Trang 1 trong 6 123456 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 101

Ðề tài: Lễ Hội

  1. #1
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ Hội

    Lễ Hội

    Trong phần này mình sẽ post các lễ hội của các dân tộc , vùng miền .

    Lễ hội đâm trâu: Bức thông điệp cầu an

    Trong các lễ hội mang tính cộng đồng, người Cơ Ho Lâm Đồng nói riêng và người thiểu số Tây Nguyên nói chung thường tổ chức đâm trâu với ý nghĩa hiến sinh để cầu an.

    Trong lễ đâm trâu, ngoài con vật hiến tế (trâu) còn có một "cây linh hồn" khác được gọi là gùng lgang stàng liep (cây nêu) với tục lệ bôi máu con vật hiến tế được hiểu như là một thông điệp cầu an gửi đến các thế lực siêu nhiên, nhất là thế lực siêu nhiên thuộc tuyến thần ác.

    Sau lễ rửa chân trâu, lúc koi me (lúa mẹ) ngậm sữa là lúc dân làng chuẩn bị cho ngày hội sapu (ăn trâu) tạ ơn thần linh. Hội đồng già làng họp lại để lên danh sánh khách mời ở những buôn xa bản gần. Hội đồng này cũng chuẩn bị cho sự hòa giải những mâu thuẫn và đôi khi còn có cả những mối hận thù giữa các thành viên trong cộng đồng mình và giữa cộng đồng mình với các cộng đồng khác.

    Còn những người phụ nữ thì ngồi vào khung dệt chuẩn bị cho mình bộ váy rực rỡ nhất. Và có lẽ công phu nhất vẫn là việc chuẩn bị cây nêu, dài khoảng hai, ba chục mét.

    Mỗi lần sapu diễn ra thì tất thảy đàn ông, đàn bà, người già, trẻ nhỏ đều không được ngủ. Những ché rượu cần được xếp quanh vòng cây nêu. Bên cây nêu, những thù hận phải được gột rửa, những hiềm khích phải được xóa bỏ. Bởi, cây nêu đã nói thay lời già làng rằng cuộc sống này phải có tình thương yêu.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  2. #2
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội bản Hẹo

    Lễ hội bản Hẹo

    Bản Hẹo nằm ngay thị xã nên những ngôi nhà sàn có vẻ khang trang, nhấp nhô mái ngói đỏ. Phụ nữ ăn mặc thật đẹp, vẫn là trang phục truyền thống nhưng được may bằng vải nhung mịn màng, màu sắc tươi sáng và có ít nhiều biến tầu. Những búi tóc được chải bới đẹp đẽ, chiếc trâm bạc lấp lánh như nắng. Dưới chân nhiếu người là giày da cao gót. Đàn ông ăn mặc giống người Kinh, nếu người dẫn đường không nói, tôi đã tưỡng họ là người Kinh vào đây chơi.

    Dân bản tụ tập ở bãi sân rộng. Sự có mặt của người lạ không làm họ chú ý lắm, dường như họ khá quen với sự lui tới của du khách muốn tìm hiểu về nét sinh hoạt của dân miền cao.

    Một cành cây khá lớn mới chặt lá còn xanh tươi cắm giữa sân, nếu không tình cờ nhìn xuống dấu đất mới đào xới tôi đã tưởng đó là một cây nhỏ. Những tờ giấy màu xếp hình ngộ nghĩnh mặc vào nách lá. Tôi nhận ra trò chơi hái hoa dân chủ.

    Bất kể bạn là ai, nam hay nữ, quen hay chưa quen... chủ nhà sẽ hỏi bạn có chồng (hoặc vợ) chưa? Cha mẹ thế nào? Bao nhiêu anh chị em? Họ hàng ra sao? Đông bạn bè không?... Bạn cứ thật thà kể, thế là... chén này xin chúc người cha đáng kính của bạn, cạn nhé! Chén này chúc bà mẹ đáng yêu của bạn, cạn nhé! Chén này chúc ông chú dễ mến của bạn, cạn nhé! Chén này... Ai có thể từ chối được những lời chúc hiếu khách như vậy?

    Tôi đến bản với sự hồi hộp tràn đầy. Tôi không biết uống. Thôi thì tôi sẽ nói... mình thân cô mồ quả trên đời và nhắm mắt uống đại một chén cho chính bản thân mình. Lạy trời rằng cái chén đừng to quá và lạy trời rằng rượi sẽ loãng thôi.

    Một điều buồn cười là trong trò chơi kéo co đòi hỏi sức vóc, phe thắng luôn là nữ. Thật lạ mắt khi nhìn những người phụ nữ váy áo đỏm dáng lại giật bay sợi dây thừng khiến những người đàn ông ngã chổng chân lên trời.

    Trò chơi cướp cờ càng ngộ nghĩnh hơn. Một đoạn tre cắm xuống, một cái khăn piêu hoặc khăn len vắt qua, vậy là có cả cột lẫn cờ. Bên này nam, bên kia nữ, từng cặp co chân lên cò cò đến cướp cờ, có khi hai tay vươn tới cùng một lúc, tay này giật cờ, tay kia... nhổ luôn cột.

    Hái hoa dân chủ, kéo co, cướp cờ... những trò chơi thật giản dị và thú vị tôi từng say mê thuở nhỏ. Điều đáng nói là những trò chơi này đang được chơi bởi những người tuổi trung niên, có cả cụ già. Bất chấp thời gian in dấu trên mặt họ, tôi nghe tiếng cười hồn nhiên thơ trẻ rộn ràng khoảng sân mấp mô đất sỏi một ngày xuân. Họ vui chơi hết mình, reo hò cổ động hết mình và uống cũng hết mình. Tôi nhìn thấy quanh chum rượu cần có cả cụ bà và những em nhỏ tuổi tiểu học.

    Còn những điệu múa dân tộc Thái rất lạ thấy giới thiệu trên ti vi? Điệu múa có khăn Piêu e ấp choàng quanh cổ? Khăn piêu trùm đầu duyên dáng rủ xuống những nét hoa văn ngang trán? Nào quạt, nào tre gõ... nào những nhịp lắp hông uyển chuyển xao động lòng người?

    Những điệu múa ấy giờ trở thành của quý hiếm - người dẫn đường trả lời - Bây giờ, vào dịp có khách quý đến hay ngày lễ quan trọng thì mới được tổ chức.

    Nhưng rồi tôi cũng gặp một trò chơi lạ - Một bàn tay kéo tay tôi "uống nhé, uống với dân bản cho vui nào". Tôi ra hiệu không biết uống, lòng hồi hộp. Trái với lo lắng của tôi, tiếng cười thông cảm vui vẻ vang lên và vẫn giọng ấy, phát âm tiếng Kinh rất chuẩn "chơi ném còn không?".

    Còn là một cái gối bằng vải màu sặc sỡ nhỏ bằng bàn tay cột một sợi dây thắt vài gút cũng bằng vải màu sặc sỡ lua tua. Tôi cầm sợi dây quy vài vòng trước khi tung nó qua hàng người phía bên kia. Một chuỗi cười rộ lên, quả còn của tôi rơi bịch giữa sân, thì ra tôi quay không đúng chiều.

    Hai hàng người đối diện nhau ở hai mép sân, tung những quả còn lên không trung, lượn những dải màu bay bay trước khi được người bên kia chụp lấy. Người ta nói nếu cô gái thích chàng trai nào thì chụp lấy quả còn của anh. Nhưng làm sao biết được quả còn nào là của người mình thương giữa vô số quả còn đan chéo vào nhau như cầu vồng giăng giữa trời? điều này có lẽ chỉ trái tim mới có thể trả lời.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  3. #3
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội Bà Đen

    Lễ hội Bà Đen

    Núi Bà Đen cách thị xã Tây Ninh 11km, có diện tich rộng 24km2 gồm 3 ngọn núi tạo thành: Núi Heo, Núi Phụng và Núi Bà cao 986m là ngọn núi cao nhất Nam Bộ. Nơi đây có nhiều chùa chiền, hang động đẹp, phong cảnh hữu tình.

    Nói đến núi Bà Đen, người ta nghĩ ngay đến Linh Sơn An Phước tự (chùa Hang), Linh Sơn Tiên Thạch tự, Dốc Thượng, động Huyền Môn, động Thanh Long, động Ma Ha, hang Gió, hang Ong Hổ... Nhiều huyền thoại, truyền thuyết kể về Bà Đen nhưng phổ biến truyền tụng trong dân gian là truyện Lý Thị Thiên Hương.

    Truyện kể về một đôi trai tài gái sắc ở vùng Quang Hóa (nay là huyện Tràng Bảng) nguyện ước đính hôn. Chàng trai tên là Lê Sĩ Triệt, người con gái tên là Lý Thị Thiên Hương. Giữa buổi loạn ly, chàng Triệt lên đường tòng quân cứu nước, nàng Hương ở nhà thủ tiết chờ chàng. Trong một lần lên núi lễ Phật, nàng bị bọn cướp hãm vây bức hiếp. Không để thanh danh hoen ố, nàng chống trả quyết liệt và nhảy xuống vực sâu quyên sinh. Dân gian truyền rằng nàng Hương rất hiển linh, đã báo mộng cho vị sư trụ trì tại chùa trên núi đem thi hài nàng về mai táng. Với những quan binh đi đánh giặc hoặc dân tình lên núi làm ăn chẳng may bị lạc thường được nàng báo mộng chỉ đường ra khỏi rừng rậm, non cao. Vì vậy trong vùng lập đền thờ Bà trên núi. Từ đó có tên là núi Bà Đen.

    Hội Xuân núi Bà hàng năm thường kéo dài suốt cả tháng Giêng Âm lịch nhưng chính lễ Vía Bà là đêm 18 và ngày 19. Ngoài ra còn một lễ Vía vào ngày mồng 6/5 Âm lịch. Trước ngày chính lễ những vị trụ trì Điện Bà tiến hành lễ "Mộc Dục" (Tắm Thánh) vào lúc nửa đêm,ánh sáng trong nội điện lúc này được giảm tối đa. Lễ tắm Bà với 3 lần khăn lau (phải dùng toàn khăn mới), khăn phải đực xông hương, tắm Bà bằng nước thơm nấu các loại hoa: Sen, lài, sứ, quế... do các lễ sĩ dâng lên. Lễ sĩ là những thiếu nữ được chia thành cặp trong các bộ xiêm y đẹp lộng lẫy như công chúa thuở xưa, chân bước nhẹ, nhịp nhàng "đăng đài" theo bộ "chữ Tâm" trong tiếng nhạc lễ qua các làn điệu Xuân, Đảo Nam Bộ.

    Núi Bà Đen từ lâu là biểu tượng của mảnh đất và con người Tây Ninh. Từ thuở xa xưa, núi Bà là vị trí chiến lược, là điểm tựa và nơi luyện tập quân sĩ của những anh hùng khai phá và gìn giữ đất Tây Ninh như Quan lớn Trà vong Huỳnh Công Giản, Tướng quân Võ Văn Oai, Nghĩa quân Trương Quyền kháng Pháp... [...]

    Lễ hội Bà Đen không chỉ là sự tự do tín ngưỡng tôn giáo mà còn biểu hiện đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời cũng là nơi vui chơi, cắm trại, sinh hoạt truyền thống của thế hệ trẻ không những ở Tây Ninh mà khu di tích LS-VH Núi Bà mỗi năm nhất là dịp xuân về thu hút hàng triệu lượt du khách trên phạm vi cả nước và khách du lịch.

    (Theo Quốc Kỳ - Thành Thái)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  4. #4
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội bơi Đăm

    Lễ hội bơi Đăm

    Từ bao đời nay câu ca "Bơi Đăm, rước Giá, hội Thàỵ.." đã in đậm trong tâm trí mỗi người dân trong vùng và cả nước, bởi nó mang một đặc điểm riêng biệt độc đáo. Rất nhiều hội làng có bơi chải, nhưng phần lớn thuần tuý là trò đua tài, giải trí, còn ở hội Đăm bơi chải là mô phỏng cách đánh giặc bằng thuỷ quân của danh tướng Bạch Hạc Tam Giang Đào Trường từ thời vua Hùng Huệ Vương (Hùng Vương thứ 16). Khi giặc phương Bắc xâm lược nước Văn Lang, Hùng Duệ Vương vời thổ lệnh Đào Trường bàn kế đánh giặc, ông tâu rằng "nên đón đường thuỷ mà đánh". Nhà vua giao cho ông thống lĩnh thuỷ quân, chỉ một trận đã dẹp tan giặc.

    Sau đó thổ lệnh Đào Trường còn chỉ huy quân đội đánh tan quân giặc phương bắc lần thứ 2. Sau khi thắng trận ông giao cho em là Thạch Khanh chỉ huy quân đội. Còn thuyền ông theo dòng sông nhỏ về hóa thân tại cửa sông. Đó là khúc sông Nhuệ tại làng Đăm, xã Tây Tựu bây giờ. Nhà vua phong cho ông là Thượng đẳng phúc thần: dân làng Đăm lập miếu thờ ông từ đó. Ngoài ra vua còn cho phép 171 làng khác lập đền thờ Bạch Hạc Tam Giang Đào Trường.

    Bơi Đăm nổi tiếng từ lâu đời liên quan đến việc luyện thủy quân của thần Bạch Hạc Tam Giang Đào Trường. Hội dễn ra từ ngày 9 đến 11-3 âm lịch trên khúc sông Nhuệ cũ, nơi đức Thánh hoá thân, từ Thuỷ toạ cạnh Đình Đăm đến Miếu thờ Đức thánh.

    Cuộc thi được cả 2 thôn tham dự, thuyền mỗi thôn có biểu tượng riêng và trai bơi mang sắc phục khác nhau.

    Làng Đăm tức xã Tây Tựu bây giờ xưa kia còn nổi tiếng với nghề trồng rau, có lò đánh vật rất tài tình trong khu vực và đất nước. Chẳng vì thế mà câu ca:

    Làng Đăm có hội bơi thuyền
    Có lò đánh vật, có miền trồng rau

    Làng Đăm là vùng đất trồng rau nổi tiếng ở ngoại thành Hà Nội để cung cấp cho nội thành, các vùng lân cận và chế biến xuất khẩu như rau cải, rau muống, bắp cải, cà chua, đậu cô-ve, khoai tây... mùa nào thức nấy. Về Tây Tựu những năm trước đây bạt ngàn cánh đồng rau xanh, hay mùa dưa lê trái thơm to ngọt vào dịp mùa hè. Vài năm nay nhân dân Tây Tựu trồng rau thưa thớt và họ tập trung vào trồng hoa, nào là hồng nhung, cúc Đà Lạt, lay-ơn... bạt ngàn trên trời, dưới hoa. Cuộc sống của làng đã thay da đổi thịt.

    (Theo Minh Phương)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  5. #5
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội đền Ba Xã

    Lễ hội đền Ba Xã

    Đền nay ở Minh Đức, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây người dân vẫn có thói quen gọi con trâu là con nghé cho dù con trâu đó đã làm "cha" làm "mẹ", chân đã bại, răng đã long không thể kéo cày. Theo như lời kể của các bậc cao niên: Xa xưa, vùng này là rốn nước đồng chiêm, nghiệp canh nông cả năm chỉ ở một mùa mà vẫn bấp bênh. Cư dân đói nghèo xơ xác trên đồng trắng, nước trong. Cho tới khi có người họ Mạc, tên gọi là Trâu Trắng ra dạy dân khoanh vùng ngăn nước và trồng các giống lúa thích ứng theo từng mùa vụ. Kết quả là dân được ấm no, quần cư trở nên phồn thịnh và trù phú. Khi ông qua đời, nhớ công ơn ấy, nhân dân trong vùng quyên tiền, góp sức lập đền thờ và tôn ông làm đức thành hoàng và cũng từ đấy người dân địa phương có thói quen kỵ huý tên gọi: Trâu.

    Đền thờ đức thánh Mạc Trâu đặt ở nơi trung tâm của năm thôn: Thịnh Cầu, Thịnh Bằng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng và Thịnh Hạ. Mặt đền nhìn về hướng đông, trông ra mặt hồ sen rộng bát ngát. Hai bên tả hữu đền, bên là chi lưu của dòng sông Nhuệ, bên là đường cái quan uốn khúc như con rồng, con rắn lượn quanh. Đền có kết cấu mặt bằng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Từ đường lớn đi vào qua tam quan là con đường vỉa gạch nghiêng đưa ta đến sân chầu. Hai bên đường, dưới bóng cây cổ thụ, có bày nhiều trâu đá, ngựa đá, voi đá và chó đá trông vừa uy nghiêm vừa dân dã. Chính điện khang trang chia làm ba lớp, nên thường được gọi nôm là tam cung. Trên các vì kèo, chắn gió, đặc biệt là cửa võng được chạm trổ tinh vi bằng nhiều họa tiết như: tứ linh, hoa lá, cá vượt Vũ Môn... Nội cung bày bài vị đức thành hoàng và năm bát nhang thờ của năm làng cùng nhiều đồ tế khí: tàn lọng, bát bửu, xà mâu và kiệu rước...

    Hai bên chính điện, cùng trông ra sân chầu là hai dãy nhà năm gian, ứng với năm thôn dùng làm nơi tiếp khách và nhận lễ trong mỗi kỳ lễ hội...

    Đền Ba Xã tứ mùa bát tiết hương bay. Song nhộn nhịp tưng bừng hơn cả là kỳ lễ hội thường niên 12 tháng 6. Và như đã thành lệ, cứ năm năm một kỳ mở lễ hội to. Để chuẩn bị cho mỗi kỳ lễ hội, người năm thôn ở Minh Đức nuôi năm con nghé. Trước ngày lễ hội các con nghé được dắt đến thi. Con nào vào giải thì được chọn để hôm sau mở hội giết thịt tế thần và chia đều để năm thôn thụ lộc. Ngày khai hội 12 tháng 6, từ sáng sớm, làng thôn đã rộn rã, tưng bừng. Người của năm thôn trống giong cờ mở, kiệu rước đưa thần thánh thờ trong bản hạt thôn mình về đền dự hội. Sau khi cả năm thôn, anh trước em sau đã tề tựu đông đủ, lễ rước nước bắt đầu. Vẫn theo thứ tự anh trước em sau, năm đoàn rước ra sông Nhuệ làm lễ rước nước. Đi đầu mỗi đoàn rước là đội cờ. Tiếp sau là đội nhạc, đội kiệu rước bát nhang hương án, và kiệu rước chum nước. Chum nước được quây quanh bằng vải trắng, miệng phủ vuông vải đỏ. Tới bờ sông năm thôn, mỗi thôn dùng năm chiếc chải ra giữa lòng sông lấy nước về làm lễ mộc dục.

    Sau lễ mộc dục là lễ tế thần, lần lượt năm thôn làm lễ tế, tiếp sau là lễ tế của các dòng họ, các gia đình và khách thập phương. Trong khi ở chính đền long trọng diễn ra lễ tế, ở ngoài hồ ngoài bãi đền, diễn ra nhiều trò chơi sôi động như múa rồng, múa lân, chọi gà, đấu vật. Sôi nổi và cuốn hút người xem hơn cả là trò đập bị gạo và túm nước. Người ta treo nhiều bị gạo và túm nước lên một giá treo. Ai đập vào bị gạo thì được thưởng. Ai đập vào túm nước, túm nước vỡ ra bắn tung tóe vào người, khiến người xem xung quanh cười rộ lên.

    Lễ hội đền Ba Xã đã từ lâu trở thành lệ của năm thôn: Thịnh Cầu, Thịnh Bằng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng, Thịnh Hạ và dân chúng thập phương kéo về dự hội rất đông. Để phục vụ cho việc ăn ở của khách thập phương, nhiều người địa phương quần tụ gần đền dựng nhà, lập quán thành một nơi buôn bán sầm uất thời xưa. Chính vì lẽ đó mà ở gần đền Ba Xã ngày nay có một địa danh được gọi là: Phố Cống Thần.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  6. #6
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Chọi trâu Đồ Sơn, một lễ hội dân gian độc đáo

    Chọi trâu Đồ Sơn, một lễ hội dân gian độc đáo

    Chọi trâu là hình thức sinh hoạt văn hóa xuất hiện từ lâu và riêng có ở Đồ Sơn, vùng ven biển thuộc thành phố Hải Phòng. Đã có giai đoạn khá dài bị gián đoạn nhưng sau khi khôi phục, lễ hội chọi trâu không ngừng được nâng cao và hoàn chỉnh dần. Những nét cơ bản của tập tục cũ gắn với quan niệm tín ngưỡng thể hiện lòng biết ơn những ngư dân đầu tiên có công lập tám vạn chài bên các cửa sông Lạch Tray và Văn Úc, khát vọng cuộc sống ấm no, hạnh phúc vẫn còn giữ nguyên. Bởi thế, mang đậm bản sắc và đầy đủ các nghi thức truyền thống dân gian: Rước kiệu và long đình, bát biểu; hành lễ tế thành hoàng làng, dùng trang phục cổ và nhạc cụ dân tộc, tặng thưởng cao chủ trâu và trâu thắng trong trận cuối cùng đoạt ngôi vô địch. Tuy nhiên, cũng có những cải biến nhằm thích ứng với hoàn cảnh mới. Trâu chọi không phân bổ tính theo suất đinh của các giáp mà huy động tiền đóng góp của những người tự nguyện, giao cho thành viên nhiệt tình và giàu kinh nghiệm tìm mua, nuôi dưỡng, huấn luyện. Có thể là của một hộ gia đình.

    Sân đấu không phải là mảnh đất hẹp cũ, đã được đưa sang sân vận động thị xã rộng lớn kề liền đường 14, thu hút thêm đông đảo khách trong nước và khách quốc tế về xem hội. Thời gian thu gọn và chia hai vòng, tính đúng lịch âm, hằng năm cứ ngày 8 tháng 6 đấu loại và ngày 9 tháng 8 đấu chính. Việc làm lễ chuyển về đêm và từ buổi sáng là tiến hành chọi trâu. Thể thức hội sắp xếp bài bản và có trình tự. Trên lễ đài nổi bật bản thống kê số liệu kẻ đậm những thành tích trên mọi lĩnh vực của nhân dân địa phương. Chủ tịch chính quyền sở tại đọc lời khai mạc. Các tốp nam, nữ trình diễn điệu múa cờ "mở trận" vừa dũng mãnh vừa uyển chuyển. Tiếp đó, viên "dịch loa" đội nón chóp, mặc áo the, thắt bao lưng xanh, quần trắng, quấn xà cạp, điều hành các trận đấu. Trâu đã đưa sẵn ở hai phía cửa và dứt tiếng loa gọi được dàn máy âm thanh khuếch đại vang xa, người đánh trống khẩu cùng người nhảy múa và quản trâu dắt trâu ra sới. Đến một khoảng cách nhất định, họ cho trâu dừng lại, và rút dây mũi. Đôi trâu sẵn sàng nghênh chiến và lao ngay vào cuộc đọ sức. Như thế, là hội chọi trâu đang chuyển tới một hoạt động quy mô và đa dạng, phong phú hơn.

    Năm 1998 đã là lần thứ 9 mở lại hội chọi trâu Đồ Sơn. Nhờ sự chỉ đạo chu đáo và linh hoạt của Ban tổ chức đầu tư một phần kinh phí mua trâu và thưởng khuyến khích cho trâu lọt vào vòng hai, tranh thủ nguồn tài trợ của hãng Sony tại Việt Nam, báo Hải Phòng, Đài Phát thanh-Truyền hình Hải Phòng và các đơn vị kinh tế khác trong nước tạo nguồn trao giải, số lượng trâu tham dự lên tới 28 con, nhiều nhất từ trước đến nay. Các phường Vạn Sơn, Ngọc Hải, Ngọc Xuyên, mỗi phường có 8 trâu cùng với phường Vạn Hương có 4 trâu đã qua vòng đấu thứ nhất. 14 trâu thắng là những trâu đực to khỏe và gan góc, có đặc điểm ngoại hình được chọn lựa kỹ; thuộc các dạng "cổ cò, đít nhót, đuôi trai", "nhỏ khoeo, kín móng", "hàm nghiêm, tóc tráp", "trường đùi, ngắn quản", "da đồng, lông móc"... Chúng xung trận quyết liệt, thường đánh miếng "dập" phủ đầu tiến công đối phương và miếng "cáng ngoài" hiểm hóc để dứt điểm, các tư thế tiến và lùi chịu đòn, tránh đòn khá nhanh và hoạt. Những cặp sừng vót nhọn, vót múi khế, vót ba cạnh thật lợi hại trong những cú đâm bổ và đón đỡ nảy lửa, va đập dữ dội. Phường Ngọc Hải từng năm lần giữ giải, phường Ngọc Xuyên lại có những trâu hay. Thật khó dự đoán kết quả. Tuy nhiên, giới chuyên môn và những người am hiểu trâu chọi nghiêng về khả năng chiếm giải của các trâu mang số 21, 17, 2 và 5.

    Chung quanh trường đấu đã có rào sắt vững chãi bảo đảm an toàn. Đoạn đường lầy lội được tôn cao, rải nhựa dẫn vào bốn khán đài xây bê-tông thành các bậc và khoanh ô, đủ chỗ chứa hơn một vạn người. Theo kế hoạch, trước ngày hội chọi trâu, có các hoạt động giao lưu nghệ thuật và thả diều, thả đèn trời. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn tưng bừng mùa thu này sẽ thêm đông vui ở khu du lịch có cảnh quan hấp dẫn của thành phố Hải Phòng.

    (Theo Mặc Nghiêm)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  7. #7
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Đi Hội Chợ Viềng

    Đi Hội Chợ Viềng

    Cứ đến độ xuân về, du khách các nơi lại nườm nượp đổ về trẩy hội Phủ Giày (ngày mồng 8 tháng Giêng), một trong những phủ thờ bà Chúa Liễu Hạnh trong ''tứ bất tử'' ở VN. Hội Phủ Giầy, ghé qua hội chợ Viềng là hội chợ cũng ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản (Nam Định) - nơi người xưa đã gọi là "địa linh, nhân kiệt". Sự độc đáo của chợ Viềng là mỗi năm họp chỉ có một phiên.

    Chợ Viềng xưa và nay

    Chợ Viềng họp cả ngày vào mùng 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, nhưng người ở xa thường về từ sớm, rậm rịch họp chợ từ 11, 12 giờ đêm hôm trước, cho đến sáng và hết cả ngày hôm sau. Khách đến từ khắp nơi, trong Nam ngoài Bắc, đông nhất vẫn là người nội tỉnh và kế đến là khách các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá đổ ra.

    Ngày trước, khi chưa có điện, người bán hàng thắp một ngọn đèn dầu tù mù. Những món đồ cũ được bán chủ yếu là để cầu may chứ không để thu lợi như bây giờ. Ở đây người mua hoàn toàn tin tưởng vào người bán và qua chợ Viềng, con người càng thêm gắn bó với nhau.

    Chợ Viềng bây giờ đã thay đổi rất nhiều cả ý nghĩa lẫn các loại hàng hoá. Rất ít những người bán đồ cũ, đồ cổ thực sự, phần lớn là những mẹt hàng sành sứ, đồng thau giả cổ bày bán ở những chỗ càng tối càng tốt....khiến nhiều người mua nhầm hàng hỏng.

    Tiếng là "hội chợ" nhưng chợ Viềng không bán mua những sản phẩm ngoại lai cao cấp, hào nhoáng đắt tiền như ở các hội chợ tỉnh, thành phố lớn. Sản phẩm được đem ra mua bán ở đây chủ yếu là các cây trồng, vật nuôi: từ cây trồng để lấy gỗ, cây hoa cây cảnh, các loại cây ăn quả, thậm chí cả cây cà, cây chanh, cây ớt. Và sau nữa là đến các vật dụng sản xuất nhỏ của nhà nông. Người ta có thể tìm mua ở đây từ cái cày cái cuốc, đến các vận dụng nhỏ như đôi quang thúng, cái đòn gánh cùng trăm ngàn thứ vật dụng linh tinh khác.

    Ngoài ra còn có thứ thực phẩm được người bán kẻ mua rất tưng bừng náo nhiệt. Ц#243; là thịt bê được thui vàng ươm nguyên cả con, bán rất nhiều dọc các ngả đường đi vào chợ. Có thể nói không ngoa rằng "Trên là trời, dưới là thịt bò bê". Khách mua ai thích phần nào có thể tuỳ chọn, mà giá lại rất phải chăng, hợp với túi tiền của "người nhà quê".

    Mua, bán... cầu may

    Nhiều năm nay, người dân quanh vùng vẫn đổ đến chợ Viềng. Họ đi cả gia đình, cùng nhau ngắm nghía hay trả giá mua một món đồ sứ... mới toanh nào đó. Quanh năm, họ sống trong một cuộc sống yên ả, nề nếp, đúng giờ giấc. Đến đêm chợ Viềng, nhịp sống của họ thay đổi hoàn toàn. Họ thức suốt đêm, đi ra khỏi nhà và hoà mình vào dòng người nửa quen nửa lạ. Đối với những người dân đơn sơ như vậy, chợ Viềng của họ vẫn còn mãi. Và chính họ mới là những người khách đích thực của chợ Viềng hàng năm.

    Ở chợ phiên này có tục người bán không hề nói thách và người mua cũng không hề mặc cả - một nét đẹp đáng yêu chỉ phiên chợ này mới có. Hình như sự bán mua ở đây mang nặng một ý thức tâm linh nào đó - rằng người ta chỉ cần bán hoặc mua được một vật gì đó dù rất nhỏ thì người bán kẻ mua đều gặp nhiều may mắn tốt lành, và cả đôi bên đều cùng vui vẻ hỉ hả ra về. Chính vì vậy hội chợ Viềng ngày xưa còn có tên gọi là chợ Cầu May.

    Khách thập phương về hội chợ phần lớn là do nghe danh tiếng của chợ Viềng mà về, nhưng phần đông vẫn là những người có gốc gác hoặc quê quán ở tỉnh Nam đi làm ăn xa nay nhớ đất Tổ, đất quê tìm về. Nên dù có xa mấy, tận bên kia Bình Dương, tận Sài Gòn lục tỉnh... cũng nhớ ngày về để dự hội.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  8. #8
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Độc đáo hội chọi trâu Đồ Sơn

    Độc đáo hội chọi trâu Đồ Sơn

    Bán đảo Đồ Sơn ngút ngàn những rừng thông, lồng lộng gió khơi xô sóng tràn vào những bãi cát mịn màng. Nơi hùng vĩ núi non kề liền mênh mông biển cả tạo nên cảnh sắc thiên nhiên kỳ ảo này có nhiều sự tích và những công trình kiến trúc cổ mang dấu ấn lịch sử. Đồ Sơn còn nổi tiếng với hội chọi trâu, một sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo.

    Qua các truyền thuyết và thần tích ở Đồ Sơn thì những vị tổ đầu tiên lập nghiệp đã chọn nghề đánh cá. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn thủa sơ khai, con người tự tìm một đấng quyền uy linh thiêng làm chỗ dựa. Giấc mơ gặp tiên ông xem cặp trâu chọi nhau trên bãi biển và vết tích "Điểm tước đại vương" là điềm lành cho các vạn chài ở đây. Họ tôn vinh thần chim biển trừ diệt loại cá kình hung dữ, giúp dân yên ổn làm ăn là thành hoàng. Hội chọi trâu tuyển chọn con vật thắng cuộc dâng hiến thần có từ thời xa xưa, và trở thành nguồn cội trong đời sống tâm linh người Đồ Sơn. Thời điểm chính mở hội là ở bước chuyển từ vụ cá nam sang vụ cá bắc, là lúc ngư nhàn ít mưa bão. Những đặc điểm vừa nêu lý giải sự khác biệt của hội chọi trâu Đồ Sơn với những loại hình lễ hội thường thấy.

    Sau một thời kỳ bị gián đoạn, năm 1990, hội chọi trâu được khôi phục. Hàng chục nghìn người sở tại và các vùng lân cận đổ về chứng kiến và cổ vũ. Không tránh khỏi những lúng túng nhưng các nhược điểm đã được khắc phục dần. Phần lễ vẫn giữ những nét cơ bản. Các phường cử người dâng hương ở đền Nghè thuộc phường Vạn Hương, lấy nước giếng về thờ. Rồi rước kiệu bát cống và long đình, bát biểu, cờ, lọng dẫn trâu trình thần, dùng dàn nhạc bát âm đưa đường, và hành lễ tại đình làng. Trâu đoạt giải đem tới đình tạ thần. Những thủ tục rườm rà được tước bỏ. Phần hội có thay đổi cho phù hợp điều kiện và hoàn cảnh mới. Hai vòng đấu loại và đấu chính vào các ngày 8-6 và 9-8 lịch âm, được sắp xếp bài bản hơn. Sới chọi đưa sang khu đất rộng cạnh đường 14. Thời gian hội không kéo dài, chỉ gọn một ngày cho từng vòng đấu. Những người trực tiếp điều khiển và phụ trợ hội dùng trang phục cổ. Điệu múa "khai hội" cũng cải tiến với lối trình diễn biến hóa và đa dạng, giàu hình tượng chứ không đơn giản là những động tác tiến và lùi. Hội được bổ sung các hoạt động đua thuyền, biểu diễn nghệ thuật, chơi cờ tướng, thả đèn trời.

    Lệ cũ Đồ Sơn là tính số trâu chọi theo đóng góp suất đinh của các giáp, kèm những kiêng kỵ khe khắt. Không giao trưởng giáp có tang nuôi trâu và không để phụ nữ chăn dắt trâu. Số trâu chọi ở Đồ Sơn thời trước nhiều nhất là 12. Nay, là các đơn vị kinh tế và một hộ hoặc vài hộ gia đình tự nguyện đảm nhiệm, ít vướng mắc trong những quy định gò bó. Chủ các trâu chọi không tính toán đơn thuần về kinh tế. Mục tiêu là hướng vào góp phần gìn giữ di sản của cha ông, tạo không khí hội hè vui vẻ và có trâu thắng là một vinh dự lớn. Tính vô tư, sòng phẳng, công khai và dân dã của hội chọi trâu là đặc điểm nổi bật. Xưa, chỉ có một giải duy nhất là khẩu xăm-phương tiện hành nghề biển, bây giờ thêm giải nhì, giải ba và giải tặng trâu đánh hay, phần thưởng quy thành tiền. Trâu chọi là con vật chủ yếu trong hội, không phải có một dòng riêng, một thứ hàng bán sẵn ở các chợ. Nói chung, trâu Việt Nam là loài thú lớn có nguồn gốc hoang dã, được thuần hóa vào hậu kỳ đá mới, cách ngày nay chừng bốn đến bốn nghìn năm trăm năm. Mua trâu chọi là cuộc săn lùng vất vả, gian truân. Đồ Sơn lưu truyền một bài văn vần mô tả 16 điều tỉ mỉ về đầu, mặt, trán, tai, sừng, hàm, tóc, khoang cổ, ức, các khoáy, khung sườn, mình, chân, đuôi, bụng, bộ phận giao phối và những thói quen bộc lộ khí chất bên trong của trâu, cố nhiên là trâu đực. Kiếm được trâu đủ các tiêu chuẩn đã đúc kết là rất khó. Ông Lê Bá Tuyền là tay sành chọn trâu, chú trọng ba điểm cơ bản. Mắt trâu xếch, nhỏ, đen, lòng trắng có tia đỏ là gan góc. Sừng là bộ đao kiếm cần to, rộng, thành vuông, vênh, đà về phía vai và cao. Và cuối cùng là thể lực trâu khỏe, dẻo dai. Năm 1993 và 1994, ông có trâu số 20 đoạt giải nhất, trâu số 22 được giải nhì. Ông Hoàng Đình Phúc ưa loại trâu vùng đầm lầy ven biển Kiến Thụy, Vĩnh Bảo và nói rõ là mắt trái có quầng nhiều vòng càng tốt. Nếu có sừng gấu đá là gan lì. Nên chọn trâu trường mình, ức cao, lông dày, da sần sùi, móng tròn và khít, cổ cò, đít nhót, máng nước hẹp, kín hơi, đủ tám răng. Sáu lần tranh giải, năm 1994 và 1998, trâu của ông đều đoạt giải nhất. Ông Phạm Văn Căn cất công lên Hà Giang kén trâu núi và con số 12 trong vòng đấu loại năm 1999 tỏ ra dũng mãnh, đánh bại trâu số 8 của ông Phạm Văn Vị. Trong bốn phường ở Đồ Sơn, thường xuyên có trâu thi chọi, Ngọc Hải đứng đầu với năm giải nhất. Để chiếm được giải cao, bên cạnh ưu thế ngoại hình trâu, phần lớn là công sức nuôi dưỡng và tập luyện. Trâu được chăm sóc chu đáo. Ăn cỏ ngon và cám, cơm, pha chút mỡ trăn cho dễ tiêu hóa và tăng khả năng chịu đựng nóng, rét, uống vitamin B1, khi vào chọi cho uống sâm. Chuồng trâu sạch và thoáng. Tắm kỹ trâu hằng ngày. Luyện trâu khá công phu. Trâu phải tập chạy, lội bùn, leo núi, thích nghi với những biến đổi thời tiết nhằm nâng sức chịu đựng, dẻo dai. Tùy từng trường hợp, có thể vót sừng nhọn hoặc múi khế. Tập cho trâu bạo dạn trước đông người và âm thanh huyên náo, mầu sắc rực rỡ trong hội. Đánh thức khả năng tự vệ và tiến công bằng các động tác "nhử" hoặc "ghé" trâu giữa hai bên cổng sắt. Trong các cuộc chọi, trâu được rút mũi dây ở một khoảng cách nhất định. Chúng lao thẳng vào nhau. Trận đấu dữ dội với nhiều tình huống gay cấn. Có miếng vồ, đánh dập, luồn sừng bẻ, lật ngược đối thủ. Miếng gảy, dùng sừng đánh vào bất kỳ chỗ nào tiếp giáp. Hiểm hóc là miếng quỳ, hai chân trước gập xuống, mài mặt sát đất, day sừng lấy cáng tống hầu và miếng chọc mắt. Những lối đánh này không thể dạy, nó là bản năng và nảy sinh khi trâu "kháp sới". Khá nhiều đôi trâu đánh quyết liệt, có trận kéo liền 40 phút đồng hồ, có con tuột sừng vẫn đánh hăng và chiến thắng. Sự dũng mãnh, ngoan cường của trâu chọi là biểu tượng gửi gắm ý nguyện và khí phách của người Đồ Sơn giàu tinh thần thượng võ.

    Nhận thức sâu sắc và trân trọng một lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc, chính quyền địa phương đã đầu tư hơn hai tỷ đồng xây dựng sân vận động đa năng, là địa điểm của hội chọi trâu và đáp ứng các hoạt động thể thao, văn nghệ. Đường nhựa phẳng lỳ dẫn vào sân tôn cao gần nửa mét chống lụt lội, có hàng rào chắn và ba khán đài bao chung quanh, chứa được hàng chục nghìn người. Vòng đấu loại của hội chọi trâu từ các phường được chuyển về đây cùng với vòng chung kết, và được tổ chức trong mùa du lịch để thu hút khách trong nước và quốc tế đến Đồ Sơn. Cơ chế linh hoạt, tranh thủ các nguồn tài trợ cho hội, trích 40% tiền bán vé hỗ trợ phường và các chủ trâu là biện pháp động viên có hiệu quả. Việc kiện toàn, củng cố ban tổ chức hội giúp công tác chỉ đạo có nền nếp. Hội đã bảo tồn được những giá trị truyền thống quý báu, khơi dậy tiềm năng, sự sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của quần chúng, tạo niềm phấn khởi, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng.

    Năm nay, vừa chẵn một thập kỷ của Hội chọi trâu Đồ Sơn kể từ khi khôi phục. Vòng đấu ngày 18-9 tới (đúng mồng 9 tháng 8 Kỷ Mão) có 11 trâu sẽ tranh giải vô địch. Giới chuyên môn dự đoán trâu của các ông Nguyễn Văn Căn, Hoàng Gia Thơm, Đoàn Đình Phúc và Hoàng Đình Phúc có nhiều triển vọng cống hiến những miếng đánh hay. Một ngày hội tưng bừng đang mời gọi và công chúng chờ đợi sự phân định ngay trên sới chọi trong tiếng trống âm vang của Hội chọi trâu Đồ Sơn.

    (Theo Nghiêm Thanh)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  9. #9
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Hội Chen

    Hội Chen

    Làng Ngà, một tên nôm của làng Nga Hoàng, Quế Võ, trấn Kinh Bắc xưa, nay thuộc Bắc Ninh, không biết từ bao giờ, cứ mùng 6 tháng giêng làm lễ rước thần, thế nào cũng có Hội CHEN..

    Đám rước bắt đầu từ miếu thờ nữ thần Linh Sơn Mỵ Nương (riêng cái tên Mỵ Nương làm ta liên tưởng đến thời Hùng Vương, có nhiều nhân vật mang tên này và làm ta có cớ để nghĩ Hội Chen này ra đời đã lâu. Giữa lúc nghiêm trang nhất, quan chủ tế, bồi tế, ông già bà cả cầu thần khấn niệm đầy thành kính, thì không hiểu từ một góc khuất nào bỗng nổi lên ồn ào. Thì ra việc CHEN bắt đầu. Đó là lúc đàn ông, con trai, thanh niên, cả ông già đổ xô đến chỗ phụ nữ, con gái, cả các bà già, thiếu nữ đứng, mà chen vai thích cánh. Họ xô đẩy nhau, giằng co nhau, lẫn lộn vào nhau, bật nhau ra một góc giếng hay bờ tường, gốc cây hay lối rẽ... Nhưng tất cả chỉ có tiếng cười như một thứ nhạc nền hiện đại mà không hề có tiếng la ó tục tằn. Cứ như là đã có sự sắp đặt, hẹn hò từ trước, dưới bàn tay một đạo diễn vô hình, và nếu có thì người đạo diễn ấy chính là con tim, là tình yêu, là sự kết đoàn, là hoà hợp, vui vẻ, là tâm linh để cầu cho mưa thuận gió hoà, âm dương kết hợp, làng xóm tươi vui... Cuộc chen xảy ra như một cơn giông vội vã, biết đâu, chỗ nào, ai kia, bàn tay chẳng chạm sát, hương má hồng ửng đỏ chẳng kề bên tấm vai vạm vỡ người con trai mơ ước... Giây lát, cuộc chen bỗng im phắc, người người chắp tay cầu khấn thần linh: "Lạy thánh mớ bái, xin phù hộ cho xóm làng già mạnh khoẻ, trẻ bình yên..."

    Cuộc rước lại tiến hành trong trống rong cờ mở, đi quanh làng trong ánh xuân tươi rói, bất chấp năm nắng hay năm mưa. Nhưng rồi đột nhiên cuộc chen lại tái diễn, lúc này ngược lại, gái chen trai chứ không phải trai chen gái, bà già chen ông già, nữ tú chen nam thanh, chị trung niên chen anh lực điền... trong tiếng cười hả hê, vui thích.

    Lúc sau, đám rước tiếp tục như không hề xảy ra chuyện gì cho đến khi đám rước dừng chân kết thúc. Nhưng không đâu, lúc này cuộc chen lần thứ ba lại nổ ra như sấm sét. Đó là lúc phái nữ của cả làng đi tìm khách đàn ông đến dự hội mà chen... Khách trốn vào nhà cũng bị lôi ra, trèo lên cây cũng bị lôi xuống, rách khăn toạc áo cũng mặc, cứ chen ra sân ra đường, ra đình ra miếu... ra nơi nào tuỳ ý. Đáng chú ý là các cô gái vào nhà ai đang có khách, đều lễ phép thưa gửi với chủ nhà trước đã, rồi mới kéo khách ra để chen; chen trong cái thế chủ động mà lễ phép, chen trong niềm hân hoan của người chen và người được chen... Sôi động xóm làng, không ai, không gì ngăn được.

    Mấy ngày sau đó, đám tế lễ vẫn được tiến hành như thường lệ tại đền thờ Nam Thần gọi là Đống Vành. Và lần này các cuộc chen lại tái diễn, lúc gái chen nam, rồi nam chen nữ, rồi nữ làng chen khách thập phương là nam giới... cho đến đêm rằm, cuộc tế lễ và rước thần kết thúc tại miếu nữ thần... thì còn thêm tục tắt đèn, giống như đêm rã đám làng La trong câu ca dao: Bơi Đăm rước Giá Hội Thày - Vui thì vui vậy chẳng tầy rã La...

    Tắt đèn bao lâu, tàn một tuần nhang chăng, những gì rì rầm, sống động trong bóng tối đầy khí dương hoà xuân mới, chúng ta sinh sau, chỉ tưởng tượng chứ không kịp dự... nhưng có cụ kể lại rằng những đêm tắt đèn ấy, nhỡ ra có ai nên vợ nên chồng sớm thì làng cũng không ngả vạ, mà còn giảm một nửa số tiền nộp treo cho làng, như ngầm nói đó là do thánh thần phù hộ xe duyên... Tương truyền thần Nữ và thần Nam của làng muốn tục lệ ấy được diễn ra, có thế làng mới làm ăn yên ổn.

    Hơn nửa thế kỷ nay, tục CHEN gần như đã mất. Nay cũng chưa ai nghĩ đến chuyện phục hồi, bởi phong tục và nếp sống đã khác xưa nhiều lắm. Phục hồi một phong tục không dễ chút nào. Nhắc lại một nét xưa để ta thấy thêm một điều dân tộc ta cũng trữ tình, dí dỏm, yêu đời, lãng mạn lắm đấy chứ. Và có lẽ nó cũng là tàn dư của những tục lệ thờ phồn thực, thờ Linga, múa tùng hoặc, tế nõn nường... cầu mong sinh sôi để duy trì và phát huy nòi giống.

    (Theo Băng Sơn)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  10. #10
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ cúng trăng của người Khmer Nam bộ

    Lễ cúng trăng của người Khmer Nam bộ

    Người Khmer quan niệm mặt trăng là một vị thần điều tiết và có ảnh hưởng lớn đến mùa màng. để tưởng nhớ công ơn, vào dịp thu hoạch hoa màu họ làm lễ cúng trăng và được tổ chức thống nhất vào đúng đêm rằm tháng 10 tại khuôn viên chùa, cũng có thể ở nhà hoặc nhiều nhà cùng tập trung trên khoảng sân rộng rãi không có bóng cây che khuất. Họ trải chiếu ngồi quay về hướng mặt trăng, đợi lúc trăng cao toả sáng, một người cao niên làm chủ lễ sẽ nói lên lòng biết ơn, xin mặt trăng tiếp nhận lễ vật và cầu cho mưa thuận gió hoà trong năm tới. Thức cúng đặc biệt không thể thiếu trong lễ này là cốm dẹp, được quết từ lúa nếp. Cúng xong, trẻ em được gọi đến cũng chắp tay hướng về mặt trăng, chủ lễ lấy cốm dẹp đút vào miệng các em. Chính vì nghi thức này mà lễ cúng trăng còn gọi là Okombok, tức là "Đút cốm dẹp".

    Do tín ngưỡng Phật giáo, lễ cúng trăng còn liên quan đến câu chuyện ngụ ngôn "Con thỏ và mặt trăng". Xưa kia, thỏ từng là một kiếp hoá thân của Đức Phật sống bên bờ sông Hằng. Một hôm, thần Sakah xuống trần giả làm người ăn xin để thử lòng thỏ, không có gì làm phước, thỏ đốt lên đống lửa nhảy vào và nói "Mời người dùng thịt này". Lửa bỗng tắt ngấm và người ăn xin biến mất, thần Sakah hiện ra khen ngợi lòng hy sinh cao đẹp của thỏ và vẽ hình thỏ lên mặt trăng. Vì vậy, lễ cúng trăng còn để tưởng nhớ đến tiền kiếp của Phật thích ca.

    Trò chơi dân gian chủ yếu trong dịp này là các cuộc đua ghe ngo, thường diễn ra trước đó một hai ngày và kết thúc vào trưa rằm âm lịch để trở về làm lễ cúng trăng. Qua lễ hội cũng là thời điểm bước vào mùa khô, hoa màu thu hoạch xong, các gánh hát Yukê (một loại hình kịch hát dân gian đặc trưng của người Khmer Nam Bộ) do nhân dân trong phum srok lập ra bắt đầu lưu diễn vui chơi. Sau đó, mọi người lại trở về với ruộng rẫy khi đến mùa cày cấy.

    (Theo Lê Phước Vinh)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  11. #11
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội cầu an cho bản Mường

    Lễ hội cầu an cho bản Mường

    Lễ hội cầu an cho bản mường (xên bản, xên mường) của người Thái, đặc biệt là người Thái Mai Châu, Thuận Châu, Mộc Châu, người Mường... là một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng người ở Tây Bắc. Lễ hội thường được tổ chức vào cuối tháng giêng, đầu tháng hai âm lịch hàng năm (dịp tết Nguyên Đán), gắn với tục giết trâu hiến sinh cầu và tạ thần linh, được biểu hiện qua tiếng sấm, tức lời phán quyết của vua trời, qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng... Lễ hội có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đồng bào ở địa vực lớn (bản, mường).

    Lễ hội cầu an cho bản mường của một số tộc ít người sở dĩ thu hút được sự tham gia tổ chức, đóng góp... của các bản, mường là bởi, trước hết nó gắn với nghi lễ hiến sinh thờ thần nước, nguồn nước - vị thần gắn bó chặt chẽ với đời sống tâm linh của cộng đồng. Thứ nữa, theo quan niệm lâu đời của người dân bản mường, nếu không tổ chức lễ cúng trong toàn bản, toàn mường, không hiến lễ vật (trâu, cặp trâu) cho tổ tiên và các vị thần linh thì cuộc sống vật chất và tâm linh của con người trong cộng đồng sẽ gặp những trắc trở, không thuận lợi, thần linh không phù hộ cho được nhân khang, vật thịnh, cộng đồng bình an. Chính vì thế mà để được bình yên, cộng đồng người Thái, Mường... nơi Tây Bắc xa xôi này sử dụng một thế ứng xử rất quen thuộc của các cư dân Việt và cư dân các tộc ít người trên đất Việt, là hiến tế lễ vật (trâu, bò, heo, gà...) cho thần linh, mà ở đây là thủy thần, thần nước, thần nguồn nước... dưới dạng con thuồng luồng, con giải, con giao long... Các nghi lễ này ngày càng nhạt dần đi, ngắn gọn thêm, nhường chỗ cho các trò bách hý mang tính hội hè. Dù thế, qua nghi thức hiến sinh rất ngắn gọn trên, những nhà khoa học, văn hóa thạo giải mã sẽ đọc được rất nhiều biểu tượng gắn với cội nguồn văn hóa vốn có.

    Vậy là, để cầu bình an, cầu được mùa, mường bản tổ chức lễ hội xên mường, xên bản (hội hoa ban). Thường thì người ta tổ chức lễ cầu an cho mường trước, sau đó lần lượt làm lễ hội cầu an cho bản hoặc liên bản. Lễ hội này không chỉ bộc lộ khát vọng an lành cho cuộc sống, mối quan hệ khăng khít giữa thần và người mà còn biểu hiện khát vọng sinh sôi qua sự mong muốn là cầu khẩn mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi. Dần dà, lễ hội này còn mang tính chất tạ ơn thần linh đã cho mùa màng bội thu, đem sự no ấm đến cho mọi người. Chính vì thế, ngày nay, qui mô lễ hội (to hay nhỏ, kéo dài hay thu gọn... ) một phần lớn tùy thuộc vào thời tiết liên quan đến sự được mất của mùa màng năm tới, nhưng còn phụ thuộc vào sự được mất, nhiều ít của mùa màng vừa rồi, sau khi thu hoạch.

    Lễ hội này thường được tổ chức tại một bãi rộng, nơi có nguồn nước (mở nước), nhiều khi là nguồn nước thiêng, hoặc ở cạnh rừng (bìa rừng) trong hai hoặc ba ngày. Từ địa vực mà sự hiến sinh gắn với một biểu hiện của thần linh hay bản thân thần linh (sấm, mưa, thuồng luồng, thổ công, thổ địạ..). Nhiều người cho biết, ở Mộc Châu, lễ hội này được tiến hành ở đầu nguồn nước thuộc một bản được chọn (thường là bản Mòn). Đây là nguồn nước thiêng, gần rừng thiêng, nơi cư trú của thần thuồng luồng đầy uy lực. Ở người Thái Mai Châu, thì lễ hội lại được tổ chức ở bãi rộng gần đình như các lễ hội ở châu thổ, đồng bằng. Có nơi, người ta tổ chức lễ ở các miếu thờ thổ công, thổ địa của bản, của gia đình, ở vườn và ở đầu ruộng. Thường thì ngay từ dịp tết Nguyên Đán, mọi thứ dùng cho lễ hội đã chuẩn bị xong. Lễ hội thường kéo dài trong ba ngày (có nơi hai ngày một đêm, có nơi một ngày một đêm). Nghi lễ cúng viếng cơ bản là hiến sinh trâu (nơi là một cặp trâu đực to, trắng - đen, nơi thì một con, nhiều nơi cúng cả gà, lợn). Ở Mộc Châu, trong lễ xên bản, xên mường, người ta hiến tế cặp trâu đen - trắng cỡ từ mười tuổi trở lên. Hai trâu, nhưng trâu trắng mới thực sự mang năng lượng thiêng để thành lễ vật tế thần (ở đây là thủy quái thuồng luồng, con ma to nhất dưới nước mà bà con thường gọi là phi ngược). Có lẽ nghi thức thờ, hiến sinh hai trâu là mới hơn nghi thức hiến sinh một trâu mộng rất phổ biến. Bởi theo bà con cho biết, trước kia, dân một mường khác phải đem trâu trắng và các đồ cúng lên cúng tại bản Mòn này. Từ đó nảy sinh lễ cúng liên mường (xên liên mường) mà đồ cúng và trâu hiến sinh tăng thêm về số lượng. Suy tưởng này, thực ra mới chỉ là giả thiết.

    Người chịu trách nhiệm chính trong tổ chức lễ hội cầu an bản mường là a nha, nhưng người trực tiếp điều hành buổi lễ lại chính là ông thầy cúng (mo mường). Dân chúng trong mường, ngoài bản, bất kể già trẻ gái trai đều có nghĩa vụ tham gia, đóng góp tùy sức mình và được quyền tham dự lễ hội của mường.

    Nghi lễ giết trâu ở đây hết sức đơn giản, không quan trọng và hệ thống như nghi lễ đâm trâu, ăn trâu ở Tây Nguyên. Trước ngày hội chính thức, tức là khoảng 2-3 giờ chiều ngày hôm trước, người ta đã làm lễ giết trâu. Trước khi thịt trâu, ông mo mường và ông mò phăn (tức ông thầy chém, được dân mường chọn ra) làm lễ vái thần linh, tổ tiên rồi cầm dao nhọn làm động tác chém dữ (mang tính nghi lễ) vào cổ các con trâu dùng tế lễ, miệng thì thầm những câu như thần chú (thực ra, nhiều người cho rằng các ông chỉ nói lời kính báo với thần linh, tổ tiên: trâu tế thần đã sẵn, dân bản, dân mường đã thịt trâu dâng các vị rồi đây nhé, xin các vị về mà nhận lấy). Sau đó, các ông lui ra, dành chỗ cho các thanh niên khỏe mạnh vào chém trâu, thịt trâu... Bắt đầu ngày hội, người ta làm nhiều mâm cỗ cúng (mỗi mâm cỗ tượng trưng cho một bản lớn, xưa, có tạo bản đứng đầu, các bản nhỏ không được tượng trưng bằng mâm cỗ) đặt cạnh nguồn nước thiêng của mường. Đặc biệt, mâm cỗ của ông a nha, đặt ở giữa, dùng cúng tổ tiên (mâm cúng chính thức) phải đầy đủ các bộ phận của con trâu hiến tế (đầu, đùi, thân, móng, đuôị..) cùng tất cả các bộ phận của một con lợn. Những mâm còn lại của các bản, ngoài thịt trâu, cơm rượu... còn phải có gà vịt, đặt ở hai bên mâm cúng chính, dành để cúng các vị thần khác. Khi buổi lễ bắt đầu, mo mường quì trước các mâm cỗ, phía sau là a nha, tạo bản, dân mường quì lễ. Trong không khí trang nghiêm, linh thiêng, ông mo trang trọng, xuất thần đọc bài cúng đã thông thuộc, mời tổ tiên (ông cha bà cố nội ngoại tiếng Thái là Pao pu pang cải), thần đất (Chau đỉn), chủ nguồn nước (Chau nặm bo), thổ công thổ địa... về nhận lễ vật, dùng cỗ, vui vẻ với cộng đồng dân cư bản mường; đồng thời cầu mong tổ tiên thần linh ban phúc, phù trợ cho bản mường bình yên, làm ăn suôn sẻ, con người khỏe mạnh, ngô lúa sinh sôi, gia súc gia cầm đàn đàn, lớp lớp. Khấn xong, mo mường và các vị chức sắc cùng dân bản mường vái lạy tổ tiên và các vị thần. Trong lúc đó, mo mường ném hai quả trứng (một đỏ, một trắng) và một nắm cơm nhỏ xuống nguồn nước. Cuộc lễ kết thúc, mọi người bắt đầu vào cuộc ăn uống cộng cảm, vui chơi thể thao, văn nghệ... Cuộc ăn uống cộng cảm diễn ra hết sức vui nhưng đúng lễ nghi. Các ông mo mường, a nha, tạo bản... ăn làm phép ở mâm cỗ chính, rồi đi từng mâm; ở mỗi mâm các ông ăn một miếng thịt, uống một hớp rượu. Kế đó, cả bản mường ăn uống vui vẻ cho bằng hết các mâm, không được bỏ thừa hay đem về.

    Để chuẩn bị cho việc diễn ra những trò bách hý trong hội lễ, ngay từ sáng tinh mơ của ngày đầu tiên, bên cạnh vị trí cúng lễ (mặt bằng, có thể là bàn đá cạnh nguồn nước), người dân bản đã sửa sang, dọn dẹp một mặt bằng rộng, cách nơi hành lễ khoảng trên dưới 100m. Mọi hoạt động hội hè, trò chơi, văn nghệ, thể thao... đều được diễn ra nơi đây. Trời về chiều, trong tiếng trống, tiếng chiêng dìu dặt lúc khoan lúc nhặt, dân làng tổ chức xòe vòng, xòe đôi, xòe đơn thật hào hứng. Bên mâm rượu tập thể, những nam thanh nữ tú hát giỏi múa hay, biết nhiều, nhanh nhẹn trong ứng đối vừa ăn uống, chọc ghẹo, vừa hát đối đáp giao duyên. Họ hát giới thiệu, khen ngợi nhau, bày tỏ chí hướng, tỏ lòng với nhau... trong men rượu, men tình... Bên cạnh đó, dăm bảy đôi nam nữ (thường là những đôi đã ngầm kết nhau, tổ chức múa sạp, thi bắn nỏ, bắn súng hỏa mai. Nhiều nơi còn có tục đi săn tập thể vào ngày kết thúc lễ hội. Dưới sự chỉ huy của một thợ săn giỏi nhất mường, được dân bản bầu lên, mọi người lao mình vào cuộc săn một cách hào hứng. Thú rừng săn được sẽ chia đều cho mọi người cũng như lũ chó tham gia cuộc săn... Cứ như thế cuộc vui kéo dài trong hai, ba ngày. Sau đó, bản nào về bản ấy. Bản nào giàu có, nhiều khả năng vật chất thì mời mo mường, a nha về bản mình, tiếp tục mổ lợn, giết gà tiệc tùng vui vẻ, hoặc tổ chức cầu an cho bản (xên bản).

    Như vậy các nghi lễ chính trong lễ hội cầu an bản mường vừa bộc lộ tín ngưỡng thờ phụng thủy thần (thần nước, thần nguồn nước, sấm báo mưa) vừa thể hiện tín ngưỡng gắn với thời săn bắn, hái lượm nguyên thủy. Tuy nhiên, bằng vào tục hiến sinh trâu, có thể thấy nghi lễ chính là cầu thần nước, cầu tổ tiên cho làng bản bình an, làm ăn phát đạt, người vật phát triển. Tục đi săn, nhiều khi, là hệ quả kéo theo, ngày càng mang tính hội hè nhiều hơn. Vết tích nghi lễ tín ngưỡng qua tục săn bắn tỏ ra rất mờ nhạt. Dù sao, đó cũng là sự kéo theo hay xếp lớp văn hóa, thường gặp trong văn hóa dân gian.

    Về lễ hội cầu an cho bản mường, có tư liệu khác cho rằng đối tượng thiêng được chú ý là tiếng sấm (bóng dáng của nhiên thần, thần sấm, chớp - pháp lôi, pháp điện). Ngoài việc bộc lộ sự ngưỡng vọng, khẩn cầu thần nước cho mùa màng sinh sôi, con người phồn thịnh, có lẽ cũng còn những tín hiệu biểu trưng khác cần phải bóc tách và lý giải. Dù sao, việc chú trọng đến tiếng sấm đầu năm, với tư cách bóng dáng hay bản thân một nhiên thần (đại diện cho trời), một mặt chứng tỏ sự gắn bó đến mức nhiều khi lệ thuộc vào thiên nhiên, thiên thần của cư dân và mùa màng tộc Thái, mặt khác cho thấy kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm ăn phong phú của cư dân ở đây. Qua một vài chi tiết thoáng qua, có tính gợi mở sau đây: "Người Thái Mai Châu cho rằng hễ năm nào nghe tiếng sấm rền từ phía thượng nguồn sông Mã, thì năm đó ắt có đại hạn... Người ta mổ ít lợn, gà làm lễ tế thần để cầu mưa, rửa lá lúa, xua đuổi thần trùng... Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng nguồn sông Đà, thì mọi người đều phấn khởi, tươi vui. Họ tin rằng năm đó sẽ mưa thuận gió hòa, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy bồ đầy kho, mọi người khỏe mạnh, ít ốm đau" (60 lễ hội truyền thống Việt Nam - Thạch Phương, Lê Trung Dũng - Nxb Khoa học Xã hội), có thể thấy thần linh cũng được phân loại tốt xấu gắn với hoàn cảnh cụ thể, sự vật cụ thể, nguồn nước cụ thể (sông Mã, sông Đà...). Kinh nghiệm làm ăn thực tiễn có tác động không nhỏ đến suy niệm và đời sống tâm linh cư dân miền núi. Điều này gắn với việc thờ thuỷ quái đã nêu, song có vẻ gián tiếp hơn. Tuy nhiên, về mặt diễn trình, lễ hội cầu an bản mường có khác nhau ở một số chi tiết hội.

    Như vậy, ngoài sự khác biệt đôi chút ở nghi lễ hiến tế, hầu như các hoạt động của lễ hội cầu an bản mường đều giống nhau ở chỗ đây là dịp để mọi người tụ họp, gặp gỡ với tổ tiên, thần linh, gặp gỡ với nhau trong cả sinh hoạt vật chất lẫn hành động tâm linh; vừa bộc lộ niềm thành kính, ngưỡng vọng thánh thần, vừa thể hiện sức mạnh của con người; vừa cầu phúc cho một cuộc sống hạnh phúc, an bình, vừa bộc lộ khả năng vui chơi, thi tài... Có thể nói, lễ hội cầu an bản mường là một hoạt động văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của các tộc Thái, Mường... một sinh hoạt văn hóa dân gian tổng thể; một nguồn vui không thể thiếu của cư dân ít người nơi rẻo cao Tây Bắc xa xôi, mỗi khi mùa hoa ban trắng nở.

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  12. #12
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội cầu Ngư

    Lễ hội cầu Ngư

    Suốt một dải duyên hải miền Trung từ Thanh Hoá đến Bình Thuận, Tết Nguyên đán vừa xong, người dân của hầu hết các làng chài đã bắt tay chuẩn bị ngay lễ hội cầu ngư. Theo tục lệ đã có từ vài trăm năm trước, lễ hội thường được tổ chức ba năm một lần, vui chơi, lễ tế trong vòng 3 ngày, rải rác từ giữa tháng giêng đến tháng 3 âm lịch.

    Thông thường lễ chánh tế được cử hành vào lúc nửa đêm, nhằm cầu an cho xóm làng và tưởng niệm những người đã khuất, khoảng 5 giờ sáng là lễ cầu ngư, diễn trò bên bờ và dưới nước.

    Vui và thu hút nhất ba ngày lễ hội là cuộc đua ghe trải giữa các làng chài. Cuộc đua trải cũng phải qua hình thức nghi lễ. Các trải đua phải thi tài vượt qua giai đoạn nghi lễ đầu, gồm 4 chặng, mỗi chặng lấy một thẻ có ghi các câu chúc cho tử dân làm ăn thịnh vượng, mưa thuận gió hoà.

    Ở làng chài Thuận An tỉnh Thừa Thiên- Huế, còn có trò diễn bủa lưới, tái tạo sinh hoạt của cư dân vùng biển.

    Bắt đầu vào lễ, người cao niên, được trọng vọng nhất làng khấn vái thần hoàng, thổ địa, thần sông thần biển... cho dân làng làm ăn thịnh vượng, sau đó đánh 3 hồi báo hiệu buổi lễ khai diễn.

    Sau hồi trống lệnh một vị cao niên tung tiền và phẩm vật xuống sân đình cho các em bé - được hoá trang thành các loài cá, mực, tôm - tranh giành nhau lượm. Đang lúc các em mải mê giành giựt, đám chủ thuyền khiêng một chiếc khe mành, trên khe có một người ngồi, tiến vào sân đình. Người này tung lưới vào đám trẻ. Các chủ thuyền đồng giữ lưới thành một vòng tròn, càng lúc càng thu hẹp lại, vây kín các em - tượng trưng cho các đàn cá đang ăn mồi và tìm cách thoát khỏi lưới.

    Các chủ thuyền làm các động tác gọi cá, bắt cá. Họ bắt vài con cá đẹp lên cúng trên bàn thờ vị khai canh. Những con cá khác được các bà buôn cá gánh ra chợ bán...Hoạt cảnh bán cá, mua cá diễn ra nhộn nhịp như buổi bán cá thực sự...

    Ở Quảng Nam, Đà Nẵng, lễ hội thường diễn ra vào trung tuần tháng 3 âm lịch. Ngư dân địa phương thường kết hợp lễ hội cầu ngư, lễ hội Cá Ông cùng với lễ hội ra quân đánh bắt cá vụ Nam hàng năm. Lễ rước trên biển ở đây có cả dàn nhạc trình diễn cùng với hát bả trạo, hát tuồng.

    Lễ hội cầu ngư của cư dân các làng chài duyên hải miền Trung, ngoài ý nghĩa cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu... đem lại cuộc sống ngày càng no đủ hơn, còn thể hiện ý thức "Uống nước nhớ nguồn", tưởng nhớ công đức của các vị tiền hiền, có công lập làng, dựng nghề.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  13. #13
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội ''chạy lợn''

    Lễ hội ''chạy lợn''

    "Chạy lợn" - một lễ hội độc đáo

    Hồi còn nhỏ bọn trẻ chúng tôi vẫn gọi đình Thượng làng Duyên Yết là "đình chạy lợn", vì năm nào chúng tôi cũng được xem "chạy lợn" ở đây vào dịp sau Tết.

    Lễ hội "chạy lợn" đã gây cho bọn trẻ chúng tôi một ấn tượng không thể phai mờ.

    Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, giặc chiếm quê tôi, đau thương tang tóc bao phủ xóm làng, từ đó không còn hội làng nữa, và lễ hội "chạy lợn" cũng đi vào dĩ vãng.

    Những tưởng lễ hội "chạy lợn" của làng tôi đã vĩnh viễn mất đi. Nhưng may thay, nó lại được khôi phục trở lại.

    Ấy là vào dịp tháng 4-1999, làng tôi tổ chức đón nhận bằng di tích lịch sử văn hóa.

    Lớp người quê tôi từ 50 tuổi trở xuống không ai biết "chạy lợn" là thế nào.

    Sự tích về lễ hội "chạy lợn" như sau:

    Đời vua Hùng Vương thứ 18, có một vị tướng tên húy là Nguyễn Hiển, hành quân qua đây để đánh đuổi giặc. Các vị bô lão trong làng đã xin được làm cỗ khao quân. Vị tướng bằng lòng, nhưng yêu cầu phải làm sao thật nhanh để binh sĩ kịp hành quân đuổi giặc.

    Từ đó hằng năm, cứ vào ngày 7-1 âm lịch, dân làng lại mở hội "chạy lợn" để nhớ về một truyền thống có ý nghĩa về tình quân dân cá nước thời xa xưa.

    Từ "chạy" ở đây có ý nghĩa là "thật nhanh" - mổ lợn thật nhanh, làm cỗ thật nhanh, chớp thời cơ để thắng giặc.

    Con lợn được đem ra lễ hội "chạy lợn" phải được nuôi hết sức cẩn thận. Trước lễ hội 10 ngày, chỉ cho ăn cháo gạo nếp, tắm rửa bằng nước lá thơm sạch sẽ mỗi ngày.

    Khi rước lợn vào đình, phải đặt lợn nằm trong một cũi sơn đỏ.

    Mỗi xóm cử ra 2 thanh niên cường tráng chưa vợ, đầu đội khăn đỏ, quấn thắt lưng đỏ. Cả 10 tráng đinh tề chỉnh, khiêng 5 con lợn của 5 xóm, quỳ trước sân đình chờ lệnh.

    Khi tiếng trống lệnh nổi lên, lập tức khiêng lợn về vị trí giết mổ. Ở đây đã chờ sẵn, những trai trẻ được phân công mổ lợn làm cỗ. Người cầm con dao to và dài tì vào cổ con lợn, người khác cầm chiếc vồ to giáng mạnh vào sống dao, chiếc thủ lợn văng ra, 2 người cầm chiếc thủ lợn nhúng vào nồi nước sôi, và làm sạch lông chiếc thủ lợn trong nháy mắt, rồi lại tiếp tục luộc thủ lợn vào nồi nước đang sôi sùng sục.

    Những người trong đội "chạy lợn" của mỗi xóm, được phân công mỗi người lấy một thứ trong con lợn, và làm chín để bày vào mâm cỗ.

    Mâm cỗ khi mang lên tế thần phải có đủ 10 thứ theo quy định của lễ hội như: thủ, vĩ, tim, gan, bầu dục, thịt vai, thịt mông,v.v. và nhất thiết phải có lá mỡ chài, phủ lên thủ lợn để trang trí cho mâm cỗ thật đẹp thì mới được chấm điểm.

    Các cụ giám khảo còn ra khám con lợn sau khi giết mổ, con lợn nào bị thủng ruột và mổ phanh ra để lấy lục phủ ngũ tạng, đều không được chấm điểm. Các vết mổ trên mình lợn phải nhỏ gọn, kín đáo, trông như con lợn còn nguyên vẹn, trừ cái đầu bị chặt để mang đi tế thần.

    Từ lúc con lợn được khiêng về vị trí giết mổ, đến khi mâm cỗ tượng trưng được làm xong và đem vào tế thần chỉ hết từ 2 đến 3 phút, chậm hơn sẽ không được chấm điểm. Thật là một kỷ lục hiếm thấy!

    Sôi động nhất là khi rước cỗ vào tế thần, trống thúc liên hồi, tiếng hò reo và những động tác khua dao, múa gậy của những người "chạy lợn" chạy theo mâm cỗ, của những người xem hội hò la cổ vũ các trai làng khiêng cỗ vào tế thần, làm vang động cả sân đình.

    Lễ hội "chạy lợn" đã để lại cho người xem một ấn tượng khó quên.

    Ngoài lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên, lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng, lễ hội "chạy lợn" ở Duyên Yết, Hồng Thái (Phú Xuyên, Hà Tây) cũng là một lễ hội mang nét sinh hoạt văn hóa độc đáo, mang nặng nghĩa tình quân dân cá nước xưa nay.

    (Theo Vũ Tín)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  14. #14
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội Chử Đồng Tử

    Lễ hội Chử Đồng Tử

    Từ Hà Nội, du khách có thể xuôi dòng sông Hồng bằng thuyền hay ca-nô, hoặc đi đường ô-tô ven đê khoảng 20km thì đến hai xã Bình Minh và xã Dạ Trạch thuộc huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên, nơi có đền thờ Chử Đồng Tử. Cả hai ngôi đền đều được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng. Đức Thánh Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa được thờ phụng ở nhiều nơi trên châu thổ sông Hồng, và cả ở Nghệ An. Nhưng, nơi có đền thờ nổi tiếng và hằng năm diễn ra lễ hội lớn nhất, có sức thu hút hàng vạn khách thập phương, là vùng đất Châu Giang, quê hương của Chử Đồng Tử. Nơi đây có hai đền thờ nằm ở hai làng cùng trong một huyện, chỉ cách nhau có mấy cây số đường chim bay, và mỗi nơi gắn liền với một mảng đời của nhân vật.

    Đền thờ ở làng Đa Hòa, là nơi mở đầu cho thiên tình sử diễm lệ Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Đền thứ hai ở xã Dạ Trạch, theo truyền thuyết, là nơi Chử Đồng Tử cùng nhị vị phu nhân "hóa", tức là bay về trời.

    1- Đền Chử Đồng Tử ở Đa Hòa

    Theo truyền thuyết, đền Đa Hòa có từ thời Hùng Duệ Vương, sau khi Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay về trời, vua Hùng đã đến chỗ con ở, đứng trước Đầm Nhật Dạ, nhà vua hối hận, thương con nên phong tước Chử Công cho Chử Đồng Tử và cho lập đền thờ. Từ đây đến Chử Xá (quê của Chử Đồng Tử) không xa. Đền Đa Hòa đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa từ năm 1962.

    Đền Đa Hòa được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng rộng hơn 18.000 mét vuông, mang nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Nguyễn. 18 ngôi nhà lớn, nhỏ có nóc hình con thuyền mũi cong- biểu tượng của sông nước, mái lợp ngói vẩy cá, bên trong kèo, cột, cửa võng, hương án đều chạm trổ rất tinh vi. Di tích chia làm 2 khu. Khu ngoài không có tường bao, rộng khoảng trên 7.000m2, có nhà bia, có cửa trổ ra bốn hướng, nằm dưới bóng đa cổ thụ, phía trước là dòng sông Hồng mênh mông. Khu trong gồm có Ngọ Môn, nhà Đại tế, tòa Thiên Hương, cung Đệ nhị, Đệ tam. Các pho tượng của Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân được đúc bằng đồng, mặt được sơn màu da, kẻ mắt, có độ cao bằng nhau, được đặt ở hậu cung.

    Trước 1945, cứ 3 năm một lần, đền Đa Hòa mở hội hàng tổng từ 10 đến 15 tháng ba âm lịch. Trong ngày hội, có tổ chức lễ rước kiệu của tám làng thuộc tổng Mễ Sở cũ về Đa Hòa để trình đức Thánh. Tiêu biểu và đông vui nhất trong năm tại đền là lễ hội Rước nước, tổ chức vào tháng giêng sau Tết âm lịch. Ngoài sự tham gia của các làng lân cận, còn có hàng nghìn khách thập phương từ các nơi khác đổ về. Lễ diễn ra trong 3 ngày.

    Sau buổi khai mạc ôn lại truyền thuyết về cuộc đời và những hoạt động của Đức Thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân là lễ Rước nước, tức lấy nước từ giữa dòng sông Hồng đem về đền để tắm tượng (mộc dục).

    Đi đầu đám rước là hai con rồng vàng lộng lẫy do 10 người điều khiển, uốn lượn theo nhịp trống phách dồn dập. Dẫn đầu đoàn rước kiệu là đội tế nữ trong những bộ xiêm y dài, đủ mầu sắc. Tiếp theo là ban nhạc lễ, rồi đến kiệu Thánh có lọng che hai bên, cùng bát bửu, chấp kích. Ché đựng nước rước được treo bằng 4 dải lụa đỏ trên kiệu, có 8 cô gái khiêng. Từng đoàn dân chúng nối theo sau đám rước, kéo dài ra tận bến sông.

    Bên kia sông, trên bãi Tự Nhiên, thuộc làng Ngự Dội, một đoàn cờ xí rợp trời đang chờ để tham gia đoàn rước về trình Thánh.

    Đoàn rước được chở trên hàng chục chiếc thuyền với nguyên cờ xí và đồ tế tự. Sau tràng pháo nổi, tiếp theo mấy hồi trống cùng tiếng nhạc, đoàn thuyền bắt đầu rời bến, lượn vòng trên mặt nước như để diễn lại cảnh du ngoạn của đoàn thuyền công chúa Tiên Dung thuở nào. Khi chiếc thuyền mang ché ra đến giữa dòng để lấy nước, thì các thuyền khác lượn quanh thành một vòng tròn.

    Một cụ già trên thuyền mặc lễ phục, tay cầm chiếc gáo sơn đỏ, đưa xuống dòng nước chảy, múc từng gáo đổ đầy ché. Xong việc, đoàn thuyền quay về bến cũ để trở về đền trong tiếng trống, tiếng chiêng, pháo nổ vang rền.

    Lễ Rước nước đưa người xem trở về không khí của hội làng xưa. Trong bản chất, lễ này mang rõ nét tín ngưỡng cầu nước của cư dân nông nghiệp. Sau lễ dâng hương, là các trò chơi như vật võ, đánh gậy, đánh cờ người, múa sư tử... diễn ra trên sân tòa Thiên hương. Đêm đến, còn có hát cô đầu và hát chèo.

    2- Đền "Hóa" Dạ Trạch

    Về lịch sử ngôi đền, sách "Lĩnh Nam chích quái "ghi: Sau khi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân bay về trời thì dân lập đền thờ, bốn mùa cúng tế. Sách "Đại Nam nhất thống chí" thời nhà Nguyễn, có đoạn: "Đền Dạ Trạch ở huyện Đông Yên... thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa". Nhà nước Việt Nam đã công nhận đền Dạ Trạch là di tích lịch sử - văn hóa (1988).

    Hướng đền quay về phía đông, bên trong có treo một chuông đồng lớn đúc vào năm Thành Thái thứ 14 (1902), ngoài ra còn có hai bia đá đề niên hiệu Gia Long thứ 17 (1819). Trước đền có hồ bán nguyệt, qua hồ bán nguyệt đến sân. Đền được xây theo kiểu chữ công (I), gồm 3 tòa nhà, trên mái có đắp hình long, phượng, chạm trổ tinh vi. Gian ngoài cùng là nơi đặt bàn thờ các vị thần Trời và thần Biển. Gian thứ hai là nơi phối tự, có bàn thờ công đồng, bàn thờ Thổ Công và bàn thờ Ông Bế (tín ngưỡng thờ cá nguyên thủy của cư dân đầm lầy) và bàn thờ Phật. Gian cuối nơi hậu cung, bên phải thờ hai vị thân sinh của Chử Đồng Tử, bên trái là bàn thờ Triệu Việt Vương, chính giữa là 3 pho tượng đức Thánh Chử Đồng Tử, công chúa Tiên Dung và Tây Cung.

    Tại đền "Hóa" Dạ Trạch, hằng năm vẫn tiến hành việc thờ cúng vào các ngày:

    - Ngày sinh Chử Đồng Tử: 12-8 âm lịch.
    - Ngày "hóa" (cả ba vị bay về trời): 17-11 âm lịch.

    Nhưng lễ hội chính tưng bừng náo nhiệt nhất, thu hút khách thập phương đông nhất, được mở vào các ngày 10, 11, 12 tháng hai. Mở đầu là lễ Rước nước. Về cơ bản, các nghi thức cũng giống như đã diễn ra ở đền Đa Hòa (như đã nói trên) chỉ có thêm một số chi tiết như: đi theo sau kiệu Thánh có 3 cặp "con đĩ đánh bồng" vừa đánh trống, vừa múa rất dẻo. Trong lễ dâng hương tại đền có thêm tiết mục múa sinh tiền và múa cánh tiên. Sang ngày thứ hai, có tổ chức đám rước "Phát du" (rước kiệu Thánh đi du ngoạn) từ đền tới làng Đông Kim, quê hương bà thứ, vòng qua khu đầm Nhất Dạ, rồi trở về.

    * * *

    Lễ hội Chử Đồng Tử - một trong những vị thánh được tôn vinh là "Tứ bất tử" trong tâm thức của người Việt bao đời nay - tổ chức ở hai đền Đa Hòa và Dạ Trạch, tuy có chênh nhau về thời gian mở hội, nhưng đều chứa đựng một ý hướng chung là để tưởng nhớ công lao của một anh hùng văn hóa và anh hùng khai phá đã từng góp phần to lớn trong việc ổn định đời sống của một cộng đồng dân cư trên dải phù sa màu mỡ bên bờ sông Hồng.

    "Chiếc áo khoác" của thiên tình sử thơ mộng say đắm, đầy khát vọng nhân bản cùng với bao nhiêu truyền thuyết vừa ảo, vừa thực, đan xen vào nhau, đã tạo thêm sức hấp dẫn của một lễ hội diễn ra ở một vùng quê có sông rộng, bãi dài, đầm nước, bóng đa cổ thụ, đền miếu trang nghiêm với làng mạc trù phú của một vùng châu thổ.

    Hình ảnh Chử Đồng Tử đã đi vào tâm thức dân gian, có sức trường tồn qua bao biến thiên của lịch sử, vẫn còn giá trị là một điểm tựa tinh thần đầy sức sống của cư dân nơi đây trong cuộc sống hôm qua và cả hôm naỵ

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  15. #15
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội cờ lau Hoa Lư

    Lễ hội cờ lau Hoa Lư

    Đinh Bộ Lĩnh quê ở xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình đã dẹp yên loạn 12 sứ quân vào cuối năm 967, thống nhất giang sơn về một mối. Năm 968, ông lên ngôi Hoàng đế, gọi là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Để kỷ niệm 1030 năm nước Đại Cồ Việt ra đời, và tưởng nhớ công lao to lớn của Đinh Tiên Hoàng, từ 8 đến 13 tháng 3 âm lịch vừa qua, nhân dân Ninh Bình đã tổ chức Lễ hội cờ lau Hoa Lư tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư- nơi Đinh Tiên Hoàng đã xây dựng kinh đô.

    Lễ hội diễn ra ở 2 đền thờ Đinh, Lê. Ngày mở đầu hội, nhân dân khởi hành từ đền vua Đinh ra sông Hoàng Long lấy nước về tế lễ (sông Hoàng Long là nơi vua Đinh thường ra tắm khi còn nhỏ). Theo truyền thuyết, khi Đinh Bộ Lĩnh ở với chú là Đinh Thúc Dự, bị chú cầm gươm đánh đuổi vì đã giết của ông một con trâu khao lũ trẻ chăn trâu. Khi Đinh Bộ Lĩnh chạy vào núi Trường Yên trốn tránh, trên đường gặp dòng sông chắn ngang, không đi qua được, ông bèn gọi anh Long là người chèo đò lúc bấy giờ nhưng không có, tức thì một con rồng vàng nổi lên làm cầu để Đinh Bộ Lĩnh đi qua bên kia sông. Thấy vậy, người chú kinh hoàng, cắm gươm xuống chân núi bên sông rồi lạy như tế sao. Con sông đó sau được gọi là Hoàng Long. Quả núi mà ông chú cắm gươm xuống cũng được gọi là núi Cắm Gươm.

    Đi lấy nước thánh là tưởng nhớ người xưa, nhưng cũng là sự cầu mong mưa thuận gió hòa để nhân dân cày cấy đủ nước, làm ăn thịnh vượng.

    Đoàn rước nước, đi đầu là cờ quạt rồi đến phường bát âm, tiếp theo đến kiệu rồng, trên đặt một cái chóe để đựng nước sông Hoàng Long. Mọi người đi rước nước đều mặc trang phục thống nhất: nam mặc quần trắng, áo the, thắt lưng xanh, đỏ. Những người cầm cờ đội thêm chiếc nón nhỏ. Đi theo sau kiệu, là một cụ già cao tuổi mặc áo thụng tế màu lam cùng với một nhà sư hoặc một người có quyền thế nhất ở làng.

    Đến phần hội, ngoài những trò như: thi vật, thi bơi chải, thi thổi cơm, múa lân, múa rồng, cờ người... còn có trò cờ lau tập trận và kéo chữ.

    Đội quân cờ lau gồm các thiếu niên từ 14 đến 16 tuổi chia làm hai toán. Một bên mặc quần đùi xanh có nẹp đỏ, áo màu xanh lá cây, đội nón lá; một bên cũng quần đùi xanh nhưng mặc áo màu trắng. Cả hai toán đều giắt hai bông lau bắt chéo nhau ở sau lưng, tay cầm gậy. Mỗi toán đều có tướng chỉ huy. Tướng cầm kiếm, đội mũ bằng lá mít hay lá dừa.

    Riêng tướng đóng vai vua Đinh phải khôi ngô tuấn tú, mặc quần đen có sọc đỏ, đội mũ Bình Thiên bằng rơm, tay cầm thêm bông lau ngồi trên con trâu béo khỏe. Hai phe dàn quân tập trận. Đội này tiến, đội kia lùi. Nhạc đệm có trống, chiêng, thanh la, kèn.

    Sau đó, đến trò kéo chữ "Thái Bình", thể hiện niềm mong ước nền thái bình muôn thuở của nhân dân.

    Năm ngày hội là những ngày vui, nhộn nhịp, sôi động, thể hiện tinh thần thượng võ, mang tính nhân văn, giàu bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

    (Theo Lã Đăng Bật)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  16. #16
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ hội cúng biển ở Mỹ Long

    Lễ hội cúng biển ở Mỹ Long

    Hàng năm, cứ vào ngày 11 và 12/5 âm lịch, hàng vạn người từ khắp nơi trong và ngoài tỉnh Trà Vinh tề tựu về xã Mỹ Long, huyện Cầu Ngang (Trà Vinh) để dự lễ hội cúng biển của dân địa phương. Lễ hội được ngư dân tổ chức linh đình tại Miếu Bà Chúa Xứ với nhiều nghi thức vui lạ thu hút sự hiếu kỳ của du khách gần xa.

    Buổi sáng ngày 11/5 âm lịch, ban tổ chức làm lễ nghinh Chúa Xứ Nguyên nhung, trong đó có cảnh cha con Quan Vũ mở đường cho phu kiệu đưa bà xuống thuyền. Những nhân vật Quan Công, Châu Xương, Quan Bình do những kép hát bội được rước từ Bến Tre sang; có hai thuyền phò tá hai bên và những thuyền khác hộ tống phía sau. Thuyền ra khơi, diễu hành trên biển trông rất ngoạn mục. Vị pháp sư sẽ đọc cú còn ông Chánh bái thì vừa quỳ vừa xin keo, cho đến khi được quẻ âm dương (1 sấp, 1 ngửa), coi như được bà cậu chứng giám (?!) thuyền mới quay về.

    Đến chiều, khi mặt trời lặn là bắt đầu vào lễ tế Chúa Xứ Nguyên nhung, có hương chức đọc văn tế và lễ xướng. Trong dịp này có tiết mục rất là sôi động, đó là màn múa bông của các cô bóng từ nhiều nơi tựu về. Họ cùng nhau tranh tài múa hát dâng mâm vàng mâm lộc cho bà khiến du khách có cảm tưởng đây là "Đại hội liên hoan các bóng miền Tây". Múa bóng gần đây được xét lại là một nghệ thuật nhờ sự khổ luyện và tách khỏi yếu tố thần bí dị đoan nên được ưa chuộng.

    Ngày thứ hai (12/5 âm lịch) có lễ nghinh Ngũ phương. Lần này thì kiệu đi đường bộ, vừa đi vừa đánh trống vòng qua 4 hướng qua chợ Mỹ Long và các ấp lân cận. Hai bên đường kiệu đi, theo tập tục nhà nào cũng đặt những chung muối gạo trước cửa với ý nghĩa cúng cô hồn, sợ chúng vào nhà quấy nhiễu. Trong đoàn có ông Quan Công ngồi trong giá thờ được dân làng khiêng đi. Ông Quan Công này do một kép hát bội tên Thơ (82 tuổi) trước đây thường đóng vai vua trong các vở tuồng nên dân làng quen gọi là vua Thơ, mấy chục năm cứ vào dịp này là vua Thơ vẽ mặt y hệt như Quan Thánh Đế quân ngồi kiệu, nay ông đã già nhưng vẫn còn oai phong.

    Đúng ngọ ngày 12, ban tổ chức đặt heo quay lên chiếc tàu, có đáy kết bằng chuối cây, vỏ tàu bằng nan tre, được dán giấy vẽ màu giống như tàu thật, trong tàu có đủ tài công, thủy thủ và các vật dụng đi biển làm bằng giấy. Khi tàu chở đầy đủ lễ vật: heo cúng, gạo, muối; lúc đó vị pháp sư "điều binh khiển tướng" xuống tàu chở "chư vị" ăn uống no say để tống ra khơi. Tàu dần trôi theo dòng nước - chuông trống vang lên. Đến khi trên bờ không còn thấy nữa thì một hồi trống kết thúc buổi lễ này.

    Có lẽ trước đây người dân miền biển nặng đầu óc mê tín, tổ chức cúng kiến để mong được sự bình yên trong cuộc sống. Ngày nay dường như lễ được tổ chức là để mọi người trong làng có dịp vui chơi cùng nhau, những nghi thức được xem như những tiết mục đặc sắc trong một sân khấu lớn mà mọi người trong làng cả năm mới được tái diễn. Do vậy, những du khách từ Trà Vinh đến TP.HCM không quản ngại đường xa đã đến chung vui với ngư dân vùng biển Mỹ Long này.

    (Theo Lương Minh)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  17. #17
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lễ làm chuồng trâu của người Xơ-Đăng

    Lễ làm chuồng trâu của người Xơ-Đăng

    Vùng phía đông của huyện Kon Plong của tỉnh Kon Tum (Đông Trường Sơn) gồm các xã: Măng Búk, Măng Cành, Ngọc Tem, Đắk Rin, Bờ Ê, Xã Hiếu... Điều kiện tự nhiên ở đây có nhiều khác biệt so với vùng Tây Trường Sơn, khá thuận lợi cho việc phát triển đàn trâu. Tại vùng này, liên quan đến nuôi trâu có một lễ hội lớn hằng năm: đó là lễ hội làm chuồng trâu (cọ via kơ pơ).

    Có dịp đi một số xã phía đông của huyện Kon Plong, chúng tôi nhận thấy, lễ làm chuồng trâu có ở hầu khắp các xã, song chỉ thật sự đậm nét, tiêu biểu ở xã Măng Búk, nơi tập trung khá đông đàn trâu trong vùng. Tuy không dùng trâu để cày bừa như các nơi khác, song đồng bào ở Mang Búk đã biết tận dụng sức trâu để quần ruộng trước khi gieo mạ hoặc cấy. Nhìn chung, việc chăn nuôi trâu chủ yếu để bán cho dân các tỉnh Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi và khu vực quanh vùng.

    Lễ làm chuồng trâu được tổ chức mỗi năm một lần vào khoảng tháng 2 dương lịch. Chuồng trâu có thể được làm to nhỏ khác nhau, tùy thuộc vào số lượng trâu của gia đình hoặc nhóm gia đình (nếu làm chung một chuồng). Song nhìn chung, chuồng thường có kích thước khoảng từ 4 x 6 m đến 8 x 12 m. Chuồng không lợp mái mà chỉ là một bãi đất trống được đóng cọc. Vị trí làm chuồng không phụ thuộc vào hướng mà chỉ cần xa nhà ở (cách làng khoảng một đến vài trăm mét). Mảnh đất được chọn làm chuồng trâu cho mỗi năm là chỗ đất mới, còn chuồng trâu cũ thì bỏ đi và thường được rào lại làm một mảnh vườn trồng các loại rau (rau cải, rau bí, rau muống) hay thuốc lá...

    Trước khi tổ chức làm chuồng trâu, cả làng họp bàn và thống nhất cùng làm trong một ngày nhất định.

    Để làm chuồng trâu, đồng bào thường chọn các loại gỗ bền như giẻ, xa... Họ tránh dùng các loại gỗ "ơ nụi, hiềm, tơng nỏng kiếc..." vì quan niệm, thứ gỗ này sẽ làm cho trâu chậm lớn. Các cây cọc (long via) thường có đường kính 4 -5 cm, dài khoảng gần 2 m. Những cột chính (long dang) có đường kính 10 - 15 cm, và được đục lỗ để xỏ các cây ngang (ca mưa).

    Tuy chuồng trâu được làm đơn giản, song nghi lễ làm chuồng lại được tiến hành khá long trọng.

    Ngày làm chuồng trâu là ngày hội của cả làng. Khoảng 6 - 7 giờ sáng, công việc làm chuồng trâu bắt đầu. Mỗi thành viên trong gia đình đều làm một công việc nào đó: đàn ông đào hố chôn cột và cọc; phụ nữ, trẻ em thì vận chuyển các cột, cọc đến vị trí làm chuồng.

    Công việc được tiến hành khẩn trương. Các hố đào đến đâu sẽ có người chôn cột và cọc đến đó. Các cây cọc được chôn cách nhau khoảng 20 - 30 cm và được buộc giằng với các cây ngang (ca mưa). Dây buộc là các loại dây rừng, như dây mây, "xay cộng", "xây rắc". Giữa các hàng cọc, cách khoảng 1 m được chôn 1 cây cột (long dang) để tăng độ vững chắc cho chuồng trâu.

    Chính giữa chuồng trâu được chôn một cây cột gơng. Trên cột, người ta buộc nhiều chùm sợi pung (sợi tua lồ ô) và những chùm lá tang (một loại lá có mùi thơm) với ý nghĩa tránh ma quỷ, tránh điều xấu cho đàn trâu.

    Ở bốn góc chuồng trâu, trên bốn cây cột được gài những chiếc ná nhỏ và mũi tên chĩa ra ngoài. Dọc thân cột, người ta còn buộc những chùm lá coọc dinh. Tất cả cũng với ý nghĩa tránh điều xấu làm hại đàn trâu.

    Ở góc của cửa ra vào chuồng trâu, sát vách phía ngoài, đồng bào rào rất kỹ một mảnh đất nhỏ chừng 50 cm2, trong đó họ đổ đất và phân trâu khô lấy ở chuồng cũ và trồng một thứ cây thuốc có củ giống củ giềng, tiếng địa phương gọi là "dum pô kiêng". Theo quan niệm của đồng bào, nếu cây thuốc tốt, mọc nhánh nhiều thì đàn trâu sẽ sinh sôi phát triển.

    Công việc làm chuồng đến khoảng 1 - 2 giờ chiều là xong. Các gia đình lùa đàn trâu vào chuồng. Trong khi lùa trâu người ta cố ý lùa con trâu to nhất, đẹp nhất đàn vào trước với những mong ước tốt lành. Việc làm chuồng đã hoàn tất, phần nghi lễ tiếp theo bắt đầu.

    Lễ vật dùng trong lễ làm chuồng trâu thường là heo, gà và rượu.

    Khi con gà đầu tiên được cắt tiết, mọi thành viên trong gia đình (hoặc các ông chủ của các gia đình, nếu làm chuồng trâu chung) lần lượt sờ vào con gà. Sau đó chủ nhà cầm con gà vẩy máu vào chuồng trâu, vẩy vào bụi cây "dum pô kiêng". Vừa vẩy, ông vừa khấn, đại ý: "... Chúng tôi làm chuồng mới cho trâu, để trâu có nhà mới ở. Mong trâu khỏe mạnh sinh đàn đẻ lũ, đừng có ốm yếu, khi ăn tránh đá lăn cây đổ...". Tiếp theo, ông chặt phần đầu gà, hai chân gà và phần phao câu (vẫn còn cả lông) rồi buộc lại, treo ở cửa chuồng trâu, với ý nghĩa dành phần cho ma chuồng trâu.

    Tiếp đó, các con gà khác cũng được cắt tiết. Mọi thành viên trong gia đình, từ cụ già đến em bé đều lần lượt cầm con gà đã cắt tiết để vẩy máu vào chuồng trâu và vào từng con trâu.

    Sau khi đã thực hiện xong nghi lễ, họ đem heo, gà về nhà chế biến món ăn, cùng nhau uống rượu, vui vẻ cả buổi chiều và tối hôm đó. Đêm ấy thật sự là lễ hội của làng. Người ta có thể uống rượu, hát, đánh chiêng cho đến sáng.

    Hôm sau, ông chủ nhà ra chuồng trâu, đem theo một con gà và ba ống nứa, mỗi ống dài chừng 50cm. Ông chẻ các ống nứa làm đôi và sau đó lần lượt khấn để chọn hướng "xuất hành" cho đàn trâu. Ông ngồi trước cửa chuồng trâu và thử từng cặp (hai mảnh) ống nứa. Cứ mỗi cặp ông đặt một nửa ở dưới đất, với phần lòng máng ngửa lên; nửa còn lại, ông cầm lên đặt ngang trán, miệng khấn xem trâu muốn đi ăn nơi nào (đồi này hay đồi kiạ..) rồi vừa hỏi vừa khẽ thả ống nứa xuống. Nếu hai nửa ống nứa cùng ngửa thì hướng đó trâu không muốn; còn nếu nửa nọ úp vào nửa kia thì coi như trâu đã đồng ý với hướng ấy.

    Sau khi cắt tiết gà và cúng, ông chủ nhà cột con gà vừa cắt tiết treo ở chính giữa cửa chuồng trâu rồi lần lượt cho từng con ra khỏi chuồng. Mỗi con đều phải quệt lưng vào con gà đã hiến sinh. Đến đây công việc làm chuồng trâu và nghi lễ đã xong. Ngày hôm đó, họ thả trâu đi ăn.

    Mỗi năm, ngày làm chuồng trâu cũng là dịp để ông bà, cha mẹ chia trâu cho con cái trong gia đình. Nếu chủ nhà muốn chia trâu cho một thành viên nào đó, trước hết họ chọn con trâu định cho, rồi đưa củ "dum pô kiêng" cho người đó và bảo ném vào con trâu định cho. Nếu trúng (mà thường thì trúng, bởi khoảng cách từ người ném tới con trâu trong chuồng khá gần) thì coi như người, trâu và "giàng" đều đã ưng thuận. Sau khi được chia trâu, người được chia sẽ về nhà làm thịt một con gà và lấy một ghè rượu để tạ lễ người đã cho mình.

    Lễ chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của đồng bào nơi đây. Từ lễ hội này, mối liên kết cộng đồng càng được củng cố và phát triển.

    (Theo Vũ Thị Mai)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  18. #18
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Người Lô Lô với lễ cầu mưa

    Người Lô Lô với lễ cầu mưa

    Từ Lũng Cú tới Xín Cái - Mèo Vạc (Hà Giang) là các bản làng của gần 1.200 đồng bào Lô Lô. Nơi hành lễ là khu sân rộng giữa bản. Đồ tế lễ trong hội cầu mưa phải có rượu ngô, chó, gà; một thanh kiếm (có thể bằng sắt hoặc gỗ); một bát nước; bốn chén rượu, bốn ống hương bằng tre tượng trưng cho bốn phương trời và vật không thể thiếu trong tất cả các cuộc tế lễ của đồng bào Lô Lô- đó là trống đồng. Trống của người Lô Lô có hai loại, trống đực và trống cái, trống đồng như báu vật linh thiêng của cha ông để lại.

    Đồ tế bày trong một cái mẹt, trên giá đỡ, thầy mo bắt đầu hành lễ. Tay phải ông cầm kiếm nâng lên, hạ xuống theo nhịp khấn, tay trái ông đánh trống đồng, miệng lầm rầm cầu khấn thần Kết Dơ (hai vị đứng đầu, cai quản trời đất). Cầu thần phù hộ cho mùa màng tốt tươi, mưa thuận gió hoà, làng bản no ấm.

    Cúng xong, dân bản quây quần uống rượu, múa hát xung quanh bàn lễ. Những làn điệu dân ca Tế Phua, Tế La, Hồ La Tế, Ta Sì Phua chan chứa tình yêu quê hương, hạnh phúc lứa đôi. Ngày hội cầu mưa, người già gặp nhau nói chuyện nhà, chuyện trồng cây, cấy lúa, chăn nuôi, chọn rể, cưới dâu. Với đám thanh niên, đây là dịp tìm người yêu qua câu hát giao duyên, bằng tiếng sáo cờ lé, sáo đôi. Các cô gái Lô Lô rực rỡ trong bộ váy áo mới, thêu hoa văn rực rỡ. Áo cổ vuông, tay áo được ghép bằng nhiều mảnh vải màu khác nhau, váy dài có thêu xanh, đỏ, vàng? trên nền vài chàm xanh. Dây lưng thêu hoa có tua rua sặc sỡ. Kết hợp với bộ trang phục truyền thống là những vòng cổ, vòng tay bằng bạc lóng lánh.

    Lễ hội cầu mưa của đồng bào Lô Lô mang tính tín ngưỡng phồn thực khá phổ biến ở các cư dân nông nghiệp. Vào dịp tổ chức lễ hội, hầu như mọi sinh hoạt của người Lô Lô đều hướng vào việc cầu mưa. Họ tâm nguyện, cầu khấn, ước ao những hạt mưa rơi xuống tưới tắm cho cánh đồng Mèo Vạc ngày càng xanh tốt, cho dân bản được mùa, đời đời no ấm.

    (Theo Hải Vân)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  19. #19
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Về Khoái Châu, đi lễ hội Chử Đồng Tử

    Về Khoái Châu, đi lễ hội Chử Đồng Tử

    Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung là một trong hàng loạt lễ hội lớn, đầy màu sắc được tổ chức tại miền Bắc nước ta sau tết cổ truyền. Hằng năm từ 10 đến 15-2 âm lịch, lễ hội diễn ra tại hai đền thờ lớn thờ Chử Đồng Tử là Đa Hòa và Dạ Trạch đều thuộc địa phận huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và đều được xếp hạng di tích quốc gia từ lâu.

    Đa Hòa nằm sát bờ sông Hồng, nhìn xuống một bãi cát được gọi là bãi Tự Nhiên mà tương truyền ở bãi cát ấy, khi công chúa Tiên Dung - con vua Hùng thứ 18 - vào một ngày đẹp trời dạo thuyền trên sông Hồng đã truyền cho thị nữ quây màn bên những khóm lau ở bãi cát vàng mịn để nàng tắm, chẳng dè chính nơi ấy chàng Chử Đồng Tử nhà nghèo kiết xác không có cả chiếc khố che thân đang giấu mình dưới cát, và thế là duyên trời đã định, Tiên Dung nhận Chử Đồng Tử làm chồng.

    Đền Đa Hòa được nhà thơ - tiến sĩ đệ tam giáp Chu Mạnh Trinh tạo dựng vào thế kỷ 19 bằng tấm lòng của một thi nhân ngưỡng mộ mối tình kỳ ảo Chử Đồng Tử - Tiên Dung và tình yêu quê hương. Và chính Chu Mạnh Trình được thờ làm thần hộ đền, một ngôi đền tuyệt đẹp về kiến trúc và cả cảnh quan. Mùa lễ hội, có năm những cây gạo dẫn vào đền nở hoa đỏ rực bên những hàng nhãn lâu năm vẫn cho quả ngọt, thứ nhãn lồng Hưng Yên nổi tiếng từ lâu.

    Đền Dạ Trạch còn gọi là đền Hóa, gắn với một địa danh lịch sử là đầm Dạ Trạch, căn cứ chống giặc Lương phương Bắc của người anh hùng Triệu Quang Phục (Dạ Trạch Vương). Đầm Dạ Trạch còn gọi là đầm Nhất Dạ (một đêm) là nơi Chử Đồng Tử - Tiên Dung đã bay (hóa) về trời trong đêm quân tướng vua Hùng kéo đến vây bắt đôi vợ chồng bị coi là phản nghịch; giữa đêm cả tòa thành của họ biến thành một đầm nước mênh mông. Sau vua Hùng cảm động trước tấm lòng đôi vợ chồng trẻ, cho lập đền thờ nơi đây; chính là đền Hóa ngày nay mà sau nhiều lần trùng tu, đền vẫn còn giữ được vẻ đẹp cổ kính.

    Lễ hội được tổ chức ở cả hai đền, với lễ rước trên đê sông Hồng suốt một quãng dài nhiều cây số tạo thành một khung cảnh hoành tráng. Ngoài ra còn có lễ rước nước sông Hồng về đền, các hoạt động thi đấu cờ người, đấu vật, kéo co, thả đèn trời, hát ca trù, chầu văn, quan họ, trống quân...

    Để chuẩn bị cho lễ hội năm nay, huyện Khoái Châu đã đầu tư khá chu đáo. Các con đường từ đê sông Hồng dẫn vào các đền Đa Hòa, Dạ Trạch đã được mở rộng, tôn cao đón du khách khắp nơi đổ về những ngày này.

    (Theo Diên Vỹ)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  20. #20
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Xuân về trẩy hội Cổ Loa

    Xuân về trẩy hội Cổ Loa

    Tôi đến lễ hội Cổ Loa vào đúng ngày mùng 5 tháng giêng âm lịch, mặc dù hôm sau mới là ngày hội chính, nhưng hôm nay du khách đã về rất đông. Ở khu Đền Thượng, nơi thờ cúng An Dương Vương, cũng là nơi tổ chức chính lễ hội, cho đến khu đình là nơi ngày xưa các quan họp bàn và điếm thờ Mỵ Châu, đều đã nghi ngút khói hương Phía trước khu đình này còn có điếm thờ vị tướng Cao Lỗ. Bao quanh là các đường thành đắp bằng đất vẫn còn dấu tích. Thành được thiết kế ba vòng, chia ra Thành nội, Thành trung và Thành ngoại với chu vi 17 km. Người xây thành thời An Dương Vương đã biết dựa theo thế đất, theo địa hình, địa vật để thiết kế. Ở những nơi có sông được đắp đất bên trong, lấy con sông làm hào nước để ngăn chặn quân địch. Do thực tế chống xâm lược, các vòng thành được xây dựng cách nhau rất rộng về phía Bắc và phía Đông, đây là hai hướng mà quân xâm lược phương bắc thường hay tấn công. ở phía Nam có con sông Hoàng chảy qua, nên vòng thành áp gần con sông đó. Thành Cổ Loa còn được gọi là "Thành ốc" vì các đường thành tạo ra các đường vòng tròn hình trôn ốc...

    Từ truyền thuyết dân gian An Dương Vương xây dựng thành, các nhà khảo cổ học đã khai quật một đoạn thành và phát hiện ra nhiều điều lý thú. Do ban đầu An Dương Vương từ vùng núi Bạch Hạc (Việt Trì) di chuyển xuống đồng bằng nên chưa có kinh nghiệm xây thành. Thành xây sát hồ nước và đầm lầy, thành đắp cao, hào đào sâu, nên khi nước lên tường thành bị sụp đổ. Sau đó những người thợ xây thành đã biết trộn phế liệu của các lò gốm, gạch ngói vụn làm cho vật liệu xây thành trở nên vững chắc hơn, thành mới đứng vững được. Ngày nay ở nhiều đoạn tường thành còn sót lại đều thể hiện rất rõ kỹ thuật xây dựng tường thành thời kỳ An Dương Vương. Trong gian trưng bầy các hiện vật tại đình Cổ Loa mà các nhà khảo cổ khai quật được ở đây cho thấy thành Cổ Loa hội tụ nhiều giai đoạn lịch sử của thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt ở Việt Nam.

    Lễ hội Cổ Loa năm nay ngoài việc tế lễ như mọi năm, tổ chức nhiều trò chơi dân gian: bắn nỏ, ném còn, đu truyền thống, chơi chọi gà... còn có những trò chơi hiện đại khác như bóng chuyền, cầu lông. Ngoài ra còn tổ chức hội thi nấu ăn các món ăn truyền thống... Du khách đến Cổ Loa được thưởng thức món bún rau cần của làng Mạch Tràng, nước làm bún lấy từ nước giếng Trọng Thuỷ, tạo nên một thứ bún không trắng ngần như ta thường thấy ngoài chợ, mà sợi bún hơi đen và dai hơn, ăn cùng với nem cuốn sống hay đậu phụ chấm mắm tôm. Một điều thú vị hơn cho du khách khi đến với lễ hội Cổ Loa là được thưởng thức nghệ thuật múa rối và những làn điệu quan họ từ vùng khác đến góp vui.

    Theo đánh giá của nhiều cụ già ở xã Cổ Loa thì trước đây lễ hội Cổ Loa có bát xã (tám xã) tham gia lễ bái theo tục cổ trong một không khí trang nghiêm. Việc tuyển chọn cụ Đám phải được dự kiến và gieo tiền khất keo (tức là Thánh ứng đồng sấp, đồng ngửa) mới được làm cụ Đám. Cỗ Bỏng (Bỏng Chủ) được trộn với mật và dùng khuôn nén thành bánh... Rước các cỗ vật cũng rước từ các thôn đến đền thờ An Dương Vương. Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày, từ mùng 6 đến ngày mùng 9, có năm kéo dài đến 12 ngày. Vài năm trở lại đây vì điều kiện khách quan mang lại nên lễ hội tổ chức ít ngày hơn và cỗ vật chỉ được rước vòng quanh hồ trước đền thờ An Dương Vương...

    Ông Trương Văn Vịnh, thành viên Ban tổ chức lễ hội Cổ Loa năm 2003 cho biết: Năm nay, công tác bảo vệ lễ hội có nhiều tiến bộ. Những hàng quán lớn nhỏ, các quầy trò chơi xổ số, điện tử đều được sắp xếp ở trước sân khu vực phía ngoài Đình và dọc theo hai bên đường. Các điểm trông giữ xe đạp, xe máy được bố trí gần các di tích để thuận tiện cho du khách thập phương về tham gia lễ hội, đồng thời vận động bà con phát động và thực hiện nếp sống văn minh đô thị, đảm bảo vệ sinh môi trường. Mặc dù lượng khách đến sớm và đông hơn so với lễ hội năm ngoái nhưng tình hình an ninh trật tự vẫn rất an toàn. Để làm tốt công tác an ninh trật tự, công an huyện Đông Anh đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền xã Cổ Loa, đặc biệt là lực lượng công an xã kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi vi phạm an ninh trật tự trong những ngày lễ hội diễn ra.

    Cuối năm ngoái, trong chương trình hướng tới 1.000 năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, Quy hoạch chi tiết khu di tích Cổ Loa đã được phê duyệt với số vốn đầu tư 300 tỷ VND. Với Dự án này, Khu di tích Cổ Loa Thành chắc chắn sẽ được khôi phục xứng đáng với vị trí lịch sử của nó. Theo đó, Lễ hội Cổ Loa sẽ trở thành lễ hội đầy ấn tượng trong những ngày xuân của đất nước.

    (Theo Hữu Tiến)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •