CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN

CHƯƠNG I: Đức Phật Thầy Tây An


1 Hành vi và thân thế buổi đầu.

Đức Phật Thầy Tây An chính danh là Đoàn Minh Huyên, sanh vào giờ Ngọ ngày rằm tháng mười năm Đinh Mão (1807), nhằm năm Gia Long thứ sáu.

Ngài quê ở làng Tòng Sơn (1), tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sađéc. Tổ phụ ở đó từ lâu, nhưng tên họ là gì ngày nay không ai biết được. Chỉ biết trong thân tộc của Ngài, thuở Ngài mới ra đời, còn có hai người (anh chú bác) là Đoàn văn Điểu và Đoàn văn Viên (2) mà thôi. Về sau, khi hai ông nầy mất đi, con cháu vì trải qua nhiều lần tao loạn trong nước nên hoặc chết, hoặc xiêu lạc đi nơi nào mà hiện nay ở Tòng Sơn không còn thấy roi truyền miêu duệ.

Căn cứ vào nhiều bậc bô lão ở đây cho biết chắc chắn thì Đức Phật Thầy bỏ nhà ra đi từ lúc tuổi còn nhỏ lắm. Ngài đi đâu và làm gì, cả trong làng cho đến những người thân thuộc của Ngài cũng không ai hiểu được. Lần hồi, ngày lụn tháng qua, tên tuổi và hình dạng của Ngài chôn sâu vào thời gian, người ta không còn nhớ một mảy may gì về Ngài nữa.

Một hôm, khoảng đầu năm Kỷ Dậu (1849), Ngài quá giang với một chiếc ghe buôn từ miệt trong (?) về. Lúc đền vàm rạch Tòng Sơn. Ngài lên bộ lần theo bờ rạch mà đi (thuở ấy đuôi làng Tòng Sơn ngang làng Tịnh Thới (Sađéc), chớ không phải lỡ còn nhỏ quá như ngày nay). Khi đến gần đình làng, gặp lúc có cây da trốc gốc ngã bật xuống sông, lấp cả đường nước, ghe xuồng qua lại đậu dồn chật cả một khúc sông, dân làng đang rũ nhau xúm lại thật đông, cột dây để kéo cây da vào bờ. Công việc nầy hì hục đã ngót nửa ngày rồi mà vẫn vô hiệu, người ta định giải tán. Kịp khi Đức Phật Thầy vừa tới, Ngài thấy vậy bèn ngỏ lời với dân làng xin để Ngài kéo hộ:
- Các ông hãy cột dây lại, tôi sẽ ra sức tiếp tay với các ông.

Đám dân làng cười xòa:
- Chúng tôi lực lưỡng và đông đảo như thế nầy mà kéo không đi, ông ốm yếu quá, làm sao tiếp nổi ?

Đức Phật Thầy cười:
- Bà con thử cột xem, tôi liệu có cách kéo được.

Thấy lời nói ôn tồn và vẻ mặt quả quyết của «người khách lạ», mấy người dân làng lội xuống nước, cột dây lại, và sắp hàng hai bên để chờ xem ông khách bộ hành nầy định kéo thế nào.

Đức Phật Thầy đứng giữa giơ tay lên, hô to:
- Hè... hãy kéo lên !

Hai hàng dây của hai tốp người vừa hơi căng thẳng, cây da từ từ xếp ngọn vào bờ, khỏi phải hè hụi ó la và nhọc công ra sức chi hết.

Những ghe xuồng đậu lại mấy hôm nay thấy trống được đường nước thì mừng rỡ ra đi. Mấy người dân làng vì mệt nhọc suốt buổi nay cũng uể oải kéo nhau về. Họ quên xem người khách bộ hành ấy về đâu, và cũng không buồn nghĩ đến chuyện cây da vì sao mà kéo vào được dễ dàng như vậy.

Xong việc, Đức Phật Thầy lại ra đi. Khi đến đình thần làng Tòng Sơn, Ngài ghé vào. Từ ấy người ta thấy Ngài ngụ luôn tại đây, ở mái hiên sau, ngày thì chặt sậy, làm cỏ, đêm đến lại quét lá da để nầu nước uống.

Được ít hôm, ông từ đình làng nầy thấy vậy có lòng lo sợ cho sự rủi ro xảy ra hỏa hoạn, vì đình thuở ấy lợp bằng tranh, mà đêm đêm Đức Phật Thầy cứ đốt củi lửa lên hoài, nếu có bề nào thì sẽ khổ cho ông về phần trách nhiệm. Ông bèn đem ý kiến ấy mà bày tỏ cùng Đức Phật Thầy, và xin đừng đốt lửa ban đêm nữa.

Ngài điềm tĩnh niệm Phật mà trả lời:
- Tôi ở đâu thì sẽ giữ cho đó được bình yên, xin ông đừng ngại.

Năm ấy thời hành dịch tả nổi lên nhiều nơi, ở làng Tòng Sơn cũng bắt đầu có lai rai bịnh ấy. Chức việc làng và dân chúng thấy vậy lo sợ, họ xúm nhau lại đình, làm heo gà cúng vái và đóng bè để «tống gió» ra khỏi làng.

Nghe biết được việc ấy, Đức Phật Thầy ra trước chức việc làng. Ngài tỏ ý không muốn có công việc sát sinh hại vật mà tống gió, vì theo ý Ngài thì hãy tin tưởng Phật Trời cho thành lòng còn hơn, chứ tống như thế nầy, nếu thật có linh nghiệm thì cũng chỉ là một việc làm ích kỷ. Mình khỏi họa mà người khác mang tai thì sao ?

Nhà chức trách trong làng không tin, cho là lời nói nhảm. Ngài buồn bã trở vào hiên sau, vừa đi vừa than:
- Các ông tống thì tôi xin rước:

Những lời biện giải đầy đạo đức và sáng suốt ấy của Đức Phật Thầy đã không đem lại được kết quả, mà trái lại, chức việc làng cho là một diềm gở, nên vài hôm sau, họ cử ông Thị sự (3) đến truyền lịnh không cho Ngài ở nữa, lấy cớ rằng trong làng không có quyền chứa chấp những người lạ mặt.

Đức Phật Thầy nhận lời, nhưng trước khi đi, Ngài yêu cầu ông Thị sự mua hộ cho Ngài một đôi đèn sáp để Ngài làm lễ khai lý lịch cho làng và dân chúng nghe đã.

Vì tình háo kỳ của ông Thị sự, và lòng tin tưởng của một ít người ở chung quanh đình, thấy Đức Phật Thầy có nhiều cử chỉ nửa hư nửa thực, nên cuộc lễ được tổ chức một cách rất mau lẹ.

Sau khi lên đèn nhang làm lễ, Đức Phật Thầy kể rõ ông bà cha mẹ mình là ai, bà con dòng họ có những người nào, bỏ nhà ra đi từ bé để tu hành và ngày nay được tỏ ngộ như thế nào, và sau rốt, Ngày tự xưng mình là Đoàn Minh huyên.

Chức việc và dân làng nhiều người nửa tin nửa ngờ. Họ tính ra thì trong số thân thuộc mà Đức Phật Thầy đã kể, có ông Đoàn văn Điểu và Đoàn văn Viên hiện còn sống, và đang ở trong làng nầy, nên liền cho người mời đến.

Khi giáp mặt, ông Điểu cũng không nhận ra được Đức Phật Thầy. Ngài phải đem công việc gia đình đầu đuôi từ lúc ra đi thế nào mà thuật lại một mạch. Nghe xong, ông Điểu ôm Đức Phật Thầy mà khóc oà lên và sau khi chấm dứt câu chuyện hàn huyên, ông Điểu khuyên Ngài nên ở lại quê hương làm ăn với ông, đừng đi đâu nữa để đến phải thân hình tiều tụy, già nua trước tuổi như ngày nay (4).

Để trả lời ông Điểu, Đức Phật Thầy đem việc đạo lý ra mà bàn giải chung cho mọi người nghe, rồi xin cáo từ mà đi. Bấy giờ ai nấy đều bừng tĩnh, vì thấu được ý nghĩa hay ho trong lẽ đạo mà Đức Phật Thầy vừa giải, nên chi tất cả đồng yêu cầu Ngài ở lại. Đức Phật Thầy không chịu. Ngài nhứt định ra đi. Ngay khi ấy, bịnh dịch đã tràn lấn tới tắp trong làng Tòng Sơn.

2 Vào Rạch Trà Bư.

Xuống chiếc xuồng bần, bơi bằng một miếng tre nhỏ, Đức Phật Thầy đi ngược lòng rạch Tòng Sơn, đổ lên Cái Tàu Thượng.

Thầy cầm cọng không được nữa, anh em ông Điểu và mấy người dân làng dọn xuồng đi theo Ngài. Trong chuyến đi nấy, Ngài cho người ta thấy một điều kỳ diệu nữa, là: lúc xuống đi theo Ngài thì năm người bơi năm giầm, trong khi ấy thì Ngài chỉ có một mình, lại chỉ bơi chẫm rãi bằng một miếng tre, thế mà xuồng Ngài vẫn cứ đi trước và biệt biệt xa dần, năm người nầy dù đã cố hết sức bởi nhưng cũng không tài nào theo kịp.

Khi đến rạch Trà Bư (thuộc làng An Thạnh Trung, gần ranh hạt Sađéc – Long –Xuyên, cách xa chợ Cái Tàu Thượng lối bảy ngàn thước), Ngài lên bờ, vẹt đế sậy che một cái lều con, rồi ở luôn tại đó. Ông Điểu và mấy người dân làng Tòng Sơn khi theo dõi đến nơi, hết sức khẩn thiết yêu cầu, lạy mà xin ngài trở về để cứu hộ cho bá tánh đang cơn hoạn nạn.

Đức Phật Thầy trả lời:
- Tuy tôi đã đi khỏi làng chớ hiện giờ vẫn còn để lại «cây thẻ năm ông» tại sau hiên đình. Mấy ông cứ về thỉnh đó mà uống và tin Trời tưởng thật thì đau căn, bịnh gì cũng mạnh.

Ông Điểu và ai nấy rất mừng, trở về thì quả thật Ngài còn để lại tại đình Tòng Sơn một cây cờ ngũ sắc.

Người ta tuyên bố ra, một đồn mười, mười đồn trăm, thiên hạ lúc đầu tới đình thỉnh còn được cờ, vài hôm sau hết cờ, họ đẽo tới cán cờ đem về thiêu, rồi hòa với nước mà uống, uống đân hết đó.

Hết cờ hết cán, dân chúng kéo nhau vô Trà Bư yêu cầu Đức Phật Thầy chữa trị. Mấy hôm đầu còn có giấy vàng phát ra về sau Đức Phật Thầy chỉ cho bằng tro nhang mà không đủ. Số người ké đến, xuồng ghe đậu chật cả một khúc sông. Trên bờ, lau sậy bị giậm rạp bằng cả xuồng mặt đất. Một cảnh tấp nập đông vầy bỗng nhiên hiện ra giữa chốn hoang vu rừng bụi, không ai ngờ được.

3 Khi đến Xẻo Môn.

Mùa thu, tháng 8 năm Kỷ Dậu (1849), dân chúng ở quang vùng Trà Bư như Hội An, Mỹ An và Tòng Sơn … nhờ có Đức Phật Thầy cứu độ nên bịnh thế đã yên, Ngài nghe đồn ở làng Kiến Thạnh bịnh dịch mới phát lên bạo hành lắm; động mối từ tâm, Ngài rời Trà Bư, bơi xuồng lên rạch Xẻo Môn (trước là làng Kiến Thạnh, nay đổi lại là Long Kiến, tỉnh Long Xuyên), để độ dân, tế thế (5).

Một sáng kia, tại đình làng Kiến Thạnh (hồi trước ở tại vàm Chưn Đùn, chứ không phải chổ đình Long Kiến ngày nay) khi ông từ vào dâng hương trên bàn chánh, bỗng trông thấy một người lạ mặt chễm chệ giữ bàn Thần. ông từ hồn bất thủ xá, vừa la vừa chạy. Người ngồi trên bàn Thần thấy vậy kêu lên và ngoắt ông từ trở lại.

Xa xa nhìn lại, ông từ xem thấy người ấy mặt mũi có về hiền lành, không có chi đáng sợ hãi, bèn chậm chậm rề lại và hỏi:
- Ông là ai, ở đâu mà dám đến đây ngồi trên bàn Thần như vậy?

Người lạ mặt ấy đáp:
- Ta là Phật Thầy, giáng thế đặng cứu nguy cho dân chúng!

Ông từ suy nghĩ một chút rồi hỏi:
- Ông xưng là Phật, vậy dân ở trong làng nầy hiện nay đang mắc bịnh ôn dịch mà chết rất nhiều, ông có thể cứu sống người ta được không?
- Được chứ, ai mắc bịnh ấy đâu, đem lại đây, ta cứu dùm cho !

Lúc ấy, trong làng, người bị bịnh dịch chẳng thiếu chi. Ông từ cho hay ra, đang lúc ở gần đó có ông Thuông (6) bị ỉa mửa gần chết, người nhà xin cứu, quả nhiên Đức Phật Thầy trị được.

Tiếng đồn lan ra khắp làng, người ta đến xin cứu bịnh mỗi lúc một đông, đông hơn ở Trà Bư gấp bội, vì bịnh dịch đang lộng hành ở đây.

Ba hôm sau, chức việc làng thấy người ta đến rần rộ quá sợ bị quan trên quở phạt, bèn xin Đức Phật Thầy dời về cái cốc của ông Kiến (xéo rạch Xẻo Môn, chỗ cất chùa Tây An Cổ Tự ngày nay), cho tiện việc chữa bịnh và thờ Phật ở đình.

Cũng giấy vàng, tro nhang như ở Trà Bư mà phát ra hoài không đủ được, Đức Phật Thầy phải dùng đến áo nhang, nước lã. Thiên hạ chen chúc đến đông vầy, nhiều người chờ đợi đôi ba ngày mới thỉnh được thuốc, có người không chen vào được, phải lễ bái ở ngoài sân.

Hoạt cảnh nầy đã được giảng xưa diễn ra rất rõ:

Dầm trời thiên hạ như mưa,
Ban mai đến tối phát chưa rồi bùa.
Người đi tới trước vô chùa,
Mấy người tới trễ lạy đùa ngoài sân.

Chẵng những bịnh dịch mà thôi, ngoài ra bất luận bịnh chi Ngài cũng trị được, chỉ trừ một ít người tận số:

Nói cho bá tánh tỏ tình,
Mấy người tới số Thầy xin đặng nào.
Muôn ngàn thiên hạ xiết bao,
Đau căn Thầy độ bịnh nào cũng an.

Nơi đây, Ngài bắt đầu chỉ dạy cách tu hiền cho những người mộ Đạo, và dựng lên nghi thức thờ phượng trang hoàng, mở rộng chùa chiền, cùng thâu nhiều đệ tử.

4 Bị dời về An Giang.

Từ khi Đức Phật Thầy đời sang cốc ông Kiến về sau thì bịnh nhơn đến xin thuốc càng ngày càng đông, người theo về tu niệm mỗi lúc mỗi nhiều, danh tiếng đồn ra vang dội khắp nơi. Người ta mừng rỡ bảo nhau: Đức Phật Thầy quả là một vị Phật sống, lâm phàm trợ thế.

Lúc ấy nhà chức trách huyện Đông Xuyên (ngày nay là tỉnh Long Xuyên) rất kinh đông, vì thấy lòng người hầu hết trong huyện đã hướng theo Đức Phật Thầy, ấy là chưa kể đến các vùng phụ cận. Họ nghĩ rằng nếu cứ để như vậy, rủi Ngài có chủ trương nổi lên một cuộc bạo động nào thì không phương gì dập tắt được, nên liền mật báo về tỉnh An Giang xin quan Tỉnh liệu định lẽ nào cho họ khỏi bề trách nhiệm.

Quan Tổng Đốc tỉnh An Giang bấy giờ là Huỳnh Mẫn Đạt (7) cũng có hay biết việc ấy, nhưng chưa rõ đích xác, nay được mật tin ở huyệt Đông Xuyên báo lên quả quyết thì lấy làm lo sợ, e có sự xảy ra như vụ Lâm Sàm và nhóm thầy chùa làm loạn ở Trà Vinh trước đây mấy năm (Thiệu Trị nguyên niên 1810) đó chăng ! Nên ông chẳng chút chần chờ, cấp tốc sai linh tráng xuống với ngay Đức Phật Thầy về tỉnh.

Hôm ấy vào lúc giờ Ngọ; bá tánh đến thỉnh thuốc đông đảo, nhưng giờ nầy ai nấy đều im lặng, để cho Đức Phật Thầy sửa soạn thời cúng. Bỗng từ ngoài sân có tiếng kêu vang:
- Có ông Đạo ở nhà đây không ?

Đức Phật Thầy từ trong cốc lên tiếng:
- Có. Ai hỏi tôi có việc chi ?
- Có lịnh quan Tổng đốc An Giang đòi, ông Đạo phải sửa soạn đi liền theo chúng tôi bây giờ đây !
- Mấy ông nán cho tôi cúng ngọ một chút, được không ?
- Không được, chuyện gấp lắm !

Thế là Đức Phật Thầy không kịp giã từ bổn đạo, theo chân mấy tên lính xuống thuyền vượt thẳng lên An Gian. Trong bọn nầy, nghe đâu có Cai Trung và Đội Bồng chỉ huy, nhưng Cai Trung thì xử đối với Đức Phật Thầy ôn hòa lễ độ nên không sao, còn Đội Bồng vì xấc lấc vô lễ, nên sau đó ít ngày phải á khẩu rồi chết.

Khi giáp mặt quan Tổng đốc An Giang, sau những câu hỏi chận đón để buộc tội Đức Phật Thầy là gian đạo sĩ, họ bày ra đủ cách để thử thách Ngài. Theo như những bài lịch truyền nói về Ngài và Nhiều bậc phụ lão thuật lại thì nào là lót tượng Phật Quan Âm dưới chiếu rồi bảo Ngài ngồi lên, trong khi có nhiều tăng sãi khác đã ngồi rồi trên chiếu ấy (8). Nào là dọn cơm chay để lẫn cơm mặn rồi bảo Ngài ăn v.v… song nhứt nhứt Ngài đều ứng đáp trôi chảy, khám phá ra được hết.

Có lần người ta thử Ngài bằng cách cùng ngồi liều với các vị Hoà thượng khác, xem ai đủ đức tính nhẫn nại hơn. Ngài bảo rằng ngồi liều bằng ngại diệp không có chi lạ, hãy dùng chuông nướng đỏ rồi úp lên đầu, như thế mới xem được có kiên tâm hay không. Các Hòa thượng nghe nói thất đảm, song Ngài thì vẫn điềm nhiên, đốt chuông đặt lên.

Sau khi tìm hết cách thử thách nhà chức trách tỉnh An Giang đã đem lòng khâm phục Đức Phật Thầy, nhưng cũng phải tạm lưu giam Ngài để đợi lịnh triều đình định đoạt. Trong lúc lưu giam ấy, Ngài muốn ra vào tự ý, đội cai không tài nào ngăn cản được. Thế nên mấy lúc sau, người ta cho Ngài được ở ngoài tự do, không ràng buộc nữa.

Thể theo đề nghị của quan Tổng Đốc tỉnh An Giang, Đức Phật Thầy được triều đình chính thức công nhận, được tự do hành đạo, nhưng buộc Ngài phải xuống tóc như hàng tăng sãi tu Phật ở cửa thiền.

Tương truyền rằng trước khi Ngài thế phát, người ta có sấm sẳn cho Ngài một cái mặt kiến, một cây kéo và một cái màn, để tỏ lòng trọng kỉnh.

Khi xuống tóc rồi, Đức Phật Thầy chia ra giỏi cho các môn nhơn đệ tử có tâm chí giữ làm kỷ niệm. Tóc ấy hiện giờ mặc dầu đã trải qua hơn một trăm năm, vẫn còn nhiều người giữ được.

5 Vào núi Sam.

Sau khi Đức Phật Thầy được tha, để trách sự hoài nghi của nhà cầm quyền, Ngài vào núi Sam ở chung một ngôi chùa sẵn có do giáo phái Lâm tế lập ra và đã được triều đình chứng nhận. Chùa nầy nhờ Phật cốt, gõ mõ tụng kinh, không giống cách trần thiết và nghi thức hành đạo của Ngài.

Lúc đầu, khi Đức Phật Thầy mới vào đây, vị sư trụ trì trong chùa xem Ngài như một người thường mới vào qui y thọ phái nhưng sau đó ít lâu, vì thấy được những đạo pháp lạ thường của Ngài, các sư mới tỏ ý khâm phục và đồng xin tôn Ngài lên bậc sư trưởng.Ngài từ chối, cho rằng trước sau như vậy, vả lại có như thế, cơ phổ hóa quần sanh của Ngài mới được phương tiện thi hành (9).

Từ ấy, cái bối cảnh ở Xẻo Môn trước kia đã như tàn tạ, nay bỗng nhiên được phu diễn lại nơi đây. Người ta rầm rập tới lui, xin phù thỉnh thuốc và thọ phái quy y.

Để thực hiện cho kỳ được cái giáo pháp vô vi chân truyền mà Ngài đã mở ra từ buổi trước, Đức Phật Thầy bắt đầu tìm những nơi hẻo lánh xa xôi.

Để lập ra những cơ cấu tôn giáo – mà thuở ấy Ngài cho gọi là trại ruộng để đem bổn đạo tới đó vừa tu niệm vừa làm ăn. Bằng cách ấy, Ngài đã biểu thị tinh thần Phật Giáo vị nhân sinh, lúc nào cũng vì đời vì người mà dùng Phật đạo để cứu khổ giác mê chớ không hề bi quan yếm thế.

Bởi vậy các trại ruộng, trại gỗ lần lần được dựng lên quanh vùng Thất Sơn như ở Thới Sơn, Láng Linh, và Ngài phái các vị đại đệ tử ở đó chăm lo săn sóc công việc. Nghi thức thờ phượng thì đặc biệt theo giáo phái của Ngài là thờ trần điều, cúng nước lã, bông hoa mà thôi, chứ không phải như ở núi Sam.
Lúc nầy Đức Phật Thầy tuy tiếng ở núi Sam chứ thật ra thì Ngài luôn luôn vân du đây đó để tùy cơ phổ độ quần sanh. Khắp vùng Thất Sơn không đâu là Ngài không bước đến. Thỉnh thoảng Ngài đến những trại ruộng để truyền dạy đạo pháp cho tín độ, các ông Cố Quản, Đạo Xuyến, Đạo Lập, Đinh Tây, Tăng Chủ, cậu hai Lãnh v.v… đều có được Ngài truyền cho bí pháp. Bởi vậy, về sau tín đồ của các vị nầy phần nhiều cũng được đặc đạo cả.

Ngài thọ được 50 tuổi, tịch tại núi Sam vào giờ Ngọ ngày 12 tháng tám năm Bính Thìn (1856), trong lúc bịnh chi lắm, tinh thần vẫn bình tĩnh, sau khi đã nhắc nhở đạo đức và dặn dò công việc cho các tín đồ.

6 Giáo lý căn bản.

Để cho được thích hạp với trình độ và căn cơ của quần chúng trong thời kỳ Hạ nguơn, Đức Phật Thầy chủ chương đem pháp giáo vô vi của đạo Phật mà truyền dạy trong dân gian. Ngài không cho trần thiết tượng cốt, tụng đọc ó la như trong nhà thiền đã làm. Tại ngôi tam bảo chỉ thờ trần điều, tiêu biểu tinh thần vô thượng của nhà Phật mà thôi.

Ngài đặc biệt quan tâm đến vấn đề đưa ra những giáo thuyết về việc học Phật tu nhân, bởi hầu hết tín đồ của Ngài hồi ấy là hạng tại gia cư sĩ.

Về học Phật, ta thấy Ngài gom vào ba điều căn bản trong Phật pháp là Giới, Định, Tuệ.

Giới: là những sợi dây buộc ta vào chánh đạo, không cho ta phạm vào những lầm lổi xấu xa và để ta đừng làm nững điều tàn ác vô minh nửa.

Định: Suy nghĩ đến những lạc thú ở đời, cho nó đều là mỏng manh, giả ảo; diệt trừ ham muốn và nghĩ đến cuộc đời vô thường, tập trung tư tưởng để quan sát lý đạo, tìm hiểu chánh chân.

Tuệ: Hiểu thấu lý vô thường và sự khổ của con người, không bao giờ bị vô thường và sự khổ não chi phối mình nữa, nên bao nhiêu sự đau khổ đều được diệt trừ, thấy được Phật tánh (bản lai diện mục).

Vì Ngài đã có nói:
Lọc lừa thì đặng nước trong.
Ma Phật trong lòng lựa phải tìm đâu.

Hay là:
Cam lồ rửa được tánh mê,
Nước trong thì thầy nguyệt kia xa gì.

Và:
Dốc lòng niệm chữ từ bi,
Lấy dao trí tuệ cắt đi cho rồi.

Ngài quyết đem lại cho quần chúng thấy được ánh sáng của cuộc đời là sống an vui, sống với lòng yêu thương nhau thân thiết chứ không phải sống để hành hạ nhau. Bởi vậy Ngài luôn luôn ở bên cạnh quần chúng để tế độ và hướng dẫn họ tới chỗ nhận thức rõ rệt sứ mạng đạo Phật không cho quần chúng hiểu lầm rằng Đạo Phật là chỗ đễ trốn nợ Đời, hay chỉ sống im lìm một mình đặng chờ ngày về cõi Niết bàn riêng hưởng sự an vui.

Tất cả các giáo lý ấy chứng tỏ rằng Ngài có óc thực tiễn khác thường.

Về tu nhân, Đức Phật Thầy thường khuyến khích các môn nhân đệ tử nên đền đáp tứ đại trọng ân.

Ngài nói:
Loài cầm thú còn hay biết ổ,
Huống chi người nỡ bỏ tứ ân.

Bốn điều ân ấy gồm có:
1.– Ân tổ tiên cha mẹ
2.– Ân đất nước
3.– Ân tam bảo
4.– Ân đồng bào và nhân loại (với kẻ xuất gia thì ân đàn na thí chủ).

Ân tổ tiên cha mẹ: Ta sanh ra cõi đời được có hình hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ chịu biết bao khổ nhọc, nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên nên khi biết ơn cha mẹ cũng có bổn phận phải biết ơn tổ tiên nữa.

Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta ráng chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lảng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta ráng hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế, ta còn phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong đệ huynh, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn: ráng cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quã vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.

Còn đền ơn tổ tiên, đừng làm điều gì tồi tệ, điểm nhục tông môn, nều tổ tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.

Ân đất nước: Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên cha mẹ; sống ta cũng nhờ đất nước quê hương. Hưởng những tấc đất ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy có bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp Ráng nâng đở xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo, và làm cho trở nên được cường thạnh Ráng cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm.

Hãy tùy tài sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải ráng trách đừng làm việc gì sơ xuất đến đỗi làm cho đất nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại tình gây sự tổn hại đến đất nước.

Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy.

Ân tam bảo: Tam bảo là gì? – Tức Phật, Pháp, Tăng.

Con người nhờ tổ tiên cha mẹ sinh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương diện vật chất.

Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật Pháp Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền Đạo của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng ai lạ hơn những đại đệ tử của đức Phật vậy. Bởi vì đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp của đời Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu đài Đạo hạnh vô thượng vô song rồi truyền mãi mãi với hậu thế.

Nên bổn phận chúng ta phải noi theo trí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của đức Phật và của tiên nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

Ân đồng bào và nhân loại:
Con người vừa mở mắt chào đời, đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đở của những kẻ ở xung quanh và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy.

Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới trách cơn phong vũ. Vui sướng: ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn: họ cùng chịu với ta. Họ và ta cùng một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc gia đó. Họ là ai ? Tức những người ta thường gọi bằng đồng bào vậy ?

Đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang lịch sử vẻ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy biến, cùng chung phận sự đào tạo một tương lai rực rở trong bước tiền đồ của giang san đất nước. Đồng bào ta và ta có một liên quan mật thiết không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chừng khi nào có ta mà không có đồng bào hay có đồng bào mà không có ta. Thể nên, ta phải ráng giúp đỡ họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.

Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào ta còn có thế giới người đang cặm cụ cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết. Họ là nhân loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào ? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng ? Nói tóm lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm đau nguy biến, giữ vững cuộc sống còn nầy chăng ? Hằn không vậy. Thế nên, dân tộc ta phải nhờ đến Nhân loại nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như nghĩ đến mình và đồng chúng mình.

Vả lại, cái tình từ bi bác ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức rất thâm huyền quảng hượt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa hết các từng lớp đẳng cấp xã hội và chỉ đặt vào một: Nhân loại Chúng sanh.

Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình vì đồng bào mình gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỉ xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong hoạn nạn.

Xét qua giáo lý và hành động của Đức Phật Thầy, ta có thể mạnh bạo mà nói Ngài là một nhà cách mạng tôn giáo tiền phong trong lịch sử Phật Giáo Nam Việt. Vì trong lúc Ngài ra đời, đạo Phật đang đi sâu vào chỗ lu mờ suy đốn, do một số nhà sư làm lệch lạc, sai xa với Pháp giáo chơn truyền Chính Ngài, trước hơn ai hết, đã cương quyết đứng lên thực hành chánh pháp, phổ hóa quần sinh, gây nên một phong trào đạo hạnh sôi nổi và lan tràn mà từ xưa, lịch sử đã chứng minh chưa từng có.

Một ông Nguyễn văn Xuyến với chánh pháp thần thông, hóa dân trợ thế, một ông Phạm thái Chung với pháp thuật cao kỳ, hoằng dương mối đạo, Một Đức Cố Quản Thành với tràn đầy lòng trung liệt, vì nước quên mình, một ông Nguyễn văn Thới với mênh mông hồn ưu ái giang sơn tổ quốc…, ngần ấy điều kiện, há không đủ chứng tỏ rằng giáo lý của Đức Phật Thầy là một giáo lý cao siêu vô thượng, không quên đạo, chẳng bỏ đời (đời đạo liên quan rạng chói…) đó sao ?

7 Những di tích có liên hệ đến Đức Phật Thầy.


A.Ở Tòng – Sơn

Từ chợ Cái Tàu Thượng (Sađec) đi đổ xuống rề sang lộ đất lối hai ngàn thước, du khách sẽ trông thấy xa xa một ngôi đình lợp bằng ngói, ẩn hiện sau mấy chồn cổ thụ như trôm, dầu… đó là đình làng Tòng Sơn, một dấu vết ở quê hương của Đức Phật Thầy, noi mà xưa kia, Ngài về nương náu sau mái hiên, sau bao nhiêu năm xa cách.

Trải mấy lần đất lở, đình nầy phải dời đi cất lại đến chỗ ngày nay. Trong đình, tại bàn chánh thì thờ trần điều, còn bàn Thần thì đặt ngay một hương án ở chính giữ phía trước. Hai bên: tả ban thì thờ cửu huyền, hữu ban thì thờ Đức Phật Thầy, trên bàn có một tấm biểng bằng cây, sơn son thiếp vàng, lớn độ một thước bề ngang, một thước rưởi bề đứng, có khắc sâu những chữ: Đoàn Phật Sư ở giữ, và một đôi liễn kiến hai bèn đề:

Tòng Sơn đắc ngộ Phật,
Tây An quả giác Sư.

Hằng năm đến ngày 12 tháng 8 là ngày vía của Đức Phật Thầy, đình nầy có vùng kiếng long trọng như các chùa chiền vậy.

B.Ở Cái – Nai

Mộ Phật Mẫu (thân mẫu của Đức Phật Thầy) hiện ở rạch Cái Nai (thuộc thôn An thạnh Trung Quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên). Rạch nầy cách chợ Cái Tàu Thượng lối năm ngàn bốn trăm thước. Từ vàm rạch vào đến mộ chừng hai trăm thước nữa, chung quanh mộ có trồng ô môi và có cất một cái nhà thờ, có người ở đây lửa hương phụng tự.

Tương truyền rằng khi chưa có người coi giữ mộ nầy, trâu bò cũng không dám đến gần; có khi người ta đi cho trâu ăn khuya lỡ lạc gần đó thì trâu bỗng nhiên nghinh lên rồi thục lui mà chạy, chừng như nó thấy được ai chận đuổi nó vậy. Bởi thế nên ngôi mộ nầy đến nay, dù đã trải nhiều mưa nắng, nhưng đất vẫn gò lên khách đi thuyền qua đây dòm lên còn thấy cao hơn các chỗ khác.

C.Ở Long Kiến

Tại làng Long Kiến (tổng Định Hòa, Long Xuyên), phía hữu ngạn sông Ông Chưởng, khách đi đường sẽ trông thấy một ngôi chùa lộng lẫy nguy nga, trước sân có một cây dầu, chung quanh có xây bồn bằng gạch, ấy là chùa Tây An Cổ Tự, một di tích của Đức Phật Thầy. Ngày xưa Ngài có về đây để phát phù trị bịnh cho đến khi bị vời về An Giang. Nơi nầy trước kia là cái cốc của ông Kiến. Tuy đã qua mấy bận hư hao và một lần bị cháy, người ta đều sửa lại cho có chỗ thờ phượng. Đến năm 1952, chùa nầy mới được dựng lại và sửa sang đồ sộ như ngày nay.

D.Ở Núi Sam

Từ chợ Châu Đốc đi vào năm ngàn thước thì tới núi Sam, rẽ sang phía tả, nhìn lên thấy ngôi chùa lồng lộng nằm trên triền núi, ngoài ngõ có đề ba chữ Tây An Môn, ấy là chùa Tây An (tục gọi là chùa chánh) ở núi Sam. Đây là nơi Đức Phật Thầy nương náu để độ dân cho đến ngày tịch diệt. Trong chùa, Phật cốt rất nhiều, vì chùa nầy là của giáo phái Lâm Tế như đã nói ở đoạn trước, nên không có chi là dấu vết của Đức Phật Thầy.

Sau chùa, về phía đông, có một vòng thành vuông rộng 5 thước 45 bề dài, 4 thước 75 bề ngang, nằm trên chín cấp nấc gạch, ấy là mộ của Đức Phật Thầy.

Mộ không có đắp nấm, trước mộ có một tấm bia khắc những chữ:
“Nguơn sanh Đinh mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời chú sanh.
“Tự Lâm Tế gia chư thiên phổ chánh phái tam thập bát thế, thượng pháp hạ tạng tánh Đoàn; pháp danh húy Huyên, đạo hiệu Giác Linh chi vãn tọa.
“Tịch ư Bính Thìn niên, bát ngoạt thập nhị nhựt, ngọ thời thị tịch diệt ».

E.Ở Thới Sơn

Trại ruộng ở Thới Sơn cách xa núi Sam trên 10 ngàn thước. Ngày xưa, khi lập xong, Đức Phật Thấy giao cho ông Tăng Chủ và ông Đình Tây ở giữ. Nơi nầy có hai di tích: Phươc Điền Tự và Thới Sơn Tự. Hai chùa nầy cách nhau độ 2 ngàn thước. Khi Đức Phật Thầy mới vào đây, Ngài để trâu (ông Sấm ông Sét) và làm ruộng tại Phước Điền, còn Thới Sơn (ngày xưa là trại ruộng Hưng Thới) thì cất để thờ phượng và ở mà thôi.

Tại Phước Điền Tự còn có hai đôi liễn thờ ở bàn chánh và dán ngoài cửa ngõ. Người ta bảo là của Đức Phật Thầy chỉ cho tín đồ viết và lưu truyền đến ngày nay.

Liễn ở cửa ngõ:
Nhứt trần bất nhiễm bồ đề địa,
Vạn thiện đồng quy bát nhã môn.

Liễn thờ ở bàn chánh:
Phước bảo thiền quang thanh tịnh vô vì thường phổ chiếu,
Điền kinh công đức viên dung bát nhã biến thông truyền.

Và một linh vị:
Nguơn sanh Đinh mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời hưởng dương ngũ thập tuế.
Cung thỉnh Lâm Tế chánh tông tam thập bát thế, thượng pháp hạ tạng, tánh Đoàn, pháp danh húy: Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh chứng minh.
Vãng ư Bính thìn niên, bát ngoạt, thập nhị nhựt, ngọ thời nhi chung.

Về sau, khi ông Đình Tây tịch, trại ruộng Thới Sơn được sửa sang lại thành một ngôi chùa nguy nga, nhưng bao nhiêu lần dâu bể, chùa ngày nay chỉ còn mấy nếp lợp thiếc và lá mà thôi. Gần chùa còn có mấy ngôi mộ của ông Tăng Chủ và ông bà Đình Tây là những người có công nghiệp rất to tát trong việc mở mang làng xóm dân cư ở đây ngày xưa.

G. Ở Láng – Linh

Từ vàm kinh xáng Vịnh Tre đi vô độ mười ngàn thước thì tới trại ruộng Bửu Hương Các ở Láng Linh (thuộc làng Thạnh Mỹ Tây, tổng An Lương, Châu Đốc) Chỗ nầy là một di tích mà Đức Phật Thầy xưa đã rẽ đất rạch hoang để mở cơ hoằng pháp. Ngài giao trại ruộng nầy cho Đức Cố Quản Trần văn Thành coi giữ. Ngày nay, qua nhiều trận hư hao, nơi đây được chấn chỉnh lại trang hoàng, lợp ngói, vách gạch và có ông Nguyễn Văn Tịnh, một đệ tử cũ của ông Hai Trần Văn Nhu ở giữ gìn phụng tự.

CHÚ THÍCH

1. Khi xưa là làng Tòng Sơn, đến hồi Pháp thuộc thì ba làng Mỹ An, Mỹ Hưng và Tòng Sơn bị sáp nhập tại gọi là Mỹ An Hưng. Hiện nay cũng gọi là Tòng Sơn.

2. Có người nói là Đoàn văn Thuyên, không rõ tên nào đúng.

3. Chúng tôi không hỏi được tên họ ông Thị sự nầy. Chỉ biết ông có người cháu tằng tôn là ông Hương giáo Tố mới chết mấy năm nay ở Tòng sơn.

4. Đức Phật Thầy tuổi Mẹo, tính ra tới năm trở về Tòng Sơn thì mới có 43 tuổi, thế mà nhiều cụ già nghe kể lại thì Ngài hồi ấy râu tóc như một ông già cho nên anh em ông Điểu không nhận ra được.

5. Khi còn ở Tòng Sơn, Đức Phật Thầy có lúc băng xuồng ngang qua rạch Cái Dứa rồi ngược dòng vào làng Bình đức (ngày nay làng Bình Đức đã sáp nhập cùng hai làng Phú Xuân và Tân Phước, gọi là Bình Phước Xuân, thuộc Cù lao Giêng Long Xuyên), rẽ sậy che lều ở đó ít lâu để phát phù trị bịnh. Nơi đây Ngài có thâu mấy vị đệ tử mà chúng tôi còn nghe biết là ông Chánh Bái Nguyễn văn Duyên và ông Nguyễn văn Kỉnh (đạo hiệu Thần Tự Kỉnh), tu niệm rất chí tâm. Khi Đức Phật Thầy qua Xẻo Môn rồi bị bắt lên An Giang triều đình ra lịnh xuống tóc, Ngài có gởi về Cù lao Giêng cho hai ông nầy mỗi người một lọn. Ngày nay con cháu ông Duyên không thấy còn ai, không biết bảo vật ấy về đâu, còn ông Kỉnh thì lưu truyền mớ tóc ấy được đến bấy giờ, hiện cháu huyền tôn của ông là ông Nguyễn Ngọc Chơi còn giữ. Vì không rõ được nguyên cớ và ngày tháng Đức Phật Thầy qua đây, nên chúng tôi không dám chép ở phần trên.

6. Ông Thuông lúc đó còn nhỏ, sau lớn lên làm Hương cả nên người ta gọi là ông Cả Thuông.

7. Khi Pháp vào Nam Kỳ thì Huỳnh Mẩn Đạt vì già yếu nên xin hồi hưu, đổi Phan Khắc Thân lên thay ở An Giang.

8. Giảng xưa có phép chuyện quan Tỉnh An Giang mời Đức Phật Thầy ngồi trên chiếu, trong khi dưới chiếu ấy có lót tượng Phật. Ngài trả lời đại ý như vầy:
“Bẩm tôi xin đứng dưới nầy,
“Hòa thượng Thầy sài ngồi rày hai bên.
“Tham ăn thấy thác một bên,
“Dưới tượng Phật Bà Hòa thượng ngồi trên».
Hòa thượng nghe nói ngã lăn.

9. Do đó mà khi Đức Phật Thầy tịch, người ta mới khắc vào bia, cho rằng Ngài ở trong giáo phái Lâm Tế như ngày nay ta còn thấy tại mộ phần của Ngài ở núi Sam. Và cũng chính thế mà vị Hòa Thượng Lâm Tế hồi ấy được dân chúng suy tôn là Hòa Thượng Tổ hay Hòa Thượng Cố.