêu bằng chỉ vàng, dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt. Mão cũng vậy, áo cũng vậy.

Hiếu lại phải nhọc công nữa, Thầy giao phần may sắm cho con, con liệu cho kịp, rằm phải có nghe con. Hiếu lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu mão cho con coi.

Madame Cư bạch Thầy: Mitre (mão Giáo-Tông).

Trước ngực, ngay trán phải để chữ cung CÀN chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái áo, con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.

Nghe và tuân theo nghe con." (ĐS. I. 106)

Tái cầu:

Mừng sắp con! Hiếu quì bạch Thầy dạy may áo mão Giáo-Tông bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào?

- Thầy sẽ nhứt định mọi việc.

Thầy dạy: Mão bề cao 3 tấc 3 phân thước Lang-sa, may giáp mối lại thế nào cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp, ấy là Âm Dương tương hiệp, Hiếu biết mà!

Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có hai dải thòng xuống một mí dài, một mí vắn, mí dài 3 tấc. Giáo-Tông: Thảo hài.

Tái cầu:

Có tạo đỡ một cái Mão bằng giấy dựng lên cho Thầy xem. Cười! Đặng phải vậy, ba con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí giáp mối, con coi theo cây viết mà làm theo. Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra nghe con! Con giỏi lắm Hiếu! Hai dải thòng xuống vai 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang. Phải vậy rồi!.

Cư, để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may Mão Giáo-Tông).

Ngày 22-4-1926 (âl 11-3-Bính Dần), tức là 5 ngày sau khi Đức Chí Tôn ra lịnh cho Bà Hương Hiếu (hiền thê của Ông Cư, nên gọi là Madame Cư) may Thiên phục Giáo-Tông cho Ngài Ngô Văn Chiêu, Bà Hương Hiếu dâng mão Giáo-Tông lên cho Đức Chí Tôn xem kiểu vở may như vậy có đúng không.

Đức Chí Tôn giáng cơ nói:

“Hiếu dâng mão Giáo-Tông may xong rồi cho Thầy xem. Trúng, mà ai đội, con phòng lật đật”.

Đức Chí Tôn giáng cơ nói như thế, tức nhiên chúng ta ngầm hiểu là Ngài Ngô Văn Chiêu đã mất chức Giáo-Tông.

Tại sao chỉ trong vòng 5 ngày từ 17 đến 22-4-1926 mà lại có sự thay đổi nhanh chóng như vậy? Đức Chí Tôn không cho biết tại sao, làm cho nhiều người phân vân, nghĩ rằng Ngài Ngô Văn Chiêu cải lịnh Đức Chí Tôn, muốn ở nhà tu tịnh, không muốn tham gia vào cơ phổ độ đông người làm mất sự yên tịnh của Ngài, hay còn lý do nào khác nữa?

Mãi đến gần 3 tháng rưỡi sau, Đức Chí Tôn mới tiết lộ cho biết trong đàn cơ ở Tân Định, tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ, lý do tại sao Ngài Ngô Văn Chiêu mất chức Giáo-Tông.

Xin chép bài Thánh giáo quan trọng nầy ra sau đây.

Ngày 25-6-Bính Dần (Dl 3-8-1926):

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
Giáo Đạo Nam Phương.

“Chư môn đệ nghe dạy:

Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ, Chưởng quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.

CHIÊU, thiệt là Nhứt Phật đó.

Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo-Tông cho nó, thì Chúa Quỉ sai tam thập lục động địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng

Ta. Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo-Tông cho nó.

Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó và phải để cho Tam thập lục động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.

Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị Tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.

Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải tịnh thất.

Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục động khảo nữa thì mới liệu sao? Ta phải giáng cơ biểu nó.

Con Thơ! con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe. Kẻ bị tù còn có thế rỗi ai chăng?

Chư Môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của

Thầy.” Thầy thăng.

(Trích trong tập Thánh Ngôn chép tay của Ngài Đầu-Sư Thái Thơ Thanh, trang 237)

Ngày 9-1 Bính-Dần (dl 21-2-1926)

Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban cho Ông Chiêu bài thơ:

THI

Bao năm dạy-dỗ quá dày công.
Lời hứa năm xưa gắng giữ lòng.
Siêu đọa đôi đường tua chọn lấy.
Lơi chơn một bước sẽ hoàn không

Cao Đài

Theo Đạo-sử của bà Đầu-Sư Hương-Hiếu

(Ngày 21-10 Bính-Dần (dl 26-11-1926)

Thầy nói:

“Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương của Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm-trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật biết sao cứu rỗi cho đặng.

“Thầy lại phải làm thinh cho kẻ thì mất lẽ công bình. Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha-thứ. Thầy thì đặng còn chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao? Nhất là Thái-Bạch Kim Tinh rất khó. Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi. Các con chớ dễ ngươi mà phạm thượng nghe à!”.

Trước đó thì chư Môn-đệ đồng quì lạy Thầy xin thứ tội cho ông Chiêu.

Ông Vương-Quan-Kỳ bạch hỏi Thầy:

-Bạch Thầy: Anh Cả Ngô-Văn-Chiêu bảo Thầy giao cho Ảnh thay Thầy làm Chủ mối Đạo, dạy-dỗ Môn Đệ mà Ảnh không chịu tiếp xúc với chúng con, phải làm sao?

Ngày 13-3 Bính-Dần (dl 24-4-1926 ) trích Đạo-sử bà Hương Hiếu trang 109

Đức Chí-Tôn dạy:

“Chiêu đã có công tu, lại là Môn-đệ yêu dấu của Thầy nên Thầy muốn ban chức Giáo-Tông cho nó, song vì lòng ám-muội phạm đến oai-linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy mà dạy-dỗ các con”.

Tái cầu:

“Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn-loại là dường nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội-hiệp cùng nhau, thương-yêu nhau trong đạo-đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia-lìa các con là đứa thù-nghịch của Thầy.

“Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp: Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục, độ rỗi nó trước các con. Biết bao phen Thầy gom các Môn-đệ lại. Thầy sở cậy nó ấp-yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con. Song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách-nhiệm rất lớn của Thầy toan phú-thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó. Nghe và tuân mạng lịnh Thầy”.

Thầy dạy (đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính-Dần (25 và 26-4-1926):

“Chiêu, thiếu đức, thiếu tài.

“Trung, con sợ ai?

“Ta không sợ ai! Ta biết hơn ngươi. Ta há không biết thương sao ?

“Ấy cũng vì thiếu đức. Nó đã biết Ta. Cứ tuân lời Thầy đã truyền mà thi-hành !

Ngày 26 Avril 1926:

Cao-Đài:

“Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh Ta, Ai kiên? Ta chờ ngươi.

“Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh Ta, ai thừa lịnh?

“Ta đã nói ngươi làm đầu Tam-giáo, đã bao phen Ta lập Đạo sẵn cho, ngươi chê há? Ta đã sở định, ngươi dám cải:

“Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa,
“Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
“Sám-hối Ta cho tu ít tháng.
“Tài hay, tài khéo chớ đua lừa.

Qua bài Thánh Ngôn nầy của Đức Chí Tôn, chúng ta biết được là Ngài Ngô Văn Chiêu bị Quỉ Vương thử thách trước khi được lên ngôi Giáo-Tông. Ngài bị thử thách và chỉ trong 5 ngày, Ngài không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương bày ra, nên đành chịu mất ngôi Giáo-Tông.

Sự thử thách của Quỉ Vương là cần thiết đối với Giáo-Tông là phẩm vị số 1 của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nếu thắng nỗi Quỉ Vương thì bọn chúng mới chịu phục, còn không thắng nỗi thì phải chiụ mất ngôi.

Việc nầy cũng không khác chi thời Đức Chí Tôn sai Đức Chúa Jésus mở Thiên Chúa giáo nơi nước Do Thái để cứu độ các sắc dân Âu Châu.

Sau khi Đức Chúa Jésus thọ phép Giải oan nơi bờ sông Jourdain với Thánh Jean Baptiste, Thượng Đế đưa Đức Chúa Jésus đến nơi đồng vắng đặng chịu cho ma quỉ cám dỗ trong 40 ngày đêm (trong 40 ngày nầy Ngài kiêng ăn, sau thì đói). Quỉ Satan tìm mọi cách thử thách Chúa, cám dỗ Chúa, nhưng không lay chuyển nỗi tâm ý của Chúa. Chúng ma quỉ thất bại bèn bỏ đi. Liền đó có Thiên sứ đến hầu Đức Chúa.

Chúa Jésus chiến thắng Quỉ Vương, nên Chúa trở thành Đấng Giáo chủ, đi giảng đạo và thâu nhận tín đồ, mở ra Thánh đạo ngót hai ngàn năm nay.

8. Ngài Ngô Văn Chiêu tách riêng lập Chi phái:

Sau khi Ngài Ngô Văn Chiêu không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương thì 2 ngày sau, tức là ngày 24- 4-1926, Ngài Chiêu tự ý tách ra khỏi nhóm.

Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, trong quyển Đại Đạo Căn Nguyên, nơi trang 18, thuật lại như sau:

“Ông Trung vẫn vâng theo Thánh ý lo thiết đàn giảng Đạo. Ông Chiêu lại ở nhà lo bề tự giác, ý ông không muốn truyền bá mối Đạo ra cho nhiều người. Ông vẫn lấy câu “Ngô thân bất độ hà thân độ” mà làm tôn chỉ. Vì vậy mà ông tách riêng ra kể từ ngày 14 tháng 3 năm Bính-Dần (dl 24-4-1926). Đồng một ý kiến ấy thì có mấy ông: Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quí.

Từ đây, tuy đôi bên chủ nghĩa khác nhau, vì một đàng (Ông Lê Văn Trung) thì lo phổ thông mối Đạo, một đàng (Ông Ngô Văn Chiêu) lại chuyên bề tự giác, nhưng về phương diện tín ngưỡng thì cũng đồng thờ kỉnh Đức Cao Đài Thượng Đế.”

9. Ông Ngô văn Chiêu Lập Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi:

Đầu năm Đinh Mão (1927), Ngài Ngô Văn Chiêu cho những người bạn cũ của Ngài biết là Ngài đã xong nhiệm vụ trong Cơ Phổ Độ và Ngài còn đảm đang một sứ mạng quan trọng khác là lập Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, gọi tắt là Chiếu Minh Vô Vi. Ngài đổi chữ lót trong tên Ngài thành chữ Minh và kể từ đây gọi Ngài là Ngô Minh Chiêu.

Cách tu của Ngài Ngô Minh Chiêu thật là khổ hạnh.

Ngài đi làm công chức ngày hai buổi, hết giờ làm việc thì lo công phu tứ thời, vì vậy mà Ngài không có thời giờ rảnh.

Số người tìm học Đạo Vô Vi cũng khá đông, nhưng Ngài chỉ lựa vài chục người đệ tử chánh thức thôi, bởi vì việc tu hành của Ngài rất khó, phải có can đảm và bền chí lắm mới theo nỗi. Người tu phải trường chay, tuyệt dục, lập đại thệ đại nguyện với Đấng Thượng Đế. Chừng nào Thượng Đế cho phép (xin keo) thì Ngài mới dạy Đạo cho. Hễ tu thì phải có gan chịu khảo (!), “vô ma khảo bất thành Đại Đạo”. (!).

10. Những cuộc du lịch sau cùng của cuộc đời:

a) Du lịch núi Tà Lơn và Đế Thiên Đế Thích:

Tháng 4 năm Mậu-Thìn (1928), Ngài Ngô Minh Chiêu xin phép nghỉ làm việc 6 tháng. Ngài tổ chức một cuộc du lịch lên núi Tà Lơn và Đế Thiên Đế Thích ở nước Cao Miên. Số đệ tử đi theo Ngài khá đông, chừng 30 người, có các ông: Hội Đồng Huy, Tư Huỳnh, Phán Quí,... Trước khi đi, Ngài ghé Cần Thơ. Ngày khởi sự đi là 13-6-1928, hai ngày sau thì tới Hà Tiên, ghé chùa Tiên Sơn Tự ở Thạch Động để nghỉ ngơi.

Hôm sau Ngài đi qua núi Tà Lơn nước Cao Miên. Ngày 18-6-1928, Ngài tới chùa Kim Cang ở Đế Thiên Đế Thích. Đi du lịch Đế Thiên Đế Thích xong thì phái đoàn trở về Sài Gòn.

Khi hết hạn nghỉ 6 tháng, Ngài Ngô Minh Chiêu trở lại làm việc trong Dinh Thống Đốc Nam Kỳ như trước.

b) Đi du lịch Lục tỉnh:

Chuyến thứ nhứt, Ngài Ngô Minh Chiêu đi qua các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre.

Chuyến thứ nhì Ngài đi các tỉnh: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Chuyến đi nầy có Ông Bà Tư Huỳnh, Bà Hai Ngữ, Cô Ký Út, Ông Bà Hội Đồng Huy, đồng Ngưng.

c) Du lịch núi Tà Lơn lần thứ hai:

Cuối năm 1931, Ngài bị mệt nhiều nên xin phép Chánh phủ cho nghỉ ở nhà dưỡng bịnh.

Ngày 30-3-1932, Ngài đi núi Tà Lơn với ý định bỏ xác nơi đây, nên không muốn trở về. Các đệ tử đi theo hết sức khẩn khoản, Ngài mới chịu trở về.

Bận đi về, Ngài ghé Cần Thơ vào ngày 5-3-Nhâm Thân (dl 10-4-1932) và Ngài ở luôn tại Cần Thơ cho tới ngày liễu đạo. Tại Cần Thơ, Ngài không chịu ở nhà của ai hết, các đệ tử cất cho Ngài một thảo lư cách Châu Thành Cần Thơ chừng 3 cây số để cho Ngài ở. Ngài dạy phải làm bằng cây, lợp lá đơn sơ thôi, vì chỉ tạm dùng chừng một tuần nhựt. Trong lúc cất thảo lư, Ngài tạm ở tại cái am của Bà Tư Huỳnh kế bên.

11. Liễu đạo trên sông Cửu Long Tiền Giang:

Ngài Ngô Minh Chiêu thường nói rằng, Đức Chí Tôn đã định cho Ngài bỏ xác trên sông Cửu Long, nên mới có câu:

“Giờ nầy Thầy điểm thâm công,
“Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên.

Ngày 13-3 Nhâm-Thân (Dl 18-4-1932) sáng ra, Ngài nhắc chừng bà Tư Huỳnh lo giùm xe cộ để Ngài về Tân An và cứ nói hoài câu: Sợ trễ giờ. Bà Tư Huỳnh (tức là bà Trần thị Hường) rất kính mến Ngài nên cứ dần dà muốn lưu Ngài ở lại.

Thấy vậy, Ngài biểu mời ông Hội Đồng Võ Văn Thơm vô. Ngài nói với ông Thơm bằng tiếng Pháp để mấy Bà nghe lén không hiểu, chỉ thấy ông Thơm vâng dạ luôn. Đến khi ông Thơm về đem xe hơi vô thì các bà bàn tán xôn xao. Ngài nói: Đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa.

Lúc ấy cô năm Ngô Thị Nguyệt, con gái của Ngài Chiêu, hỏi Ngài:

- Cha muốn đi về Tân An phải không?

Ngài cười rồi bảo: - Cha đi bí mật.

Đúng giờ Ngọ ngày 13-3-Nhâm Thân, Ngài triệu tập tất cả đệ tử hiện diện công phu. Sau giờ công phu, anh đồng Ngưng cõng Ngài ra xe, đi theo có Bà Thơm, Bà Tư Huỳnh, Cô năm Nguyệt và anh đồng Ngưng. Ngài ngồi một mình ở giữa băng sau, Bà Tư Huỳnh và Bà Thơm ngồi sụt xuống dưới chân Ngài. Da mặt và mình mẩy của Ngài Chiêu từ từ đổi ra màu vàng như nghệ.

Xe chạy đến bến phà Cần Thơ. Qua phà, rồi chạy qua Vĩnh Long đến bến phà Mỹ Thuận. Bà Tư Huỳnh vào mua vé qua phà, xe xuống phà Mỹ Thuận xong, phà chạy ra gần đến giữa sông thì Ngài Ngô Minh Chiêu xuất thần thoát xác một cách êm ái, các đệ tử đi cùng xe hầu Ngài không ai hay cả. Tới chừng công nhân trên phà Mỹ Thuận nhìn vào xe thấy biết, tri hô lên thì mấy Bà mới hay, vội yêu cầu phà quay trở lại.

Thế là Ngài Ngô Minh Chiêu liễu đạo trên sông Cửu Long y như lời Đức Chí Tôn tiên tri, lúc 3 giờ chiều ngày 13-3 Nhâm Thân (dl 18-4-1932), hưởng được 55 tuổi

Xe hơi chở Ngài quay trở lại, vừa lên khỏi phà thì gặp xe của ông Tư Huỳnh và Hội Đồng Huy vừa đến. Tất cả đều quay trở lại thảo lư tại Cần Thơ, đem xác Ngài đặt ngồi tại thảo lư. Lúc bấy giờ da thịt của Ngài trở lại trắng và con mắt trái của Ngài bắt đầu mở to ra, có đủ tinh thần như khi còn sống, còn con mắt bên mặt thì nhắm lại như thường.

Các đệ tử mới nghiệm lại thấy rằng, Ngài Ngô Văn Chiêu biết rõ ngày giờ liễu đạo của Ngài, nên Ngài bảo cất Thảo lư tạm bằng cây lá dùng trong một tuần nhựt, rồi Ngài nói đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa.

12. Đám tang Ngài Ngô Minh Chiêu:

Nguyên lúc sanh tiền, Ngài Chiêu có dặn các đệ tử, khi Ngài liễu đạo rồi, phải dùng cái áo quan hình lục giác mà liệm ngồi. Lục giác là theo lục tự Cao Đài: NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG. Áo quan lục giác có bề kính tâm lối 8 tấc, cao lối 1 thước 2 tấc. Tất cả công việc khâm liệm đều do các đệ tử thân tín tự tay đảm nhiệm. Tháp của Ngài được xây ngay phía sau thảo lư và miếng đất nầy về sau trở thành Nghĩa Địa của phái Chiếu Minh tại Cần Thơ.

Có rất đông tín đồ Cao Đài đến viếng tang. Quan khách đời đến viếng tang khá đông. Báo chí ở Sài Gòn cũng có xuống chụp hình làm phóng sự đăng báo, thông tin đại chúng.

Đám tang của Ngài Ngô Minh Chiêu rất đơn giản, an tịnh, không có nhạc lễ, cũng không đọc kinh chi hết, vì Ngài đã dạy trước rằng: “Lúc sanh tiền, mỗi ngày đều có cầu cho Ngài rồi, Ngài đã biết Ngài là ai, khi chết Ngài sẽ đi đâu, nên khỏi đọc kinh cầu nguyện cho Ngài”

B- NGÀI NGÔ MINH CHIÊU GIÁNG CƠ:

Sau khi Ngài Ngô Minh Chiêu thoát xác về Tiên được 17 ngày, Ngài giáng cơ tại đàn Thất Bửu Sơn ở Châu Đốc, đêm 30-3-Nhâm Thân (dl 5-5-1932).

NGÔ kỳ huỳnh liễu đắc thành công,
VĂN thượng Thiên đình lý luật đồng.
CHIÊU dắt nhơn sanh cơn kiếp khổ,
GIÁNG tường cho rõ hiểu hồn vong.

Chào các hiền đệ. Hiểu ai chăng?

Nay tôi đã từ trần, trong lúc Đạo còn đang nghịch lẫn nhau là bởi nơi đâu? Các hiền đệ có hiểu chi chăng? Cũng bởi vì tiền tài nó hại nhơn sanh.

Thầy có ban cho tôi làm một vị Tiên đồng độ chúng. Nay tôi vâng lịnh Thầy giáng đàn mà dạy anh em lúc khổ nầy:

KỆ

Qui liễu cõi trần đặng thảnh thơi,
Gẫm trong sự thế ngán cho đời.
Kiếp nầy lao khổ sau chung hưởng,
Trời Đất hết lòng giáng khắp nơi.

Tôi kính lời thăm huynh Nguyện và Bần đạo Lắm đặng an vui nền Chánh Lý mà hiểu rõ Thiên cơ.

Tôi mới học được bài phú vắn, nên tôi để lại cho chư Hiền hữu rõ biết:

PHÚ

Trời xoay chuyển nên lương tâm người giục khiến,
Cho nhơn sanh thuyết diễn trần lao.
Chung trí Đạo Thầy mà giúp kẻ đồng bào,
Nay tôi đặng kết giao cùng Tiên, Thánh, Phật.
Sao chư hiền không lo bồi công âm chất,
Giúp cho Thầy, cất Thất cho Thầy,
Tôi qui liễu là bởi như vầy,
Hết kiếp trần oan dây theo ràng buộc.
Tôi tuổi nầy mà đi xem cõi hồng trần soi đuốc,
Dẫn nhơn sanh dắt tuốt Thiên đình,
Công mở Đạo là tại tỉnh Tây Ninh,
Người bởi quấy nên nhơn tình không đầu phục.
Thương Tổ đình nên theo một lúc,
Hại nhơn sanh cui cút tu hành.
Kính ít lời thăm Nguyện và Lắm,
Gắng chí Đạo cho thành,
Tôi dời bước lưu danh cho anh em hậu thế.

Tôi chào Hiền huynh, cho tôi kiếu.

THĂNG.

C- Phần kết:

Ngài Ngô Văn Chiêu là vị Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn, được Đức Ngài yêu ái nhứt. Đức Chí Tôn đã để ra một khoảng thời gian dài, suốt 5 năm, từ năm 1921 đến năm1925 để dạy Đạo cho Ngài, truyền Bí pháp luyện đạo cho Ngài. Ngài thường được Đức Chí Tôn khen là chăm chỉ công phu, rồi Đức Chí Tôn cho Ngài thấy cảnh Bồng Lai theo lời yêu cầu của Ngài để khích lệ việc tu hành.

Chưa có một Môn đệ nào được Đức Chí Tôn yêu mến đến mức độ ấy. Mục đích của Đức Chí-Tôn là rèn luyện Ngài trở nên người đạo đức hoàn toàn, đắc đạo thành Tiên, Phật tại thế, để giao chức Giáo-Tông cho Ngài làm Anh Cả nhơn sanh, thay mặt Đức Chí Tôn đứng ra mở đạo và dìu dắt nhơn sanh.

Công ơn của Đức Chí Tôn đối với Ngài Ngô Văn Chiêu thật vô cùng to tát.

Thế mà kỳ vọng của Đức Chí Tôn sụp đổ, vì Ngài không vượt qua được cơ thử thách của Quỉ vương, nên Đức Chí Tôn không thể giao chức Giáo-Tông cho Ngài

Có một điều đáng tiếc là Ngài Ngô Văn Chiêu không dám tiết lộ cho bạn Đạo biết là Ngài vượt qua không nỗi các cuộc thử thách khảo đảo của Quỉ vương, khiến nên nhiều người không biết, tưởng lầm là Ngài Ngô Văn Chiêu chống lại mạng lịnh của Đức Chí Tôn, không chịu nhận chức Giáo-Tông.Thậm chí đến nhiều phái cho rằng Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt soán ngôi Giáo-Tông của Ngài Chiêu và từ hiểu lầm này đến hiểu lầm khác và nhất là hoang mang trong giới hậu sinh.

Đức Chí Tôn đặt trọn vẹn sự tin tưởng nơi Ngài Ngô Văn Chiêu, nên không dự bị một vị nào khác để thay thế. Do đó, khi Ngài Chiêu bị rớt trong cuộc khảo đảo của Quỉ vương, thì Đức Chí Tôn phải chuyển pháp, giao chức Giáo-Tông cho Đức Lý Thái Bạch Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm. (Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ)

Việc mở chi phái Chiếu Minh là một lối thoát cho tinh thần của Ngài Ngô Văn Chiêu lúc đó, chắc chắn không phải là do ý muốn có dự định trước của Ngài, nhưng việc đó lại mở đường cho một số Chức sắc khác khi bất mãn Hội Thánh, tách ra lập Chi phái như quí ông: Phối Sư Ca, Giáo Hữu Chính...Có lẽ vì những lý do đó mà Ngọc Hư Cung rút Ngài Ngô Văn Chiêu về thiêng liêng khá sớm (Ngài Chiêu qui liễu năm 1932), khiến nên Ngài giáng cơ than rằng:

“Giáo lý của Ngài truyền lại cho phái Chiếu Minh còn dở dang thiếu sót, làm cho tín đồ phái Chiếu Minh đi vào con đường độc thiện kỳ thân”…

Tất cả những người theo Ngài phải tách rời khỏi Trường thi công quả phụng sự nhơn sanh do Đức Chí Tôn lập ra. Đạo Cao Đài không có một Giáo-Tông mang xác phàm, Đức Chí Tôn buộc lòng giao cho Đức Lý Thái Bạch kiêm nhiệm chức Giáo-Tông Đại Đạo. Do đó, sự điều hành việc Đạo của Đức Lý phải nhờ nơi Cơ bút của Hiệp Thiên Đài nên không được nhanh chóng và kịp thời. Thế nên, Đức Lý Giáo-Tông, trong Đạo Nghị Định thứ nhì ngày 3-10-Canh Ngọ (1930), ban cho Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) cầm quyền Giáo-Tông tại thế, để điều hành cơ Đạo hữu hình, còn nhiệm vụ Giáo-Tông Vô Vi vẫn do Đức Lý Giáo-Tông nắm giữ.

Do đó, toàn Đạo Cao Đài gọi Ngài Thượng Trung Nhựt là Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung.

Kể từ đó tới nay, Đạo Cao Đài chỉ có một Giáo-Tông là Đức Lý Thái Bạch và một Quyền Giáo-Tông tại thế là Ngài Lê Văn Trung. Tất cả những vị nào khác xưng danh là Giáo-Tông, hay Đệ nhứt Giáo-Tông, Đệ nhị Giáo-Tông... đều là tiếm xưng cả. Và chúng ta thấy rõ, Ngài Ngô Văn Chiêu khi về cõi thiêng liêng, trở lại giáng cơ, chỉ xưng tên họ của Ngài, chớ không bao giờ Ngài dám xưng là Giáo-Tông. (Tham khảo thêm tài liệu Tự điển Cao-Đài của Hiền tài Hồng)

03. Ngài Vương Quan Kỳ (1880-1940)

(Bỏ Đạo tách ra lập phái Cầu-kho)

Năm Mậu-Thìn (1928):

Do áp lực của thực dân Pháp “muốn theo Cao-Đài thì tự lập chi phái, còn theo anh Lê văn Trung sẽ bị Pháp khủng bố”. Nhóm đàn Cầu kho có quí ông Vương quan Kỳ, Đoàn văn Bản, Nguyễn văn Kinh, Nguyễn văn Đạt, Lê văn Giảng, Ngô tường Vân, Nguyễn văn Mùi... chủ trương dùng văn chương hoằng khai Đại Đạo, phổ độ. Họ thành lập Cơ quan ngôn luận “La Revue Caodaisme” xuất bản bán nguyệt san gồm ba thứ chữ: chữ Việt, chữ Hán và chữ Pháp, cứ nửa tháng ra một số phát hành ra nhiều nước trên thế giới như Trung Hoa, Anh, Pháp, Đức, Ý, Bĩ…quảng bá chơn truyền, luật pháp, giáo lý ra nước ngoài. Nhóm này lập thành phái Đạo Cầu kho.

Phái Cầu Kho do Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) đứng đầu, qui tụ được các ông: Giáo Sư Thượng Bản Thanh (Ðoàn Văn Bản), ông Nguyễn Văn Tường, Trần Quang Mính, Nguyễn Văn Khai... Phần lớn số trí thức Cao Ðài ở Sài Gòn đều ngã theo phái Cầu Kho.

Ông Vương Quan Kỳ là Ðốc phủ, được Ngài Ngô Văn Chiêu độ, sau được Ðức Chí Tôn phong phẩm Thượng Giáo Sư .

Nguyên năm 1930, số Chức sắc tại Thánh Thất Cầu Kho do ông Kỳ cầm đầu, không tuân lịnh Hội Thánh Tây Ninh thi hành quyển “Nghi Tiết Ðại Ðàn Tiểu Ðàn” do Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân biên soạn, trình lên Ðức Phạm Hộ-Pháp, rồi chuyển qua Cửu Trùng Ðài, Hội Thánh xem xét đồng ý thì Ðức Quyền Giáo-Tông ban hành kể từ ngày 12-7-1930 để áp dụng thống nhứt trong toàn Đạo.

Trong quyển nầy, Ngài Bảo Văn Pháp Quân bỏ ba bài Dâng Tam bửu cũ do Ngài Ngô Văn Chiêu đặt ra đã áp dụng trước đây, thay bằng ba bài Dâng Tam bửu mới mà ngày nay chúng ta thường đọc. Quí Chức sắc ở Cầu Kho không chịu áp dụng các nghi tiết mới ban hành, nên quí Ngài tự tách ra lập thành Chi phái Cầu Kho, lấy Thánh Thất Cầu Kho làm trụ sở. Về sau, Thánh Thất nầy dời đến đất mới gần đó, xây dựng lên đặt tên là Thánh Thất Nam Thành, ở đường Nguyễn Cư Trinh Sài Gòn

* Phần đời: Tri phủ Sở thuế thân:

Ông Vương Quan Kỳ (1880-1940) là con của ông bà Vương Quan Ðể và Huỳnh Thị Bảy, người tỉnh Chợ Lớn, cháu nội Thống Chế Vương Quan Hạc. Ông ngoại là nhà Nho yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), đậu cử nhân, làm quan hai triều Minh Mạng và Tự Đức, rồi từ quan khi nhà Nguyễn ký Hòa ước 1862 với Pháp.

Ông Kỳ học tại trường Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung (Diplôme), làm việc tại Dinh Thống Ðốc Nam Kỳ, ngạch Tri phủ, bạn cùng sở với Ngài Ngô Văn Chiêu nên được Ngài Chiêu độ theo Ðạo Cao Ðài.

Ông Kỳ là em ruột của Vương Quan Trân. Ông Trân là cha ruột của Cô Vương Thị Lễ Thất Nương Diêu Trì Cung (tức là chú của Vương Thị Lễ). Nhà riêng của ông Kỳ ở tại số 80 đường Lagrandière, sau đổi lại là đường Gia Long, Quận Nhứt, Sài Gòn.

* Phần Đạo: Giáo Sư của Tòa-Thánh Tây-Ninh:

Ông Vương Quan Kỳ là một trong 12 Môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn được Thiên phong Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh ngày 14-5-Bính Dần (1926).

Năm 1930, ông Vương Quan Kỳ cùng các Chức sắc nơi Thánh Thất Cầu Kho tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, lập ra Chi phái Cầu Kho, hành đạo riêng, không theo hệ thống Toà Thánh Tây ninh.

Bài thơ Đầu tiên Đức Chí-Tôn cho Ông Vương Quan-Kỳ như vầy:

Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề đạo dữ tân.
Vô lao công quả tu đương tác,
Niên quá niên hề Đạo tối tân.

Ông có Pháp-tịch, thuở nhỏ học ở Mỹ-Tho rồi trường Chasseloup Laubat, đậu Thành Chung, làm quan tới Phủ sứ, thọ phong Giáo-Sư ngày 26-4-1928.

Ngày 15-3 Bính-Dần ông được phong chức Tiên đắc Lang quân nhậm Thuyết đạo Giáo-sư. Rồi ông được Thiên-phong Giáo-sư phái Thượng, tức là Thượng-Kỳ Thanh ngày 14-5 Bính-Dần.

Nhưng đến ngày 14-11 Bính-Dần (18-12-1926) thì Đức Lý giáng dạy:

“Thượng-Kỳ-Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu. Như không tuân lịnh xuất ngoại”

Đến ngày 18-11 Bính-Dần (22-12-1926)

Đức Lý dạy:

“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu viết thơ cho mấy Thánh-Thất lục tỉnh nói Thượng-Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn-đệ chẳng quyền-hành truyền Đạo nữa. Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt Tả đạo bàng môn thì chịu, nghe à! Đã lập pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên-điều tránh sao cho khỏi tội. Hộ-Pháp Hiền-hữu khá an lòng.”

Qua ngày 28-11 Bính-Dần (1-1-1927) thì:

Đức Lý giáng dạy:

“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu từ đây coi Thượng Kỳ-Thanh như một Môn-Đệ vậy thôi, chứ chức Giáo-Hữu cũng cất luôn nữa. Thầy để lời xin tha mà pháp-luật đã phạm tha sao cho được”.

Vào năm 1930, Giáo-Sư Thượng Kỳ-Thanh tức là Vương-Quan-Kỳ, không tuân lịnh Toà Thánh Tây-Ninh áp dụng nghi lễ mới, nên tách ra lập phái Cầu-kho, lập tại Thánh-Thất Cầu-Kho.

Trong Con Ðường Thiêng Liêng Hằng Sống, Ðức Hộ-Pháp thuyết đạo đêm 8-9-Mậu Tý (dl 10-10-1948) nhắc lại khi Ðức Ngài xuất chơn thần về thiêng liêng có thấy ông Vương Quan Kỳ trên đó, Ðức Ngài thuật lại như:

“Bần đạo thấy người bạn nhờ ơn thiêng liêng của Chí Tôn riêng ban cho người ấy, người ấy có người chí thân là một Ðấng cầm quyền trọng hệ trên Hư linh tức là Thất Nương Diêu Trì Cung. Bần đạo nói rõ, người ấy là Vương Quan Kỳ, chú ruột của Thất Nương vậy. Người mở đạo mà chẳng biết đạo là gì hết, đi theo một tư tưởng của nền Chánh giáo của Ðức Chí Tôn định quyết, mà tư tưởng của người ấy và cả hành tàng nếu chúng ta thấy sẽ lên án là Tả đạo Bàng môn chắc hẳn vậy.

Lạ thay! Khi Bần đạo quay lại dòm thấy nhiều bạn rơi xuống Bích Hải khóc lóc, còn người đó trước bận Thiên phục Giáo Sư, nhưng bây giờ thì áo tốt vắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần, đi ngật ngờ ngật ngưỡng, cười một mình, không biết cười cái gì, đi ngang Bát Quái Ðài như không vậy.

Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu vi thấy trái hẳn nền chơn giáo của Ðức Chí Tôn mà trọn tâm tín ngưỡng Ngài, người thọ Thiên phục áo mão, dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay, đi ngang vô Bát Quái Ðài, không quyền luật nào ngăn cản được. Chúng ta lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê bình công kích." (Trích Con đường TLHS, trang 11)

04- Đầu-Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.

(Không hành Đạo bị Đức Lý cách chức)

Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong ba vị Đầu-Sư sau đây vào phẩm Đầu-Sư đầu tiên của Đạo Cao Đài có mang ba chữ: Nhựt, Nguyệt, Tinh là ba bửu của Trời, là:

- Đầu-Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.

- Đầu-Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau được thăng Quyền Giáo-Tông.

- Đầu-Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.

Ngài Thiện Minh là học trò của Hòa Thượng Như Nhãn, được Thiên phong Thái Đầu-Sư ngày 13-10-Bính Dần, nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927), Đức Lý Giáo-Tông cách chức Thái Đầu-Sư của Ngài Thiện Minh.

Cũng trong ngày nầy (12-12-Bính Dần), Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn Nương chức Thái Đầu-Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh.

Ba vị Đầu-Sư đầu tiên có mang chữ: NHỰT, NGUYỆT, TINH là ba báu của Trời, đó là một đặc ân của cơ quan Cửu Trùng Đài. Nhưng chắc cũng là trong vòng hữu định nên khiến như thế, vì mặt trời (NHỰT) cũng như mặt trăng (NGUYỆT) mỗi thứ chỉ có một, nên hai vị này giữ phẩm tước được bền bĩ, còn TINH tức là sao có đến 3.072 sao nên khiến cho vị mang chữ Tinh có đến hai người là Đầu-Sư: Thái Minh Tinh và Thái Nương Tinh.

Từ đó về sau thì tất cả Chức sắc Cửu Trùng Đài, dù ở phẩm Đầu-Sư đi nữa cũng lấy Thánh danh là chữ Thanh (cho nam phái), nữ lấy chữ Hương mà thôi.