Mọi sự đều liên quan. Trước tiên hãy thử những chuẩn bị này để bạn có thể ngủ. Nếu thành công, bấy giờ bạn có thể làm thực hành ban đêm. Nếu tình trạng của bạn là giữa sự ngủ ngay và không thể đi vào giấc ngủ, bấy giờ hãy quán tưởng một chữ hay A màu trắng, nhưng không sáng lắm. Nếu bạn khó ngủ, phải quán tưởng chữ không quá sáng, và cũng có thể quán tưởng nó trong một quả cầu năm màu. Điều này làm cho dễ ngủ. Có nhiều loại người với nhiều loại hoàn cảnh ; chúng ta cần biết hết.
Nếu người ta làm thực hành này với sự sốt sắng, người ta dần dần trở nên một người chủ của giấc mộng của mình. Khi người ta tỉnh giác hơn và có nhiều giấc mộng của sáng tỏ hơn, lúc ấy mộng trở thành một thực hành. Chẳng hạn, như tôi đã nói, nếu người ta làm chủ đầy đủ giấc mộng, người ta có thể chuyển hóa nó. Nếu tôi mộng thấy cái gì xấu xí, tôi có chuyển hóa nó thành cái gì đẹp đẽ, tôi có thể làm cho giấc mộng hợp với chủ đề nào tôi chọn, hay tôi có thể thấy cái gì theo tưởng tượng của mình. Người ta có thể thăm viếng một cõi trời hay tiếp xúc với một vị thầy. Có nhiều điều người ta có thể làm ; người ta thường có thể biến giấc mộng như mình muốn. Điều này có thể trở nên một thử nghiệm cho sự tiến bộ thực sự của người ta.
Chúng ta hãy thảo luận chuyện này chi tiết hơn. Như đã nói ở trước, có những chuẩn bị cho sự làm việc với giấc mộng cũng như thực hành đích thật. Về chuẩn bị, có lời khuyên cho người đang sống nhập thất trước hết thực hành tập trung vào sáu âm(13) và sự tịnh hóa của chúng. Sau khi làm thực hành này một thời gian, nhiều giấc mộng lộn xộn có thể xuất hiện. Sự sanh khởi của nhiều giấc mộng vô trật tự này là một dấu hiệu sự chuẩn bị đã đầy đủ và rồi người ta có thể tiến hành sự thực hành.
Về thực hành có ba điểm chính. Điểm thứ nhất là khảo sát giấc mộng ; thứ hai là kiểm soát nó ; và thứ ba là phân biệt và nhận biết bag-chag hay những dấu vết nghiệp.
Mỗi đêm trước khi ngủ nên thư giãn thân thể, như tắm rửa, xoa bóp chẳng hạn. Rồi người ta phải quyết tâm tiến bộ trên con đường đến sự tỉnh giác trọn vẹn và sáng tỏ trong những giấc mộng.
Tiếp theo, người ta bắt đầu dùng những tư thế hiệu quả nói ở trên để hỗ trợ cho thực hành. Như vậy người ta nằm bên phía của mình – phía phải liên hệ với tánh Không, phía trái với sự sáng tỏ – và bịt lỗ mũi tương ứng với một ngón tay của bàn tay tương ứng, bàn tay nằm dưới má. Phía phải thực sự cai quản hay cho phép tánh Không tác động, và phía trái giúp cho sự tác động của sự sáng tỏ. Ban đầu thích hợp hơn khi nằm bên trái, như thế đẩy mạnh sự sáng tỏ – công việc của phía phải không bị ngăn cản. Về sau, khi sự thực hành của người ta đã vững chắc, tư thế sẽ không quan trọng.
Nếu có vẻ như bạn không mộng, hay chỉ có một trí nhớ mờ nhạt về một giấc mộng, điều đó chỉ ra rằng giấc ngủ quá sâu. Trong trường hợp này, hãy đặt gối cao hơn, dùng chăn đắp nhẹ hơn và ít hơn, để cho không khí và ánh sáng đi vào chỗ ngủ hay hướng đến một nơi mở rộng hơn. Nếu những giấc mộng không đến thường, bạn có thể thí nghiệm ngủ theo cách nào bạn thấy dễ chịu, hoặc bên phải hoặc bên trái. Nếu những giấc mộng vẫn không đến, hãy tập trung vào luân xa cổ họng, và quán tưởng một chữ (A) đỏ ; nếu điều này khó khăn, một quả cầu đỏ cũng đủ. Nếu bạn vẫn không nhớ những giấc mộng, hãy quán tưởng chữ màu đỏ hay chuỗi hạt mỗi đêm càng sáng thêm. Nếu còn khó khăn, hãy nghĩ đến một chuỗi hạt trắng trên trán, ở chỗ con mắt thứ ba. Nếu vẫn không có gì cả, hãy quán tưởng chuỗi hạt trắng với sự rực rỡ tăng thêm mỗi đêm. Những sự tập trung này chỉ được làm nếu những giấc mộng không nhớ được.
Nếu bạn không làm chủ được được sự sáng tỏ – sự tỉnh giác mà người ta làm chủ khi đang mộng – thì ban ngày bạn cần liên tục nhắc nhở rằng mọi cái bạn thấy và mọi cái được làm không khác gì hơn một giấc mộng. Bằng cách thấy mọi sự suốt ngày như một giấc mộng, giấc mộng và tỉnh giác sẽ trộn lẫn triệt để. Sau cùng, trước khi ngủ, hãy tiếp tục chú tâm trọn vẹn vào chữ đỏ nơi cổ họng. Như thế, bạn sẽ ngủ khi định vào chữ . Chú tâm theo cách này trước khi vào giấc ngủ sẽ hợp nhất lung (khí) hay prana ở đó với sự tập trung.
Đôi khi một ác mộng đáng sợ sanh khởi. Nếu nhờ cú sốc mà bạn lập tức trở nên minh bạch, đây gọi là “phân biệt giấc mộng bởi những phương tiện bạo liệt”. Hoàn thành sự sáng tỏ theo kiểu này thì tương đối tầm thường ; cho nên bạn phải tiếp tục thực hành tập trung vào chữ màu đỏ, và dần dần cũng sẽ phát triển khả năng tỉnh giác minh bạch trong những giấc mộng với những chủ đề an bình.
Tiếp tục tiến bộ trong sự làm việc với giấc mộng, thậm chí sau khi tỉnh giác minh bạch thường hoàn thành, tùy thuộc rất nhiều vào những hoạt động ban ngày. Sự tập trung mạnh mẽ vào một chủ đề hay đề mục gì sẽ khiến nó sanh khởi. Nếu bạn muốn làm cho mình mộng thấy chẳng hạn một bổn tôn, hãy nghĩ đến sự chuyển hóa chính bạn thành bổn tôn ấy bằng cách tập trung mãnh liệt vào bổn tôn. Tương tự, tưởng tượng bạn du lịch hay làm những chuyến đi chơi đến những chỗ chưa biết hay thậm chí đã biết sẽ tác động lên những giấc mộng của bạn. Về sau, bạn có thể kéo dài những chuyến du lịch đến cõi trời, làm cho nó xuất hiện thực sự trong giấc mộng.
Nếu ban ngày, bạn tập trung rất nhiều, tưởng tượng bạn đang sống trong một giấc mộng, thì ban đêm bản thân giấc mộng cũng sẽ bớt thực. Chủ thể kinh nghiệm giấc mộng là tâm. Bằng cách duy trì tư tưởng rằng tất cả là một giấc mộng, bạn bắt đầu làm tan biến “chủ thể” này. Tâm bắt đầu làm tan biến chính nó, một cách tự động.
Hay làm theo một cách khác, khi đối tượng hay cái nhìn thấy tan biến, hành động quay lại phía chủ thể, gây ra sự tan biến hoàn toàn. Như thế, không có cái nhìn thấy cũng không có giấc mộng hiện hữu nữa.
Người ta thấy rằng chủ thể là không cụ thể và cái nhìn thấy chỉ là “những phản chiếu”. Như vậy người ta biết bản chất thật của cả hai. Cái nhìn thấy tạo ra bởi nghiệp và cái “đuôi” tâm thức hay dấu in đàng sau hậu cảnh là nguồn gốc mọi vọng tưởng ; nếu tỉnh giác đích thực về sự hư vọng huyễn hoặc sanh ra, người ta đạt đến sự biến mất của “thực tại cứng đặc”. Chứng ngộ là thấu hiểu thực sự trạng thái thức và trạng thái mộng.
Biết thật tánh của giấc mộng, bạn bèn có thể chuyển hóa nó. Chẳng hạn bạn mộng thấy một con rắn, ngay đó nhận biết mình đang mộng, bạn chuyển hóa con rắn thành cái gì bạn thích, như một con người. Vậy đó, không phải giấc mộng chỉ huy người mộng, mà người mộng chỉ huy giấc mộng. Khi bạn có thể thay đổi giấc mộng, phát triển sự khéo léo của bạn bằng cách trộn lẫn những yếu tố của giấc mộng hơn nữa – chẳng hạn, đặt cái ở phía đông thành phía tây, biến ra nhiều hay thu rút lại, đưa cái cao xuống thấp, đặt cái thấp lên cao, hay làm lớn, làm nhỏ. Tiến trình này áp dụng không chỉ cho hình thể vật chất, mà cũng cho những cảm giác. Nếu bạn mộng cái gì thích thú, hãy chuyển hóa nó thành cái khó chịu. Một cách hệ thống, hãy đảo ngược mọi sự.
Nếu bạn có khó khăn trong việc chuyển hóa cái nhìn thấy trong mộng, có thể là trong những giấc mộng của bạn khởi lên quá nhiều hình ảnh của quá khứ, của tuổi ấu thơ, chẳng hạn, hay thậm chí của những đời khác. Trong trường hợp này người ta có thể nói rằng những giấc mộng bị ảnh hưởng bởi cái “đuôi” tâm thức hay hậu cảnh. Người ta thấy khó khăn đáng kể trong sự chuyển hóa một giấc mộng như vậy, trong khi nếu người ta mộng những việc hay chủ đề liên hệ với những tình huống hay sự kiện hiện tại hay mới đây thì sự chuyển hóa dễ dàng hơn nhiều.
Nếu người ta mộng những sự kiện không bao giờ đã xảy ra – hay chẳng hạn, những xứ sở và người không từng biết – cũng rất khó để chấm dứt giấc mộng hay làm hết trạng thái mộng. Nếu tất cả ba hiện tượng này sanh khởi, hòa trộn và lẫn lộn (bag-chag suma), đó là một chỉ dẫn rằng tiến trình siêu vượt trạng thái mộng sẽ lâu dài và cực kỳ khó khăn. Nếu chúng ta có những chướng ngại ngăn chặn chúng ta với sự chiến thắng sau cùng đối với những giấc mộng (ja-lu-pho-wa-chen-mo), chúng ta phải làm một sự phát nguyện sâu xa hơn và cầu nguyện cho sự tiến bộ.
Giữa sự chuyển hóa có ý định, những hình ảnh tự phát có thể sanh khởi. Chẳng hạn, nếu bạn mộng thấy mình đang ở trong một khu rừng, và chọn thay đổi tình huống và đặt mình trong một sa mạc, một số chủ đề có thể xuất hiện khác với cái định phóng chiếu ra. Khi người ta tiến bộ và duy trì được tỉnh giác thiền định, những kinh nghiệm của sáng tỏ khởi lên một cách tự phát.
Tiếp tục tiến đến sự kiểm soát làm chủ trạng thái mộng, kỹ thuật chính yếu tiếp theo là hòa trộn những cái nhìn thấy ban ngày và những giấc mộng. Ngay khi giấc mộng sanh khởi, tức khắc hãy biết rằng đó là “không thật” (sha-dro). Người ta cũng phải đem sự nhận biết tương tự này về tính chất không thật vào cái nhìn thấy hàng ngày của mình.
Khi chúng ta phát triển tỉnh giác về bản chất mộng, chúng ta có thể dùng những giấc mộng để làm sâu thêm tỉnh giác thiền định của chúng ta. Chẳng hạn, một thiền giả thâm nhập vào bản chất của “cái nhìn thấy” (hiện hữu theo hiện tượng) sẽ thấy nó là trống không. Tri giác về tánh Không này của cái nhìn thấy bây giờ có thể được chuyển thành giấc mộng. Nếu đang mộng, bạn không chỉ biết là đang mộng, mà còn ý thức rằng mọi cái nhìn thấy là một ảo ảnh, bạn thâm nhập tánh Không vào tận trái tim nó. Như vậy một giấc mộng có thể chuyển hóa thành hiểu biết về tánh Không, shunyata.
Dù tỉnh giác về thực chất của giấc mộng có thể làm mạnh thêm sự tỉnh giác thiền định, nhưng cũng có mối nguy hiểm rằng khi trở nên khéo léo trong việc chuyển hóa những hình ảnh người ta có thể trở nên bám luyến. Phải chiến thắng sự bám luyến này.
Những biện pháp chính yếu để cắt đứt bám luyến vào những kinh nghiệm mộng có ba cái. Thứ nhất, suốt trong ngày, chớ bám vào những giấc mộng bạn có. Thứ hai, khi thực sự đang mộng, hãy nhìn xem mà không phê phán, không thích hay sợ, bất kể những cái nhìn thấy có vẻ tích cực hay tiêu cực để gây ra vui hay khổ – nghĩa là sự bám luyến. Thứ ba, khi mộng và rồi sau đó, chớ phân biệt cái gì là “chủ thể” với cái gì là “đối tượng” – nghĩa là, chớ xem những hình ảnh xuất hiện là thật. Bằng cách tiến hành theo ba lối này, bạn sẽ thấy rằng những giấc mộng phức tạp dần dần trở nên đơn giản, nhẹ nhàng hơn và cuối cùng biến mất hoàn toàn. Như thế mọi cái bị quy định sẽ được giải thoát. Tới điểm này, những giấc mộng chấm dứt.
Bạn cần cố gắng thực hành ánh sáng tự nhiên mỗi đêm, cũng như bạn cần cố gắng ở trong trạng thái tham thiền liên tục. Đối với mỗi giây phút và mỗi hoạt động có những cách để thực hành Dzogchen. Tuy nhiên, nếu thực hành Dzogchen của ban đêm là khó đối với bạn, và bạn có kinh nghiệm hơn trong sự thực hành giấc mộng theo lối tantra và đã có một quán đảnh nhập môn đối với một bổn tôn riêng biệt, thì có lẽ ích lợi hơn cho bạn khi tiếp tục với sự thực hành tantra này. Chẳng hạn, nếu bạn thực hành Vajra-yogini,(14) thì khi ngủ bạn cần cố gắng quán tưởng một Vajrayogini rất nhỏ ở trung tâm thân thể bạn. Chúng ta gọi hiện thể nhỏ bé này là jnanasattva, có nghĩa là biểu lộ của trí huệ.
Bạn giữ sự hiện diện này và tiếp tục ngủ. Có những thực hành quán tưởng khác tương tự với guru yoga(15) trong những thực hành giấc mộng theo tantra. Chẳng hạn, bạn quán tưởng Vajradhara(16) như là sự thống nhất của tất cả những guru của bạn và biểu lộ sự quán tưởng này trong trung tâm thân thể bạn. Bạn giữ sự hiện diện của quán tưởng này, thư giãn và chầm chậm, chầm chậm đi vào giấc ngủ. Vì đấy là những thực tập tantra, bạn nên chỉ thực hành những giáo huấn đặc biệt đã nhận được từ thầy của bạn.
Ngược lại, trong Dzogchen chúng ta quán tưởng một chữ trắng, để phối hợp năng lực. Chúng ta quán tưởng chữ trắng này ở trung tâm thân thể. Sau khi làm biểu lộ chữ trắng và sáng rỡ này, chúng ta từ từ thư giãn. Chúng ta thư giãn chầm chậm nhưng hoàn toàn khi chúng ta làm quán tưởng này, để cho không có căng thẳng. Nếu chúng ta không thư giãn hoàn toàn, chúng ta không thể ngủ. Chúng ta phải biểu lộ một cách tự phát chữ trắng mà không suy nghĩ, không tạo dựng, và rồi thư giãn mọi cố gắng và vào giấc ngủ.
Để nhắc nhở mình quán tưởng chữ trắng và làm thực hành Dzogchen ban đêm, rất ích lợi khi đặt một tấm hình hay một dấu hiệu chữ trắng gần giường bạn. Không có ai biết cái đó là gì ; có thể họ sẽ nghĩ đấy là một mẫu trang trí. Tuy nhiên, bạn sẽ biết công dụng chính xác của nó.
Cũng rất quan trọng cần nhớ sự thực hành chữ trắng khi bạn thức dậy buổi sáng. Nếu có thể bạn làm âm vang “Ah” một cách tức thời. Nếu bạn không thể nói ra âm “Ah” này vì người khác đang ngủ, bạn thở ra với “Ah”, cho đến khi bạn có thể tự mình nghe và cảm thấy sự hiện diện của chữ trắng này. Đây là một phương pháp guru yoga. Không cần thiết nói nhiều lời hay cầu nguyện ; chỉ đơn giản có sự hiện diện của chữ trắng và nhận biết rằng là sự thống nhất tâm của tất cả các guru là đủ. Bấy giờ bạn có thể nhập vào một trạng thái tham thiền hay rigpa.
Bắt đầu yoga buổi sáng của bạn theo cách này là tuyệt diệu và sẽ giúp cho mọi thực hành của bạn và đặc biệt thực hành ban đêm của bạn. Có một loại nối kết mà bạn làm khi nhớ chữ trắng trong buổi sáng và khi sắp đi ngủ. Nếu bạn duy trì sự hiện diện của chữ trắng trong giấc ngủ của bạn, bạn sẽ có những giấc mộng rõ ràng hơn. Những giấc mộng của bạn sẽ trở nên phối hợp với sự sáng tỏ, và dần dần, dần dần bạn phát triển tỉnh giác lớn hơn.
Nếu bạn biết trong giấc mộng, bạn có thể kinh nghiệm nhiều điều trong trạng thái mộng. Phát triển những thực hành của bạn trong giấc mộng thì dễ hơn trong lúc ban ngày. Trong ngày chúng ta bị giới hạn bởi thân thể vật chất của chúng ta, nhưng trong mộng sinh hoạt của tâm và các thức giác quan của chúng ta không bị ngăn ngại. Chúng ta có thể có nhiều sáng tỏ hơn. Như thế có nhiều khả năng hơn. Chẳng hạn, có thể thực hành những thực hành Dzogchen cấp cao là togel và longde.(17) Nếu bạn thực hành những cái này vào ban ngày chắc chắn bạn có thể có những kinh nghiệm thiền định, nhưng trong một giấc mộng bạn có thể có những kinh nghiệm vượt khỏi giới hạn của thân xác. Đó là tại sao sự thực hành là rất quan trọng. Vào ban ngày mọi kinh nghiệm chúng ta có bị quy định rất nhiều bởi sự bám luyến và căng thẳng của chúng ta. Chúng ta cảm thấy mọi sự là cụ thể. Trong một giấc mộng, ban đầu chúng ta cảm thấy mọi sự là cụ thể, nhưng rồi thình lình nhớ lại rằng đây là một giấc mộng. Khi bạn tỉnh biết trong một giấc mộng, bạn biết bạn đang mộng và điều đó là không thật. Bạn biết rằng bạn đang ở trong một trạng thái không phải thực tại. Một khi bạn có kinh nghiệm này, bạn cũng có thể có những sự khám phá về đời sống hàng ngày của bạn cũng như về những bám luyến chủ yếu của bạn. Kết quả tối hậu là giảm căng thẳng của bạn.
Đối với những người khó tìm thấy một loại hiện diện tôi vừa mô tả, sự thực hành nhập thất trong bóng tối(18) là rất có ích. Sau hai hay ba ngày ở trong bóng tối, bạn mất cảm giác ngày và đêm. Giấc ngủ của bạn dần dần nhẹ hơn. Bạn ngủ và thức dậy, ngủ và thức dậy. Một nhập thất như vậy cho cơ hội tốt để phát triển sự hiện diện và sáng tỏ của bạn. Trong môi trường này bạn có thể dễ dàng khám phá hơn cái có nghĩa là “có hiện diện” khi bạn đang ngủ. Những trạng thái thức và ngủ của bạn như vậy được trở nên hòa nhập.
Thông thường, đối với một hành giả, một trong những cách chính để biểu lộ những dấu hiệu của tiến bộ là ở trong giấc mộng. Đôi khi trong giấc mộng xảy ra một sự can thiệp vì lợi ích của hành giả. Chẳng hạn, tôi đang thực hành sai điều gì đó, tôi có một sự truyền thông qua một giấc mộng. Điều này có thể đến nhờ sự trao truyền giáo lý. Nó cũng có thể đến qua những vị bảo vệ giáo lý, hay những dakini.
Nhiều vấn nạn có thể được giải quyết qua sự trao truyền đến trong giấc mộng. Bạn không thể hy vọng có vị thầy bằng xương bằng thịt luôn luôn sẵn sàng ở bên bạn.
Khi tôi ở Ý đã khoảng ba năm, tôi có một giấc mộng về thầy tôi là Changchub Dorje.(19) Trong giấc mộng tôi thực sự cảm thấy rằng tôi trở về Tây Tạng. Nó có vẻ rất thực, và thật ra tôi cảm thấy hơi sợ người Trung Quốc. Tôi lo âu, và tự nhủ, “Ai biết họ sẽ để tôi ra đi trở lại.” Rồi tôi gặp thầy tôi. Tôi cảm thấy bối rối, vì ý định của tôi là gặp ngài nhanh thôi rồi đi khỏi chỗ đó, và trở về Ý. Thầy tôi nói với tôi, “Đã nhiều năm chúng ta không gặp nhau. Sự thực hành của con tiến thế nào ?” Tôi nói, “Thưa thầy, như vậy và như vậy.” Và ngài hỏi, “Con đang làm thực hành nào ?” Tôi giải thích rằng tôi đang làm hết sức để đem thực hành trechod(20) vào đời sống mỗi ngày. “Con không làm thực hành togel(21) nào cả sao ?” Tôi trả lời, “Không, con không làm thực hành togel.” Ngài hỏi, “Tại sao không ?” Tôi trả lời, “Dạ bởi vì thầy nói con phải hoàn thiện trechod trước. Con phải được rất vững chắc. Thế nên con đang hoàn thiện và làm cho trechod thành rất vững chắc.” Ngài nói, “Tốt lắm, con có nghi ngờ nào nơi sự hiểu biết của con về togel ?” Tôi nói, “Không, không, con không có nghi ngờ nào cả. Con chỉ chưa làm thực hành đó.” Ngài nói, “Tốt hơn là con hãy làm nó. Hãy thực hành togel. Nó rất quan trọng.” Tôi nói, “Vâng, con sẽ làm từ đây trở đi.” Ngài nói, “Hãy nghe đây, nếu con có nghi ngờ nào về togel, hay điều gì con không hiểu rõ, hãy đến hỏi Jigme Lingpa.”(22) Tôi nói, “Jigme Lingpa ở đâu ?” “Trên ngọn núi này, trong hang”, ngài trả lời. “Ở trên nào ?”, tôi hỏi, bởi vì ngay sau làng nơi đạo sư ở, có một vách núi dựng đứng. Khi tôi còn sống với thầy, tôi đã lên đó nhiều lần hái thuốc. Tôi biết rõ không có cái hang nào ở đó. Tôi thầm nghĩ, “Tại sao thầy lại nói với mình có cái hang ở đó ?” Thầy trở nên dữ dằn. Ngài nói, “Nếu thực con muốn hiểu điều gì, con sẽ leo lên đó và tìm thấy Jigme Lingpa trong hang.”
Thế nên tôi không dám biện bác gì nữa. Tôi rất tò mò về điều này. Tôi đi ra và bắt đầu leo núi để tìm cái hang. Một phần của mặt đá màu trắng, nhưng trong giấc mộng tôi thấy nó hơi khác với mình đã từng thấy. Tất cả mặt đá đều được khắc vô số chữ mà tôi có thể đọc bằng tiếng Tây Tạng. Nó giống như một tantra. Tôi nghĩ, “Điều này thật lạ lùng. Nó không giống trước kia.” Và tôi tự nghĩ, “Nếu mình đi, leo trên tantra này, mình sẽ tích tập những hành động xấu.” Đây là một cách suy nghĩ theo người Tây Tạng. Thế nên với sự lo xa này, tôi bắt đầu trì tụng chú một trăm âm.(23) Rồi từ từ tôi tiếp tục leo.
Ở một chỗ nào, có một tảng đá cong và tôi leo lên ; tảng đá này giống như một trang giấy nhỏ, với đầu đề của tantra mà tôi đã leo lên trên. Nó có chữ là Todral donsal ningpo gurd. Trodral nghĩa là vượt khỏi ý niệm ; donsal là làm sáng tỏ nghĩa ; ning-po là tinh túy. Về sau tôi khám phá thực sự có một tantra tên như vậy.
Thế rồi tôi trèo lên và dần dần đến một mỏm núi có một cái hang. Đến gần, tôi nhìn vào trong cái hang khá rộng này. Ở ngay chính giữa, có một hòn đá – một hòn đá trắng, cứng như thạch anh. Ngồi trên hòn đá lớn này là một cậu bé. Tôi chắc rằng cậu không hơn bảy hay tám tuổi. Tôi nhìn chung quanh. Không có ai khác nữa ở đây. Tôi tự nhủ, “Khá lạ lùng. Jigme Lingpa sống vào thời đã khá lâu. Ngài không thể là một cậu bé như vầy.” Trong khi đó cậu bé cứ nhìn tôi. Tôi nghĩ, “Vì thầy mình nói mình đến đây gặp Jigme Lingpa, biết đâu, có thể đây là một thân hóa xuất của ngài chăng.” Tôi nghĩ tốt hơn là phải cư xử lễ phép với cậu bé.
Thế nên tôi đi thẳng đến cậu bé. Cậu mặc bộ áo quần màu xanh trong suốt. Cậu không mang cái gì khác. Cậu có bộ tóc dài, nhưng không cột như các yogi. Cậu trông như một cậu bé bình thường. Tôi thấy điều này khá lạ lùng. Tôi đến trước mặt cậu. Tôi nói, “Đạo sư Changchub Dorje gởi tôi tới thăm ngài.” Cậu bé nhìn tôi. Hầu như cậu ngạc nhiên khi nghe nói vậy. Nhìn vào cậu bé tôi bắt đầu nghi ngờ cậu, nhưng tôi xem cậu bé làm gì. Cuối cùng cậu ra dấu bảo tôi ngồi xuống. Khi tôi ngồi xuống, cậu đưa tay ra sau đầu, lấy ra một cuộn giấy. Cậu mở cuộn giấy và bắt đầu đọc. Khi cậu đọc, đó là giọng của một chú bé, nhưng cậu không cho một lời dạy hay giải thích. Cậu đọc. Cậu đọc bốn hay năm câu. Ngay khi nghe tiếng cậu, tôi hiểu rằng cuộn giấy là một tantra. Vào lúc đó tôi chợt nhận ra, “Ồ quả thật, đây là Jigme Lingpa. Bởi vì một cậu bé bình thường nào đó thì khó có thể tạo ra một cuộn giấy và đọc theo lối này.” Và với cảm xúc này, ý nghĩ sửng sốt này, tôi thức dậy khỏi giấc mộng. Sau đó tôi tìm kiếm công phu những bản văn ấy, và tôi tìm thấy những bản văn đặc biệt về thực hành togel của Dzogchen. Đây là một thí dụ về sự kiện rằng một mối liên hệ giữa thầy và trò luôn luôn hiện hữu bất chấp thời gian và khoảng cách. Thầy tôi ở rất xa, rất xa ở Tây Tạng ; còn tôi đang sống ở châu Âu.
Đấy là một số những khả năng có thể xảy ra trong những giấc mộng khi sự thực hành của người ta tiến bộ.
Nếu bạn ngủ với sự hiện diện của chữ , bạn thấy mình thức dậy buổi sáng với nó vẫn hiện diện. Bấy giờ bạn có thể cho rằng bạn đã để cả đêm để thực hành. Vì đêm thì khá dài, và bạn không có cái gì khác ngoài việc ngủ, thì sử dụng thời gian là điều rất quan trọng. Ban đêm có thể thậm chí trở nên còn quan trọng hơn sự thực hành ban ngày đối với một hành giả.
Mục đích cuối cùng của thực hành giấc mộng là những giấc mộng trở thành tỉnh giác và đến điểm tối hậu, những giấc mộng thực sự chấm dứt. Bạn dùng sự thực hành của bạn để cho những giấc mộng của bạn ảnh hưởng đời sống hàng ngày. Đây là sự thực hành chính yếu của thời gian ban đêm.
CHÚ THÍCH CHƯƠNG HAI
1. Bardo : nghĩa đen, “trạng thái trung gian”. Có sáu bardo. Cái thứ nhất là bardo của trạng thái thức bình thường (TT. kye ne bardo). Đó là kinh nghiệm khi thức và có ý thức như chúng ta đều biết. Cái thứ hai là bardo của trạng thái mộng (TT. milam bardo). Đó là kinh nghiệm thời gian mộng khi ngủ. Thứ ba, bardo thiền định (TT. samten bardo), gồm mọi kinh nghiệm thiền định, từ thiền định của người mới học đến chứng ngộ hoàn toàn. Thứ tư, bardo của tiến trình chết (TT. chilkai bardo), là tiến trình trong đó năm nguyên tố tạo thành thân thể của chúng ta (không gian, không khí, nước, lửa, đất) tan biến cái này vào cái kia. Theo Tử Thư Tây Tạng, trước hết nguyên tố đất màu vàng tan vào nguyên tố nước. Người đang chết đồng thời thấy màu vàng và cảm thấy yếu ớt không đứng dậy được, và mọi thứ chung quanh tan rã. Thứ hai, nguyên tố nước tan vào nguyên tố lửa. Ở bên trong, người đang chết thấy màu trắng và bên ngoài thấy như ngập lụt. Vào lúc này mặt và cổ họng cảm thấy khô và khát dữ dội. Thứ ba, nguyên tố lửa tan vào nguyên tố không khí. Bên trong người đang chết thấy màu đỏ trong khi bên ngoài thì cảm thấy chung quanh nóng. Người ta có thể cảm thấy một cảm giác cháy nóng khi hơi nóng của thân tan biến. Thứ tư, nguyên tố không khí tan vào nguyên tố không gian. Người đang chết thấy màu lục ở bên trong và chung quanh bên ngoài như bị hủy diệt bởi gió và sấm dữ dội. Vào giai đoạn thứ năm, không gian tan vào thức, những hiện tượng trở nên tối tăm, và thức tạm thời mất, như khi bất tỉnh.
Bardo thứ năm (TT. chonyid bardo), bardo của thực tại, bao gồm sự sanh khởi của những xuất hiện và kinh nghiệm như ảo ảnh, là một hậu quả của những khuynh hướng nghiệp. Sử dụng tỉnh giác thiền định, cá nhân có cơ hội nhận biết những hình ảnh này trong bản chất không thật, như huyễn của chúng. Những cái nhìn thấy như ảo ảnh này có bản chất tương tự với những hình ảnh trong những giấc mộng. Từ đó khả năng có được giấc mộng minh bạch có thể được dùng để hiểu chúng là như huyễn. Theo Tử Thư Tây Tạng, một kinh nghiệm giác ngộ là có thể nếu người ta có thể duy trì cái thấy rằng những kinh nghiệm đáng sợ không gì khác hơn là những biểu lộ của chính tâm mình.
Bardo thứ sáu, (TT. sipa bardo), bardo của sự tìm kiếm tái sanh trong sanh tử, liên hệ đến quan điểm về tái sanh của Phật giáo Tây Tạng. Sipa bardo gồm tiến trình nhờ đó một cá nhân sẽ được tái sanh trong một của sáu cõi, theo nghiệp của mình. Với một tương đồng thú vị với lý thuyết phân tâm học, truyền thống Phật giáo Tây Tạng xác nhận rằng cá nhân khi còn trong một thân tâm thức (thần thức), sẽ bị hấp dẫn theo tình dục đến cha mẹ khác phái tính, và có một ghét bỏ đối với cha mẹ cùng phái tính. Thật vậy, theo triết học Phật giáo Tây Tạng, tất cả điều mà thần thức lúc ấy thấy là những cơ quan sinh dục của những người sắp làm cha mẹ mình. Đây có lẽ là nền tảng căn bản nhất của cái mà chúng ta gọi là mặc cảm Oedipus.
2. Tantra : nghĩa đen, “tiếp tục”, theo nghĩa dù mọi hiện tượng là trống không, tuy nhiên những hiện tượng tiếp tục biểu lộ. Mọi phương pháp tantra đều vận hành với nguyên lý chuyển hóa tư tưởng mê lầm thành tri giác thanh tịnh. Tantra cũng ám chỉ những bản văn diễn tả những phương pháp này.
3. Ánh sáng Mẹ : Trong Đại Toàn Thiện, người ta thực hành yoga giấc mộng hay thực hành Tịnh Quang vào lúc rơi vào giấc ngủ và trước khi giấc mộng sanh khởi. Kinh nghiệm Tịnh Quang này được biết như là kinh nghiệm “con”. Nếu qua thực hành thiền định hay tham thiền đúng, Tịnh Quang đã được nhận biết rõ ràng trong đời sống, bấy giờ vào lúc chết hành giả một lần nữa nhận biết và hợp nhất với Tịnh Quang “mẹ”. Tịnh Quang mẹ là quang minh tự nhiên, bẩm sinh, xuất hiện trong sự biểu lộ trọn vẹn nhất của nó trong trạng thái sau khi chết. Xem John Reynolds, Tự Giải Thoát Qua Thấy Tánh Giác Nguyên Sơ (Barrytown, N.Y : Station Hill Press, 1989) trang 153, chú thích 63.
4. Giới thiệu vào tâm tự nhiên : Trong nhiều phương pháp khác nhau giới thiệu vào tâm tự nhiên của người ta, vị thầy cộng tác với học trò trong việc triển khai tánh giác, cũng gọi là rigpa hay tánh giác vốn sẵn của trạng thái tự nhiên của người ta, ám chỉ đến hiện diện thanh tịnh.
5. Lhundrup : nghĩa đen, “tự toàn thiện”. Chữ này ám chỉ trạng thái hay hiện hữu tự nhiên của người ta, nó là toàn thiện từ vô thủy và là tất cả những gì biểu lộ. Những biểu lộ hay phản chiếu này sanh khởi một cách tự phát, và trọn vẹn trong chính chúng. Lhundrup ám chỉ đặc biệt đến sự sáng tỏ bẩm sinh của trạng thái tự toàn thiện.
6. Thân Ánh Sáng : Tây Tạng, ja-lus. Cũng được biết như là “thân cầu vồng”. Một số người đã chứng đắc (những người thực hành những cấp độ Longde và Managede của Dzogchen) hoàn thành sự chuyển hóa những thân thể bình thường của họ thành một Thân Ánh Sáng vào lúc chết. Trong tiến trình này thân vật chất tan vào trạng thái tự nhiên của nó, trạng thái này là trạng thái của Tịnh Quang. Những nguyên tố của thân được tịnh hóa, chúng chuyển hóa từ biểu lộ thô của chúng (thân, thịt, xương v.v...) thành tinh túy thanh tịnh của chúng là năm màu sắc : xanh, lục, trắng, đỏ và vàng kim. Khi thân tan thành năm màu này, một cầu vồng được tạo thành và mọi cái còn lại chỉ là móng tay và tóc. Những người thực hành Dzogchen của thế kỷ hai mươi đã đạt đến Thân Ánh Sáng trong đó có những vị thầy và những thành viên gia đình của Nam-khai Norbu Rinpoche – chẳng hạn, chú của ngài là Orgyen Danzin, hai vị thầy của ngài Changchub Dorje và Ayu Khandro, và thầy của Changchub Dorje là Nyala Pema Dendul.
7. Những kinh mạch mặt trời và mặt trăng : Trong những luận bí truyền tsa-lung tìm thấy trong những bản văn Anu-Yoga của Phật giáo Tây Tạng, có những giải thích tỉ mỉ về những kinh mạch (TT. tsa) trong đó khí lưu thông. Những kinh mạch mặt trời và mặt trăng ở hai bên kinh mạch trung ương (uma), chạy song song với xương sống. Những kinh mạch mặt trời và mặt trăng này tiêu biểu năng lực âm dương. Màu sắc của chúng – đỏ và trắng – cũng như nơi chốn, bên trái hay phải, khác nhau trong các Tantra.
8. Hơi thở tịnh hóa chín phần : Tây Tạng, lungro salwa : Một thực tập hơi thở trước một thời thiền định hay trước lúc thực hành Yantra Yoga. Trong những thực tập này người ta tự quán tưởng hít vào không khí trong sạch và thở ra cái xấu và không trong sạch. Nó được dùng như một thực hành sơ bộ trước khi thiền định để quân bình năng lực và ổn định tâm thức.
9. Tám động tác : Tây Tạng, lung sang : Những thực tập yoga để tịnh hóa prana hay hơi thở. Tám động tác được diễn tả trong bản văn Yantra Yoga, “Sự Thống Nhất của Hệ Mặt Trời và Hệ Mặt Trăng”, được viết ở thế kỷ thứ tám bởi đạo sư Vairocana. Xem Namkhai Norbu, Yantra Yoga (Tsaparang, 1988).
10. Agar 35 và Vimala : dược thảo Tây Tạng. Agar 35 được làm bằng ba mươi lăm chất thiên nhiên ; cả hai Agar 35 là Vimala để chữa mất ngủ và quân bình khí, một tình trạng khí mất trật tự.
11. Ba khí chất : lung (không khí hay khí), dripa (mật) và badkan (đờm). Sự quân bình ba khí chất này là cần yếu cho sức khỏe. Một sự mất quân bình sẽ dẫn đến nhiều loại bệnh tật.
12. Namkhai Norbu, Về sự Sanh và Đời Sống : Một Khảo Luận về Y Học Tây Tạng.
13. Tập trung vào sáu âm và sự tịnh hóa của chúng : Sáu âm – A, Aaah, Ha, Sha, Sa, Ma –, mỗi âm tượng trưng cho một trong sáu cõi, trời, a tu la, người, thú vật, quỷ đói và địa ngục. Những khuynh hướng nghiệp tái sanh một trong sáu cõi này phải được tịnh hóa. Thiền định về sáu âm hợp nhất khí (prana) và định tâm để tịnh hóa những khuynh hướng này. Sự thực hành tập trung vào sáu âm dùng sự quán tưởng và thần chú hướng đến những điểm đặc biệt của thân thể nơi những khuynh hướng này được cho là tập trung ở đó.
14. Vajrayogini : Một hóa thần thiền định trong dạng báo thân, tiêu biểu phương diện nữ tính của trí huệ bổn nguyên.
15. Guru Yoga : Sự hợp nhất với tâm của guru (thầy của mình), ngài được xem là một biểu lộ của những tâm của tất cả các bậc giác ngộ. Tâm của guru được xem là đồng nhất với tánh giác nội tại của người ta. Qua thực hành guru yoga người ta nhận những ban phước từ guru, như thế khiến người ta ở trong trạng thái bổn nguyên. Có những hình thức guru yoga chi tiết và đơn giản. Trong Tantra, người ta thấy một kiểu chi tiết hơn, trong khi trong Dzogchen một kiểu đơn giản hơn.
Một trong những hình thức guru yoga rất thường được Namkhai Norbu Rinpoche dạy là : dùng một chữ “A” màu trắng, chữ Tây Tạng. Chữ được quán tưởng trong trung tâm thân mình như là sự hợp nhất của mọi vị thầy của mình. Bằng cách phát âm “Aaa...h” và cảm thấy những ban phước của những vị thầy, người ta có thể đi vào một trạng thái hợp nhất với tỉnh giác giác ngộ của họ.
16. Vajradhara : Một hóa thần thiền định nam, hình tướng qua đó Phật Thích Ca Mâu Ni phát lộ những giáo lý Mật thừa.
17. Longde : Một trong ba bộ của những giáo lý Dzog-chen. Ba bộ là : “Managede”, hay bộ tinh túy ; “Longde”, hay bộ không gian ; “Semde”, bộ tâm. Những bộ giáo huấn Dzogchen này cuối cùng đều có một mục tiêu như nhau là đem hành giả vào sự tham thiền tuyệt đối. Bộ Longde hoạt động đặc biệt với sự đưa vào bằng biểu tượng và được biết rộng rãi là có những thực hành đem người ta đến tham thiền nhờ những tư thế đặc biệt của thân và giữ áp lực lên những điểm. Xem Norbu, Pha Lê và Đường của Ánh Sáng.
18. Nhập thất trong bóng tối, cũng gọi là Yangtik. Một kỹ thuật thiền định Dzogchen cao cấp được thực hành trong bóng tối hoàn toàn. Nhờ thực hành Yangtik, một người nhập môn đã có thể duy trì tham thiền có thể tiến bộ nhanh chóng đến chứng ngộ hoàn toàn.
19. Changchub Dorje : Vị thầy chính của Namkhai Norbu Rinpoche. Changchub Dorje là một terton và vị thầy Dzogchen. Ngài là vị thầy mà Namkhai Norbu Rinpoche công nhận là đã thực sự đưa mình vào trạng thái Dzogchen. Ngài cũng cho Namkhai Norbu Rinpoche sự trao truyền Semde, Longde và Managede. Dù là một vị thầy phi thường, Changchub Dorje có một lối sống giản dị, mặc áo quần dân quê bình thường. Ở Nyalagar, vùng Derge, Đông Tây Tạng, ngài hướng dẫn một cộng đồng nhỏ những người thực hành Dzogchen. Ngoài sự việc là một lama, ngài là một y sĩ giỏi. Người ta đến từ những nơi xa xôi để nhận lãnh cả những giáo pháp và những chẩn bệnh. Vào lúc cuối đời, ngài đạt được Thân Ánh Sáng Cầu Vồng.
20. Trechod : Nghĩa đen là “cắt đứt”, từ ngữ này ám chỉ kinh nghiệm thư giãn, buông bỏ toàn diện. Trechod là phương pháp duy trì trạng thái rigpa của mình qua suốt mọi hoàn cảnh. Trechod là khả năng cắt đứt tư tưởng lan man và nhị nguyên vào bất kỳ khoảnh khắc nào, đem mình đến sự hiện diện thuần khiết
21. Togel : “Vượt qua chỗ trên hết” hay “nhảy qua”. Sau khi thành công hoàn toàn sự thực hành trechod, người ta thực hành togel. Togel là vô ích khi không có một thực hành trechod hoàn hảo và do vậy là bí mật cho đến khi đó. Togel được xem là cái nhanh nhất trong những phương pháp để thành tựu chứng ngộ toàn diện. Thực hành togel đem lại sự hợp nhất của cái nhìn thấy và tánh Không. Người ta tiếp tục phát triển tham thiền trong thiền định nhờ cái nhìn thấy cho đến khi Thân Ánh Sáng biểu lộ. Xem Pha Lê và Đường của Ánh Sáng, trang 101 và John Reynolds, Tự Giải Thoát Qua Thấy Tánh Giác Nguyên Sơ, trang 136, chú thích 33.
22. Jigme Lingpa (1729-1798) : Một tái sanh của Vima-lamitra, Jigme Lingpa là một Đạo sư vĩ đại của Dzog-chen Nyingma từ vùng Đông Tây Tạng. Ngài là một đại học giả và đã sưu tập và xuất bản Longchen Nying-thig, những giáo lý sưu tập của Longchenpa. Jigme Lingpa cũng viết nhiều về y học và lịch sử Tây Tạng, và hoạt động cho sự phát triển của phái “Rimed” không bộ phái của Phật giáo Tây Tạng trước khi hoàn thành Thân Ánh Sáng.
23. Thần chú một trăm âm của Vajrasattva : người ta tịnh hóa nghiệp xấu và những che chướng nhờ trì tụng thần chú này, một trong những thần chú được biết tiếng nhất trong Phật giáo Tây Tạng.

3 Chuyến Hành Hương Đến Maratika
Năm 1984, Norbu Rinpoche đi hành hương từ bắc Nepal đến tu viện Tolu, và đến động Maratika(1) nơi đại Thành Tựu giả(2) Padmasambhava(3) đã nhập thất với phối ngẫu của ngài là Mandarava.(4) Sau đây là một tường thuật một loạt những giấc mộng đáng chú ý Rinpoche có trên hành trình, bắt đầu với một giấc mộng đã có hai ngày sau khi đến tu viện.
Địa điểm của giấc mộng chính là Tu Viện Tolu. Nếu bạn mộng thấy một nơi chốn hay một sự vật bạn đã từng ở trong quá khứ, điều này thường phản ảnh một sự lập lại dấu vết nghiệp ; nếu bạn mộng thấy một nơi chốn hay hoàn cảnh bạn chưa từng ở, điều này phản ảnh một ước ao hay mong muốn. Ngược lại, nếu bạn mộng thấy nơi chốn bạn đang ở, điều này thường có ý nghĩa. Như thế tôi hiểu đây là một giấc mộng quan trọng.
Trong giấc mộng tôi ở động Tolu, và thậm chí có cả người đã đi cùng tôi cũng ở đó. Tôi đang dạy học trò, thì chú tôi tới. Tôi phải nói rằng người đến với chúng tôi không chỉ là chú của tôi, ông còn là một vị thầy chính của tôi, và là một hành giả phi thường và một terton.(5)
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe một câu chuyện ngắn nói lên phẩm tính đáng ghi nhận của cuộc đời chú tôi. Khi tôi còn nhỏ, tôi sống gần một tu viện. Tôi còn nhớ có lần một con ngựa còn nhỏ bị chết. Đàn kên kên ăn con ngựa, nhưng ăn xong, một con kên kên ở lại. Chú tôi yêu cầu hai nhà sư đi đem con kên kên ấy về.
Khi trở về tu viện với con kên kên, hai nhà sư nói rằng con chim đã bị thương. Có một mảnh sắt nơi vai nó. Một nhà sư thử lấy nó ra, nhưng con kên kên vùng vẫy và chú tôi bảo ông ngừng tay và thả nó trong một khoảng vườn kín. Tôi nhớ mình đã thấy lạ lùng làm sao khi con kên kên yên lặng và thụ động như vậy. Thật vậy, toàn thể tình huống càng lúc càng trở nên lạ thường.
Hôm sau chú tôi bảo tôi cho kên kên một ít sữa. Khi tôi đến khu vườn hình bán nguyệt, với một sàn gỗ và nắp đậy trên, con kên kên ngồi im bất động. Tôi đặt sữa trước mặt nó. Hơi cử động cái đầu nó bắt đầu uống. Nó uống hết sữa tôi đưa, và khi uống xong nó bắt đầu chạy, và vỗ cánh nhè nhẹ. Vườn rộng nên nó có thể chạy một khoảng dài. Nó chạy đến gần cuối vườn, và rồi trên nửa đường trở lại, nó dừng lại và mảnh kim loại, một que sắt, rớt ra từ cánh nó. Ngay khi mảnh sắt rớt ra, con kên kên bay lên, ngắm hướng Đông nơi có núi lớn là Sitang. Tu viện Dzogchen(6) nổi tiếng ở sau núi đó. Đó cũng là ngọn núi chú tôi thường sống trong một cái hang.
Chúng tôi xem mảnh sắt rớt ra từ cánh kên kên. Nó khá dài. Khúc đầu cắm trong cánh có hình tam giác. Tôi còn nhớ âm thanh trong khi mảnh kim loại rớt ra từ đôi cánh. Câu chuyện này chỉ là một trong những chuyện lạ thường xảy ra quanh chú tôi.
Thế rồi, vào dịp ấy khi ở Tolu, chú tôi hiện ra trong giấc mộng của tôi. Trong giấc mộng ông khoảng mười bốn mười lăm tuổi. Ông nói với tôi rằng ông rất bằng lòng tôi đã cho một bài thuyết pháp đẹp đẽ, có ích cho bất kỳ ai. Tôi hỏi ông có thật sự nghe không. Ông trả lời ông đã nghe từng lời. Trong giấc mộng tôi đã dạy Thik Sum Nedek,(7) ba tuyên bố cuối cùng nổi tiếng của Garab Dorie.(8) Rồi chú tôi yêu cầu tôi giải thích gomter(9) của tôi về Namkha.(10) Tôi trả lời cho ông rằng giấc mộng của tôi về Namkha không phải là một gomter.
Hãy cho tôi giải thích điều tôi đang nói. Một vài năm trước, tôi ở thành phố New York. Tôi có một khóa thảo luận với sinh viên về chức năng của những nguyên tố và năng lực, cũng như về lịch sử Tây Tạng. Ở khóa này tôi giải nghĩa những nguyên tố và tác dụng của chúng theo truyền thống cổ của đạo Bon.(11) Đêm ấy tôi có một giấc mộng, trong đó có một cậu nhỏ mặc đồ màu xanh. Tôi hỏi cậu là ai, và cậu trả lời cậu tên là Puel. Puel là một vị thần nổi tiếng của đạo Bon, đặc biệt được biết về khả năng dự đoán theo chiêm tinh.
Tôi nói, “Nếu ông thực là Puel, hãy giải thích cho tôi về chức năng của những nguyên tố, và làm sao người ta có thể điều hòa chúng khi có những rối loạn.” Cậu trai bé nhỏ này mới giải thích những loại chức năng khác biệt của những nguyên tố, liên hệ với thân thể, đời sống, may mắn, khả năng v.v... Qua đó tôi khám phá nguyên lý chính xác của Namkha, phương pháp điều hòa những nguyên tố của một con người.
Tôi nói với chú tôi rằng giấc mộng này về Puel không phải là một gomter, nó chỉ là một giấc mộng, nhưng ông nhất định rằng nó là một gomter cho nên ông muốn có một sự trao truyền. Vì chú là thầy của tôi, tôi không cảm thấy thoải mái với lời yêu cầu của ông, nhưng ông cố nài nên cuối cùng tôi đọc cho ông cuốn sách, và như thế trao truyền cho. Sau khi xong, ông nói rằng Namkha sẽ là một thực hành quan trọng trong tương lai. Ông cũng nói rằng tôi phải thực hành và dạy về “thực hành năm bóng tối”. Tôi hỏi thực hành năm bóng tối là gì. Ông nói rằng sẽ có vài chỉ dẫn về sau này. Đó là một trong những giấc mộng của tôi.
Suốt những ngày chúng tôi ở Tu Viện Tolu, tôi có liên tục những giấc mộng cực kỳ quan trọng, và chúng tôi đến gần ngày hai mươi lăm, ngày có ý nghĩa về mặt chiêm tinh.(12) Tôi hơi khó ngủ. Với quan tâm điều gì xảy ra giờ đây, tôi đi ngủ, nhưng không thể ngủ chút nào. Cuối cùng, khi tôi ngủ, tôi thấy mình trong một loại giấc mộng, trong đó tôi đang nói với ai đó. Tôi thực sự không biết tôi đang nói với người nào khác, hay đang nói chuyện với chính mình.
Tiếng nói bảo tôi thư giãn, trước hết hơi thở, và rồi thân thể, cho đến khi tôi thấy mình trong trạng thái thư giãn của Samaya.(13) Tôi thầm nghĩ rằng tôi chưa bao giờ nghe nói về trạng thái thư giãn này của Samaya. Tuy nhiên, tôi cố gắng hoài và đặt mình vào trạng thái ấy. Có lúc, do sự khó chịu với những điều kiện ngủ ở Tolu, tôi thức dậy. Thật vậy, tôi thức dậy ít nhất hai hay ba lần trong khi cố gắng đi vào trạng thái thư giãn. Trong một dịp thức dậy ấy, tôi nhận được những lời dạy trong mộng rằng hãy tháo lỏng đôi xà cạp để leo núi, mà do vì quá mệt tôi đã không tháo ra trước khi đi ngủ.
Khi thức dậy nhớ những lời dạy, tôi cởi chúng ra, và ngủ lại một lần nữa, từ từ thư giãn vào trạng thái Samaya. “Chưa hoàn toàn”, tiếng nói nói, “chúng ta phải có hơi thở tươi tắn hơn, dễ dàng hơn.” Để tuân theo, tôi mở rộng lều cho không khí trong lành, dù lúc đó trời rất lạnh và gió nhiều. Một lần nữa tôi lại ngủ và đi vào Samaya. Tôi lại nghĩ rằng Samaya này không phải hoàn hảo, cũng không thực sự là một trạng thái tham thiền nhập định.(14)
Tiếng nói trở lại, bảo “Bây giờ điều phải làm, là đi vào trạng thái của Pháp giới (Dharmadhatu).(15) Như được chỉ dạy, tôi thư giãn, và hướng đến trạng thái của Pháp giới này. Khi ấy tôi thức giấc vì một tiếng ho từ lều bên cạnh.
Tôi đi ngủ lại một lần nữa, và hướng mình qua những cấp độ thư giãn liên tiếp nhau. Tái đi tái lại tôi thức giấc vì lý do này hay lý do khác, và rồi mỗi lần bắt đầu lại từ đầu. Rồi thình lình tiếng nói cất lên, “Chúng ta ở đây, đây là trạng thái của Pháp giới”, với tôi nó có vẻ là trạng thái tham thiền nhập định.
Bây giờ tiếng nói chỉ cho tôi hướng mình đến trạng thái khác. Khi tôi làm điều này, bắt đầu xuất hiện một loại tigle(16) tương tự với cái đã xuất hiện trong một giấc mộng trước ở động Tolu. Tôi cũng thấy một bản viết gì đó, và tôi thức dậy một lần nữa...
Tôi phải bắt đầu lại từ đầu, thư giãn trải qua những giai đoạn khác nhau cho đến khi tigle xuất hiện trở lại. Cái tôi thấy trong tigle là đầu đề một bản văn. Lần này sau đầu đề, có xuất hiện một bản văn, tôi nhìn vào đó thấy như một màn hình phim chiếu bóng. Lần lượt một loạt những thực hành thiền định xuất hiện. Tôi đọc từng trang, nhưng nếu ở điểm nào tôi không thể đọc, tôi chỉ cần nghĩ rằng nó không rõ ràng, và phần không rõ ràng sẽ trở lại. Nó tự lập lại như tôi có một loại điều khiển từ xa. Theo cách này tôi đọc toàn bộ bản văn từ đầu đến cuối ít nhất ba hay bốn lần.
Do những ngắt quãng tôi thường thức dậy. Nhưng mỗi lần tôi ngủ trở lại, và tôi bắt đầu với Samaya và mọi thứ còn lại, và rồi bản văn tiếp tục.
Thình lình có giọng nói, “Bây giờ ngươi đang ở trong trạng thái tiếp theo.” Cái phân biệt trạng thái này với trạng thái khác là bây giờ một ít chữ không hoàn toàn rõ xuất hiện chiếm toàn bộ không gian. Không chú tâm hay nhìn chăm chú, chúng xuất hiện. Như thế, tôi tiếp tục đọc và việc này tiếp tục không gián đoạn cho đến sáng.
Vào lúc này tôi ho mạnh và thức dậy. Những chữ vẫn còn dù mắt tôi đã mở. Đó không phải là một giấc mộng. Tôi thấy chúng một thời gian ngắn, và rồi chúng biến mất. Tôi nghĩ rằng có lẽ đây chỉ là ảnh hưởng của giấc mộng. Tò mò, tôi tiếp tục nhìn vào bầu trời. Trời rất trong và không có cái nhìn thấy nào nữa.
Tôi nhớ một lần tôi đang nhập thất ở Na Uy. Tôi đang giữa thời một thực hành khi cùng một điều như vậy xảy ra. Tôi nói với một số người về kinh nghiệm của tôi vào lúc đó. Trước kia tôi đã đọc về Snang-ba-yi-ger-shar(17) trong những tiểu sử của một số vị thầy thành tựu. Ở Na Uy tôi nhớ lại đã nghĩ rằng trước kia tôi không hiểu câu “Snang-ba-yi-ger-shar” có nghĩa gì. Dù sao, tôi ngủ lại một lần nữa, và thư giãn qua những giai đoạn liên tiếp. Trong giấc mộng, khi được dạy đi vào những trạng thái thư giãn khác nhau, thình lình tôi có một ý nghĩ về một trạng thái thậm chí còn hơn – một cái gì có tên là “Bya-grub-yeshe”, trạng thái cao nhất của trí huệ. Tiếng nói trả lời ý nghĩ tôi, “Nó sẽ đến khi mọi thứ đã trọn vẹn.” Rồi đến sáng. Tôi thực sự mệt mỏi. Người nào khác thì vẫn còn muốn ngủ. Đó là câu chuyện của ngày hai mươi lăm.
Ngày tiếp theo chúng tôi có một cuộc leo núi dài. Chiều hôm đó, khi tôi ngủ, tất cả xảy ra trở lại. Tôi lại đọc bản văn vài lần, và đặc biệt khoảng giữa các chữ không được rõ. Tới một lúc thình lình tôi thức dậy. Tôi thấy đầu mình phủ một tấm mền. Gió nhiều đến độ tôi phải tự che mình. Mở mền ra, tôi mở mắt và nhìn ngay vào bầu trời. Ở đó, rất ngắn ngủi, vẫn còn những chữ.
Bây giờ tôi muốn kể cho các bạn một giấc mộng vào đêm đầu tiên chúng tôi đến động Maratika. Trước khi vào giường tôi tự nghĩ rằng ngày mai sẽ là một ngày tốt đẹp để bắt đầu một thực hành thiền định sống lâu mà tôi đã mang theo. Tôi chưa hoàn toàn phát triển một phương pháp đặc biệt để làm thực hành này, nhưng tôi đã mang bản văn thực hành theo cùng bởi vì tôi nghĩ rằng Maratika là một chỗ tốt để thực hành nó.
Đêm ấy tôi mộng thấy tôi đang sửa soạn làm thực hành trong một cái hang lớn. Tôi đang giải thích phải thực hành như thế nào và đang làm lễ quán đảnh để cho những học trò thực hành. Bình thường, trong truyền thống của chúng ta, để làm một thực hành sống lâu, người ta cần một quán đảnh nhập môn sống lâu.
Những bạn nào biết tôi đều biết rằng tôi không phải là loại người kiểu mẫu trong việc làm những quán đảnh nhập môn tỉ mỉ và nhiều hình thức, nhưng tôi luôn luôn nói rằng cần thiết làm một loại quán đảnh(18) để cho phép thực hành. Trong giấc mộng tôi có ý niệm rằng trước tiên tôi sẽ cho một giải thích cẩn thận về ý nghĩa của quán đảnh. Khi người ta đã hiểu rõ nó, tôi sẽ ban cho quán đảnh với thần chú. Sau đó, chúng tôi sẽ thực hành chung ; điều đó tạo nên sự trao truyền lời nói.
Thế rồi, trong giấc mộng tôi giải thích mỗi điểm về quán đảnh là gì, bắt đầu bằng quán đảnh của thân. Vào lúc đó tôi nhận thấy có một người bên cạnh đưa cho tôi cái gì đó. Tôi quay qua phía người đó, và thấy rằng người ấy không phải một con người bình thường. Tôi chắc chắn điều này, bởi vì mới nhìn tôi thấy phần dưới của thân anh ta là thân một con rắn. Tôi nghĩ rằng có lẽ đây là Rahula,(19) một trong những hộ pháp, nhưng khi tôi nhìn vào mặt thì có vẻ khác. Rồi tôi nghĩ rằng có lẽ người ấy là, hay tượng trưng cho, một người nào tôi đã từng biết. Tôi nhìn lại – khuôn mặt người ấy giống như rồng. Thân thì màu trắng. Thình lình anh ta đặt cái gì đó vào tay tôi.
Nếu bạn đã có một quán đảnh, bạn biết rằng thường có người phụ giúp vị thầy bằng cách đưa cho vị thầy những đồ vật. Vào đúng lúc trong buổi lễ, người trợ tá đưa cho vật thích hợp. Trong giấc mộng người giống như rồng này đưa cho tôi một vật tròn để tôi xác nhận quán đảnh của thân tôi sắp ban.

Tôi cầm vật tròn vào tay. Đó là một cái gương, nhưng trên vành có mười hai cái gương nhỏ. Xung quanh tất cả những cái gương nhỏ này có một loại cầu vồng. Và nơi chu vi là lông công. Nó rất đẹp. Khi tôi cầm vào tay, tôi biết rằng đây là vật để làm quán đảnh thân.
Bình thường trong một quán đảnh, gương tượng trưng cho tâm, phương diện thông hiểu. Tức thời trong giấc mộng một giải thích đến với tôi : “Thân thể có vẻ có chất thể, nhưng nó thật là trống không. Biểu tượng cho điều này là sự phản chiếu xuất hiện như là hình thể của chúng ta trong gương.” Nói lời giải thích này xong, tôi dùng gương trong giấc mộng để ban quán đảnh của thân. Trong giấc mộng tôi chạm gương vào đầu của mỗi người nhận quán đảnh. Với mỗi người tôi cũng tụng một thần chú.(20)
Tiếp theo tôi bắt đầu giải thích quán đảnh của lời nói. Vào ngay lúc đó tôi cảm thấy sự hiện diện của một người khác bên trái tôi. Người này cũng đưa một cho tôi một vật để xác nhận. Vật đó là một xâu chuỗi (mala)(21) làm bằng những viên hồng ngọc đỏ sậm làm thành hình số tám. Tôi xem cẩn thận người đưa cho xâu chuỗi. Người ấy có một thân đỏ sậm, và chỉ có một con mắt. Tôi lại nghĩ rằng đây không phải là người bình thường, có lẽ là Ekajati.(22) Mặt khác, người ấy không hoàn toàn giống Ekajati, và trong tay bà là những đồ vật lạ lùng này. Dù sao, ngay sau khi trao tôi xâu chuỗi, tôi lại thấy mình ban cho một giải thích.
“Xâu chuỗi này tượng trưng cho sự phát âm liên tục của thần chú.” Tôi không chỉ giải thích tác động, chức năng của thần chú, mà cũng cho một giải thích rất khác thường về hình thức thần chú này, được trình bày trong hình thức một số tám. Điều này hoàn toàn lạ lùng bởi vì sự giải thích không có gì ăn nhập với thực hành sống lâu (Cedrup Gondus) của Nyala Pema Dendul(23) mà tôi đã đem theo đến đây.
Ngày hôm sau, sau khi mộng thấy một thực hành sống lâu khác dành cho dakini Mandarava, tôi khám phá rằng thực sự có một thực hành Yantik, nó bao gồm sự quán tưởng này. Trong lúc ấy nhân vật Ekajati đặt vào tay tôi một vật khác, vật này là một biểu tượng để cho quán đảnh của tâm. Vật ấy giống như một chữ Vạn, nhưng ở trên đỉnh có những cái đinh ba. Nó được làm bằng đá xanh trong suốt và quý giá.
Rồi tôi giải thích ý nghĩa sự trao truyền của tâm. Sau đó, tôi đặt vật này lần lượt ở trái tim của mỗi người. Cùng lúc đó tôi đọc chú liên hệ với quán đảnh của tâm. Sau khi tôi đặt vật ấy nơi trái tim của người thứ nhất, tôi thấy rằng nó để lại một dấu in và dấu in của vật ấy quay, với một âm thanh nho nhỏ. Nó có vẻ rất sống động. Khi tôi quán đảnh cho người kế tiếp, sự việc như vậy lại xảy ra. Cuối cùng khi tôi hoàn tất tôi thấy rằng mọi dấu in chữ Vạn vẫn còn quay. Tôi làm buổi lễ quán đảnh như vậy, và rồi tôi thức dậy. Ngày hôm sau tôi quyết định nhập thất trong hang. Nhiều học trò đi theo tôi trong cuộc hành hương này cùng làm thực hành Pema Dendul trong hang Manda-rava.
Ngày hôm sau tôi có giấc mộng đặc biệt khác. Dù nhiều người trong đoàn chúng tôi chưa đến, tôi nằm mộng rằng tất cả chúng tôi đều ở trong hang. Chúng tôi đã thực hành và tôi đang cho những giáo pháp. Có vẻ như giấc mộng của đêm trước được tái tạo lại một cách chính xác. Bên trái tôi là nhân vật màu đỏ với một con mắt. Một lần nữa bà cầm nhiều đồ vật trong tay ; lần này bà đưa cho tôi một quả cầu pha lê.
Bây giờ tôi rõ rằng vị này phụ giúp tôi khi tôi dạy. Tôi cầm pha lê vào trong tay và nhìn nó. Ở trung tâm của pha lê tôi thấy một chữ. Ngay khi vừa thấy chữ đặc biệt này, tôi biết rằng đây quả thực là Ekajati. Tôi cũng có một cái nhìn thấy trong mộng rất rõ ràng về hộ pháp Ekajati khuyên bảo tôi : “Đây là lúc để mở kho tàng tâm con của vòng đời sống của Vajra, sự thực hành dakini để đạt được sống lâu.”
Nhìn vào trong quả cầu pha lê nhỏ, tôi có thấy những tia sáng chiếu khắp mọi hướng từ chữ ở giữa, nhưng chúng không chiếu ra ngoài quả cầu. Khi cầm quả cầu tôi hỏi, “Vật gì đây ?” Bà nói, “Đây là ‘Ta-te’. Con phải làm ‘Ta-te’.” Tôi trả lời, “Con không hiểu.” Khi tôi nói thế, hình như pha lê biến mất trong tôi. Tôi nhìn quanh để thấy Ekajati, nhưng bà cũng biến mất.
Ngay khi thức dậy, ý nghĩ đầu tiên của tôi là “Ta-te”, và nó có nghĩa là gì. Còn lâu trời mới sáng, tôi có thì giờ, thế nên tôi tiếp tục tập trung vào từ ngữ “Ta-te”. Đây không phải là một chữ quen thuộc. “Ta” nghĩa là thanh tịnh, “te” nghĩa là đương đầu, hay đôi khi có nghĩa là lập danh sách. Trong trạng thái nửa thức tôi nghĩ về chữ này, thì chợt đến với tôi ý nghĩ tôi được yêu cầu viết ra bản văn, và về sau viết lại nó mà không dò theo bản văn thứ nhất để thử nghiệm sự chính xác của nó. Bây giờ thì rõ ràng điều tôi phải làm.
Sau khi tắm rửa, tôi lấy giấy và bút, và đi đến một hòn đá. Rồi không có một dàn bài nào, tôi viết bất kỳ cái gì đến với tâm trí tôi. Tôi viết vài trang, và cái nổi lên là một buổi lễ của Ekajati. Đây là sự bắt đầu. Sau đó tôi đi ăn sáng. Trong thời gian ăn sáng tôi yêu cầu một học trò đem cho tôi một cuốn sổ tay. Khi xong buổi ăn sáng mà bà ấy chưa trở lại, thế nên tôi lấy một cuốn sổ tay khác đến một chỗ đặc biệt nơi tôi đã ở ngày đầu tiên, một nơi thần lực của Maratika, và ngồi xuống.
Tôi sắp bắt đầu thì bà học trò đến với một cuốn sổ tay màu đen và một cây bút đỏ. Tôi bắt đầu viết, như là viết một lá thơ. Tôi mở đầu bằng địa danh Mara-tika, giờ và ngày. Lúc đó là 9 giờ 15 sáng. Khi tôi đang viết, những người trong nhóm tôi đi đến. Một số họ không biết tôi đang làm gì. Khi họ đến gặp tôi, tôi cố tránh họ.
Dù những gián đoạn, tôi viết xong lúc 12 giờ 15. Khi chấm dứt, tôi đã dùng hết trang cuối cùng, đúng vào dòng cuối cùng của cuốn sổ tay. Có vẻ đó như có chủ ý sắp đặt. Tôi tự nghĩ rằng đó là một dấu hiệu tốt.
Trở lại chỗ đóng lều, tôi đưa bản văn cho hai học trò giữ trong vài ngày. Tôi nghĩ sau vài ngày nữa tôi sẽ viết lại. Đó sẽ là “Ta-te”, bản thứ hai để đối chiếu với bản thứ nhất để xác định sự đích xác của nó. Điều này sẽ là chứng cớ rằng bản văn là đích thực chứ không phải chỉ là một trò chơi của trí năng.
Hai ngày trôi qua. Vào ngày thứ ba, tôi có một giấc mộng chỉ cho rằng thời gian đã đến để viết và làm vài minh giải. Sau khi hoàn thành thực hành buổi sáng tôi lại ngồi viết, và tiếp tục cho đến buổi ăn trưa. Lần thứ hai tôi viết ra bản văn thì rất an bình và chữ viết dễ dàng. Lần này mất hai giờ rưỡi. Rồi tôi yêu cầu đem bản chánh lại, và chị tôi so sánh hai bản. Gần như không có khác biệt nào, chỉ trừ hai hay ba sửa chữa về văn phạm.
Đây là câu chuyện nguồn gốc bản văn thực hành này, một thực hành để phát triển một đời sống lâu và vững chãi. Bản văn gồm những thần chú, những thực tập hơi thở và kiểm soát năng lực cũng như quán tưởng. Cũng có những giáo huấn về những luân xa và những kinh mạch. Trong truyền thống Tây Tạng loại thực hành này thường được đóng dấu niêm phong, nghĩa là nó được giữ bí mật trong rất nhiều năm. Khi bạn đang giữ một vật bí mật như vậy bạn thậm chí không được phép nói rằng bạn đang giữ một vật bí mật. Trong trường hợp này điều đó không cần thiết. Không có sự chỉ dẫn bản văn ấy cần được niêm kín. Tôi không có bí mật để giữ gìn ; bởi thế, tôi nói về nó. Tôi cũng nói về nó ở Maratika, và đã làm sự trao truyền những thần chú.

CHÚ THÍCH CHƯƠNG BA
1. Động Mandarava ở Maratika : Bắc Nepal, nơi Norbu Rinpoche đã ẩn cư năm 1984, có hai động thiêng. Cái lớn gắn liền với Padmasambhava, và cái nhỏ với Man-darava. Vào thế kỷ thứ bảy, Mandarava – cùng với Guru Padmasambhava – đã thực hành và đạt được bất tử trong động này, do đó nó được biết là Động của Đời Sống Thọ.
2. Mahasiddha : Sankrit, nghĩa đen là “Đại Tinh Thông”. Maha là đại, siddha là người đã đạt được siddhi – những năng lực tâm thần và tâm linh. Trong Phật giáo Tây Tạng có kiểu mẫu Tám Mươi Bốn Đại Thành Tựu Giả (Mahasiddha) gồm đàn ông và phụ nữ đã đạt những năng lực siêu nhiên. Những hành giả tantra này sống ở Ấn Độ và Nepal vào thế kỷ thứ tám.
3. Guru Padmasambhava : Sanskrit, padma (hoa sen) và sambhava (sanh). Một đạo sư Phật giáo Ấn Độ về Tantra và Dzogchen từ Oddiyana. Ngài được biết là “Liên Hoa Sanh” vì sự sanh ra kỳ diệu từ hoa sen. Guru Padmasambhava biểu lộ một cách tự phát là một chú bé tám tuổi ngồi trên một hoa sen giữa hồ ở Oddiyana. Ngài đưa Phật giáo đến Tây Tạng từ Ấn Độ ở thế kỷ thứ tám. Với những năng lực phi thường của mình, Guru Padmasambhava chiến thắng những chướng ngại ngăn cản Phật giáo cắm rễ vào đất Tây Tạng.
4. Mandarava : Công chúa Ấn Độ này từ Mandi là một trong những phối ngẫu chính của Padmasambhava. Bà bỏ cuộc đời vương giả để thực hành Pháp. Bà được biết tiếng nhất do làm chủ sự thực hành sống lâu với Padmasambhava. Bà được cầu khẩn trong một số nghi thức Tantra nhằm mục đích kéo dài tuổi thọ.
5. Terton : Người khám phá terma, hay những bản văn Pháp được cất dấu với mục đích để được khám phá về sau. Những terma được tin là dấu trong cây, hồ, đất và thậm chí trong bầu trời.
6. Tu Viện Dzogchen : Trong thế kỷ mười bảy, ở Kham (Đông Tây Tạng) Tu Viện Dzogchen được xây dựng bởi Dzogchen Rinpoche thứ nhất, Pema Rigzin. Nó trở thành tu viện lớn nhất của Nyingma. Tu viện được xem là một trong hai mươi lăm nơi hành hương lớn của miền Đông Tây Tạng. Sát cạnh tu viện là động thiêng của Padmasambhava và ba hồ thiêng. Nhiều học giả nổi tiếng của tất cả bốn phái Phật giáo Tây Tạng và từ truyền thống Bon đã học ở Tu Viện Dzog-chen. Patrul Rinpoche và Mipham là hai vị trong số đó. Năm 1959 Tu Viện Dzogchen bị người Trung Quốc hủy hoại. Tu viện hiện giờ được xây lại ở Mysore, Nam Ấn Độ.
7. Thik Sum Nedek : Ba tuyên bố của Garab Dorje. Bản văn này tóm lại những giáo lý Dzogchen trong ba điểm thiết yếu : (1) Sự giới thiệu trực tiếp trạng thái bổn nguyên từ thầy qua trò. (2) Người thực hành không nghi ngờ gì nữa về trạng thái bổn nguyên là thế nào. (3) Người thực hành tiếp tục trong trạng thái của tánh giác bổn nguyên cho đến khi chứng ngộ hoàn toàn.