§5 - PHÉP TRỪ QUỶ

"Những dấu hiệu này sẽ đi theo những người tin: nhân danh Thày họ sẽ trừ quỷ" (Mc 16,17). Quyền năng này, Chúa Giêsu ban cho tất cả những người tin vào Ngài, vẫn còn hiệu lực đầy đủ. Đó là quyền năng phổ quát, dựa trên lời cầu nguyện và lòng tin. Nó có thể được thực hiện bởi cá nhân hay cộng đồng. Nó luôn luôn sẵn ứng và không đòi hỏi một quyền bính đặc biệt nào. Tuy nhiên, chúng tôi phải nói rõ ra rằng trong trường hợp này chúng ta nói về những kinh nguyện giải thoát, chứ không nói về những câu trừ quỷ.

Để gia tăng thêm hiệu lực của quyền năng Đức Kitô ban và để bảo vệ tín hữu khỏi các người phù thủy và các tay lang băm, Giáo Hội lập ra một phép đặc biệt: phép trừ quỷ. Nó chỉ được thi hành bởi các giám mục, và bởi linh mục nào đã nhận được phép trực tiếp và đặc biệt để trừ quỷ (do đó, giáo dân không bao giờ được làm). Giáo luật (1172), nói về việc trừ quỷ, nhắc chở chúng ta rằng phép trừ quỷ này, khác với việc cầu nguyện riêng (1166), cũng được phú ban cho với năng quyền cầu xin của Giáo Hội. Giáo luật 1167 giải thích cách thức phải làm phép như thế nào và phải dùng những nghi lễ và công thức nào đã được Giáo Hội chuẩn nhận.

Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, chúng tôi rút ra kết luận rõ ràng rằng chỉ duy vị linh mục được ủy quyền, bên cạnh chính vị giám mục-trừ quỷ (tôi ước mong đã có một số!), có thể được mang danh hiệu nhà trừ quỷ. Ngày nay danh hiệu này bị lạm dụng. Nhiều người cả linh mục lẫn giáo dân, đòi được là nhà trừ quỷ trong khi họ không được phép. Và nhiều người đòi thi hành việc trừ quỷ, trong khi - đỡ nhất - họ chỉ đọc những lời kinh giải thoát và - tệ nhất - họ thực hành ma thuật. Chỉ có "phép " được thiết lập do Giáo Hội mới có thể được gọi là phép trừ quỷ ". Bất cứ việc sử dụng danh hiệu nào khác đều là lầm lạc và dối trá. Theo sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, chỉ có hai loại trừ quỷ: phép rửa tội, chỉ là hình thức "trừ quỷ đơn", và phép được dành riêng cho nhà trừ quỷ, phép này được gọi là "trừ quỷ trọng thể" (1673). Thật là sai lầm nếu gọi việc trừ quỷ là những hình thức cầu nguyện can thiệp riêng hoặc thông thường. Những việc cầu nguyện này thực ra chỉ là những lời kinh giải thoát.

Nhà trừ quỷ phải theo những kinh trong sách Nghi thức. Có một điều khác nhau chủ yếu giữa phép trừ quỷ và tất cả các phép khác, đó là phép trừ quỷ có thể kéo dài vài phút hoặc nhiều giờ. Do đó, không cần thiết phải đọc thành tiếng tất cả mọi kinh trong sách Nghi thức, hoặc có thể cần thêm nhiều kinh khác, như được đề nghị bởi nghi thức như thế.

Phép trừ quỷ có hai mục tiêu: một mục tiêu được nói đến trong tất cả các sách về chủ đề là giải thoát những người bị quỷ ám. Tuy nhiên, điểm khởi đầu và mục tiêu thứ nhất, là chẩn đoán, thì rất thường hay bị bỏ qua. Thực ra, trước khi bắt đầu, nhà trừ quỷ tra hỏi chính cá nhân ấy hoặc thân nhân để biết chắc xem có cần đến phép trừ quỷ không. Nhưng thực sự là chỉ qua chính phép trừ quỷ mới có thể xác định được cách chắc chắn có ảnh hưởng của ma quỷ hay không. Mỗi hiện tượng mà chúng ta gặp, dù lạ lùng hoặc khó giải thích không thành vấn đề, đều có thể có cách giải thích theo tự nhiên. Ngay cả khi chúng ta phải đối mặt với nhiều hiện tượng tâm thần hoặc siêu tâm lý, chúng ta có thể không có đủ dữ liệu để chẩn đoán. Chỉ nhờ phép trừ quỷ thực tế chúng ta mới có thể biết chắc chúng ta đang đụng đến ảnh hưởng của ma quỷ hay không.

Ở điểm này chúng ta phải bước vào một chủ đề mà không may lại không có trong sách Nghi thức và chúng được những người đã viết về đề tài này biết tới.

Tôi đã nói rằng mục tiêu thứ nhất và trước hết của phép trừ quỷ là chẩn đoán. Tức là, chúng ta phải nắm chắc những triệu chứng là do ma quỷ gây ra hay là bởi những nguyên nhân tự nhiên. Theo thứ tự thời gian, đây là đối tượng đầu tiên chúng ta phải tìm và đạt đến. Tuy nhiên, theo tầm quan trọng, thì đặc biệt phần cuối phép trừ quỷ mới là lúc giải thoát khỏi sự hiện diện xấu xa và khỏi nỗi đau đớn. Điều hết sức quan trọng phải nhớ là thứ tự các sự kiện này (trước tiên là chẩn đoán, rồi đến chữa trị), người trừ quỷ phải dùng để lượng định các dấu hiệu cho đúng. Cũng rất quan trọng việc nhận biết các dấu hiệu xảy ra trước lúc trừ quỷ, đang khi trừ quỷ và sau khi trừ quỷ và sự phát triển của các dấu hiệu trong suốt quá trình trừ quỷ.

Chúng tôi tin rằng, một cách gián tiếp, sách Nghi thức nhắm tới sự lần lượt các sự kiện, vì nó đặt ra một qui tắc (số 3) cảnh báo nhà trừ quỷ không được quá vội vàng phát hiện sự hiện diện của ma quỷ. Rồi sách Nghi thức đặt ra những qui tắc cảnh giác các nhà trừ quỷ để đối phó với những thủ đoạn mà Satan dùng để che dấu sự hiện diện của nó. Chúng tôi, những nhà trừ quỷ tin rằng thật là đúng việc cảnh giác để không bị trở nên trò hề bởi những kẻ mắc bệnh tâm thần hoặc không dính dáng gì đến những ảnh hưởng của ma quỷ, do đó không cần đến chúng tôi. Tuy nhiên, cũng có những nguy hiểm ngược lại - và ngày nay càng nhiều hơn và do đó càng đáng sợ hơn - nguy hiểm vì không nhận ra sự hiện diện của ma quỷ và từ chối trừ quỷ khi được yêu cầu. Một cuộc trừ quỷ khi không cần thiết thì cũng chẳng bao giờ làm hại ai, tất cả những nhà trừ quỷ mà tôi đã hỏi đều đồng ý với tôi. Khi trừ quỷ lần đầu và trong những tình huống đáng ngờ, tất cả chúng tôi dùng những phép trừ quỷ ngắn được đọc thầm nên có thể bị hiểu lầm là những phép đơn; chúng tôi không bao giờ hối tiếc khi làm điều đó. Mặt khác, chúng tôi có lý để phàn nàn mình thiếu khả năng nhận biết sự hiện diện của ma quỷ trong những trường hợp hiếm hoi khi chúng tôi từ chối trừ quỷ và không nhận biết một hoạt động dai dẳng của ma quỷ mà về sau mới phát hiện được.

Cần nêu bật tầm quan trọng của việc nhận ra những dấu hiệu; dù cho những dấu hiệu ít ỏi và không chắc chắn thì cũng đủ để tiến hành việc trừ quỷ. Nếu, trong suốt thời kỳ trừ quỷ, chúng tôi phát hiện thêm những dấu hiệu, chúng tôi sẽ tiếp tục kéo dài như sự cần thiết, cho dù lần trừ quỷ đầu tiên đã thực hành tương đối nhanh. Có thể là, trong khi chúng tôi không thấy những dấu hiệu trong suốt kỳ trừ quỷ, thì về sau bệnh nhân vẫn cảm nghiệm thấy những lợi ích đáng kể từ buổi trừ quỷ đó. Về điểm này chúng tôi nhắc lại việc trừ quỷ; nếu những lợi ích tiếp tục, sớm muộn gì những dấu hiệu cũng sẽ xuất hiện trong thời gian trừ quỷ. Tôi tiếp tục nhấn mạnh rằng việc quan sát sự phát triển những dấu hiệu này dễ dàng nhất là khi đang tiến hành việc trừ quỷ. Khi những dấu hiệu bắt đầu giảm dần, thì thường là việc chữa lành cũng đã bắt đầu. Khi những dấu hiệu gia tăng theo một kiểu không thể nói trước, thì thường thường nó báo hiệu một sự hiện diện dấu ẩn của ma quỷ sắp được phơi bày. Chỉ khi nào mọi sự được phơi bày thì việc chữa lành mới bắt đầu.

Từ điều chúng tôi đã nói, chúng ta có thể hiểu: thật là ngây thơ, nếu cứ chờ cho đến khi chắc chán là quỷ nhập mới thực hiện việc trừ quỷ. Chờ đợi như thế là hoàn toàn thiếu kinh nghiệm đối với việc trừ quỷ, có một số loại dấu hiệu thường lộ diện đang khi, sau khi trừ quỷ, hoặc như một kết quả của nhiều cuộc trừ quỷ. Tôi đã chạm trán với một số trường hợp đòi hỏi nhiều năm trừ quỷ trước khi căn bệnh biểu lộ hết những trầm trọng của nó. Thật vô ích việc cố gắng định ra một chuẩn mẫu về hành vi của những người bị ảnh hưởng của ma quỷ. Những nhà trừ quỷ càng từng trải càng có nhiều khả năng để nhận ra một cách chắc chắn những hình thức biểu hiện có ma quỷ. Chẳng hạn, ba dấu hiệu mà sách nghi thức kể ra như những triệu chứng quỷ nhập, đó là nói tiếng lạ, biểu lộ sức mạnh siêu phàm, và biết những điều bí ẩn, đó chính là kinh nghiệm của tôi và của tất cả những nhà trừ quỷ mà tôi đã hỏi, ba dấu hiệu đó luôn luôn xuất hiện trong thời gian trừ quỷ, không bao giờ xuất hiện trước. Thật không thực tế nếu chờ đợi những dấu hiệu đó xuất hiện trước khi tiến hành trừ quỷ.

Tuy nhiên, chúng tôi không thể luôn luôn đạt được một sự chẩn đoán chính xác. Thường thường chúng tôi phải đối diện với những tình huống làm chúng tôi lúng túng. Đó là vì thường thường, trong những trường hợp khó khăn nhất, chúng tôi phải đối diện với những người bị khổ sở vừa do ảnh hưởng ma quỷ vừa do những xáo trộn tâm lý. Trong những trường hợp này, một nhà điều trị tâm lý có thể giúp hữu hiệu. Cha Candido nhiều lần đã gọi cho giáo sư Mariani, người đứng đầu một bệnh viện tâm thần danh tiếng ở Roma, để giúp ngài trong việc trừ quỷ. Và nhiều lần giáo sư Mariani đã mời cha Candido tới giúp ông chẩn đoán và cuối cùng chữa một số bệnh nhân của ông.

Tôi phải cười khi một số "chuyên gia" thần học tân thời nói rằng một vài loại bệnh tâm thần có thể lẫn lộn với hiện tượng quỷ nhập. Một số thầy thuốc tâm thần hoặc những nhà siêu tâm lý cũng có những phát biểu như thế. Nếu họ có thể hiểu biết nhiều hơn, thì họ nên biết rằng những chuyên gia đầu tiên cảnh giác việc chẩn đoán sai lầm chính là những vị có thẩm quyền trong Giáo Hội. Từ năm 1583, trong những sắc luật của hội nghị thành Reims, Giáo Hội đã cảnh báo về nguy cơ lầm lẫn giữa bệnh tâm thần và quỷ ám. Nhưng thời đó khoa tâm thần còn chưa sinh ra, và các thần học gia đã tin vào Phúc Âm.

Phép trừ quỷ, cùng với việc chẩn đoán, nhằm chữa lành bệnh nhân bằng cách giải thoát họ khỏi ảnh hưởng ma quỷ; một hành trình dài và thường là khó khăn bắt đầu từ đây. Việc cộng tác từ phía người bị ám, vốn là cần thiết, thì thường bị ngãng trở: đáng lẽ họ nên cầu nguyện, thì thường lại không. Họ nên năng lãnh nhận các bí tích, mà họ lại không thể. Thỉnh thoảng, ngay cả khi đến với nhà trừ quỷ để lãnh nhận các phép thì xem ra giống như một bổn phận rất khó khăn. Họ cần được giúp đỡ từ phía người khác, mà hầu hết các trường hợp, không ai hiểu họ.

Để trừ quỷ ra khỏi một người phải mất bao nhiêu thời gian? Đây là một câu hỏi không có câu trả lời. Người giải thoát là Thiên Chúa. Ngài hành động với sự tự do thần linh, cho dù Ngài rất lắng nghe những lời cầu nguyện, đặc biệt nếu được dâng lên với sự cầu bầu của Giáo Hội. Nói chung, chúng ta có thể nói rang yếu tố thời gian tỉ lệ với sức mạnh ban đầu của sự quỷ ám và chiều dài thời gian trước khi tìm đến sự trừ quỷ. Tôi kể lại chuyện một cô gái mười bốn tuổi, đã bị quỷ ám chỉ mới vài ngày. Cô ta coi bộ rất hung dữ; cô đấm, đá và cào cấu. Chỉ cần mười lăm phút trừ quỷ là cô được giải thoát hoàn toàn. Có lúc cô ta gục xuống đất như chết - giống hệt như chàng thanh niên trong Phúc Âm mà các tông đồ không trừ được. Sau vài phút cô ta phục hồi lại cảm giác và bắt đầu chạy vui đùa với đứa em trai.

Tuy nhiên, những lần chữa lành nhanh như thế là rất hiếm hoặc chỉ xảy ra khi ảnh hưởng ma quỷ còn nhẹ. Phần lớn thời gian nhà trừ quỷ phải giải quyết những trường hợp gay go, vì không ai nghĩ đến nhà trừ quỷ nữa. Tôi sẽ cho một thí dụ tiêu biểu. Một đứa trẻ biểu lộ cách hành xử kỳ cục. Cha mẹ nó không tìm ra nguyên nhân; họ nghĩ rằng khi lớn lên triệu chứng đó sẽ hết, đặc biệt khi đó, khi bắt đầu, các triệu chứng còn nhẹ. Khi hiện tượng trở nên tồi tệ, cha mẹ nó bắt đầu tìm thầy chạy thuốc; hết thầy nọ thuốc kia nhưng không có kết quả. Một lần có một cô gái mười bảy tuổi đã đến với tôi. Sau khi đến với các bệnh viện danh tiếng ở Âu châu, cô ta được các bạn bè thân quen cho rằng cô ta bị một số ảnh hưởng không tự nhiên và đề nghị cô đến với thày bùa. Lúc này tổn thất ban đầu đã tăng lên nhiều. Do một cơ may, nghe theo lời khuyên của người biết chuyện (hầu như không bao giờ là các linh mục), cô ta đã đến xin tôi giúp đỡ. Quá trình xảy ra trên một thời kỳ nhiều năm, và ảnh hưởng ma quỷ đã ăn rễ sâu. Kinh trữ quỷ đầu tiên nói về "việc trừ tiệt và đuổi hẳn" ma quỷ, và cũng hợp lý. Tình trạng giống như người này đòi hỏi nhiều thời kỳ, thường sau nhiều năm: và sự giải thoát không luôn luôn có thể.

Tôi nhắc lại: yếu tố thời gian thuộc về Thiên Chúa. Đức tin của nhà trừ quỷ và đức tin của người được trừ rất hữu ích, cũng như những lời cầu nguyện của nạn nhân, của gia đình của họ, và của các tín hữu khác (như những nữ tu, cộng đồng giáo xứ, các nhóm cầu nguyện, và đặc biệt những nhóm này tập trung vào những lời kinh giải thoát). Các á bí tích thích hợp, như nước trừ quỷ, ít nhất là nước thánh, dầu trừ quỷ và muối trừ quỷ, khi được dùng liên kết với mục tiêu được chỉ định bởi lời kinh giải thoát, thì hết sức lợi ích. Bất cứ linh mục nào cũng có thể làm phép nước, dầu, và muối, để trừ quỷ và không đòi hỏi một nhà trừ quỷ. Tuy nhiên, cần thiết là vị linh mục tin và quen với những việc làm phép này trong sách nghi thức. Những linh mục biết về các phép này thì rất hiếm; phần nhiều không biết có các phép ấy và hay cười nhạo bất cứ ai đến yêu cầu làm các phép ấy. Tôi sẽ trở lại chủ đề này sau.

Điều quan trọng cơ bản là năng lãnh nhận các bí tích và sống một đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng. Có nhiều tài liệu chứng minh sức mạnh của kinh Mân côi và lòng sùng kính Đức Maria. Thứ đến là sự cầu bầu của các thiên thần và các thánh. Việc hành hương đến những đền thánh cũng rất hữu ích. Các đền thánh thường được xây trên những vị trí đặc biệt được Thiên Chúa chọn như là những nơi để việc trừ quỷ có thể được hoàn tất. Thiên Chúa đã ban xuống trên chúng ta vô số những phương pháp ban ân sủng; chúng ta có nhiệm vụ phải lợi dụng cho nên. Khi Phúc Âm tường thuật chuyện Đức Kitô bị Satan cám dỗ, Phúc Âm tỏ rõ cho chúng ta thấy Ngài đã dùng chính những câu Kinh Thánh để khiển trách tên cám dỗ. Lời Thiên Chúa rất hiệu nghiệm; những lời cầu nguyện - cả tự phát và đặc biệt lấy trong Kinh Thánh, như các Thánh vịnh hoặc Thánh ca tôn vinh Thiên Chúa - cũng hết sức lợi ích.

Dù với tất cả những ân sủng này, để việc trừ quỷ được hiệu nghiệm, đòi người trừ quỷ phải rất khiêm nhường, vì họ có thể cảm nghiệm trực tiếp họ không là gì, và Đấng hành động chính là Thiên Chúa. Cả nhà trừ quỷ lẫn người được trừ phải trải qua những giai đoạn thất điên bát đảo; kết quả hiển nhiên thường đạt được một cách chậm chập và khó khăn. Mặt khác, nhà trừ quỷ cũng có thể cảm nghiệm trực tiếp những kết quả thiêng liêng lớn lao. Những kết quả này giúp chúng ta phần nào hiểu được lý do tại sao Chúa để cho xảy ra những thử thách ghê gớm này. Chúng ta tiến vào đêm tối đức tin, mà vẫn hiểu biết mình đang tiến đến ánh sáng.

Tôi muốn thêm một số suy tư về tầm quan trọng chở che của các ảnh tượng thánh, cả đeo trong người lẫn đạt ở những nơi như trước cửa nhà, trong phòng ngủ, phòng ăn, hoặc căn phòng được gia đình xử dụng nhiều nhất. Ảnh tượng không phải là bắt chước phong tục ngoại đạo về một thứ "bùa cầu may" nhưng là theo quan niệm Kitô giáo để noi gương và tìm kiếm sự che chở của những vị mà ảnh tượng đó là đại diện. Ngày nay tôi thường thấy nhiều nhà có treo chiếc sừng đỏ ngay trước cửa, và khi tôi đi từ phòng này sang phòng khác để làm phép, tôi thấy rất ít những ảnh thánh. Đó là một sai lầm lớn.

Tôi nhớ gương của thánh Bernadinô thành Siena, người đã muốn thuyết phục các gia đình đạt trước cửa nhà họ một huy hiệu lớn với những chữ đầu của tên Chúa Giêsu (JHS tức là: Jesus Hominium Salvator, Chúa Giêsu, Đấng cứu độ loài người), như một vật kỷ niệm về sứ mạng rất phổ biến của ngài.

Chính tôi cũng đã cảm nghiệm nhiều lần sự hiệu năng của các mẫu ảnh được đeo với đức tin. Có nhiều phép lạ không kể xiết nhờ mẫu ảnh Miraculous, được phát cho hàng triệu người trên khắp thế giới, sau những lần Đức Trinh Nữ hiện ra với thánh Catarina Labouré (Paris năm 1830). Có nhiều sách bàn về chủ đề này.

Một trong những thí dụ nổi tiếng nhất về quỷ ám mà nhiều sách đã tường thuật, nhờ có tính chính xác của những tài liệu lịch sử, liên quan đến hai anh em Burners, ở Illfur, Alsatia. Hai anh em này đã được giải thoát vào năm 1869, sau hàng loạt các cuộc trừ quỷ. Người ta cho biết trong số những hành động cực kỳ độc ác của ma quỷ là kế hoạch lật nhào chiếc xe ngựa chở nhà trừ quỷ, một giám mục và một nữ tu. Nhưng ý định của ma quỷ đã thất bại chỉ vì anh đánh xe ngựa, vào phút chót đã được ảnh thánh Bênêdictô mà anh ta luôn luôn mang trong túi, che chở cho anh trong suốt cuộc hành trình.

Sau cùng tôi nhớ đến bốn đoạn trong sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nói về việc trừ quỷ. Nếu chúng ta lần lượt đọc, chúng ta sẽ tìm thấy có một tiến trình rất hợp lý, đó là:

Đoạn 517 nói về Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc và những việc chữa lành và trừ quỷ của Ngài. Đây là khởi điểm các hoạt động của Đức Kitô.

Đoạn 550 nói rằng "Nước Thiên Chúa đến có nghĩa là đánh bại nước của Satan"; đây là những lời của Đức Kitô được trích dẫn: "Nếu nhờ thần khí Thiên Chúa mà tôi trừ quỷ, thì nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi" (Mt l2,28). Đây là mục tiêu sau cùng của việc trừ quỷ: với sự giải thoát những người bị quỷ ám, chúng ta chứng minh chiến thắng hoàn toàn của Đức Kitô trên thủ lãnh thế gian.

Hai đoạn tiếp theo nói cho chúng ta về tiến trình kép của việc trừ quỷ: một như là thành phần của phép rửa, và một nữa như là năng lực giải thoát cho những người bị ám.

Đoạn 1237 nhắc chúng ta nhớ rằng phép rửa là sự giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi và khỏi sự làm nô lệ Satan. Do đó, có một hoặc nhiều hơn nữa những câu trừ quỷ được đọc trên người chịu phép rửa là người dứt khoát từ bỏ Satan.

Đoạn 1673 khẳng định rang Giáo Hội, nhờ việc trừ quỷ, chính thức và công khai nhân danh Chúa Giêsu Khô xin cho người hoặc đồ vật phải được che chở khỏi mọi ảnh hưởng của ma quỷ và không để nó thống trị. Việc trừ quỷ nhằm đến việc trừ khử ma quỷ hoặc giải thoát khỏi những ảnh hưởng của nó.

Tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của đoạn sau này, là đoạn bù vào hai chỗ thiếu sót trong sách nghi thức và trong bộ giáo luật. Thực ra, nó nói về sự giải thoát không chỉ con người, nhưng còn cả đồ vật nữa (đây là thuật ngữ chung có thể bao hàm nhà cửa, con vật, đồ vật, theo truyền thống). Giáo luật làm cho việc trừ quỷ trừ được cả những ảnh hưởng của ma quỷ chứ không chỉ duy có việc trừ quỷ ám.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth



§6 - NHỮNG MỤC TIÊU CỦA THẦN DỮ

Tôi thường tự hỏi không biết có nhiều người bị quỷ dữ hành hạ hay không. Để trả lời, tôi xin lấy ý kiến của một nhà trừ quỷ danh tiếng người Pháp, Cha Tonquedec, Dòng Tên: "Có rất đông đảo các linh hồn bất hạnh, trong khi không có dấu hiệu bị quỷ ám mà vẫn chạy đến với nhà trừ quỷ để được giải thoát khỏi những đau khổ, như những bệnh nan trị, những tai họa, đủ thứ rủi ro. Những người này chỉ có số ít bị ma quỷ ám, nhưng những linh hồn bất hạnh thì rất nhiều."

Điều nhận xét này vẫn còn hiệu lực khi chúng ta xét sự khác nhau lớn lao giữa những người thực sự bị hành hạ và những người chỉ muốn có được ý kiến khôn ngoan của nhà trừ quỷ liên quan đến hàng loạt những nỗi thống khổ của họ. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta cũng phải tính đến nhiều nhân tố mà thời của cha Tonquedec chưa có. Tôi đã trực tiếp kinh nghiệm những nhân tố này, và căn cứ trên những kinh nghiệm này tôi có thể nói rang con số những người chịu ảnh hưởng của ma quỷ càng ngày càng gia tăng nhiều.

Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến sự gia tăng ảnh hưởng xấu là chủ nghĩa tiêu thụ phương Tây. Phần đông người ta mất đức tin là do lối sống hưởng lạc và duy vật. Tôi tin rằng phần lớn trách nhiệm được gán cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đặc biệt tại Ý, nơi học thuyết Mác-xít chi phối các phương tiện truyền thông và văn hóa trong vài năm qua. Người ta ước lượng chỉ còn 12 phần trăm dân chúng ở Roma tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật; điều rất rõ ràng là nơi đâu tôn giáo thoái trào, thì mê tín dị đoan phát triển. Chúng ta cũng nhìn thấy sự phát sinh nhanh chóng, đặc biệt nơi giới trẻ, về thông linh, ma thuật và huyền bí. Chúng ta có thể thêm vào đó việc theo đuổi môn Yoga, Thiền, chiêm niệm huyền ảo (transcendental meditation): tất cả những cái này thực hành đều dựa trên thuyết đầu thai, trên sự tan biến ngôi vị con người vào thần tính, hoặc trong bất cứ tình huống nào, dựa trên những học thuyết khác mà Kitô giáo không thể chấp nhận được. Chúng ta không cần phải đi đến Ấn độ để tìm những thày Guru; chúng ta có thể thấy họ nhan nhản trước mặt. Thường thường những việc bề ngoài có vẻ vô tội vạ ấy sẽ đưa đến những tình trạng bệnh ảo giác và tâm thần phân liệt. Tôi có thể thêm vào đó sự tăng nhanh theo cấp số nhân nhiều giáo phái, nhiều trong số đó mang dấu vết rõ ràng của ma quỷ.

Ma thuật và thuyết thông linh được dạy trên TV. Các sách về huyền bí được bày bán tại các sạp báo và qua bưu điện. Rồi chúng ta có thể thêm các bộ sưu tầm báo chí các loại và các buổi trình chiếu ghê rợn nơi mà điệu nhảy ma quỷ được thêm vào với sex và bạo lực. Và chúng ta cũng không thể không nhắc đến các loại âm nhạc đầy ám ảnh nhưng phát triển rất phổ biến; tôi có ý ám chỉ đặc biệt đến loại nhạc Rock quỉ quái. PieRomantero đã khai triển về chủ đề này trong sách của ngài nhan đề Satana e lo stratagemma della coda (Udine: Segno, 1988). Khi tôi được mời nói chuyện ở một số trường trung học, tôi đã có thể đích thân chứng minh ảnh hưởng của các công cụ này của Satan trên giới trẻ lớn lao chừng nào. Thật không thể tin nổi ma thuật và thuyết thông linh, dưới mọi hình thức, đã lan rộng nơi các trường học biết chừng nào. Sự dữ này có mặt khắp nơi, ngay cả trong những thị trấn nhỏ.

Tôi cũng phải nói thẳng ra rằng quá nhiều những nhân viên Giáo Hội hoàn toàn không quan tâm đến vấn đề này, và vì vậy họ không lo bảo vệ các tín hữu. Tôi tin rằng việc bỏ hầu hết các kinh trừ quỷ ra khỏi nghi thức rửa tội là một sai lầm trầm trọng (và dường như Đức Thánh Cha Phao lô VI cũng nghĩ như tôi). Tôi tin rang thật là một sai lầm vì đã loại bỏ kinh cầu cùng Đức Tổng Thần Micae sau mỗi Thánh Lễ mà không có sự thay thế thích hợp. Tôi xác tín rằng việc để cho thừa tác vụ trừ quỷ chết đi là một khuyết điểm không thể tha thứ thuộc về các giám mục. Mỗi giáo phận nên có ít nhất một nhà trừ quỷ tại nhà thờ chính tòa, và mỗi giáo xứ lớn và đền thánh cũng nên có một vị như thế. Ngày nay nhà trừ quỷ xem ra rất hiếm hoi, hầu như không thể tìm thấy. Mặt khác, hoạt động của nhà trừ quỷ có một giá trị không thể thiếu, cũng như giá trị của nhà giảng thuyết, giải tội, và những người ban các bí tích khác.

Hàng giáo phẩm Công Giáo phải đấm ngực ăn năn. Tôi có quen riêng với nhiều giám mục Ý; tôi biết chỉ có vài vị là đã từng thực hành hoặc tham dự vào việc trừ quỷ hoặc hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. Tôi không ngần ngại lặp đi lặp lại điều mà tôi đã viết ở một chỗ khác: nếu một giám mục, trước một yêu cầu trừ quỷ hợp lý - tôi không nói đến đòi hỏi của một số người điên cuồng - mà không giải quyết vấn đề đích thân hoặc cử một linh mục có phẩm chất, thì ngài đã phạm vào một tội quên sót hết sức nghiêm trọng. Như kết quả của sự sao lãng này, bây giờ chúng ta đã đánh mất cái mà trước kia đã là một môn học; trong quá khứ, một nhà trừ quỷ thực tiễn sẽ đào tạo một người tập sự. Tôi sẽ trở lại đề tài này.

Chính nhờ phim ảnh mà chúng ta tìm thấy một sự tái quan tâm về việc trừ quỷ. Đài phát thanh Vatican, vào ngày 2.2.1975 phỏng vấn William Freidkin, đạo diễn cuốn phim Người Trừ Quỷ, và "vị cố vấn chuyên môn" của ông. một thần học gia, cha Thomas Bemingan, dòng Tên. Nhà đạo diễn phát biểu rằng ông ta muốn nói về những sự kiện của một giai đoạn đã xảy ra thực sự vào năm 1949 và đã được viết thành sách, bộ phim không rút ra bất cứ kết luận nào liên quan đến quỷ ám. Theo nhà đạo diễn, đây là vấn đề dành cho các nhà thần học. Khi vị linh mục dòng Tên được hỏi bộ phim Người Trừ quỷ chỉ là một trong nhiều phim kinh dị hay là một cái gì đó hoàn toàn khác hẳn, ngài mạnh mẽ xác nhận rằng nó là một loại hoàn toàn khác. Ngài đã kể ra ảnh hưởng lớn lao mà bộ phim đã gây cho khán giả trên toàn thế giới như một bằng chứng rằng - trừ ra một số những hiệu quả đặc biệt - bộ phim đã giải quyết rất đúng vấn đề ma quỷ, đánh thức lại mối quan tâm về việc trừ quỷ đã bị quên lãng.

Chúng ta có thể làm mồi cho những hoạt động ngoại thường của Satan như thế nào? Tôi có ý nói đến những hoạt động khác hơn những hoạt động thông thường, như cám dỗ, vốn xảy đến cho mọi người. Chúng ta có thể trở nên như thế do lỗi của chúng ta hoặc do hoàn toàn không biết. Chúng ta có thể gom các lý do lại thành bốn loại: 1. với sự cho phép của Thiên Chúa, 2. như những nạn nhân vô tội của một thứ bùa ngải, 3. do tình trạng tội trọng và đã ra chai đá, 4. do liên đới với những người hoặc nơi chốn xấu.

1. Với sự cho phép của Thiên Chúa. Tôi muốn nói rõ ra rằng không có gì xảy ra mà không có phép của Thiên Chúa. Nhưng cũng rõ ràng là Chúa không muốn sự dữ cho bất cứ ai, nhưng Ngài cho phép xảy ra khi đó là ý muốn của chúng ta (vì Ngài đã tạo dựng nên chúng ta với ý chí tự do hoàn toàn), và Ngài có thể sử dụng mọi sự kể cả sự dữ để mưu ích cho ta. Nét đặc trưng của loại thứ nhất trong các hoạt động ngoại thường của Satan là hoàn toàn không do tội lỗi của con người; nó hoàn toàn do sự can thiệp của quỷ. Thiên Chúa luôn luôn cho phép các hoạt động bình thường của Satan - cám dỗ - và ban cho chúng ta tất cả những ân sủng cần thiết để chống trả, để đưa tới kết quả tốt là tăng cường đời sống thiêng liêng của chúng ta. Tương tự như thế, Thiên Chúa đôi khi cũng cho phép những hoạt động ngoại thường của Satan - quỷ nhập, những ảnh hưởng xấu - để gia tăng thêm sự khiêm nhường, nhẫn nại và hành xác. Chúng tôi đã cho một vài thí dụ về loại này: một hành động bên ngoài của ma quỷ gây ra những đau đớn thể lý (như những trận đòn vọt mà cha sở họ Ars và Padre Pio đã phải chịu) hoặc khi cái gọi là quỷ hành được cho phép, như chúng tôi đã đề cập liên quan đến ông Job và thánh Phaolô.

Đời sống của các thánh bao gồm những mẫu gương về những nỗi đớn đau này. Trong số các thánh thời hiện đại, tôi có thể kể ra hai vị đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh: Cha Giovanni Calabria và Dì Mary of Jesus Crucified (người Ả rập đầu tiên được phong thánh). Cả hai trường hợp, và không do lỗi nhân loại, họ đều có những thời kỳ bị quỷ nhập thực sự. Trong suốt những thời kỳ này, hai vị đã nói và làm những điều hoàn toàn không thích hợp với sự thánh thiện của họ mà không mắc chút lỗi nào, bởi vì chính ma quỷ hành động qua thể xác của họ.

2. Khi chúng ta bị bỏ bùa. Đây là một trường hợp khác trong đó nạn nhân hoàn toàn không đáng trách. Tuy nhiên, ở đây có một số hoạt động nhân loại, nhưng được thực hiện do những người bỏ bùa hoặc thuê mướn thày bùa. Tôi sẽ dành hơn một chương về chủ đề này. Ở đây tôi sẽ chỉ nói rằng bỏ bùa là gây đau khổ cho những người khác thông qua sự can thiệp của ma quỷ. Sự can thiệp này có thể mang nhiều hình thức khác nhau: sự trói buộc, bùa-nhìn (the evil eye), một lời nguyền rủa. Tôi sẽ nói ngay rằng phương pháp thông dụng nhất là yêu thuật. Yêu thuật cũng là nguyên nhân thường xuyên nhất mà chúng tôi phải chạm trán nơi những người bị hành hạ bởi sự quỷ nhập hoặc bởi những ảnh hưởng độc ác khác. Tôi không hiểu những lý do đàng sau sự từ chối của một số nhân viên Giáo Hội, họ yêu cầu đừng tin vào yêu thuật, cũng như tôi không thể hiểu làm cách nào họ có thể che chở khỏi yêu thuật những người ở giữa đàn chiên của họ đang là nạn nhân của sự dữ này.

Một số người có thể ngạc nhiên rằng Thiên Chúa cho phép loại sự dữ này xảy ra. Thiên Chúa tạo nên chúng ta có tự do, và Ngài không bao giờ loại bỏ các tạo vật của Ngài ngay cả người hư hỏng nhất. Cuối cùng, Ngài thưởng cho mỗi người tùy theo công nghiệp của họ, bởi vì mỗi người sẽ bị xét xử theo những hành động của mình. Trong khi đó, nếu chúng ta sử dụng tốt tự do mà Ngài đã ban cho, chúng ta sẽ được phần thưởng, hoặc chúng ta có thể dùng tự do vào những mục đích xấu để lãnh lấy hình phạt. Chúng ta có thể giúp đỡ những người khác hoặc làm tổn thương họ dưới nhiều hình thức lạm dụng. Xin đan cử một thí dụ: tôi có thể thuê một tên giết người giết một ai đó; Thiên Chúa không bị bó buộc phải bắt hắn dừng tay. Cũng dễ dàng như vậy: tôi có thể thuê một tay thầy bùa bỏ bùa cho một ai đó. Thiên Chúa, cũng như trong trường hợp trên, không bị bó buộc phải can thiệp, mặc dù trong nhiều trường hợp Ngài có can thiệp. Chẳng hạn những người sống trong tình trạng ân sủng, những người cầu nguyện thường xuyên, có nhiều cơ may nhận được sự can thiệp của Thiên Chúa chống lại ma quỷ hơn những người không thực hành đức tin, hoặc tồi tệ hơn nữa, đang sống trong tình trạng tội trọng.

Ở đây tôi phải cho một lời cảnh báo mà tôi sẽ triển khai ở một chương sau: lãnh vực yêu thuật và những hoạt động ma quỷ khác là lãnh vực của những kẻ lừa bịp. Những trường hợp yêu thuật thực sự chỉ có một tỉ lệ nhỏ nhoi trong số vụ lừa đảo đang thịnh hành trong phạm vi này. Bên cạnh việc đem lại nhiều cơ hội cho những tay lừa đảo, yêu thuật cũng còn đặc biệt làm thỏa mãn những gợi ý và ý nghĩ nông cạn của những trí khôn nhu nhược. Do đó, điều quan trọng là những nhà trừ quỷ phải đề phòng sự lừa bịp, nhưng cũng quan trọng là mỗi người với lương tri, cũng phải cảnh giác.

3. Tình trạng tội nặng và chai đá. Ở đây chúng tôi đang nói đến nguyên nhân mà ngày nay, không may, đang gia tăng, với hậu quả làm tăng thêm số người làm nạn nhân của ma quỷ. Xét tận gốc, nguyên nhân đích thực luôn luôn là thiếu đức tin. Khi sự thiếu đức tin tăng thì sự mê tín dị đoan cũng tăng. Đó hầu như là thực tế toán học. Tôi tin rằng Phúc Âm cho chúng ta thí dụ rõ ràng về tính cách của Giuđa. Hắn ta là một kẻ cướp. Ai biết được biết bao nhiêu lần Chúa Giêsu cố gắng sửa bảo và kêu gọi hắn thống hối, nhưng hắn chỉ để ngoài tai và chai đá trong tội lỗi. Giuđa đã đạt tới cao điểm khi nó hỏi vị trưởng tế: "Các ông định cho tôi bao nhiêu, nếu tôi nộp Ngài cho các ông? (Mt 26,15). Trong trình thuật về bữa Tiệc Ly, Phúc Âm kể cho chúng ta bản án khủng khiếp về Giuđa: "Rồi sau khi nuốt mẩu bánh, Satan đã nhập vào hắn" (Ga 13, 27). Tôi không hồ nghi ở đây có ý nói đến việc quỷ nhập thực sự.

Trong môi trường hiện nay, nơi mà chúng ta đang chứng kiến sự sụp đổ của các gia đình, tôi đã đương đầu với nhiều trường hợp của những người bị quỷ nhập, họ là những người, ngoài những tội khác, còn sống trong hôn nhân bất hợp pháp. Tôi đã nhiều lần giải quyết cho những phụ nữ phạm tội ác phá thai. Tôi đã phải đương đầu với rất đông những người, thêm vào với những thác loạn tình dục, còn phạm thêm những hành động bạo lực khác nữa. Nhiều lần tôi đã phải đối diện với những người đồng tính nghiện ma túy và phạm những tội liên quan đến ma túy. Hiển nhiên là trong tất cả các trường hợp đó, con đường đi đến sự chữa lành chỉ bắt đầu với sự hoán cải thật lòng.

4. Liên đới với người và nơi xấu. Loại này gồm việc thực hành hoặc tham dự vào việc thực hành gọi hồn, yêu thuật, thờ Satan, hoặc các giáo phái - đỉnh cao là lễ misa đen - việc thờ phụng... liên kết với các thầy phù thủy, các thày cúng, hoặc một vài loại thày mo. Tất cả những thứ này là những hoạt động có thể làm tổn thương chúng ta trước những bùa chú quỷ ma. Nếu chúng ta đi xa đến độ muốn quan hệ với Satan, thì có một thứ giống như tận hiến cho Satan, ký máu ăn thề với Satan, gia nhập trường phái Satan, và chọn làm tư tế của Satan. Bất hạnh thay, trong mười lăm năm qua, chúng tôi đã chứng kiến sự gia tăng, hầu như bùng nổ, các kiểu liên kết này.

Một thí dụ rất thông thường của việc liên kết với các thày phù thủy hay thày mo là thế này: có một người nào đó mắc một chứng bệnh nan trị không thể tìm được bất cứ phương dược nào. Một người khác từng chịu mọi thứ rủi ro và tin rằng đó là do ảnh hưởng của ma quỷ. Họ đến thỉnh cầu một gã thày mo hoặc thày phù thủy, han nói với họ: "Anh bị bùa yểm." Cho đến bấy giờ sự tổn thất chưa đáng kể. Tuy nhiên, không may, sau đó tên phù thủy sẽ nói đại khái thế này: "Nộp mười ngàn Dollars - hay hơn nữa - tôi sẽ chữa cho anh." Tiền thù lao có thể lên đến 35.000 Dollars. Nếu bệnh nhân đồng ý, tên thày mo hoặc thầy phù thủy sẽ đòi hỏi một số vật thuộc cá nhân: một tấm hình, một miếng quần áo lót, một mớ tóc, hoặc chút móng tay cắt ra. Lúc này hành vi ma quỷ đã thực hiện. Thầy mo sẽ làm gì với những vật này? Rõ rằng hắn dùng để thực hành ma thuật đen.

Không may, nhiều người trở nên nạn nhân cho những tên này bởi vì những tên phù thủy này thường là các mụ đàn bà, những người thường được thấy trong nhà thờ, hoặc vì phòng của người phù thủy cũng có treo ảnh Thánh giá, chân dung các thánh, Đức Trinh Nữ, và chân dung cha Pardre Pio. Các nạn nhân cũng thường nói: "Tôi chỉ thực hành ma thuật trắng; nếu bạn yêu cầu tôi thực hành ma thuật đen tôi sẽ từ chối." Theo thuật ngữ hiện hành, ma thuật trắng có nghĩa là lấy bùa ra khỏi; ma thuật đen nghĩa là bỏ bùa vào. Thực ra, như cha Candido không ngừng nhắc lại rằng không có chuyện ma thuật trắng với đen; chỉ có ma thuật đen. Mọi hình thức ma thuật đều được thực hành với sự trợ giúp của Satan. Do đó, nạn nhân khốn nạn nào đã đến với phù thủy với một chút ảnh hưởng ma quỷ (hoặc có thể không chút ảnh hưởng nào) thì cũng trở về nhà với một ảnh hưởng ma quỷ thực sự và đầy tràn tai họa. Khi điều đó xảy ra, thường thường chúng tôi, những nhà trừ quỷ, phải làm việc vất vả nhiều sau hành động rủi ro của các phù thủy hơn là nếu bệnh nhân đến với chúng tôi ngay từ đầu.

Ngày nay cũng như thời xưa, nhiều khi sự việc quỷ nhập có thể bị lẫn với các bệnh về tâm lý. Tôi rất quí trọng các thầy thuốc tâm lý, những người thành thạo trong nghề và biết những giới hạn của khoa của họ. Họ có thể trung thực nhận biết khi nào một trong những bệnh nhân của họ biểu lộ những triệu chứng vượt quá bất cứ căn bệnh nào đã được biết đến. Chẳng hạn, giáo sư Simone Morabito, ở Begamo, nói rằng nhiều người coi như bị bệnh tâm thần, trong thực tế họ bị đau đớn vì bị quỷ ám, và ông ta có thể chữa cho họ với sự giúp đỡ của các nhà trừ quỷ (x. Gents, no. 5 [1990], pp. 106-12). Tôi biết nhiều trường hợp tương tự và tôi muốn cho một thí dụ đặc biệt.

Vào ngày 24.4.1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh cho cha Francisco Palau, dòng Cát minh Tây ban nha. Cha Palau rất quan tâm đến những công việc của chúng tôi vì ngài đã dành những năm cuối đời để lo cho những người bị quỷ ám. Ngài mua một bệnh viện để chăm sóc những bệnh nhân tâm thần. Ngài đã trừ quỷ cho tất cả mọi bệnh nhân, những ai bị quỷ ám thì đã được khỏi còn những người chỉ bị bệnh tâm thần thì vẫn còn bệnh. Ngài phải đương đầu với nhiều ngãng trở trong tác vụ của ngài, chủ yếu từ phía hàng giáo sĩ. Ngài đến Roma hai lần, một lần vào năm 1866 để trình bày những vấn đề của ngài với Đức Thánh Cha Pio IX, và một lần vào năm 1879 để xin Công Đồng Vatican I tái lập chức vụ trừ quỷ như một tác vụ vĩnh viễn của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng Công Đồng đã bị gián đoạn; tuy nhiên, nhu cầu tái lập lại công việc mục vụ này vẫn còn khẩn thiết.

Phải thừa nhận rằng thật khó mà phân biệt được giữa người bị quỷ ám và người bị bệnh tâm thần. Tuy nhiên, một nhà trừ quỷ thành thạo sẽ có thể nhận ra sự khác biệt dễ dàng hơn bác sĩ tâm lý bởi vì nhà trừ quỷ có đầu óc cởi mở trước tất cả mọi khả năng và sẽ có thể nhận dạng những yếu tố khác biệt. Bác sĩ tâm lý, trong phần lớn các trường hợp, không tin vào sự quỷ ám; do đó, họ không xét đến khía cạnh đó trong tiến trình chẩn đoán của họ. Cách đây nhiều năm, cha Candido trừ quỷ cho một thanh niên đã được một bác sĩ tâm lý chẩn đoán là mắc chứng động kinh. Vị bác sĩ này đã chấp nhận lời mời đến quan sát người bệnh trẻ của ông ta trong suốt thời gian trừ quỷ. Khi cha Candido lấy tay chạm vào đầu của người thanh niên, anh ta ngã xuống đất. Vị bác sĩ nhanh nhẩu nêu nhận xét: "Thưa cha, cha có nhìn thấy rõ ràng là chúng ta đang đối phó với cơn động kinh không?" Cha Candido lại cúi xuống đặt tay trên đầu anh ta lần nữa. Anh ta nhảy lên và đứng yên không động đậy. Cha Candido hỏi: "Những người động kinh có làm thế này không? - "Không, không bao giờ", bác sĩ trả lời, rõ ràng có thái độ xuống nước. Cuối cùng cha Candido đã dùng phép trừ quỷ chữa khỏi hoàn toàn cho người thanh niên đó, trong khi nhiều năm qua, các bác sĩ và những toa thuốc - chưa kể tiền thù lao - đã chỉ làm anh ta thêm trầm trọng.

Ở đây chúng ta chạm vào một vấn đề khó khăn: trong các trường hợp khác, việc chẩn đoán đòi hỏi sự hợp tác giữa các lãnh vực chuyên môn khác nhau, như chúng tôi sẽ chứng minh ở những phân tích cuối cùng. Không may, những người mất tiền cho những sai lầm của các chuyên gia luôn luôn là những người bệnh và cũng thường hay bị tán gia bại sản vì những sai lầm y khoa.

Tôi rất cảm kích những nhà khoa học, dù là những người không tin, nhưng cũng biết nhận ra những giới hạn của khoa học của họ. Giáo sư Emilio Servadio, là một thầy thuốc tâm thần, một nhà phân tâm học, và là một nhà siêu tâm lý học nổi tiếng quốc tế, đã cho một bài phát biểu rất hay trên đài Vatican, vào ngày 2.2.1975 như sau:

Khoa học phải ngừng lại khi chạm trán với điều không thể được cắt nghĩa hoặc được chứng minh bằng những phương pháp đã được biết. Một số những giới hạn không thể nhận diện được cách chính xác bởi vì chúng ta không đang đối phó với những hiện tượng vật lý. Tôi tin rằng mỗi khoa học gia ý thức trách nhiệm của mình thì cũng biết rằng các dụng cụ của mình vẫn có giới hạn. Khi chạm đến sự quỷ ám tôi có thể chỉ nói riêng mình chứ không nhân danh khoa học. Tôi đã nhìn thấy một trường hợp sự dữ và sự phá hoại được gây nên do một số hiện tượng có những nét đặc trưng thực sự mà không thể lầm được vì những hiện tượng đó đã được giải quyết bởi một nhà khoa học như một nhà siêu tâm lý, hoặc một bác sĩ tâm thần - chẳng hạn, khi chúng tôi đối phó với những yêu tinh hoặc những hoạt động tương tự. Đó là muốn cố gắng so sánh một cậu trai độc ác với một kẻ tội phạm ác dâm. Có sự khác nhau mà không thể nào đo lường được bằng những dụng cụ nhưng có thể cảm nhận được.Trong những tình huống này tôi tin rằng một người làm khoa học phải thừa nhận sự hiện diện của những quyền lực mà không thể được điều khiển bởi khoa học và khoa học không thể được gọi để xác định.

PHỤ CHƯƠNG

Sợ ma quỷ? Thánh Têrêsa Giêsu trả lời:

Tôi xin cống hiến một đoạn văn trích từ tự truyện của thánh Têrêsa Avila để chống lại sự sợ hãi ma quỷ một cách thái quá. Đó là một đoạn văn có sức củng cố, trừ khi chính chúng ta mở cửa cho ma quỷ. (từ cuốn The Book of Her Life, chap. 25 nos. 19-22, trong The Collected Works of St.Teresa of Avila, trans. Kieran Kavanaugh, O.C.D., và Otilio Rodriguez, O.C.D., vol. 1, 2d ed. [Washington, D.C.: ICS Publications, 1987])

Nếu Chúa là Đấng toàn năng, như tôi thấy và biết Ngài là như thế, và nếu ma quỷ là những nô lệ của Ngài (và không có gì để hồ nghi về vấn đề này, vì đó là vấn đề đức tin), thì chúng có thể làm điều gì xấu cho tôi được, khi tôi là tôi tớ của vị Chúa và Vua này. Tại sao tôi lại không có can đảm dấn thân vào cuộc chiến chống toàn thể hoả ngục?

Tôi cầm Thánh giá trong tay, và tôi cảm thấy thực sự Thiên Chúa đã ban cho tôi can đảm bởi vì trong một thời gian ngắn tôi đã thấy rằng tôi đã là một con người khác và tôi không còn sợ phải đích thân chiến đấu với chúng; vì tôi nghĩ rằng với Thánh giá tôi có thể dễ đàng chiến thắng tất cả bọn chúng. Thế nên tôi đã nói: "Nào tất cả tụi bay hãy lại đây, tao là nữ tì của Chúa, tao muốn xem xem tụi bay có thể làm gì được tao."

Tôi thấy chắc chắn rằng chúng đã sợ tôi, vì tôi vẫn bình tĩnh và không sợ chúng chút nào. Mọi nỗi sợ hãi mà tôi cảm thấy đã tan biến. Vì mặc dù đôi khi tôi đã nhìn thấy chúng, như tôi sẽ kể lại sau, tôi cũng không còn sợ bọn chúng chút nào nữa; đúng hơn là bọn chúng sợ tôi. Chúa muôn loài đã thực sự ban cho tôi có oai quyền trên chúng; tôi coi chúng không hơn những con ruồi và chẳng thèm chú ý đến. Tôi nghĩ chúng là những kẻ nhút nhát đến nỗi khi chúng thấy chúng ít được kiêng nể, thì sức mạnh của chúng cũng tiêu tan. Những tên kẻ thù này không dám tấn công trực tiếp vào ai, trừ những người mà chúng thấy đầu hàng chúng, hoặc khi Thiên Chúa cho phép chúng làm như vậy vì lợi ích lớn lao của các tôi tớ Ngài, những người mà chúng cám dỗ và hành hạ. Xin Chúa ban cho chúng con biết kính sợ Đấng chúng con phải sợ và cho chúng con hiểu biết rằng một tội nhẹ có thể làm hại cho chúng con hơn là sức mạnh của tất cả hoả ngục hợp lại - vì thực sự là thế.

Nếu ma quỷ làm được cho chúng ta khiếp sợ, chính là tại chúng ta đã tự làm cho mình hoảng sợ bởi gắn bó với vinh dự, của cải, thú vui. Lúc đó chúng gây tổn hại cho chúng ta rất nhiều, khi chúng liên kết với chúng ta - vì chúng ta yêu thích và ước muốn những cái đáng lẽ ra phải ghét bỏ nên chúng ta tự phản lại chính mình. Vì chúng ta làm cho chúng chống lại chúng ta bằng vũ khí của chính chúng ta, tức là trao cho chúng cái mà chúng ta đang cần để tự phòng vệ. Đây là điều hết sức đáng tiếc. Nhưng nếu chúng ta ghét bỏ mọi sự vì Chúa và chúng ta ôm ấp Thánh giá và thực sự cố gắng phụng sự Chúa, thì ma quỷ sẽ chạy trốn những chân lý này như trốn bệnh dịch vậy. Ma quỷ yêu sự dối trá và là chính sự dối trá. Nó không thể đồng hành với bất cứ ai bước đi trong chân lý. Khi nó thấy trí khôn của một người ra tối tăm, nó sẽ giúp cho trở nên mù loà hoàn toàn. Nếu ma quỷ thấy ai mù tối đi tìm an ủi nơi của phù vân (những sự thế gian này đều giống trò trẻ con và đều là phù vân), thì nó coi người đó như trẻ con, đối xử với họ như với trẻ con và dám bắt nạt họ không phải một lần nhưng là nhiều lần.

Xin Chúa đừng để con vào số những người này, nhưng xin Ngài thương cho con biết tìm an ủi ở nơi cái gì thực là an ủi, vinh dự ở nơi cái gì thật là vinh dự, và lấy làm vui trong cái gì thực là niềm vui chứ không lẫn lộn; và tất cả ma quỷ chẳng có giá trị gì, bởi vì chúng sẽ khiếp sợ con. Tôi không hiểu những nỗi sợ khiến người ta kêu: "Ma quỷ? Ma quỷ!" khi đáng lẽ người ta phải nói: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" và khiến cho ma quỷ phải run sợ. Đúng vậy, vì chúng ta biết rằng ma quỷ không thể quấy rối được nếu Chúa không cho phép nó. Có gì mà phải sợ cơ chứ? Chắc chắn tôi sợ những người khiếp ma quỷ hơn sợ chính ma quỷ, vì nó không thể làm gì được tôi. Còn họ, đặc biệt khi họ là những vị giải tội thì họ có thể gây ra những xáo trộn nghiêm trọng; tôi đã phải trải qua nhiều năm chịu những thử thách lớn lao như thế, đến nỗi bây giờ tôi lấy làm ngạc nhiên không hiểu sao tôi đã có thể chịu đựng được như vậy. Xin chúc tụng Chúa, Đấng đã giúp đỡ con hữu hiệu như thế!

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth



§7 - ĐIỂM KHỞI HÀNH

Một hôm một vị giám mục gọi tôi và yêu cầu trừ quỷ cho một người nọ. Thoạt tiên tôi trả lời rằng chính bổn phận của ngài là phải bổ nhiệm một nhà trừ quỷ. Ngài đáp lại rằng ngài không thể tìm thấy một linh mục nào chấp nhận bổn phận đó. Không may, đây là một việc thường xảy ra. Thường các linh mục không tin vào việc trừ quỷ, nhưng nếu vị giám mục trao cho họ chức vụ trừ quỷ, thì họ cảm thấy cứ như là hàng ngàn tên quỷ đè lên họ và họ từ chối. Nhiều lần tôi đã viết rằng: khi tôi giải phóng các linh hồn khỏi tay Satan nhờ việc giải tội thì khiến cho nó căm giận nhiều hơn là khi tôi giải thoát các thân xác nhờ việc trừ quỷ. Thực ra, chúng tôi làm ma quỷ giận dữ hơn nhờ việc rao giảng, bởi vì đức tin phát sinh nhờ lời Chúa. Do đó, một linh mục có can đảm rao giảng và giải tội thì không nên sợ trừ quỷ.

Lêô Bloy đã viết những lời nóng nảy chống các linh mục từ chối trừ quỷ. Balducci trích dẫn những lời ấy trong cuốn Il diavolo (Piemme, p. 233): "Các linh mục hầu hết không bao giờ dùng quyền năng trừ quỷ bởi vì họ thiếu đức tin và sợ ma quỷ căm phẫn." Điều này cũng đúng; nhiều người sợ bị trả thù và quên rằng ma quỷ đã gây ra tất cả sự tổn thất khi mà Thiên Chúa cho phép nó; chúng ta có thể vượt qua được mà không cần phải ký hòa ước với nó! Tác giả viết tiếp: "Nếu các linh mục đã mất đức tin đến độ không tin vào quyền năng trù quỷ của mình và không dùng quyền ấy chút nào nữa, thì đây là nỗi bất hạnh ghê gớm, một sự lừa dối tàn bạo dẫn đến sự bỏ bê không thể vãn hồi, để mặc cho những kẻ thù tồi tệ nhất của các linh hồn bất hạnh đang nằm đầy trong các nhà thương và họ đã bị cho là nạn nhân của chứng cuồng loạn." Những lời chua chát nhưng là sự thật. Đó là trực tiếp phản bội lệnh truyền của Đức Kitô.

Trả lời cho cuộc gọi điện thoại của vị giám mục đó, tôi thưa ngài rằng nếu ngài không tìm được một linh mục, thì chính ngài có trách nhiệm phải làm việc trừ quỷ. Tôi nghe thấy ngài trả lời rất vô tư tự nhiên: "Tôi ư? Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu." Tôi đã trả lời với những từ mà cha Candiđo đã dùng với tôi khi tôi bắt đầu học nghề: "Bắt đầu bằng việc đọc những điều chỉ dẫn trong sách Nghi thức và đọc những kinh đã được chỉ định trên người xin trừ quỷ."

Đây là điểm khởi đầu. Sách Nghi thức trừ quỷ bắt đầu bằng hai mươi mốt qui tắc mà nhà trừ quỷ phải theo. Dù cho những qui tắc này được viết từ năm 1614 cũng không sao; những hướng dẫn này - nó có thể được mở rộng ra - đầy sự khôn ngoan và ngày nay vẫn còn hữu hiệu. Sách Nghi thức cũng cảnh giác nhà trừ quỷ đừng dễ tin vào sự hiện diện của ma quỷ, và đưa ra hàng loạt các luật lệ cả để giúp nhận ra sự hiện diện của quỷ ám thực và hướng dẫn cách cư xử của nhà trừ quỷ.

Sự bối rối của vị giám mục ("tôi không biết phải bắt đầu từ đâu") là đúng. Chúng ta không thể ứng khẩu một cuộc trừ quỷ. Chỉ định một bổn phận như thế cho một linh mục bất kỳ thì cũng giống như ra lệnh cho một người nào đó làm một ca phẫu thuật sau khi đọc một cuốn sách về vấn đề đó. Có quá nhiều điều được viết trong sách, nhưng học được chỉ nhờ thực hành. Đó là lý do tại sao tôi quyết định công bố những kinh nghiệm mà tôi đã đạt được dưới sự hướng dẫn dầy dạn kinh nghiệm của cha Candido, dù tôi nhận ra rằng điều tôi sẽ nói cũng chưa đủ. Vì đọc là một chuyện, nhưng nhận ra được lại là một chuyện khác. Tuy nhiên, điều tôi sẽ nói không thể tìm thấy trong bất cứ cuốn sách nào khác.

Thực ra, điểm bắt đầu rất khác nhau. Khi một người đến xin trừ quỷ, hoặc do gia đình hay bạn bè mang đến, người ta bắt đầu với một sự khám xét để xác định xem có hay không có cơ sở để tiến hành việc trừ quỷ. Những chẩn đoán có thể được thực hiện chỉ bởi một sự xem xét như thế. Do đó, người ta bắt đầu bằng cách nghiên cứu những triệu chứng được trình bày bởi người ấy hoặc thân nhân họ, cũng như nguyên nhân có thể có của chúng.

Người ta bắt đầu với những triệu chứng thể lý. Hai khu vực rất hay bị mắc những ảnh hưởng ma quỷ là đầu và bao tử. Thêm vào chứng nhức đầu trầm trọng và không còn nhạy cảm với các mệnh lệnh, những triệu chứng gồm có sự đột nhiên mất khả năng học hành. Đặc biệt, người trẻ là người không bao giờ có vấn đề ở nhà trường, bỗng dưng không thể học hành chút nào nữa, và khả năng tập trung của họ biến mất. Những dấu hiệu được liệt kê trong Sách Nghi Thức chỉ giới hạn vào những biểu hiện quỷ ám nổi bật nhất, như là khả năng nói và hiểu được những tiếng lạ một cách hoàn hảo, biết những điều bí ẩn hoặc những việc từ xa hay biểu lộ sức mạnh thể lý siêu phàm. Như tôi đã đề cập, tôi có thể nhận được những dấu hiệu này chỉ trong khi làm phép (đây là cách mà tôi luôn luôn căn cứ vào để trừ quỷ), chứ không bao giờ biết trước. Thường thường người ta nói cho tôi biết về cách hành xử kỳ lạ và bạo lực. Một triệu chứng tiêu biểu của những ảnh hường ma quỷ là sự căm ghét sự thánh thiêng. Đối với người hay cầu nguyện thì đột nhiên bỏ cầu nguyện, những người khác thì ngưng đi đến nhà thờ và trở nên tức giận; một số người bỗng dưng có hành vi báng bổ bạo hành chống lại ảnh thánh. Hầu như chúng tôi luôn luôn phải đối phó với cách cư xử phản xã hội, như sự giận dữ chống lại những người họ hàng và bạn bè quen biết, và nhiều kiểu hành xử kỳ cục khác.

Không cần phải nói, trừ vài trường hợp ngoại lệ, những người đến gõ cửa của nhà trừ quỷ thì thường cũng đã cố gắng mọi cách có thể tìm đến với y khoa và mọi phương thuốc. Do đó, cũng dễ dàng cho nhà trừ quỷ khám phá ra những chẩn đoán y khoa, liệu pháp nào đã được thử và kết quả ra sao.

Khu vực khác nữa thường bị mắc những ảnh hưởng ma quỷ là cuống bao tử, ngay ở dưới xương ức ở chỗ đó, chúng tôi tìm thấy những sự đau buốt nhức nhối không cách chi chữa được. Nếu cơn đau di chuyển, bấy giờ tới toàn thể bao tử, rồi đến thận, sau đó là buồng trúng... bất chấp những hiểu biết và liệu pháp của y sỹ là dấu hiệu thông thường của ảnh hường ma quỷ.

Chúng tôi có thể nói rằng "một trong những nhân tố xác định sự quỷ ám là sự vô hiệu lực của y khoa", trong khi việc làm phép tỏ ra rất hữu hiệu. Tôi đã trừ quỷ cho Mark, một thanh niên là nạn nhân bị quỷ ám trầm trọng. Anh ta mắc bệnh đã lâu và đã phải đau đớn nhiều bởi những phương thức chữa bệnh tâm thần, đặc biệt là chạy điện, mà vẫn không thuyên giảm chút nào. Bác sĩ cho anh uống thuốc ngủ với một liều lượng lớn mà anh ta vẫn không thể ngủ được suốt ngày cũng như đêm. Anh ta đi lang thang trong bệnh viện dáng vẻ đờ đẫn, với cặp mắt mở thao láo. Cuối cùng anh ta đã đến với tôi và có kết quả tích cực ngay tức khắc.

Sức mạnh siêu phàm cũng có thể là dấu hiệu của quỷ ám. Một người điên trong bệnh viện tâm thần có thể được chế ngự bằng cách trói lại, nhưng một người bị quỷ ám thì không thể trói buộc được, anh ta có thể bẻ gẫy xiềng xích bằng sắt, như người đàn ông ở Gerasa đã làm trong Phúc Âm. Cha Candido đã kể cho tôi về một cô gái bề ngoài có vẻ yếu ớt mảnh khảnh, thế mà trong lúc trừ quỷ, phải có bốn người thanh niên khỏe mạnh mới chế ngự được cô ta. Cô ta bứt đứt mọi thứ dây trói, ngay cả một số loại dây da lớn người ta dùng để trói buộc cô. Một lần, người ta lấy một sợi dây thừng lớn trói chặt cô vào chiếc giường sắt, nhưng cô đã bẻ gẫy một số thanh sắt ở thành giường.

Nhiều lần bệnh nhân - và họ hàng của họ, nếu toàn gia đình bị hành hạ - nghe thấy những tiếng động lạ, tiếng những bước chân trong phòng, tiếng mở và đóng cửa, những đồ vật biến mất và lại xuất hiện trong những chỗ ít được để ý nhất, và những tiếng đập mạnh trên đồ đạc và các bức tường. Khi tôi tiến hành điều tra các nguyên nhân, tôi luôn luôn hỏi xem khi nào các sự cố bắt đầu, chúng có bị ràng buộc với một cái gì đó cụ thể không, bệnh nhân có tham dự vào các buổi gọi hồn không, có tiếp cận với các tay thầy mo không, và trong trường hợp có câu trả lời tích cực, thì các sự việc đã được tiến hành thế nào.

Theo đề nghị của một số bạn bè và người thân, người ta có thể mở tung hết gối và nệm của nạn nhân, và tìm thấy ở đó nhiều đồ vật rất hay: như là những sợi chỉ màu, những búi tóc, bím tóc, những đồng bạc bằng sắt hoặc gỗ, chuỗi hạt hoặc những giải ruy băng được cột với những nút rất chặt, những hình nộm, hình dáng con vật, những cục máu, hoặc những hòn sỏi; đó là một bằng chứng chắc chắn của yêu thuật.

Nếu sau khi xem xét tỉ mỉ các yếu tố này, tôi xác tín là có sự can thiệp của ma quỷ, tôi sẽ tiến hành việc trừ quỷ.

Bây giờ tôi xin đưa ra một số thí dụ. Tôi sẽ thay đổi tên và những gì có thể làm lộ danh tính các nhân vật. Martha và chồng nàng đến xin tôi làm phép. Họ đến từ khá xa và phải tốn kém nhiều cho cuộc hành trình. Đã nhiều năm Martha đã được các bác sĩ thần kinh điều trị mà không kết quả. Sau vài câu hỏi, tôi nhận ra rằng tôi có thể tiến hành việc trừ quỷ, dù đã có những người khác đã cố gắng vô ích để trừ quỷ cho nàng. Lúc bất đầu, nàng ngã xuống đất và tỏ ra yếu lả. Khi tôi tiến hành với những kinh khai mạc, nàng thỉnh thoảng kêu rêu: "Tôi muốn việc trừ quỷ thực sự chứ không muốn những thứ này!" khi tôi bắt đầu với phần đầu của việc trừ quỷ bắt đầu bằng những lời "Excizo te" (mi hãy ra khỏi), nàng mãn nguyện và bình tĩnh lại; rõ rằng nàng đã nhớ lại những lời này từ những kinh nghiệm trước. Rồi nàng bắt đầu kêu đau mắt. Đó là những hành động và những dấu hiệu không phải người bị quỷ ám. Khi nàng trở lại, nàng chẳng nhận thấy điều gì ích lợi từ việc trừ quỷ của tôi. Trước khi để cho nàng ra về, vì tôi vẫn có một số hoài nghi, tôi đã đưa nàng tới cha Candido. Sau khi đặt tay lên đầu nàng, ngài lập tức bảo tôi rằng ma quỷ không động gì đến nàng, đó chỉ là vấn đề bệnh tâm thần chứ không phải quỷ ám.

Pierluigi, mười bốn tuổi, rất to béo so với tuổi của cậu ta. Cậu không thể học hành; cậu làm cho thày giáo và các bạn học phát khùng lên. Cậu không thể ở lâu bên ai mà không gây hấn. Một trong những nét đặc trưng là: khi cậu ngồi xếp bằng trên mặt đất, thì không có sức mạnh nào nhấc cậu lên khỏi mặt đất được. Cứ như là cậu đã hóa ra chì vậy. Sau khi dùng một số liệu pháp y khoa không kết quả, người ta mang cậu ta đến cùng cha Candido. Sau khi đã xác định được đó là quỷ ám thực sự, ngài đã bắt đầu trừ quỷ cho cậu ta. Một nét đặc trưng khác của Pierluigi là: mặc dù cậu ta không gây với ai, thì những người chung quanh cũng trở nên căng thẳng và bắt đầu hò hét; họ không kiểm soát được mình. Một hôm cậu ngồi chân bắt chéo nhau trên đầu cầu thang tầng thứ ba trong chung cư. Những người thuê nhà khác đi lên đi xuống trên cầu thang và muốn nhắc cậu tránh ra nhưng cậu không chịu. Đến một lúc, tất cả những người thuê nhà của tòa nhà ấy tụ tập nhau trên lồng cầu thang, trên một đầu cầu thang khác và đã la hét chửi máng om sòm như những người bị quỷ ám chống lại cậu Pierluigi. Một số người gọi cảnh sát; cha mẹ cậu gọi cha Candido, ngài đã đến trước khi cảnh sát đến và đã tán gẫu với cậu ta để thuyết phục cậu vào phòng của cậu. Ba người cảnh sát trẻ trung khỏe mạnh đã đến, họ nói với cha: "Cha tránh ra đi, đây là công việc của chúng tôi". Rồi họ cố gắng kéo Pierluigi lên, nhưng họ không thể làm cho cậu nhúc nhích được lấy một phân. Hết sức ngạc nhiên, mồ hôi nhễ nhãi, họ không biết phải làm gì nữa. Cha Candido bảo họ: "Yêu cầu mọi người trở về phòng của mình," và trong phút chốc, bầu khí yên lặng trở lại. Rồi ngài bảo mấy anh cảnh sát: "Các anh lùi xuống một bậc thang và quan sát." Họ vâng lời ngài. Cuối cùng, ngài bảo Pierluigi: "Em ngoan lắm: em đã không nói một lời, nhưng đã không cho ai lại gần. Nào, hãy về nhà với cha." Ngài cầm tay cậu và cậu đã đứng dậy đi theo ngài, hoàn toàn sung sướng, đến nơi cha mẹ cậu đang đợi chờ. Sau nhiều lần trừ quỷ, Pierluigi đã tiến triển đáng kể nhưng không được giải thoát hoàn toàn.

Một trong những trường hợp khó khăn nhất mà tôi còn nhớ liên quan đến một người đàn ông - một thời rất tai tiếng- ông ta đến với cha Candido trong nhiều năm để cha làm phép. Tôi cũng đi đến nhà ông ta, nơi ông đang bị ràng buộc, để làm phép cho ông. Tôi thực hiện việc trừ quỷ; ông ta không nói gì (ông bị một quỷ câm ám), và tôi không thể nhìn thấy một chút phản ứng nào. Sau khi tôi ra về, ông ta lại phản ứng rất hung bạo. Cung cách này thường vẫn hay xảy ra. Ông đã già và cuối cùng ông đã được giải thoát hoàn toàn, ông đã trải qua vài tuần lễ cuối cùng của cuộc đời ông với sự thanh thản.

Một bà mẹ lo sợ vì thấy những triệu chứng không bình thường nơi con trai mình. Thỉnh thoảng cậu con trở nên giận dữ và la hét như một người khùng; anh ta hay chửi rủa và khi bình tĩnh lại, anh không hề nhớ chút gì về những hành vi của mình đã làm. Anh không bao giờ cầu nguyện và cũng không đồng ý để cho linh mục làm phép. Một hôm, trong khi người con đi ra xưởng làm việc và, như thường lệ, anh mặc chiếc áo khoác thợ máy, ở nhà bà mẹ đem tất cả các áo quần của anh ta đi làm phép theo những lời kinh trong sách nghi thức (trừ quỷ). Khi người con từ xưởng trở về nhà không nghi ngờ gì anh cởi chiếc áo khoác bẩn ra để thay quần áo khác, sau vài giây, anh giận dữ xé toạc quần áo ra và mặc lại chiếc áo bẩn. Anh ta không bao giờ chịu mặc y phục đã làm phép. Trường hợp này rõ ràng cho thấy là anh ta cần phải được trừ quỷ.

Hai anh em trẻ đã cầu đến phép lành của tôi bởi vì họ hay bực bội bởi những vấn đề sức khỏe và những tiếng động lạ trong nhà. Những tiếng động này xảy ra phần lớn từng khoảnh khác cố định trong đêm. Đang khi làm phép, tôi để ý thấy một số phản ứng tiêu cực, và tôi khuyên họ năng lãnh nhận các bí tích và cầu nguyện tha thiết hơn nữa. Tôi cũng khuyến khích họ dùng ba dấu tích thánh (nước, dầu, và muối) và đã mời họ trở lại. Khi hỏi họ, tôi khám phá ra rằng những sự cố này đã bát đầu khi cha mẹ họ quyết định đem ông nội về nhà (vì ông sống cô đơn). Ông nội này chuyên môn nguyền rủa báng bổ mọi người và mọi thứ. Cha Tomaselli, một nhà trừ quỷ hiện nay đã qua đời, đã từng nói rằng đôi khi chỉ một người ăn nói báng bổ cũng đủ phá tan toàn thể gia đình với những sự hiện diện của ma quỷ. Trường hợp này đã minh chứng quan điểm của ngài.

Cùng một tên quỷ có thể hiện diện trong hơn một người. Trong trường hợp này, tên quỷ đang ám cô Pina nói rằng hắn ta sẽ rời bỏ cô ta đêm nay. Cha Candido, mặc dù biết rằng quỷ luôn luôn nói dối, cũng đã xin các nhà trừ quỷ khác giúp ngài, thỉnh thoảng có mặt cả bác sĩ nữa. Đôi khi, để giữ cho cô gái được yên, họ đặt cô xuống trên cái bàn dài. Cô ta vặn mình và ngã lăn xuống đất, nhưng cuối cùng, trước khi đụng tới sàn nhà cô rơi xuống chậm lại, dường như có một bàn tay đỡ cô ta lên, và cô ta không bao giờ bị thương. Sau khi làm việc trên cô ta suốt buổi chiều và đến nửa đêm, các nhà trừ quỷ quyết định bỏ cuộc. Sáng hôm sau, cha Candido đang trừ quỷ cho một bé trai lên sáu hay bảy tuổi. Tên quỷ ở trong bé trai chế nhạo vị linh mục: "Tối hôm qua ông làm việc vất vả mà chẳng đạt được gì cả. Chúng tôi chiến thắng! Và tôi cũng ở đó đó!"

Một lần, trong khi đang trừ quỷ cho một bé gái, cha Candido hỏi quỷ tên là gì. Nó trả lời: "Zebulun". Khi trừ quỷ xong, vị linh mục bảo cô gái đến trước trước nhà tạm cầu nguyện. Khi em gái kế tiếp đến để được trừ quỷ, cha Candido cũng hỏi tên của quỷ này. Nó cũng trả lời như thế: "Zebulun". Linh mục hỏi: "Mi cũng chính là tên quỷ nhập vào cô gái kia ư? Nếu là mi, hãy cho ta một dấu hiệu. Nhân danh Thiên Chúa ta lệnh cho mi trở lại cô gái mà mi vừa mới rời bỏ." Cô gái thứ hai thốt lên một tiếng hú và rồi im bặt và tỏ ra bình tĩnh. Trong khi đó, những người đang ở trong phòng nghe cô gái thứ nhất đang cầu nguyện trước nhà tạm hú lên. Rồi cha Candido ra lệnh: "Trở lại đây." Lập tức, cô gái thứ hai lại bắt đầu hú lên, và cô kia cầu nguyện lại như thường. Trong những trường hợp này rõ ràng là quỷ.

Sự kiện quỷ ám cũng được tỏ rõ bởi một số câu trả lời sâu sắc, đặc biệt khi được trả lời bởi trẻ con. Cha Candido đã hỏi một bé trai mười một tuổi một số câu hỏi hóc búa sau khi đã biết chắc là em bị quỷ nhập. Ngài hỏi: "Trên trái đất này có nhiều nhà khoa học vĩ đại, một số người trí khôn rất sắc sảo, họ chối sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện hữu của chúng mày. Mày nghĩ gì về điều đó? Và đứa trẻ lập tức trả lời: "Đó là những người không thông minh lắm đâu! Họ chỉ là những người rất tầm thường!" Và cha Candido nói thêm, ám chỉ về các ma quỷ: "Có những kẻ khác hiểu biết mà lại cố tình muốn chối Thiên Chúa. Mày gọi những kẻ này là gì? Đứa nhỏ bị quỷ ám nhảy lên giận dữ: "Hãy cẩn thận. Hãy nhớ rằng chúng tôi đã muốn đòi cho được quyền độc lập với Thiên Chúa. Chúng tôi đã nói với ngài tiếng Không vĩnh viễn." Nhà trừ quỷ tiếp tục: "Hãy cắt nghĩa cho ta biết bọn mày đòi được quyền độc lập với Thiên Chúa nghĩa là gì, khi chúng mày không là cái gì nếu tách lìa khỏi Thiên Chúa, cũng như ta cũng không là gì. Cũng như trong con số 10, con số 0 lại muốn tách ra khỏi con số 1, thì nó sẽ trở nên cái gì? Điều gì sẽ được thực hiện? Nhân danh Thiên Chúa, ta hỏi mi: hãy nói cho ta mi đạt được cái gì tích cực? Nào, nói đi!" Tên quỷ giận dữ, vặn mình nhỏ rãi ra và khóc một cách khủng khiếp, một cách mà một đứa trẻ mười một tuổi không thể nào có được, và nó nói: "Đừng thử tôi kiểu này! Đừng thử tôi thế này!" Nhiều người hỏi làm thế nào chúng tôi có thể chắc là đang nói với ma quỷ. Trong trường hợp như thế này thì không thể hồ nghi được.

Đây một trường hợp khác. Một hôm cha Candido đang trừ quỷ cho một cô gái mười bảy tuổi. Cô ta là một nông dân nói tiếng địa phương của thị trấn của cô; tiếng Ý của cô rất kém. Hai vị linh mục khác cũng có mặt trong lúc trừ quỷ. Khi đã xác định được sự hiện diện của Satan rồi, hai linh mục này tiếp tục hỏi nàng. Cha Candido, trong khi đọc các kinh bằng La ngữ, đã bắt đầu thêm những tiếng Hy-lạp này: "Câm miệng? Cút đi ngay!" lập tức cô gái quay lại phía ngài và nói: "Tại sao ông lại ra lệnh cho tôi im lặng? Đúng hơn hãy lệnh cho hai vị đang tiếp tục hỏi tôi đây này!"

Nhiều lần, cha Candido đã chất vấn những tên quỷ trong những người thuộc mọi lứa tuổi; tuy nhiên, ngài thích kể về những buổi chất vấn nơi trẻ con hơn, bởi vì rõ ràng những câu trả lời của chúng vượt quá mức tuổi của chúng, do đó đã chứng minh sự hiện diện chắc chắn của ma quỷ.

Một hôm cha Candido đã hỏi một em gái mười ba tuổi (bị quỷ ám): "Hai người thù địch nhau, ghét nhau suốt cuộc sống, ghét nhau cho tới lúc chết, và cả hai phải xuống hỏa ngục. Vậy bấy giờ họ chia sẻ với nhau mối tương quan ra sao, vì họ sẽ phải ở với nhau cho đến muôn đời? Quỷ trả lời: "Ông ngu quá! Xuống đó mỗi người sống co cụm lại trên chính mình và bị vò xé bởi những hối tiếc. Không có ai tương quan với ai, mỗi người đi tìm chính mình trong nỗi cô độc sâu thẳm và khóc than tuyệt vọng vì những sự dữ mình đã phạm. Nó giống như một nghĩa địa."

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth