kết quả từ 1 tới 12 trên 12

Ðề tài: Chi phái Cao Đài

  1. #1

    Mặc định Chi phái Cao Đài

    A- Chi phái

    Chi phái là những chi nhánh nhỏ do những Chức sắc gốc của Ðạo Cao Ðài Tòa Thánh Tây Ninh tách riêng tự lập ra, không còn chịu hệ thống của Hội Thánh Tòa Thánh Tây-Ninh nữa. Đó mới gọi: Chi phái Cao-Đài.

    Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn Thượng Ðế lập nên, được chánh thức làm Lễ Khai Ðạo vào ngày 15-10 Bính Dần (Dl 19-11-1926).

    Nhớ lại trước đây còn là những ngày đi khai đàn thượng Tượng cho nhơn sanh thì tình anh em của các bậc tiền bối hết sức là khăn khít nhau trong nền Đại-Đạo. Nhưng kể từ khi Pháp Luật Đạo ra đời, nghĩa là sau khi Đức Chí Tôn ban cho Pháp Chánh Truyền và dạy lập Tân Luật để phân định quyền-hành cho các Chức-sắc để dễ bề làm việc, thì có sự rạn nứt dần. Tất nhiên khi chưa có phẩm cấp cao hạ thì tình huynh đệ có phần thân thiết nhau, nhưng khi đã có phẩm tước rồi thì vì quyền hành, lợi lộc, lớn nhỏ nên có chỗ bất đồng ý-kiến, dù là phẩm tước này do Đức Chí-Tôn ban tặng tuỳ theo quả vị Thiêng Liêng, nhưng vì tình ý riêng tư ấy mà bớt sự trọng nễ nhau rồi tự ý tách rời nhau, mỗi người lập riêng phe phái và tự ban cho phẩm tước cao tột theo như ước vọng của mình. Từ đó mới có Chia phe phân phái, rạn nứt tình cảm để sau cùng thì CHI PHÁI xuất hiện.

    Sau đó, một số Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài không tùng phục Hội-Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh, nên tách riêng ra, lập Cơ bút riêng, phong thưởng Chức sắc riêng, tạo thành những Chi phái của Ðạo Cao Ðài. Xem như mỗi mỗi có một ông Trời riêng để làm Chủ.

    Từ năm 1928 đến năm 1934, có 5 Chi phái được lập ra có hoạt động đáng kể, nhưng vì muốn được con số 12 Chi phái, nên người ta kể thêm những nhóm nhỏ lẻ tẻ mà đúng ra không thể gọi là Chi phái (vì không có Hội Thánh)


    Năm Chi phái có hoạt động đáng kể lúc đầu là :

    - Chiếu Minh (1927)

    - Cầu Kho (1930)

    - Minh Chơn Lý (1931)

    - Tiên Thiên (1932)

    - Ban Chỉnh Ðạo Bến Tre (1934).

    Rồi từ 5 Chi phái nầy lại nảy sanh nhiều Chi phái khác nữa, như: từ Minh Chơn Lý nảy ra Minh Chơn Ðạo, từ Chi phái Chiếu Minh vô-vi nảy ra Chiếu Minh Ðàn, Chiếu Minh Long Châu. Lần lượt chúng ta sẽ khảo sát kỹ về hình thức và sinh hoạt của các Chi phái Cao Đài này cùng tiểu sử của các vị cầm đầu các chi phái ấy.


    1- Lý do nào có Chi phái?

    Thật ra từ trước tới nay, người tín hữu Cao Ðài muốn biết chính xác vì sao Đức Chí-Tôn đến lập nên mối Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mục đích là Qui nguyên Tam giáo phục nhứt Ngũ chi rồi, tức nhiên Qui hiệp cả ba Tôn giáo lớn là Phật, Tiên, Thánh và thống hiệp các chi nhánh nhỏ lại, để tất cả nhìn về một Đấng Chúa tể càn khôn thế giới rồi. Trong khi đó thì chính những người gốc Cao-Đài, đồng là huynh đệ tương thân tương ái, cùng hầu chung một đàn Cơ, nghe lời Chí-Tôn giáo hoá, bây giờ khi tạm đủ lông đủ cánh lại chủ trương lập Chi phái, rồi cứ đứng núp sau lưng các Ðàn cơ riêng và biện minh trách móc; người không chủ trương thì hoang mang hoặc không dám bàn, sợ phạm thượng mang tội. Trước đây tôi cũng rất sợ tội khi nói ra. Nhưng khi thấy Hiền Tài Hồng và nhiều vị cũng bộc lộ ra rồi, vậy thì tôi xin bổ khuyết để cống hiến chư độc giả quí mến gần xa những sự thật từ lâu dấu kín.

    Người tín đồ thì chẳng hiểu bề trong, nên chỉ biết đi theo Chức sắc lãnh đạo ở địa phương mình. Hầu hết là họ có ý-nghĩ đơn giản: gần Thánh Thất nơi nào tu theo nơi ấy, đâu cũng vậy! Thành phần tín đồ trí thức hiểu biết thì khó chịu, tủi thẹn, rồi xa Ðạo, hoặc rút về tu tại gia, không muốn tham gia vào việc Ðạo hoặc đi qua Phật, Chúa…

    Hội Thánh thì không muốn phơi bày việc không tốt của Hội-Thánh cho tín đồ biết vì sợ người ngoài biết được mà khinh rẻ cười chê và làm suy giảm tín ngưỡng, nên mong mỏi những Chức sắc lập Chi phái sớm hồi tâm: thương Thầy mến Ðạo mà trở về cùng Hội Thánh, hoặc cầu nguyện có được sự hộ trì của các Ðấng thiêng liêng để vấn đề được dàn xếp ổn thỏa êm đẹp trong tình huynh đệ..

    Sự chia rẽ trầm trọng trong nội bộ của Ðạo Cao Ðài sau ngày Khai Ðạo dẫn đến sự phân chia Ðạo Cao Ðài thành nhiều Chi phái, đã làm cho biết bao thế hệ Tín đồ Cao Ðài có nhiệt tâm thương Thầy mến Ðạo phải ngậm ngùi đau khổ, hổ thẹn; nhưng chúng ta không nên vì đó mà ém nhẹm đi, cần phải phơi bày ra để phân tích tìm hiểu, rút kinh nghiệm, để từ đây đến mãi về sau, không còn đi vào vết xe đã đổ trước nữa.

    Phải hiểu rõ rằng: “Đạo Thầy chỉ có MỘT!”

    Thật ra sau khi Đức Chí-Tôn lập ra Pháp Chánh Truyền và hoàn thành Tân Luât, chính là lúc xảy ra những việc tranh tụng, tất thảy đều do từ gốc danh, lợi, quyền sinh ra mà thôi, nhỏ từ một nhà, rộng ra một nước, một thế giới tranh chấp nhau như thế, đến hậu quả là chia phe phân phái. Một bằng chứng là trận Thế chiến thứ nhất 1914-1918 nguyên nhân cũng không ngoài sự tranh chấp nhau về: Danh, lợi, quyền mà ra!


    2- Tiên tri sự phân chia Chi phái

    Lúc chưa chánh thức Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn đã có cho bài thi tiên tri,có tính cách cảnh tỉnh, nhưng không ai để ý: TNHT: Ngày 20-2-1926.

    “Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,

    “Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
    “Chung hiệp ráng vun nền đạo đức,

    “Bền lòng son sắt đến cùng Ta”.

    Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.”


    Lại nữa:

    …“Nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Ðạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh Giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh Giáo mà làm ra Phàm Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.

    Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Ðảo.

    Vì vậy Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo-Tông, nghĩa là anh cả, ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là Giáo Hữu. Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Ai có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị của Thầy ban thưởng. Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe, lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì Thầy trục xuất ra ngoài, cho khỏi điều rối loạn.”

    Có người cho rằng sự phân phe chia phái là tiền định, nhưng chúng ta phải thấy rằng Thầy đã thấy trước tất cả muôn việc trong đời này: Có Dương tất có Âm, có Chánh tất có Tà, để nhân sanh phải sáng suốt mà nhận định hai lẽ luôn mâu thuẫn nhau, đừng có lầm lạc mà phải chịu ngàn muôn năm chịu sa đoạ. Vì rằng:

    Sự phân chia Chi phái cũng do nhơn dục nên mới đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại cho nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn như ngày nay cứ từng bước diễn biến. Tuy nhiên khi viết về Chi phái, Soạn giả chỉ với một mục đích là nói lên những diễn tiến đã xảy ra như một màn kịch trên sân khấu hí trường, chứ chúng tôi không hề dám trách những bậc tiền bối, mà chỉ dám nói lên những tâm tình thỏ thẻ với những bạn đồng hành trên bước đường học Đạo hẳn còn nhiều lối quanh co khúc khuỷu mà thôi.


    3- Thầy đau lòng mà nhìn sự rạn nứt ra Chi phái:

    Ðức Chí Tôn rất đau đớn khi phải giáng cơ nói trong Thánh Ngôn ngày 23-3-Canh Ngọ (dl 21- 4-1930)


    “Thầy phải sửa cải Thiên thơ để cho mỗi đứa được có ngày giờ và thế lực mà dìu dắt nhau cho tròn phận sự, nhưng rốt lại, Tà quyền cũng lấn lướt chất Thánh, bước tục dẫn chơn phàm. Thầy rất đau lòng mà dòm thấy con cái líu xíu bị lầm vào đường Tà quái.

    Ðứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức. Mỗi đứa mỗi nẻo, đều quăng sạch chất thiêng liêng, lầm lũi đưa tay theo mấy mươi động.

    Hại nữa, các con bị nó tàng ẩn xô cho dang nhau, bứt nghiến tình đoàn thể, chặt lìa dây liên lạc, giành xé cắn rứt nhau như kẻ khác nhà, gà riêng ổ, cho đừng có thế lực chi mà kình chống với chúng nó, rồi rốt cuộc lại thì các con phải lần lần bị manh mún phân chia, sa vào hang sâu vực thẵm.

    Thầy tưởng để cho các con lo liệu giành giựt đương cự với chúng nó, nhưng dòm Thiên thơ thì tám phần mười đã sa ngay vào chơn của Quỉ vương vày đạp, mà lại phần đông các con là bậc phẩm cao, chức trách trọng hậu.


    Tà đã thắng Chánh thì con (Thượng Trung Nhựt) làm thế nào đương cự cho kham. Con là đứa Thầy tin cậy hồi ban sơ, tuy bước đường cũng lắm lúc sai lầm nhưng nhờ các Ðấng thiêng liêng thương mà chỉ dẫn, nên bước vừa trờ tới kịp lúc trở ra.

    Thương hại thay cho nhiều đứa khác, quyền chưa từng nắm, của chưa từng cầm, sắc chưa từng gần, lợi chưa từng thấy, bị lũ quái tùy Thiên thơ, đem treo trước mắt mà phải lầm lũi bước đường, chơn linh quí hóa kia mắc lẫn với xác phàm mà phải chịu muôn đời chìm đắm.

    Ðạo tuy cao, song nên biết sức Quỉ cũng chẳng hèn. Nếu không ngăn ngừa dằn lửa nóng trong tâm thì lửa Tam Muội của Quỉ vương đốt cháy”.


    13 Mars 1926

    “Thầy cho các con biết trước, đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả môn đệ...Các con đủ hiểu rằng: Phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối; nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt... Cười...

    Thầy nói cho các con hiểu rằng: Muốn xứng đáng làm Môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm Môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!

    Bởi vậy cho nên Thầy chẳng vì ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành. Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình, chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức của các con.

    Ấy vậy rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy”.

    (Thánh Ngôn Sưu Tập: 14-7-1932 (âl 11-6-Nhâm Thân)


    Hôm nay:

    “Thầy đến cùng các con chỉ trông cậy có một điều là làm phương nào cho các con đặng thiệt lòng thương yêu hòa thuận cùng nhau. Thầy đã hết lời khuyên dạy buổi đầu, lại để lời tiên tri dặn bảo, mà các con chẳng biết vâng lời, cứ gây đoan những điều hờn giận, dối trá, gạt nhau, đòi phen lại dám mượn danh Thầy mà làm lợi khí.”

    Điều quan trọng là Thầy đến lập Đạo nơi nước Việt Nam

    Thầy dạy nơi Minh Lý Ðàn tháng 6-Ðinh Mão (Tháng 7 năm 1927)

    “Cười... Ta mừng cho con đó, Trung.

    Thầy có hội chư Tiên, Phật lại mà thương nghị về sự lập Ðạo tại Ðại Nam Việt quốc.

    Các con khá nghe lời Thầy dặn, chớ khá nghịch lẫn nhau, phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn hưng đạo đức. Tuy bây giờ phân chia nhiều nhánh, nhiều chi, chớ ngày sau cũng có một mà thôi.

    Các con, dầu bên nào cũng thương nhau như con một nhà, chớ khá ganh gổ chê bai nhau.

    Thầy xin lập Tiểu đàn nầy là Thầy biết con đến đó,

    Trung. Con khá nhớ những lời Thầy đã dạy: Con phải nên trợ giúp Minh Lý cho nên việc, nghe há!

    Có nhiều Đạo, cũng như cái nhà, phải có nhờ nào là cột cái, nào là cột con, đòn tay, kèo, rui. Rui là nhỏ, mỏng mảnh hơn hết, mà cũng phải nhờ nó. Tuy kể cho nhiều tên, chớ cất rồi thì có một chủ mà thôi.

    Con Trung, nên về rán tập các đạo hữu của con cho có lễ phép. Ðạo thành là nhờ Lễ.

    Bên Minh Lý đây là Séminaire, là chỗ các thầy tu, ngày sau độ về phần linh hồn đó con.

    Thôi Thầy về, chút nữa có Thái Ất giáng”. Thăng.


    Chú Thích:

    Trung: Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt .
    Thương nghị: Cùng nhau bàn bạc để sắp đặt công việc.

    Ðại Nam: Tên cũ của nước Việt Nam.

    Nhiều nhánh nhiều chi: Nhiều nhánh là chỉ Tam giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo. Nhiều chi là chỉ Ngũ chi Minh đạo hay Ngũ chi Ðại Ðạo. Ngũ chi Minh đạo gồm: Minh Sư, Minh Ðường, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân. Ngũ chi Ðại Ðạo: Phật đạo, Tiên đạo, Thánh đạo, Thần đạo, Nhơn đạo.

    Tuy bây giờ phân chia nhiều nhánh nhiều chi, chớ ngày sau cũng có một mà thôi: Ðây là tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn lập ra là: Tam giáo qui nguyên Ngũ chi phục nhứt. Bây giờ thì các Đạo còn phân chia khác nhau, nhưng qua Hội Long Hoa rồi, các đạo đều gom về một mối là Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ.

    Séminaire: Tu viện đào tạo các tu sĩ.

    Minh Lý: Một chi trong Ngũ Chi Minh đạo, trụ sở chánh hiện nay đặt tại Tam Tông Miếu ở đường Cao Thắng, Sàigòn. Thuở mới khai đạo, Ðức Chí Tôn dạy Hội Thánh đến Tam Tông Miếu thỉnh các bài kinh: Niệm Hương, Khai Kinh, Kinh Sám Hối, Kinh Cầu Siêu, Kinh Tán Tụng Công Ðức Thần, Thánh, Tiên, Phật về làm kinh tụng đọc trong Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Mười năm sau các Đấng mới giáng cho Kinh Tận độ, Chi phái tách ra sớm nên họ không có Kinh Tận độ..Thái Ất: Trong Kinh Cầu Siêu có câu: “Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn”. Thái Ất là vị Ðại Tiên, học trò của Ðức Ngươn Thỉ .

    Ngày 7-8-Ðinh Mão (dl 12-9-1927)

    LÝ BẠCH

    Thượng Trung Nhựt, hiền hữu có mang trách nhiệm lớn lao của Ðại Từ Bi đặng phổ thông điều đình mối Ðạo, hiệp với Hội Thánh mà trù nghĩ suy tính cách thức hành động về bước đường của chư Thiên phong và Đạo hữu trong buổi nầy.

    Phải lấy nét thẳng đường ngay do nơi tâm thành mà hành sự tạc thù, sợ chinh lòng mà để nét bất bình cho cả chư Đạo hữu. Mỗi việc hành động đều do nơi Ðức Từ Bi sắp đặt sẵn rồi, duy có để cho chư Hiền hữu bước lần mà đi tới.

    Những Đạo hữu nào không vì hạnh đức mà chung hiệp nhau lo hành Chánh giáo thì đã có Thần, Thánh lãnh lịnh biên ghi vào Sổ Công Quả, đợi ngày chung qui đặng đem vào cân Thiên điều mà phán đoán.

    Hiền hữu cũng nên giữ lời Thánh giáo của Ðức Từ Bi, hễ ai biết phục theo luật định của Hội Thánh Công Ðồng thì đặng phép dâng sớ cho Lão định đoạt. Nhiều kẻ lại tư lịnh, muốn mở riêng đường khác, đặng dìu nhơn sanh vào lối quanh co.


    Hại thay! mà cũng tiếc thay! Căn xưa quả trước chẳng chịu lo đền bồi, lại tự dẫn mình vào nơi hang thẵm, sau kết cuộc ra thế nào sẽ thấy.

    Hiền hữu tua lo về phần Thuyết đạo cho chóng.

    Bàn Trị Sự đã có sắp đặt đủ tư cách và mỗi đạo hữu đều có tư cách riêng, mỗi tháng nhóm một lần, là đêm rằm mà bàn tính việc đạo, xem xét coi sự nào trong đạo nên hủy vì sái nhơn tâm, sự nào nên thi hành thì hiệp lòng sanh chúng, gắng lo chung nhau mà làm cho Ðạo đặng có phẩm giá tối cao tối trọng, thì thế nào chư hiền hữu chẳng vui lòng bước tới.

    Mỗi lần nhóm Bàn Trị Sự, ba vị Ðầu Sư phải có mặt, ba vị Chức sắc Hiệp Thiên Ðài chứng sự, mỗi việc nghị định đều biên chép để lại đành rành, sau khỏi điều dị nghị.

    Trong cả chư đạo hữu, Lão cho hiền hữu biết rằng Nữ phái phần nhiều chưa thông hiểu về Ðạo cho lắm.

    Hiền hữu, mỗi đàn lệ, cần phải buộc Nữ phái tới mà nghe thuyết đạo chung với Nam phái. Sau nầy, chừng Lão liệu có đạo muội nào đáng công tìm học đạo lý, thì sẽ cho thuyết đạo riêng về Nữ phái.

    Tr... bạch: Xin nhóm đàn tại Chợ Lớn mỗi tháng.

    Hiền hữu đặng tự liệu.

    Từ đây để H... vào Hiệp Thiên Ðài nghe.

    Lão để lời khuyên chung và gắng vì Ðạo mà tỏ nét kính thành Ðấng Chi Tôn. Thăng”.


    Chú thích:

    Trong đàn hôm nay có Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt viết tắt là Tr..và Bác sĩ Lê văn Hoạch viết tắt là H. sau đắc phong Bảo Sanh Quân trong Thập nhị Bảo Quân.

    Phổ thông điều đình mối Ðạo: Phổ thông là truyền bá giáo lý của Ðạo ra khắp nơi. Ðiều đình là dàn xếp cho đạt được sự hòa hợp mà làm việc cho kết quả.

    Sổ Công Quả: Sổ ghi chép công quả của mỗi người, để Ngọc Hư Cung định vị cho người ấy sau khi qui liễu.

    Luật định của Hội Thánh Công Ðồng: Các luật lệ lập ra bởi toàn cả Hội Thánh cùng chung quyết định.

    Nhiều kẻ lại tư lịnh muốn mở riêng đường khác: Ý nói nhiều vị Chức sắc có ý riêng, muốn tách ra, dẫn tín đồ đặng lập Chi Phái, không tùng phục Hội Thánh Toà Thánh Tây ninh.

    Lối quanh co: Ý nói con đường tà vạy, Tà đạo mà chính những người này bày vẽ ra làm cho mất dấu chơn truyền.

    Căn xưa quả trước: Nguồn gốc của mỗi người và kết quả những việc làm thiện ác trong kiếp trước đã gây ra, may duyên buổi này gặp Đạo Trời khai mở là phương thoát tục không lo sám hối lại còn gây lắm điều phiền toái, hại Đạo.

    Bàn Trị Sự: Cơ quan tạm thời do Hội Thánh bầu cử lập ra để điều hành việc phổ thông nền Ðạo đến khắp mọi nơi. Ðây không phải là Bàn Trị Sự nơi Hương đạo như hiện nay.

    Chứng sự: Nhìn nhận sự việc diễn tiến một cách hợp pháp theo Luật Ðạo.

    Nghị định: Hội lại với nhau bàn bạc mà đồng ý qui định một việc gì.

    Ðàn lệ: Ðàn cúng thường lệ, tức là Ðàn cúng vào ngày mùng 1 và ngày 15 hằng tháng.


    Đức Hộ-Pháp cho biết nỗi khó trong buổi đầu:

    “Thánh-thể của Đức Chí-Tôn hồi buổi đó không có giá trị, không trật tự, họ CHIA PHE PHÂN PHÁI, họ còn phe đảng dữ lắm! Mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, thế lực dữ lắm, không có cái gì thiếu! Làm cho Thánh-Thể Đức Chí-Tôn buổi đó dơ bẩn làm sao đâu không thể tưởng tượng được.

    Đức Lý Giáo-Tông hội chư Thánh, nhưng đương đầu với Đức Chí-Tôn họ chẳng dám. Vì lẽ đó họ CHIA PHE PHÂN PHÁI, lập đảng. Ngài thấy tình thế như vậy, Ngài mới biểu Bần-Đạo xuống tại Thủ-Đức trong bảy tháng. Bần-Đạo chung sống cùng Ngài, đặng Ngài truyền Thể pháp. Giờ phút này Bần Đạo đứng tại tòa giảng đây tưởng tượng nhớ đến tâm tình ấy thấm thiết biết bao nhiêu! Nồng-nàn mà nói không có một điều gì sơ-sót, chỉ đủ mọi hành tàng, rành-rẽ chi tiết hết. Bần Đạo vừa biết rồi Đức Lý liền từ chức không làm Giáo-Tông của Đạo trọn ba năm vậy!

    Khi Bần Đạo ở Thủ Đức về:

    - Đức Lý một đàng Ngài biểu theo Ngài chỉnh đốn Hội-Thánh lại.

    - Một đàng Đức Chí-Tôn nói: Đừng nghe Lý Thái Bạch đa nghe Phạm-Công-Tắc!

    Một đàng kéo, một đàng trì làm cho Bần Đạo

    không biết đường đi chút nào! Thất thơ, thất thưởng mất linh hồn, muốn nửa tỉnh nửa say. Ngài đến 11 giờ, Ngài viết đến bốn giờ sáng, chỉ rành-rẽ thế nào, nhất là Ngài biểu Bần-Đạo hiệp cùng Ngài cho có quyền Chí-Tôn hữu hình tại thế này. Hiền Hữu muốn cho Đạo Cao-Đài còn tồn tại hay nghe lời Đức Chí-Tôn để cho nền Đạo phải mất?

    Bần Đạo cứ nghĩ-nghị, đó rồi Đức Chí-Tôn đến, thật sự Ông Già hơi buồn thật! Ngài nói:

    “Tắc! Con sửa-soạn đặng làm lễ Đăng Điện cho Đức Lý Giáo-Tông nghe!”

    Rồi đó Ổng ở, Ổng nghe Đức Lý Giáo-Tông cầm quyền.

    Đức Lý, Ngài biểu Thiên-phong Chức-sắc cả Cửu Trùng-Đài, Hiệp-Thiên-Đài lập Cửu Trùng Thiên để Ngài đăng Điện, khi Ngài đăng Điện rồi. Ngài cầm cây viết, Ngài viết bài Diễn văn đăng Điện cho tới tận thế sẽ không có vị Giáo-Tông nào làm một bài Diễn-văn hay như vậy”


    (Đức Hộ-Pháp thuyết 17-8 Nhâm-Thìn)

    Như thế:

    Các nguyên nhân gây chia rẽ để lập thành các Chi phái, có những nguyên nhân do bên trong và cũng có nguyên nhân do từ bên ngoài tác động vào..

    Tựu trung có 4 nguyên nhân chánh sau đây:

    1- Anh hùng tánh cá nhân, muốn làm một ông vua xứ nhỏ hơn là làm đại thần của một nước lớn.

    2- Sự bất đồng ý kiến, sự mâu thuẫn trong nội bộ khiến không thể cộng tác với nhau được.

    3- Mỗi người hay mỗi nhóm có lập Cơ bút riêng và chính Cơ bút nầy phong cho họ những chức tước cao cấp theo lòng mong muốn của họ và xúi giục họ lập Chi phái không tùng mạng lịnh Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh.

    4- Bên ngoài thì nhà cầm quyền Pháp xúi giục phân chia làm cho nền Ðạo rã tan thành manh mún, không còn đủ sức để đe dọa nền thống trị của nước Pháp.

    Người Pháp lúc đó rất sợ Ðức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung, vì trước khi theo Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thượng Nghị viên của Thượng Nghị Viện Nam Kỳ, đứng đối lập với chánh quyền để tranh đấu cho quyền lợi của dân chúng Việt-Nam, như vụ chống tăng thuế điền làm Pháp phải nhượng bộ.

    Trong văn thư số 23 của Ðức Phạm Hộ-Pháp gởi cho Bắc Tông Ðạo (Hà Nội), lúc Ngài ở Kiêm-Biên (Nam Vang) đề ngày 12-3-Mậu Tuất (dl 29-4-1958).

    Đức Hộ-Pháp, Ngài có viết:

    “Khi mới mở Ðạo thì mấy Anh lớn đều do nơi trường quan lại của Pháp, trong hàng Phủ và Ðốc phủ mà họ đương cầm quyền Chủ Quận hay Phó Chủ Tỉnh. Vì cớ mà Pháp đã ra lịnh cho mấy Anh ấy phải từ khước, không đặng hiệp tác cùng Anh Lê Văn Trung, là tay nghịch hẳn cùng Pháp đã rõ ràng bằng cớ. Pháp lại hứa cùng mấy Anh lớn ấy rằng: Họ muốn tu theo Ðạo Cao Ðài thì họ tự lập Chi phái, rồi họ sẽ được sự bảo vệ đặc biệt của Pháp, còn theo Anh Lê Văn Trung thì họ sẽ bị khủng bố, không cho làm quan lại của Pháp nữa.

    Ðiều ấy mấy Anh lớn cũng không đủ sợ, vì công danh quyền lợi mình mà nhảy ra thành lập Chi phái, nhưng tới khi Pháp hăm rằng: sẽ khủng bố đến con cái của họ đương du học tại Pháp, tiền cấp học bổng bị thâu lại và không cho cha mẹ có phương thế gởi tiền sang cho nữa đặng tiếp tục việc học hành. Ðiều nầy làm cho họ kinh khủng hơn hết. Thật ra thì cả con cái mấy Anh đương du học tại Pháp và tương lai của chúng rất nên sáng lạng, sẽ bị bỏ dở vì cuộc trả thù của Pháp.

    Bởi cớ cho nên họ lén trở về hội đàm cùng Anh Quyền Giáo-Tông liệu phương gỡ rối. Buổi ấy có mặt Qua và chính mình Qua khuyên họ nên nghe lời Pháp, lập Chi phái dưới quyền bảo hộ của họ, miễn là Ðạo đặng truyền bá là đủ.

    Nguyên do lập Chi phái của Ðạo là như thế.”

    4- Một số các Chi phái hồi đó dùng cường quyền mà đoạt-vị

    Nếu Chi phái ra đời trong cái lẽ “Tương kế tựu kế” như trên, nghĩa là uyển chuyển chiều theo thời thế thì đó chính là một điều quá khôn ngoan nằm trong đầu óc của người Việt-Nam vốn sẵn có. Nhưng tiếc thay! Cái duyên cớ “Gà cùng một mẹ cứ hoài đá nhau” mà rốt lại bị mắc bẫy của người không tránh khỏi vì thiếu sư Thương yêu.

    Đức Hộ-Pháp nói:

    “Nó nên hình bởi sự Thương-yêu, trưởng thành trong sự Thương-yêu, bởi hình chất của Thương-yêu. Hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng kiện, nó sẽ làm Chúa cả thù hận và quyền năng thù hận không hề xâm lấn nó được.

    Nói quả quyết Bần-Ðạo đã đánh tan thù hận ra, khi các phe đảng dùng quyền lực chiếm ngôi vị của Chí-Tôn để tại mặt thế nầy, Bần-Ðạo đã can đảm dùng quyền của Bần-Ðạo đánh ngã ra hết, đặng bảo trọng hình tướng thiêng liêng của Ðạo. Bần-Ðạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần Ðạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn hình thể của Chí-Tôn cho trọn Thương-yêu. Bần-Ðạo dùng can đảm gánh lấy cả thù hận của thiên hạ mà bảo tồn khối Thương yêu của Chí-Tôn vô đối, không cho hoen ố, nhơ bợn.

    Tại sao mà Bần-Ðạo dám thí mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó?

    Bởi biết nó là Chúa cả hình ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là Thầy thiên hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bĩ nhơ nhớp, thì không thế gì làm Thầy thiên hạ đặng.

    Các Chi phái buổi nọ dùng cường quyền mà đoạt vị, không lẽ Bần-Ðạo là Hộ-Pháp nắm giữ chơn truyền trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước, để lưu lại cho nền Chơn-giáo của Chí Tôn sao? May thay, quyền ấy chưa xung đột được Chánh giáo của Chí-Tôn. Nó đã bại trận, bởi Thánh-Thể của Ngài có người cầm luật pháp oai nghiêm, tức là cầm cây HUỆ-KIẾM trong tay đặng gìn giữ nền Tôn-giáo nên hình được, nó nên được tức tạo cho thiên hạ được, nó đã tạo oai quyền của nó thành tướng đặng, thì tạo quyền cho nhơn sanh nơi mặt địa cầu nầy về tương lai đặng.

    (Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm rằm tháng chạp năm Mậu Tý (1949)

    Kết luận:

    Theo tinh thần lời khuyên của Đức Hộ-Pháp và hiện trạng của sự việc xảy ra, cho ra ba kết luận, bởi vì sợ:

    - Thứ nhứt là sợ mất quyền lợi của mỗi cá nhân.

    - Thứ hai là sợ mất cái lợi thế là con cái của các Ngài không hưởng được.

    - Thứ ba là cương vị của Đức Hộ-Pháp bấy giờ chỉ còn phải nói câu này thôi, tức nhiên nói rằng: “chính mình Qua khuyên họ nên nghe lời Pháp” nhưng mỗi người phải tự ý thức hai lẽ trọng khinh giữa việc công và việc tư, giữa Đạo và Đời chứ! Vậy ba vị: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông là ai mà cũng dám bỏ cả danh, lợi, quyền mà nghe theo tiếng gọi thiêng liêng, hết mình lo cho Đạo nghiệp. Nếu các Ngài cũng sợ và sợ thì nền Đại Đạo này sẽ đi về đâu?

    Tóm tắt lại phần nầy, xin lấy bài Thánh giáo sau đây của Ðức Phạm Hộ-Pháp giáng cơ ngày 1-4-Kỷ Dậu (dl 16-5-1969) in trong Thánh Giáo Sưu Tập của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt-Nam trang 161:

    “Công quả khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ có thể nói là Bần đạo đã đóng góp được hai phần ba công quả ấy, nhưng buồn vì nước nhà chủ quyền không được bảo đảm kể từ thuở khai Đạo, các đàn Anh cũng vì lẽ ấy bị chi phối rất nhiều.

    Từ chỗ vị kỷ, vị danh, vị lợi, cũng như tự ái, tự đại, tự tôn, nên đã gây ra cảnh chia ly phân tán, đã để lại một gánh nặng cho đoàn hướng đạo ở hậu sanh. Ðó là điều đáng buồn và cũng là kinh nghiệm quí giá cho đàn em trong mai hậu.

    Nếu mình mỗi người biết đặt đạo lý Chí Tôn, quyền pháp và nhân sinh lên trên hết và tự trọng tự ái vì danh dự của quốc gia dân tộc và đạo pháp thì không có kẻ hở nào để bạo quyền chuyên chế, ngoại nhập khuynh đảo để rẽ chia.

    Vết xe trước đã sụp đổ, đoàn xe sau nên tránh. Kể ra đàn Anh chịu phần trách nhiệm rất lớn trong sứ mạng.

    Chính vì thế mà trong hàng tiền bối, người nào không làm đúng Thiên ý thì sẽ bị triệu hồi để đảm nhận phần vụ khác. Tuy về non Tiên, Phật cảnh, nhưng chưa được hưởng ngôi vị của mình, phải còn có nhiệm vụ đến khi nào mục đích của Chí Tôn khai Đạo được hoàn thành, các hàng tiền bối ấy sẽ tùy công đức mà định vị”.

    5- Hậu quả việc phân chia Chi phái

    a/. Những hậu quả tai hại

    - Sự chia rẽ trầm trọng về tâm lý trong giới tín đồ:

    Nguyên tắc giáo lý của Đại-Ðạo là Thương yêu và Công chánh hay là Bác ái và Công bình, đã bị thương tổn dữ dội, khiến người tín đồ nhiệt tâm với Ðạo rất đau lòng, không thể nào biện bạch được trước dư luận quần chúng. Người ngoại đạo nhìn vào Ðạo Cao Ðài với cặp mắt khinh thường, “gà cùng một mẹ cứ hoài đá nhau”. Tại sao đây là Tôn giáo mà đá nhau dữ dội vậy? Ai đá ai?.

    - Sự phân chia Chi phái làm ly tán nhơn lực và tài lực của Ðạo Cao Ðài vốn đã ít ỏi lúc ban sơ, làm nền Ðạo rã tan manh mún, trở nên yếu ớt về công việc hoằng hoá nền chơn Ðạo, việc phổ độ chúng sanh bị ngưng trệ một thời gian dài, khiến một số người đã nhập môn vào Đạo nản lòng lui chơn thối bước.

    - Buồn nhất là những bậc đàn Anh còn nhiều hám vọng đã để lại một vết thương lòng đau đớn trong tâm trí của người hậu bối một nỗi bàng hoàng khó tả.

    - Đau đớn nhứt là làm Đạo chỉ biết có cái bã lợi quyền, một chút danh vị hảo làm choán mất lương tri lương năng của con người, dùng hết móng vuốt của đời đá lại bậc đàn Anh trong cửa Đạo, muôn cay ngàn đắng rốt lại ngồi ngậm thảm dưới Phong đô! Nơi Lạc hồn Trì!

    b/. Trong cái dở cũng có ẩn tàng cái hay gượng ép

    - Bên cạnh những hậu quả tai hại như đã kể trên, sự phân chia Chi phái của Ðạo Cao Ðài cũng có một vài điều để đánh lừa với nhà cầm quyền Pháp cho nhẹ lo đôi chút.

    - Nhà cầm quyền Pháp cho Ðạo Cao Ðài là một nhóm hỗn tạp, luôn luôn tranh quyền đoạt vị với nhau, không thể tạo thành một lực lượng đoàn kết đủ mạnh làm ảnh hưởng đến nền cai trị của Pháp, nhờ vậy mà họ bớt quan tâm và không cần thiết phải đàn áp Ðạo Cao Ðài.

    - Sự phân chia Chi phái giúp bảo tồn nền Ðạo trước ý đồ của Pháp là muốn tiêu diệt Ðạo Cao Ðài. Nếu diệt được Chi phái nầy thì cũng còn Chi phái khác hoạt động. Họ không thể tiêu diệt hết được. Thế nên Pháp họ lờ đi.

    6- Đạo Trời tồn tại đến thất ức niên

    Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn Thượng Ðế lập ra tại nước Việt-Nam do Thiên thơ tiền định thì nhứt định không có một thế lực nào có thể tiêu diệt đặng. Tuy nhiên, Ðạo khai thì Tà khởi. Ðức Chí Tôn đã ban cho Quỉ Vương cái quyền thử thách người tu, làm giám khảo tuyển lựa người xứng đáng.

    Kỳ Ba nầy, Ðức Chí Tôn đến cùng nhơn loại với Ðệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước mà nội dung là bốn chữ: Bác-Ái Công-Bình. Ai đủ Bác-Ái Công-Bình và thực thi Nhơn-Nghĩa thì Ðức Chí-Tôn rước về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, nên Quỉ Vương lấy đề tài nầy mà thử thách và tuyển lựa, để lọc phàm phân Thánh:

    “Bác ái là đề thi tiến hoá,
    “Nghĩa nhân ấy định phép duy tân.”

    Tuy nhiên, sự thử thách nầy xảy ra quá khắc nghiệt, khiến cho nhiều thí sinh bị đánh rớt một cách thê thảm, làm tổn hại danh thể của Ðạo. Ðức Chí-Tôn có báo trước là rớt 80 %, chỉ đậu có 20 % thôi.

    Nhiều vị chưa bị thử thách thì chê bai kẻ đi trước, nhưng khi chính mình vào cuộc thì cũng bị lục dục thất tình xui khiến đi vào vết chân của người trước mà sa vào nơi Nghiệt cảnh.

    Tuy nhiên ta hãy đặt trọn đức tin nơi Hộ-Pháp rằng:

    “Từ Tín Đồ đến Hội Thánh chẳng hề khi nào tiêu diệt nó được, kẻ nào muốn tiêu diệt Đạo Cao Đài tốt hơn đừng sanh ra bởi chẳng hề khi nào muốn tiêu diệt Đạo đặng, khuôn luật vẫn vậy.

    Hôm nay Qua giảng một điều thiết yếu cho mấy Em nghe quyền siêu thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy Em từ chân, tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc mấy Em nó đều có linh cảm cả.

    Khốn nạn thay! Con người không biết thương nhau mà lại ghét lẫn nhau, mà hễ ghét lẫn nhau tức nhiên ghét Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, nếu ghét Thánh Thể Đức Chí Tôn rồi, thì ngày Qua về cảnh Thiêng Liêng đứng trước Cực Lạc Thế Giới, mấy em chẳng hề khi nào chối tội đặng. Nếu mấy em thương nhau không được thì không được phép ghét nhau.”

    (Đền Thánh, đêm 29 tháng 10 năm Quí Tỵ)

    B . Các Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao Ðài

    Nguyên trong buổi sơ khai của nền Đại-Ðạo, vào giữa năm Ất Sửu (1925), Ðức Chí Tôn thâu phục được hai nhóm riêng nhau: Nhóm của Ngài Ngô Văn Chiêu và nhóm của các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc.

    Ngày 10-12-Ất Sửu (dl 26-1-1926), Ðức Chí Tôn giáng cơ bảo hai nhóm phải hiệp lại nhau đặng lo mở Ðạo. Các vị trong hai nhóm đều vâng lời hiệp lại, lúc đó được 12 người, là 12 Môn-đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn mà Ðức Ngài có cho bài thi đủ tên 12 vị ấy để làm kỹ niệm trong ngày vía Đức Chí-Tôn mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (1926).

    Ngày 6-3-Bính Dần (Dl 17-4-1926) Ðức Chí Tôn định phong Ngài Ngô-Văn-Chiêu vào chức Giáo-Tông nên bảo bà Nguyễn Thị Hiếu (hiền nội của Ngài Cao Quỳnh Cư) may một bộ Ðạo phục Giáo-Tông cho Ngài Chiêu, nhưng 5 ngày sau, đến ngày 22-4-1926 thì Ðức Chí Tôn cho biết là Ngài Chiêu bị truất.

    Ðến ngày 14-3-Bính Dần (dl 24-4-1926) Ngài Ngô Văn Chiêu và nhóm của Ngài lại tách ra không hợp tác với nhóm Ngài Lê Văn Trung nữa, Ngài trở về lo tu đơn như trước. Như thế cuộc hợp tác của hai nhóm chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, vỏn vẹn chừng 3 tháng.

    Ðầu năm Ðinh Mão (1927), Ngài Ngô Văn Chiêu lập cơ tuyển độ Chiếu Minh Tam Thanh vô-vi và đây chính là một Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao-Ðài do Ngài Ngô Văn Chiêu thành lập.

    Sau đó, có một vài vị Chức sắc khác tự lập đàn cơ riêng, bị Cơ bút dẫn dắt lần lần, để sau cùng tách ra khỏi Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh, lập Chi phái như:

    - Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) lập phái Cầu Kho tại Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn vào năm 1930 (Nay là Nam Thành Thánh Thất, đường Nguyễn Cư Trinh. Sài-gòn)

    - Phối Sư Thái Ca Thanh (Nguyễn Văn Ca) lập Chi phái Minh Chơn Lý năm 1931 ở Mỹ Tho.

    - Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập phái Tiên Thiên vào năm 1932 tại Cai Lậy.

    - Sau cùng là hai vị Quyền Ðầu-Sư Thượng Tương Thanh (Ðốc phủ Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Ðốc phủ Lê Bá Trang) tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Ðạo ở Bến Tre vào đầu năm 1934.

    Ðến giữa năm 1934, ngày 15-7-Giáp Tuất (dl 24-8-1934), Ðức Lý Giáo-Tông hiệp cùng Ðức Phạm Hộ-Pháp lập Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 để ngăn chận các Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh tách ra lập Chi phái, thì kể từ đó về sau, không có Chức sắc nào của Toà Thánh Tây ninh dám tách ra lập Chi phái nữa. Tuy nhiên, số Chi phái sau nầy nảy sanh càng lúc càng nhiều là do trong mỗi Chi phái có sự bất đồng nên lại tách riêng lập Chi phái mới, đó là Chi phái sanh ra Chi phái và số lượng nầy thì rất nhiều.

    Trên đây là những nét đại cương về sự thành lập các Chi phái của Ðạo Cao Ðài ngay từ buổi đầu.

    Nhưng về sau nầy, nhiều nhà viết lịch sử của Ðạo Cao Ðài khi nghiên cứu về các Chi phái, đều không thống nhứt nhau về số lượng Chi phái và các sanh hoạt của họ, nên kể những Chi phái không giống nhau.

    ■ Ðầu tiên, Ngài Gabriel Gobron người Pháp, đắc phong Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn Hiệp-Thiên-Đài viết quyển Histoire et Philosophie du Caodaïsme xuất bản năm 1949, đã kể ra 11 Chi phái.

    ■ Trong Nguyệt san Ðại Ðạo của Toà Thánh Tây ninh, năm Ất Tỵ (1965), trong 3 số báo liên tiếp 7, 8, 9, Ông Huệ Lương Trần Văn Quế viết bài: “Ðể tìm hiểu các Chi phái trong Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ” Ông Huệ Lương đã kể ra: Năm 1940 có 12 Chi phái chánh với 3 nhóm không được kể là Chi phái; năm 1963 thì có 15 Chi phái với 2 nhóm không kể là Chi phái.

    ■ Năm 1966, Ông Hoài Nhân trong: “40 năm lịch sử Ðạo Cao Ðài 1926-1966” trang 109, ông kể ra được 35 Chi phái.

    Sau đây chúng ta sẽ nêu ra các chi tiết về 12 Chi phái của hai soạn giả: Gabriel Gobron và Trần Văn Quế.

    I- Histoire et Philosophie du Caodaïsme của Gabriel Gobron

    Ngài Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn Gabriel Gobron kể ra 11 Chi phái vào năm 1948 sau đây: (trang 174)

    1- Minh Chơn Lý, đứng đầu là ông Nguyễn Văn Ca (Phối Sư Thái Ca Thanh) ở Mỹ Tho.

    2- Ban Chỉnh Ðạo, đứng đầu là Ông Nguyễn Ngọc Tương (Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, đắc phong Quyền Thượng Ðầu Sư) lập Chi phái Bến Tre.

    3- Tiên Thiên, đứng đầu là Ông Lê Kim Tỵ ở Phú Nhuận (Gia định), Ông Lê Kim Tỵ tự phong cho mình là Hội Trưởng Cao Ðài Hiệp Nhứt, ông mất tại Hải Phòng năm 1948.

    4-Thông Thiên Ðài, đứng đầu là hai Ông Quách Văn Nghĩa và Lê Quang Hộ, ở Gò Công và Sài Gòn.

    5- Liên Hòa Tông Phái, đứng đầu là hai Ông Nguyễn Phan Long và Trần Văn Quế, ở Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn.

    6- Minh Chơn Ðạo hay Công Ðồng Hội Giáo, đứng đầu là Ông Cao Triều Phát ở Bạc Liêu.

    7- Trung Hòa Học Phái, đứng đầu là Bác sĩ Trương Kế An, ở Thủ Dầu Một. Ông có mở phòng mạch tại Thủ Dầu Một.

    8- Tây Tông Vô Cực Cung, đứng đầu là Ông Nguyễn Bửu Tài, ở Bến Tre. Ông Tài hiệp nhứt với Tòa Thánh Tây Ninh năm 1948, nhưng sau rồi cũng tách riêng.

    9- Tuyệt Cốc, đứng đầu là hai Ông Nhuận và Ruộng, ở Tây Ninh, họ sống ẩn dật, rất ít người biết họ.

    10 - Chiếu Minh Ðàn, đứng đầu là Ông Tư Huỳnh, ở Cái Khế Cần Thơ, sáng lập là Cố Ðốc phủ Ngô Văn Chiêu.

    11- Nữ Trung Hòa Phái, đứng đầu là Bà Ngọc Nhiên Hương và Lê Ngọc Trinh, ở tại Sài Gòn.

    Theo tài liệu nầy thì Ngài Gabriel Gobron không cho Tòa Thánh Tây Ninh là một Chi phái, vì đây là cái gốc của Ðạo, cái gốc thì sanh ra các nhánh, sanh Chi phái.

    2- Các Chi phái trong Ðại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ theo tài liệu ông Huệ Lương

    Ông Huệ Lương Trần Văn Quế viết, kể ra như sau:

    1- Tòa Thánh Tây Ninh, với chư quí Ngài: Trung, Tắc.

    2- Chiếu Minh, với chư quí Ngài: Thiên, Quí.

    3- Cầu Kho, với chư quí Ngài: Bản, Tường.

    4- Tiên Thiên, với chư quí Ngài: Tòng, Tỵ.

    5- Minh Chơn Lý, với chư quí Ngài: Ca, Phùng.

    6- Bến Tre (Ban Chỉnh Ðạo), quí Ngài: Tương, Trang.

    7- Minh Chơn Ðạo, với chư quí Ngài: Quang, Thiệu.

    8- Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản, quí Ngài: Kiên, Phân.

    9- Bạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý, quí Ngài: Tồng, Tải.

    10- Tây Tông Vô Cực Cung, quí Ngài: Ðãi, Tài.

    11- Cơ quan Truyền Giáo TrungViệt, quí Ngài Hiển, Châu.

    12- Liên Hòa Tổng Hội, với chư quí Ngài: Long, Quế.

    Ðiều nên chú ý:

    - Trong số 12 Chi phái của Ðạo Trời, chúng tôi không kể phái Tịch Cốc do 2 ông Nhuận, Ruộng (Nguyễn Ngọc Ðiền) là vì phái nầy thực ra chỉ là một nhóm Ðạo hữu độ 10 vị làm công quả tại Tòa Thánh Tây Ninh, vì bất mãn điều chi đó, rồi xuống tóc, mặc áo dà, tịch cốc,...

    - Chúng tôi cũng không kể Trung Hòa Học Phái, mà các vị hướng đạo là chư quí Ngài Cao Triều Phát, Phan Trường Mạnh và Huỳnh Văn Thảo, vì tổ chức nầy có tính cách một tổ chức thanh niên, chuyên sự học tập và hành đạo hơn là một phái của Ðạo Trời có nhiệm vụ hành chánh và phổ độ. Trung Hoà Học phái đặt trụ sở tại Thánh Thất Minh Ðức tỉnh Rạch Giá do Bà Nữ Ðầu Sư Ngọc Nhiên Hương chưởng quản.

    - Trong số 12 Chi phái của Ðạo Trời, chúng tôi cũng không kể Thông Thiên Ðài, trụ sở đặt tại Thánh Thất Ðồng Sơn (tổng Hòa Ðồng Thượng tỉnh Gò Công). Thực ra phái nầy với Tòa Thánh Tây Ninh là một, vì phái nầy được lập lên để thay thế Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài Tây Ninh. Nhưng sau rồi công việc bất thành và sự hoạt động dần dần thu hẹp vào phạm vi một Thánh Thất thường thôi.

    12 Chi phái kể trên của Ðạo Trời, từ năm 1940 đến 1963, trải qua hơn 20 năm đã bị thử thách dữ dội. Nhiều Chi phái vẫn tồn tại và bành trướng thêm lên hoặc thu hẹp phạm vi hoạt động. Trái lại cũng có Chi phái đã cùng với thời gian mà mai một.

    3- Các Chi phái còn lại là:

    1. Tòa Thánh Tây Ninh làm gốc đạo

    2. Chiếu Minh: Hiện giờ, ngoài phái Chiếu Minh vô vi lại còn có các phần khác nữa là: Chiếu Minh Long Châu và Cao Ðài Thượng Ðế Hội Giáo hay là Chiếu Minh Ðàn.

    3. Phái Cầu Kho hiện giờ được thay thế bằng Nam Thành Thánh Thất và phạm vi hoạt động đã thu hẹp lại nhiều với tính cách một Thánh Thất thường.

    4. Minh Chơn Lý Mỹ Tho ngày nay đã thu hẹp nhiều và gồm hai phân chi: Chi Chân lý Cầu Vỹ (Minh Chơn Lý cũ) và Tòa Thánh Cao Ðài Việt Nam tại Bến Tranh.

    5. Tiên Thiên, trụ sở đặt tại Tòa Thánh Châu Minh, Bến Tre, hiện đang áp dụng Tân Luật và Pháp Chánh Truyền trong sự tổ chức Hội Thánh. Phái nầy cố gắng lấy lại sự quan trọng ngày xưa nhứt là đối với Thất thập nhị Tịnh.

    6. Cơ quan Qui Thống, trụ sở đặt tại Thánh Thất Thiên Thai, làng Mỹ Phước quận Cai Lậy, Mỹ Tho.

    7. Bạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý hoạt động với tầm quan trọng như hồi xưa.

    8. Cao Thượng Bửu Tòa được xây dựng tại Bạc Liêu và được coi là Toà Thánh Hậu Giang.

    9. Minh Chơn Ðạo hiện nay cũng hoạt động như trước và hình như đang trù tính xây Tòa Thánh ở Tắc Vân.

    10. Phái Bến Tre vẫn hoạt động như xưa và cố gắng củng cố nội bộ.

    11. Hội Thánh Tam Quan, được thành lập mấy năm gần đây và cố gắng củng cố nội bộ.

    12. Hội Thánh Truyền Giáo được thành lập trước năm 1956 và được ra mắt với các Chi phái ngày Lễ Khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa năm 1956.

    13. Tòa Thánh Nhị Giang, trụ sở đặt tại Châu Ðốc, hành đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, có Hội Thánh lưỡng đài cũng như các Hội Thánh khác.

    14. Tòa Thánh Tiền Giang, cũng có lưỡng đài, được đặt tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài, làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.

    15. Thiên Khai Huỳnh Ðạo đặt tại số 78 đường Phan Thanh Giản, Gò Vấp, Gia Ðịnh, phái nầy mới ra đời gần đây.

    Ðiều cần đặc biệt để ý những điểm sau đây về hai tổ chức:

    ■ Ban Liên Giao Chi Phái giữa 23 Thánh Thất và Tịnh Thất ngoại ô Ðô Thành Sài-Gòn và các tỉnh lân cận. Trụ sở của tổ chức nầy đặt tại Thánh Thất Bình Hòa, Gia Ðịnh. Tổ chức nầy có mục đích siết chặt dây liên ái giữa các Thánh Thất, Tịnh Thất nói trên về phương diện hữu hình về: Hôn, Tang, Tế, sự.

    ■ Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý, trụ sở tạm thời đặt tại Tam Giáo Ðiện (Chùa Minh Tân) với mục đích siết chặt dây liên ái về phương diện tinh thần giữa các Hội Thánh, Chi phái và giữa các Thánh Thất biệt lập thuộc phạm vi Ðạo Thầy."

    Trong phần trình bày về 12 Chi phái của Ông Huệ Lương Trần Văn Quế, Ông cho rằng Tòa Thánh Tây Ninh là một Chi phái. Ðiều nầy hoàn toàn không đúng, bởi vì Tòa Thánh Tây Ninh là gốc của Ðạo. Các Chức sắc thuở ban đầu tách ra lập Chi phái đều là Chức sắc của Tòa Thánh Tây Ninh mà ra.

    Gốc (Tòa Thánh Tây Ninh) không thể là nhánh (Chi phái) được, mà là phần quan trọng để nảy sanh các nhánh.

    Tổng kết số lượng Chi phái:

    Như đã trình bày ở trên, các nhà viết sử không thống nhứt nhau về tên các Chi phái trong số 12 Chi phái. Quí vị ấy dường như bị ám ảnh bởi con số 12, nên họ cố gắng kể ra cho đủ 12 Chi phái, dầu có sự gượng ép hay không đúng thực tế.

    Thí dụ như: Hai nhóm Tịch Cốc và Thông Thiên Ðài, không thể kể là hai Chi phái được vì thực lực mỗi nhóm chỉ có chừng hơn 10 người, không phát triển thêm được, không ai theo, những người trong nhóm già cả chết dần, rồi mất hẳn.

    Hai nhóm: Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản và Bạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý cũng không đáng kể là Chi phái vì thực lực không có mấy người, hoạt động không được gì và khi người đứng đầu chết thì nhóm tan rã luôn.

    Nhóm Tây Tông Vô Cực Cung chỉ là một nhóm tu đơn, không liên quan đến Ðạo Cao Ðài, nên không phải là một Chi phái, có điều người đứng đầu nhóm nầy là ông Thiện Pháp Nguyễn Bửu Tài sau nầy nhập qua phái Tiên Thiên, rồi qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, sau lại trở về phái Tiên Thiên.

    Ðể cho dễ dàng trong công việc khảo sát các Chi phái của Ðạo Cao Ðài, chúng ta phân ra các mục sau đây:

    - Những Chi phái buổi đầu.

    - Những Chi phái lúc sau.

    - Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái.

    - Nhóm đặc biệt: Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý CĐ.

    C. Sáu Chi phái sau này

    1. Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt

    Sự truyền bá Ðạo Cao Ðài tại Trung Việt đầu tiên do phái Tiên Thiên, theo lịnh dạy của Cơ bút Chi phái, đã tổ chức bí mật sự truyền đạo ra Quảng Nam và Ðà Nẵng từ năm 1936 với các ông ở tại đó là: Lê Trí Hiển, Nguyễn Quang Châu, Trần Công Bang, Huỳnh Ngọc Trác và 4 đồng tử: Long, Lân, Qui, Phụng.

    Sự kiện nổi bật nhất là công cuộc cổ động và vận động xây cất Thánh Thất Trung Thành tại TP Ðà Nẵng, chỉ trong thời hạn 22 ngày là xong, để làm Ðại lễ Khánh Thành ngày 8-4 Mậu Dần (dl 7-5-1938). Những vị đóng vai tích cực trợ giúp quan trọng đi đến thành công là ông : Trần Ðạo Quang, Cao Triều Phát, Nguyễn Bửu Tài và nhứt là ông Lê Kim Tỵ của phái Tiên Thiên.

    Cơ quan nầy hoạt động mạnh ở các tỉnh miền Trung, nhưng sau đó bị Việt Minh khủng bố, hàng lãnh đạo tan rã.

    Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, tín hữu các nơi qui tụ trở lại, quyết định đưa Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt lên thành Chi phái (Hội Thánh), nên mua thêm một khu đất rộng tại đường Nguyễn Hoàng, Ðà Nẵng, để xây dựng Trung Hưng Bửu Tòa, một kiến trúc lớn và đẹp, làm Ðại lễ Khánh Thành vào ngày 1-6-Bính Thân (dl 8-7-1956), ra mắt Chi phái Truyền Giáo Trung Việt.

    Năm 1973, Chi phái Truyền giáo Trung Việt có hai ông đứng đầu là: Chánh Phối Sư Ngọc Quế Thanh (Trần Văn Quế) Chủ trưởng Hội Thánh và Thanh Long Lương Vĩnh Thuật, Thanh tra quyền pháp, đại diện Hiệp Thiên Đài.

    2. Chi phái Tam Quan

    (Phái Chơn lý Cầu Kho)

    Gọi đầy đủ là Hội Thánh Trung Ương Trung Việt, trụ sở đặt tại Tam Quan, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh.

    Nguyên đầu năm 1927, hai ông Nguyễn Hữu Phương và Nguyễn Hữu Hào, ở Bình Định, vào Sài Gòn nhập môn theo Ðạo Cao Ðài tại Thánh Thất Cầu Kho, rồi trở về Bình Ðịnh âm thầm truyền bá Ðạo Cao Ðài tại đây. Số người theo Ðạo càng lúc càng đông nhưng bị nhà nước khủng bố vì vua Bảo Ðại cấm Ðạo Cao Ðài.

    Trải qua nhiều cuộc khủng bố, hết lớp nầy tới lớp khác, Ðạo Cao Ðài nơi đây cũng phát triển, đến năm 1956 mua được một mẫu đất tại Tam Quan, khởi xây dựng Thánh Thất, giấy phép ký ngày 21-9-1956 và làm lễ Khánh thành gọi là Ðại Hội An Thiên, Khánh Thành Hội Thánh ngày 15-3 Canh Tý (1960). Chi phái Tam Quan tổ chức y theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, có hai Ðài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

    3. Thiên Khai Huỳnh Ðạo

    Phái nầy thành lập từ năm Nhâm Dần (1962), Tòa Thánh đặt tại đường Phan Thanh Giản, quận Gòvấp Saigon.

    4. Cao Thượng Bửu Tòa

    Cao Thượng Bửu Tòa được xây dựng tại Thị xã Bạc Liêu, còn gọi là Tòa Thánh Hậu Giang, do Ông Trần Văn Tìa, đạo hiệu Chơn Sắc, chủ trương xây dựng.

    5. Nữ Chung Hòa

    Nhóm nầy được thành lập do lịnh Cơ bút của Chi Minh Tân ở Bến Vân Ðồn, Sài Gòn, mục đích để tập hợp Nữ phái mà dạy dỗ về đường đạo đức và lập công quả dưới sự dìu dẫn vô hình của Ðấng Lê Sơn Thánh Mẫu, trụ sở đặt tại Chùa Minh Tân ở Bến Vân Ðồn.

    Hai Bà Ngọc Nhiên Hương và Lê Thị Trinh điều khiển nhóm nầy. Nữ Chung Hòa trước đây hợp tác với Bà Diệu Minh ở Vạn Quốc Tự đường Phan Thanh Giản cũ Sài Gòn (ngang Bệnh Viện Bình Dân), khi Bà Diệu Minh qui liễu, nhóm Nữ Chung Hoà hợp tác với Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam có trụ sở ở đường Cống Quỳnh (ngang Chợ Thái Bình) và nhóm Nữ Chung Hòa dời trụ sở về Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý.

    Nhóm Nữ Chung Hoà không được nhiều người gia nhập, nên hoạt động rất yếu ớt, chỉ còn làm một vài công tác từ thiện mà thôi. Do đó, chỉ nên xem Nữ Chung Hòa là một nhóm học tu Nữ phái, làm việc từ thiện.

    6. Trung Hòa Học Phái

    Sau khi ông Cao Triều Phát tách ra khỏi phái Minh Chơn Ðạo thì ông hợp tác với ông Phan Trường Mạnh, Phan Lương Hiền, Huỳnh Văn Thảo lập thành Trung Hòa Học Phái, có mục đích qui tụ các thanh niên trong các phái Ðạo Cao Ðài để dìu dắt chúng trên đường đạo đức, thực hành thuyết Trung Thứ của Nho giáo, vừa lo học tập vừa lo hành đạo. Ðể thực hành mục đích đó, Cao Triều Phát lập nên một tổ chức thanh niên gọi là “Thanh Niên Ðạo Ðức Ðoàn” đặt trụ sở tại Thánh Tịnh Minh Ðức của Bà Ngọc Nhiên Hương ở Rạch Giá, sau nầy Thanh niên Ðạo đức Ðoàn mở rộng hoạt động lên Sài Gòn, trụ sở đặt tại Tam Giáo Ðiện, chùa Minh Tân ở Bến Vân Ðồn Sài Gòn. Sau Hiệp Ðịnh Genève năm 1954, Cao Triều Phát tập kết ra Bắc, nên nhóm Thanh Niên Ðạo Ðức Ðoàn phải ngưng hoạt động vì không người hướng dẫn.

    Trung Hoà Học Phái đã nổi tiếng một thời ở Hậu Giang.

    D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái

    1. Tịch Cốc (hay Tuyệt Cốc)

    Gọi là Tịch Cốc hay Tuyệt Cốc là vì nhóm nầy chủ trương không ăn cơm, chỉ ăn trái cây, tu theo lối ép xác đặng luyện pháp thuật.

    Vào năm 1934, có một nhóm chừng 10 người đang làm công quả trong Tòa Thánh Tây Ninh, vì bất mãn Hội Thánh không cho họ luyện pháp thuật, nên họ rủ nhau đi vào núi để khổ tu luyện đạo cho mau kết quả. Trong nhóm nầy có hai ông: Ngô Ðức Nhuận và Nguyễn Ngọc Ðiền tức Ruộng, tự xưng là Nguyên soái cầm đầu.

    Hồi Tòa Thánh còn làm bằng cây ván, nhóm nầy lén vô Bửu Ðiện Tòa Thánh, leo lên ngồi trên 7 cái ngai mà Bảo Thể không hay biết, đến chừng Bảo Thể phát hiện thì bắt từ ông lôi xuống và trục xuất họ ra khỏi Nội Ô.

    1/. Nhóm Tịch Cốc tập bay:

    Nhóm này đứng đầu là các ông Ngộ-Đức Nhuận và Nguyễn Ngọc Điền tổ chức cầu Cơ, các vong linh giáng Cơ xưng là Tiên, Thánh dạy số người trong nhóm này luyện Đạo, luyện phép trường sanh “Không ăn ngũ cốc” chỉ ăn hoa quả mà thôi, cho nên phái này được gọi là Phái Tuyệt cốc, thường ở trong hang động của Núi Bà Đen (Tây ninh). Họ luyện phép có thể bay từ gộp đá này qua gộp đá khác, từ nhánh cây này qua nhánh cây khác. Họ truyền rằng dùng xâu chuỗi Bồ đề niệm chú có thể đánh ngã cây cổ thụ hoặc bể cả tảng đá, hoặc cỡi hòn đá niệm chú đá có thể bay. Những đêm trăng rằm dân chúng thường lên núi Bà xem nhóm người này biểu diễn pháp thuật vì đây là sở trường của nhóm Tuyệt cốc.

    2/. Nhóm Tuyệt cốc về chiếm Toà Thánh:

    Một chuyện kể là nhóm Tuyệt cốc này đột nhập vào Toà-Thánh đêm rằm tháng 7 năm Bính Tý (Thứ Hai: 31-8-1936) Phái Tuyệt cốc bất thần kéo về Toà-Thánh Tây ninh định chiếm các ngai vàng, họ không đi bằng các cửa Nội Ô Thánh địa mà bay qua hàng rào tre gai vào bên trong Toà Thánh một cách dễ dàng. Mỗi người chiếm một chiếc ngai. Bảo-Thể và Thánh vệ lôi họ xuống và trục ra khỏi Đền thánh. Có số người leo lên ngựa Kiền Trắc của Phật Tổ cỡi và dùng chuỗi bồ đề đánh vào mông ngựa, vẫn trơ trơ vì đánh mạnh quá nên chuỗi đứt và văng tung toé trên đất. Sau này không còn thấy bóng dáng của họ nữa.

    Trong quyển Tây Ninh xưa và nay của Huỳnh Minh, soạn giả có thuật lại việc Nhóm Tuyệt Cốc lén lên ngồi 7 cái ngai trong Tòa Thánh, rồi sau đó lại tập bay theo lời kể của ông Huỳnh Hữu Lộc, cựu Tổng Thơ Ký Hội Ðồng tỉnh Tây Ninh:

    Năm 1936, lúc bấy giờ, tôi (Huỳnh Hữu Lộc) còn trong hạng tuổi thiếu thời. Tôi về Toà-Thánh Tây-ninh làm công quả, nơi đó tôi được biết câu chuyện chiếm 7 ngai xảy ra như sau:

    Một buổi trưa sau giờ cúng Ngọ tại Bửu điện Tòa Thánh, các Chức sắc, Chức việc và đồng nhi đã về phòng nghỉ. Lúc bấy giờ chỉ có một vị Tuần quân ở lại canh gác Bửu điện mà thôi. Vị Tuần quân đó là anh Nghiêm. Thình lình anh Nghiêm nghe tiếng động rất to trong Bửu điện, anh Nghiêm chạy vào coi thì thấy một số người, lối 7 người mặc áo màu dà, đầu trọc, tay cầm chuỗi bồ đề, đang xô các cốt Phật, Tiên, Thánh, Thần ngã rớt rầm rầm xuống đất. Lúc đó, anh Nghiêm hoảng hốt tri hô lên, bổn đạo quanh đó chạy đến, thấy 7 cái ngai đều bị các vị Tả đạo ấy chiếm ngồi hết cả. Nên biết, Ðền thờ Ðức Chí Tôn có 7 cái ngai dành riêng cho 7 vị: 1 cho Ðức Giáo-Tông, 3 cho 3 vị Chưởng Pháp, 3 cho 3 vị Ðầu Sư, nhưng đó chỉ là tượng trưng thôi chớ chưa có ai dám lên đó ngồi. Các tu sĩ Tả đạo ấy lẻn vào Bửu điện làm việc đại náo. Ngoài số 7 vị chiếm 7 cái ngai trong Bửu điện, còn một vị khác ra trước Tòa Thánh chiếm con ngựa của Ðức Phật Tổ đang cỡi, vị nầy lên lưng ngựa và ra roi thúc ngựa.

    Nên nói thêm, ngôi Bửu điện lúc đó bằng cây lợp ngói, các cửa đơn sơ không được chắc chắn như hiện nay, do đó các vị Tả đạo mới lẻn vào được dễ dàng.Các đạo sĩ ấy không có ăn cơm, chỉ ăn trái cây, rau hoặc bánh mà thôi, nên có người gọi là đạo Tuyệt Cốc.

    Thật ra thì các vị ở non động cả, có nhiều vị chơn tu cũng tuyệt cốc. Vậy chúng tôi đề nghị gọi nhóm người nầy là gian đạo sĩ hoặc là nhóm Tả đạo. Các vị nầy có nhiều lần cho biết xâu chuỗi bồ đề của họ đã luyện thành bảo vật, đánh người và cả cây hay đá cũng đều tan ra tro bụi, còn nếu chỉ vào ngựa ván (ngày xưa gọi divan là bộ ngựa) thì ngựa ván bay lên cao.

    Vì lẽ bổn đạo kiêng sợ bảo vật chuỗi bồ đề nên chưa ai dám xông vào kéo các vị Tả đạo xuống khỏi ghế.

    Sau đó có một vị bổn đạo thử xông vào kéo vị chiếm ngai Giáo-Tông xuống và cuộc níu kéo ẩu đả bắt đầu, các xâu chuỗi được tung ra. Nhiều bổn đạo đứng bên ngoài thấy chuỗi phép không làm tan đối thủ ra tro bụi thì vững lòng nhào vô trợ chiến, xua đuổi nhóm người Tả đạo ra khỏi Chánh điện.

    Cũng trong thời gian nầy, một vị Ðạo hữu hương khói tại Quan-Âm-Các (Quan Âm Các lúc bấy giờ ở tại chợ Ngã Năm gần nhà Ngài Chưởng Ấn Hợi bây giờ), chạy vô báo cho Hội-Thánh hay có hai Nữ gian đạo sĩ lên lầu, nơi thờ Phật Bà Quan Âm, xô cốt Bà xuống và leo lên bàn thờ ngồi tự xưng mình là Phật Quan Âm giáng thế.

    Bổn đạo nghe vậy chạy ra leo lên lầu xua đuổi hai Nữ Tả đạo. Lại một phen chuỗi phép được tung ra, chuỗi chẳng hại được ai cả, chỉ trì kéo làm đứt dây, hột chuỗi rơi đổ tứ tung. Bị xô té xuống đất, hai Nữ Tả đạo cứ nằm vạ tại đó rất lâu, bổn đạo thấy vậy ra về, nhưng vẫn để ý xem động tịnh ra sao. Một lúc lâu thấy vắng người, hai Nữ Tả đạo đứng dậy theo đường Phước Ðức Cù về xóm Sân Cu.

    Thu dọn chiến trường: Bổn đạo dựng các cốt Phật dậy và quét dọn, lượm được một số lớn chuỗi hạt bồ đề của các nam nữ gian đạo sĩ bỏ rớt lại.

    Vào năm Mậu-Dần (1938), nhóm gian đạo sĩ Tả đạo Bàng môn hành động ngông cuồng phá rối nhiều nơi. Lúc đó nhóm Tả đạo ở vùng Sân Cu (xã Long Thành) và vùng Sơn Ðình (chơn núi Bà Ðen) là đông hơn hết.

    Nếu không lầm thì vào lúc 15 giờ ngày 14 tháng Giêng năm Mậu Dần (1938), có một gian đạo sĩ đầu trọc, trang phục áo màu dà, tay cầm tấm bảng có viết chữ sẵn, đem cắm tại Cửa số 1 Tòa Thánh. Lúc bấy giờ Cửa nầy tuy làm bằng gạch thô sơ, không phải kiến trúc như ngày nay, trên bảng có 4 câu kệ, đại ý nói 24 giờ khuya đêm 14 rạng rằm tháng Giêng sẽ có Ðế vương xuất thế.

    Ông đạo đọc bài kệ 3 lần, đánh 3 hồi cồng, rồi đi về hướng sân bay, nơi nầy hiện là đồng ruộng lúa sau Tòa Thánh. Sân bay nầy của người Pháp lập ra, nhưng rất ít khi máy bay đáp xuống, vì vậy cỏ mọc rất nhiều, nhứt là loại cỏ cần câu.

    Ngày 14 tháng Giêng nói trên, tại sân bay qui tụ hằng trăm vị nam nữ Tả đạo để làm lễ mừng Ðế vương xuất thế. Tại đây, họ cất một lễ đài 9 từng cao độ 40 thước. Ðài cất bằng cây, hai bên đài là hai dãy nhà lá, mỗi dãy độ 5 hay 6 căn, phân ra Nam tả Nữ hữu, dưới chơn đài, họ cho đổ hằng trăm xe rơm để họ tập bay. Mỗi người sắm một cặp cánh bằng cây và giấy bạch, cánh giống như cánh chim, to cỡ bằng cái sàng gạo. Khi muốn bay, họ đút hai cán cánh vào hai ống tre cột sẵn hai bên hông người và từ trên đài cao, họ phóng mình ra, hai tay nắm hai cánh mà quạt nhanh.

    Về sau, ông Ðiền mặc toàn đồ trắng, xuống Sài Gòn đến Dinh Thống Soái Nam Kỳ treo cờ và đòi hỏi người Pháp trả nước Việt Nam, bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam vào nhà thương điên. Nhóm Tịch Cốc tan rã và mất hẳn.

    Kết quả 1: Họ không bay được đến đâu cả. Bay làm sao được khi khối thịt nặng 50, 60 ký mà hai cánh thì mỏng manh và dầu cho có quạt nhanh đến đâu cũng không đủ tốc độ để cất mình lên nỗi. Rốt cuộc họ bị rơi xuống đống rơm dưới chơn đài, nhờ có rơm xốp nên không bị hại chi về nhơn mạng.

    Kết quả 2: Ðế vương xuất hiện đâu chẳng thấy, chỉ thấy lúc 22 giờ, có 3 xe cam nhông lính mã tà (cảnh sát) chỉ huy bởi một viên đội Pháp đến bao vây sân bay, bắt hết tất cả nam nữ đạo sĩ Tả đạo Bàng môn.

    Kết quả 3: Nhà binh Pháp phóng hỏa đốt cả hai dãy nhà, đài bay, luôn 100 xe rơm, ánh lửa sáng rực một góc Trời. Không biết, chánh quyền Pháp đối xử với nhóm Tả đạo ấy ra sao, mà từ đó ở Tây Ninh không còn thấy họ xuất hiện nữa.

    Lời bàn: Đáng thương thay! Đạo Trời khai dạy rõ phương tu tắt như vậy mà vẫn chê, tìm cách tu bướng, thật là bức tranh “Thả mồi bắt bóng” mà thôi.

    2. Ông Cao Triều Phát, phái Minh Chơn Ðạo

    Ông Cao Triều Phát, tự là Thuận Ðạt, sanh ngày 18-3-Kỷ Sửu (dl 17-4-1889) tại Vĩnh Hinh, làng Vĩnh Lợi, tổng Thạnh Hưng, tỉnh Bạc Liêu. Thân phụ là Cao Minh Thạnh và Thân mẫu là Tào Thị Xúc. Gia đình có 8 anh em: 6 trai và 2 gái, ông Phát thứ 5 và thứ út là Cô Cao Thị Khiết, Cửu Nương Diêu-Trì-Cung..

    1910, ông Cao Triều Phát tốt nghiệp Trung học.

    1912, học xong hai lớp luật do Tòa Án Sàigòn tổ chức, làm thơ ký phiên dịch tại Tòa Án Bạc Liêu.

    1914, đi Pháp làm thông ngôn cho toán lính thợ Việt-Nam.

    1922, trở về Việt-Nam, hoạt động chánh trị, viết cho tờ báo La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ).

    12-11-1926, ông Phát được bầu làm Ðảng trưởng đảng Ðông Dương Lao động, cơ quan ngôn luận của đảng là Nhựt Tân báo.

    1930, đắc cử Hội Ðồng Quản Hạt Nam Kỳ.

    1932 ông Cao Triều Phát nhập phái Minh Chơn Lý.

    1939, thành lập Ðoàn Thanh niên Ðạo đức.

    15-5-Ất Dậu (dl 24-6-1945) đại hội tại Tam Giáo điện của chi Minh Tân (221 Bến Vân Ðồn Sàigòn) thành lập Cao Ðài Hiệp Nhứt 11 Phái (không có Toà-Thánh Tây ninh), ông Phát được bầu làm Chủ tịch.

    1941, Tỉnh Ủy Viên Bạc Liêu là Tào Văn Tỵ vận động ông Cao Triều Phát nhập Mặt Trận Việt Minh, làm Phó Chủ tịch Ủy Ban Giải phóng dân tộc tỉnh Bạc Liêu.

    1945, Chủ tịch Ủy Ban giải phóng dân tộc Bạc Liêu.

    23-9-1945, quân viễn chinh Pháp trở lại đánh chiếm Sài Gòn. Ðầu năm 1946, quân Pháp chiếm Bạc Liêu, ông Cao Triều Phát rút về Giồng Bướm huyện Giá Rai, lập chiến khu kháng chiến cứu quốc. Tại đây có Tòa Thánh Ngọc Minh của Minh Chơn Ðạo được dùng làm trụ sở Trung ương của Kháng chiến.

    15-4-1946, Pháp đem đại quân cùng phi cơ ném bom đánh Giồng Bướm, Tòa Thánh Ngọc Minh bị trúng bom sụp đổ, Cao Triều Phát rút binh về Cái Nước. Khu Bộ trưởng Chiến khu 9 là Vũ Ðức (tức Hoàng Ðình Giong) mời ông Phát về Bộ Chỉ Huy Chiến khu 9.

    1948, Hồ Chủ tịch ở Bắc gởi thư khen ngợi ông Cao Triều Phát, đồng thời tặng ảnh và áo để kỹ niệm.

    Tháng 12-1946, thành lập Kỳ Bộ Việt Minh Nam Bộ tại chiến khu Ðồng Tháp Mười, do Hà Huy Giáp làm Chủ nhiệm, Cao Triều Phát được bầu làm Chủ nhiệm danh dự Kỳ Bộ.

    15-2-1948, tại căn cứ Việt Bắc, Hồ Chủ tịch ký Sắc lịnh số 132/SL cử ông Cao Triều Phát và Nguyễn Bá Sang làm Cố Vấn Ủy Ban Kháng chiến Hành Chánh Nam Bộ.

    14-10-1947, ông Cao Triều Phát trên cương vị Chủ tịch Cao Ðài 11 Phái Hiệp Nhứt triệu tập hội nghị đại biểu các Chi phái tại Ðồng Tháp Mười để thành lập Hội Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hợp Nhứt, với Ban Chấp hành gồm:

    Chủ tịch: Cao Triều Phát (phái Minh Chơn Ðạo).

    Hai Phó Chủ tịch:

    - Nguyễn Ngọc Nhựt (Ban Chỉnh đạo)

    - Nguyễn Văn Khảm (phái Tiên Thiên).

    Tổng Thơ Ký: Phạm Thị Tư (Vạn Quốc Tự)

    Ủy Viên Tài Chánh kiêm Thủ Quĩ: Trần Ðại Khái (phái Tây Ninh trung thành).

    Ủy Viên Truyền Tin và Giao Thông: Hoàng Minh Viễn (phái Tây Ninh trung thành).

    Chủ nhiệm Kỳ Bộ Việt Minh Nam Bộ Hà Huy Giáp tuyên bố thừa nhận Hội Cao Ðài Cứu Quốc là một tổ chức của Kỳ Bộ.

    Hội Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hợp Nhứt thành lập Hội-Thánh Duy Nhứt, gồm Hiệp-Thiên Đài, Cửu Trùng Đài và Cửu Viện.

    Hiệp-Thiên Đài gồm 3 vị do quyền Thượng-Phẩm Cao Huệ Chương (phái Tây Ninh trung thành) làm chưởng quản.

    Cửu Trùng Đài gồm 3 vị do Phối Sư Nguyễn Văn Năm (Minh Chơn Lý) làm chưởng quản.

    Cửu Viện gồm 9 vị, mỗi vị coi một viện.

    Hội Cao Ðài Cứu Quốc thành lập thêm 2 đoàn thể:

    - Thanh niên Cao Ðài Cứu quốc,

    - Phụ nữ Cao Ðài Cứu quốc.

    19-10-1948, Ðại Hội Nhơn Sanh Chi phái Hội Thánh Duy Nhứt bầu hai vị chưởng quản hai Ðài:

    Thái Chưởng Pháp Cao Triều Phát (Chi phái Minh Chơn Ðạo) làm quyền Chưởng quản Cửu Trùng Ðài.

    Tiếp Ðạo Phạm Hồng Tiên (Chi phái Ban Chỉnh Ðạo) làm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài.

    Hiệp định Genève ký kết ngày 21-7-1954, Việt Nam tạm phân hai miền Nam Bắc, Cà Mau là một trong những khu vực tập trung cán bộ và bộ đội trong 200 ngày trước khi xuống tàu tập kết ra Bắc.

    Ông Cao Triều Phát triệu tập Chi phái Hội Thánh Duy nhứt và Chi phái Hội Cao Ðài Cứu Quốc tại Cà Mau để sắp đặt lại tổ chức:

    - Giải thể Chi phái Hội Thánh Duy Nhứt để các Chi phái tái lập Hội Thánh riêng của phái mình.

    - Một số Chức sắc sẽ tập kết ra Bắc, gồm:

    . Chưởng quản Cao Triều Phát.

    . Ðầu Sư Nguyễn Hiền Ngô.

    . Phối Sư Nguyễn Văn Khoan

    . Giáo Sư Nguyễn Văn Khảm.

    . Ông Hoàng Minh Viễn, v.v...

    Tết Ất Mùi (dl 24-1-1955), tại Thánh Thất Hà Nội (48 phố Hòa Mã, khu phố Hai Bà Trưng) làm lễ ra mắt Chi phái Hội Thánh Cao Ðài Duy Nhứt tại Hà Nội mà đứng đầu là Giáo-Tông Cao Triều Phát, có đại diện chánh quyền CS và Việt Minh đến dự.

    8-9-1956, ông Cao Triều Phát mất tại Bệnh Viện B303 Hà-Nội lúc 2 giờ chiều. Chánh phủ tổ chức lễ tang rất long trọng, thi hài được an táng tại nghĩa trang Nam Kỳ (số 32 đường Nguyễn Công Trứ, Hà Nội).

    1983, gia đình bốc mộ, hỏa táng, đem tro hài cốt về Sài Gòn, thờ tại tư gia số 4 đường Ðặng Tất, phường Tân định, Quận 1.

    21-5-2000, tiểu sành đựng hài cốt của ông Cao Triều Phát được đưa lên đặt tại Phòng số 2 của Nhà Lưu hài cốt tại nghĩa trang Thành phố. (Viết theo quyển: Cao Triều Phát, Nghĩa khí Nam bộ, của Phan Văn Hoàng, nhà xuất bản Trẻ)

    3. Ông Huệ Lương Trần Văn Quế

    Ông Trần Văn Quế, đạo hiệu Huệ Lương, sanh ngày 7-4-Nhâm Dần (dl 1-11-1902) tại làng Phước long, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa, Thân phụ là Trần Văn Ðược và thân mẫu là Nguyễn Thị Là. Thuở nhỏ, học chữ Hán với đông y sĩ Trương Văn Thuần. Khi ông Thuần mất thì chuyển qua học quốc ngữ và tiếng Pháp tại trường Tổng Phước long.

    1919, đậu bằng Tiểu học Pháp-Việt, rồi thi đậu vào trường Sư Phạm Sài Gòn.

    1923, tốt nghiệp trường Sư Phạm, đậu luôn bằng Thành Chung và bằng Trung học Pháp quốc.

    1925, đậu bằng Tú Tài bổn quốc, trúng tuyển vào trường Cao đẳng Sư phạm Ðông dương tại Hà Nội ban Toán Lý Hóa.

    1928, tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, được bổ về trường Pétrus Ký và dạy học tại đây trong 16 năm liền.

    15-7-Kỷ Tỵ (dl 19-8-1929), nhập môn vào Ðạo Cao Ðài tại Thánh Thất Phú Hội ở quê nhà, thường đến sanh hoạt đạo sự ở Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn.

    1930, lên hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh, được Ơn Trên phong phẩm Giáo Hữu, được cử vào Hội đồng Nghị sự do Ngài Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh chủ tọa.

    1933, hợp với ông Nguyễn Văn Kiên lập Chi phái Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn tại Thánh Thất Cầu Kho, ông Kiên làm chủ tịch, ông Quế làm Tổng Thơ Ký. Sau 1 năm làm việc không đem lại kết quả.

    1934, tại Trước Lý Minh Ðài thành lập Liên Hòa Tổng Hội với nhiệm vụ tổ chức 12 kỳ Long Vân Hội để vận động thống nhứt các chi phái, ông Nguyễn Phan Long làm Hội trưởng, ông Quế làm Tổng Thơ Ký.

    1943, tham gia Liên Ðoàn Ái Quốc hội tranh thủ độc lập cho Việt-Nam, bị Pháp bắt, kết án 20 năm lưu đày nơi Côn đảo.

    1945, Chánh phủ Trần Trọng Kim ân xá, ông Quế trở về Sài Gòn, sau đó hoạt động trở lại, làm Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành Chánh tỉnh Biên Hòa, chủ tịch là ông Hoàng Minh Châu.

    1949, ông Quế lên Tòa Thánh Tây Ninh, chiêu dụ đạo tâm tại Chiêu Hiền Viện, được Ðức Phạm Hộ-Pháp phong chức Khâm Sai Bắc Tông Ðạo, đại diện Tòa Thánh Tây Ninh đi mở đạo tại Bắc Hà.

    1952, trở về Sài Gòn, hợp tác với quí ông Phan Khắc Sửu và Nguyễn Bửu Tài, lập cơ quan Cao Ðài Qui Nhứt tại Tam Giáo điện Minh Tân, nối tiếp công cuộc vận động liên hòa Chi phái.

    1953, ông Quế được mời giữ chức: Hội Trưởng Cơ quan Truyền giáo Cao Ðài.

    1955, tháng 8, ông Quế hướng dẫn Phái đoàn Cơ quan Truyền giáo Cao Ðài đi dự Hội nghị Quốc tế Tôn giáo tại Kyoto Nhựt bổn.

    1-6-Bính Thân (1956), Chi phái Trung Việt khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa tại Ðà Nẳng, nâng Cơ quan Truyền giáo lên thành Chi phái Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt, ông Quế được ban phẩm Ngọc Phối Sư, làm Chủ trưởng Hội Thánh.

    1962, tại Minh Tân, ông Quế và ông Chơn Tâm được chỉ định làm Ðệ nhứt và Ðệ nhị Phó ban Phổ Thông Giáo Lý liên quan hành đạo.

    1965, Chi phái giao cho ông Quế lèo lái Cơ quan Phổ thông Giáo lý Cao Ðài giáo Việt-Nam trong nhiệm vụ: Tổng Lý Minh Ðạo.

    1973, tại Chi phái Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt, Phối Sư Ngọc Quế Thanh được thăng Chánh Phối Sư.

    14-10-Canh Thân (dl 21-11-1980), ông Huệ Lương Trần Văn Quế qui vị, được an táng tại nghĩa trang của Thánh Thất Trung Minh thuộc Chi phái Truyền giáo Trung Việt.

    4. Thông Thiên Ðài

    Nhóm Thông Thiên Ðài được lập nên bởi quí ông: Bác sĩ Nguyễn Văn Nhã, Ðốc phủ Lê Quang Hộ, đại điền chủ Quách Văn Nghĩa, Ðốc học Chiếu, Nguyễn Trung Thăng, Lê Quang Nghi, Lê Quang Tỉnh... và đồng tử phò loan là hai người con của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu: Ðức (Nguơn Ngọc) và Thân (Huệ Chương).

    Ðấng bề trên của nhóm nầy là Liễu Nhứt Chơn Nhơn Tôn Tẫn trong truyện Phong Kiếm Xuân Thu. Các Ðấng bề trên cho biết, nhóm nầy về sau sẽ thay thế Hiệp Thiên Đài của Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng thực tế thì không có việc nầy.

    Trụ sở của nhóm Thông Thiên Ðài đặt tại Thánh Thất Ðồng Sơn ở Gò Công. Nhóm nầy không thâu tín đồ, các người sáng lập già cả rồi chết, nhóm nầy tan rã và mất luôn. Thánh Thất Ðồng Sơn trở nên vắng vẻ, chỉ còn ông từ lo cúng kiếng mà thôi.

    5. Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản

    Nguyên trước đây ông Thái Phối Sư Nguyễn Văn Ca thành lập phái Minh Chơn Lý ở Mỹ Tho, được nhiều người ủng hộ, nhưng từ khi Thiên Sư Nguyễn Văn Phùng nắm Cơ bút của Minh Chơn Lý, ông cầu cơ sửa đổi hết các cách thờ phượng, làm cho nhiều người bất mãn nên bỏ đi, kể ra:

    Quí Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, Nguyễn Quang Thiệu, Cao Triều Phát về Bạc Liêu lập Minh Chơn Ðạo.

    Quí Ngài Vương Quan Kỳ và Ðoàn Văn Bản trở về Thánh Thất Cầu Kho.

    Ngài Trần Văn Quế bỏ đi, nhập phái Tiên Thiên. Quí Ngài Nguyễn Văn Kiên và Nguyễn Văn Phấn lập “Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản” trụ sở đặt tại Long An, mục đích là phục hồi nguyên bản Ðạo Cao Ðài như buổi đầu Ðức Chí Tôn lập ra, nhưng không được nhiều người hưởng ứng.

    Khi ông Nguyễn Văn Kiên được bầu làm Hội Trưởng Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn thì phái nầy bắt đầu suy tàn và khi ông Kiên qui liễu thì phái nầy tan rã.

    6. Tây Tông Vô Cực Cung

    Ðây chỉ là một nhóm tu đơn, do ông Nguyễn Bửu Tài, pháp danh Thiện Pháp, lập ra tại quê nhà của ông là làng Phú Hưng, tục gọi làng Chẹt Sậy, quận Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

    Phái nầy cho rằng phái tu đơn của Ngài Ngô Văn Chiêu từ Phú quốc chuyển về Sài Gòn là phái Ðông Tông, còn ông Nguyễn Bửu Tài ở Bến Tre là Tây Tông, nên Ngài gọi Thánh Tịnh của Ngài lập ra ở Chẹt Sậy là Tây Tông Vô Cực Cung.

    Như vậy, Tây Tông Vô Cực Cung không phải là một Chi phái của Ðạo Cao Ðài và cũng không dính dáng gì đến Ðạo Cao Ðài, chỉ có điều là sau đó ông Nguyễn Bửu Tài gia nhập phái Tiên Thiên, trở thành Chức sắc cao cấp (Thượng Ðầu Sư) của Tiên Thiên, rồi lãnh đạo phái Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh.

    Sau khi ông Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông phái Bến Tre qui liễu, ông Nguyễn Bửu Tài rút lui khỏi Toà Thánh Tây Ninh, trở về tái lập phái Tiên Thiên, sau đó Cơ bút ma của ông phong ông chức Giáo-Tông của phái Tiên Thiên.

    7. Tòa Thánh Nhị Giang

    Phái nầy lập trụ sở tại Châu Ðốc, gọi là Tòa Thánh Nhị Giang, chỉ hoạt động trong vùng Châu Ðốc, có tổ chức lưỡng đài Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài như các Chi phái khác, hành đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, nhưng không được nhiều người ủng hộ, hình như họ chán nản trước các sự kiện lập Chi phái.

    8. Tòa Thánh Tiền Giang

    Phái nầy lập trụ sở tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài ở làng Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp, Gia Ðịnh.

    Về sau phái nầy lập lên Tòa Thánh gọi là Tòa Thánh Tiền Giang, để đối lại Tòa Thánh Hậu Giang. Tuy đã nâng cấp lên Tòa Thánh nhưng không có hoạt động gì đáng kể.

    E. Nhóm đặc biệt: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam

    Cơ Quan nầy do lịnh do lịnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam lập ra với mục đích để siết chặt các Chi phái và các Thánh Thất, Thánh Tịnh biệt lập. Lúc ban sơ, trụ sở đặt tại Tam Giáo Ðiện chùa Minh Tân, 221 Bến Vân Ðồn, Vĩnh Hội, Sài Gòn và lấy danh xưng là “Cơ Quan Liên Giao Hành Ðạo”.

    Cho đến năm 1965, Cơ Quan nầy chưa tổ chức được nên chưa có hoạt động chi thật sự. Năm nầy theo lịnh Đảng Cộng Sản Việt Nam dời trụ sở về 165E đường Cống Quỳnh Sài Gòn, gần Chợ Thái Bình, lấy danh xưng là “Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam” ngày 1-Giêng-Ất Tỵ (dl 1-2-1965). Mục đích được đề ra cơ quan là của toàn đạo do Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ định lập ra để tổ chức các phương cách phương pháp và phương châm với mục đích phổ thông và phổ biến trong nhơn sanh một giáo lý Cao Đài đã được sửa chửa làm sai lệch và lũng đoạn ....

    Một Ban Thường Vụ gồm có:

    - 1 Tổng Lý Minh Ðạo.

    - 1 Tham Lý Minh Ðạo.

    - 1 Tổng Thơ Ký được lập ra để điều hành, điều khiển Cơ Quan. Dưới đó có một số Văn Phòng Vụ Trưởng, các Ban Giáo Sĩ, Tu Sĩ...

    Tổng Lý Minh Ðạo, Hiệp Lý Minh Ðạo, Tham Lý Minh Ðạo và Tổng Thơ Ký là tứ trụ của Cơ Quan, mà 3 vị đứng đầu là những vị làm chánh sách và vạch đường lối, còn Tổng Thơ Ký là chấp hành.

    ( Trần Văn Quế đạo hiệu Huệ Lương là Tổng Lý Minh Ðạo, Ðỗ Vạn Lý đạo hiệu Minh Lý là Tham Lý Minh Ðạo, kiêm nhiệm Quyền Tổng Thơ Ký. Ðỗ Vạn Lý soạn Bản Qui Ðiều Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý và được phê chuẩn gọi là Thánh Dụ Qui Ðiều.)

    F. Vấn đề qui hiệp các Chi phái Cao Ðài:

    I. Các phong trào thống nhứt Chi phái:

    Kể từ năm 1936 đến trước ngày giải phóng 30-4-1975, nhiều tín đồ Cao Ðài có nhiệt tâm lo âu sự phân chia Chi phái của nền Ðại Ðạo nên đã đứng ra lập nhiều cơ quan vận động qui hiệp các Chi phái, mặc dầu không thành công nhưng cũng gây được tiếng vang tốt trong dư luận, xin lần lượt kể ra:

    ■ Năm 1936, một đàn cơ mà Liên Hoa làm đồng tử, dạy lập một tổ chức gọi là Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn đặt trụ sở tại Thánh Thất Cầu Kho. Một số vị được bầu vào Ban Chưởng quản: Ðốc phủ Nguyễn Văn Kiên làm Hội Trưởng, ông Cao Triều Phát làm Phó Hội Trưởng... nhưng tổ chức nầy không làm được việc gì vì nội bộ bất đồng ý kiến.

    ■ Cũng năm 1936, lại dạy quí vị: Nguyễn Phan Long, Ðoàn Văn Bản, Trần Quang Nghiêm, Trần Văn Quế, hợp nhau lập ra Liên Hòa Tổng Hội để tổ chức các cuộc Hội Long Vân vận động hòa hiệp các Chi phái. Liên Hòa Tổng Hội tổ chức được 12 Hội Long Vân, nhưng các Chi phái rất thờ-ơ trong việc hòa hiệp. Ơn Trên dạy Liên Hoà Tổng Hội phải giải nhiệm sau kỳ Hội Long Vân 12, vì Ơn Trên tiên tri rằng:

    Liên Hòa vị hiệp đạo lương vong,
    Lãnh tụ khâm sai họ nạn hồng.

    Hội Long Vân 12 tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài ở Hạnh Thông Tây Gò Vấp, ngày 15-12-Canh Thìn (1940) thì đệ nhị thế chiến sắp bùng nổ, ở Việt Nam quân đội Pháp bắt các lãnh đạo tôn giáo cầm tù và lưu đày.

    ■ Năm 1945, ông Cao Triều Phát lập Cơ Quan Cao Ðài Hiệp Nhứt, sau có ông Lê Kim Tỵ và Bùi Văn Nhàn tiếp nối, nhưng công việc không được nhiều người hưởng ứng.

    ■ Năm 1952, ông Nguyễn Bửu Tài cùng với quí ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Quế lập ra Cơ Quan Cao Ðài Qui Nhứt, nhưng cũng không qui tụ được bao nhiêu người.

    ■ Năm 1964, ông Trần Văn Quế lập ra Phái Ðoàn Thiện Tâm hướng về Tòa Thánh Tây Ninh, tiếp xúc với Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh thảo luận việc thống nhứt các Chi phái, được Toà Thánh Tây Ninh ủng hộ. Công việc thấy có kết quả bước đầu, nhưng sau đó không tiến thêm được.

    ■ Năm 1969, ông Phan Khắc Sửu (đạo hiệu Huỳnh Ðức) lại cầm đầu một Phái đoàn đông đảo gồm 72 đại diện một số Chi phái lên Tòa Thánh Tây Ninh họp để thảo luận vấn đề thống nhứt Chi phái. Ông Phan Khắc Sửu dùng uy tín bên Ðời và bên Ðạo của ông gây được một phong trào lớn, có tánh cách qui mô. Tòa Thánh Tây Ninh hợp tác thảo luận, đạt được một số nguyên tắc chung.

    ■ Năm 1972, Toà Thánh Tây Ninh cử Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa làm đại diện mời lãnh đạo các Chi phái họp tại Toà Thánh Tây ninh để tiếp tục bàn về sự qui hiệp các Chi phái. Ðược biết, trong Toà Thánh Tây Ninh, Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa có đại nguyện thống nhứt các Chi phái, nên Hội Thánh cử Ngài lo công việc thống nhứt nầy thì rất hợp với ý nguyện của Ngài.

    Các Chi phái hưởng ứng lời mời nên lên họp tại Tòa Thánh Tây Ninh rất đông. Hội nghị bước đầu đạt thỏa thuận gồm 5 điểm:

    Làm sáng tỏ danh Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn trong và ngoài nước, y theo Chơn truyền Luật pháp của Ðạo (Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

    - Tương thân tương trợ, tương ái tương liên trong phạm vi đạo đức.

    - Không làm Chánh trị, không lập Quân đội.

    - Bành trướng sâu rộng cơ phổ độ trong và ngoài nước, hiệp sức mở mang công việc văn hóa và từ thiện phục vụ nhơn sanh.

    - Tạm thời tôn trọng hệ thống tổ chức nội bộ của mỗi Chi phái cho tới ngày Ðức Chí Tôn phán đoán.

    Hội Nghị thành lập được một Hội Ðồng Vận Ðộng Thống Nhứt Ðại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà Ngài Hồ Tấn Khoa được bầu làm Trưởng Ban Thường Vụ Lâm thời.

    Hội Ðồng tổ chức được vài cuộc viếng thăm thân hữu trụ sở của vài Chi phái, rồi đến ngày giải phóng, Hội Thánh và các Cơ quan của Ðạo Cao Ðài ở khắp nơi đều bị giải thể.

    Qua các điểm vừa trình bày trên, chúng ta nhận thấy việc qui hiệp các Chi phái của Ðạo Cao Ðài, tuy có nhiều cố gắng của Tòa Thánh Tây Ninh và của một vài Chi phái, nhưng cuối không đạt được tiến bộ quan trọng nào.

    II. Mục Sư Olliver đạo Tin Lành, người Mỹ, khi nghiên cứu về Ðạo Cao Ðài có bày tỏ ý kiến sau đây:

    (dịch ra Việt văn)

    “Tôi rất buồn mà thấy rằng các Chi phái trong Ðạo Cao Ðài chỉ nói tốt cho mình mà hạ phẩm giá người khác. Ðiều đáng buồn hơn hết là mỗi Chi phái đều quá ư tự túc tự mãn và không hề nói đến sự thống nhứt, dù rằng đó là sự thống nhứt tinh thần.

    Một vài Chi phái khi nghe nói đến việc thống nhứt thì nghiễm nhiên tuyên bố: Ðấng Chí Tôn sẽ làm cho chúng tôi.

    Các Chi phái trong Ðạo Cao Ðài mà hiệp nhau lại được thì trước nhứt sẽ có lợi trong các Chi phái ấy và sau đó là lợi cho quốc gia Việt Nam của họ.

    Trước khi chờ Ðấng Chí Tôn làm giùm cho chư vị, thì chính chư vị phải cố gắng đứng lên làm một việc gì trước đã.”

    Lời phê bình và nhận xét của Mục Sư Olliver khá xác đáng để cho mỗi tín đồ Cao Ðài chúng ta quan tâm và suy nghĩ nhiều hơn. Họ là người ngoại quốc, nên cái nhìn rất khách quan, không thiên vị một bên nào. Nhưng thực sự ta nghe lòng xao xuyến và ái ngại vô cùng.!

    G. Tại sao các Chi phái không thống nhứt được?

    Ðây là một câu hỏi làm hoang mang rất nhiều người. Những người hành đạo đi sau có cảm tưởng dường như càng vận động thống nhứt, càng có sự dạy dỗ khuyên lơn, khuyến cáo của chư Thiêng liêng chừng nào thì chia rẽ lại càng trầm trọng chừng nấy.

    Có lẽ những người hành đạo đi sau bực tức hơn là hoang mang, bực tức cho sự việc, vì sự việc đã biến thành những chướng ngại vật cho sự tiến triển của cơ Ðạo mà mình muốn để vào một tay xây dựng....

    Ðức Chí Tôn chỉ trông cậy có một điều là thiệt lòng, là chơn thành mà thôi. Với Thầy, Thầy muốn ở các con cái của Ngài một tấm lòng hoà thuận, thương yêu, hiệp đồng cùng nhau trong một chủ nghĩa Đại-Đồng. Dù cả một cố gắng là Qui Tam giáo hiệp ngũ chi, tuy vậy mà còn dễ hơn là “Thống nhứt các Chi phái”.

    Hình như có một mặc cảm như thế nào ấy. Mong sao mỗi người tự ý thức mà dẹp lần những cái riêng tư, những nỗi xót xa nếu có, để cùng nhìn vào một chơn lý cao đẹp của Đạo Trời. Thầy đã ân cần nhắc nhở:

    “Chư sơn nghe dạy:

    Vốn từ Lục Tổ thì Phật Giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh Pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh Giáo, lập riêng pháp luật buộc mối Ðạo Thiền.

    Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để vậy, làm cho Phật Tông thất chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thiên Ðịa hoằng khai, nơi "Tây Phương Cực Lạc" và "Ngọc Hư Cung" mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi; tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu.

    Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo... Ôi! Thương thay! Công có công, mà thưởng chưa hề có thưởng; vì vậy mà Ta rất đau lòng.

    Ta đến chẳng phải cứu một mình chư tăng mà thôi; vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu vớt.

    Chư tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ Ðộ nầy là lần chót; phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật. Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo. Phép hành đạo Phật Giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến "Tả Ðạo Bàng Môn". Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào; cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây Phương mà cửa Tây Phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy. Ta đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây Ta cũng cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền. Chư tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn nữa.”
    NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

  2. #2

    Mặc định

    Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái
    (Tách rời Tây Ninh hoặc lập Chi phái )

    01- Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn (1864-1939) đã Bỏ Đạo.

    Hòa Thượng Như Nhãn, thế danh là Nguyễn Văn Tường, sanh năm 1864, con của ông Nguyễn Văn Bầu và bà Ðoàn Diệu Hoa, quê quán ở Ðức Hòa (Long An), đi tu từ năm 17 tuổi, qui y với Hòa Thượng Thích Trí Lượng (Minh Ðạt) trụ trì ở chùa Thiền Lâm Cổ Tự (xóm Chùa, tỉnh Tây Ninh), thọ Pháp danh là Thích Từ Phong.

    Nguyên vào năm Mậu-Tý (1888) tại vùng Phú Lâm Chợ-Lớn (đường Bà Kế, khu vực Chợ Gạo, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6) bà Hồ Thị Lộc có xây một ngôi chùa lớn, đặt tên là Chùa Giác Hải, bà giao cho ông Thủ Tọa Nguyễn Minh Sự coi sóc. Ông Sự mất năm 1908.

    Sư Thích Từ Phong về đây kế nghiệp, trụ trì Chùa Giác Hải. Năm 1912, Ngài Thích Từ Phong giữ chức Yết Ma và năm 1924 Ngài được phong chức Hòa Thượng, nên các Phật-tử tại vùng nầy thường gọi Ngài là Hòa-Thượng Giác-Hải.

    Trong lúc trụ trì ở chùa Giác-Hải, Hòa-Thượng Giác Hải có quyên góp tiền bạc trong bổn đạo để mua đất và lập một cảnh chùa tại vùng Gò Kén, Tây Ninh, lấy tên là Từ Lâm Tự (sau đổi lại là Thiền Lâm Tự). Chùa được xây dựng trên một khu đất gò rộng 4 mẫu, trên Quốc lộ 22 Sài-Gòn Tây-Ninh, từ lộ vô khoảng 200 mét và cách thị xã Tây-Ninh chừng 5 cây số, phía trước cất chùa, phía sau làm nghĩa địa.

    Trong số bổn đạo đóng góp tiền mua đất và xây chùa Từ Lâm ở Gò Kén, ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Bà Lâm Ngọc Thanh cũng có đóng góp tiền bạc vào nhiều hơn hết. Chùa mới vừa xây dựng xong phần chánh, chưa trang trí, chưa làm đường lớn từ quốc lộ vào chùa, không có Đông lang, Tây lang. Lúc đó là vào năm 1925.

    Vào giữa năm Bính-Dần (1926) ông bà Nguyễn Ngọc Thơ được Ðức Chí-Tôn thâu làm Môn đệ, nhập vào Ðạo Cao Ðài. Hai ông bà cũng muốn Ðức Chí Tôn thâu phục Hòa-Thượng Như-Nhãn, nên ông bà thuyết phục Hòa Thượng đến dự một đàn cơ cầu Ðức Chí Tôn tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân-Ðịnh. Ðức Chí Tôn giáng cơ thâu nhận Hòa Thượng Như Nhãn.

    Giữa tháng 7 năm Bính-Dần (1926) Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ.

    Sau đó, do sự yêu cầu của ông bà Thơ, Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm (Gò Kén) cho Ðạo Cao Ðài dùng làm Thánh Thất tổ chức Lễ Khai Ðạo.

    (Có lẽ trong thời gian xây dựng chùa Từ Lâm ở Gò Kén, Hòa thượng Giác Hải lấy hiệu là Như Nhãn).

    Ngày 29-7-Bính Dần (dl 5-9-1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí-Tôn giáng cơ ân phong là: Quảng Pháp Thiền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Thái.

    Ngày 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926) Ðại Lễ Khai Ðạo Cao Ðài được tổ chức long trọng tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh) có hằng vạn tín đồ Cao Ðài dự lễ, số quan khách ngoài đời cũng đến dự rất đông.

    Ðêm 14 rạng 15 tháng 10 âm-lịch, tổ chức đàn cơ trong Thánh Thất, Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt trấn pháp sót một cửa, nên thừa dịp nầy, quỉ nhập vào đàn, một con quỉ nhập vào ông Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, một con quỉ khác nhập vào cô Vương Thanh Chi xưng là Lê Sơn Thánh Mẫu, nói năng lộn xộn rồi nắm tay nhau nhảy múa, khiến cho nhiều người mới vào Ðạo Cao Ðài bị mất đức tin.

    Hòa Thượng Như Nhãn cũng bị mất đức tin. Mặc khác, số đệ tử của Hòa Thượng Như Nhãn yêu cầu Ngài bỏ Ðạo Cao Ðài và đòi chùa lại. Hòa Thượng Như Nhãn nghe theo và quyết định đòi chùa Từ Lâm, không hiến cho Ðạo Cao Ðài nữa, hẹn trong 3 tháng Ðạo Cao Ðài phải dời

    Ngày 19-11-Bính Dần, Hòa Thượng Như Nhãn bị thiêng liêng quở phạt làm cho đau nặng.

    Ngày 01-12-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ quở phái Thái và Hòa Thượng Như Nhãn, tỏ ý muốn phế bỏ phái Thái. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cầu xin Đức Chí Tôn tha thứ cho phái Thái và đừng bỏ phái Thái (phái Phật).

    Ðức Lý Giáo-Tông giáng cơ trục xuất Hòa Thượng Như Nhãn ra khỏi Ðạo Cao Ðài.Tháng 2 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo-Tông quyết định trả chùa Từ Lâm cho Hòa Thượng Như Nhãn và chỉ dẫn Hội Thánh tìm mua được 96 mẫu đất tại làng Long Thành (Tây Ninh) để dời các cơ sở của Ðạo về nơi đây, lập thành Tòa Thánh Trung ương của Ðạo Cao Ðài.

    Hòa Thượng Như Nhãn qui liễu vào ngày 5-12-Mậu Dần (dl 24-1-1939) hưởng thọ 75 tuổi. Tháp của Ngài được xây ngay trước Từ Lâm Tự (nay là Thiền Lâm Tự) Gò Kén (Tây ninh).

    Trên bia mộ có đề chữ Hán, dịch ra như sau đây:

    Ngài là Ðại Lão Hòa Thượng Thiền Tông Lâm Tế đời thứ 39.

    Ngày sanh: 15-3-Giáp Tý (1864).

    Ngày qui: 05-12-Mậu Dần (1939), thọ 75 tuổi.

    Tháp của Hòa Thượng Như Nhãn xây ở chính giữa, hai tháp hai bên là của hai vị: Hoà Thượng Minh Ðạt, thầy của Ngài Như Nhãn và Hòa Thượng Hồng Tằng, học trò của Ngài Như Nhãn.

    a/- Như Nhãn đòi Chùa nên toàn Đạo phải tìm mua đất làm Đền-Thánh:

    Sự diễn tiến:

    * Sau khi làm Lễ Khai Đạo tại chùa Từ Lâm (Gò Kén) ngày 15-10 Bính-Dần (dl 19-11-1926) chủ chùa Từ Lâm là Hòa-Thượng Như-Nhãn (Giác-Hải) đòi chùa lại, không hiến cho Hội-Thánh Cao-Đài nữa, kỳ hẹn trong 3 tháng buộc phải dời đi.

    * Ngày 19-1 Đinh-Mão (dl 20-2-1927) tại Từ Lâm Tự, Đức Lý Giáo-Tông giáng cơ quyết định trả chùa lại cho Hòa-Thượng Như-Nhãn, rồi dạy Hội-Thánh đi chọn mua đất cất Tòa-Thánh, phải chọn đất tại Tây-Ninh nầy mà thôi. Đức Lý xin mua đất nơi khác nhưng Đức Chí-Tôn không chịu, bởi vì Tây-Ninh là Thánh-địa, nơi đây phong thổ thuận tiện cho người ngoại-quốc đến học Đạo.

    * Ngày 20-1 Đinh-Mão (dl 21-2-1927) cũng tại Từ Lâm Tự, Đức Chí-Tôn giáng cơ xác định:

    “Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi”.

    Trước khi tìm mua đất thì Đạo Cao Đài làm Lễ Khai Đạo ngày 15-10 Bính-Dần (dl 19-11-1926) tại đây làm Thánh-Thất tạm, đặt tại Chùa Từ-Lâm (tục gọi là Chùa Gò Kén, Tây-Ninh).

    Nguyên ngôi chùa nầy do Hòa-Thượng Như-Nhãn (cũng gọi là Hòa-Thượng Giác-Hải) góp tiền bổn đạo mua đất và xây dựng nên. Kịp khi Đức Chí-Tôn giáng cơ mở Đạo, Đức Chí-Tôn dùng Huyền-diệu Cơ Bút độ được Hòa Thượng Như-Nhãn theo Đạo và trở thành một vị Chức sắc Đại-Thiên-phong của Đạo Cao-Đài, nên Hòa-Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ-Lâm cho Hội-Thánh Cao-Đài làm Thánh-Thất, tổ chức Lễ Khai Đạo. Nhưng sau ngày Lễ Khai Đạo, Hòa-Thượng Như-Nhãn một phần bị mất Đức tin, một phần bị nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ xúi giục và hăm dọa, Hòa-Thượng Như-Nhãn không theo Đạo Cao Đài nữa và đòi chùa lại, không hiến cho Hội Thánh.

    Hội-Thánh Cao-Đài phải trả chùa lại cho Ông Như Nhãn và hứa trong 3 tháng sẽ tìm đất mới để dọn đi.

    “Kể từ Rằm tháng 10 năm Bính-Dần (1926) tới Rằm tháng Giêng Đinh-Mão (1927) là đúng kỳ hứa trả chùa Từ Lâm (Gò Kén) là 3 tháng, nhưng tới tháng 2 năm Đinh-Mão, đã quá kỳ hạn 1 tháng mà Hội Thánh chưa trả chùa lại được, vì chưa kiếm được đất để mua, còn Ông Hòa Thượng Giác Hải thì cứ đòi chùa lại hoài.”

    (Đạo-Sử I /51)

    Vì sự đòi Chùa ấy nên Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy tại chùa Gò-Kén ngày 19-1 Đinh-Mão (dl 20-2-1927):

    “Ngày nay Lão nhứt định chùa nầy trả lại. Xong trước khi trả, phải cất Thánh Thất cho xong y như lời dạy. Chư Đạo hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi, vì là Thánh địa. Vả lại phong thổ thuận cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Đạo. Lão muốn nơi khác mà Đức Chí Tôn không chịu.

    Thượng Trung Nhựt ! Phải làm thế nào chừa đất dư ra ít nữa là 50 mẫu là trọn cả bản đồ Bạch Ngọc Kinh và cho đủ Thánh địa ấy. Hiền hữu đi chọn đất về cho Lão hay, cầu khẩn Chí Tôn nghe !”

    (Trích Đạo-Sử. II/ 222)

    Hôm sau, cũng tại chùa Gò Kén, ngày 20-1 Đinh Mão (Dl 21-2-1927) Đức Chí-Tôn giáng dạy như sau :

    “Các con nghe! Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh địa. Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh dạy dỗ dân vô đạo, Thầy ban quyền thưởng phạt, đặng răn làng ấy cho đến ngày chúng nó biết ăn năn cải quá. Vậy thì Làng Long Thành, các con khá an lòng.

    Còn Tòa Thánh thì muốn để cho có nhơn lực hiệp cùng Thiên ý là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước. Từ Thầy đến lập Đạo cho đến giờ, Thầy chưa hề một mình chuyên quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội Thánh vừa lòng thì là đẹp lòng Thầy.

    Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi.

    Các con đã hiểu Thánh ý Thầy, phải cần kiệm mỗi sự chi về phương tiện mà thôi.

    Thơ! Thầy giao cho con góp tư bổn trong một tháng cho rồi, dặn các em con rằng: “Danh thể Đạo nơi Tòa Thánh, nghe à !”. Sau Thái Bạch sẽ dạy con kiểu vở.

    Cẩm Giang thì các con phải chịu khổ về phần ăn uống, Bén Kéo thì địa thế hẹp hòi, chớ chi các con khôn ngoan lấy cớ rằng: vì ích lợi lương sanh, vì đạo đức mà ký Chánh phủ cho các con mé rừng Cấm bên kia đường thì đẹp lắm. Các con liệu thử!

    Thơ! Suối Vàng thì đặng, phương chuyên chở không thuận tiện, song phong thổ tốt đẹp. Con cũng yêu cầu Hội Thánh xét nét, nghe à ! Thầy ban ơn cho các con."

    (ĐS. II. 223) & [TNHT. I. 98]

    Tiếp theo, cũng tại chùa Gò Kén, ngày 21-1 Đinh Mão (Dl 22-2-1927) Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy tìm đất Thánh Địa:

    “Thượng Trung Nhựt! Thái Thơ Thanh! Cười! Nhị vị Hiền hữu muốn cho Đạo phải mang tiếng rằng: Trốn lánh hay sao mà tính dời Tòa-Thánh xa dữ vậy hử? Tỷ như Lão muốn lập Tòa Thánh gần bên thành binh, chư Hiền hữu tưởng sao?

    - Trung bạch: Có hai làng cúng đất.

    - Mua thì đặng, khó gì! Một nơi chí Thánh trước mắt mà chư Hiền hữu chẳng biết xem, ấy cũng còn hai phần phàm.

    Thái Thơ Thanh! Lão cậy Hiền hữu một phen nữa, mai nầy đi lên đường trên gọi là đường dây thép, nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ, coi Hiền hữu thấy đặng chăng cho biết.

    Lão đã nói rằng: Mỗi sự chi đều bày trước mắt nhơn sanh hết. Chư Hiền hữu đừng sợ ai hết, hễ sợ thì chối quyền Thiêng liêng của Chí Tôn thì còn gì Đạo! nghe à !" (Đạo-Sử. II./ 224)

    b/- Đức Hộ-Pháp nói về việc mượn chùa Từ Lâm của Hoà Thượng Giác Hải

    “Đức Chí Tôn nói “chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi”. Ngó lại thấy hiện tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ Lâm Tự của nhà Thiền tức của Hòa Thượng Giác Hải làm mới nửa chừng, họ muốn cho mượn đặng lợi dụng mình làm cho xong. Xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền Đời quyền Đạo xúm lại đè nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá trị, đòi chùa lại, đuổi đi.

    Thật vậy, họ đuổi đi, phải đi cấp thời, mua được đất Long Thành ngó lại toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ. Như thế ấy mà nói chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức tin không vững chắc còn có nước trốn mà đi. Một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức tin một chút nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương lai sẽ như thế nào? Nếu nên thì mình theo, bằng không nên thì đả đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì thương chúng sanh kính trọng con cái Đức Chí Tôn đem đức tin để trọn vẹn nơi Ngài lo lắng cho tương lai của nhơn sanh, tự hỏi: nếu lời hứa của Đức Chí Tôn không thành tựu thì Đạo Cao Đài thành sao đặng, vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả nhiệt huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí Tôn đem cả đức tin thực hiện cho thành tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn loại mà hy sinh tạo nghiệp. Bần Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh mạng về gởi rừng nầy nơi nước độc bệnh chướng, nhìn lại Thánh Địa biết bao nhiêu mồ mã, biết bao xương máu.”


    02- Ngài Ngô Văn Chiêu (1878-1932) (Bỏ Toà Thánh tách ra lập Chiếu Minh vô vi)

    A-

    1. Bên lề cuộc sống của Ngài Ngô văn Chiêu:

    Ngày 29-03-Bính Dần (Thứ hai: 10-5-1926) Đức Thượng Đế giáng Cơ dạy Đức Hộ-Pháp:

    - Tắc! lập tức đi ngay đến nhà Trung có việc cần kíp!

    Dù đêm đã khuya, nhưng lịnh của Đức Chí-Tôn, Ngài phải thi hành, đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Lê-văn Trung ở số 39 đường Quai Testard Chợ-lớn. Đến nơi, vài phút sau thì cụ Ngô-văn-Chiêu cũng đến. Xuống xe, cụ tỏ vẻ đau đớn dường như không tự đi đứng được, hai Ngài Trung và Tắc phải dìu cụ vào nhà. Cụ Chiêu tiết lộ:

    - Năm 1919 nơi đảo Phú Quốc, Đức Chí-Tôn thâu nhận cụ làm Đệ-tử và dạy đạo cho. Cụ Ngô đã ước hứa với Thầy là “sẽ truyền Đạo của Thầy để cứu đời”. Nay vì phong trào cầu Cơ của quí vị tiền khai Đại-Đạo đã thu hút cả hàng thượng lưu trí thức cùng cả giới nông, công, thương, nghèo hèn, khiến cho chánh quyền thực dân Pháp lo ngại nên gây áp lực buộc cụ Chiêu phải lấy tư cách người Anh Cả của nhóm đệ tử đầu tiên phải ra lịnh cho tất cả: ngưng việc cầu cơ ! Chấm dứt việc chúng sinh cầu Đạo Nếu không tuân lịnh chúng sẽ cho Ngài nghỉ việc và truy tố ra Toà về tội “Không chấp hành lời cam kết” phải bồi thường “Ngân khoản đào tạo”. Những án phạt vừa kể, Cụ Chiêu còn có thể chịu đựng được, nhưng chúng còn doạ là cắt học bổng của con cháu cụ đang du học bên Pháp và cấm cả việc chuyển ngân của gia đình cho con cháu nữa. Do vậy mà lời phát nguyện khi xưa của cụ với ông Thầy Trời khó mà thực hiện được.

    Cụ Ngô văn Chiêu mới sở cậy Ngài Lê-văn-Trung ra gánh vác việc Đạo trong tương lai. Sau cùng Cụ Chiêu quyết định làm theo sự đòi hỏi của người Pháp. Cụ Chiêu đã chủ trương câu “Ngô thân bất độ hà thân độ” (thân tôi chưa độ được thì làm sao độ người).

    Bấy giờ Cụ Chiêu tách ra khỏi nhóm Đệ-tử tiền khai Đại-Đạo ở Toà-Thánh Tây-ninh và tự lập ra Chi-Phái Chiếu Minh và tu vô vi.

    Phái nầy do Ngài Ngô Văn Chiêu lập ra vào đầu năm 1927, sau khi Ngài đã bị truất ngôi Giáo-Tông, lúc đầu gọi là Cơ Tuyển Ðộ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi ở tại Châu Thành Cần Thơ. Sau khi Ngài Chiêu đăng Tiên thì ông Tư Huỳnh lãnh đạo.

    Phái Chiếu Minh chuyên về Nội giáo Vô Vi, Tâm pháp bí truyền luyện đạo, nên lựa chọn và thâu nhận rất ít tín đồ, hoạt động hạn hẹp ở ba nơi: Cần Thơ (Tổ đình), Phú Quốc và Sài Gòn. Hiện nay Phái Chiếu Minh lại phân ra: Chiếu Minh Long Châu và Chiếu Minh Ðàn.

    2- Tiểu sử Ngài Ngô Văn Chiêu:

    Ngài Ngô Văn Chiêu, sanh ngày 7 tháng Giêng năm Mậu-Dần (dl 8-2-1878) tại Bình Tây, Chợ Lớn, thân mẫu là bà Lâm-Thị-Quí và thân phụ là ông Ngô-Văn-Xuân thuộc dòng dõi quan Thị Lang của triều đình Huế.

    Khi Ngài Chiêu được 6 tuổi, ông bà thân của Ngài tìm được việc làm ở Hà-Nội nên đem Ngài gởi cho người em ruột là bà Ngô Thị Đây ở Mỹ Tho. Bà Đây có chồng là người Hoa, mở tiệm thuốc Bắc tại xã Điều Hòa, cạnh nhà việc, thuộc Mỹ Tho.

    Ngài Chiêu ở với cô ruột và được cô cho đi học, đến năm 12 tuổi thì nhờ người quen cũ của cha bảo lãnh xin vào học nội trú tại Collège Mỹ Tho. Sau đó Ngài lên Sài Gòn học tại trường Chasseloup Laubat và đậu bằng Thành Chung năm Ngài được 21 tuổi.

    Ngày 23-3-1899, Ngài Ngô Văn Chiêu được nhận vào làm Thơ ký tại Sở Tân Đáo Sài Gòn.

    Ngài theo sự hướng dẫn của người cô ruột, kết hôn với bà Bùi Thị Thân, người làng Thạnh Trị, đang làm nghề buôn bán tại chợ Mỹ Tho. Ông Bà sanh được cả thảy 9 người con, cả trai lẫn gái.

    Ngày 1-1-1903, Ngài Ngô Văn Chiêu được đổi về tùng sự tại Dinh Thượng Thơ (Bureau du Gouvernement de Cochinchine).

    Ngày 1-5-1909, Ngài được đổi xuống làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh Tân An.

    Ngày 1-1-1917, Ngài đậu Tri Huyện, vẫn tiếp tục làm công chức tại Tân An. Ngài mua một căn nhà lá tại thị xã Tân An, sửa lại thành ba gian lợp ngói và đưa cả gia đình gồm vợ con về sống nơi căn nhà nầy.

    Đầu năm 1920, Ngài Chiêu buồn rầu vì thân mẫu mới mất nên Ngài xin đổi đi Hà Tiên.

    Ngày 1-3-1920, Ngài được đổi xuống Hà Tiên, làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh Hà Tiên được 8 tháng thì Ngài được chuyển ra làm Chủ Quận Phú Quốc ngày 26-10-1920 và làm việc tại đây được 4 năm.

    Ngày1-1-1924, Ngài được thăng lên ngạch Tri Phủ.

    Ngày 30-7-1924, Ngài được đổi về Sài Gòn, làm việc tại Phòng Thương Mại trong Dinh Thống Đốc Nam Kỳ.

    Ngài Ngô Văn Chiêu mướn nhà ở nhiều nơi, nhưng sau rốt Ngài đến ở lầu 2 nhà số 110 đường Bonard (nay là đường Lê Lợi) Sài Gòn.

    Năm 1931, Ngài Ngô Văn Chiêu 54 tuổi, Ngài xin nghỉ làm công chức, lui về an dưỡng ở Cần Thơ.

    Trên bước đường làm quan cho nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ đang cai trị Nam Kỳ, Ngài Ngô Văn Chiêu nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chánh trực, công bình. Đối với bạn đồng liêu, Ngài rất khiêm tốn, ôn hòa. Đối với dân chúng, Ngài rất thân dân, hết lòng giúp đỡ, nhưng không bao giờ thọ lãnh lễ vật hay tiền bạc đền ơn đáp nghĩa. Lúc làm Chủ Quận, khi gặp nghi án thì Ngài chẳng nề khó nhọc, điều tra cho ra manh mối để tránh cho người dân bị hàm oan hay bị ức hiếp.

    Lúc Ngài ở Phú Quốc, Ngài đã biết Đạo rồi, nên khi gặp những vụ thưa kiện, Ngài thường khuyên giải cả đôi bên giải hòa cùng nhau, khi hai bên chẳng chịu thì Ngài làm tờ giải lên tỉnh Hà Tiên.

    3- Quá trình Ngài Chiêu ngộ Đạo Cao Đài:

    Việc ở Tòa Hành Chánh tỉnh Tân An thì phong trào cầu cơ thỉnh Tiên cũng đang chớm nở tại đó. Ngài rất ngưỡng mộ, nên hợp tác với các bạn thân gồm quí ông: Đoàn Văn Kim (Một Kim), Lê Kiển Thọ (Bộ Thọ), Trần Phong Sắc, Nguyễn Văn Vân, tạo thành một nhóm cầu cơ, xin những bài thuốc chữa bịnh. Trong nhóm chọn ông Trần Phong Sắc làm Pháp đàn, ông Thọ làm đồng tử, Ngài Chiêu làm độc giả, ông Vân làm điển ký (ghi chép bài cầu cơ). Nhà Ngài Chiêu có thờ Đức Quan Thánh và Quan Âm Bồ Tát, nhà ông Thọ thì thờ Bát Tiên.

    Vào ngày rằm âm lịch mỗi tháng, Ngài Ngô Văn Chiêu đều tổ chức cầu cơ tại nhà của Ngài. Bài kinh cầu cơ lấy trong kinh Vạn Pháp Qui Tông, nhờ mấy đứa trẻ nhỏ, tắm rửa sạch sẽ, quần áo tươm tất, làm đồng nhi tụng kinh.

    Cuối năm 1917, thân mẫu của Ngài Chiêu lâm trọng bịnh, Ngài phải xuống đàn Cái Khế ở Cần Thơ để cầu xin thuốc cho mẹ uống. Ơn Trên giáng cơ cho bài thuốc, Ngài đem về cho mẹ uống thì mẹ Ngài hết bịnh, mạnh được vài năm. Sau đó thì mẹ Ngài bị bịnh trở lại, Ngài Chiêu trở xuống đàn Cái Khế cầu xin thuốc cho mẹ nữa, Ơn Trên chỉ giáng dạy đạo lý chớ không cho thuốc. Ngài vì quá thương mẹ nên đi lên đàn cơ ở Thủ Dầu Một xin thuốc một lần nữa.

    Ông Trần Hiển Vinh chủ đàn Minh-Thiện ở Thủ Dầu Một có thuật lại rằng: Bữa ấy, Ngài Ngô Văn Chiêu cùng ông Phủ Kim đến hầu đàn. Ông Kim quì ở trong, Ngài Chiêu quì ở góc ngoài. Khi Đức Quan Thánh giáng cơ, liền gọi tên Ngài Ngô Văn Chiêu và cho 4 câu thi, đại ý nói vườn thuốc của Phật Tổ đã bị trốc gốc. Qua bài thi nầy, Ngài Chiêu biết số mệnh của mẹ Ngài không qua khỏi. Đến cuối năm 1919 thì Bà từ trần.

    1/. Đấng Cao Đài Tiên Ông giáng cơ xưng danh lần đầu tiên:

    Đầu năm 1920, vài tháng trước khi Ngài Chiêu có lịnh đổi xuống Hà Tiên, Ngài được lịnh bề trên bảo chỉnh đốn việc cầu cơ thỉnh Tiên.

    Ông Trần Phong Sắc vẫn làm Pháp đàn, hai đồng tử là: ông Nguyễn Văn Vân ngồi đồng dương và ông Lê Kiển Thọ (Bộ Thọ) ngồi đồng âm, Ngài Chiêu làm độc giả, ông Đoàn văn Kim làm điển ký.

    Đồng nhi đọc bài kinh cầu cơ đến câu:

    Ngũ chơn bửu khí lâm triều thế,
    Giá hạc đằng vân xiển tự nguyên.

    Liền có một vị Tiên Ông nhập cơ viết xưng là Cao Đài Tiên Ông, cơ gõ mạnh bảo ông Trần Phong Sắc sửa lại hai câu ấy. Ông Sắc vốn là nhà Nho sành sỏi, liền trả lời một cách ngang ngang có vẻ bất kính: “Bài thỉnh cơ nầy đã có cả trăm năm nay từ Trung quốc truyền qua, ai dám cho là sái, nay Tiên Ông bảo sửa, vậy trật hay sao?”

    Tiên Ông quơ cần cơ đập vào đầu ông Sắc vì tội vô lễ, ông Sắc sụt lẹ xuống né khỏi, kế Cao Đài Tiên Ông kêu Ngài Chiêu bảo sửa. Ngài Chiêu liền sửa và bạch rằng:

    “Bửu chơn Ngũ khí lâm triều thế”.

    Tiên Ông khen Ngài Chiêu sửa trúng.

    Kể từ đó, ông Sắc không làm Pháp đàn nữa. Cả nhóm không biết Cao Đài Tiên Ông là ai, nhưng Ngài Chiêu thì đoán rằng, Đấng ấy là Thượng Đế, nên mới dám sửa kinh đời xưa.

    2/. Thời gian tùng sự tại Hà Tiên:

    Vừa làm tuần bá nhựt (100 ngày) cho thân mẫu xong thì Ngài Ngô Văn Chiêu được giấy đổi đi Hà Tiên.

    Lúc đó, ở Hà Tiên cũng có quí ông: Đốc phủ Sự, Lâm Tấn Đức, Nguyễn Thành Diêu, ông Phán Ngàn, lập thành nhóm cầu cơ thỉnh Tiên, nhưng năm lần bảy lượt mới có Tiên giáng. Khi Ngài Ngô Văn Chiêu xuống tới đó, Ngài liền gia nhập nhóm cầu cơ nầy, thì lạ thay, khi Ngài Chiêu nguyện vái, đọc bài cầu cơ, thì có Tiên giáng liền.

    Những buổi cầu cơ lúc đó tổ chức trên núi Thạch Động.

    Một vị Tiên Cô xưng là Ngô Kim Liên giáng cho Ngài hai bài thi tứ tuyệt có ý khuyên Ngài tu hành:

    Văng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu,
    Rằng Trời cùng Đất vẫn xa mù.
    Non Tây ngảnh lại đường gai góc,
    Gắng chí cho thành bực trượng phu.

    Ngần trăng tỏ rõ giữa trời thu,
    Cái cảnh Tây phương vẫn mịt mù.
    Mắt tục nào ai trông thấy đấy,
    Lắm công trình mới đúng công phu.

    3/. Lúc làm Chủ Quận Phú Quốc:

    Trong thời gian làm Chủ Quận Phú Quốc, Ngài Ngô Văn Chiêu thường lên núi Dương Đông cầu cơ thỉnh Tiên. Trước nhứt Ngài cầu ở Chùa Quan Âm. Ngài thường đi với cô Ba Lan là em bạn dì và mấy người hầu đàn như: Hương Hào Khâu, ông giáo Mẫn, ông Hương Đa, Biện Tý, Ba Đồng, bà năm Vàng, bà phủ Phẩm, Hội Đồng Phanh, với năm ba đứa nhỏ sạch sẽ theo làm đồng tử. Độc giả thì có: Hai Huỳnh, Tư Xuân, Tư Ngưng, Ba Nguơn, Năm Nhơn, Mười Đức, ...

    Ngài Chiêu đã cầu Tiên nhiều lần, nhưng có một vị Tiên Ông giáng cơ chẳng chịu xưng tên, biểu Ngài Chiêu làm đệ tử thì Tiên Ông sẽ dạy Đạo cho và bảo đừng tụng kinh Minh Thánh nữa.

    Bữa kia, Tiên Ông giáng bảo Ngài lo tu và ăn chay thêm cho đủ 10 ngày trong một tháng. Ngài nghĩ bụng: Mình đang làm quan, nay người nầy mời, mai người kia thỉnh, nếu chịu ăn chay 10 ngày rồi, sau rủi quên ăn mặn thì có tội với Trời Phật. Nhưng nếu theo lời dạy của Tiên Ông mà có kết quả thì cũng ráng ăn. Nếu ăn chay 10 ngày mà chết cũng bị luân hồi thì thà ăn chay 2 ngày trong tháng còn hơn, miễn là mình lo tu nhơn tích đức, chẳng làm gì trái lương tâm thì thôi. Ngài nghĩ trong trí như vậy, định khi gặp Tiên Ông giáng cơ thì bạch rõ.

    a) Đàn cơ mùng 1-1-Tân Dậu (dl 8-2-1921) tại Chùa Quan Âm, Phú Quốc.

    Tiên Ông giáng cơ. Ngài Chiêu chưa kịp bạch hỏi Tiên Ông điều chi thì cơ viết:

    "Chiêu! tam niên trường trai.”

    Tiên Ông bảo như thế làm cho Ngài rất bối rối, bởi vì Ngài chưa chịu ăn chay 10 ngày, mà nay Tiên Ông bảo ăn chay trường ba năm thì lâu quá, chẳng biết có chịu nỗi không. Ngài Chiêu liền bạch với Tiên Ông, xin Tiên Ông bảo lãnh, nếu đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có ấn chứng chi mới được.

    Tiên Ông bảo cứ giữ y lời dạy thì đệ tử sau sẽ hiểu rõ. Ngài Ngô Văn Chiêu bắt đầu ăn trường chay và học đạo kể từ ngày đó: Mùng 1 Tết năm Tân Dậu (1921).

    b) Thờ Thiên Nhãn:

    Một bữa kia, Tiên Ông dạy Ngài Ngô Văn Chiêu phải tạo ra một dấu hiệu chi để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập.

    Tiên Ông nói: Chữ Thập cũng được, song đó là dấu hiệu riêng của một nền đạo đã có rồi. Phải suy nghĩ tìm cho ra, có Tiên Ông giúp sức.

    Ngài xin hoãn lại một tuần lễ để suy nghĩ. Mãn tuần rồi mà Ngài vẫn chưa tìm ra.

    Một buổi sáng lối 8 giờ, Ngài đang ngồi trên võng sau dinh quận, bỗng Ngài thấy trước mặt, cách chừng hai thước, hiện ra một con Mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời. Ngài lấy làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn, đợi chừng nửa phút, Ngài mở mắt ra thì vẫn thấy con Mắt ấy mà lại càng chói sáng hơn nữa. Ngài bèn chấp tay vái rằng:

    - Bạch Tiên Ông, đệ tử biết rõ huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì.

    Vái xong thì con Mắt lu dần và biến mất.

    Thấy như vậy rồi, nhưng Ngài Ngô Văn Chiêu vẫn chưa thiệt tin, nên chưa vẽ hình Thiên Nhãn để thờ.

    Cách vài ngày sau, Ngài Chiêu cũng thấy Thiên Nhãn hiện ra y như trước. Ngài vái sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ thì con Mắt tự nhiên biến mất.

    Sau khi thấy Thiên Nhãn hai lần rồi, Ngài cầu cơ xin Tiên Ông dạy cách thờ phượng. Tiên Ông dạy vẽ con Mắt như đã thấy để thờ và Tiên Ông xưng là: “CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT ”.

    Tiên Ông dạy Ngài Chiêu gọi Tiên Ông bằng Thầy và kể từ ngày đó, Ngài Ngô Văn Chiêu chánh thức làm đệ tử đầu tiên của Đấng Thượng Đế.

    Ngài nguyện với Đấng Cao Đài: “Nếu độ cho tôi thành Đạo thì tôi sẽ độ lại chúng sanh tùy theo phước đức của mỗi người.”

    c) Cảnh Bồng Lai:

    Lúc ấy Ngài Ngô Văn Chiêu đã tu theo Cao Đài Tiên Ông đã được 3 năm. Một bữa kia, Đấng Cao Đài Tiên Ông giáng cơ khen Ngài tu kỹ và ban cho đặc ân muốn chi thì Thầy ban cho.

    Ngài Ngô Văn Chiêu bạch rằng:

    - Bạch Thầy, nghe nói cảnh Bồng Lai xinh đẹp vô cùng, Thầy có thể cho đệ tử thấy cảnh ấy không?

    Cơ gõ mạnh một cái chớ không viết câu trả lời.

    Cách ít lâu sau, vào một buổi chiều cuối tháng Giêng năm Giáp Tý (1924) Ngài Chiêu ra hứng mát ở mé biển, Ngài trèo lên một hòn đá lớn ngoài Dinh Cậu, ngồi ngó ra biển, sóng dợn ba đào. Bỗng Ngài thấy giữa chỗ trời nước giáp nhau, lộ ra một cảnh thật là xinh đẹp, cảnh nầy vừa khuất thì hiện ra cảnh khác cũng xinh đẹp không kém. Sau cùng Ngài thấy một cảnh rất đặc biệt, trên có Thiên Nhãn, sổ ngay xuống một hàng có Nhựt, Nguyệt, Tinh đẹp đẽ vô cùng. Ngài ngồi xem mê mẩn, được chừng 15 phút thì cảnh ấy mờ dần rồi biến mất.

    Sau đó, Ngài Chiêu cầu cơ thì Đức Cao Đài Tiên Ông cho biết, đó là cảnh Bồng Lai theo như lời Ngài ước nguyện muốn thấy để nung chí tu hành.

    Khi Ngài Chiêu sắp đổi về Sài Gòn, Đức Cao Đài Tiên Ông giáng cơ ban cho Ngài bài thi sau đây:

    Kín ngoài rồi lại kín trong,
    Đường xa phong cẩn thưởng lòng để vui.
    Công đầu chịu cực đừng lui,
    Thiên tào thăng thưởng đạo mùi ngọt ngon.

    Ba năm lòng sáng như son,
    Trèo non xuống biển vuông tròn công phu.
    Chớ phiền mỏi mệt lòng tu,
    Trăng kia mây vẹt, Đường Ngu gặp hiền.

    Mựa toan vụ thấy Thanh Thiên,
    Các đào rõ biết mối truyền chánh tông.
    Giờ nầy Thầy điểm thâm công,
    Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên.

    Ngoài trong sạch tợ bạch liên,
    Khá lòng gìn giữ mối giềng chớ xao.
    Chiêu chiêu nguyệt thấu thanh thao,
    Trên đầu cũng có Thiên Tào xét xem.

    Thấm mùi con biết lân nem,
    Đề hồ con uống Thầy xem ân cần.
    Đạo luyện khắc kỷ phục thân,
    Chiêu con khá giữ, Thầy phân cạn lời.

    Thầy lại dạy rằng:

    - Con đổi về Sài Gòn, đồng tử không theo con được. Vậy con phải rót một ly rượu, con uống phân nửa, còn phân nửa thì cho đồng tử uống, gọi là lễ tiễn biệt nhau.

    Ngài làm y theo lời dạy. Lúc đó đồng Ngưng đang mê mà đôi hàng nước mắt chảy tuôn tỏ nỗi đau lòng kẻ ở người đi. Thấy vậy, Ngài Chiêu cũng khó cầm giọt lệ.

    4. Thời kỳ làm việc ở Sài Gòn:

    Ngài Ngô Văn Chiêu được lịnh đổi về Sài Gòn,

    Ngài rời đảo Phú Quốc ngày 29-7-1924, Ngài về đến Sài Gòn vào chiều ngày hôm sau 30-6-GiápTý (dl 30-7-1924).

    Ngài thuê nhà ở lầu 2 số nhà 110 đường Bonard (nay là đường Lê Lợi) Sài Gòn. Mỗi ngày đi làm việc hai buổi tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ, Ngài thường lui tới Chùa Ngọc Hoàng ở Dakao, ít giao thiệp với người ngoài, dành thì giờ công phu.

    Cuối năm Ất Sửu (1925), Đức Cao Đài Tiên Ông dạy Ngài Chiêu đem mối đạo truyền ra. Ngài độ được 4 vị:

    - Quan Phủ Vương Quan Kỳ

    - Ông Phán Nguyễn Văn Hoài

    - Ông Phán Võ Văn Sang

    - Đốc học Đoàn Văn Bản.

    Ông Vương Quan Kỳ sau khi vào Đạo lại khuyên được 5 ông sau đây cùng vào Đạo:

    - Ông Nguyễn Thành Cương

    - Ông Nguyễn Thành Diêu

    - Ông Nguyễn Hữu Đắc

    - Ông Lê Văn Bảy, tự Tý.

    - Ông Võ Văn Mân.

    5. Đức Chí Tôn lập thêm một nhóm Phò cơ khác:

    Trong lúc đó, vào hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925) một nhóm công chức tại Sài Gòn, do sự thúc đẩy của thiêng liêng, đã họp nhau Xây bàn thỉnh các vong linh để tìm hiểu về thế giới vô hình. Nhóm nầy gồm quí Ngài:

    - Cao Quỳnh Cư

    - Phạm Công Tắc

    - Cao Hoài Sang

    - Cao Quỳnh Diêu.

    Quí ông khởi xây bàn tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa gần chợ Thái Bình Sài Gòn. Có nhiều Đấng vô hình giáng bàn để tạo cho quí ông niềm tin. Sau đó, Đấng Thượng Đế tá danh AĂÂ giáng bàn độ được 4 ông vào Đạo và gọi Đấng AĂÂ bằng Thầy và Đấng ấy gọi quí ông là Môn đệ.

    Thất Nương giáng dạy quí ông dùng Ngọc Cơ để cầu Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng cho được dễ dàng và mau lẹ hơn.

    Đêm Trung Thu năm Ất-Sửu (dl 1-10-1925) quí Ngài thiết lễ Hội Yến Diêu trì Cung tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, số 134 đường Bourdais Sài Gòn, có Đức Phật Mẫu cùng với Cửu vị Tiên Nương Diêu trì Cung giáng chứng lễ và mỗi Đấng cho một bài thi bốn câu làm kỹ niệm.

    Đến ngày 1-11-Ất Sửu (dl 16-12-1925) Đức Phật Mẫu dạy ba Ngài: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang Vọng Thiên cầu Đạo.

    Đêm Noel năm 1925 (âl 10-11-Ất Sửu) Đấng AĂÂ mới cho biết Ngài là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế.

    Ngày 05-12-Ất Sửu (dl 18-1-1926) Đức Chí Tôn dạy hai Ngài Cư, Tắc đem Ngọc cơ đến nhà Ngài Cựu Hội Đồng Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung để Thầy độ ông Trung.

    Lúc bấy giờ, nhóm phò cơ nầy được 7 vị:

    - Ông Cao Quỳnh Cư

    - Ông Phạm Công Tắc

    - Ông Cao Hoài Sang

    - Ông Cao Quỳnh Diêu.

    - Ngài Lê Văn Trung

    - Ngài Nguyễn Trung Hậu

    - Trương Hữu Đức.

    Nhóm nầy chưa biết gì về nhóm của Ngài Ngô Văn Chiêu, nên chưa có liên lạc hay tiếp xúc.

    6. Sự hợp tác giữa hai nhóm:

    Ngày 9-12-Ất Sửu (dl 22-1-1926) Đức Chí Tôn dạy quí Ngài: Cư, Tắc, Sang, Trung, Hậu, Đức, phải đến chung hiệp với Quan Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo. Ngài còn dạy thêm rằng: Mỗi mỗi việc chi phải do nơi Chiêu là Anh Cả.

    Khi hai nhóm hợp lại thì tổng cộng được 13 vị, là:

    1- Ngô Văn Chiêu. 2- Lý Trọng Quí.
    3- Lê Văn Giảng. 4- Võ Văn Sang.
    5- Nguyễn Văn Hoài. 6- Đoàn Văn Bản.
    7- Vương Quan Kỳ 8- Lê Văn Trung.
    9- Cao Quỳnh Cư 10- Phạm Công Tắc.
    11- Cao Hoài Sang 12- Nguyễn Trung Hậu.
    13- Trương Hữu Đức.
    Đêm 30-12- Ất Sửu là đêm giao thừa, sắp bước qua năm mới Bính-Dần, Đức Chí Tôn khiến quí Ngài trong hai nhóm đến thăm từng tư gia của mỗi Môn đệ. Tại mỗi nhà, Đức Chí Tôn giáng ban cho một bài thi, tới khuya, gần đúng giao thừa thì đến nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn.

    Tại nhà Ngài Lê Văn Trung, Đức Chí Tôn giáng dạy:

    “Chư đệ tử nghe!

    Chiêu, buổi trước hứa lời truyền Đạo cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ mối Đạo, dìu dắt cả Môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó.

    Ông Chiêu bạch hỏi Đức Chí Tôn:

    - Qua đến năm 1933 thì Đạo mới lập thành?

    Đức Chí Tôn đáp: - Phải.

    Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo.

    Bản, Sang, Giảng, Quí, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo.

    Đức, Hậu, tập cơ, sau theo mấy anh con mà độ người. Nghe và tuân theo."

    Đó là lời Thánh giáo đầu tiên của Đức Chí Tôn tại đàn cơ nơi nhà Ngài Lê Văn Trung, kỹ niệm ngày Khai Cơ Phổ Độ của Đạo Cao Đài. Đó là giờ Tý ngày 01 tháng Giêng năm Bính-Dần (dl 13-2-1926).

    Đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (đêm thứ Bảy rạng Chúa nhựt 21-2-1926), Lễ Vía Đức Chí-Tôn được tổ chức tại nhà Ngài Vương Quan Kỳ ở đường Lagrandière, các Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn hiện diện đầy đủ, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo.

    Nhân dịp nầy, Ngài Ngô Văn Chiêu bạch xin Đức Chí Tôn lấy tên của mấy Môn đệ mà cho một bài thi làm kỹ niệm.

    Đức Chí Tôn liền cho một bài thi tứ tuyệt:

    CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
    BẢN đạo khai SANG, QUÍ, GIẢNG, thành.
    HẬU ĐỨC TẮC CƯ Thiên Địa cảnh,
    Huờn Minh Mân đáo thủ đài danh.

    Đức Chí Tôn có 13 môn đệ đầu tiên nhưng Đức Chí Tôn chỉ điểm danh 12 vị, vì chữ SANG là tên của hai ông: Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang.

    Huờn Minh Mân là tên của ba vị hầu đàn.

    7. Đức Chí Tôn dự bị phong Ngài Ngô Văn Chiêu vào chức Giáo-Tông:

    Thánh giáo ngày 6-3-Bính Dần (dl 17-4-1926) Đức Chí Tôn dạy như sau:

    “Thầy,

    Trung, Cư, Tắc, ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng, trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng, có chữ CÀN ☰ thêu bằng chỉ vàng, dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt. Mão cũng vậy, áo cũng vậy.

    Hiếu lại phải nhọc công nữa, Thầy giao phần may sắm cho con, con liệu cho kịp, rằm phải có nghe con. Hiếu lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu mão cho con coi.

    Madame Cư bạch Thầy: Mitre (mão Giáo-Tông).

    Trước ngực, ngay trán phải để chữ cung CÀN chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái áo, con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.

    Nghe và tuân theo nghe con." (ĐS. I. 106)

    Tái cầu:

    Mừng sắp con! Hiếu quì bạch Thầy dạy may áo mão Giáo-Tông bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào?

    - Thầy sẽ nhứt định mọi việc.

    Thầy dạy: Mão bề cao 3 tấc 3 phân thước Lang-sa, may giáp mối lại thế nào cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp, ấy là Âm Dương tương hiệp, Hiếu biết mà!

    Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có hai dải thòng xuống một mí dài, một mí vắn, mí dài 3 tấc. Giáo-Tông: Thảo hài.

    Tái cầu:

    Có tạo đỡ một cái Mão bằng giấy dựng lên cho Thầy xem. Cười! Đặng phải vậy, ba con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí giáp mối, con coi theo cây viết mà làm theo. Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra nghe con! Con giỏi lắm Hiếu! Hai dải thòng xuống vai 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang. Phải vậy rồi!.

    Cư, để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may Mão Giáo-Tông).

    Ngày 22-4-1926 (âl 11-3-Bính Dần), tức là 5 ngày sau khi Đức Chí Tôn ra lịnh cho Bà Hương Hiếu (hiền thê của Ông Cư, nên gọi là Madame Cư) may Thiên phục Giáo-Tông cho Ngài Ngô Văn Chiêu, Bà Hương Hiếu dâng mão Giáo-Tông lên cho Đức Chí Tôn xem kiểu vở may như vậy có đúng không.

    Đức Chí Tôn giáng cơ nói:

    “Hiếu dâng mão Giáo-Tông may xong rồi cho Thầy xem. Trúng, mà ai đội, con phòng lật đật”.

    Đức Chí Tôn giáng cơ nói như thế, tức nhiên chúng ta ngầm hiểu là Ngài Ngô Văn Chiêu đã mất chức Giáo-Tông.

    Tại sao chỉ trong vòng 5 ngày từ 17 đến 22-4-1926 mà lại có sự thay đổi nhanh chóng như vậy? Đức Chí Tôn không cho biết tại sao, làm cho nhiều người phân vân, nghĩ rằng Ngài Ngô Văn Chiêu cải lịnh Đức Chí Tôn, muốn ở nhà tu tịnh, không muốn tham gia vào cơ phổ độ đông người làm mất sự yên tịnh của Ngài, hay còn lý do nào khác nữa?

    Mãi đến gần 3 tháng rưỡi sau, Đức Chí Tôn mới tiết lộ cho biết trong đàn cơ ở Tân Định, tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ, lý do tại sao Ngài Ngô Văn Chiêu mất chức Giáo-Tông.

    Xin chép bài Thánh giáo quan trọng nầy ra sau đây.

    Ngày 25-6-Bính Dần (Dl 3-8-1926):

    NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
    Giáo Đạo Nam Phương.

    “Chư môn đệ nghe dạy:

    Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ, Chưởng quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.

    CHIÊU, thiệt là Nhứt Phật đó.

    Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo-Tông cho nó, thì Chúa Quỉ sai tam thập lục động địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng

    Ta. Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo-Tông cho nó.

    Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó và phải để cho Tam thập lục động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.

    Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị Tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.

    Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải tịnh thất.

    Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục động khảo nữa thì mới liệu sao? Ta phải giáng cơ biểu nó.

    Con Thơ! con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe. Kẻ bị tù còn có thế rỗi ai chăng?

    Chư Môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của

    Thầy.” Thầy thăng.

    (Trích trong tập Thánh Ngôn chép tay của Ngài Đầu-Sư Thái Thơ Thanh, trang 237)

    Ngày 9-1 Bính-Dần (dl 21-2-1926)

    Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban cho Ông Chiêu bài thơ:

    THI

    Bao năm dạy-dỗ quá dày công.
    Lời hứa năm xưa gắng giữ lòng.
    Siêu đọa đôi đường tua chọn lấy.
    Lơi chơn một bước sẽ hoàn không

    Cao Đài

    Theo Đạo-sử của bà Đầu-Sư Hương-Hiếu

    (Ngày 21-10 Bính-Dần (dl 26-11-1926)

    Thầy nói:

    “Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương của Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm-trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật biết sao cứu rỗi cho đặng.

    “Thầy lại phải làm thinh cho kẻ thì mất lẽ công bình. Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha-thứ. Thầy thì đặng còn chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao? Nhất là Thái-Bạch Kim Tinh rất khó. Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi. Các con chớ dễ ngươi mà phạm thượng nghe à!”.

    Trước đó thì chư Môn-đệ đồng quì lạy Thầy xin thứ tội cho ông Chiêu.

    Ông Vương-Quan-Kỳ bạch hỏi Thầy:

    -Bạch Thầy: Anh Cả Ngô-Văn-Chiêu bảo Thầy giao cho Ảnh thay Thầy làm Chủ mối Đạo, dạy-dỗ Môn Đệ mà Ảnh không chịu tiếp xúc với chúng con, phải làm sao?

    Ngày 13-3 Bính-Dần (dl 24-4-1926 ) trích Đạo-sử bà Hương Hiếu trang 109

    Đức Chí-Tôn dạy:

    “Chiêu đã có công tu, lại là Môn-đệ yêu dấu của Thầy nên Thầy muốn ban chức Giáo-Tông cho nó, song vì lòng ám-muội phạm đến oai-linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy mà dạy-dỗ các con”.

    Tái cầu:

    “Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn-loại là dường nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội-hiệp cùng nhau, thương-yêu nhau trong đạo-đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia-lìa các con là đứa thù-nghịch của Thầy.

    “Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp: Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục, độ rỗi nó trước các con. Biết bao phen Thầy gom các Môn-đệ lại. Thầy sở cậy nó ấp-yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con. Song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách-nhiệm rất lớn của Thầy toan phú-thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó. Nghe và tuân mạng lịnh Thầy”.

    Thầy dạy (đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính-Dần (25 và 26-4-1926):

    “Chiêu, thiếu đức, thiếu tài.

    “Trung, con sợ ai?

    “Ta không sợ ai! Ta biết hơn ngươi. Ta há không biết thương sao ?

    “Ấy cũng vì thiếu đức. Nó đã biết Ta. Cứ tuân lời Thầy đã truyền mà thi-hành !

    Ngày 26 Avril 1926:

    Cao-Đài:

    “Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh Ta, Ai kiên? Ta chờ ngươi.

    “Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh Ta, ai thừa lịnh?

    “Ta đã nói ngươi làm đầu Tam-giáo, đã bao phen Ta lập Đạo sẵn cho, ngươi chê há? Ta đã sở định, ngươi dám cải:

    “Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa,
    “Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
    “Sám-hối Ta cho tu ít tháng.
    “Tài hay, tài khéo chớ đua lừa.

    Qua bài Thánh Ngôn nầy của Đức Chí Tôn, chúng ta biết được là Ngài Ngô Văn Chiêu bị Quỉ Vương thử thách trước khi được lên ngôi Giáo-Tông. Ngài bị thử thách và chỉ trong 5 ngày, Ngài không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương bày ra, nên đành chịu mất ngôi Giáo-Tông.

    Sự thử thách của Quỉ Vương là cần thiết đối với Giáo-Tông là phẩm vị số 1 của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nếu thắng nỗi Quỉ Vương thì bọn chúng mới chịu phục, còn không thắng nỗi thì phải chiụ mất ngôi.

    Việc nầy cũng không khác chi thời Đức Chí Tôn sai Đức Chúa Jésus mở Thiên Chúa giáo nơi nước Do Thái để cứu độ các sắc dân Âu Châu.

    Sau khi Đức Chúa Jésus thọ phép Giải oan nơi bờ sông Jourdain với Thánh Jean Baptiste, Thượng Đế đưa Đức Chúa Jésus đến nơi đồng vắng đặng chịu cho ma quỉ cám dỗ trong 40 ngày đêm (trong 40 ngày nầy Ngài kiêng ăn, sau thì đói). Quỉ Satan tìm mọi cách thử thách Chúa, cám dỗ Chúa, nhưng không lay chuyển nỗi tâm ý của Chúa. Chúng ma quỉ thất bại bèn bỏ đi. Liền đó có Thiên sứ đến hầu Đức Chúa.

    Chúa Jésus chiến thắng Quỉ Vương, nên Chúa trở thành Đấng Giáo chủ, đi giảng đạo và thâu nhận tín đồ, mở ra Thánh đạo ngót hai ngàn năm nay.

    8. Ngài Ngô Văn Chiêu tách riêng lập Chi phái:

    Sau khi Ngài Ngô Văn Chiêu không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương thì 2 ngày sau, tức là ngày 24- 4-1926, Ngài Chiêu tự ý tách ra khỏi nhóm.

    Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, trong quyển Đại Đạo Căn Nguyên, nơi trang 18, thuật lại như sau:

    “Ông Trung vẫn vâng theo Thánh ý lo thiết đàn giảng Đạo. Ông Chiêu lại ở nhà lo bề tự giác, ý ông không muốn truyền bá mối Đạo ra cho nhiều người. Ông vẫn lấy câu “Ngô thân bất độ hà thân độ” mà làm tôn chỉ. Vì vậy mà ông tách riêng ra kể từ ngày 14 tháng 3 năm Bính-Dần (dl 24-4-1926). Đồng một ý kiến ấy thì có mấy ông: Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quí.

    Từ đây, tuy đôi bên chủ nghĩa khác nhau, vì một đàng (Ông Lê Văn Trung) thì lo phổ thông mối Đạo, một đàng (Ông Ngô Văn Chiêu) lại chuyên bề tự giác, nhưng về phương diện tín ngưỡng thì cũng đồng thờ kỉnh Đức Cao Đài Thượng Đế.”

    9. Ông Ngô văn Chiêu Lập Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi:

    Đầu năm Đinh Mão (1927), Ngài Ngô Văn Chiêu cho những người bạn cũ của Ngài biết là Ngài đã xong nhiệm vụ trong Cơ Phổ Độ và Ngài còn đảm đang một sứ mạng quan trọng khác là lập Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, gọi tắt là Chiếu Minh Vô Vi. Ngài đổi chữ lót trong tên Ngài thành chữ Minh và kể từ đây gọi Ngài là Ngô Minh Chiêu.

    Cách tu của Ngài Ngô Minh Chiêu thật là khổ hạnh.

    Ngài đi làm công chức ngày hai buổi, hết giờ làm việc thì lo công phu tứ thời, vì vậy mà Ngài không có thời giờ rảnh.

    Số người tìm học Đạo Vô Vi cũng khá đông, nhưng Ngài chỉ lựa vài chục người đệ tử chánh thức thôi, bởi vì việc tu hành của Ngài rất khó, phải có can đảm và bền chí lắm mới theo nỗi. Người tu phải trường chay, tuyệt dục, lập đại thệ đại nguyện với Đấng Thượng Đế. Chừng nào Thượng Đế cho phép (xin keo) thì Ngài mới dạy Đạo cho. Hễ tu thì phải có gan chịu khảo (!), “vô ma khảo bất thành Đại Đạo”. (!).

    10. Những cuộc du lịch sau cùng của cuộc đời:

    a) Du lịch núi Tà Lơn và Đế Thiên Đế Thích:

    Tháng 4 năm Mậu-Thìn (1928), Ngài Ngô Minh Chiêu xin phép nghỉ làm việc 6 tháng. Ngài tổ chức một cuộc du lịch lên núi Tà Lơn và Đế Thiên Đế Thích ở nước Cao Miên. Số đệ tử đi theo Ngài khá đông, chừng 30 người, có các ông: Hội Đồng Huy, Tư Huỳnh, Phán Quí,... Trước khi đi, Ngài ghé Cần Thơ. Ngày khởi sự đi là 13-6-1928, hai ngày sau thì tới Hà Tiên, ghé chùa Tiên Sơn Tự ở Thạch Động để nghỉ ngơi.

    Hôm sau Ngài đi qua núi Tà Lơn nước Cao Miên. Ngày 18-6-1928, Ngài tới chùa Kim Cang ở Đế Thiên Đế Thích. Đi du lịch Đế Thiên Đế Thích xong thì phái đoàn trở về Sài Gòn.

    Khi hết hạn nghỉ 6 tháng, Ngài Ngô Minh Chiêu trở lại làm việc trong Dinh Thống Đốc Nam Kỳ như trước.

    b) Đi du lịch Lục tỉnh:

    Chuyến thứ nhứt, Ngài Ngô Minh Chiêu đi qua các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre.

    Chuyến thứ nhì Ngài đi các tỉnh: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Chuyến đi nầy có Ông Bà Tư Huỳnh, Bà Hai Ngữ, Cô Ký Út, Ông Bà Hội Đồng Huy, đồng Ngưng.

    c) Du lịch núi Tà Lơn lần thứ hai:

    Cuối năm 1931, Ngài bị mệt nhiều nên xin phép Chánh phủ cho nghỉ ở nhà dưỡng bịnh.

    Ngày 30-3-1932, Ngài đi núi Tà Lơn với ý định bỏ xác nơi đây, nên không muốn trở về. Các đệ tử đi theo hết sức khẩn khoản, Ngài mới chịu trở về.

    Bận đi về, Ngài ghé Cần Thơ vào ngày 5-3-Nhâm Thân (dl 10-4-1932) và Ngài ở luôn tại Cần Thơ cho tới ngày liễu đạo. Tại Cần Thơ, Ngài không chịu ở nhà của ai hết, các đệ tử cất cho Ngài một thảo lư cách Châu Thành Cần Thơ chừng 3 cây số để cho Ngài ở. Ngài dạy phải làm bằng cây, lợp lá đơn sơ thôi, vì chỉ tạm dùng chừng một tuần nhựt. Trong lúc cất thảo lư, Ngài tạm ở tại cái am của Bà Tư Huỳnh kế bên.

    11. Liễu đạo trên sông Cửu Long Tiền Giang:

    Ngài Ngô Minh Chiêu thường nói rằng, Đức Chí Tôn đã định cho Ngài bỏ xác trên sông Cửu Long, nên mới có câu:

    “Giờ nầy Thầy điểm thâm công,
    “Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên.

    Ngày 13-3 Nhâm-Thân (Dl 18-4-1932) sáng ra, Ngài nhắc chừng bà Tư Huỳnh lo giùm xe cộ để Ngài về Tân An và cứ nói hoài câu: Sợ trễ giờ. Bà Tư Huỳnh (tức là bà Trần thị Hường) rất kính mến Ngài nên cứ dần dà muốn lưu Ngài ở lại.

    Thấy vậy, Ngài biểu mời ông Hội Đồng Võ Văn Thơm vô. Ngài nói với ông Thơm bằng tiếng Pháp để mấy Bà nghe lén không hiểu, chỉ thấy ông Thơm vâng dạ luôn. Đến khi ông Thơm về đem xe hơi vô thì các bà bàn tán xôn xao. Ngài nói: Đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa.

    Lúc ấy cô năm Ngô Thị Nguyệt, con gái của Ngài Chiêu, hỏi Ngài:

    - Cha muốn đi về Tân An phải không?

    Ngài cười rồi bảo: - Cha đi bí mật.

    Đúng giờ Ngọ ngày 13-3-Nhâm Thân, Ngài triệu tập tất cả đệ tử hiện diện công phu. Sau giờ công phu, anh đồng Ngưng cõng Ngài ra xe, đi theo có Bà Thơm, Bà Tư Huỳnh, Cô năm Nguyệt và anh đồng Ngưng. Ngài ngồi một mình ở giữa băng sau, Bà Tư Huỳnh và Bà Thơm ngồi sụt xuống dưới chân Ngài. Da mặt và mình mẩy của Ngài Chiêu từ từ đổi ra màu vàng như nghệ.

    Xe chạy đến bến phà Cần Thơ. Qua phà, rồi chạy qua Vĩnh Long đến bến phà Mỹ Thuận. Bà Tư Huỳnh vào mua vé qua phà, xe xuống phà Mỹ Thuận xong, phà chạy ra gần đến giữa sông thì Ngài Ngô Minh Chiêu xuất thần thoát xác một cách êm ái, các đệ tử đi cùng xe hầu Ngài không ai hay cả. Tới chừng công nhân trên phà Mỹ Thuận nhìn vào xe thấy biết, tri hô lên thì mấy Bà mới hay, vội yêu cầu phà quay trở lại.

    Thế là Ngài Ngô Minh Chiêu liễu đạo trên sông Cửu Long y như lời Đức Chí Tôn tiên tri, lúc 3 giờ chiều ngày 13-3 Nhâm Thân (dl 18-4-1932), hưởng được 55 tuổi

    Xe hơi chở Ngài quay trở lại, vừa lên khỏi phà thì gặp xe của ông Tư Huỳnh và Hội Đồng Huy vừa đến. Tất cả đều quay trở lại thảo lư tại Cần Thơ, đem xác Ngài đặt ngồi tại thảo lư. Lúc bấy giờ da thịt của Ngài trở lại trắng và con mắt trái của Ngài bắt đầu mở to ra, có đủ tinh thần như khi còn sống, còn con mắt bên mặt thì nhắm lại như thường.

    Các đệ tử mới nghiệm lại thấy rằng, Ngài Ngô Văn Chiêu biết rõ ngày giờ liễu đạo của Ngài, nên Ngài bảo cất Thảo lư tạm bằng cây lá dùng trong một tuần nhựt, rồi Ngài nói đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa.

    12. Đám tang Ngài Ngô Minh Chiêu:

    Nguyên lúc sanh tiền, Ngài Chiêu có dặn các đệ tử, khi Ngài liễu đạo rồi, phải dùng cái áo quan hình lục giác mà liệm ngồi. Lục giác là theo lục tự Cao Đài: NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG. Áo quan lục giác có bề kính tâm lối 8 tấc, cao lối 1 thước 2 tấc. Tất cả công việc khâm liệm đều do các đệ tử thân tín tự tay đảm nhiệm. Tháp của Ngài được xây ngay phía sau thảo lư và miếng đất nầy về sau trở thành Nghĩa Địa của phái Chiếu Minh tại Cần Thơ.

    Có rất đông tín đồ Cao Đài đến viếng tang. Quan khách đời đến viếng tang khá đông. Báo chí ở Sài Gòn cũng có xuống chụp hình làm phóng sự đăng báo, thông tin đại chúng.

    Đám tang của Ngài Ngô Minh Chiêu rất đơn giản, an tịnh, không có nhạc lễ, cũng không đọc kinh chi hết, vì Ngài đã dạy trước rằng: “Lúc sanh tiền, mỗi ngày đều có cầu cho Ngài rồi, Ngài đã biết Ngài là ai, khi chết Ngài sẽ đi đâu, nên khỏi đọc kinh cầu nguyện cho Ngài”

    B- NGÀI NGÔ MINH CHIÊU GIÁNG CƠ:

    Sau khi Ngài Ngô Minh Chiêu thoát xác về Tiên được 17 ngày, Ngài giáng cơ tại đàn Thất Bửu Sơn ở Châu Đốc, đêm 30-3-Nhâm Thân (dl 5-5-1932).

    NGÔ kỳ huỳnh liễu đắc thành công,
    VĂN thượng Thiên đình lý luật đồng.
    CHIÊU dắt nhơn sanh cơn kiếp khổ,
    GIÁNG tường cho rõ hiểu hồn vong.

    Chào các hiền đệ. Hiểu ai chăng?

    Nay tôi đã từ trần, trong lúc Đạo còn đang nghịch lẫn nhau là bởi nơi đâu? Các hiền đệ có hiểu chi chăng? Cũng bởi vì tiền tài nó hại nhơn sanh.

    Thầy có ban cho tôi làm một vị Tiên đồng độ chúng. Nay tôi vâng lịnh Thầy giáng đàn mà dạy anh em lúc khổ nầy:

    KỆ

    Qui liễu cõi trần đặng thảnh thơi,
    Gẫm trong sự thế ngán cho đời.
    Kiếp nầy lao khổ sau chung hưởng,
    Trời Đất hết lòng giáng khắp nơi.

    Tôi kính lời thăm huynh Nguyện và Bần đạo Lắm đặng an vui nền Chánh Lý mà hiểu rõ Thiên cơ.

    Tôi mới học được bài phú vắn, nên tôi để lại cho chư Hiền hữu rõ biết:

    PHÚ

    Trời xoay chuyển nên lương tâm người giục khiến,
    Cho nhơn sanh thuyết diễn trần lao.
    Chung trí Đạo Thầy mà giúp kẻ đồng bào,
    Nay tôi đặng kết giao cùng Tiên, Thánh, Phật.
    Sao chư hiền không lo bồi công âm chất,
    Giúp cho Thầy, cất Thất cho Thầy,
    Tôi qui liễu là bởi như vầy,
    Hết kiếp trần oan dây theo ràng buộc.
    Tôi tuổi nầy mà đi xem cõi hồng trần soi đuốc,
    Dẫn nhơn sanh dắt tuốt Thiên đình,
    Công mở Đạo là tại tỉnh Tây Ninh,
    Người bởi quấy nên nhơn tình không đầu phục.
    Thương Tổ đình nên theo một lúc,
    Hại nhơn sanh cui cút tu hành.
    Kính ít lời thăm Nguyện và Lắm,
    Gắng chí Đạo cho thành,
    Tôi dời bước lưu danh cho anh em hậu thế.

    Tôi chào Hiền huynh, cho tôi kiếu.

    THĂNG.

    C- Phần kết:

    Ngài Ngô Văn Chiêu là vị Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn, được Đức Ngài yêu ái nhứt. Đức Chí Tôn đã để ra một khoảng thời gian dài, suốt 5 năm, từ năm 1921 đến năm1925 để dạy Đạo cho Ngài, truyền Bí pháp luyện đạo cho Ngài. Ngài thường được Đức Chí Tôn khen là chăm chỉ công phu, rồi Đức Chí Tôn cho Ngài thấy cảnh Bồng Lai theo lời yêu cầu của Ngài để khích lệ việc tu hành.

    Chưa có một Môn đệ nào được Đức Chí Tôn yêu mến đến mức độ ấy. Mục đích của Đức Chí-Tôn là rèn luyện Ngài trở nên người đạo đức hoàn toàn, đắc đạo thành Tiên, Phật tại thế, để giao chức Giáo-Tông cho Ngài làm Anh Cả nhơn sanh, thay mặt Đức Chí Tôn đứng ra mở đạo và dìu dắt nhơn sanh.

    Công ơn của Đức Chí Tôn đối với Ngài Ngô Văn Chiêu thật vô cùng to tát.

    Thế mà kỳ vọng của Đức Chí Tôn sụp đổ, vì Ngài không vượt qua được cơ thử thách của Quỉ vương, nên Đức Chí Tôn không thể giao chức Giáo-Tông cho Ngài

    Có một điều đáng tiếc là Ngài Ngô Văn Chiêu không dám tiết lộ cho bạn Đạo biết là Ngài vượt qua không nỗi các cuộc thử thách khảo đảo của Quỉ vương, khiến nên nhiều người không biết, tưởng lầm là Ngài Ngô Văn Chiêu chống lại mạng lịnh của Đức Chí Tôn, không chịu nhận chức Giáo-Tông.Thậm chí đến nhiều phái cho rằng Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt soán ngôi Giáo-Tông của Ngài Chiêu và từ hiểu lầm này đến hiểu lầm khác và nhất là hoang mang trong giới hậu sinh.

    Đức Chí Tôn đặt trọn vẹn sự tin tưởng nơi Ngài Ngô Văn Chiêu, nên không dự bị một vị nào khác để thay thế. Do đó, khi Ngài Chiêu bị rớt trong cuộc khảo đảo của Quỉ vương, thì Đức Chí Tôn phải chuyển pháp, giao chức Giáo-Tông cho Đức Lý Thái Bạch Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm. (Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ)

    Việc mở chi phái Chiếu Minh là một lối thoát cho tinh thần của Ngài Ngô Văn Chiêu lúc đó, chắc chắn không phải là do ý muốn có dự định trước của Ngài, nhưng việc đó lại mở đường cho một số Chức sắc khác khi bất mãn Hội Thánh, tách ra lập Chi phái như quí ông: Phối Sư Ca, Giáo Hữu Chính...Có lẽ vì những lý do đó mà Ngọc Hư Cung rút Ngài Ngô Văn Chiêu về thiêng liêng khá sớm (Ngài Chiêu qui liễu năm 1932), khiến nên Ngài giáng cơ than rằng:

    “Giáo lý của Ngài truyền lại cho phái Chiếu Minh còn dở dang thiếu sót, làm cho tín đồ phái Chiếu Minh đi vào con đường độc thiện kỳ thân”…

    Tất cả những người theo Ngài phải tách rời khỏi Trường thi công quả phụng sự nhơn sanh do Đức Chí Tôn lập ra. Đạo Cao Đài không có một Giáo-Tông mang xác phàm, Đức Chí Tôn buộc lòng giao cho Đức Lý Thái Bạch kiêm nhiệm chức Giáo-Tông Đại Đạo. Do đó, sự điều hành việc Đạo của Đức Lý phải nhờ nơi Cơ bút của Hiệp Thiên Đài nên không được nhanh chóng và kịp thời. Thế nên, Đức Lý Giáo-Tông, trong Đạo Nghị Định thứ nhì ngày 3-10-Canh Ngọ (1930), ban cho Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) cầm quyền Giáo-Tông tại thế, để điều hành cơ Đạo hữu hình, còn nhiệm vụ Giáo-Tông Vô Vi vẫn do Đức Lý Giáo-Tông nắm giữ.

    Do đó, toàn Đạo Cao Đài gọi Ngài Thượng Trung Nhựt là Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung.

    Kể từ đó tới nay, Đạo Cao Đài chỉ có một Giáo-Tông là Đức Lý Thái Bạch và một Quyền Giáo-Tông tại thế là Ngài Lê Văn Trung. Tất cả những vị nào khác xưng danh là Giáo-Tông, hay Đệ nhứt Giáo-Tông, Đệ nhị Giáo-Tông... đều là tiếm xưng cả. Và chúng ta thấy rõ, Ngài Ngô Văn Chiêu khi về cõi thiêng liêng, trở lại giáng cơ, chỉ xưng tên họ của Ngài, chớ không bao giờ Ngài dám xưng là Giáo-Tông. (Tham khảo thêm tài liệu Tự điển Cao-Đài của Hiền tài Hồng)

    03. Ngài Vương Quan Kỳ (1880-1940)

    (Bỏ Đạo tách ra lập phái Cầu-kho)

    Năm Mậu-Thìn (1928):

    Do áp lực của thực dân Pháp “muốn theo Cao-Đài thì tự lập chi phái, còn theo anh Lê văn Trung sẽ bị Pháp khủng bố”. Nhóm đàn Cầu kho có quí ông Vương quan Kỳ, Đoàn văn Bản, Nguyễn văn Kinh, Nguyễn văn Đạt, Lê văn Giảng, Ngô tường Vân, Nguyễn văn Mùi... chủ trương dùng văn chương hoằng khai Đại Đạo, phổ độ. Họ thành lập Cơ quan ngôn luận “La Revue Caodaisme” xuất bản bán nguyệt san gồm ba thứ chữ: chữ Việt, chữ Hán và chữ Pháp, cứ nửa tháng ra một số phát hành ra nhiều nước trên thế giới như Trung Hoa, Anh, Pháp, Đức, Ý, Bĩ…quảng bá chơn truyền, luật pháp, giáo lý ra nước ngoài. Nhóm này lập thành phái Đạo Cầu kho.

    Phái Cầu Kho do Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) đứng đầu, qui tụ được các ông: Giáo Sư Thượng Bản Thanh (Ðoàn Văn Bản), ông Nguyễn Văn Tường, Trần Quang Mính, Nguyễn Văn Khai... Phần lớn số trí thức Cao Ðài ở Sài Gòn đều ngã theo phái Cầu Kho.

    Ông Vương Quan Kỳ là Ðốc phủ, được Ngài Ngô Văn Chiêu độ, sau được Ðức Chí Tôn phong phẩm Thượng Giáo Sư .

    Nguyên năm 1930, số Chức sắc tại Thánh Thất Cầu Kho do ông Kỳ cầm đầu, không tuân lịnh Hội Thánh Tây Ninh thi hành quyển “Nghi Tiết Ðại Ðàn Tiểu Ðàn” do Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân biên soạn, trình lên Ðức Phạm Hộ-Pháp, rồi chuyển qua Cửu Trùng Ðài, Hội Thánh xem xét đồng ý thì Ðức Quyền Giáo-Tông ban hành kể từ ngày 12-7-1930 để áp dụng thống nhứt trong toàn Đạo.

    Trong quyển nầy, Ngài Bảo Văn Pháp Quân bỏ ba bài Dâng Tam bửu cũ do Ngài Ngô Văn Chiêu đặt ra đã áp dụng trước đây, thay bằng ba bài Dâng Tam bửu mới mà ngày nay chúng ta thường đọc. Quí Chức sắc ở Cầu Kho không chịu áp dụng các nghi tiết mới ban hành, nên quí Ngài tự tách ra lập thành Chi phái Cầu Kho, lấy Thánh Thất Cầu Kho làm trụ sở. Về sau, Thánh Thất nầy dời đến đất mới gần đó, xây dựng lên đặt tên là Thánh Thất Nam Thành, ở đường Nguyễn Cư Trinh Sài Gòn

    * Phần đời: Tri phủ Sở thuế thân:

    Ông Vương Quan Kỳ (1880-1940) là con của ông bà Vương Quan Ðể và Huỳnh Thị Bảy, người tỉnh Chợ Lớn, cháu nội Thống Chế Vương Quan Hạc. Ông ngoại là nhà Nho yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), đậu cử nhân, làm quan hai triều Minh Mạng và Tự Đức, rồi từ quan khi nhà Nguyễn ký Hòa ước 1862 với Pháp.

    Ông Kỳ học tại trường Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung (Diplôme), làm việc tại Dinh Thống Ðốc Nam Kỳ, ngạch Tri phủ, bạn cùng sở với Ngài Ngô Văn Chiêu nên được Ngài Chiêu độ theo Ðạo Cao Ðài.

    Ông Kỳ là em ruột của Vương Quan Trân. Ông Trân là cha ruột của Cô Vương Thị Lễ Thất Nương Diêu Trì Cung (tức là chú của Vương Thị Lễ). Nhà riêng của ông Kỳ ở tại số 80 đường Lagrandière, sau đổi lại là đường Gia Long, Quận Nhứt, Sài Gòn.

    * Phần Đạo: Giáo Sư của Tòa-Thánh Tây-Ninh:

    Ông Vương Quan Kỳ là một trong 12 Môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn được Thiên phong Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh ngày 14-5-Bính Dần (1926).

    Năm 1930, ông Vương Quan Kỳ cùng các Chức sắc nơi Thánh Thất Cầu Kho tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, lập ra Chi phái Cầu Kho, hành đạo riêng, không theo hệ thống Toà Thánh Tây ninh.

    Bài thơ Đầu tiên Đức Chí-Tôn cho Ông Vương Quan-Kỳ như vầy:

    Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
    Niên đáo tân hề đạo dữ tân.
    Vô lao công quả tu đương tác,
    Niên quá niên hề Đạo tối tân.

    Ông có Pháp-tịch, thuở nhỏ học ở Mỹ-Tho rồi trường Chasseloup Laubat, đậu Thành Chung, làm quan tới Phủ sứ, thọ phong Giáo-Sư ngày 26-4-1928.

    Ngày 15-3 Bính-Dần ông được phong chức Tiên đắc Lang quân nhậm Thuyết đạo Giáo-sư. Rồi ông được Thiên-phong Giáo-sư phái Thượng, tức là Thượng-Kỳ Thanh ngày 14-5 Bính-Dần.

    Nhưng đến ngày 14-11 Bính-Dần (18-12-1926) thì Đức Lý giáng dạy:

    “Thượng-Kỳ-Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu. Như không tuân lịnh xuất ngoại”

    Đến ngày 18-11 Bính-Dần (22-12-1926)

    Đức Lý dạy:

    “Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu viết thơ cho mấy Thánh-Thất lục tỉnh nói Thượng-Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn-đệ chẳng quyền-hành truyền Đạo nữa. Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt Tả đạo bàng môn thì chịu, nghe à! Đã lập pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên-điều tránh sao cho khỏi tội. Hộ-Pháp Hiền-hữu khá an lòng.”

    Qua ngày 28-11 Bính-Dần (1-1-1927) thì:

    Đức Lý giáng dạy:

    “Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu từ đây coi Thượng Kỳ-Thanh như một Môn-Đệ vậy thôi, chứ chức Giáo-Hữu cũng cất luôn nữa. Thầy để lời xin tha mà pháp-luật đã phạm tha sao cho được”.

    Vào năm 1930, Giáo-Sư Thượng Kỳ-Thanh tức là Vương-Quan-Kỳ, không tuân lịnh Toà Thánh Tây-Ninh áp dụng nghi lễ mới, nên tách ra lập phái Cầu-kho, lập tại Thánh-Thất Cầu-Kho.

    Trong Con Ðường Thiêng Liêng Hằng Sống, Ðức Hộ-Pháp thuyết đạo đêm 8-9-Mậu Tý (dl 10-10-1948) nhắc lại khi Ðức Ngài xuất chơn thần về thiêng liêng có thấy ông Vương Quan Kỳ trên đó, Ðức Ngài thuật lại như:

    “Bần đạo thấy người bạn nhờ ơn thiêng liêng của Chí Tôn riêng ban cho người ấy, người ấy có người chí thân là một Ðấng cầm quyền trọng hệ trên Hư linh tức là Thất Nương Diêu Trì Cung. Bần đạo nói rõ, người ấy là Vương Quan Kỳ, chú ruột của Thất Nương vậy. Người mở đạo mà chẳng biết đạo là gì hết, đi theo một tư tưởng của nền Chánh giáo của Ðức Chí Tôn định quyết, mà tư tưởng của người ấy và cả hành tàng nếu chúng ta thấy sẽ lên án là Tả đạo Bàng môn chắc hẳn vậy.

    Lạ thay! Khi Bần đạo quay lại dòm thấy nhiều bạn rơi xuống Bích Hải khóc lóc, còn người đó trước bận Thiên phục Giáo Sư, nhưng bây giờ thì áo tốt vắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần, đi ngật ngờ ngật ngưỡng, cười một mình, không biết cười cái gì, đi ngang Bát Quái Ðài như không vậy.

    Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu vi thấy trái hẳn nền chơn giáo của Ðức Chí Tôn mà trọn tâm tín ngưỡng Ngài, người thọ Thiên phục áo mão, dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay, đi ngang vô Bát Quái Ðài, không quyền luật nào ngăn cản được. Chúng ta lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê bình công kích." (Trích Con đường TLHS, trang 11)

    04- Đầu-Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.

    (Không hành Đạo bị Đức Lý cách chức)

    Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong ba vị Đầu-Sư sau đây vào phẩm Đầu-Sư đầu tiên của Đạo Cao Đài có mang ba chữ: Nhựt, Nguyệt, Tinh là ba bửu của Trời, là:

    - Đầu-Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.

    - Đầu-Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau được thăng Quyền Giáo-Tông.

    - Đầu-Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.

    Ngài Thiện Minh là học trò của Hòa Thượng Như Nhãn, được Thiên phong Thái Đầu-Sư ngày 13-10-Bính Dần, nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927), Đức Lý Giáo-Tông cách chức Thái Đầu-Sư của Ngài Thiện Minh.

    Cũng trong ngày nầy (12-12-Bính Dần), Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn Nương chức Thái Đầu-Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh.

    Ba vị Đầu-Sư đầu tiên có mang chữ: NHỰT, NGUYỆT, TINH là ba báu của Trời, đó là một đặc ân của cơ quan Cửu Trùng Đài. Nhưng chắc cũng là trong vòng hữu định nên khiến như thế, vì mặt trời (NHỰT) cũng như mặt trăng (NGUYỆT) mỗi thứ chỉ có một, nên hai vị này giữ phẩm tước được bền bĩ, còn TINH tức là sao có đến 3.072 sao nên khiến cho vị mang chữ Tinh có đến hai người là Đầu-Sư: Thái Minh Tinh và Thái Nương Tinh.

    Từ đó về sau thì tất cả Chức sắc Cửu Trùng Đài, dù ở phẩm Đầu-Sư đi nữa cũng lấy Thánh danh là chữ Thanh (cho nam phái), nữ lấy chữ Hương mà thôi.
    NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

  3. #3

    Mặc định

    5- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh

    (lập Minh Chơn Lý)

    Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Toà Thánh Tây ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp tác với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.

    Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng-pháp ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra miền Trung, cho nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.

    Ngày 17-2-Bính Tuất (dl 20-3-1946), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang đăng Tiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi.

    Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.

    (Trích trong Ðuốc Chơn Lý, số 51 trang 12)

    1- Hoạt động đạo sự của Minh Chơn lý:

    Thêm vào sự canh cải đó, Minh Chơn Lý gọi Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài là hai phẩm tước chớ không phải là hai cơ quan như trong Pháp Chánh Truyền qui định. Phái ấy cho rằng hai chức nầy hiệp với Ðức Chí Tôn làm thành một cái gọi là Tam Thân Hiệp Nhứt. Những phẩm Chức sắc trên Chánh Phối Sư còn có Thiên Sư, Tứ Bửu, Ðầu Sư, Cửu Trùng Ðài, Tam Tôn. Kinh sách thì sửa đổi hầu hết, không theo như Pháp Chánh Truyền, tuy giọng đọc na ná mà thôi..

    Tệ hại hơn nữa là Minh Chơn Lý đã xóa bỏ nguồn cội nền chơn Ðạo. Cơ bút của Minh Chơn Lý dạy như sau:

    "Thầy xuống lập đạo có một mình Thầy hiệp với hai Chưởng quản, một là Lê Văn Ðược làm chức Hiệp Thiên Ðài (hồn) của Ðạo, là bậc Chơn như có Phật Hàng Long hiệp mới thành chánh vị Tam Tôn chủ tam hồn, đội áo Khai Thiên (12 thước vải trắng) đứng trên ngọc ỷ, phía trước mặt kế bên án có ông Cửu Trùng Ðài Nguyễn Văn Ca là xác của Ðạo. Ðạo có một xác một hồn mà thôi. Cửu Trùng Ðài nhờ chuyển kiếp 9 lần mới hiệp cùng Phật An Thiên nên Thánh danh kêu là Bửu An Thiên 18 năm, trong thời gian ấy chịu trả vay nhiều nỗi. Còn ai bày ra Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài là hồn ma xác quỉ, đó là giả dối.”
    (Trích trong Ðuốc Chơn Lý số 51 trang 97)

    Vì sự canh cải Chơn truyền Luật pháp nên Minh Chơn Lý tuy hấp dẫn được một số Chức sắc Ðại Thiên phong buổi đầu, nhưng sau nầy lại trở thành một tệ đoan lớn lao hơn hết trong sự phân tán nhà Ðạo. Do đó, có thể nói rằng, phái Minh Chơn Lý, ngay sau khi tự canh cải Chơn truyền, thờ phụng sửa đổi nghi thức, không còn dính dáng gì của vẻ Ðạo Cao Ðài nữa và như thế phái nầy không tránh khỏi bàn tay Tà Thần vậy”.

    Theo lời các tiền bối kể lại, nguyên căn của Phối Sư Thái Ca Thanh là Ðộc Giác Thanh Ngưu của Ðức Lão Tử giáng phàm, Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ là Từ Giáp giáng phàm. Thanh Ngưu ở với Ðức Lão Tử lâu năm nên có nhiều phép biến hóa huyền diệu, xem truyện Ðông Du Bát Tiên thì rõ.

    Ngay lúc mà Đức Tôn sư Hộ-Pháp mặc khôi giáp rực rỡ đến trình diện trước Ngọc Hư Cung. Thanh ngưu của Đức Lão Tử kinh hoảng giựt mình chạy làm đứt dây sứt lỗ mũi, chạy bay xuống thế đầu kiếp làm Nguyễn văn Ca, có ý định để trả thù Hộ-Pháp sau này.

    2- Cuộc Ân oán đối với Đốc Phủ Ca:

    Nguyên khi Ðốc Phủ Ca làm Quận Trưởng Châu Ðốc, ông vâng lịnh Thực dân Pháp ruồng bố các nhóm Cách Mạng chống Pháp đang lập căn cứ trong Thất Sơn, giết chết ông Cử Ða và bắt học trò của Cử Ða là Bảy Do giao cho Pháp xử tử. Linh hồn Bảy Do lên kiện nơi Ngọc Hư Cung. Ngọc Hư Cung cho phép ông Bảy Do báo oán và giao phận sự giục loạn trong nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn để trục ngoại các thành phần phản đạo, rửa ráy hàng ngũ Chức sắc cho trong sạch.

    Ngày 21-7-1934, tại Phạm Nghiệp, Ðức Hộ-Pháp cùng Ngài Cao Tiếp Ðạo phò loan, ông Bảy Do nhập cơ:

    BẢY DO

    “Kính chào chư vị Ðại Ðức và chư Ðạo hữu,

    - Xin cho biết phẩm vị.

    - Thần. Thầy của Bần tăng mắc chuyển cơ đặng giáo hóa TRANG, TƯƠNG, nên đến không đặng, mới sai Bần tăng thưa lại cùng chư quí vị.

    Thưa Ðức Hộ-Pháp, Bần tăng lấy làm bất nguyện vì buổi nọ Ngọc Hư Cung ban lịnh cho trừ diệt Phủ CA đặng báo oán. Bần tăng đã dụ nó vào Cấm Sơn và định đưa luôn vào ngục thất đặng sát hại, nào dè có lịnh Chí Tôn mật chỉ không cho sát mạng. Sau Bần tăng muốn nhập thể nó làm cho nó điên cuồng rồi bắt nó tự ải, nào dè Chí Tôn lại binh vực cấm ngăn thêm nữa, chỉ cho hành bịnh mà thôi. Nay nó bị điêu tàn cơ giả Ðạo nên mang bịnh thất tình, tưởng khi Bần tăng cũng còn phương tẩy hận.

    Ngài nín nẩm lóng tin thì hiểu rõ hành tàng mọi lẽ.

    Còn hai người TRANG, TƯƠNG thì Ngọc Hư Cung cho khảo. Thần đặng phép thử, khử tà trừ trược đủ ba năm khảo án, rồi dạy dỗ cho nó trung tâm, rồi cho trở lại Hội Thánh.

    - Không. Cười . . . Hạng Thiên Thánh mà vào phẩm Ðầu Sư sao đặng. Bần tăng tưởng khi Ngài hiểu điều ấy chán chường, chẳng cần để luận. Họ chỉ lãnh Hàm phong là may mắn lắm đó." ( tài liệu sưu tập của Quang Minh)

    3- Ba vị Tướng soái của Chí-Tôn:

    Ngày 11-5 Mậu Thìn (Thứ Năm: 28-6-1928)

    Đức Thượng Đế giáng Cơ dạy rằng:

    - Trung! Hai em con là Cư và Tắc từ đây hằng ở bên con đặng cùng lo phổ độ.

    Đối với ba vị Đại Thiên Phong của Toà Thánh là cột đồng vững chắc lúc nào cũng ra tay chống đỡ đạo quyền, các Ngài lo cho chúng sanh tức là lo cho cả đại đồng nhơn loại. Lúc này Đạo phải lén lút đưa một số người ra ngoại quốc du học theo phong trào Đông du mới phối hợp với bốn nhà Nguyễn đưa người đi tìm đường cứu nước, nên những tiền bạc gom góp để hỗ trợ cho việc này không dám công khai mà các Ngài phải chịu mang tiếng. Nhất là Đức Quyền Giáo-Tông phải chịu phần mạ lỵ của nhóm người chống đối luôn rình rập và làm khổ Ngài. Nhưng khổ nỗi việc làm phải dấu kín làm sao phơi bày sự thực, nên phải đành ngậm miệng, thừa thế lũ người ấy càng làm lớn chuyện để sỉ nhục các Ngài.

    1/-Thực dân pháp tiến hành âm mưu:

    - Với Đức Quyền Giáo-Tông thì:

    Thực dân Pháp cung cấp tài liệu cho nhóm người “bồi bút” viết báo nói xấu Đức Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung, đả kích rằng: mọi việc ăn, ở, sinh hoạt của Đức Ngài đều do Hội-Thánh Cao-Đài lo chu đáo, thế mà hằng tháng Đức Ngài còn nhận 50 đồng của Đạo làm “sinh hoạt phí”. Đức Ngài là người lãnh đạo tối cao của Đạo Cao Đài, thế mà Đức Ngài còn dùng nhiều bút hiệu viết báo cho nhiều tờ báo để lấy tiền nhuận bút. Tất cả tiền bạc vay hỏi là lén lút trao cho nhóm người ra nước ngoài lo phần ăn học và lo phần cứu nước.

    - Với Đức Cao Thượng-Phẩm:

    Chúng viết báo nói xấu Ngài là không lo thi hành trách nhiệm, bảo vệ chơn truyền luật pháp Đại Đạo, việc phá rừng lập Thánh địa chi tiêu không minh bạch. Mua sắm vật liệu giá cao hơn giá thị trường, việc chi thu không rõ ràng….đủ thứ hết.

    - Với Đức Hộ-Pháp:

    Họ cũng thi hành vấn đề viết báo bêu xấu Đức Ngài không thi hành trách nhiệm bảo thủ chơn truyền luật pháp Đại Đạo, không triệu tập Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài để thụ lý xét xử đơn tố cáo của đồng đạo: tố cáo Đức Quyền Giáo-Tông và cả Đức Thượng-Phẩm nữa. Rằng Ngài luôn có lập luận bao che cho các bậc Chức sắc bề trên.

    2/- Thực dân Pháp mua chuộc, hăm doạ và cưỡng bức nhà Nho Đặng Thúc Liêng và Hoà Thượng Thái Diên cùng ba nhà báo hợp soạn quyển Cao-Đài Đàm quái giáo nghị, mục đích là xuyên tạc, vu khống, đả phá, mạ lỵ Đạo Cao Đài, in tràn lan, phổ biến rộng rãi khắp nơi, loan truyền khắp các giới. Kết quả là làm cho dư luận xôn xao, trong quần chúng hoang mang và những người không vững đạo tâm sẽ có những hành động táo bạo, sự rạn nứt bắt đầu: Do đó phái của ông Phối Sư Thái Ca-Thanh (Tri phủ Nguyễn văn Ca) bỏ Toà Thánh Tây ninh về Rạch giá phổ biến “Chánh tà yếu lý” lập ra nhóm An-Thiên-Hội, lập Toà Thánh Tam Bình ở Rạch giá, Toà Thánh Trung ương ở Cầu Vỹ, Mỹ Tho, lập phái Cao-Đài Minh Chơn Lý tự phong làm Giáo-Tông, tức nhiên tạo những đàn Cơ thiếu nghiêm túc, rồi quay lại chỉ trích Hội-Thánh Cao-Đài Toà Thánh Tây ninh là nơi đã khai sanh ra chính các phẩm tước của các vị ấy, chính con người của họ nữa kìa!

    Lúc bấy giờ Toà-Thánh bị quá nhiều khảo đảo từ trong nội bộ vì nghe theo nhóm người phá Đạo cùng sự xúi giục của người Pháp, gây ra phe này phái nọ làm chao đảo tinh thần những ai nhẹ đức tin. Nhưng người chịu nạn nặng nề nhứt là các Ngài:

    - Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt

    - Đức Hộ-Pháp Phạm Công-Tắc.

    - Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư

    Những phe chống Hội Thánh, trong đó có:

    Phái Minh Chơn Lý ra đời. Phái nầy do Ngài Ðốc phủ Nguyễn Văn Ca lập ra. Ông nhập môn vào Ðạo Cao Ðài năm 1926, được Ðức Chí Tôn phong phẩm Phối Sư Thái Ca Thanh. Ông Ca đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng tờ báo La Revue Caodaïste, bằng Pháp văn để truyền bá Ðạo Cao Ðài cho người ngoại quốc.

    Ông Ca vâng theo Cơ bút của ông Trương Kế An (hiệu là Tuyết Vân Mặc Khách) nên ông Ca ở luôn tại Cầu Vỹ, Mỹ Tho, không về Tòa Thánh Tây Ninh và không tuân mạng lịnh của Hội Thánh nữa, lập phái Minh Chơn Lý vào năm 1931.

    Ông Ca lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi đầu như:

    - Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang,

    - Vài Chức sắc ở Cầu Kho,

    - Quí ông Cao Triều Phát,

    - Nguyễn Ngọc Thiệu.

    Cơ bút do ông Trương Kế An cầu, phong ông Ca làm Ðầu Sư Thái Ca Nhựt. Cũng trong năm nầy, Cơ bút lại dẫn ông đi xa hơn nữa, qua các kỳ An Thiên Ðại Hội, gọi ông là Ðức Cửu Trùng Ðài. Từ đây, chưởng quản Hiệp-Thiên-Ðài là Thiên Sư Nguyễn Văn Phùng cầu cơ sửa đổi hết cách thờ phượng và nghi lễ, thay Thiên Nhãn bằng Trái Tim và Thập ngũ Linh Ðăng, rồi giải thích Thánh Ngôn một cách lệch lạc, khiến cho không còn gì là chơn truyền của Ðạo Cao Ðài nữa.

    Các Chức sắc trước đây hiệp tác với ông Ca thấy vậy liền rút khỏi Minh Chơn Lý, đồng xuống Bạc Liêu là quê hương của Ngài Cao Triều Phát lập phái Minh Chơn Ðạo, xây dựng Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm, Giá Rai, Cà Mau.

    Phái Minh Chơn Lý hiện nay thu hẹp rất nhiều, lại chia làm hai: chi Chơn Lý tại Cầu Vỹ (Minh Chơn Lý cũ) và Tòa Thánh Cao Ðài Việt-Nam tại Bến Tranh.

    Trong Đạo lúc này có lẽ rối như tổ ong, vì không còn ai nghe ai nữa. Thầy giận mà rằng:

    Thầy hỏi:

    -“ Thằng CA nó phản đạo là tại cớ nào? Nói Thầy nghe thử...

    - Không phải vì vậy mà thôi, mà tại gương xấu của các con phản phúc lẫn nhau, nhục mạ lẫn nhau, mưu hại lẫn nhau, giành giựt quyền hành, gây điều bất chánh, đến đỗi Hiệp-Thiên-Ðài cũng thế.

    - TẮC! Con nghe rõ: nhiều đứa dùng Cơ Bút mà làm ngọn đao thương đặng sát phạt mắng chửi nhau, ngày nay mới làm mối oan khiên cho Tà Thần bắt chước.

    Hại thay cho một nền Tôn giáo chơn chánh dường nầy, bị phàm tâm của các con đã ra ô trược...

    Thầy đã thấy trong Thiên thơ, tội tình của mỗi đứa, Thái Bạch đã giao nạp cho Ngọc Hư Cung rồi, đã đủ mặt Cửu-Trùng-Ðài và Hiệp-Thiên-Ðài đều có hết.”!

    Về Phối Sư Thái Ca Thanh:

    Sau đây, xin trích một đoạn trong quyển Lịch Sử Cao Ðài Quyển 2 của Ðồng Tân, trang 391-395:

    "Thế là một phái nữa thành hình, ban đầu lấy tên là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Minh Lý Hội, sau đổi thành Minh Chơn Lý Hiệp Ngũ Chi.

    Những việc ông Ca làm buổi ban sơ xem cũng có mòi xây dựng, nhưng qua năm 1935, Chưởng quản Hiệp Thiên Đài là Thiên Sư Nguyễn Hữu Phùng chấp cơ sửa đổi hết cách thờ phượng, lễ bái, nghi tiết, đổi sự thờ Thiên Nhãn bằng Trái Tim và Thập ngũ Linh Ðăng. Vì lẽ ấy mà phần lớn Chức sắc, một số trở về Cầu Kho giữ nguyên gốc cũ làm thành nhóm bảo thủ, còn một số thì hợp tác với phái Tiên Thiên. Minh Chơn Ðạo cũng nảy sinh khi phái Minh Chơn Lý bắt đầu đi sâu vào Tà phái.

    Việc ông Ca tách ra thành hình phái Minh Chơn Lý là cơ đại khảo trong Đạo, nhưng cũng do nghiệp báo của ông, nên sự canh cải làm cho thất chơn truyền là một sự nguy hại cho ông và cho phái ông rất nhiều.

    Ðể chứng minh điều nầy, ta hãy xem bài cơ bút sau đây đã giải thích huyền vi Thiên Nhãn một cách rất tà mị, dù người kém chữ nghĩa đến đâu cũng không thể hiểu như vậy được.

    Bài trích trong tập Ðuốc Chơn Lý, do Tòa Thánh Ðịnh Tường (Minh Chơn Lý, Cầu Vỹ) xuất bản năm 1955:

    “VÔ VI HIỆP THIÊN ÐÀI

    Ngày 19 tháng 8 âm lịch 1938 (7 giờ tối)

    - Ðược! Con nghe Thầy dặn, nay Thầy giải nghĩa câu: Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quan chủ tể, quan thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả Ngã dã.

    Trước Thầy có hứa sau Thầy sẽ chỉ rành là đợi cho đến ngày nay là đúng Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thầy phải giải cho rành cho cả thảy đặng hay kẻo nhiều đứa nó ước ao trông đợi.

    Giải nghĩa như vầy:

    Chữ Nhãn thị chủ tâm nghĩa là cái nhãn của mỗi người đó là chủ nghĩa ở nơi tạng Tâm mà truyền ra, ấy là trái tim nên hình cái Nhãn cũng tương tự trái tim vậy. Ðó là Tâm nội xuất hình ư ngoại đó nên lấy nó mà làm chủ nghĩa đặng cho đời xem chung nên gọi là Nhãn thị chủ Tâm là vậy đó.

    Lưỡng quan chủ tể, chữ tể nầy là cai trị (gouverner) nghĩa là hai điều quan hệ trong sự ngó dòm, coi xét, đó phải ngăn ngừa phòng sợ, trong đó có chánh có tà, đó là lưỡng quan là hai ngõ, hễ ngó chánh thì có chánh, ngó tà thì có tà, trong đó có một ngôi chủ tể xem xét không lầm nên phải quan phòng là vậy đó.

    Quan thị Thần, chữ quan nầy là khán (observer), chữ thị nầy là thật (droit) nghĩa là xem xét đặng làm việc phải là chữ thị đó. Thị trong đó có Thần. Thần nầy là Thần huệ diệu minh là điển đó, nên gọi là điển quan Thần diệu huệ phát minh tâm là vậy đó.

    Thần thị Thiên, Thần vậy đó mới gọi là có Trời ẩn trong đó. Thần nầy mới gọi là Thần mục tợ điển. Còn Thiên đó là người đời hay kêu là Thiên La Thần, Ðịa La Thần là vậy, vì xem xét không lầm, bao la vũ trụ chẳng vị chẳng tư.

    Còn chữ Thiên giả ngã dã, chữ Thiên là xấu (mauvais), chữ Ngã là nghiêng (pencher).

    Ðó là nghĩa nói về người đạo. Nếu dùng Thiên Nhãn đặng treo vậy thì trong chỗ ngó xem hành động không y theo lời dạy thì người đó có chỗ thiên là không đúng thiệt nơi lòng. Phật gọi là ngã (tomber) tướng đó. Hễ người đạo mà phạm vào nhơn ngã thì hóa ra là người nương đạo mà lập danh quyền lợi, dầu có treo cũng vô ích. Vậy, con biểu CA nó coi rồi giao lại cho ba Ðầu Sư, Tứ Bửu, Thiên Sư xét cho kỹ, coi cho rành đặng in ra, rồi gởi cho các Chi phái khác đặng rõ lời Thầy dạy đó, mặc may chúng nó có đặng hồi tâm mà tránh cái nạn tu mà lắm mê hoặc đặng biết chơn lý mà theo Thầy thì là nhờ công trong mỗi đứa đó. Thăng.”

    4- Ngọc Chưởng Pháp: Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang (1870-1946)

    (Bỏ Tòa Thánh Tây Ninh theo Minh Chơn Lý sau lập ra tiếp phái Minh Chơn Đạo)

    Như trên đã nói: Ông Ca lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi đầu như: NgàiChưởng Pháp Trần Ðạo Quang,

    Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl 31-12-1870) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

    Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế.

    Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ. Năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, tu theo đạo Minh Sư. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. Thái Lão Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài.

    Năm 21 tuổi, Ngài xuất gia tu hành, bắt đầu tu Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo Ân; rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc:

    Ðảnh Hàng: lấy đạo hiệu Trần Vận Quang.

    Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Năm nầy Ngài được 45 tuổi.

    Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang, được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông Phổ Tế ở Việt-Nam.

    Tổ Sư của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư bên Tàu là Thái Lão Sư Trần Ðạo Khánh dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm “Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ” của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)

    Trong lúc đó thì Lão Sư Nguyễn Văn Tương và Nguyễn Văn Kinh đã được Ðức Chí Tôn độ theo Ðạo Cao Ðài, nên hai Ngài xin lập đàn cơ tại Linh Quang Tự để Ðức Chí Tôn độ Ngài Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang luôn thể và Ngài Trần Ðạo Quang được Ðức Chí Tôn độ nên bằng lòng qui hiệp vào Ðạo Cao Ðài.

    Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của Bà Nữ Ðầu-Sư Hương Hiếu Q.2 trang 172 và 192)

    Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làmNgọc Chưởng Pháp chánh vị.

    Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Toà-Thánh Tây-Ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.

    Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc Chưởng Pháp không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Thế nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.

    Ngày 17-2-Bính Tuất (dl 20-3-1946), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang đăng Tiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi.

    Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.

    6- Phái Tiên Thiên: Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh

    (Ông bị trục xuất vào năm 1930).

    Phái nầy do ông Giáo-Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập ra ở Cai Lậy. Nguyên ông Chính thọ phong Giáo Hữu tại Toà-Thánh Tây-Ninh, nhưng ông không hành đạo, mà lo việc luyện đạo và lập Cơ bút riêng. Ông bị Hội Thánh Tây Ninh cảnh cáo nhiều lần, và cuối cùng thì ông bị trục xuất vào năm 1930.

    Năm 1932, Cơ Bút phái Tiên Thiên phong ông Chính làm chức Chưởng Pháp, quí ông Nguyễn Văn Tòng và Lê Kim Tỵ qua hợp tác với ông Chính, thành lập phái Tiên Thiên, lập Tòa Thánh Châu Minh tại làng Sóc Sãi tỉnh Bến Tre.

    (Ông Lê Kim Tỵ là một nhà thầu khoán có tài, người có danh vọng lúc bấy giờ, tính tình cương nghị, người Pháp rất kính nể. Khi ban sơ mới mở Ðạo tại Sài Gòn, ông Tỵ có đến hầu đàn, Ngài Nguyễn Trung Hậu phò loan, Ðức Chí Tôn cho ông 4 câu thi rồi viết tiếp: “Tỵ họa bất như tỉnh phi.” [nghĩa là: Tránh họa không bằng xét lại lỗi lầm của mình], Lui. (tức là Ðức Chí Tôn không thâu nhận ông Tỵ làm Môn đệ).

    Phái Tiên Thiên dùng Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật và Pháp Chánh Truyền như Tòa Thánh Tây Ninh.

    Nhờ tài thầu khoán của ông Lê Kim Tỵ, ông xây dựng được 72 Thánh Tịnh (Thất thập nhị Thánh Tịnh) trong khắp các tỉnh ở miền Nam cho phái Tiên Thiên.

    Tiên Thiên cũng có hai đài: Hiệp-Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài nhưng cầm đầu lại do Thất Thánh, có Thất Hiền phụ tá.

    Thất Thánh gồm 7 ông: Phan Văn Tòng, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Thế Hiển, Lê Kim Tỵ, Trần Lợi, Nguyễn Bửu Tài, Nguyễn Tấn Hoài.

    Thất Hiền gồm 7 ông: Lê Thành Thân, Nguyễn Phú Thứ, Lâm Quang Tỷ, Ðoàn Văn Chiêu, Phan Lương Hiền, Trương Như Mầu, Phan Bá Phước. Dự khuyết: Phan Thanh.

    Cũng trong thời gian nầy, phái Tiên Thiên lập Trước Tiết Tàng Thơ, chủ tịnh là ông Trương Duy Toản. Ông Trần Văn Quế thì hiệp với đồng tử Liên Hoa (Ðàm Thi) lập nhiều Thánh Tịnh khác như: Trước Lý Minh Ðài ở Gia Ðịnh, Ngọc Minh Ðài ở Bà Ðiểm, Ngọc Tuyển Thánh Tịnh ở Long Thành, Biên Hòa.

    Sau đó Cơ Bút phái Tiên Thiên dạy thành lập Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn, qui tụ một số Chức sắc kỳ cựu trong Ðạo và một số trí thức trong mục tiêu hiệp nhứt các Chi phái, làm cho phái Tiên Thiên bắt đầu xuống dốc và có nguy cơ tan rã.

    Ngài Nguyễn Bửu Tài, được Cơ bút Tiên Thiên phong chức Ðầu Sư Thượng Tài Thanh, lãnh đạo 65 vị Chức sắc Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, được Ðức Lý Giáo-Tông giáng cơ chấp thuận ngày 29-6-1949, tạm thời giáng nhứt cấp tất cả các vị nên Ngài Nguyễn Bửu Tài là Phối Sư Thượng Tài Thanh và Ðức Lý hứa, khi nào đem hết tất cả Chức sắc và bổn đạo của phái Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh thì Ðức Lý sẽ phong cho chức cũ.

    Hai năm sau, Ngài Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông phái Bến Tre qui liễu, Ngài Nguyễn Bửu Tài lại tách rời Tòa Thánh Tây Ninh trở về Sóc Sãi Bến Tre, tái lập phái Tiên Thiên và sau đó Cơ bút Tiên Thiên phong Ngài Nguyễn Bửu Tài lên chức Giáo-Tông ngày 9-1-1957.

    Sự kiện có tính cách vĩ đại nầy của phái Tiên Thiên không được các Chi phái khác quan tâm vì phái Tiên Thiên lúc bấy giờ không có thực lực đáng kể, số tín đồ còn lại rất ít, số Chức sắc thì lại nhiều hơn.

    Tiểu sử Ông Nguyễn Bửu Tài phái Tiên Thiên:

    Ông Nguyễn Bửu Tài sanh năm 1882 tại làng Chẹt Sậy, sau đổi tên là làng Phú Hưng, tỉnh Bến Tre. Ngài theo tân học nhưng cũng rất giỏi Hán học, làm Giáo viên tại Bến Tre, được thăng lên Thanh Tra Tiểu Học, sau lại đổi lên Biên Hòa.

    Năm 1926, ông Nguyễn Bửu Tài lập một phái tu đơn tại Chẹt Sậy, Tịnh Thất được đặt tên là Tây Tông Vô Cực Cung.

    Năm 1941, ông có liên lạc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể ở Nhựt, nên bị Pháp bắt đày đi Côn Ðảo 5 năm.

    Ngày 25-8-1945, Chánh phủ Trần Trọng Kim ân xá, ông Tài được trả tự do, ông trở về quê tiếp tục tu đơn.

    Sau đó ông gia nhập phái Tiên Thiên, được cơ bút phong Thượng Ðầu Sư, trở thành Chức sắc lãnh đạo phái Tiên Thiên.

    Một số lớn Chức sắc cao cấp của phái Tiên Thiên nhập qua các phong trào Thống Nhứt Chi phái, làm cho phái Tiên Thiên suy yếu. Do đó, ông Nguyễn Bửu Tài cùng một số Chức sắc Tiên Thiên cấp dưới qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, được Ðức Lý Giáo-Tông giáng cơ chấp thuận trong đàn cơ đêm 1-3-Mậu Tý (dl 9-4-1948), và Ðức Hộ-Pháp ra Thánh Lịnh số 535 ngày 4-6-Kỷ Sửu (dl 29-6-1949) thi hành quyết định của Ðức Lý Giáo-Tông.

    Ngày 27-5-Canh Dần (dl 11-7-1950), theo lời dạy của Ðức Lý Giáo-Tông đêm 3-1-Canh Dần, Ðức Phạm Hộ-Pháp ký Thánh Lịnh số 302, chư Chức sắc phái Tiên Thiên có danh sách trong Thông qui ngày 30-10-Kỷ Sửu, đã đệ trình lên Ðức Lý Giáo-Tông xem xét, được Ðức Lý tạm phong vào hàng Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh, sụt bớt một cấp, như sau đây:

    - Phối Sư Thượng Tài Thanh (Nguyễn Bửu Tài)

    - Phối Sư Thượng Hiền Thanh (Phan Lương Hiền)

    - Giáo Sư Ngọc Thiệu Thanh (Phan Lương Thiệu)

    - Giáo Sư Ngọc Dừng Thanh (Ðinh Văn Dừng)

    - Giáo Sư Thượng Tấu Thanh (Trần Văn Tấu)

    Phần tiếp theo là danh sách 26 Giáo Hữu và 35 Lễ Sanh.

    Tổng cộng: 66 vị Chức sắc, không ai là Ðạo hữu cả.

    Ngày 23-12-Canh Dần (dl 30-1-1951) Ðức Phạm Hộ-Pháp lại ký Thánh Lịnh phong thêm 5 vị Giáo Sư, 3 Giáo Hữu và 17 Lễ Sanh.

    Cả thảy Chức sắc phái Tiên Thiên được Ðức Lý Giáo-Tông tạm phong do cơ bút tại Tòa Thánh Tây Ninh, phải hành sự tùng quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Chủ trưởng Chức sắc.

    Giữa năm 1951, ông Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông phái Bến Tre qui liễu tại Thánh Thất An Hội Bến Tre.

    Sau đó, ông Nguyễn Bửu Tài và số Chức sắc Tiên Thiên đã qui hiệp về Toà-Thánh Tây-Ninh trước đây, âm thầm tự ý rút lui khỏi Tây Ninh, trở về Sóc Sãi tỉnh Bến Tre tái lập phái Tiên Thiên, lập Tòa Thánh Châu Minh và Hội Thánh Tiên Thiên.

    Ngày 13-8-1955, cơ bút phái Tiên Thiên phong ông Nguyễn Bửu Tài lên chức Thượng Chưởng Pháp.

    Ngày 9-1-1957, ông Nguyễn Bửu Tài được tấn phong Quyền Giáo-Tông phái Tiên Thiên.

    Ngày 9-1-1958, tức là đúng 1 năm sau, cơ bút phong ông Nguyễn Bửu Tài lên chức Giáo-Tông chánh vị phái Tiên Thiên.

    Ngày 21-9-Mậu Tuất (dl 1-11-1958), ông Nguyễn Bửu Tài qui liễu, bửu tháp của ông được xây tại Tòa Thánh Châu Minh ở Sóc Sãi, Bến Tre.

    Vậy ở Bến Tre, trước sau có hai vị Giáo-Tông Chi phái: Nguyễn Ngọc Tương và Nguyễn Bửu Tài.

    CUỘC THỬ CƠ của PHÁI TIÊN THIÊN
    Về Toà-Thánh Tây ninh

    Phò loan: Luật Sự Nhung - Hưởng.

    Thừa Sử: Nguyễn Văn Kiết.

    Hầu đàn: Chức sắc CTÐ, HTÐ,

    Sĩ quan cao cấp, Chức sắc Tiên Thiên và đồng tử Thanh Trước Ðàn, Tiền Phong Hội Quán, ngã 5,

    Tòa Thánh TN, lúc 21g30 Ðêm 4-2-Tân Mão (11-3-51).

    LÝ GIÁO-TÔNG

    “Chào con cái Chí Tôn.

    Thượng Tài Thanh, Hiền hữu có biết chăng Ðạo Thầy có một.?

    Khai Pháp Hiền hữu chấp bút nhang đuổi nó đi, vì đây trước mặt Lão lại còn cho Thần Cái trụ.

    Thượng Tài Thanh, hỏi một Hội Thánh có mấy Ðài Hiệp Thiên và mấy Ðài Cửu Trùng?

    Chính tay Lão đã lập Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8, có đâu Lão lại phá luật; còn Ðài Hiệp Thiên do Hộ-Pháp nắm giữ, có đâu Lão lại quá quyền phạm pháp, phong tước Chưởng quản Hiệp-thiên-Đài, Hiền hữu vốn biết Lão đương quyền Giáo-Tông đó chớ ?

    Cơ chia phe phân phái cũng do đó có phải?

    Nè Lão cho hay rằng: Hội Nhơn Sanh sắp đến đó, thử hỏi Chức sắc và tín đồ về đặng bao nhiêu?

    Hiền hữu khá nhớ rằng: được phẩm thì dễ, chớ ngồi yên khó lắm, sự không qui thuận của Chức sắc và tín đồ Tiên Thiên là lỗi nơi Hiền hữu, chớ không phải nơi họ.

    Từ đây, Hiền hữu cứ ra nghiêm lịnh coi. Nên nhớ rằng: với tình thì Lão dung thứ được, chớ về luật pháp e khó dung tha được.

    Cao Sĩ Tấn! Lão biết Hiền hữu có ý bất mãn, nhưng Lão khuyên Hiền hữu khá suy nghĩ sẽ thấy rõ đường đi.

    Ðức Chí Tôn khai Ðạo chẳng bó buộc một ai hết thảy, nếu ngoan là con của Thầy, còn dại thì mặc tình quỉ dẫn. Những cặp đồng tử của Hiền hữu, tuy vốn xuất thần, nhưng bị hồi điển do bổn thân. Hiền hữu khá đem họ nhờ sự trau luyện của Hiệp-thiên Đài Chức sắc thì sẽ được ứng dụng ngày sau. Hiền hữu thử hỏi lại chúng nó coi: trước đêm mùng 4 vừa qua nó có suy nghĩ gì chăng?

    Thượng Tài Thanh, Hiền hữu hiểu lời Lão rồi chớ?

    Bảo Thế, Khai Pháp, Tiếp Ðạo, sáng ngày mai phải xuống Trí Huệ Cung tường thuật cặn kẽ cho Hộ-Pháp nghe. Còn hai em Hưởng và Nhung, Lão khen đó, hai em đã giúp Lão chỉnh đốn Cửu Trùng Đài nhiều lắm đó, Lão mang ơn nơi cõi Hư linh, còn hữu hình Lão chẳng có quyền.” Thăng.

    Tái cầu: Lúc 23 giờ.

    THƯỢNG TRUNG NHỰT

    “Qua chào mấy em. Cười !

    Ông Già nộ khí dữ quá ta! Lúc nãy đồng tử của họ có một người tà tâm nên Ổng đánh nó đó.

    Bạch:

    - Không sao, tuy vậy chớ Thượng Tài Thanh và Cao Sĩ Tấn biết suy nghĩ lắm, họ bị quá mê tín mà nên nông nỗi. Cười . . . Coi chừng đồng tử bị đánh, bịnh ta ơi!

    Tội nghiệp, không phải tự họ muốn lên giả, nhưng tại Thần trược mà bị hồi điển. Những người đồng tử họ bất bình, họ nói mình xúm nhau mà làm ngưng nghề họ, chớ không phải là Ðức Lý. Cười .. Mặc dầu lúc nãy, Ông Già đã nói trước rồi.

    Còn KHOA thì coi hình như đeo muốn rớt.

    Em Trung Dõng nên gần gũi dẫn dụ họ, nếu họ có ức thì xin với Ðức Hộ-Pháp, Ðức Hộ-Pháp phò loan tại Trí Huệ Cung một lần nữa, nhưng không cho đồng tử theo vì có hại cho họ.

    Cười . . . Cần cơ gãy . . . Cười . . .

    Anh nói thiệt, nếu cơ không gãy thì e cho họ phát điên rồi mà chớ. Ðó cũng may cho họ vì đầu cơ không có điển, hành pháp không xuất được. Thôi cũng yên một phần, em Trung Dõng cười đi em.” Thăng.

    Chú thích:
    (KHOA: Ngài Hồ Tấn Khoa, lúc đó chưa được phong chức Bảo Ðạo.
    TRUNG DÕNG: hiệu của Trung Tướng Nguyễn Văn Thành).

    7- Phái Minh Chơn Ðạo

    Phái nầy do ba Ngài:

    1- Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang,

    2- Cao Triều Phát và

    3- Nguyễn Ngọc Thiệu,

    Tách khỏi phái Minh Chơn Lý (vì thấy hai ông Ca và Phùng biến cải theo Tà đạo), qui tụ về Giá Rai tỉnh Bạc Liêu, lập ra phái Minh Chơn Ðạo vào năm 1935. Lúc đầu trụ sở đặt tại Chùa Minh Sư của Ngài Trần Ðạo Quang tại Giá Rai, sau mới lập Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm Giá Rai, cũng gọi là Tòa Thánh Hậu Giang. Gần Tòa Thánh nầy có Ngũ Hành Tòa để làm Hiệp-Thiên-Ðài. Phái nầy hoạt động khá mạnh, lên tới tỉnh Vĩnh Long.

    Phái Minh Chơn Ðạo giữ đúng theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và lễ nghi của Ðạo buổi sơ khai. Phái nầy không luyện đạo, mặc dầu Ngài Trần Ðạo Quang, trước khi gia nhập Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thái Lão Sư cầm đầu Chi Minh Sư ở Việt-Nam. Ngài Trần Ðạo Quang được phong chức Chưởng quản Vô Vi Chưởng quản Cửu-Trùng Ðài, Ngài Cao Triều Phát chức Thái Chưởng Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, Ngài Nguyễn Ngọc Thiệu chức Ðầu Sư Ngọc Thiệu Nhựt. Sau nầy, Ngài Cao Triều Phát lại tách ra, ông Nguyễn Văn Kiện tự Huân được phong chức Hộ-Pháp Thiên Ấn Tinh Quân, chưởng quản Hiệp Thiên Ðài.

    Cơ bút của phái Minh Chơn Ðạo phong gần đủ các phẩm Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Đài, như: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, 9 vị Thời Quân, 2 vị Chưởng Pháp, 7 vị Ðầu Sư, 3 Chánh Phối Sư (không có phẩm Giáo-Tông, bên Cửu Trùng Đài thì chức Chưởng quản Vô Vi là cao nhứt).

    Sau cuộc đảo chánh của Nhựt Bổn, quân đội Pháp trở lại dùng phi cơ dội bom, trúng Tòa Thánh Ngọc Minh tan tành. Ngài Cao Triều Phát hợp tác với Việt Minh để bảo vệ tín đồ. Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, Ngài Cao Triều Phát tập kết ra Bắc và qui liễu tại đó trong năm sau.

    8- Hai vị Quyền Đầu-Sư tách ra lập Chi Phái Bến Tre

    -Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh,

    -Quyền Đầu-Sư Ngọc Trang Thanh


    Nhóm phá đạo Nguyễn Phan Long mở Hội Vạn Linh xét xử tội trạng Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.

    Ngày 19-5-Quý Dậu (Thứ ba:11-7-1933)

    Thực dân Pháp kết hợp với triều đình nhà Nguyễn ở Huế và được sự nội ứng của Phối Sư Ngọc Trang Thanh (Tri phủ Lê Bá Trang) đưa nhà chính trị Nguyễn Phan Long về Toà-Thánh Tây-Ninh qui tụ tất cả Chức sắc, chức việc, đạo hữu trên toàn quốc họp về mở “Đại hội vạn linh” họp giữa chánh điện trong Đền-Thánh để xét xử tội trạng Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.

    Ông Nguyễn Phan Long là người không có Đạo Cao Đài, hôm ấy người ông đầu trần, mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay, quần sọt (ngắn) trắng, bỏ áo trong quần, giày ba ta trắng, ngồi ghế Nghị trưởng chủ toạ đại hội vạn linh; còn Chức sắc, Chức việc mặc đại phục (áo mão chỉnh tề) ngồi theo thứ bậc.

    Sau những nghi thức khai mạc, Ngọc chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh (Tri phủ Lê Bá Trang) chủ trưởng Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái ra trước Đại hội giới thiệu ba chồng hồ sơ:

    1- Đây là những bài báo tường thuật những sai trái của hai ông Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc.

    2- Còn đây là những thư tố cáo tội trạng cũng của hai ông Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc.

    3- Còn đây là những văn bản cật vấn hai ông Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc của Đạo và Đời về sở hành của hai ông.

    Ông Nguyễn Phan Long Nghị trưởng chủ toạ đại hội vạn linh phát biểu:

    - Đề nghị mời hai đương sự ra trước đại hội để trả lời chất vấn của đại hội (Tờ Vi bằng 36 trang đánh máy có kèm theo ở phần phụ lục. Cuối sách)

    Cả đại hội đồng ý, cử người đến Giáo-Tông-Đường và Hộ-Pháp-Đường mời Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp.

    Hai Ngài rất bình thản, vui vẻ và giải thích cho những vị đến mời nói cho nghe rằng:

    - Khi chúng ta nhập môn cầu Đạo đã Minh thệ rằng: “Hiệp đồng chư Môn đệ gìn luật lệ Cao-Đài” mà theo Tân Luật của Đạo Cao Đài, chương VII, về hình phạt, điều thứ 29 “Chư Chức sắc ai có phạm Luật pháp trong Đạo thì đem ra trước Toà Tam giáo phân xử” và “Toà Tam giáo có Đức Giáo-Tông làm đầu, ba vị Chưởng Pháp nghị án, vị Đầu-Sư phái mình về phần dâng biểu buộc tội. Một Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài làm Trạng sư.

    Chư Hiền hữu về nói lại với quí vị ấy muốn xử tội Đức Quyền Giáo-Tông và Bần Đạo hãy tiến hành đúng theo luật lệ Cao-Đài thì Đức Quyền Giáo-Tông và Bần Đạo sẽ đến dự.”

    Những kẻ đi mời về không tường thuật đầy đủ lời phát biểu của Đức Ngài, chỉ nói vắn tắt: “Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp không đến dự.”

    Nguyễn Phan Long Nghị trưởng chủ toạ đại hội vạn lịnh phán quyết rằng:

    - Vậy thì chúng ta xử khiếm diện.

    Họ đọc hết chồng báo bịa đặt vu-khống, tố cáo nặc danh, văn bản cật vấn vô căn cứ (mất trọn một ngày).

    Ngày hôm sau tiếp tục đại hội:

    Bà Phối-Sư Hồ-Hương-Lự (Bà mẹ của Đức Thượng-Sanh) mặc đại phục vào Cung Đạo Đền Thánh bái lễ xong, Bà đi thẳng đến bàn chủ toạ hỏi ông Nguyễn Phan Long:

    - Ông chưa nhập môn vô Đạo Cao-Đài, Ông chưa phải là Tín đồ Cao-Đài, vậy ông lấy tư cách gì mà làm chủ toạ cái đại hội này? Căn cứ vào luật lệ nào mà ông xử tội Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp? Hơn nữa toàn thể Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu đều có mặc áo chỉnh tề; còn ông đầu trần, mặc quần cụt ngồi giữa Bửu Điện Đền Thánh Cao-Đài có vô lễ lắm không?

    Ông Nguyễn Phan Long lúng túng đáp:

    - Tôi là nhà báo đến đây dự đại hội, vì không có ai xứng đáng làm chủ toạ, đại hội tín nhiệm tôi, bầu tôi làm Nghị trưởng chủ toạ đại hội vạn linh nầy.

    Bà Phối-Sư Hồ-Hương-Lự nhìn xuống Hội trường to tiếng cật vấn:

    - Chư Hiền huynh, Hiền Tỷ là Chức sắc Đại Thiên phong, vậy chư vị dựa vào điều khoản nào trong Pháp Chánh Truyền và Tân Luật mà bầu một người không phải là Tín đồ Cao-Đài (ngoại Đạo) làm chủ toạ đại hội của Đạo để xử tội Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp

    Không một ai trả lời được câu hỏi của Bà Phối-Sư Hồ-Hương-Lự, bỗng có Luật sư Diệp văn Kỳ đến phát biểu

    - Tôi thay mặt Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc đến thông báo với quí ông bà rằng:

    “Trong Đạo Cao-Đài: quyết nghị của Đại hội nhơn sanh, quyết nghị của Đại hội Hội Thánh và quyết nghị của Thượng Hội hợp nhứt lại là Quyền Vạn Linh, chứ không hề có “đại hội vạn linh”. Buổi họp của quí ông bà đây là ngoài chơn truyền luật pháp Cao-Đài."

    Bà Phối-sư dậm chân thét lên:

    - “Đức Chí-Tôn ơi! Quỉ Vương phá Đạo đây nè!”.

    Bấy giờ như ong vỡ tổ, tất cả mọi người lật đật cuốn áo mão bỏ hội trường ra về.

    Thế là cái gọi là “Đại hội Vạn linh” của các nhóm phá Đạo tự nhiên rút lui êm không trật tự.

    Thực dân Pháp gây áp lực và bắt buôc khiến cho:

    - Tri phủ Ngô văn Chiêu lập Chi phái Chiếu Minh.

    - Tri phủ Vương Quan Kỳ và Đốc học Đoàn văn Bản lập phái Cầu Kho.

    - Tri phủ Nguyễn văn Ca lập phái Minh-Chơn-Lý.

    - Chính khách Nguyễn Phan Long họp đại hội vạn linh truất phế Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp.

    Tất cả đều không đạt thành nguyện vọng và mục đích , chỉ vì không hiểu pháp luật của Đại Đạo.

    1- Thực dân Pháp bắt đầu lưu ý đến luật pháp Đạo:

    Nhất là Pháp-Chánh-Truyền là do chính Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế đến lập: Về luật công cử Chức sắc Cửu Trùng Đài đã có ghi rõ:

    - Phối Sư muốn lên Đầu-Sư thì phải có đủ ba mươi sáu vị Phối Sư xúm nhau công cử. Hiện tại Phối Sư chưa đủ 36 vị nên không thể công cử theo Pháp chánh truyền, do đó khi vị Đầu-Sư Thái-Minh-Tinh (Hoà-Thượng Thiện Minh) bị áp lực của thực dân Pháp và Phật giáo nên đã phế phận (không hành Đạo), còn vị Đầu-Sư Ngọc Lịch Nguyệt say mê luyện Đạo, cũng không hành đạo nữa. Chỉ còn lại có vị Thượng Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt mà thôi.

    Ngày 06-02 Nhâm-Thân (Thứ bảy 12-3-1932) Ngài Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt được quyền thiêng liêng thăng lên phẩm Quyền Giáo-Tông Lê-Văn Trung, do đó hàng phẩm Đầu-Sư hoàn toàn bị khuyết.

    Quyền hành này tức nhiên Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế, cho nên các Ngài hiệp lại chỉ định ba vị làm Quyền Đầu-Sư là:

    - Thái Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh hành quyền Thái Đầu-Sư.

    - Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh hành quyền Thượng Đầu-Sư.

    - Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh hành quyền Ngọc Đầu-Sư.

    Bấy giờ trong Đạo đã có đủ ba vị Quyền Đầu-Sư rồi.

    2-Thực dân Pháp hậu thuẫn và hỗ trợ phái Minh Chơn lý của Tri phủ Nguyễn văn Ca:

    Đồng thời họ truyền lịnh cho nhóm bồi bút phát động cao trào viết sách, làm báo để tấn công hầu đả phá Đạo Cao-Đài và hạ bệ hai Đấng đầu công bậc nhất của Đạo là Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp.

    Khi chiến dịch Cao-Đài Minh-Chơn-lý và nhóm người bồi bút đã đạt mức cao điểm, thì ba vị Quyền Đầu sư công bố:

    “Nền Đạo đang gặp cơn nguy biến nên ba vị Quyền Đầu-Sư phải dùng QUYỀN THỐNG NHỨT điều hành Hội Thánh đúng theo Pháp Chánh Truyền qui định.

    Quyền Thống Nhứt: “Khi Minh thệ rồi, Đầu-Sư đặng cầm quyền luôn cả về Chánh trị và Luật lệ.

    Nhờ quyền lớn lao này Đầu-Sư sẽ có đủ thệ lực mà ngăn ngừa tà quyền hại Đạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư không đủ sức chống ngăn, thì Đầu-Sư đặng dùng quyền Thống nhứt ấy mà điều khiển Hội Thánh. Cả Chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải phục mạng, dầu cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp cũng phải vậy.” (Hay! Ấy là lời khen của Đức Lý).

    Là một con dao hai lưỡi. Nguy hiểm thật!

    Nhưng đấy là chước quỉ “dùng gậy ông đập lưng ông” vô phương cứu chữa!

    Lúc bấy giờ ba vị Quyền Đầu-Sư căn cứ vào Pháp Chánh Truyền dùng quyền Thống nhứt của ba Quyền Đầu-Sư thỉnh cầu Đức Quyền Giáo-Tông, Đức Hộ-Pháp và Đức Thượng-Phẩm ra trước Hội Thánh lưỡng đài giải trình sự việc. Phái Cao-Đài Minh Chơn lý và nhóm Nguyễn Phan Long đã làm cho dư luận xôn xao đối với nền Đạo và nhất là thanh danh của ba Ngài, nhưng các Ngài xem như sự việc bình thường không cần giải thích.

    Luật pháp đã rõ ràng người chưa hiểu hãy kiếm chơn lý mà hiểu, người đã lầm phải sớm thức tỉnh trong kiếp sanh này, nếu không thì khi thoát xác phải đến Đại Hải chúng mà hối ngộ thì quá muộn rồi!

    3- Thực dân Pháp hậu thuẫn và hỗ trợ phái Cầu kho nhập cuộc chống đối Toà-Thánh:

    Ba Ngài cũng không giải trình sự việc trước Hội Thánh lưỡng Đài và cũng không cần giải thích lý do.

    Những nhóm này vẫn ngầm khích động, lôi kéo được thêm phái Cầu Kho nhập cuộc, tham dự vào cao trào chống đối Đạo Cao-Đài Toà Thánh Tây Ninh.

    Qua 15 tháng 7 năm Mậu Thìn (Thứ Tư:29-8-1928)

    Nhóm của Nguyễn Phát Trước (Bí danh Tư Mắt) là trùm du đãng Sài-gòn, Chợ-lớn đem hàng ngàn côn đồ về Toà Thánh Tây Ninh dùng võ lực trực tiếp đối với Đạo Cao-Đài..

    Ba vị Quyền Đầu-Sư của Cao-Đài Toà-Thánh Tây ninh liền họp với phái Cầu kho, phái Minh Chơn lý, nhóm của Nguyễn Phan Long và nhóm du đãng của Tư Mắt soạn một bản văn “Tối hậu thư” bắt buộc:

    - Đức Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung.

    - Đức Hộ-Pháp Phạm Công-Tắc.

    - Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư

    Mỗi người phải tự viết :Tờ nhận tội, Tờ từ chức, Tờ cam đoan không trở lại Thánh Địa Tây ninh. Nếu không tuân sẽ bắt trói ngoài rừng cho cọp xé xác ăn thịt.

    Ba Ngài cùng nhận định: Cả một cuộc đời các Ngài không làm một điều gì trái với đạo lý, chưa làm một điều gì thất nhơn tâm, nếu không nói là có công thì cũng không kể là có tội được, nên ba Ngài cương quyết không nhận. Vì rằng Đức Thượng Đế đã ban cho các Ngài phẩm tước thiêng liêng này để hành Đạo: chuyển thế và cứu thế, nay phận sự chưa rồi thì không thể từ chức.

    Còn việc không trở lại Toà Thánh thì dầu rằng bất cứ nơi nào cũng Phổ độ chúng sanh, cũng Hoằng khai Đại Đạo được. Nghĩ vậy Đức Hộ-Pháp rời Thánh Địa và xuống Từ-Vân-Tự ở Túc Trưng (Thủ đức). Đức Thượng-Phẩm thì về Thảo xá Hiền cung ở Tây-ninh.

    Chỉ riêng Đức Quyền Giáo-Tông, Ngài nói rằng Đức Thượng-Đế giao cho Ngài làm Anh Cả nhơn sanh và lãnh đạo cả cơ nghiệp Đại-Đạo nơi thế gian này, Ngài quyết không tham sống sợ chết. Nhất định ở lại Toà Thánh Tây ninh này, ung dung ở lại Giáo-Tông-đường chờ lũ Quỉ dữ đến.

    Trong khi đó thành phần đối lập tự mạo nhận viết Tờ nhận tội, chịu từ chức, cam đoan không trở lại Toà Thánh, xong rồi đưa vào Giáo-Tông Đường bắt buộc Đức Ngài ký tên. Chúng hẹn sau 24 giờ đồng hồ mà Ngài không ký thì sẽ cho các lực lượng côn đồ (nhóm du đãng của Tư Mắt) sẽ tấn công vào Giáo-Tông-đường giết chết Ngài. Bên ngoài hàng ngàn tên du đãng đang chờ lịnh!

    Được hung tin ấy, Bà Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) chạy xe từ Vĩnh long qua Từ-Vân-Tự gặp Đức Hộ-Pháp, được Đức Ngài cho xem Thánh giáo của Đức Chí-Tôn. Bà rời Từ-Vân-tự về Toà Thánh. Đến nơi chỉ còn 45 phút nữa. Bà đến gặp ba vị Quyền Đầu-Sư, Bà nói:

    - Chuyện đâu còn có đó, thiếu gì cách giải quyết, cần gì phải dùng bạo lực? Thầy đã bảo “Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hoà” Các anh không nhớ sao? Các anh dùng bạo lực giết chết Anh Cả Lê Văn Trung thì đồng Đạo sẽ nghĩ gì về các Anh? Đời sẽ nhìn vào hành động của các anh mà đánh giá Đạo như thế nào? Nếu các anh muốn cho Anh Cả nghỉ hành Đạo thì để tôi vào Giáo-Tông-Đường khuyên Anh Cả.

    (Cái khó cho nhóm người dã tâm này là còn có mặt Ngài Quyền Đầu-Sư Thái Thơ Thanh là bạn đời của Bà Lâm Ngọc Thanh, mặc dù ông Thơ cũng đang bị cưỡng chế, nhưng nếu Ông rút khỏi Quyền Thống nhứt của ba Đầu-Sư, thì quyền ấy cũng tan rã, không còn hiệu lực).

    Thế nên nhóm đối lập của ông Trang và ông Tương cầm đầu, đồng ý để cho Bà Chánh Phối-sư Lâm Hương Thanh vào Giáo-Tông-đường gặp Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung. Khoản 30 phút trôi qua, Bà Lâm Hương Thanh từ trong Giáo-Tông-Đường đi ra, tay cầm tờ giấy phất phất lên ra hiệu là Đức Quyền Giáo-Tông đã nhận chịu tất cả rồi, Bà ra lịnh cho Bảo thể và nhóm côn đồ của Nguyễn Phát Trước (Tu Mắt) giải tán, Bà nói:

    - Còn mấy chú này giải tán đi, Anh Cả đã đồng ý nghỉ rồi!

    Bà trao tấm giấy cho Quyền Thái Đầu-Sư Thái Thơ Thanh, rồi tự lái xe Traction 15 Normal vào tận cửa Giáo-Tông-Đường rước Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung ra thẳng cửa số 1 (Hoà viện) về làng Long thành, quận Châu thành, Tỉnh Tây ninh, lập Từ bi thôn tu tại gia..

    Văn bản tự tay Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung viết ngắn gọn:

    “Từ khi Đức Chí-Tôn giao cho lèo lái thuyền Đạo. tôi đã Đông xông Tây đột, Nam Bắc tảo trừ, quên ăn, quên ngủ. Nay tôi tuổi cao, sức yếu, bệnh hoạn. Tôi trao quyền cho các Em tôi:

    - Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.

    - Thái Thơ Thanh.

    - Thượng Tương Thanh.

    - Ngọc Trang Thanh

    Điều khiển nền Đạo khi tôi nghỉ dưỡng bịnh.

    Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung

    (Thượng Trung Nhựt)

    4- Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh nắm trọn quyền hành:

    Bấy giờ hai ông Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh nắm trọn quyền hành trong Đạo. Mặc tình bổ nhiệm các tay thuộc hạ vào những chức vụ trọng yếu trong Đạo. Thăng phẩm vị cho Chức sắc đàn em. Chuẩn bị nhân sự bổ đi làm Đầu họ đạo, Đầu tỉnh đạo ở địa phương.

    Đức Hộ-Pháp ở nơi Thủ Đức theo sự hướng dẫn của Thất nương Diêu Trì Cung, phò Cơ giúp đồng bào xin toa thuốc hoặc tìm hiểu cõi vô hình. Đồng bào ngày một đến rất đông.

    Thuở đó ở Mỹ tho có một nhóm cầu Cơ để xướng hoạ thơ văn với cõi vô hình. Mỗi lần tổ chức cầu Cơ thì ngọn đèn nơi bàn cầu Cơ có ống khói loáng màu đỏ nên gọi là Hồng đăng đàn. Ở Cai-lậy, Cái Bè, Mỹ tho cũng có một nhóm cầu cơ như vậy nhưng ống khói đèn nơi bàn cầu Cơ lại loáng màu trắng, gọi là bạch-đăng-đàn. Hai nhóm này thường trao đổi những bài Thánh giáo nhận được cho nhau xem, để xem nhóm nào nhận được bài của các Đấng cao trọng hơn.

    Một hôm, một vị Đại Tiên trong nhóm Bạch-đăng đàn dạy các vị này lên Từ-Vân-Tự ở Túc Trưng Thủ-Đức rước Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc về đây và tất cả phải tùng theo sự chỉ dạy của Đức Ngài. Đồng thời khi ấy nhóm Hồng đăng đàn cũng được dạy y như vậy.

    5- Đức Hộ-Pháp làm phận sự của Chí-Tôn giao phó là lập Phạm Môn:

    Đức Ngài nói:

    “Chỉ Qua biết phận sự của Qua là Đại-Từ Phụ giao phó với một lời yếu thiết như thế này:

    - Tắc, đời quá khổ chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh thần nữa, nạn của nhơn loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng phải cứu khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thể xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy giao phó cho con, nhưng mà con phải hiểu: có khổ về tinh thần mới biến sanh ra khổ của thể xác.

    Thầy nói rõ Thầy giao cho một gánh Đạo và Đời. Thực sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần-Đạo khủng khiếp. Duy có gánh của Đời, Ngài giao phó nó nặng nề hơn hết…”

    Trước, vào ngày rằm tháng giêng năm Mậu Thìn (dl 06-02-1928) Đức Thượng Đế có dạy Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư đến làng Phú mỹ, quận Cai-Lậy, tỉnh Mỹ tho lập Minh-Thiện Đàn. Nay, trong lúc Đạo Cao-Đài bị khảo đảo dồn dập, Minh-Thiện-đàn không được trông nom tới, có vẻ suy tàn, nên khi Đức Hộ-Pháp đến hợp nhứt hai nhóm cầu Cơ trên để phục hưng lại Minh Thiện Đàn và Đức Ngài làm Chưởng quản đồng thời cũng lập Phạm Môn. Khi ấy, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế có giáng cho bài thi về Phạm Môn, sau Đức Hộ-Pháp giải trong bài thuyết Đạo:

    Phạm-Môn là gì? Do nơi đâu mà nảy sanh ra Phạm-Môn ?

    “Phạm-Môn là cửa Phật; Phạm là Phật, môn là cửa, tức là cửa Phật, thật-hành là nhà Phật.

    Trong Thánh-ngôn hiệp-tuyển trang thứ 119 về khỏan thi văn dạy Đạo, có một bài thi tứ tuyệt, chính mình Đức Chí-Tôn giáng cho như vầy:

    Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn,
    Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
    Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
    Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.

    Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm-Môn là nghĩa gì?

    Nghĩa là Chí-Tôn kêu cả con cái của Đức Chí-Tôn thức giấc cho mau hiến thân vào cửa Phạm.

    Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn nghĩa là khuyên chúng sanh nên ráng tu-hành tùng khuôn viên kỷ-luật nhà Phật, thì ngày kia linh hồn được siêu thăng thoát hóa.

    Vô lao bất phục hồi chơn mạng là Đức Chí-Tôn dạy con cái của Ngài nếu không công lao khổ hạnh trong cửa Đạo thì không thể nào trở về ngôi xưa vị cũ được.

    Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn là nhằm lúc thế kỷ hai mươi này, thời kỳ Đức Chí-Tôn rộng mở cửa Phật độ toàn con cái của Ngài, chỉ khuyên chúng ta ráng tu tỉnh ngộ, huỷ cả hành-vi của thế sự, đem thân vào cửa Phạm chịu nâu sồng, khổ hạnh cho đặng thì tự-nhiên đắc Đạo tại thế đó vậy.

    Thưa chư Chức-sắc Thiên phong Nam nữ, bài thi này chính Đức Chí-Tôn giáng dạy trong Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển hai mươi mấy năm trường; song le, ít ai để ý tìm hiểu nghĩa lý sâu xa có ẩn nhiều huyền-vi mầu-nhiệm của Đạo .

    Do bởi tấm màn bí-mật nên khó nỗi truy tầm, song cũng có lắm người vén được màn bí-mật ấy, nên ngày nay nhơn-sanh mới hưởng được giọt nước Cam-lồ của Đức Chí-Tôn cho tòan nhơn-loại.

    Đời quá bạo tàn cho nên Đức Chí-Tôn mới giáng trần mở Đạo cho con cái của Ngài biết; các ngôi Thần, Thánh,Tiên, Phật đều tình-nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu. Trong thời kỳ Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn xuống thế mở Đạo thì Đức Chí Tôn mới hỏi rằng:

    - Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí-pháp trước hay là mở thể-pháp trước ?

    Bần-Đạo mới trả lời:

    - Xin mở Bí-pháp trước

    Chí-Tôn nói: Nếu con mở Bí-pháp trước thì phải khổ đa ! Đang lúc đời đang cạnh-tranh tàn-bạo, nếu mở Bí-pháp trước cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại, thì mối Đạo phải ra thế nào ? Vì thế nên mở thể-pháp trước, dù cho đời quá dữ có tranh-giành phá hoại cả cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại. Xin miễn là mặt Bí-pháp còn là Đạo còn”.

    (ĐHP 30-5-Quí-tỵ 1953)

    Bấy giờ, số người nghe theo Đức Hộ-Pháp vào Phạm Môn ngày càng đông. Trước cổng Phạm Môn Đức Hộ-Pháp có đặt đôi liễn như vầy:

    PHẠM giáo tùy nguơn cứu thế độ nhơn hành chánh pháp.

    MÔN quyền định hội trừ tà diệt mị hộ chơn truyền

    Đôi liễn nầy về sau đặt tại cổng của Hộ-Pháp Đường thường gọi là đôi liễn Phạm Môn, vì hai chữ đầu là PHẠM MÔN. Đôi liễn nầy cũng thấy đặt phía sau ba cái ngai của Đức Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh tại Hiệp-Thiên Đài của Đền-Thánh Tòa Thánh Tây Ninh..

    Đôi liễn Phạm Môn biểu thị tôn chỉ của Phạm Môn tức là Cửa Phật.

    Giải nghĩa:

    Phạm: Phật. Lưu ý: Chữ Phạm 梵 là Phật, khác với chữ Phạm 范 là họ Phạm. Giáo: dạy. Tùy: theo. Nguơn: chữ Nguơn của câu 1 đối với chữ Hội của câu 2. Nguơn Hội là chỉ những khoảng thời gian dài.

    Đức Ngài còn dẫn giải đây chính là sự nghiệp của người tu theo tinh thần của Cao-Đài tức là Phật giáo chấn hưng, nên cũng còn gọi là PHẠM NGHIỆP.

    Còn có câu câu liễn như vầy nữa:

    PHẠM nghiệp thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng

    MÔN quan tích đạo tinh thần pháp bửu hữu cơ cầu

    Đôi liễn nầy do Đức Phạm Hộ-Pháp viết ra và Đức Ngài cho đặt lên cổng của ngôi nhà Phạm Nghiệp vừa mới cất xong. Phạm nghiệp là cơ sở đầu tiên của Phạm Môn, do Đức Ngài lập ra vào năm 1929 tại phần đất nằm bên quốc lộ 22, khoảng giữa Giang Tân và Thị xã Tây Ninh.

    Hai chữ đầu của đôi liễn là PHẠM MÔN, nên Phạm Nghiệp chính là Phạm Môn, mà Phạm Môn cũng chính là Phạm Nghiệp.

    Giải thích:

    * Phạm: Phật. Phạm nghiệp: sự nghiệp của Phật. (Đừng hiểu lầm là sự nghiệp của dòng họ Phạm). Thừa nhàn: nhơn vào lúc nhàn. Lợi lộc: những món lợi nói chung. Công danh: có sự nghiệp và địa vị cao trong xã hội. Vô: không. Sở dụng: cái công dụng của nó.

    Câu 1: Sự nghiệp của Phật, thừa lúc nhàn, lợi lộc và công danh đều không cần dùng đến.

    * Môn: cửa. Quan: cơ quan. Tích đạo: chứa đạo đức. Tinh thần: phần sáng suốt thiêng liêng. Pháp bửu: cái pháp quí báu. Cơ cầu: con cháu nối theo cái nghề nghiệp do cha ông truyền lại.

    Câu 2: Cơ quan chứa đạo đức, tinh thần và pháp bửu truyền lại được người sau noi theo.

    Số người theo ngày càng đông đến nỗi phải cất thêm nhiều nhà cửa bằng tranh lá tạm mới có đủ chỗ cho người đến học Đạo thuộc Phạm Môn lúc bấy giờ. Khi có số đông người thì phải có qui điều giới luật là đương nhiên

    “Thập điều giới răn” ra đời:

    Đức Hộ-Pháp có ra 10 điều răn cấm cho người Phạm Môn do theo mà học hỏi gọi là “Thập điều giới răn”

    Điều 1- Phải tuân y Luật pháp chơn truyền của Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

    Điều 2- Phải trọn hiếu với Tông đường, phụ mẫu. Trọn nghĩa vợ chồng, vẹn phận làm cha mẹ.

    Điều 3- Phải giữ trai giới

    Điều 4- Phải xa lánh các đảng phái chánh trị

    Điều 5- Phải thật hành Phước Thiện, nuôi người già, dưỡng trẻ nhỏ.

    Điều 6- Không đặng thâu của chúng sanh.

    Điều 7- Coi anh em đồng Đạo như ruột thịt.

    Điều 8- Không bội sư, phản bạn.

    Điều 9- Phải ở như các Thánh Hiền, đừng phạm tội vong ân, bội đức.

    Điều 10- Phải thương yêu cả loài người, loài vật, kỉnh mạng sanh theo Thánh chất của Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế là Chúa sự sống.

    6- Lập Hồng thệ khi vào Phạm Môn:

    Nhân sự nơi Phạm Môn ngày càng đông nên cần phải mở Lương điền ra các Tỉnh khác nữa.

    Ngày 03-01 năm Nhâm Thân (Thứ Hai:8-2-1932)

    Tất cả người Phạm Môn lập Hồng thệ “Đào Viên Pháp” quì trước Thiên Bàn Đức Chí-Tôn mà thề rằng:

    “Tôi, (Họ, Tên, Tuổi) thề rằng từ nay coi Phạm Môn như ruột thịt, sanh tử bất ly, thoảng có điều chi hoạn nạn thì tôi liều mình với anh em tôi. Nếu ngày sau tôi thất nguyện, quyền Thiêng liêng sẽ hành pháp Tận đoạ Tam đồ bất năng thoát tục và Thầy tôi không nhìn nhận tôi nữa”.

    Thoạt đầu, nhóm thực dân Pháp nghi rằng Đức Hộ Pháp sẽ lập ra Chi phái Cao-Đài mới, để đối kháng với ba ông Quyền Đầu-Sư đúng như ý đồ của Pháp hoạch định, do đó chúng mới để yên cho Minh Thiện Đàn phát triển.

    Đến khi thấy thành lập Phạm Môn, ban qui điều. Phân nhiệm tổ chức. Phát triển hậu cần. Bấy giờ thực dân Pháp sinh lo ngại nên quyết dẹp Phạm Môn. Chúng xúi giục những thân nhân của nhóm người theo Phạm Môn kiện Đức Hộ-Pháp ra Toà về tội “dụ dỗ con em của họ bỏ quên tộc họ của mình mà tôn thờ họ Phạm”, phá hoại phong hoá Việt-Nam, xúc phạm Tông đường của họ.

    7- Đức Hộ-Pháp ra Toà trả lời về Phạm Môn:

    Trước Toà, Đức Hộ-Pháp giải thích rằng:

    Câu 1: Chữ Phạm có nhiều nghĩa trong lối viết chữ Nho, mà chữ Phạm 梵 đây là Phật, gồm có lâm 林 trên và phàm 凡 dưới. Dẫn chứng hai chữ Phạm Môn 梵 門 (lối vô tự kinh) ở trước Đền Thánh đó. Hai khu rừng thiên nhiên, mỗi một khu rừng tượng chữ mộc 木 (Mộc là cây) hai khu rừng tượng hai chữ mộc liền nhau, thành ra chữ lâm 林 là rừng. Trước Đền là sân Đại-đồng-xã tượng cho cảnh phàm 凡. Bấy giờ ghép lại: Lâm đặt trên, phàm đặt dưới thành ra chữ PHẠM. Chung quanh Đền có 12 cửa tượng là môn 門. Do đó mà Phạm Môn chính là đây, là cửa Phật. Đôi liễn này hiện đặt ở cổng Hộ-Pháp-Đường.

    Tóm lại: Phạm Môn là cửa Phật, chứ không phải là tộc họ Phạm của Ngài (Phạm Công Tắc).

    Câu 2: Khi vào Phạm Môn có buộc mỗi người phải làm Tờ hiến thân, có cha mẹ, vợ chồng đồng ý ký tên mới nhận, thì không có lý do gì ai dụ dỗ ai được.

    Câu 3: Điều thứ nhì trong “Thập điều giới răn” của Phạm Môn có qui định rõ “Phải trọn hiếu với Tông đường, phụ mẫu. Trọn nghĩa vợ chồng, vẹn phận làm cha mẹ.”thì không thể bảo rằng phá hoại luân lý, xúc phạm Tông đường được.

    Toà không buộc tội về những lý do trên, lại xoay qua vấn đề “Lập Hội đoàn” không xin phép.

    Đức Hộ-Pháp chống án lên Toà Thượng Thẩm Sài gòn. Toà Thượng Thẩm Sài gòn xử chung quyết “Y án Toà Sơ Thẩm”. Đức Ngài liền chống án lên Tối Cao Pháp Viện ở Thủ đô Paris (Pháp). Đức Ngài uỷ quyền cho Ngài Bảo-Cô-Quân là Luật-sư Dương văn-Giáo thay mặt Đức Ngài lo việc chống án. Kết quả: Tối Cao Pháp Viện phán quyết: Trắng án!

    Bấy giờ, Đức Ngài vẫn lo hoạt động Phạm Môn: một mặt bổ nhiệm 21 vị Phạm Môn đi 21 Tỉnh (Thuở ấy miền Nam Việt-Nam chỉ có 21 Tỉnh mà thôi). Một mặt Ngài trở về Tây-Ninh lập Phạm Nghiệp như đã nói trên.

    8-Quyền hành của Hộ-Pháp phải như thế. Ai hiểu?

    Đức Hộ-Pháp nói:

    “Mấy em Nam, Nữ nghĩ coi; một lời tiên tri trước kia nó hiện tượng hôm nay ra thể nào, mấy Em biết cái huyền linh vô biên của Đấng cầm quyền thưởng phạt vô hình nó mạnh mẽ và chơn thật thế nào? Bởi cớ cho nên khi Đạo mới phôi thai thì các quỷ-quyền toan diệt Đạo. Buổi sơ sanh Đạo yếu ớt, bạc nhược, ngu dại, dốt nát thế nào, nên bị nó giục cho thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt Đạo cho kỳ đặng. Họ đồ mưu chia rẻ làm cho trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn phải ly tán, Anh nghịch Em, Em bất hòa với Anh, cả nền Đạo chinh nghiêng đảo ngược.

    Gánh một chức vụ Hộ-Pháp cầm cả Luật Pháp của Đạo, không lẽ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí Tôn. Qua phải tìm phương giải quyết đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn muốn ấy đặng làm căn bản. Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra Phạm-Môn và Qui-thiện.

    Thiên hạ nói Qua lấy Tộc Qua là Phạm, tức nhiên lập cái đảng-phái cho họ Phạm.

    Qua hỏi: Thiên hạ đã tuyên-truyền dối trá ấy đặng đánh đổ cả uy-tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề trả lời cho ai hết, dầu cho quyền hành buổi nọ rất mạnh-mẽ đòi phen đem đến Luật hình, mà chính mình Qua cũng chưa nói cho họ biết nghĩa lý Phạm-Môn là gì?

    Hôm nay mấy em biết chưa?

    Có lẽ phần nhiều mấy em đã biết, Phạm ấy là Phật, Phạm Môn là cửa Phật, nói rõ hơn nữa là cửa Tu Chơn của Đạo, cửa Bảo-thủ Chơn Pháp của Chí-Tôn. Còn Qui Thiện thế nào Qua chưa nói ra cho thiệt tướng.

    Thiên hạ đều hung bạo, vì lẽ hung bạo làm cho Anh nghịch Em, Em hận Anh, trong cửa Đạo không có một vẻ chi là Đạo hết. Lập trường Qui-thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ Chơn-Truyền của Đạo.

    Buổi đầu tiên nó sản xuất tại nơi Mỹ-Tho, Qua lập "Khổ Hiền Trang” mấy em biết hai chữ Khổ Hiền ý định Qua thế nào không? Trong bảy mươi hai anh em chung sức cùng nhau mà làm đầu trường Qui-Thiện ấy là Đinh Công Trứ vẫn là một trong đó vậy. Nhờ cả sự giáo hóa của Qua cái nghĩa lý tối yếu, tối trọng của Chơn-Pháp Đức Chí-Tôn Qua giao lại cho nó, để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh-Công-Trứ là vậy.

    Tưởng cũng như Qua đã bị các nạn-nhân của các lực lượng quyền Đạo luôn quyền Đời.

    Buổi nọ thiên hạ tuyên-truyền dối trá thì Đinh Công-Trứ cũng bị nạn ấy. Qua đã bị thiên hạ chê là lo Đời hơn lo Đạo, thì Đinh-công-Trứ cũng vậy, thiên hạ nói nó cũng như Qua lo Đời hơn lo Đạo.

    Mấy em ôi! Trong buổi phong ba bão táp, nhơn loại ở trong sông mê bể khổ, một con thuyền Bát-Nhã chưa tạo thành đặng độ-rỗi họ, ít nữa mấy em cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của họ đặng bao nhiêu hay bấy nhiêu.

    Thiên hạ thấy mấy em khổ-não, cái khổ ấy nó đã làm cho Qua đổ biết bao nhiêu giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo. Tân-Dân-Thị chính của mấy Em tìm phương chui đụt, tìm phương giải khổ cho mấy Em. Mấy Em được hạnh-phúc hay chăng là do lòng đạo đức của mấy Em. Qua còn sống đây thì Qua cũng lo tạo dựng mảy-may hạnh phúc cho mấy Em. Tạo hạnh phúc ấy chỉ có một đường lối duy nhứt là Qua làm sao cho mấy Em giải khổ, phận sự Thiêng Liêng của Qua là vậy.

    Trong Bí-pháp Qua viết chữ Hòa, nơi Tân-Dân Thị nhờ chữ Hòa mà thêm lòng yêu ái. Qua gởi hai chữ Hòa Ái nơi lòng của mấy Em đó vậy. Qua cầu xin mấy Em có một điều là chung sức cùng nhau đặng tạo hạnh phúc cho nhau, mấy Em đã có sẵn tình đức của Đức Chí-Tôn đã đến trong ba chục năm nay thôi, chỉ trong ba chục năm hưởng được đặc ân của Đại-Từ-Phụ đã đến tạo cả tâm hồn mấy Em. Tình đức trong Đạo ấy, mấy Em tu thân dễ quá chừng quá đỗi. Tu thân mấy Em là làm nền móng vững chắc đặng lập công danh, đừng ngó ra ngoài những giả dối đó mà cho là sự thật. Chưa có thật đâu mấy Em ! Đứng trong cửa Đạo nương tình đức lập thân danh. Qua dám nói chắc cả con cái Đức Chí-Tôn Nam, Nữ để ý, do căn bản tình đức ấy chẳng hề khi nào hư, nếu Qua không nói mấy Em ngồi trên đầu thiên hạ”.

    (ĐHP thuyết đêm 14-11 Giáp Ngọ)

    9- Đức Hộ-Pháp lập Phạm nghiệp:

    Ngày 15 tháng 8 Mậu Thìn (Thứ Sáu:28-9-1928)

    Đức Hộ-Pháp trở về nơi Trường Đua, làng Trường Hoà, quận châu thành, Tỉnh Tây Ninh mua một phần đất lập Phạm Nghiệp. Mục đích lập Phạm nghiệp là để cho thành phần đối lập trong Đạo Cao Đài giờ này họ chỉ chú ý vào đấy (Một hình thức dương đông kích tây). Ngoài ra Ngài còn lo tiến nhanh tổ chức các sở Lương điền Phạm Môn thuộc Tỉnh Tây-ninh nữa, như:

    Sở Khách đình: từ địa phận cửa số 5 đến cửa số 8 thuộc Thánh địa.

    Sở Trường Hoà (vùng bàu sen).

    Sở Giang Tân (Mé sông vàm cỏ, nơi giáp ranh xã Trường hoà và Long Thành).

    Sở Cầu khởi. Sở Mít một. Sở Dưỡng lão…

    Bấy giờ trước sự im lặng của Đức Quyền Giáo-Tông, sự tích cực hoạt động của Đức Hộ-Pháp, nhóm người đối nghịch cũng rất lo ngại, nên quyết ra lịnh “Truất phế” ngay những vị này.

    10- Về phía của hai ông Tương Trang chiếm hữu Toà-Thánh:

    Sau khi nắm trọn quyền điều hành Hội-Thánh, hai ông Quyền Đầu-Sư là: Thượng Tương Thanh (Tri phủ Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Tri phủ Lê Bá-Trang) đã hiện rõ chân tướng mình là: Tham quyền cố vị, thể hiện hết sự độc tài, độc đoán, bất chấp chơn truyền đạo lý và không tuân thủ luật pháp của Đại-Đạo. Do vậy mà thời gian này Ngài Quyền Thái Đầu-Sư Thái Thơ Thanh đã tuyên bố không hợp tác với hai vị này.

    Thế là không còn đủ số ba Quyền Đầu-Sư mà hành Quyền Thống nhứt của ba vị Đầu-Sư được nữa. Mặc dù vậy, hai ông Tương và Trang vẫn thi hành theo mật lịnh của thực dân Pháp; tiến hành truất phế Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.

    Hai ông cho mời tất cả Chức sắc Cao-Đài: Đầu Tình đạo, Đầu Quận Đạo, Chức việc đầu hương đạo về Toà Thánh Tây Ninh nhân ngày Lễ Vía Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, ngày 9 tháng giêng năm Kỷ-Tỵ (Thứ Hai: 18-02-1928) với mục đích lợi dụng người địa phương không rõ nội tình ở Trung ương làm cuộc sách động truất phế hai Ngài luôn.

    Trong khi đó Đức Hộ-Pháp đã thông báo cho các Sở Lương điền Phạm Môn trên toàn quốc ngầm giải thích hành động của hai ông Tri phủ Tương và Trang. Do đó lượng người kéo về Toà Thánh đông gấp hai, ba lần những năm khác (Ngài dùng phương pháp tương kế tựu kế).

    Đến giờ cúng Đại Đàn Lễ Vía Đức Chí-Tôn bất thình lình Đức Hộ-Pháp và Đức Quyền Giáo-Tông xuất hiện trong giờ cúng.

    Sau phần nghi lễ, Đức Quyền Giáo-Tông lên Đài thuyết Đạo. Đại ý nói là khi Đức Ngài nghỉ dưỡng bịnh có trao quyền điều hành lại cho Hội Thánh là các ông:

    “- Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.

    - Thái Thơ Thanh.

    - Thượng Tương Thanh.

    - Ngọc Trang Thanh

    Điều khiển nền Đạo khi tôi nghỉ dưỡng bịnh.”

    Đức Hộ-Pháp cũng trình bày việc Ngài rời Toà Thánh Tây Ninh xuống Từ-Vân-Tự, Túc trưng (Thủ đức), rồi xuống Cai lậy Mỹ tho thống nhứt Hồng Đăng Đàn và Bạch Đăng Đàn, củng cố Minh Thiện Đàn, lập Phạm Môn, lo tạo Sở Lương điền... không kiểm soát việc làm của Hội Thánh Cửu Trùng Đài, để nhiều Chức sắc vi phạm lời Minh thệ khi Nhập môn cầu Đạo “Hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài”.

    Lúc ấy Đức Hộ-Pháp lên giải lý và xuất trình một số Thánh giáo của Đức Phật-Mẫu và Thất Nương Diêu Trì Cung dạy Ngài phải xuống Thủ Đức rồi Cai-lậy (Mỹ tho) củng cố Minh-Thiện-Đàn làm sáng tỏ tánh thiện của người Đạo Cao-Đài cho nhơn sanh thấy rõ hầu tùng theo chơn truyền Đại-Đạo. Khi một người đã vào Đạo thì Cửu Trùng Đài giáo hoá họ về việc tu hành. Khi qui vị thì Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài giúp đưa chơn linh họ vào Bát-Quái-Đài. Ngoài ra Đức Ngài còn lo gỡ ếm “Long Tuyền Kiếm”của người Tàu, để phục lại cho Việt-Nam có được Thánh Chúa, tôi Hiền, phát Vương, phát Tướng.

    Vì tầm quan trọng đó: lo cho nhơn sanh tức là lo cho Tổ quốc Việt-Nam, nên Đức Ngài phải gát lại việc kiểm soát Hội-Thánh Cửu Trùng Đài trong thời gian qua.

    Đối với số Chức sắc không giữ đúng lời Minh Thệ Ngài phân tích:

    - Quyền Chí-linh hiệp quyền vạn linh, tức là Trời Người hiệp một. Quyền lực tối cao của Đức Thượng Đế còn không độc đoán, vậy hai Ông Tương và Trang chỉ là Quyền Đầu-Sư mà mọi việc lớn nhỏ trong cửa Đạo lại lắm quyền độc đoán, một mình tự quyết như vậy là vi phạm luật của Đạo.

    - Chiếu y Pháp Chánh Truyền thì:

    . Giáo hữu muốn thăng lên Giáo Sư thì nhờ 3.000 vị Giáo Hữu xúm nhau công cử.

    . Giáo-sư muốn thăng lên Phối-Dư thì nhờ 72 vị Giáo Sư xúm nhau công cử.

    . Phối Sư muốn thăng lên Đầu-Sư thì nhờ 36 vị Phối Sư xúm nhau công cử.

    Hiện nay trong cửa Đạo, mỗi phẩm cấp đều không đủ số như Pháp Chánh Truyền qui định. Do đó Đức Lý Đại Tiên Trưởng Nhứt Trấn Oai nghiêm kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã thỉnh ý Ngọc Hư Cung và đã được dạy là trao quyền thăng phẩm vị Chức sắc cho QUYỀN VẠN LINH cho đến khi có các phẩm vị Chức sắc thì sẽ áp dụng luật cầu thăng theo như Pháp Chánh Truyền qui định.

    - Như vậy việc hai ông Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh thăng phẩm vị cho một số Chức sắc thuộc hạ là vi phạm vào luật lệ Cao Đài.

    - Như việc hai vị này giao trách nhiệm cho Giáo Hữu Thượng Chính Thanh làm Quyền Thượng Thống Lại viện, quản lý toàn bộ Chức sắc Cửu Trùng Đài, cũng là vi phạm luật lệ của Đạo.

    - Vấn đề bổ Chức sắc: không được thuyên bổ Chức sắc về nơi nguyên quán, để khỏi bị mặc cảm đối với dĩ vãng, nếu có, hoặc vì quen thuộc mà vị nễ nhau khó làm việc mà mất sự vô tư. Hai vị này đã vi phạm vào luật Đạo.

    Sau đó, toàn Đạo thỉnh cầu Đức Quyền Giáo-Tông vừa dưỡng bịnh vừa trở lại chấn chỉnh lại Hội-Thánh Cửu Trùng Đài và cũng thỉnh cầu Đức Hộ-Pháp thường xuyên có mặt ở Toà-Thánh Tây Ninh lo cho nền Đạo giữ đúng luật pháp chơn truyền Đại-Đạo.

    Hai ông Quyền Đầu-Sư: Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh đã bị mất uy tín trong toàn Đạo và hỏng cả kế hoạch “truất phế” hai Đấng đầu công của Đạo là Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc ngay trong thời điểm này.

    11- Phương pháp dùng bạo lực của nhóm phản đối:

    Hai vị Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh họp với các nhóm của Minh Chơn Lý, nhóm Cầu kho, nhóm Nguyễn Phan Long và nhất là nhóm du đãng của Nguyễn Phát Trước (tức là Tư Mắt) làm nồng cốt, quyết dùng bạo lực.

    Đức Hộ-Pháp đàng này cho gọi tất cả anh em Phạm Môn về bảo vệ Thánh Địa Tây Ninh. Hàng hàng lớp lớp người Cao-Đài chân chính và người của Phạm Môn chia nhau canh gát tất cả các cửa vào Nội-Ô Toà Thánh. Lực lượng thành phần đối lập đương nhiên xông vào, thế là trận xô xát xảy ra từ 7 giờ đến 9 giờ, thì nhóm đối lập này bị yếu thế, đành rời khỏi Thánh Địa mà trở về địa phương của họ.

    Ngày 26-5 Quí Dậu (Thứ Ba: 18-7-1933)

    Hội Thánh Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ Độ lập Đạo Nghị định thứ 17 ngưng quyền cả hai Ông:

    - Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh (Tri phủ Nguyễn Ngọc Tương )

    - Quyền Đầu-Sư Ngọc Trang Thanh (Tri phủ Lê Bá Trang)

    Ngày 13-10 Giáp Tuất (Thứ Hai: 19-11-1934)

    Đức Quyền Giáo-Tông ở Toà-Thánh qui Tiên, toàn Đạo đều thọ tang một bậc Giáo-Tông đáng kính.

    Hai ông Tri phủ Tương và Trang về dự đám tang với chủ định là cướp quyền Đạo một lần nữa. Nhưng Đức Quyền Giáo-Tông đã tiên liệu nên có lời Di chúc là:

    “Cấm hai vị Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang cùng đám thuộc hạ không được dự tang lễ của Đức Ngài”.

    Do đó mà đoàn người phải trở về Bến Tre.

    Sau ngày Lễ Đại Tường của Đức Quyền Giáo-Tông (tức là 581 ngày, sau ngày qui) Đức Hộ-Pháp có giải rõ về “Đại Hội Nhơn Sanh” là việc cần yếu. Nhân đó tổ chức Đại hội này, toàn Đạo sẽ chọn người đủ khả năng tài đức mà uỷ nhiệm và trao cho người xứng đáng để đảm nhiệm trọng trách Chưởng quản Cửu Trùng Đài.

    Kết quả Hội-Nhơn-Sanh đã Uỷ nhiệm trách vụ Chưởng Quản Cửu-Trùng-Đài cho Đức Hộ-Pháp kiêm nhiệm, tức là kể từ ngày này Đức Hộ-Pháp sẽ Chưởng Quản cả Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp-Thiên và Cửu Trùng cho đến ngày có Đầu-Sư chánh vị..

    Sau đó, phò cơ thỉnh giáo Đức Lý Đại Tiên, Đức Ngài có dạy rằng: “Trước kia Lão có nói sẽ nhượng nửa quyền về phần xác cho Hộ-Pháp, thì Lão đã đồng ý giao trách nhiệm cho Hiền Hữu. Nếu không có nửa quyền của Lão chia cho thì Hộ-Pháp khó có thể điều hành Hội-Thánh Cửu Trùng Đài.”

    Qua bao lần số chức sắc đàn Anh đã ra đi: một số bỏ Đạo, một số lập Chi phái rồi kéo theo số thân tín của mình thành ra số Chức sắc của Tòa Thánh buổi đầu vốn đã ít giờ lại ít hơn, tinh thần cũng kém, nên việc điều hành Hội-Thánh giữa buổi này rất khó.Đức Lý Đại Tiên cho Thi

    Bắt ấn trừ yêu đã đến kỳ,
    Ngọc Hư định sửa mối Thiên Thi.
    Cửu Trùng không kế an thiên vị,
    Phải để Hiệp-Thiên đứng trị vì.
    Thành Pháp dìu đời qua bể khổ,
    Nên công giúp thế lánh cơn nguy,
    Quyền hành từ đấy về tay nắm,
    Phải sửa cho nên đúng thế thì!

    Đức Lý Giáo-Tông

    Ngày 18-11 Giáp Tuất (Thứ Hai: 24-12-1934)

    Hai ông Tương và Trang về Thánh-Thất An-Hội (Bến Tre) phổ biến châu tri 147 mạ lỵ Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.

    Hai ông tự phong chức là:

    - Tri phủ Lê Bá Trang là CHƯỞNG PHÁP

    - Tri phủ Nguyễn Ngọc Tương làm ĐẦU SƯ của phái Bến Tre.

    12 -Ban Chỉnh Ðạo (Phái Bến Tre):

    Nhớ lại vào đầu năm 1934, khi hai ông rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về Bến Tre lập Ban Chỉnh Ðạo, với mục đích chấn chỉnh lại nền Ðạo, qui tụ được 85 Thánh Thất theo về với hai ông. Trong lúc đó, toàn Ðạo Cao Ðài chỉ có 128 Thánh Thất, như vậy số Thánh Thất theo hai ông Tương và Trang cùng với số tín đồ chiếm hết 2/3, Tòa Thánh Tây Ninh chỉ còn lại 1/3. Hai ông cố gắng lôi kéo một số vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài theo về hai ông để cho có đủ hai Ðài: Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài, nhưng không thành công, vì một số vị Thời Quân, tuy có bất mãn Ðức Hộ-Pháp nhưng quí vị ấy muốn giải quyết vấn đề theo chiều hướng khác hơn hai ông kia, nên quí vị ấy không hợp tác với hai ông được.

    Thế lực của hai ông rất mạnh, lại được chánh quyền Pháp ủng hộ, nên hai ông tổ chức thuê bao gần chục chiếc xe đò đưa rất đông tín đồ của hai ông về Tây-Ninh dự định sẽ dùng sức mạnh chiếm Nội-Ô Toà-Thánh. Hai ông báo cho Ðức Quyền Giáo-Tông biết ngày 20-1-Giáp Tuất (1934) hai ông sẽ kéo lên Tòa Thánh, vì hai ông nghĩ rằng phần thắng nắm chắc trong tay.

    Ðức Quyền Giáo-Tông liền thông báo cho Ðức Hộ-Pháp. Ðức Hộ-Pháp tức cấp huy động tất cả khoảng 500 công quả Phạm Môn chia nhau giữ chặc các cửa vào Nội Ô Toà Thánh. Với sức kháng cự quyết liệt mạnh mẽ của 500 công quả Phạm Môn, lực lượng của hai ông Tương và Trang phải chịu thảm bại, rút lui về Sài Gòn.

    Cuối năm 1934, Ðức Quyền Giáo-Tông đăng Tiên (ngày 13-10-Giáp Tuất, dl 19-11-1934).

    Trong khi đó, tại Thánh Thất An Hội Bến Tre, Ngài Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tổ chức Ðại Hội toàn thể Chức sắc và tín đồ thuộc Ban Chỉnh Ðạo để bầu cử chức Giáo-Tông: Lần bầu cử thứ nhứt, Ngài Lê Bá Trang lên chức Ngọc Chưởng Pháp; lần bầu cử thứ nhì, Ngài Nguyễn Ngọc Tương lên chức Giáo-Tông. Ðó là vào năm 1935 (Ất Hợi).

    Năm 1938, Ngài Nguyễn Ngọc Tương cử hành một lễ long trọng, tuyên bố nhiệm vụ của Ban Chỉnh Ðạo chấm dứt. Như vậy là Ngài lập thành Chi phái Bến Tre, xây dựng Thánh Thất An-Hội thành Tòa-Thánh Bến-Tre, tổ chức Cửu Viện, thăng thưởng một số Chức sắc cầm quyền Cửu Viện.

    Thực lực của phái Bến Tre lúc đầu rất đông và rất mạnh, nhưng vì không có chánh nghĩa nên số người theo ông lần lần rút lui, các hoạt động chỉ cầm chừng, dần dần suy tàn, nhất là sau khi Ngài Lê Bá Trang qui vị. Ngài Nguyễn Ngọc Tương thường nhập tịnh theo cách riêng của ông, càng về sau nầy, Ngài tự xem mình như là một phân thân của Ðức Lý Giáo-Tông, nên Ngài tự xưng là Lý Giáo Tông.

    Năm 1951, Ngài Nguyễn Ngọc Tương qui vị.

    Sau đó, phái Bến Tre phân ra làm hai nhóm nhỏ độc lập nhau: Một nhóm tại Tòa Thánh Bến Tre, một nhóm tại Thánh Thất Tân-Túc (Bình Chánh) và Thánh Thất Ðô Thành đường Hậu Giang Chợ Lớn.

    (Ðức Quyền Giáo-Tông giáng cơ tiết lộ cho biết: Ngài Nguyễn Ngọc Tương là chơn linh của Ngô Tôn Quyền tái kiếp, Ngài Lê Bá Trang là chơn linh Quan Vân Trường thời Tam quốc tái kiếp)

    13. TIỂU SỬ NGUYỄN NGỌC TƯƠNG (1881- 1951)

    Ông Nguyễn Ngọc Tương sanh ngày 26-5-Tân Tỵ (dl 22-6-1881) tại làng An Hội, tỉnh Bến Tre, thuở nhỏ học tại Collège Mỹ Tho, rồi lên Sài Gòn học ở Lycée Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung năm 1902, xin làm Thơ ký phòng Thượng Thơ. Làm nơi đây được 1 năm thì xin về làm Thơ ký nơi Tòa Bố tỉnh Bến Tre suốt 17 năm liền.

    Năm 1919, thi đậu ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quận Châu Thành Cần Thơ, rồi Chủ Quận Hòn Chông (Hà Tiên), rồi đến năm 1924 thì đổi về làm Chủ Quận Cần Giuộc, qua năm 1927 đổi ra làm Chủ Quận Xuyên Mộc (Bà Rịa).

    Ông nhập môn theo Ðạo Cao-Ðài vào tháng 2 năm Bính-Dần (1926), thọ phong Thượng Chánh Phối Sư ngày 17-5-Bính Dần (dl 26-6-1926). Năm 1930, thăng lên Quyền Ðầu Sư.

    Ðầu năm 1934, ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, rút về làng An Hội lập Ban Chỉnh Ðạo và sau đó biến thành Chi phái Bến Tre.

    Ngày 8-1-Ất Hợi (dl 11-2-1935), Ðại Hội Vạn Linh của phái Bến Tre bầu ông Tương làm Giáo-Tông phái Bến Tre.

    Ngày 7-4-Ất Hợi (dl 9-5-1935) cử hành Lễ Ðăng điện cho Ngài Tương lên ngôi Giáo-Tông ở Thánh Thất An Hội Bến Tre và từ đó, Thánh Thất An Hội được gọi là Tòa Thánh Bến Tre.

    Từ năm 1942 đến 1951, ông Tương thường nhập tịnh trong Tịnh Thất riêng, lúc đó ông thường tự xưng là Lý Giáo-Tông.

    Ngày 14-4-Tân Mão (dl 19-5-1951), ông Tương qui thiên, tháp được xây dựng ngay trước Thánh Thất An Hội, Bến Tre.

    14-. TIỂU SỬ LÊ BÁ TRANG (1879-1936):

    Ông Lê Bá Trang sanh năm 1879 tại làng An Qui, tổng An Trung, tỉnh Sa-đéc. Ông theo Tây học, thi đậu ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quận Thủ Ðức, rồi thi đậu Tri phủ, được bổ làm Chủ Quận Chợ Lớn, được thăng Ðốc Phủ Sứ, làm Chủ Quận Vũng Tàu.

    Ông nhập môn theo Ðạo Cao Ðài vào tháng 5 năm 1926 (Bính Dần), được Thiên phong Ngọc Chánh Phối Sư vào ngày 3-7-Bính Dần (dl 10-8-1926).

    Năm 1929, Ngài Lê Bá Trang xin từ quan và phế đời về Tòa Thánh Tây Ninh hành Ðạo.

    Năm 1930, Ngài Lê Bá Trang được thăng lên Quyền Ngọc Ðầu Sư, cùng một lượt với Ngài Nguyễn Ngọc Tương.

    Ông Trang cùng với ông Tương rút về Bến Tre lập Ban Chỉnh Ðạo, sau đó biến thành Chi phái Bến Tre. Ông được Ðại Hội Vạn Linh của phái Bến Tre bầu làm Ngọc Chưởng Pháp.

    Ông Trang qui liễu tại Bến Tre ngày 30-5-Bính Tý (dl 17-7-1936), liên đài được đưa về Tòa Thánh Tây Ninh ngày 21-7-1936, được Toà-Thánh nhận cho vào nhập bửu tháp ở phẩm Ngọc Ðầu Sư.

    Ðàn cơ tại Phạm Nghiệp ngày 11-6-Bính Tý (dl 28-7-1936), phò loan: Ðức Hộ-Pháp và Cao Tiếp Ðạo, Ðức Quyền Giáo-Tông giáng cơ nói về chơn linh của Ngài Lê Bá Trang bị đọa nơi Lạc Hồn Trì, ghi lại như sau:

    THƯỢNG TRUNG NHỰT

    “Chào mấy em.

    “Thượng-Phẩm nói với Qua mấy em đợi.

    Ôi! Qua nghĩ lại bắt tức mình, mấy em nghĩ lại mà coi, một kiếp sanh đâu mấy lát, cái giả cuộc trần hoàn tuy xem nháy mắt mà ảnh hưởng nó sâu sắc biết là bao, nào là danh, nào là vị, nào là tước, nào là quyền, nào là vinh, nào là trọng, rốt sự rồi cũng không còn mảy mún giá trị chút gì nơi cõi Hư linh Hằng sống, bất quá như còn vui dự đặng một tiệc ngọt ngon của khách phong trần say sưa một lát mà đòi phen chịu thảm cả đời.

    Qua đến viếng TRANG nơi Lạc Hồn Trì, nó nằm mê sảng sốt, đau lòng hết sức, như lời Thất Nương và Bát Nương làm chứng, thì dầu cho Qua có đến gần nó lúc nầy cũng không bổ ích chút nào cả, phải đợi cho nó từ từ định tỉnh, may ra có tay Thất Nương giải mộng thì thỉnh thoảng định tỉnh tinh thần. Nếu Qua cượng cầu thì chẳng khác nào hầu chuyện với người điên, chọc thêm loạn tánh.

    TÁM, Em nên phò loan đặng Qua truyền tin TRANG cho Em hiểu. Khi nãy, Qua thấy em có khách nhiều thì phải, thôi Qua đi.”Thăng.

    Chú thích:
    TRANG: Ông Lê Bá Trang.
    Ðức Quyền Giáo-Tông gọi Ðức Hộ-Pháp là Em TÁM (vì Ðức Hộ Pháp thứ tám)

    Ðàn cơ tại Hộ-Pháp Ðường ngày 17-10-Bính Tý (dl 30-11-1936), phò loan: Ðức Hộ-Pháp và Cao Tiếp Ðạo. Ðức Quyền Giáo-Tông giáng cơ nói về chơn linh của ông Trang và ông Tương:

    THƯỢNG TRUNG NHỰT

    … “TRANG khóc quá bây ơi! Vừa hiểu hiểu chớ còn khi tỉnh khi say, nhưng Qua theo bên mình ủng hộ, không sao phòng ngại.

    Em TÁM làm ơn nói với con Hai cho nó biết, kẻo lo rầu tội nghiệp.

    Hộ-Pháp bạch: - Biết nó nghe không?

    - Em cứ nói giùm. Cha chả! Va oán Em đánh va hôm nọ lắm. Qua an ủi mà hễ tỉnh thì cằn rằn hoài. Em nên viết cho va một cái thơ an ủi, cậy Qua đưa giùm đặng Qua thừa dịp thức tánh va một chút. Em làm ơn giùm.

    …- Ôi! Thây kệ, đừng giận làm gì nữa. Nếu Em thấy va lúc nầy thế nào Em cũng tội nghiệp. Em làm phước làm giùm cái tháp cho va, hễ tỉnh thì hỏi có bao nhiêu đó hơn hết.

    Ôi! TƯƠNG là cục nợ báo đời của TRANG, do căn kiếp phải vậy, dầu khi chết cũng còn theo báo hại.

    Em biết TƯƠNG là ai chăng?

    Ðứa nào nói trúng, Qua thưởng một củ mì.

    Qua nói nhỏ: NGÔ TÔN QUỜN đó biết không?...

    15- Cái chết của Ông Lê Bá Trang:

    Ngày 30-5 Bính Tý (Thứ Sáu: 17-7-1936). Ông Tri phủ Lê Bá Trang, là Ngọc Chưởng Pháp của Ban Chỉnh Đạo (Bến Tre) từ trần. Ban Chỉnh Đạo xin Hội-Thánh Cao-Đài Toà-Thánh Tây Ninh cho ông Trang được an táng nơi nội-ô Toà-Thánh Tây Ninh. Dù rằng ông Trang đã bị Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ lập Đạo Nghị định thứ 17 ngưng quyền cả hai Ông: Tương và Trang ngày 26-5 Quí-Dậu (Thứ Ba: 18-7-1933) rồi. Nhưng Hội Thánh vẫn rộng quyền ân tứ như lời cầu xin.

    Thế là vào ngày 4-6 Bính-Tý (Thứ Ba: 21-7-1936)

    Ban Chỉnh Đạo Bến tre chở liên đài ông Lê Bá Trang về Toà Thánh có cả ông Nguyễn-Ngọc-Tương mặc phẩm phục Giáo-Tông của phái Bến tre và đoàn tuỳ tùng là Chức sắc áo mão rực rỡ, rần rần, rộ rộ kéo về Toà-Thánh Tây ninh. Thực sự đây cũng là một “ý đồ” chiếm Toà Thánh nữa. Nhưng…

    Hội Thánh Cao-Đài Toà Thánh căn cứ vào quyết nghị là: Ban Chỉnh đạo Bến tre đã có Hội-Thánh riêng, giáo điều riêng, giáo lý riêng, Thánh Thất riêng thì không thể mặc sắc phục này vào Toà Thánh được. Muốn về Toà Thánh thì phải tuân theo Nghị định thứ 8 của Đức Lý Giáo-Tông là phải “mặc áo trắng”.

    Ban Chỉnh Đạo thì cho rằng: “Bằng khoán đất và tất cả giấy tờ của Đạo đều là của ông Tương đứng tên thay mặt ngày xưa cùng với Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh” Thì hôm nay đây ông Tương trở về với vị thế một chủ nhà.

    Đức Hộ-Pháp với cương vị Hộ-Pháp Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài có Đức Lý công nhận qua bài:

    THI

    HỘ giá Chí-Tôn trước đến giờ.
    PHÁP luân thường chuyển máy Thiên-cơ.
    CHƯỞNG quyền Cực-Lạc phân ngôi vị.
    QUẢN suất Càn-khôn định cõi bờ.
    NHỊ kiếp Tây Âu cầm máy tạo.
    HỮU duyên Đông-Á nắm Thiên-thơ,
    HÌNH hài Thánh-Thể chừ nên tướng.
    ĐÀI trọng hồng-ân gắng cậy nhờ.

    Ngài phán định rằng:

    “Những Chức sắc phế phận, bỏ Toà Thánh ra đi, đã bị Hội-Thánh ngưng quyền, nay ăn-năn hối cải, muốn trở về tạ tội xin Hội-Thánh khoan hồng, thì khi ra đi mang phẩm tước gì, nay trở về phải mang phẩm tước đó, chứ không thể xưa là một phẩm Quyền Đầu-Sư nay quay trở lại với một phẩm Giáo-Tông được! Với những hình thức cờ quạt lộng tàng, tiền hô hậu ủng như thế này không thể chấp nhận cho vào Toà Thánh được” .

    Thánh vệ đã canh giữ các cửa vào Nội-ô một cách nghiêm nhặc. Buộc lòng phái Bến Tre phải để liên đài ông Trang ở ngoài cửa Hoà viện (cửa số 1) rồi các vị kia tủa ra khắp các cửa định tìm đường xông vào.

    Phía Toà Thánh thì số người của Minh Thiện Đàn, Phạm Môn kéo hết lực lượng về giữ an ninh trật tự nên đối phương không thể vào được.

    Phía Toà án Tây ninh của Pháp ủng hộ phái Bến tre, nhưng trời đổ mưa như trút, nhóm người này chạy tán loạn, lại bị số lính của thực dân Pháp tới không biết bên nào chủ hoà, bên nào chủ chiến, khiến họ đuổi cả nhóm Chi phái chạy tơi bời.

    Trong lúc đó thì có cụ ông Lê Vinh Hiển, trước đây là một thành viên Thiên Địa Hội chống thực dân Pháp, bị bắt kết án “khổ sai chung thân” nơi Côn Đảo, ông vượt ngục trở về, thả bè trôi tấp vào Rạch giá và tiếp tục mưu đồ chống Pháp, bằng cách là cải cả tên họ. Việc này là vào đầu năm Bính-Dần (1926) chính các Ngài Lê văn Trung, Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm có cầu Đức Thượng Đế giáng Cơ thâu nhận là đệ tử tiền khai Đại-Đạo, Đức Chí-Tôn đã đổi tên Lê Vinh Hiển thành Lê Ngọc Diệp để tránh cuộc truy lùng của thực dân Pháp. Ông này chỉ đứng phía sau làm hậu thuẫn cho các việc đạo sự.

    Ông Lê Ngọc Diệp đến gặp ông Tri phủ Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông của phái Bến Tre. Cụ nói:

    Việc của người Việt Nam hãy để cho người Việt Nam tự giải quyết tốt hơn, cũng như việc của Đạo Cao Đài hãy để cho người Cao Đài tự giải quyết, chứ để người Pháp phân xử thì nhục lắm.

    Ông đề nghị giúp ông Tương giải quyết:

    - Tôi có ba điều thắc mắc, nếu Đạo huynh giải đáp thoả đáng, tôi sẽ yêu cầu Chú Tám nó (Chỉ Đức Hộ-Pháp) mở rộng cửa Toà Thánh thiết lễ long trọng tôn vinh Đạo huynh lên lãnh đạo Toà-Thánh Cao-Đài. Còn nếu Đạo huynh chưa giải đáp được thì hãy đem thuộc hạ về Bến Tre tìm câu giải đáp, khi nào tìm được hãy trở về Tây Ninh, tôi vẫn giữ lời hứa. Nếu chú Tám và Hội Thánh không giúp tôi thi hành lời hứa thì tôi sẽ tự sát trước mặt Đạo huynh để tạ tội vì không thực hành lời hứa này.

    Thắc mắc thứ nhứt: Từ ngàn xưa các Tôn giáo đều phải trải qua ba thời kỳ:

    - Thời kỳ lập pháp.

    - Thời kỳ thịnh pháp

    - Thời kỳ mạt pháp

    Nay Đức Chí-Tôn đã nhiều lần lặp đi lặp lại rằng Đạo khai truyền thất ức niên, thế thì thời kỳ lập pháp của Đạo Cao Đài ít nhứt cũng một trăm năm, rồi còn phải trải qua bốn trăm ngàn năm của thời kỳ thịnh pháp nữa mới tới thời kỳ mạt pháp. Như vậy Đạo Thầy còn trong thời kỳ phôi thai, mở ra chưa được mười năm, còn trong thời kỳ lập pháp, thì Đạo hư chỗ nào mà các Ngài phải lập Ban Chỉnh Đạo? Vả lại Thánh trước Hiền xưa đã nói: Nhơn hư Đạo bất hư thì giờ đây Ban Chỉnh Đạo là chỉnh nỗi gì? Nếu như Anh Cả là Đức Quyền Giáo-Tông có hư thì chỉnh Anh Cả, hoặc chú Tám (Hộ-Pháp) có hư thì chỉnh chú Tám nó, sao lại Chỉnh Đạo? - Giữa cơn mưa lạnh mà áo của Ngài Nguyễn Ngọc Tương đẵm mồ hôi, tất nhiên là ông không thể nào trả lời được câu hỏi này rồi!

    Ông Lê Ngọc Diệp hỏi tiếp câu thứ nhì:

    Trước kia ông Ngô Văn Chiêu không nhận phẩm Giáo-Tông, buộc Đức Chí-Tôn phải trao quyền cho Đức Lý Đại Tiên Trưởng kiêm luôn chức Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Nay Anh Cả Thượng Trung Nhựt dầu cho là Giáo-Tông hữu hình thì cũng chỉ là Quyền Giáo-Tông mà thôi. Giờ này Anh Cả đã qui Tiên, thì Đạo huynh có muốn thay thế cũng phải là Quyền Giáo-Tông như Anh Cả thôi, chứ sao Đạo huynh lại xưng là GIÁO-TÔNG?

    Vậy Đức Lý Giáo-Tông đã bị cách chức hồi nào?. Đức Thượng Đế có bằng lòng việc từ chức của Đức Lý Giáo-Tông chưa? Đạo huynh tự phong là Giáo-Tông có được sự đồng ý của Đức Thượng Đế chưa? Còn nếu Đạo huynh cho rằng do thuộc hạ của Đạo huynh phong cho thì là Giáo-Tông của phái Bến Tre chứ không thể là Giáo-Tông của Cao-Đài Toà-Thánh Tây Ninh được.

    Ông Lê Ngọc Diệp tiếp:

    Qua hai câu hỏi thắc mắc của tôi Đạo huynh không trả lời được thì dầu cho có câu hỏi thứ ba thì Đạo huynh cũng không hội đủ điều kiện để tôn vinh lên lãnh đạo Cao Đài. Thôi Đạo huynh cùng nhóm anh em thuộc hạ hãy về Bến Tre mà suy ngẫm các câu hỏi ấy.

    Thế là bên ngoài trời mưa để trợ lực và phía Toà án của thực dân đã đuổi lầm số người của Bến tre về hết rồi; chỉ còn lại liên đài của ông Trang nằm trơ trọi. Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh lo xây tháp cho Ngài Lê Bá Trang an táng trong nội ô Toà Thánh theo nghi thức Đạo chu toàn.
    NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

  4. #4

    Mặc định

    Kết quả về hành động của Chi phái: Năm bức thư

    - Năm 1928 Ngài Ngô văn Chiêu lập phái Chiếu Minh ở Cần Thơ chuyên về việc Tu luyện cho riêng mình.

    2- Năm 1930 Ông Giáo-hữu Ngọc Chính Thanh tách ra khỏi Toà-Thánh Tây-ninh lập ra phái Tiên Thiên ở làng Sóc Sải tỉnh Bến-Tre.Cơ Bút riêng của ông Chính phong cho Ông chức Chưởng-Pháp.

    3- Tiếp theo cũng vào năm 1930, Giáo-Sư Thượng Kỳ-Thanh tức là Vương-Quan-Kỳ, không tuân lịnh Toà Thánh Tây-Ninh áp dụng nghi lễ mới, nên tách ra lập phái Cầu-kho, lập tại Thánh-Thất Cầu-Kho.

    4- Năm 1931, Ông Phối-sư Thái Ca-Thanh cũng tách khỏi Toà-Thánh Tây-Ninh lập phái Minh-Chơn-Lý ở Cầu Vỹ Mỹ-Tho. Ông Nguyễn-Văn-Ca là phẩm Phối-Sư về lập ra Chi phái và tự xưng mình là Đầu-Sư Thái-Ca Nhựt.

    5- Ngài Chưởng-Pháp Trần-Đạo-Quang đương là Chức sắc của Toà-Thánh Tây-Ninh, tách ra theo ủng hộ ông Ca là Minh-Chơn-Lý. Sau, Ông Trần Đạo Quang thấy nơi họ biến thành Tà Đạo liền bỏ xuống Bạc-liêu họp với Cao-Triều-Phát lập ra Chi phái Minh-Chơn-Đạo vào năm Giáp-Tuất (1934).

    6- Đầu năm 1934 hai Ông Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn-Ngọc-Tương) và ông Ngọc-Trang Thanh (Lê Bá-Trang) không biết vì lý do gì mà hai ông bất đồng ý kiến trầm-trọng với Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn Trung mà họ tách ra lập Chi phái lấy tên là Ban Chỉnh Đạo, lấy Thánh-thất An-Hoà Bến-Tre làm trụ sở, nên thường gọi là phái Bến-Tre.

    Như vậy:

    Thời-gian từ năm 1926-1928 ông Ngô-Văn-Chiêu là người tách ra lập Chi phái đầu tiên, lấy hiệu Chiếu-minh vô-vi tại Cần-thơ.

    Tuy nhiên chỉ có các phái sau đây có ảnh hưởng và gây áp lực mạnh đến Toà-Thánh Tây-Ninh nhiều nhất

    Việc lập Chi phái của ông Nguyễn văn Ca, lần lần biến ra Tà Đạo nên nhị vị (Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh) lúc bấy giờ đương quyền nơi Tòa-Thánh, nên hai vị có gởi hai bức thơ:

    1- Ông Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) có gởi cho Ông Ca, khuyên ông nên hồi tâm mà về với nguồn cội Đạo là gốc Toà-Thánh Tây-ninh.

    2- Ông Ngọc-Trang-Thanh (Lê Bá-Trang) ra Công văn gởi cho các Đầu Tỉnh Đạo và Quận Đạo, chủ ý là cấm các Họ Đạo đừng tin điều gì do Thái-Ca-Thanh nói, nên đề cao cảnh giác hành động của Ông Ca.

    Tiếp theo là bức thơ của:

    3- Ông Tiếp-Thế Lê Thế Vĩnh gởi cho Đạo-hữu Lê Bá-Trang có hành động tổ chức người để phá Đạo, vì ông Tương và Ông Trang lúc này (đầu năm 1934) đã tách ra lập Chi phái, lấy tên Ban Chỉnh Đạo Bến-Tre rồi.

    4- Ông Tương có gởi cho Đức Hộ-Pháp một lá thư, lời lẽ thiếu lịch-sự, buộc Đức Hộ-Pháp phải trả lời gấp.

    5- Đức Hộ-Pháp có thơ phúc đáp cho ông Tương.

    Kèm theo đây có cả thảy 5 bức thơ ghi ra cho đồng Đạo được am tường.

    Sau khi Đức Quyền Giáo-Tông đăng Tiên năm 1934 thì ở Bến-Tre tổ chức bầu cử vào năm 1935. Ông Tương tự phong lên làm Giáo-Tông và Ông Trang làm Chưởng-pháp.

    Giữa năm 1934 Đức Lý Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp lập Đạo Nghị Định thứ 8 tức là Đệ Bát Đạo Nghị Định, thì kể từ đó về sau không còn Chức-sắc nào trong Toà Thánh Tây-Ninh dám lập Chi phái nữa.

    Từ đây về sau có rất nhiều Chi phái là do từ Chi phái nảy sanh Chi phái mà thôi.

    Tóm lại

    Qua hai cao trào Chi phái nổi bật nhất là phong trào của ông Nguyễn Phan Long lập Hội Vạn Linh để truất phế Ðức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung và phong trào Ban Chỉnh Ðạo của hai vị Quyền Ðầu Sư Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang, các vị nầy đã chống đối Toà Thánh Tây Ninh rất mãnh liệt.

    Hỏi vậy, những vị ấy đã thành công được những gì? Tạo lập được những công trình gì để làm vẻ vang cho Ðạo? Làm lợi ích gì cho nhơn sanh? Hay đó chỉ là tranh quyền đoạt vị cá nhân, không có chánh nghĩa để thủ thắng nên chịu thất bại thảm thương mà thôi.

    Trong lúc đó, Tòa Thánh Tây Ninh là cái gốc của Ðạo, càng ngày càng phát triển, sum suê bông trái đầy đủ.

    Trước năm 1935, trong Nội-Ô Tòa-Thánh còn cất tạm bằng cây ván, là công trình của Đức Cao-Thượng-Phẩm các cơ quan của Hội Thánh còn bằng mái tranh vách đất, nhưng dần dần Tòa Thánh được cất lên nguy nga đồ sộ theo kiểu vở của Thiên đình, báo hiệu sự xuất hiện của một nền văn minh mới của nhơn loại nơi cõi Á Ðông, rồi các dinh thự khác cũng dần dần được dựng lên bằng những con tim chơn chất thực sự thương Thầy mến Ðạo, và đặc biệt dựng lên ngôi thờ Ðức Phật Mẫu, bà Mẹ Chung thiêng liêng của toàn nhơn loại, thể hiện một nền triết lý hoàn chỉnh của Ðạo Cao Ðài là tôn thờ đủ hai ngôi: ngôi Dương và ngôi Âm. Ðó là nguồn gốc của con người, của vạn vật và của Càn Khôn vũ trụ.

    Thử điểm qua hai hình thức loạn đạo mà kết quả là:

    * 5 bức thơ có tính cách quan trọng về Chi phái

    * Vi bằng buổi họp “Đại hội Vạn linh”

    5 bức thơ có tính cách quan trọng về Chi phái


    1- Thượng Tương Thanh gởi thơ cho Thái Ca Thanh

    2- Ngọc Trang Thanh gởi thơ cho các Họ Đạo nên đề cao cảnh-giác Thái Ca Thanh.

    3- Lê-Thế Vĩnh gởi thơ cho Chức-sắc và bổn Đạo nói về Lê Bá Trang

    4- Thượng-Tương-Thanh gởi thơ cho Đức Hộ Pháp

    5- Đức Hộ-Pháp phúc đáp Thư của Thượng Tương Thanh


    Bức thơ số 1:Ông Thượng Tương Thanh gởi cho Thái Ca Thanh


    Chánh Phối Sư Thượng-Tương-Thanh.

    Gởi Ông Thái Ca-Thanh ở Cầu Vỹ.

    Hiền huynh, kính thăm Anh và để ý lời thành thật mong cho Anh vui đọc và để ý vào.

    Tôi có tiếp được xấp Thánh-giáo Hậu-giang của Anh gởi và một cái thơ mời hội ở Thánh-Thất Mỹ-Tho ngày rằm tháng 10 tới đây. Tôi có đọc kỹ và cũng có đọc lại các Thánh-giáo, Thánh-ngôn Anh gởi xuống lần trước. Tôi thấy rõ là một cuộc khảo do nơi Tam-Trấn để cho Tà Thần mượn tên cám dỗ, trong ba cái bịnh lớn của con người là “Tham, Sân, Si” Nếu bậc cầm đuốc dẫn đường mà không trừ hết, còn một hai cũng phải bị vướng.

    Anh đọc kỹ các Thánh-ngôn Cơ Bút của Hậu-giang từ khi ban sơ đến bây giờ, Tôi chắc Anh cũng thấy cái hư thiệt bên trong như Tôi vậy. Có một phần rất ít của Tiên Thánh, còn bao nhiêu đều là Tà mưu chước quỉ của Tà Thần cám dỗ.

    Anh muốn phân biệt Chánh Tà thì cứ lựa những Thánh-ngôn nào dạy Thương-yêu nhau, hoà hiệp nhau luôn luôn mà dìu-dắt nhau trên con đường đạo-đức, bỏ giận, bỏ hờn, đừng ganh đừng ghét, đừng nghịch với một ai là của Tiên Thánh cho. Còn Cơ nào giáng cho bài thơ có hay cho cách mấy đi nữa mà có xen lộn vào những lời kích-bác, bày sự xấu của người, xúi giục sự hờn giận nghịch lẫn, chia phe phân phái đều là của Tà-Thần, dầu có lấy tên Tiên Thánh cho đến tên Thầy mà ký vào đó cũng không nên tin. Vì những bậc trọn lành biết khuyên hoà thuận, chớ không khi nào dạy phân chia.

    Trong những bài của Tiên Thánh giáng dạy đều dùng toàn là lời tao-nhã, tiếng Thương yêu, dạy ròng đạo đức, trông vào thấy liền khí tượng Tiên Thánh. Anh đọc lại mấy bài giáng Cơ Hậu-giang coi được bao nhiêu có hình trạng như vậy. Những Thánh-Ngôn do nơi Toà Thánh mà ra, nếu không đủ vẻ cao thượng đó cũng không buộc ai phải tin hết.

    Nếu phăn lại gốc thì Tôi rõ biết, khi ban sơ lúc Anh thay mặt cho Tôi ở Toà-Thánh, Anh có bất bình về sự hành động cử chỉ của mấy vị Đại-Thiên-Phong nơi đây đối đãi với Anh.

    Vì sự bất bình này mà dùng Cơ Bút Rạch-giá để cầu hỏi bài “Chánh Tà yếu lý” ra đời rất hạp với cái tư tưởng của Anh lúc đó, mà làm cho Anh vui lòng để trọn Đức-tin vào. Dụ được Anh rồi nó dắt Anh đi lần lần, từ mấy thứ “An Thiên Đại Hội” qua đến lập Toà-Thánh Tam Bình Kiên-giang Thất Sơn, đã nhiều phen tiên tri này nọ đều trôi hết, nay đem Anh trở về lập Toà-Thánh Trung ương Mỹ tho, là chỗ ở của Anh, Tôi xét kỹ thiệt toàn là công cuộc của Cơ cám dỗ Hậu-giang. Do sự bất bình kia mà gầy tạo ra đó! Anh suy-nghĩ đến thì Anh thấy liền, Cơ ấy lợi dụng cái danh, cái chức của Đạo mà dụ người. Anh thấy rõ trong hàng Chức-sắc theo Anh có một phần đông chưa trừ được cái lòng háo danh. Có khi cũng còn vì tranh nhau cái phẩm cao thấp mà gây hờn chác giận, té ra Anh đã công kích hẳn cái sự trục lợi nơi người rồi Anh trở lại không tránh khỏi cái sự cầu danh nơi mình đó. Phải chi hết thảy chư vị theo giúp Anh, Nam Nữ cũng vậy, đừng một ai cầu phong Chức-sắc, đừng một ai nghe Anh cầu phong cho ham mà lãnh, đừng một ai nghe nói Cơ Bút phong chức cho lật đật vui chịu, thì Minh-Chơn Lý của Cơ bút Hậu-giang đặt ra để mà công kích Tây-Ninh đó còn có chỗ phải nghĩa.!

    Sau khi kích bác nhục mạ Tây-Ninh rồi bố cáo mà dán khắp Lục Tỉnh mong Anh và các Chư vị giúp để cho Tà Thần xúi giục mà hăng-hái thọ lãnh gia phong lập riêng một Hội-Thánh Trung-ương tự mình làm chủ, làm cho ai trông vào cũng thấy cái Chủ nghĩa Minh-Chơn-lý của Hậu-giang kết chung lại là một trường háo danh ham chức đó là “Tôi”. Đạo ở nơi nào? Đức ở nơi nào?

    Than ôi! Chư Nam Nữ không rõ thấu mà ngã với Anh theo Cơ cám dỗ. Nay đã thấy cái Cơ-quan của Tà điển hiện ra đó rồi, thì mau ăn-năn trở về Thầy cho chóng.

    Khi Anh về Thiêng-Liêng rồi, Tôi còn sợ Anh không thế chi đỡ cho Ông Chưởng-Pháp Trần Đạo Quang cầm duyên đầu được, vì nghĩ ít chữ nghĩa, làm sao mà phân biện bằng Anh.! Tuy nói Ngài cầm đầu chớ ai cũng rõ thiệt Anh làm Chủ. Anh cũng không đỡ cho Đồng tử chút nào, vì không ai buộc Anh phải nghe Cơ của chúng nó cầu mà viết ra và cũng không đổ được cho Thầy, Đức Lý hay là chư Tiên Thánh ký tên những bài giáng Cơ Hậu giang đó.

    Vì không có cái chi mà làm bằng cớ chắc chắn buộc cho Anh phải tin rằng thiệt Tiên Phật có giáng cơ ký tên. Thầy đã dạy “Đạo khai thì Tà khởi” Nó cũng dám lấy tên Thầy mà cám dỗ lựa là tên Tiên Phật, nên Thầy đã căn dặn: Ngoài Thập Nhị Thời quân của Thầy đã chọn đừng vội tin Thầy có giáng Cơ nơi này nơi nọ, mà phải bị lầm mưu Tà quái cám dỗ. Vậy nên Anh rất thong-thả mà nghe hay không nghe, tin hay không tin, tự nơi Anh không có một mảy chi bó buộc Anh hết, đặng ngày sau Anh không sang sớt một mảy chi cho ai hết.

    Tôi phân biệt tới đây, nếu Anh cũng chưa nghe được, thì Tôi lấy hết tình Anh Em xin Anh rút bỏ hết những sự giận hờn phiền-phức đi, dầu giận phải hay giận không phải cũng đừng chứa một mảy trong tâm, vì cái giận thiệt của cái Tà dục cho dễ cám dỗ mình đó.

    Trong lòng anh thiệt hết giận rồi, thì cái màn bí mật che án sẽ xủ xuống. Anh sẽ thấy tỏ rõ chi cũng có Thầy biết, cũng có chư Phật, Thánh, Tiên hay.

    Thiên-phong Chức sắc nào ở Tây-Ninh thiệt có tội thì bị phạt, không khi nào chạy khỏi. Anh sẽ thấy rõ các sự Anh đã làm trong một năm rưỡi nay, đối với đạo-đức ra sao, thế nào, xa đạo-đức bao nhiêu dặm, chừng ấy Anh hết lầm nghe cơ Bút Hậu-giang nữa. Biết được sự thiệt rồi, mau mau tự nhiên Anh sẽ bãi hết các cuộc Anh đương gầy, giải chức Thái Đầu-Sư mới của Anh. Vì Anh sẽ thấy rõ chữ Nhựt trong Đạo-hiệu Thái-Ca-Thanh của Anh. Đó là một cái lắt-léo của Cơ để cho Anh biết mà phân biệt chơn giả đó. Trong lòng Anh thiệt hết giận rồi, tự nhiên Anh cũng sẽ thấy rõ-ràng là không có Thần hay Tiên Thánh nào xúi Anh thêm nghịch, dạy Anh chia lìa, đốc Anh truyền rao nhục mạ Tây-Ninh rồi lại gia phong cho Anh và các vị theo giúp Anh, hối đốc lập dựng Thánh Thất Cầu Vỹ mà làm Toà-Thánh để nhóm Hội-Thánh Tây Ninh, mượn nhà Anh mà làm Hiệp-Thiên-Đài, Anh sẽ thấy rõ ràng là cơ cám dỗ nương cái hơi phiền-phức của Anh và chư vị kia mà phát hiện những sự ấy đặng giúp cho mấy Anh Em được thoả tình tư tưởng.

    Nghĩa là do cái nguồn nơi ấy mấy Anh Em được thoả tình tư-tưởng, nghĩa là do cái nguồn nơi ấy mấy Anh Em mà sản xuất đặng để cám dỗ mấy Anh Em đó, như Anh và chư vị theo Anh thiệt tu-hành muốn noi gương đạo-đức, muốn thiệt Minh-Chơn-Lý, thì trước nên mau mau giải hết Chức-sắc của Cơ Hậu-giang phong rồi lấy cái đạo-đức nơi trong mình tròi-trọi ra mà bố hoá ra cho chúng sanh, dìu dắt chúng sanh nơi con đường sáng láng, thốt lên những lời từ thiện, một hành động cử chỉ nào cũng không sái lẽ đạo-đức, lo độ những người chưa nhập môn, giáo-hoá những nguười còn tánh lung-lăng, tự mình làm thế nào ra một gương lành tỏ rạng cho người hậu tấn nương theo mà bước tới vũng-vàng trên con đường đạo đức.

    Nếu Anh và các Anh theo Anh mà còn dụ-dự, tiếc áo-mão thì cái Minh-Chơn-lý của mấy Anh em sẽ bị nơi áo-mão đó mà mất hết chủ-nghĩa hay, rồi cũng vì áo-mão đó trì nặng phải chìm không phương cứu vớt.

    Xin Anh nghĩ cho cùng tột. Tôi khẩn cầu chư Thần Thánh ban bố thêm sáng láng cho Anh mau thấy sự thiệt mà hết dụ-dự, giải được chức mới rồi lại khuyên chư vị theo Anh giải sạch, ngày ấy mấy Anh mới thiệt Minh Chơn-Lý, rồi mấy Anh Em sẽ hồi tâm tự nhiên trở về Thầy, hoà-hiệp lại như xưa mà chung lo mối Đạo.

    Tôi bảo kiết rằng: Mấy Anh trên Toà-Thánh Tây Ninh đều vui lòng và đưa tay tiếp rước mấy Anh Em Hậu giang cùng nhau tái hiệp trùng-phùng, bỏ những điều rắc rối đã xảy ra do Cơ khảo của Tà-Thần sắp đặt.

    Cái hoà-hiệp đó là một hiến lễ trân-trọng hơn bao giờ hết cho Thầy. Xin Anh và mấy Anh em theo Anh mau mau về hội-hiệp mà dâng cho Đại-Từ-Phụ. Đại-Từ-Phụ sẽ vui lòng ban ân huệ đầy-đủ cho chúng ta, từ đây sẽ khắn khít như xưa, chung nhau trau giồi nền Đạo lại cho tỏ rạng mà phổ thông đến ngoại bang.

    Tây-Ninh 1er Novembre 1932

    Đã ký tên

    Thượng-Tương-Thanh


    Bức thư số 2: Ông Ngọc-Trang-Thanh gởi các Họ Đạo đề cao cảnh giác Thái-Ca-Thanh.

    ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
    (Đệ thất niên)

    Toà-Thánh Tây-Ninh, le 3 Novembre 1932.
    (Mùng 6 tháng 10 năm Nhâm Thân)

    Ngọc Chánh Phối-sư kiêm Chủ-trưởng Chức-Sắc Nam-phái.

    Gởi cho chư vị Đầu họ Tỉnh và Quận Đạo.

    Hiền Hữu,

    Xin Hiền-Hữu đọc bức thơ sao lục dưới đây của Thượng Tương-Thanh Chánh Phối-sư, gởi khuyên Ông Thái-Ca-Thanh ở Mỹ-Tho hồi tâm đặng trở lại đường Chánh-giáo.

    Các ý-kiến tỏ ra trong thơ ấy đều hạp với ý-kiến của Tôi nên khuyên Hiền Hữu đọc lại cho rõ, hiểu cho chắc rằng những việc của ông Thái-Ca-Thanh hồi giờ gánh sự rắc-rối cho nền Đạo đều do chuyện hờn giận riêng mà làm cho vừa lòng, nên không nhằm Thánh-ý.

    Nếu Đạo-hữu nào còn mê-tín theo Người nữa thì sau rồi dầu có ăn-năn cũng muộn và trễ bước đường công quả. Xin Hiền Hữu truyền lại cho chư Đạo hữu Nam Nữ rõ biết mà tránh việc lầm lạc ấy, hầu đi cho cùng bước Đạo mà về Thầy.

    Ký tên

    Ngọc Trang Thanh


    Chú thích:
    Điều đáng lưu ý là:
    - Bức thư của ông Tương khuyên ông Ca đề ngày 1-11-1933.

    - Văn thư của ông Trang gởi cho các Họ Đạo đề cao cảnh giác Ông Ca đề ngày 3-11-1933.

    - Ngay lúc này, Nhị vị Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang-Thanh cả hai là phẩm Chánh-Phối-Sư, là Chức sắc đương quyền.

    - Ngày 17-1-Đinh-Dậu (1933) cách nhau trên 10 ngày, hai Vị Tương và Trang được Đức Quyền Giáo-Tông và Hộ-Pháp đồng ký tên thăng phẩm Quyền Đầu-Sư, kế đó không lâu hai vị này bất đồng ý-kiến với Đức Quyền Giáo-Tông mà tách ra Chi-phái Bến Tre (Ban Chỉnh Đạo).

    Bài thơ số 3: Ngài Tiếp Thế Lê-Thế Vĩnh gởi Chức-sắc và bổn Đạo nói về Lê-Bá-Trang


    ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
    (Đệ bát niên)

    HIỆP THIÊN ĐÀi
    Số: 9

    Toà-Thánh Tây-Ninh, le 10 Novembre 1933.
    (Mùng 29 tháng 8 năm Quí-Dậu)

    Lê Thế Vĩnh

    Kính gởi cùng Chư Chức sắc Thiên-phong Nam Nữ và Chư Đạo-Hữu Nam Nữ lưỡng phái,

    Kính cùng chư Hiền huynh và chư Hiền Tỷ.

    Ngày 12 Septembre 1933, Đạo-hữu Lê Bá-Trang là Cựu Quyền Đầu-Sư Cửu-Trùng Đài bị ngưng quyền.

    Ngày 26 Juillet 1933, có ra Châu-tri số 146 nói là Can dự đến Tệ Đệ và toàn nền Chánh-trị Đạo.

    Tệ Đệ chỉ buồn cười cũng bỏ qua cho Người biết xét mình mà ăn-năn tự hối, dè đâu ngày 20 Septembre 1933, Người lại ra thêm một tờ Châu-tri số 147 cố ý nhục mạ Đức Quyền Giáo-Tông và nhiều vị Chức-sắc đương hành Đạo.

    Tệ Đệ vẫn điềm nhiên xem coi trong trí lực thường tình của Người sau này được nảy nở được nhiều Chi đặc biệt nữa.

    Thật vậy cách vài hôm sau quả có kẻ phụ sự của Người đến Giáo-Tông-đường giựt máy đánh chữ và vu vạ, rồi thì càng ngày càng lộng, nào là nhóm ngày nhóm đêm, nào là xúi giục kiện thưa, nào là hăm doạ bỏ tù Đạo hữu, nào là kỳ cho một tháng nữa là đuổi hết cả Quyền Giáo-Tông và Hộ-Pháp ra khỏi Thánh-Địa, nào là hiêu hiêu tự đắc khoe rằng: Chấp ba ngựa cũng thắng…

    Đầu-Sư gì mà luật Đạo không thông, trách-nhiệm không biết, thậm chí kinh Cúng Tứ thời cũng không thuộc,

    Tu-hành gì mà còn giả dối, còn mưu-mô, còn quyền quyền thế thế.

    Than ôi! Nếu Tệ Đệ không có phận-sự đặc biệt trong Hội-Thánh, thì Tệ Đệ đã thối bước lâu rồi, để cho họ tự quyền diệt Đạo.

    Tệ Đệ đâu có dám cho là toàn vẹn, nhưng từ ngày Tệ Đệ nhứt định phế Đời đặng trọn hiến thân cho Đạo từ ngày về Toà-Thánh hành Đạo cho đến nay thì Tệ Đệ hằng nguyện đem hết tâm trí để giúp ích cho Đạo và hằng giữ trọn lành trung can thanh bạch, hầu quan sát cho việc Đạo một cách chơn thật chánh đáng.

    Biết bao phen Tệ Đệ nghĩ đến tâm lý thấp thỏi của nhiều Đạo-hữu mà phải đau lòng ứa luỵ. Tệ Đệ chán rõ họ đã không đủ đức hạnh thâu phục nhơn tâm, mà không đủ tài trí đặng cầm vững nền Đạo, họ chỉ có đủ mưu để giục loạn chứ không đủ sức để trị bình.

    Cả bằng cớ Tệ Đệ đều nắm sẵn nơi tay đặng đợi ngày giải kẻ phạm ra Toà Tam giáo, sẽ cho toàn Đạo biết rõ rằng: “Hai Đạo-Hữu Lê-Bá-Trang và Nguyễn-Ngọc-Tương là người phản Đạo”.

    Tệ Đệ xin chư Đạo-Hữu cứ giữ phận-sự tu-hành, đừng lầm nghe mà sau này ăn-năn rất muộn.

    Tệ Đệ vì phận-sự quyết xin Đức Hộ-Pháp giữ nghiêm pháp luật và từ đây ngày nào còn Đức Hộ-Pháp và Tệ Đệ thì bọn Tà Thần đừng mong gì đến cửa Đạo mà dụng Tà quyền để áp bức và hăm doạ đạo-hữu.

    Nay kính

    Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh (Ký tên)


    Bức thư số 44 Thượng-Tương-Thanh gởi thơ cho Đức Hộ-Pháp

    ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
    (Đệ ngũ niên)

    Gia-Định, le 15 Janvier 1935.

    Thánh Thất Bình-Hòa
    Gia Định
    No- 10

    Thượng Đầu-Sư Thượng Tương Thanh

    Gởi cho Đức Hộ-Pháp Toà-Thánh Tây-Ninh.

    Kính Đức Hộ-Pháp: Tôi gởi theo đây một bổn Châu-tri số 9 của Ban Chỉnh Đạo gởi mời toàn Đạo từ Chức-sắc Thiên-phong tới Tín đồ, nhóm Hội Vạn-linh tại Thánh-thất An-Hội (Bến Tre) mà chọn cử một vị để cầm giềng mối Đạo và nhứt định sẽ hiệp về Toà-Thánh Tây ninh mà làm việc.

    Ban Chỉnh Đạo ấy ra đời do Thiên-ý của Đức Chí Tôn và sự mời nhóm Vạn linh đây là cũng nơi lòng trời khiến vậy. Còn mời về Toà-Thánh Bến-Tre là sự bất đắc dĩ, cực chẳng đã vì sau khi an táng Anh Cả rồi, sự bất hoà cũng còn thấy nơi Tỉnh Tây-Ninh.

    Xin Ngài xem cái Châu-tri và sẽ thấy mấy cái trước của Ban Chỉnh Đạo Bến-Tre đã truyền ra và đã gởi cho Ngài rồi thì Ngài sẽ rõ cái tâm của chúng tôi để trọn về sự lo-lắng phục hồi Đức tin của Đạo-hữu đang xiêu ngã và về sự Hoà-bình trở lại cho bước Đạo được vững-vàng đi tới. Vậy bổn phận Tôi phải cho Ngài hay như Ngài có cho toàn Đạo chẳng phân thuận nghịch về thong-thả nơi Toà-Thánh Tây-ninh thì vào Vía Đức Chí-Tôn, các con lớn nhỏ của Thầy hết thảy sẽ kéo về một lượt mà nhóm Hội Vạn linh cân phân công quả và chọn một vị để cầm giềng mối Đạo.

    Được kết quả xong, đến giờ Tý chúng ta sẽ vào Bửu-Điện mà làm Lễ Đức Chí-Tôn và nguyện từ đây sắp tới chúng ta sẽ khôn ngoan hơn. Ai còn giả dối mưu-mô xin Thiên Đình hành xác tại thế mà làm gương cho người sau sợ lấy giữ mình mà hành Đạo.

    Nếu mỗi chúng ta quên được cái hẹp hòi cá nhân thì bữa đó chúng ta sẽ hiến được cho Thầy một Lễ rất trân trọng không chi bằng, rồi sẽ được Thầy vui-vẻ thấy chúng ta hoà hiệp mà ban ơn vô tận cho chúng ta sắp năm sắp bảy lần khi trước, cái lễ này sẽ hiến được cùng không là nơi Ngài hết chín phần mười. Xin Ngài suy xét lại.

    Tôi tưởng cũng xin cho Ngài biết trước, như Ngài không vui thuận cho Đạo về Chùa thì Đạo cũng sẽ nhóm nơi Thánh-Thất Bến-Tre định đoạt xong rồi, có lẽ cũng tuân mạng Trời mà kéo luôn về Chùa lo làm việc Đạo.

    Chừng ấy nếu có xảy ra sự chi xung đột thì về Ngài chịu trọn phần trách-nhiệm đó hết, đối với Đạo và đối với Đời. Xin Ngài nhớ Toà-Thánh là của Đạo, của Đạo là của chung, là của Vạn-linh, một phần ít tùng Đạo không đủ cho Ngài nhóm hết Vạn-linh một mình.

    Xin Ngài vui-vẻ để trả lời thư này cho Tôi biết một buổi mơi ngày 18 Janvier 1933 Tôi sẽ về Toà-Thánh nơi Dinh Ngài mà nhận lãnh.

    Nay kính

    Ký tên: Thượng Tương Thanh


    Bức thư số 5 : Của Đức Hộ-Pháp phúc đáp Thượng Tương Thanh

    Toà-Thánh Tây-ninh le 27 Janvier 1935

    Hộ-Pháp,

    Cùng Thượng-Tương-Thanh Thánh-Thất Bến-Tre.

    Kính Đạo-Huynh,

    Bần-Đạo có được bức thư số 10 đề ngày 15 Janvier 1935, của Đạo-Huynh nói về việc nhóm Vạn-linh tại Toà Thánh ngày mùng 8 tháng giêng và định cho Bần Đạo phải trả lời nội bữa mai ngày 18 tháng giêng 1935.

    Trước khi luận đến các khoản đại khái trong thơ của Đạo-Huynh, Bần-Đạo thú thật rằng: Lấy làm ngạc nhiên và thấy thái-độ hiện thời của Đạo-Huynh đã khác hơn buổi trước rất nhiều, có lẽ Đạo-Huynh cũng nhớ khi Đạo-Huynh còn biết tuân luật Đạo, biết phân đẳng cấp, biết phận Quyền Đầu-Sư đến hầu chuyện cùng Bần-Đạo, từ lời nói đến tư cách của Đạo-Huynh, nó hoà nhã, nó nhỏ nhẹ, nó khuôn phép làm sao! Cho Nên Bần-Đạo thường tưởng rằng một ngày kia cũng có thể khuyên Đạo-Huynh biết ăn-năn tự hối mà khép mình trong khuôn viên luật pháp của Đạo. Không ngờ ngày nay Đạo Huynh tư tưởng phân được và còn cầm viết ký được một bức thơ hăm doạ Bần-Đạo như vậy!

    Đạo Huynh! Khi vị Ngọc-Trang-Thanh vì hám quyền mà khởi đồ mưu giục loạn, đặng biếm vị Đức Quyền Giáo-Tông. Người hành động bằng cách nào, mà rốt cuộc nó ra sao? Chưa hiểu quyền Vạn-linh là gì? Chưa biết cái pháp luật về quyền ấy như thế nào? Mà cũng dám hiệp với một nhà chánh trị ngoài đời (chẳng có chưn trong Đạo) nhóm bướng Hội-Vạn-linh rồi việc bất thành phải tự mình lui bước lại còn tuyên bố rằng: Cả cáo trạng đã giao phó cho Toà Đời phân định Chánh Tà. Rồi giữa Toà Đời vu cáo những lời vô bằng cớ, những điều biếm nhẽ đều tiêu tan như tuyết giá để rửa sạch bụi trần cho Đức Quyền Giáo-Tông. Cho nên lúc đăng Tiên Ngài mới được toàn Đạo thương tiếc và an táng Ngài long trọng dường ấy!

    Bần-Đạo coi lại buổi trước vị Ngọc Trang Thanh hành động thế nào, thì ngày nay Đạo Huynh cũng khởi hành đặng lo đồ mưu thiết kế luật pháp để hăm doạ, cũng bất kể luật pháp, cũng giục loạn, cũng phân chia con cái Đức Chí-Tôn, cũng lợi dụng Đức tin và lòng thật thà của chư Đạo-Hữu, kết cuộc rồi cũng tạo thêm trò cười cho Đời cùng Đạo.

    Than Ôi! Không lẽ Đạo lập ra đã không hữu ích cho Đời, còn phá hoại sự trật tự, sự êm tịnh, sự hoà-bình và cuộc trị an của Đời đang mong-mỏi nữa hay sao!?

    Bần Đạo rất tiếc cho Đạo Huynh và cũng vì lẽ đó mới viết bức thơ trả lời này.1- Châu-tri số 9 của Ban Chỉnh Đạo.

    Bần-Đạo nhắc lại cho Đạo Huynh nhớ rằng: Từ ngày Bần-Đạo và Đức Quyền Giáo-Tông lập Nghị định thứ 17 ngưng quyền hành chánh của Đạo Huynh và Nguyễn Ngọc Trang có nhiều duyên cớ trọng hệ, nghĩa là từ ngày 18 Juillet đến nay thì Đạo Huynh và vị Ngọc Trang Thanh đều lui về Bến-Tre và Sa-Đéc không biết được việc Chánh-trị của Hội-Thánh nữa. Nhờ còn một phần Tín-đồ còn nghe và theo Đạo Huynh cùng Ngọc Trang thanh cho nên mới lập ra Chi Phái riêng, có tên riêng, kỷ luật riêng và hành chánh riêng. Hành động càng ngày càng khác hẳn với Thánh-Ngôn của Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng, với Pháp-Chánh-Truyền và Tân Luật. Thậm chí lời Hồng thệ của Đạo Huynh và Ngọc Trang Thanh đã tự mình lập trước Thiên Bàn cũng ra vô giá trị.

    Bần Đạo nói một ít lâu đây phái của Đạo huynh sẽ bỏ luôn đến danh của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà chớ! Con đường đã khác nhau thì tức nhiên cả giấy tờ chi do nơi phái của Đạo huynh ban hành đối với Bần Đạo không nói ra có lẽ Đạo Huynh cũng chán biết rồi.

    2- Chọn cử một vị cầm giềng mối Đạo:

    Kẻ có tội đang chờ ngày nạp mình cho Toà Đạo mà đem ra làm đại biểu cho muôn triệu sanh linh thì có chi chướng bằng. Phải công cử Giáo-Tông không có dễ-dàng đơn sơ như ý của Đạo Huynh hiểu đâu! Phải cả hoàn cầu, chớ chẳng phải một bụm tay Tín-đồ mà tạo đặng phẩm-vị ấy. Bần Đạo thấy Đạo Huynh và vị Ngọc Trang Thanh biết mình là bậc Quyền Đầu-Sư thì chưa có quyền ra tranh cử, nên yêu cầu Đảng phái xúm riêng nhau tại Bến-Tre 24 Décembre 1935 rồi tôn lén Đạo Huynh và vị Ngọc Trang Thanh lên Chức Đầu-Sư và Chưởng pháp đặng có quyền ra tranh cử. Cái sở hành ấy chỉ có làm cho chúng sanh thấy rõ cái hám tâm của Nhị vị rõ hơn.

    Rồi đây sẽ có một cuộc chọn cử một vị để cầm giềng mối trong Đảng phái. Thế thì Đạo Huynh chẳng cần cho Bần Đạo hay để làm gì!

    3- Hiệp về Toà-Thánh Tây Ninh để làm việc:

    Ngày Đạo Huynh và Ngọc Trang Thanh đã phản loạn Chơn truyền, toan phương đánh đổ quyền-hành của Đức Quyền Giáo-Tông thì Bần đạo cũng nhiều phen can gián. Chỉ sợ có một điều là Đạo bị phân phe chia phái, mà hễ phân phe chia phái thì tức phải có điều xung đột cùng nhau.

    Than Ôi! Cái khôn ngoan sáng tính ấy không đặng kết quả cũng vì Ngọc Trang Thanh cầm cán để toan phá hoại Chánh giáo của Đức Chí-Tôn, đương nhiên trước mặt chúng ta để định, hẳn thế nào cũng phải do một trường náo-nhiệt.

    Đạo Huynh là người có cầm quyền Chánh-trị trong trường đời cũng biết cái khó-khăn của phương giải quyết. Nói cho cùng lẽ: Nếu Đạo huynh để hết ý đem mình ngồi nơi địa vị của Bần Đạo thì sẽ thấy chẳng có chi hay hơn là ngồi đợi cho đôi đàng cố tâm hoà thuận rồi sẽ liệu phương hợp tác cùng nhau. Còn trái lại muốn để cho đôi đàng đối diện đương cơn phấn đấu tương hành, ấy là vô tình gây nên một trường rối loạn phi lý.

    Vậy thì sự của Đạo huynh tính về Toà-Thánh, nếu thoản như có một trận xung đột mà ra, hay lẽ nào thì tự nơi Đạo huynh quyết định điều ấy trước rồi.

    Đạo Huynh còn viết trong thơ rằng: Xin Ngài nhớ Toà-Thánh là của Đạo, là của Vạn linh, là của chung. Cũng vì nhớ Toà-Thánh là của Đạo, nên Bần-Đạo nhứt định ở Toà-Thánh mà gìn-giữ của ấy cho Đạo.

    Song le, Bần-Đạo giữ của ấy là giữ cho người biết tùng luật Đạo, chớ không phải giữ giùm cho những kẻ mưu toan phá Đạo. Trước kia có ai buộc kẻ ấy phải hứa chắc, phải Hồng thệ rằng: Sẽ trọn tuân luật-lệ Cao-Đài.

    Trách-nhiệm của Bần-Đạo là cầm Cân Công-Bình buộc kẻ ấy phải giữ y theo lời tự nguyện mà thôi. Bần Đạo cho biết có Luật Đạo chớ không hề biết đến cá-nhân. Tình đồng Đạo là tình Đồng Đạo, còn Luật pháp là Luật pháp. Bần Đạo không vì đồng đạo mà quên Luật pháp được, huống chi người đã ra công khó khai phá Toà-Thánh là Bần-Đạo đây mà Bần Đạo chưa hề kể đến công. Còn người lo vay mà mua đất cho Đạo là Quyền Đầu-Sư Thái Thơ Thanh mà Người cũng chưa hề nhắc đến của. Còn Đạo Huynh chỉ là Người của Đạo tạm mượn cái tên đặng đứng Bộ đất giùm cho Đạo đặng đối phó cùng Đời mà thôi. Còn lại ra Châu-tri cho hay rằng: Đạo huynh vẫn làm chủ đất, thì bên nào là người sang đoạt của Đạo? Là của Vạn linh, là của chung?

    4- Một ít phần Đạo-Hữu tuỳ Ngài không đủ cho Ngài choán hết một mình:

    Bần Đạo chỉ nói rằng; Chỉ biết mặt Luật pháp chớ không hề biết đến cá-nhân, cũng chưa lúc nào để ý đến cá nhân, cũng chưa lúc nào để ý đến ít hay nhiều. Song le Bần Đạo thấy cái sai lầm lớn của Đạo Huynh là tưởng rằng một phần ít Đạo, thì Bần Đạo nếu phải nói thiệt thì chưa có bằng cớ chắc chắn nào để giải quyết được.

    Bần Đạo chẳng phải tránh một cuộc đối diện để phân biệt ít nhiều, trái lại chỉ có một điều là sợ Đạo huynh sẽ không đủ sức kềm chế cái hung tâm của nhiều người trong đảng phái là sợ cho sự thật sẽ làm cho Đạo Huynh và Đảng phái thất vọng rồi phải xa Thầy bỏ Đạo mà thôi.

    Ngôi Giáo-Tông thế nào cũng có Chánh vị, ngày công cử vị ấy chẳng xa đâu! Bần Đạo khuyên Đạo Huynh và Đảng phái đừng bất cập để tránh một sự tranh đấu của Đạo Huynh và Đảng phái muốn và sẽ lập ra cũng không quyết thắng được.

    Kết luận:Bần Đạo cũng để hết ý để đọc thơ của Đạo Huynh, thầm hiểu rằng: giờ này Đạo Huynh vẫn tưởng cho Bần-Đạo rất hám vọng cái quyền-hành của Giáo-Tông nên cố tâm giành-giựt.

    Đạo Huynh quên rằng: Bần Đạo đã là Người cầm quyền mà ban cho kẻ khác thì chẳng lẽ còn để lòng tham, ganh hiền ghét ngõ, có lẽ Đạo Huynh còn nhớ ngày 12 tháng 3-1932 là ngày thiết lễ rất long trọng tại Toà Thánh đặng Bần Đạo giao quyền Giáo-Tông cho Đức Thượng Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt, ban quyền-hành Quyền Đầu-Sư cho Đạo-huynh và Ngọc Trang Thanh, Thái Thơ Thanh và ban quyền-hành Chánh Phối Sư cho ba vị khác thì ngày ấy chính mình Bần Đạo đến ban quyền cho từng vị, chỉ trách-nhiệm cho từng người thì mỗi vị đều có trả lời với Bần Đạo “Tôi đã thấu đáo Chơn truyền của Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ và từ đây xin giữ y luật Đạo đặng làm tròn phận sự”.

    Cũng vì lẽ trên mà khi trước Bần Đạo mới thâu Quyền Chánh-Phối-Sư cho Hiệp-Thiên-Đài cầm.

    Ngày nay cũng vậy, thoảng như Bần-Đạo thâu quyền lại đặng để hết dạ nhặc nhiệm phong thưởng dè-dặt là cố ý chọn Hiền tài đặng đem vào Thánh-Thể của Thầy đó thôi. Bần-Đạo chẳng vì tình riêng của ai, cũng chẳng coi ai đáng giá hơn mà xu-phụ, cho nên vẫn lấy công bình mà ban thưởng quyền hành, chớ chẳng hề áp bức ai bao giờ!!

    Nay kính.

    Ký tên: Phạm Công-Tắc
    NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

  5. #5

    Mặc định

    Cám ơn đạo hữu Kiến Nguyên
    Sưu tầm sử đạo theo quyền Chí tôn
    Trải qua gian khổ dập dồn
    Thiên hạ từng bước học khôn theo Thầy
    Biết ơn tiền bối tạo gây
    Dù trong gian khó dựng xây đạo lành
    Tùy duyên nhân rộng cho nhanh
    Mà vẫn bất biến tâm thành gởi trao
    Một lòng tin tưởng thiên cao
    Ra công mở đạo lược thao công trình
    Từng bước qua khỏi vô minh
    Lập trường công quả công bình dồi trau
    Đừng gây chia rẽ Mẫu đau
    Đường về ta sẽ trước sau một đường

    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  6. #6

    Mặc định

    LỬA THỬ VÀNG GIAN NAN THỬ ĐẠO

    Chúng ta thử điểm lại một số các cột mốc quan trọng về sự diễn tiến của nền Ðạo, chúng ta sẽ thấy được sự huyền diệu trong câu nói xác định của Ðức Chí Tôn: "Chi chi cũng tại Tây Ninh mà thôi":

    - 15-10-Bính Dần (1926): Lễ Khai Đạo tại Gò Kén.

    - 16-10-Bính Dần (1926): Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài Nam phái.

    - 09-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Lý Giáo-Tông lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài Nữ phái

    - 12-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp-Thiên Đài.

    - Từ 1926 đến đầu năm 1934: Các Chức sắc Cửu Trùng Đài tách ra lập Chi phái gồm quí Ngài: Ngô Văn Chiêu, Phối Sư Nguyễn Văn Ca, Giáo Hữu Nguyễn Văn Chính, Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, hai vị Quyền Ðầu Sư Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang.

    - Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 Ất Hợi (dl 21 đến 31-8-1935) Các Ðấng thiêng liêng vâng lịnh Đức Chí Tôn “mới giáng cho Tân Kinh... Ấy là một giọt nước Cam lộ của Đức Từ-bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của toàn thế giới.

    Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: đã trải qua mười năm Chí-Tôn mới mở cơ tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh này mà thôi.

    Thương thay cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày Tân Kinh chuyển pháp. Ấy cũng là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ rỗi là trì tụng Di-lạc Chơn Kinh hầu các đẳng linh hồn đặng siêu thăng tịnh độ”. (Lời tựa Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo)

    Ðây mới chính thực là Kinh Cao Ðài, Kinh Tận Độ chúng sanh và ban cho Phật Mẫu Chơn Kinh, dạy cách thờ phượng Ðức Phật Mẫu. Các bài kinh có trước năm 1935 đều là kinh thỉnh từ Tam giáo hay từ Ngũ Chi Minh Đạo.

    Như vậy, chỉ có Tòa Thánh Tây Ninh mới hưởng được hồng ân nầy của Ðức Chí Tôn, còn các Chi phái không hưởng được, bởi vì họ tách ra trước ngày Tân Kinh chuyển pháp, nếu muốn hưởng đủ Tân Kinh thì phải qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh mà thôi. Cho nên được biết có một số Chức sắc Chi phái di chúc lại rằng khi họ qui liễu thì nhờ Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh đến cầu kinh và tổ chức tang lễ giùm.

    Về tương lai của các Chi phái, Ðức Chí Tôn có tiên tri trong bài thi tứ tuyệt sau đây.

    THI

    “Ðạo Thầy nhiều nhánh các con ơi!
    “Nhánh có trái bông, nhánh cụt còi.
    “Rốt cuộc cành khô cùng lá héo,
    “Còn gì tươi tốt để con coi.

    Nay là qua 84 năm tuổi Đạo, cũng đủ thời gian cho toàn Đạo phân biệt rõ “nhánh nào có bông”“nhánh nào cụt còi”. Và phải chăng sự đoàn kết là sống mà chia rẻ là chết thì “Rốt cuộc cành khô cùng lá héo” mà thôi.

    Phải chăng đây là cơ khảo: “Lửa thử vàng gian nan thử Đạo” của ba Đấng công đầu:

    - Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,

    - Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,

    - Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.

    Thử nhớ lại:

    1- Thời kỳ kiến tạo Toà Thánh Tây Ninh:

    Qua thời-kỳ kiến tạo để lập công, dành cho người biết dâng công đổi vị, thì bên Cửu-trùng-Đài chính Đức Quyền Giáo-Tông về mặt hữu-hình đã góp vào một công quả to lớn để dựng Đức-tin làm nền tảng Đại-Đạo ngày nay cùng với hai vị: Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp bên Hiệp Thiên-Đài. Với lời minh-chứng của Đức Hộ-Pháp như sau:

    “Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam Nữ cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài một đôi triệu chơn linh mà có Đức-tin vững chắc như Đức-tin của:

    - Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,

    - Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,

    - Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.

    Nếu cả thảy đều có Đức-tin vững-vàng dường ấy Bần-Đạo dám nói chắc rằng: Các người dời núi Bà xuống châu-thành Sài-gòn cũng đặng. Có thể nói: nền Đạo Cao Đài này thiệt-hiện được như ngày nay là nhờ đức-tin của Thượng-Trung Nhựt."


    Đức Hộ-Pháp nói lý do:

    “Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ còn lại có ba người. Thật ra hồi ban sơ chỉ có ba người. Ba người ấy thiên-hạ kêu là ba người lỳ; ba người ấy là:

    - Đức Cao-Thượng-Phẩm

    - Đức Quyền Giáo-Tông

    - Và Bần-Đạo đây (Hộ-Pháp)

    “Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn. Bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí-Tôn và tự nhiên quyền-năng thiêng-liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO-ĐÀI này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc và giống-nòi.”


    Đó là tấm lòng hiếu thảo của Đức Hộ-Pháp thì như vậy, còn lại tinh-thần của Đức Thượng-Phẩm thì…

    Đức Hộ-Pháp nói tiếp:

    “Bần-Đạo thú thật buổi nọ:

    “Chỉ có ba Anh em, ôm sứ-mạng Thiêng liêng âý nơi mình. Lãnh sứ-mạng khó-khăn thì tưởng đâu Đạo Cao Đài thì cũng như Đạo Phật hay Minh-sư, Minh-đường. Đáo-để, cạo đầu vô chùa làm Thầy chùa tu là cùng, tưởng dễ-dàng lắm, kiếp sanh nơi thế, thời bấy giờ đã khổ-não tâm-hồn và xác thịt, lệ thuộc như thế. Ổng biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi, không bao lâu thấy cả con cái của Ngài đến cùng Ngài cả muôn cả triệu, chừng đó mới biết sợ-sệt. Chính mình buổi nọ, Đức Quyền Giáo-Tông ra hậu-điện, Người hỏi Bần-Đạo: làm cái gì vậy?

    “Thấy thiên-hạ vào cửa Đạo quá chừng, Đại-Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy? Chính mình Bần-Đạo cũng không biết.

    - Biết đâu ! Ông làm gì?

    “Ông đến thâu tín-đồ nhiều quá ảnh than rằng: tới đâu hay tới đó, biết sao!


    Kể từ đó bị khảo miết: Đức Cao Thượng-Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng, nằm trên giường bịnh cho tới hơi thở cuối cùng không buổi nào không bị khảo, không buổi nào không bị nhục-nhã. Cái luật thiên-nhiên không có điều gì xin-xỏ, điều gì cũng phải mua chuộc.

    “Bần-Đạo đã quyết rồi, xin để Bần-Đạo kết luận: Bởi mua chuộc với cái khảo-đảo, nhục-nhã của đời, để bảo-trọng danh-giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang-trọng vô đối.”

    Sự-nghiệp vẻ-vang của Đức Thượng-Phẩm như vậy chính do Ngài biết giữ được chữ “nhẫn” chữ “hòa”, một là để tô-bồi thiên-vị, hai là nâng cao phẩm-giá chơn-linh cao trọng của Ngài.

    “Đức Cao Thượng-Phẩm là chơn-linh Hớn-Chung Ly: một vị Đại-Tiên trong Bát Tiên, làm sứ-mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nền Tôn giáo tại thế này. Người cùng với Hộ-Pháp họp thành cặp cơ phong Thánh lập Pháp Chánh Truyền và Tân-Luật để làm Hiến-chương cho nền Quốc Đạo.

    “Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của Người để chấp cơ cùng Hộ-Pháp thì:

    - Đâu có Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ.

    - Đâu có Chức-sắc Thiên-phong Nam Nữ.

    - Đâu có Hội-Thánh và các cơ-quan trong Đạo.

    - Đâu có Pháp-Chánh-Truyền và Tân-luật.

    - Đâu có đại-nghiệp hiện giờ cho nhơn-sanh thừa hưởng.”

    Đến khi khởi công xây dựng Thánh-thất tức là nhà chung của Đạo (là Thánh-thất tạm trước khi xây Đền Thánh bây giờ) thì Đức Thượng-Phẩm là người đứng ra cùng góp công với nhân-sanh bứng gốc phá chồi, thật là Đấng đã khai sơn phá thạch cùng với Đức Hộ-Pháp tạo nên một ngôi thờ phượng khang-trang, một ngôi Tổ đình lưu lại cho nhơn-sanh một đức-tin tuyệt-đối. Nhưng đại nghiệp ấy mới nửa chừng Người phải về Thiêng-liêng làm nhiệm-vụ của Đức Chí-Tôn giao-phó, đành buông gánh Đại-Đạo cho Hộ-Pháp một tay lèo-lái, lại còn chịu lao-lý để gánh ách nạn cho dân-tộc. Với hai Đấng đầu công thật là công-trình vẹn-vẻ, vừa lo phần thể pháp, vừa thực hiện bí-pháp của Đạo, hai Ngài đã thể hiện cơ âm dương tương đắc vậy.

    Ấy là hai Chức-sắc Đại-Thiên-phong nơi cửa Hiệp Thiên-Đài trong cơ kiến-tạo nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ:

    - Một là Đức Hộ-Pháp, đầy lòng hiếu đạo cùng Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu.

    - Hai là Đức Thượng-Phẩm đầy-đủ đức kiên-nhẫn với một đức-tin tuyệt-đối. Thử điểm lại đôi nét về:

    TÌNH TRẠNG ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

    Ðức Cao Thượng-Phẩm từ ngày về Thảo Xá Hiền Cung xem Ngài hình thể hao mòn, sức yếu thân gầy, sắc diện âu sầu buồn bã.

    Sự nhận thức có lẽ Ngài thọ bịnh thất chí, vì hành Ðạo không được y theo sở nguyện trong nền Ðạo buổi sơ khai lo truyền giáo phổ độ nhơn sanh, mà Ngài lại an ổn tại tư gia, nên Ngài bực tức, vì Ðạo vì Thầy mà bị họ ngăn trở bước đường hành Ðạo.

    Thiết tưởng những người có đủ đức tin nơi Chí Tôn thì dầu có sản nghiệp triệu phú cũng không thể ngồi an hưởng riêng cho được, huống chi Ðức Thượng-Phẩm là Môn Ðệ tin tưởng Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu buổi đầu tiên.

    Khi Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo, giáng huyền diệu cơ bút thâu Môn Ðệ dạy thờ Thiên Nhãn trước hết cũng tại nhà của Ngài, nên lòng thành kính Ðạo thật là đầy đủ. Các Ðấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Ðạo, thì Ðức Thượng-Phẩm cùng Ðức Hộ-Pháp phò loan, hai Ngài lãnh hội giáo lý nhiều hơn hết.

    Ðức Thượng-Phẩm là người cương quyết thi hành trọn Ðạo phế Ðời, thu xếp gia đình nghỉ làm việc Cò Mi, không màng danh lợi, trọn tin theo lời Thánh giáo của Chí Tôn về ở chùa Gò Kén thường xuyên hành Ðạo. Khi dời về Tòa Thánh thì Ngài cũng trọn tâm lo xây dựng cơ nghiệp Ðạo.

    Ðến khi gặp cơn khảo đảo, bị nhơn sanh bạc đãi buộc lòng lui về tư gia, thì dầu đủ nghị lực tinh thần cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh, lương y khó phương điều trị cho lành mạnh. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài lo cuộc lễ tiếp rước Ðức Thượng-Phẩm về Tòa Thánh và tạo lập Tịnh Thất cho Thượng-Phẩm nhập tịnh.

    Cả Chức Sắc Hội Thánh đồng tâm tuân lịnh Ðức Chí Tôn tức cấp lo tạo Tịnh Thất tại nơi cụm rừng (chỗ Báo Ân Từ hiện nay).

    Ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thìn (1928):

    Bảy giờ sáng một đoàn xe hơi Chức Sắc Ðại Thiên Phong Hiệp Thiên, Cửu Trùng đến Thảo Xá Hiền Cung rước Ðức Thượng-Phẩm thì Ngài cũng vui lòng lên xe về Tòa Thánh nhập Tịnh Thất. Hội Thánh có chọn Chức Sắc phụng sự mọi việc thường thức cho Ngài.

    Ðức Thượng-Phẩm nhập Tịnh Thất một thời gian, bịnh tình cũng chưa thuyên giảm, hằng ngày kém ăn thiếu ngủ, Thánh thể xem đã gầy mòn.

    Ngày 26 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928):

    Ngài tỏ với người bạn thân là Bà Giáo Sư Hương Hiếu lo sắp đặt 6 giờ chiều trở về Thảo Xá, Ngài không cho Chức Sắc hay trước.

    6 giờ chiều, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa lót nệm để Ngài nằm, đi theo xe hộ vệ chỉ có người bạn thân của Ngài và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, đưa Ngài về Thảo Xá.

    7 giờ rưỡi, tới nơi đỡ vào phòng nghỉ ngơi, xem được khỏe như lúc mới lên xe. Từ đây, ở yên nơi Thảo Xá.

    ÐỨC THƯỢNG PHẨM ÐĂNG TIÊN

    Ngày 01 tháng 03 Kỷ Tỵ (1929) 11 giờ trưa, Ðức Thượng-Phẩm cho mời Ðức Hộ-Pháp, cùng ông Bảo Văn Pháp Quân, bà Giáo Sư Hương Hiếu, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ Sanh Thượng Ngươn Thanh.

    Ðức Thượng-Phẩm nhìn Ðức Hộ-Pháp trối rằng:

    “Nay Qua về chầu Ðức Chí Tôn, em ở lại hiệp với Chức Sắc chung lo nền Ðạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn”.

    Nói rồi tuôn hai hàng nước mắt, kế day qua nói với bạn thân của Ngài căn dặn để trọn tâm lo tròn phận sự; nói dứt lời thì Ngài xuất linh hồn êm ái, gương mặt cũng như người đương ngủ. Có một điều phi thường là lời trối Ngài nói có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Cả Chức Sắc có mặt đều cảm động ngùi ngùi thương tiếc.

    Khi Ngài dứt hơi thì đỡ ngồi dậy thúc xác ngồi kiết tường trước mặt lập bàn hương án chưng bông hoa trà quả. Ðức Hộ-Pháp ra kiểu cho thợ mộc đóng Liên Ðài hình Bát Quái; thời Tý 12 giờ đại liệm, rồi thành phục tế lễ theo nghi tiết. Hội Thánh thông tri cho toàn Ðạo các tỉnh đều hay đặng hành lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng-Phẩm được tiêu diêu nơi miền Tiên cảnh.

    Quàn tại Thảo Xá 3 ngày, Chức Sắc và Ðạo Hữu nam nữ điếu tế rất đông. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài cầu cơ bút, Ðức Thượng-Phẩm giáng cơ tỏ vẻ vui mừng, được về bái mạng Ðức Chí Tôn cùng Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung, đều ban ơn công nghiệp buổi khai Ðạo tròn sứ mạng, Ngài tiếp cho một bài thi tứ tuyệt:

    THI

    Cao thanh miệng thế mặc chê khen,
    Thượng trí màng chi tiếng thấp hèn.
    Phẩm cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
    Từ bi tập tánh được thường quen.

    Ngài tỏ vẻ vui mừng nay đã thoát khỏi biển trần, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Ngày 3 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929) Hội Thánh rước Liên Ðài về Tòa Thánh, sự sắp đặt thứ tự theo chương trình dưới đây:

    1/-Tấm bảng Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, kế tiếp là phướn Thượng-Phẩm.

    2/-Bàn Hương án để Bửu Ảnh có dàn hầu, lổ bộ và các tràng hoa.

    3/-Nhạc Ta, nhạc Tây, nhạc Tiều, nhạc Thổ.

    4/-Bàn đưa, phúng, vãng, trên một trăm tấm tiếp theo đồng nhi đọc kinh đưa.

    5/-Thuyền Bát Nhã chở Liên Ðài tiếp sau tang gia hiếu quyến.

    6/-Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài: Hộ-Pháp, Thượng-Sanh, cùng Thập Nhị Thời Quân, kế tiếp Chức Sắc Cửu Trùng Ðài Nam Nữ và Chức Việc, Ðạo Hữu. Số người đưa đoạn đầu vào đến Ðền Thánh mà đoạn chót còn ở tại Thảo Xá, đường dài 4.000 thước.

    Cuộc rước Liên Ðài rất tôn nghiêm long trọng. Khi Thuyền Bát Nhã đến Tòa Thánh, di Liên Ðài vào Bửu Ðiện an vị nơi phẩm trật của Hiệp Thiên Ðài.

    Ðêm mùng 3 hành lễ Ðức Chí Tôn, dâng sớ cầu nguyện Ơn Trên ban ân huệ cho chơn linh Ðức Thượng-Phẩm tiêu diêu cõi thọ.

    Ngày mùng 4 tháng 3 Kỷ Tỵ: Chức Sắc và toàn Ðạo các Tỉnh tế lễ phúng điếu rất đông đảo, cùng thân bằng cố hữu phúng điếu, quàn Liên Ðài tại Bửu Ðiện tế lễ cầu siêu....

    Tới ngày mùng 8 tháng 3, sớm mai 8 giờ, di Liên Ðài lên thuyền Bát Nhã đưa ra Bửu Tháp. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đọc ai điếu; Cửu Trùng Ðài Ðức Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt đọc ai điếu, trạng tỏ công nghiệp hành Ðạo của Ðức Thượng-Phẩm trong buổi sơ khai, đủ nghị lực tinh thần đối phó với quyền đời, nào là ngăn cấm áp chế không muốn cho mở mang căn bản nguồn cội của Ðại Ðạo nơi vùng Thánh Ðịa.

    Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, thay mặt cho Nữ phái đọc ai điếu tỏ lòng mến tiếc Ngài vội đăng Tiên, Hiệp Thiên Ðài thiếu người phò loan đủ huyền diệu.

    Khi đọc ai điếu xong, Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu nam nữ thành tâm kỉnh lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng-Phẩm được siêu thăng Tiên cảnh. Cuộc lễ thật long trọng.

    Thợ hồ lo xây Tháp cho Ngài, có gắn cẩm thạch mạ chữ vàng nơi Bửu Tháp bát giác; sau lưng có khắc bài kỹ niệm để tỏ dấu cảm hoài và roi truyền hậu thế.

    Sau đấy Ðức Cao Thượng-Phẩm có giáng cho hai bài thi khi di Liên Ðài ra Bửu Tháp:

    THI

    Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
    Thung dung nhờ núp bóng Cao Ðài.
    Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
    Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
    Phi thị mặc đời nơi quán tục,
    An nhàn rảnh dạ khách Thiên Thai.
    Ngậm cười nêu quạt chờ sanh chúng,
    Biển khổ ngày qua đếm một ngày.

    ***

    Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,
    Cõi Thiên mừng đặng dứt giây oan.
    Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
    Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.
    Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt,
    Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.
    Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,
    Ðể mắt xanh coi nước khải hoàn.

    Công-quả phi-thường của Đức Quyền Giáo-Tông

    Đức Hộ-Pháp đã giải:

    Thật sự hồi ban sơ chỉ có ba người:

    “Bần-Đạo nói không có gì! Đức Chí-Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng-tượng được. Khi Ngài đến thì chỉ có Đức Thượng-Phẩm và Bần-Đạo mà thôi. Về sau Bần đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm mới đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung-Nhựt đặng Chí Tôn chuyện vãng cùng Người. Đứng đầu trong trường chính-trị đã chịu ảnh-hưởng một tình thế bị trích-điểm cũng có, được tôn-sùng cũng có, được khen cũng có, bị chê cũng có. Buổi ấy bị họ ghen-ghét nên chê nhiều hơn khen. Chính mình Bần-Đạo lấy làm lạ tại sao Đức Chí Tôn biểu Thượng-Phẩm đến nơi đó?

    “Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một người đó lại phi-thường! Giờ phút này Bần-đạo nói đến lấy làm lạ!

    “Một là từ thử tới giờ Bần-đạo chưa ngó thấy. Đến chuyện vãng cùng Ngài, Đức Chí-Tôn nói cái chi chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Bần-đạo với Thượng-Phẩm chỉ là hai người dự thính không biết gì hết, mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi.

    “Trong 24 giờ, một người đã là Thượng Nghị-viện, một cái gia-nghiệp đủ vinh-hiển, đủ cao-trọng, đủ đương đầu với thiên-hạ.

    “Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Cho tới một cái lạ hơn hết là đương hút á-phiện, người phong-lưu như ai kia vậy bỏ một cái một, cả sự ăn chơi cũng thế.

    “Đức Chí-Tôn kỳ hạn có 24 giờ mà thôi:

    - 24 giờ Anh Cả chúng ta phải trường trai.

    - 24 giờ Anh Cả phải dâng cả sự-nghiệp cho thiên hạ.

    - 24 giờ Anh Cả chúng ta phải từ bỏ chức Thượng Nghị-viện, dâng mảnh thân phàm cho Đức Chí-Tôn làm ngọn cờ cứu-khổ.

    “Một người, Bần-đạo thấy ban sơ có một người là Thượng-Phẩm, rồi sau lại có người này nữa: Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.

    Ngồi nghĩ thầm cái đức-tin gì mà lạ-lùng như thế ! Giờ phút này Bần-Đạo mới hiểu hai vị Đại-Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề Đức Chí-Tôn đã giao-phó một sứ-mạng nặng-nề, khó-khăn để đảm-nhiệm trách-vụ gánh vác tạo dựng nền chơn-giáo của Ngài như thế này.

    “Nói thật ra,

    “Thưa cùng chư Chức-sắc Thiên-phong Cửu Trùng Đài Nam Nữ! Cái ngôi của Ngài tạo dựng, cái ngôi Giáo-Tông-Đường của Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết, cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất Việt-Nam này một cái báu vật quí giá vô cùng, từ thử tới giờ chưa hề có.

    “Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo Hoàng Saint Pière thế nào, thì Bần-Đạo có lẽ nói rằng và cũng có thể mơ-ước: cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”


    Hai hình ảnh tương phản:

    Phải thấy rằng hai đối cảnh mà người cùng một Đạo phải xót xa đau đớn vô cùng. Lúc bình sanh ba Đấng đầu công khi nền chinh nghiêng bởi phản khắc Đạo quyền thì các Ngài bị nhục mạ, bị chửi mắng, kẻ đòi giết, người đòi trói ngoài gốc cây cao su, bỏ vào rừng cho cọp ăn. Các Ngài cũng nhẫn nhịn cho vượt qua. Nay qua rồi cái thảm cảnh kẻ tiên cáo cũng như người bị cáo, kết quả cũng đi vào cõi thiên thu. Nhưng các Ngài vẫn còn lưu lại cho nền Đạo này một tấm gương cao khiết, một hình ảnh tôn quí mà cả thế giới đều phải cúi đầu trước một kỳ công rạng rỡ với bước Đạo thăng tiến như ngày nay. Nơi cõi Thiên, các Ngài trở lại phẩm cũ ngôi xưa là hình ảnh của Bát Tiên. Hào quang đạo pháp đã toả sáng đến muôn triệu chơn linh mà các Ngài đương lo độ rỗi. Dù hữu hình hay vô vi các Ngài cũng vẫn là những ngôi sao sáng. Trái lại dù khi còn ở thế gian, còn mang xác hình nhục thể dù ai có làm khổ, làm khó các Ngài, vậy mà khi về cõi hư vô rồi thấy cảnh khổ đau đớn tội tình của bất cứ một chơn linh nào, các Ngài vẫn đứng ra cầu xin, độ rỗi, không có người thù.

    Hãy theo dõi qua Đàn Cơ của các Đấng về báo:


    Phò loan: Sĩ tải Hiển và Kiết.

    Thánh Thất Chợ-lớn, ngày 7-6 Bính Tý (24-7-1936)

    Lão chào hai em

    Victor- Hugo

    …Lão kính lời thăm Đức Hộ-Pháp, Lão mừng cho Ngài đủ mưu thủ thắng kế hề của Tương kỳ này. Cười!..

    Ôi! Thương cho xác của Trang đã cứng đơ trong hòm mà phải bị hành tội giữa chúng sanh trước khi vào nằm nơi Thánh Địa. Mấy em thấy hình phạt tại thế chưa hử ? Ấy là đỡ đa! Nếu không vậy về luật Thiên điều làm sao chịu cho thấu, Em!

    Lão tức cười quá. Người làm sao mà lỳ đến thế? Non nước này mà người ta chưa lột lớp hề, còn mang râu giễu gượng, rồi đây thương hại giùm cho người giữa đám dêu-hêu còn ngủ gục kia mới dỗ chúng nó cách nào cho yên. Mấy em nè! …”


    Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo

    Hộ-Pháp Đường, le 2è Juillet 1936 (10-6- Bính Tuất)

    CAO THƯỢNG PHẨM

    Chào chư vị Hiền huynh, Hiền hữu.

    Cười…Hộ-Pháp xin nghe!

    Rộn rực tuồng đời vẫn bấy nhiêu,
    Công danh quyền tước ngược Thiên Điều.
    Cái trung tâm trước quan chưa vẹn,
    Nỗi Đạo tánh xưa lý chẳng nhiều.
    Cầm đuốc soi lòng vừa phụ nữ,
    Ôm hồ nhàn dạ bỏ nghề Nghiêu.
    Thanh đao bầu phép không ăn nhịp,
    Tỷ giống ông Tương với Ả Kiều.

    Họ nghịch với nhau thây họ, can chi mình mà phỏng vấn.

    Qua ..Ừ, mà giờ này Anh Trung đương mang bầu xuống Âm-quang đặng giục tỉnh Anh Trang, còn đương say mùi trong ảo mộng. Cười…

    Ba phát quạt của Qua quạt một đường, anh Trang bay một ngã. Qua bị Bát Nương kiêu ngạo quá chừng, ai đời Chơn thần người tu mà nặng quá hủ lô nhà máy.

    Thôi, để cho Anh Lớn tính sao thì tính, họ có ăn thua với nhau thì biết thế nào mở húi. Cười..

    Anh Trung coi bộ rầu cháy ruột. Để Ảnh về Qua biểu đến thăm em. Thôi Qua kiếu. Thăng.




    Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo

    Phạm nghiệp ngày 11-6 Bính Tý (28-7-1936)

    THƯỢNG TRUNG NHỰT

    Chào mấy Em,

    Thượng-Phẩm nói với Qua rằng mấy Em đợi.

    Ôi! Qua nghĩ lại quá tức mình, mấy em nghĩ mà coi một kiếp sanh đâu có mấy lát, cái giả cuộc trần hoàn tuy xem như nháy mắt mà ảnh hưởng nó sâu sắc biết là bao. Nào là danh, nào vị, nào là tước, nào là quyền, nào vinh, nào trọng, rốt sự thì không còn mảy mún giá trị chút gì nơi cõi Hư linh Hằng sống. Bất quá như coi vui đặng dự một tiệc ngon ngọt của khách phong trần, say sưa một lát mà đòi phen chịu thảm cả đời.

    Qua đến viếng Trang nơi Lạc-Hồn-Trì thấy nó nằm mê-man sảng sốt đau lòng hết sức, như lời Thất Nương và Bát Nương làm chứng, thì dầu cho Qua có đến gần nó lúc này cũng không bổ ích chút nào cả.

    Phải đợi cho nó từ từ định tỉnh may ra có tay Thất Nương giải mộng, thỉnh thoảng định tĩnh tâm thần, nếu Qua cượng cầu thì chẳng khác nào hầu chuyện với một người điên, chọc thêm loạn trí.

    Tám! Em nên thường phò loan đặng Qua truyền tin Trang cho Em hiểu, ấy là một điều mấy Em nên học hiểu. Khi nãy Qua thấy Em có khách nhiều thì phải?


    Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo

    Hộ-Pháp-Đường, 10-9- Bính Tý (le 24-10-1936)

    THƯỢNG TRUNG NHỰT

    Ê, Hộ-Pháp: Em hỏi Qua việc chú Trang, Qua lại nhắc em điều này: khi nọ em có nguyện với Đức Chí-Tôn rằng: Ngày nào có bịnh tà quái cầu tạng mặt em thì em hành pháp lại y như trước…

    Đức Hộ-Pháp bạch: Thôi, em nhớ lại rồi.

    Nhớ hả?

    Còn vụ Trang hôm đầu tháng tám và vừa tỉnh giấc mê hồn, giuc chạy trốn đi đâu không biết. Qua và Thất Nương đương kiếm.

    Hồi trưa này đến xin Hộ-Pháp vào cho thấy mặt tôi, đặng cầu ân xá mà mở miệng ú-ớ, bị “toa” đập chạy nữa, bây giờ không biết đi đâu, Qua thấy thê thảm quá. Nếu Qua và Thất Nương kiếm không đặng đem về, sợ lưu linh bậy bạ rồi chư Thần bắt cột tại Phược-trục-cung giam như tù tội.

    Em Hộ-Pháp khi gặp bắt nhốt giùm Qua, rồi kêu Qua đến dìu dẫn kẻo tội nghiệp.

    Ôi! Cậu Tương cũng sẽ như vậy nữa mà chớ; Qua xin lịnh Ngọc-Hư tha thứ nhưng không đặng, vì chưa có lời Em, nên Qua lo sợ quá sức.

    Mấy em khá gắng giữ mình, đừng thất thệ với Chí Tôn: Khó lắm! Khó lắm!


    Ông Cử Đa giáng cơ nói:

    Đối với những người Chi phái:

    … “Bần tăng lãnh lịnh gìn giữ các vị ấy để chờ ngày giải quả tiền khiên, rồi để lần hồi đem về cửa Đạo, nào dè Đức Lý Giáo-Tông ra Đạo Nghị Định thứ 8 làm cho các Chi phái không thế hồi phục, lại gây thêm lắm tội tình, ấy cũng vì nghiệt căn chưa mãn.

    Nay nhờ Quyền Vạn linh ân xá thì còn vớt lại phân nửa, nhưng phải chịu trải qua nhiều cơn thử thách mới đáng cho vào hàng Môn đệ của Chí Tôn, còn các vị đầu đảng thì không phương phục hồi, bởi nặng mang nghiệp chướng, chỉ có đợi ngày chung cuộc ăn năn bằng khối linh hồn may được gởi xác phàm nơi cửa Đạo, còn lại một phần là con cái của Ma vương. Kết cuộc thì con Phật, con Ma, hai đường phân biệt.

    Đây lời nói việc Thất Sơn buổi sau nầy là để làm nghĩa địa cho con cái của lũ Ma vương, mà cũng để lập nơi cho các bậc chơn tu buổi hậu lai đắc đạo.

    Có mấy lời tỏ việc các Chi phái là bởi nguyên do, còn quốc sự thì chư Thiên mạng đã lãm tường chung thỉ. Xin chào chư Thiên mạng. THĂNG.


    NỖI LÒNG TỪ PHỤ

    Trước tình trạng chia phân

    Phò loan: Hộ-Pháp Thượng-Phẩm

    Tháng giêng Tân Mùi

    Thầy, Các con.

    Cười! ..Đáng kiếp cho bây lắm hứ! con thì đứa trắng, đứa đen, lại bị Tà quyền xung đột thì cũng tại nơi các con chẳng biết vâng lời Thầy dạy dỗ, mà cũng chẳng dạ thương Thầy mới ra thế ấy. Tiếc thay hơn năm chầy Thầy để hết gang tấc đem Thánh đức mà nhồi nắn các con, nay cũng còn thấy dưới mắt Thầy một cái thảm trạng thường tình gây cuộc nầy.

    Các con ôi! Ai thì chẳng biết các con chớ Thầy đây há không thấu đáo đặng hay sao? Thầy hằng tiên tri trước rằng: Thầy lập một trường thử thách mà lập ngôi vị Thiêng liêng cho mỗi đứa con ra đáng giá. Cái vui và cái buồn của các con chẳng còn giống như thế tình thấy. Thầy cậy kẻ trau giồi Thánh đức của các con đến đỗi phải đem ra trao đổi tội tình, làm phước hạnh cho kẻ hung bạo hiếp đáp các con, Thầy tưởng khi là quá trí của các con, mà cũng quá trí Thầy đây nữa mà chớ!

    Cười!... Vàng thau lẫn lộn, phải cậy lửa trui phân, Thầy đã đến nơi cảnh tục trần này mà đem các con ra khỏi vòng tôi đòi xác thịt, đồng thể với Quỉ nhân và Hoá nhân, thì chính mình Thầy đây còn bị nhiễm nhầm khí trược thay, huống lựa là các con!

    Các con trước than Thầy đã than trước; các con trước khóc Thầy đã khóc trước rồi, ấy cái oan gia Thầy hỏi ai đào tạo? Thầy xin nói cho Thầy nghe?

    Lũ con hoang, hễ ra khỏi nhà thì toan gây tội, oan nghiệt, căn nghiệp là do tại nơi các con, chớ không phải của Thầy dành để, vay trả phải cho rồi mới đáng qui hồi cựu vị, hiểu không con Thơ?

    - Trung, Thầy chỉ trách con một điều là Thầy đã nương cậy thi hài hữu hình tay con, đặng dìu dắt con cái Thầy, tức là em của con, Thầy chẳng nệ Thơ kém đạo tâm, để cho con hưởng đủ mùi sang giàu vinh hiển, đặng cho con lịch lãm thế tình hầu cậy con nưng niu dạy dỗ các em con tận thức nhơn tâm, mà chỉ có mấy đứa em mà không thông tâm chí, để đến đỗi khi lịnh mà mang tội Thiêng liêng rất nên tội nghiệp vậy con?

    - Thượng Trung Nhựt bạch…

    - Thầy không phải cấm dùng roi dùng vọt, nhưng chỉnh cậy con phải biết tuỳ thế tuỳ thời. Thằng Thơ nó ngỗ nghịch với con là tại nơi con tập nó. Thầy đã nói với con rằng: Thầy gởi gắm nó cho con, con còn nhớ à?

    - Thượng Trung Nhựt bạch…

    - Nó khóc, nó kể bao nhiêu thì càng giục Thầy tái kiếp tạo thành thể Đạo. Thầy hỏi vậy chớ sự trông thấy của Thầy nơi các con là sự gì nói hử?

    - Thượng Trung Nhựt bạch…

    - Ừ, con há! Thầy nói một chữ, rồi bố trí cho con hiểu một mình chữ này nghe con “Tuỳ”!

    - Tương, Thầy đã có dặn con từ trước mà ngần ngại nỗi gì? Thầy vì loạn lạc gian ác, các con giết lẫn nhau nên đến mà tạo Đạo cứu chúng sanh, duy có một điều ước vọng là các con cả thảy đều hoà thuận cùng nhau ấy là cơ giải hoà toàn thế giới.

    Con đã rõ thấu chơn lý Đạo Thầy, con lại sợ chi mà không từ quan hành Đạo. Con nên cho chánh phủ hiểu rằng: Trong cơn ly loạn này, hoặc con nên hữu dụng cho cả lưỡng quốc Pháp Nam ra giáo dân qui thiện, hoặc là vô dụng mà làm một quan viên chức tước thường, rồi biểu cân thử hai lẽ trọng khinh mà định liệu.

    Cười!... Còn con đừng sợ chúng nó để dạ hồ nghi, con lại để trao phần chúng nó định, thì Thầy nói trước rằng: Thầy sẽ biểu chúng nó định lẽ nào cho danh con nên cao trọng, còn cả sự chi để cho Thầy. Đạo có hư mới có nên, ấy là cơ nhồi nắn các con cho nên đạo hạnh, con đừng ưu tư phiền muộn, Thầy nói cùng đi nữa, dầu kẻ tội nhơn phải còn sa đắm trầm luân khổ hải một đôi trăm kiếp đi nữa cũng còn có thuở níu đặng tay Thầy, con an tâm lo việc Đạo

    Thái-Bạch đổ tội cho con vì muốn lập HỘI NHƠN SANH mới gầy cơ loạn lạc ấy.

    Trang, con cứ thi hành phận sự, ấy là phương thế của Thầy cứu vớt tội tình đó. Con cũng vậy, Thầy dặn con dụng oai-quyền mà lập nên thể Đạo, nhưng chẳng nên xao lãng tâm từ, con hiểu riêng Thầy không nên hết tiếng.

    Thơ, Con! Con! Con! Con có nhiệt dạ thương Thầy thì nên cho Thầy xin những điều này nghe: bớt tánh nóng, đừng lẫy đương, con nên liệu phương tuỳ nhơn trí luật định, nếu con biết tôn trọng phẩm vị của con. Hễ con biết phạm thì ai ai cũng phạm, huống chi chính tay con đặt viết lập Luật cho đời mà con còn phạm thì ai kia không phạm, con nhớ không con?

    Thầy cám lòng con thương tưởng Thầy, song còn tiếc một điều là con không biết ý Thầy, con giận lẫy. Thầy hỏi ai ra gánh vác lập thành thể Đạo hử?

    Con phải giúp em con là Hương Thanh, rằm này khởi tạo Toà Thánh, kẻo Thái Bạch quở phạt thì con chịu đa nghe! Cười!...

    Hương Thanh! Con tưởng vậy là đủ. Nhưng chưa! Cười! Thầy ban ơn cho các con. Thăng.


    Ngày 21 tháng giêng năm Kỷ Tỵ ( 02-Mars 1929)

    Thầy, các con.

    Tắc, Thầy viết chậm chậm cho con đọc.

    Tắc, Con truyền Thần vững vàng đặng đỡ bớt cho Anh con, nghe!

    Cư, Thầy viết chậm chậm cho con đọc.

    Ôi! Nếu các con trước biết thương yêu nhau dường này thì có đâu ra đến mang tội Ngọc-Hư, bị nạn quỉ khảo. Thầy đã đôi phen dạy-dỗ, các con chẳng chút đoái lời, đứa trắng, đứa đen, mất tình hoà khí.

    Một khối đức tin Thầy nhọc công nhồi nắn đã rã-rời ra. Thầy tưởng chẳng cần nói các con cũng hiểu rõ sự đau thảm của thầy dường nào! Thì cũng vì các con mà Ngọc Hư Cung náo động. Nỗi Bảo-Đạo kiện thưa, nỗi Diêu-Trì binh vực. Kẻ thì trách Thầy quá yêu tha thứ, kẻ trách Thầy rộng mở Chơn-truyền. Thầy đứng giữa một mình đôi vai nghiêng gánh vác, Thầy chỉ mong một điều dù phải thế nào, xin miễn Thánh đức các con đặng vẹn giữ thì là thoả nguyện.

    Thầy đoái lại thì Thầy chỉ thấy các con quên Thầy mà thôi. Tội nghiệp cho cái thân già này cầm quyền Thế giái Càn Khôn mà làm gì! Đến đỗi có một nắm tay con cái dắt dìu chưa đủ sức, lại phải chịu cho nó phụ rảy phản loạn lại thế nào! Thầy lại buộc phải nhìn nhận lại các điều phân định của Ngọc-Hư-Cung giữa Đại Hội, rồi đây Thầy phải giáng Cơ đặng chịu tội trước mặt nhơn sanh nữa, thẹn thùng, nhục nhã ấy vì đâu?

    Thì cũng vì thương các con đó! Nếu Thầy có xác thịt như các con, thì biết bao phen Thầy đã ném cây Cân Thiêng liêng và bứt đứt trái tim yêu dấu của Thầy mà quăng đi luôn thể. Thầy chẳng nỡ nói nhiều, cực vì phải dạy nên cạn tỏ tấm tình, các con nên thương Thầy và hằng tưởng đến danh Đạo mà giữ-gìn tánh đức Thầy đã lập ngôi các con rồi, các con cũng nên gắng chí giúp Thầy lập vị cho các con luôn thể. Thầy thấy Diêu-Trì-Cung theo xem sóc các con Thầy thêm an dạ.

    CƯ, TẮC, hai con đánh giây thép cho Trung hay và kêu mấy em Hiệp-Thên-Đài cho đủ mặt, ngày 27 An nam Thầy giáng dạy việc, nghe!

    Cười!...Thầy không thế ở lâu đặng dạy riêng từ đứa, các con đừng phiền nghe!

    Thầy ban ơn cho các con. Thăng.


    Le 23 Octobre 1934,

    Thầy, các con

    Tương, đáng lẽ những lời Thầy đã dạy mấy con nơi Hiệp-Thiên-Đài tại Thánh-địa đủ cho các con dùng đặng chung trí lo với nhau mà chấn chỉnh nền Đạo.

    Thầy buồn lòng trông thấy các con rời-rã, cũng tranh đấu, phân-phui, rốt cuộc thì các con vẫn đều nêu trò chơi, trò cười; không đứa nào tránh khỏi, mà chúng sanh phải chới với giữa bến khổ sông mê, không người dìu-dắt.

    Các con đứa tranh quyền, đứa dục lợi, đứa buôn oán, đứa xu hờn; rồi thì lo bên mưu thần, bên bày chước khéo mà đánh đổ lẫn nhau làm cho nền Tín-ngưỡng đã un đúc bấy lâu, nay đã từ từ ngã xiêu và sập đổ nát.

    Con ôi! Phải quấy mà làm gì?

    Thầy đứng giữa một địa vị của ông Cha đương dòm ngó lũ con cường ngạnh, xung đột mà dành tiếng vô-vi của trò đời. Quấy cũng là con, phải cũng con. Thầy đổ luỵ mà khuyên các con một chữ HOÀ, quên cả sự cừu hờn riêng mà lo nhau đến cùng Thầy, mà rốt lại Thầy cũng đành tuyệt vọng với những tâm phàm trí tục. Chớ chi trong mấy đứa Thầy đã dạy, có một đứa biết lo Hoà, thì tôn chỉ của Đạo chẳng ra đến nỗi ấy.

    Các con đã tự tung tự tác, Thầy chỉ buồn lòng mà coi Lý-Bạch kêu vào nơi Thiên-điều. Ngày giờ ấy cũng chẳng xa. Nhưng nếu đứa nào khôn được giữ từ tâm, bác ái và nối được chữ hoà trước ngày về cùng Thầy thì hoạ may mới còn trông ngôi cựu vị. Các con chẳng khứng dung chế cho nhau, thì nền Đạo phải còn lắm chinh nghiêng, chúng sanh còn lắm huyền đảo.

    Công trình của con đã khởi xướng, nếu may mà được vẻ vô tư và trong ngoài thì có lẽ cũng bổ ích cho nền Đạo, nhưng nên nhớ nếu mà sái với Tôn chỉ hiệp nhứt và tự mình muốn chia rẽ thì luật Thiên Thơ không dung chế được.

    Các con mỗi đứa tự mở một con đường thì Thầy vẫn không thế vui trông sự phân chia, nên hay là hư, phải hay là quấy. Thầy chỉ để cho tâm các con định lấy, tâm cứng-cỏi, Đạo điều-hoà thì cứ bước tới Thầy; tâm trí bất định, đạo hạnh không hoàn toàn thì con đường hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẵm đó. Vì sức các con đã rã-rời thì tài nào níu kéo, đỡ nâng khuyên nhủ nhau được. Con đường vô tư để tìm cứu khổ cho chúng sanh là con đường đạo đức, ngọn đèn thiêng liêng sẽ chực soi tỏ bước của các con, khác với con đường ấy là con đường của Quỉ Vương đem vậy.

    Nên nhớ mấy lời Thầy, chẳng phải đọc sơ qua mà coi làm chơi, cần chiêm nghiệm kỹ lưỡng mà hiểu nghe!

    Hại thay! Đã nhiều lần các con chẳng hiểu ý. Thầy cũng đau lòng mà thấy các con đi sái bước, nhưng than ôi! Cơ thử thách chỉ dùng với những đứa tâm phàm lẫn chất Thánh.


    Đoàn kết thì sống chia rẻ là chết:

    Câu thi:

    “Rốt cuộc cành khô cùng lá héo,
    “Còn gì tươi tốt để con coi.


    Theo bài thi trên nầy, lúc đầu có một vài Chi phái bông trái sum suê, còn một vài Chi phái thì còi cọc, nhưng rốt cuộc rồi thì dầu sum suê hay còi cọc đều bị tàn tạ dần, rồi sẽ mất hẳn. Ðức Chí Tôn như ngầm nói rằng vấn đề qui hiệp là sống còn, còn không chịu qui hiệp thì dần dần suy tàn rồi mất hẳn.

    Người tín đồ Cao Ðài hôm nay phải tự nhận thức rằng, chỉ có con đường duy nhứt để tự cứu lấy mình, cứu lấy linh hồn mình là tự giác trở về với nguồn cội Đạo để lập công quả, hoặc là bên Cửu Trùng Đài, hoặc là bên Hiệp-Thiên-Đài. Ðức Chí Tôn chưa cho phép mở Tịnh Thất và chưa ban cho pháp môn luyện đạo, bởi vì kỳ thi chung kết sắp mở trong Ðại ân xá của Chí Tôn là môn thi CÔNG QUẢ và chỉ thi môn nầy mà thôi.

    Ðức Chí Tôn có lời dạy:

    “Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các con nghe, nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ”.

    Cho nên nếu cứ lo luyện đạo mà không lo công quả thì tới kỳ thi chung kết nầy, e phải đứng ngoài trường thi, chịu thiệt thòi thì mất cơ hội tiến hoá.

    Trong kỳ Ðại Hội Nhơn Sanh năm Giáp Dần (1974) tại Tòa Thánh Tây Ninh, vị Chức sắc đại diện Lại Viện Cửu Trùng Đài báo cáo trước các Nghị viên và Phái viên nhơn sanh, số Chi phái Cao Ðài bằng lòng qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh như sau:

    "Tổng số 36 Chi phái Cao Ðài, đã có 10 Chi phái chịu qui nhứt về Tòa Thánh Tây Ninh như:

    1- Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt.

    2- Phái đoàn Cao Ðài Chiếu Minh.

    3- Hội Thánh Trung Ương Trung Việt (Tam Quan).

    4- Hội Thánh Cao Ðài Thượng Ðế (Chiếu Minh Ðàn).

    5- Phái đoàn Hội Thánh Tiền giang.

    6- Phái đoàn Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý

    7- Hội Thánh Hậu giang Minh Chơn Lý.

    8- Cao Ðài Cứu Thế Thiện Huyệt Lâm Huyền Châu.

    9- Giáo Hội Cao Ðài Thống nhứt."

    Đức Hộ-Pháp nói:

    “Có lần Bần-Đạo nghe lời Đức Lý thì Đại-Từ-Phụ thất vọng, thấy tội nghiệp Đại-Từ-Phụ quá đỗi. Đức Đại Từ-Phụ tính không thể gì bảo trọng mấy đứa kia được, biết Đức LÝ nhứt định đuổi những kẻ tà tâm ra khỏi nền Tôn giáo. Đại-Từ-Phụ biết không thể gì không biến sanh Chi phái, nếu nảy sanh Chi phái rồi thì không phương cứu vãng và trị loạn được, thì nền Chánh-giáo của Đức Chí Tôn không có giá trị gi hết”

    Ai đã gây ra Phe phái hãy nghe Thầy để lời than:

    “Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu, lại để lời tiên-tri mà dặn trước, nào dè Thánh ngôn các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không mới ra tội-lỗi, các con phạm thượng thế ấy.

    Vậy từ đây quyền thưởng phạt đã giao vào tay Lý Thái-Bạch các con chịu lấy… Cả Môn-đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai, kẻ nào cưu tâm CHIA PHE PHÂN PHÁI là đứa thù nghịch của Thầy. Con hiểu à?

    Con biết rằng: Thầy hằng dặn cả Môn-đệ, nhứt nhứt sự chi cũng phải đợi lịnh Thầy” (TNI/57)


    Đức Hộ-Pháp cũng đã dạy phân rằng:

    “Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương chữ Hòa mới toan thành lập, Chí-Tôn định thành Hội-Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép Tạo hóa cá nhân mà gầy nên ảnh tượng:

    - Cửu-Trùng-Đài là thi hài ấy là TINH.

    - Hiệp-Thiên-Đài là Chơn-thần ấy là KHÍ.

    - Bát-quái-Đài là Linh-hồn ấy là THẦN.

    Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đạo cho đặng.

    Nếu có một quyền-hành nào tại thế này mà làm cho thân thể Chí-Tôn phải chia phui manh-mún ra đặng, thì là Đạo Ta là giả Đạo, tất nó phải tiêu diệt trong một phút ngắn-ngủi chi đây.

    Còn như quả là Chí-Tôn vì Thương yêu con cái của Người, chính mình đến lập Đạo đặng giải thoát cho chúng sanh thì những mưu chước của Tà quyền ngăn cản bước Đạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí-Tôn, ắt là không mong bền vững.

    Hại thay, cho những kẻ vô phần toan PHÂN PHÁI CHIA PHE làm cho xác Chí-Tôn phải tan tành rời-rã!

    Khổ thay cho những kẻ không duyên CHỐI THÁNH-GIÁO, nghịch chơn truyền làm cho Chơn thần của Chí-Tôn phải ô-uế đê hèn muốn toan bỏ xác!

    Đau-đớn thay cho những kẻ ấy!

    Thê-thảm thay cho những kẻ ấy! Dám để tay vào mà tàn hại Chí-Tôn, cái tội-tình ấy lớn lao bao nã?! Coi lại gương Juda bán Đức Chúa Jésus-Christ còn nhẹ. Vì Juda ham ba chục ngươn bạc đặng nuôi Môn-đệ của Người mà bán Ngài, còn những kẻ này đây duy háo danh mà phản Đạo!

    Chí-Tôn đã đến thế hạ mình đặng làm Thầy dạy-dỗ chúng ta, hằng trông mong giờ nào chúng ta biết hoà hiệp nơi lòng bác-ái, từ tâm của Người, là hiệp Một cùng Người, mới có đủ quyền-hành độ tận chúng sanh qui hồi cựu vị, mà đã sáu năm chầy rồi, thân thể hỡi còn rời-rã, ngất-ngơ, Chơn-thần hỡi còn dật-dờ mê-muội, thì thế nào các Đấng Thiêng-liêng hiệp một cùng Đời cho đặng, hầu mong sửa cải Thiên-thơ, tụ hội các nguyên-nhân đem về trong cửa Đạo?

    Vì năm Đạo phân chia cho nên nhơn tâm bất nhất, Chí-Tôn đến đặng hiệp lại một nhà, ước cho con cái của Người biết Thương-yêu hòa thuận” (Pháp-Chánh-Truyền)


    KẾT LUẬN

    Thầy giáng Cơ cho thi vào đêm 24 Décembre 1925 lấy tên 12 Môn đệ đầu tiên làm kỹ niệm:

    CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
    BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
    HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
    HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh.

    Trong số 12 chữ lớn là tên 12 Môn đệ đầu tiên của Thầy nhưng vì có trùng hai tên Sang, nên thực tế là 13. Qua ngày Khai Đạo rằm tháng 10 năm Bính Dần thì ông Ngô văn Chiêu đã tách ra thì cũng còn lại đủ số 12.

    Trong số 12 Môn-đệ đầu tiên thì có ba vị là:

    - Cao-Quỳnh-Cư (tuổi Mậu-Tý 1888)

    - Cao-Hoài-Sang (tuổi Tân-Sửu 1901)

    - Phạm-Công-Tắc (tuổi Canh-Dần 1890)

    Tức nhiên có 3 vị đứng đầu 12 chi là Tý, Sửu, Dần.

    Như thế thì Số 12 là số đặc-biệt của Thầy, tức là 9+3=12; 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chủ-tể càn-khôn vũ trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.

    Số 12 nếu tính theo hàng ngang thì số 1 đứng trước số 2, tức là lý Thái-cực đứng trước luật Âm Dương thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó. Thế nên Thầy nói chi chi cũng có luật-định hết thảy, không chi ngoài quyền sở định của tạo-hóa hết. Nhưng luật công bình có hai phần: một Âm, một Dương biến động, dù ngay trong luật định cũng có, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh.

    Hết vòng biến đổi mới trở lại trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 lại trở lại trạng-thái Hư-vô, nên người tu đắc nhứt qui cơ là thành Đạo, nghĩa là hiệp cùng lý Thái-cực để trở lại trạng-thái tĩnh lặng nhiệm-mầu trong lý Hư-vô.

    Trong lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực. Thái-cực biến hóa ba ngôi. Mỗi 3 ngôi lại biến thành cửu chuyển.

    Ba ngôi ấy biến sanh là Đạo, Pháp và Thế đó (tức là ba ông Cư, Tắc, Sang). Tức nhiên:

    - Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc Chưởng quản chi Pháp

    - Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư Chưởng quản chi Đạo

    - Thượng-Sanh Cao hoài Sang Chưởng quản Chi Thế

    Thầy còn cho biết 4 người đã vào tay Chúa quỉ,

    Nhưng sau cùng còn lại 6 người làm nên cơ Đạo. Số 6 là do 3+3 tức là lý tam âm tam dương đó vậy.

    Hiện nay trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa Thánh Tây-ninh chỉ thấy tên sáu vị được thường xuyên nhắc đến là:

    1-Trung (Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung)

    2-Sang (Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang)

    3-Hậu (Ngài Bảo-Pháp Nguyễn-Trung-Hậu)

    4-Đức (Ngài Hiến-Pháp Trương-Hữu-Đức)

    5-Tắc (Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc)

    6-Cư (Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư)

    Ngày 1-1 Đinh-Mão (dl 1-2- 1927)

    Thầy giáng cơ có để lời than:

    “Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thế nào không, còn nay ra thế nào chăng?

    …Thầy lập Đạo năm rồi ngày này, thì Môn-đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại 8. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo. Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có sáu đứa Môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ. Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết cả bốn muôn Môn-đệ của Thầy ..”
    NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

  7. #7

    Mặc định

    Nơi đâu cũng một ông Trời
    Nơi gọi Thượng đế có nơi Chúa trời
    Phân tánh dạy đạo mọi nơi
    Tùy theo phong tục,tùy thời giáo dân
    Văn minh nhân loại tiến dần
    Năm châu bốn biển lại gần nhau hơn
    Cao đài tôn giáo dạy đơn
    Qui tam hiệp ngũ đạo chơn một đường
    Dạy người học chữ yêu thương
    Công bình bác ái tạo trường quả công
    Đạo trời rộng lớn mênh mông
    Sợ trong thất ức học không hết bài
    Hậu bối ra sức học bài
    Tiền nhân phấn đấu đúng sai có Trời
    Một lòng thành kính người ơi
    Cũng nhờ tiền bối đã khơi nhiều dòng
    Qua bao thử thách lòng vòng
    Cũng là kiếp nạn thử lòng thế nhân
    Kiên tâm kiến tánh rất cần
    Nguyên căn tiền kiếp có gần hay xa
    Tự lòng ta phải hiểu ra
    Biết người thì mới hiểu ra lòng người
    Bao giờ hợp nhất hỡi Trời
    Tùy trong tâm trí mỗi người hợp chưa
    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  8. #8
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    Người ấy là Vương-Quang-Kỳ chú ruột của Thất-Nương vậy. Người mở Đạo mà chẳng biết Đạo là gì hết. Đi theo một tư-tưởng của nền chánh-giáo do Đức Chí-Tôn định quyết tư-tưởng của Người ấy và cả hành-tàng, nếu chúng ta thấy ta sẽ lên án là Tả-Đạo Bàn-Môn chắc hẳn vậy.

    Lạ thay! Khi Bần-Đạo quay lại dòm thấy nhiều bạn rơi xuống Bích-Hải khóc lóc, còn người đó có/(bận) Thiên-Phục giống hình (đội) mão Giáo-Sư, lại áo tốt vắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần đi ngật-ngờ, ngật-ngưỡng cười một mình không biết cười cái gì, đi ngang qua Bát-Quái-Đài như không vậy.

    Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu-vi thấy trái hẳn nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn mà trọn tâm tín-ngưỡng Ngài, ta đoán không đặng, người thọThiên-Phục áo mão dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay đi ngang vô Bát-Quái-Đài không quyền-lực nào ngăn cản được. Chúng ta nên (*1) lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê-bình công kích. Thoảng ta có phận sự dạy-dỗ để dìu-dắt cả các phần-tử Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, và chúng ta có được quyền lấy oai-nghiêm của mình tìm phương thế nào dạy-dỗ đặng hiểu biết về phần hình-thể và phần hồn của toàn con cái Đức Chí-Tôn, ngoài ra không có quyền gì công kích, tự kiêu, mình bất quá là một phần-tử trong Thánh-Thể Ngài mà thôi, không đặng quá tự-tôn tự-trọng, cửa Thiêng-Liêng, chúng ta có những linh hồn, thoảng may duyên tạo nhiều linh hồn nữa, tức nhiên ta có đủ quyền năng, dìu dắt con cái của Đức Chí-Tôn trở về trong đường lối khai phá của Người, ấy là phận sự của chúng ta đó.


    - Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống - Hộ Pháp Phạm Công Tắc -

    Ngài Vương Quan Kỳ tách ra khỏi Toà Thánh Tay Ninh lập ra Thánh Thất Cầu Kho, không tùng mạng lịnh của Toà Thánh Tây Ninh mà Ngài vẫn vào đựơc Bát Quái Đài. Vậy cho hỏi huynh có ý kíên như thế nào?

  9. #9

    Mặc định

    TẠI SAO CHƯA QUI NHỨT ĐƯỢC CÁC CHI PHÁI?


    Các bậc tiền bối trong Đạo Cao Đài đã có những cố gắng liên tục để đưa các chi phái trở về hiệp nhứt với nguồn gốc ban đầu là Tòa Thánh Tây Ninh. Thế nhưng những cố gắng ấy đã trải qua nửa thế kỷ vẫn chưa thành công trên thực tế. Tại sao? Khởi đầu, một số chức sắc ở họ Đạo Cầu Kho công khai bày tỏ thái độ không tuân hành theo những nghi tiết Đại Đàn, Tiểu Đàn do Tòa Thánh Tây Ninh ban hành với lý do chờ những bậc trí thức tài giỏi hơn xem xét lại. Trước thái độ ấy Ngài Thượng Đầu Sư Lê Văn Trung trả lời:" Tôi cầu khẩn ai thông minh trí thức về Tòa Thánh giúp việc đặng đem tài trí ra giúp Đạo giúp Đời. Ai còn thế sự ràng buộc thì đặng dâng ý kiến” Mục đích là để giữ cho nền Đạo thuần một gốc mà thôi. Lời yêu cầu này không kết quả, phái Cầu Kho vẫn thành hình khoảng 1930.

    Hiện tượng phân hoá tổ chức Đạo Cao Đài thành nhiều chi phái tiếp diễn như một phong trào trên toàn quốc, trong khi tại Tòa Thánh Tây Ninh Đức Phạm Hộ Pháp dùng quyền thống nhất chánh trị Đạo do Đại Hội Nhơn sanh và Đại Hội Hội Thánh năm 1935 ủy thác cho Ngài hành xử để đối phó với cơn loạn Đạo rộng lớn. Thoạt đầu cơ bút chi phái đưa ra Thánh giáo giải thích rằng Đức Chí Tôn lập ra 12 chi phái, lấy con số 12 là con số huyền bí của Thầy làm điểm tựa của đức tin và coi đó là Thiên cơ, phải có đủ 12 chi phái mới hoàn tất chu trình phát triển của tổ chức Đạo Cao Đài. Thế nhưng lịch sử hình thành các chi phái không dừng lại ở con số 12 như người ta mong đợi mà vẫn cứ tiếp diễn đến chi thứ 13, 14,15…

    I. CÁC PHONG TRÀO THỐNG NHỨT CHI PHÁI

    Kể từ năm 1936 đến trước ngày giải phóng 30-4-1975, nhiều tín đồ Cao Ðài nhiệt tâm lo âu sự phân chia Chi phái của nền Ðại Ðạo nên đã đứng ra lập nhiều cơ quan vận động qui hiệp các Chi phái, mặc dầu không thành công nhưng cũng gây được tiếng vang tốt trong dư luận, xin lần lượt kể ra:

    ■ Năm 1936, một đàn cơ mà Liên Hoa làm đồng tử, Ơn Trên dạy lập một tổ chức gọi là Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn đặt trụ sở tại Thánh Thất Cầu Kho. Một số vị được bầu vào Ban Chưởng quản: Ðốc phủ Nguyễn Văn Kiên làm Hội Trưởng, ông Cao Triều Phát làm Phó Hội Trưởng,... nhưng tổ chức nầy không làm được việc gì vì nội bộ bất đồng ý kiến.

    ■ Cũng năm 1936, quí vị Nguyễn Phan Long, Ðoàn Văn Bản, Trần Quang Nghiêm, Trần Văn Quế, hợp nhau lập ra Liên Hòa Tổng Hội để tổ chức các cuộc Hội Long Vân vận động hòa hiệp các Chi phái. Liên Hòa Tổng Hội tổ chức được 12 Hội Long Vân, nhưng các Chi phái rất thờ ơ trong việc hòa hiệp.

    ■ Năm 1945, ông Cao Triều Phát lập Cơ Quan Cao Ðài Hiệp Nhứt, sau có ông Lê Kim Tỵ và Bùi Văn Nhàn tiếp nối, nhưng công việc không được nhiều người hưởng ứng.

    ■ Năm 1952, ông Nguyễn Bửu Tài cùng với quí ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Quế lập ra Cơ Quan Cao Ðài Qui Nhứt, nhưng cũng không qui tụ được nhiều người.

    ■ Năm 1964, ông Trần Văn Quế lập ra Phái Ðoàn Thiện Tâm, tiếp xúc với Hội Thánh TTTN thảo luận việc thống nhứt các Chi phái, được Hội Thánh TTTN ủng hộ. Công việc thấy có kết quả bước đầu, nhưng sau đó không tiến thêm được.

    ■ Năm 1969, ông Phan Khắc Sửu (đạo hiệu Huỳnh Ðức) lại cầm đầu một Phái đoàn đông đảo gồm 72 đại diện một số Hội Thánh Chi phái lên Tòa Thánh Tây Ninh họp để thảo luận vấn đề thống nhứt Chi phái. Ông Phan Khắc Sửu dùng uy tín bên Ðời và bên Ðạo của ông gây được một phong trào lớn, có tánh cách qui mô. Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh hợp tác thảo luận, đạt được một số nguyên tắc chung.

    ■ Năm 1972, Hội Thánh cử Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa làm đại diện mời lãnh đạo các Chi phái họp tại TTTN để tiếp tục bàn về sự qui hiệp các Chi phái. Ðược biết, trong Hội Thánh TTTN, Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa có đại nguyện thống nhứt các Chi phái, nên Hội Thánh cử Ngài lo công việc thống nhứt nầy thì rất hợp với ý nguyện của Ngài. Các Chi phái hưởng ứng lời mời nên lên họp tại Tòa Thánh Tây Ninh rất đông. Hội nghị bước đầu đạt thỏa thuận gồm 5 điểm:

    1. Làm sáng tỏ danh Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn trong và ngoài nước, y theo Chơn truyền Luật pháp của Ðạo (Tân Luật, PCT, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

    2. Tương thân tương trợ, tương ái tương liên trong phạm vi đạo đức.

    3. Không làm Chánh trị, không lập Quân đội.

    4. Bành trướng sâu rộng cơ phổ độ trong và ngoài nước, hiệp sức mở mang công việc văn hóa và từ thiện phục vụ nhơn sanh.

    5. Tạm thời tôn trọng hệ thống tổ chức nội bộ của mỗi Chi phái cho tới ngày Ðức Chí Tôn phán đoán.

    Hội Nghị thành lập được một Hội Ðồng Vận Ðộng Thống Nhứt ÐÐTKPÐ mà Ngài Hồ Tấn Khoa được bầu làm Trưởng Ban Thường Vụ Lâm thời. Hội Ðồng tổ chức được vài cuộc viếng thăm thân hữu trụ sở của vài Chi phái, rồi đến ngày giải phóng, Hội Thánh và các Cơ quan của Ðạo Cao Ðài ở khắp nơi đều bị giải thể.
    Qua các điểm vừa trình bày trên, chúng ta nhận thấy việc qui hiệp các Chi phái của Ðạo Cao Ðài, tuy có nhiều cố gắng của Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh và của một vài Chi phái, nhưng cuối không đạt được tiến bộ quan trọng nào.

    II. TẠI SAO CÁC CHI PHÁI CHƯA CHỊU QUI NHỨT?

    Ðây là một câu hỏi được đặt ra trong lòng của những tín đồ hiết tha với sự phát triển của mối Đạo Trời. “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết” Nhưng, dường như càng vận động thống nhứt, càng có sự dạy dỗ khuyên lơn, khuyến cáo của chư Thiêng liêng chừng nào, thì chia rẽ lại càng trầm trọng hơn chừng nấy.

    Ai cũng nói hãy vì Thầy, vì Đạo, vì Chúng sanh nhưng xin soi xét kỹ lại lòng mình, quan sát kỹ hành vi của mình. Nếu thật sự vì Thầy, hãy ghi khắc lời Thầy dạy:

    Nếu thật sự vì Đạo, hãy chơn thành khắc phục lòng tự ái, tự đại, tự tôn. Có nhiều vị nghe phải nhập môn lại nơi Đền Thánh hoặc Thánh Thất của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì bất mãn, do dự. Xin chư vị hiểu rằng xác phàm này là tạm bợ, linh hồn kia còn phải luân hồi sinh tử, mỗi kiếp mang một thể xác khác nhau, trải qua vô số kiếp để tiến hóa và giải thoát khỏi con đường luân hồi sinh tử đó. Đức Đại Từ Phụ chỉ cho mình con đường sống, sao lại vì chút tự ái cỏn con mà lạc mất đường về ? Đầu thai kiếp khác, nếu có may mắn gặp lại Tam Kỳ Phổ Độ, chư vị cũng đã lỡ mất kỳ Đại Ân Xá rồi ! Còn nếu thật sự vì Chúng sanh, xin chư vị xét lại trách nhiệm mình khi dẫn dắt nhơn sanh đi lạc lối. Lúc mới khai đạo, tất cả các chư vị tiền khai đều cùng nhau chung tay góp sức để giúp Thầy lập đạo, tin tưởng nơi nhau, một lòng một dạ lo phát triển mối Đạo Trời để người người hiểu được nền giáo lý minh triết và cao thượng, đồng thời thay mặt Thượng Đế gửi Hồng Ân đến từng người khi họ nhập môn vào Đạo. Đức Chí Tôn dạy: Đạo khai trễ một ngày là hại cho nhơn sanh một ngày. Vậy mà chỉ một thời gian ngắn sau, chư vị đã quên lời dạy khẩn thiết đó, vì sự nghi kỵ bất mãn cá nhân nên ra đi, không còn tha thiết với lời nguyện “phổ độ chúng sanh nữa”!

    "Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai?"

    Các nguyên nhân tạo nên chi phái cũng là các nguyên nhân chưa qui nhứt được. Lợi dụng sự bất mãn cá nhân, người ngoài tìm cách ly gián và xúi giục lập chi phái để đem những ý đồ chính trị vào cửa Đạo. Trong thời kỳ bị đô hộ bởi thực dân, trước sự lớn mạnh của nền tôn giáo xuất phát từ nước nhỏ như nước Việt Nam, chính quyền Pháp đương nhiên sẽ không tin vào nền triết thuyết cao cả của Thượng Đế. Họ gán ghép cho Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh tội “một nhóm chính trị mưu đồ phục quốc”. Để có thể tiêu diệt Đạo Cao Đài, họ tìm mọi biện pháp chia để trị, giam cầm những chức sắc lãnh đạo, bắt bớ tín đồ, đóng cửa Đền Thánh đồng thời hứa sẽ dễ dãi tạo điều kiện thuận lợi cho những vị chịu tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh...

    Chia rẽ có thể làm chậm sự tiến triển của nền Ðại Ðạo, chứ không khi nào diệt được Ðạo, vì sáng lập ra Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là Thượng Ðế, mà Thượng Ðế là vô vi, quyền năng tuyệt đối. Phá thì được chớ muốn diệt chắc chắn là không được rồi.

    Có hai thành lũy chưa vượt qua được nằm sẵn trong lòng người khiến công cuộc vận động các chi phái hiệp nhứt cùng nguồn cội của Đạo chưa thành công được là :

    - Nạn áo mão quyền hành thuộc lãnh vực nghi thức Đạo giáo.

    - Nạn thần quyền đức tin thuộc lãnh vực triết lý giáo điều.
    NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

  10. #10

    Mặc định

    Làm sao bàn chuyện thiên cơ
    Bao giờ hợp nhất chỉ chờ thôi sao
    tu đi tu nữa đi nào
    Cho tâm thêm tịnh,trí xao được gì
    Sử đạo ghi lại để chi
    Tu thì phải khảo tu mi phải tường
    Khi xưa tam tạng tìm đường
    Chín chín tám mốt nạn đương theo hành
    Tự mình sám hối cho nhanh
    Khi mình bị khảo đạo thành ra sao
    Chớ lấy sử đạo ồn ào
    ai tu ai đắc ta nào có thông
    Ra lời bình loạn phí công
    mang thêm khẩu nghiệp hầm chông có ngày
    Biết thì tự sửa mới hay
    chuyện đời đàm tếu hết ngày hết năm
    Sao không nhận khảo cho chăm
    Cho đủ kiếp nạn bao năm phí thừa
    Hỏi mình đã tỉnh hay chưa
    Những điều mình nói say sưa làm gì
    "Thâỳ là con đó" tầm đi
    Khi nào tìm thấy mới đi giúp đời
    Chưa thấy im lặng đợi thời
    Tùy thời mà thuận là lời dịch kinh
    Tự mình lại hỏi lấy mình
    Tu thân khẩu ý đã minh mấy dòng...
    Một lời ước nguyện cầu mong
    Giúp nhau cùng sửa cho xong thất tình.
    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  11. #11

    Mặc định

    A. VỀ TRIẾT LÝ & GIÁO ĐIỀU

    Một cách tổng quát, không có sự khác biệt lớn giữa các hệ tư tưởng. Tất cả đều nhìn nhận và tin tưởng rằng con người từ một nguồn gốc sinh ra, tối linh tối diệu, tịnh thì vô ngã, động thì hữu ngã, gọi danh là Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn phân tánh giáng sanh thể hiện một phần cái linh của Ngài trong tinh thần của những bậc giáo chủ, bày ra các giáo thuyết khác nhau tùy theo trình độ nhơn loại ở từng thời kỳ và vùng đất khác nhau, mục đích để dìu dẫn bước đi của nhơn loại theo chiều hướng phản bổn huờn nguyên. Thời kỳ nầy, nhơn loại trên toàn cầu sinh hoạt thông đồng với nhau dễ dàng. Đức Chí Tôn dụng huyền linh cơ bút, tổng hợp tinh hoa các giáo thuyết ấy lại, hé lộ thêm đôi điều Thiên cơ bí ẩn lập thành giáo thuyết Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ còn gọi là Cao Đài.

    Sự khác biệt giữa các hệ phái tư tưởng là ở phương pháp tu hành. Tất cả đều chủ trương hướng cuộc đời mình về nguồn gốc linh thiêng là linh hồn bất diệt để giác ngộ giải thoát. Nhưng tùy theo căn cơ tức là trình độ tấn hóa và duyên nghiệp của linh hồn từ tiền kiếp nên trong kiếp nầy, người thì chú trọng đến phần hạ thừa nhập thế, người thì chú trọng đến phần thượng thừa, tịnh luyện, thiền định, ẩn dật, … Từ đó nảy sinh ra hai trường phái gọi là vô vi và phổ độ, làm biến tướng tổ chức Đạo Cao Đài vốn là một tổng hợp các hệ tư tưởng của Ngũ Chi Đại Đạo đã có từ trước, và làm sai lệch ý nghĩa của hai tiếng Phổ Độ khiến cho nó trở thành phiến diện, bị hiểu lầm như một loại sinh hoạt tuyên truyền, nặng về âm thinh sắc tướng ở bề ngoài mà chẳng có đủ năng lực giải thoát ở bên trong. Sự hiểu lầm đó là một biểu hiện của tinh thần phục nhứt Ngũ Chi chưa nhuần nhuyễn trong lòng người, một dư âm của những va chạm ý thức từ tiền nhân lưu lại, xuất phát từ những lý luận của môn đồ các nhà luận bác từ ba dòng tư tưởng Phật, Lão và Khổng giáo mà ra. Nói khác đi, qui nguyên Tam Giáo thì có mà tinh thần phục nhứt Ngũ Chi chưa trọn nên từ sự hiểu biết triết lý còn thiếu sót như thế, đã gán ghép tạo nên hai trường phái gọi là vô vi và phổ độ.

    Quan điểm trường phái chia cách nầy, thể hiện rõ nhứt trong bài ca tụng của ông Trần Văn Quế viết để giới thiệu quyển kinh Đại Thừa Chơn giáo và được phụ họa thêm bởi các bài giáng cơ mà đồng tử đã diễn tả rõ ràng tinh thần đối kháng, chẳng hạn bài cầu cơ tại Thất Bửu Sơn ngày 5-5-1932 đăng nơi trang 89 quyển " Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu ", ấn bản năm 1962. Xin trích một đoạn:

    "…Tôi tuổi nầy mà đi xem cõi hồng soi đuốc

    Dẫn nhơn sanh dắt tuốt Thiên Đình

    Công mở Đạo là tại Tỉnh Tây Ninh

    Người bởi quấy nên nhơn tình không đầu phục

    Thương tổ đình nên theo một lúc

    Hại nhơn sanh cui cút tu hành….”

    Bao lâu mà trong lòng người tín đồ Cao Đài rải rác ở chi nầy, phái nọ còn có cái nhìn và sự hiểu biết triết lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ một cách phiến diện, rời rạc và có ý đồ, thiếu sự thành tâm thì cơ qui nhứt các chi phái Cao Đài khó thành tựu được.

    B. VỀ ÁO MÃO QUYỀN HÀNH

    Các tổ chức Đạo giáo xưa nay một khi tập hợp tín đồ lại bởi đức tin vào một triết thuyết, một quyền năng tâm linh vô hình đều cần phải có những qui định luật pháp nội bộ, để giữ bền cơ sanh hoạt của cộng đồng tín ngưỡng trong vòng trật tự điều hòa. Quyền hành trong tổ chức đạo giáo khi đã thành hình, luôn luôn là một đối tượng thu hút tinh thần con người, muốn nắm lấy như là một biểu lộ của bản ngã, một sáng tạo của linh hồn khi nhập thế. Các tu sĩ nắm quyền cai trị trong tổ chức đạo giáo tuy biết rằng quyền hành ấy chỉ là phương tiện để dìu độ nhơn sanh giác ngộ, vẫn không sao tránh khỏi bị đặt mình trong tình thế phải có tranh đua giữ lấy quyền bính phẩm tước đạo giáo.

    1. AI LÀ GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

    Trong lễ Khai Đạo, Đức Chí Tôn chính thức ban hành Pháp Chánh Truyền là bản văn qui định một cách tổng quát cách thức tổ chức và điều hành tôn giáo Cao Đài, ấn định các phẩm tước, quyền hạn, trách nhiệm, luật công cử của chức sắc các cấp trong Hội Thánh. Đây là những bài Thánh giáo có giá trị như một bản Hiến Pháp thiêng liêng của Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn giáng cơ chỉ dạy, buộc phải tuân theo và vì vậy không một ai dưới thế gian nầy có quyền sửa bất cứ một điều khoản nào trong Pháp Chánh Truyền. Nếu đọc lịch sử thành lập Tôn giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, chúng ta càng thấy rõ: để phổ độ chúng sanh trong kỳ ba này, Đức Chí Tôn chỉ lập một nền Đạo cho tất cả nhơn loại, một Pháp Chánh Truyền là Hiến Pháp vĩnh viễn đến thất ức niên (700.000 năm). Trong Pháp Chánh Truyền, ghi rõ chỉ có một Giáo Tông duy nhứt.

    Luật công cử Giáo Tông được qui định trong Pháp Chánh Truyền như sau: " Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn môn đệ công cử mới đặng. Kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật ấy”.

    Quan Phủ Ngô Văn Chiêu là vị môn đồ đầu tiên của Đức Chí Tôn được độ rỗi bằng huyền diệu cơ bút từ năm 1919. Khi thành lập Hội Thánh ĐĐTKPĐ vào năm 1926, Đức Chí Tôn có dạy chuẩn bị một bộ Thiên Phục Giáo Tông cho Ngài, thế nhưng sau đó, vì lý do riêng, Ngài không nhận bộ Thiên Phục nầy và tách rời khỏi những sinh hoạt của nhóm chức sắc Cao Đài đầu tiên vừa mới thành hình Hội Thánh. Ngài chuyên chú nhiều về việc tịnh luyện, thiền định. Ngài Chiêu không có tham vọng, không chủ trương lập giáo quyền hay Hội Thánh chi cả, chỉ theo đuổi một phương pháp tu tập bản thân và truyền bá pháp môn nầy cho những người tin theo Ngài. Vì vậy, Ngài Ngô văn Chiêu không phải là đệ nhứt Giáo Tông của Đạo Cao Đài. Sau đó, Đức Chí Tôn giao cho chơn linh Đức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm quyền hành Giáo Tông. Trong nhiều đàn cơ Ngài xưng danh Lý Giáo Tông là vì vậy. Cho đến nay, chơn linh Lý Bạch vẫn là Giáo Tông của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Tam Trấn đại diện cho quyền pháp của Tam Giáo trong tổ chức Đạo Cao Đài, gồm có :

    - Chơn linh Đức Quan Âm Bồ Tát đại diện cho Phật Giáo.

    - Chơn linh Đức Lý Thái Bạch đại diện cho Lão Giáo.

    - Chơn linh Đức Quan Thánh Đế Quân đại diện Nho Giáo.


    Còn Giáo Tông là vị chức sắc lớn nhất trong Đạo Cao Đài có nhiệm vụ làm anh Cả đối với tất cả tín đồ. Khi Ngài Ngô không được thọ phong chức Giáo Tông, mãi đến ngày 29-10-1926 Đức Chí Tôn mới giao "quyền thưởng phạt đã vào tay Lý Thái Bạch”. Đến năm 1930, Đức Lý thấy không thể giải quyết mọi việc phàm trần nhanh chóng nên chơn linh Đức Lý Thái Bạch với tư cách là Giáo Tông Đạo Cao Đài, hiệp cùng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã ký Đạo Nghị Định thứ hai phong cho Ngài Thượng Đầu Sư Lê văn Trung làm Quyền Giáo Tông thay mặt cho Đức Lý thi hành các phận sự của Giáo Tông về phần xác, còn phần thiêng liêng Đức Lý vẫn điều khiển.

    … "thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Quyền Giáo Tông về phần xác, còn về phần Thiêng Liêng có Lão”

    Hãy lưu ý mấy chữ "Quyền Giáo Tông về phần xác", tức là Ngài Lê chỉ được nửa chức Giáo Tông. Thế nên, Ngài Lê Văn Trung không bao giờ mặc áo đại phục Giáo Tông.

    Thiên phục mà Đức Q. Giáo Tông được tạc tượng trước lầu chuông Toà Thánh cũng chỉ là tiểu phục. Do đó, Ngài Lê không phải là đệ nhị Giáo Tông. Nếu có đời Giáo Tông khác thì tịch đạo THANH HƯƠNG phải đổi ra ĐẠO TÂM.

    Các phẩm vị khác kế dưới cũng vậy, đều có định mức.

    Con số chức sắc cho toàn thế giới) cầm quyền Đạo ở mỗi hàng phẩm của Cửu Trùng Đài đều có giới hạn, không thể vượt qua được vì đã được Đức Chí Tôn định ra trong Pháp Chánh Truyền:

    1 Giáo Tông.

    3 Chưởng Pháp.

    3 Đầu Sư.

    36 Phối Sư.

    72 Giáo Sư.

    3000 Giáo Hữu.


    Từ nguyên thủy, tổ chức Đạo Cao Đài được thành hình với một Hội Thánh, một giáo quyền sinh hoạt theo những qui định trong Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, trung ương là Tòa Thánh đặt tại làng Long Thành Tỉnh Tây Ninh, Việt Nam gọi tắt là Toà Thánh Tây Ninh, tuyệt nhiên không có chi phái nào trong quyền hành của Hội Thánh cả.Vài năm sau, dưới áp lực của chính quyền Pháp chủ trương chia để trị, với những bất hòa, tranh chấp về quyền hành trong nội bộ tôn giáo, mất lòng tin lẫn nhau do phàm tính dấy sinh, cùng với sự lạm dụng cơ bút, không biết phân biệt giả chơn, như một hình thức cầu chứng với thần quyền để bênh vực cho lập trường khác nhau của từng phe nhóm,… một số chức sắc đã tách rời ra khỏi quyền hành của Tòa Thánh Tây Ninh, lập thành chi phái hoạt động riêng lẻ và đôi khi đối nghịch. Một vài chi phái lập Giáo Tông trong khi chơn linh Đức Lý Thái Bạch vẫn còn chức Giáo Tông Đạo Cao Đài.

    Ngài không thoái vị thì ngôi Giáo Tông đâu có chỗ trống để một người khác ở dưới thế lên thay được. Do đó, mọi hình thức lên ngôi Giáo Tông ở các chi phái đều không hợp pháp theo Pháp Chánh Truyền. Đây là điểm then chốt về pháp lý và không có một lối giải thích nào vượt qua được.

    Dĩ nhiên, công nghiệp độ rỗi nhơn sanh trên con đường hướng thiện dù ít dù nhiều, thâm sâu hay phiến diện trong lòng người vẫn có công đóng góp của các tổ chức chi phái vào sự tấn hóa của xã hội và con người. Chánh pháp của Đạo Cao Đài vẫn phải là tình yêu thương đại đồng.

    Cho đến nay, có ba chi phái có Giáo Tông, đó là:

    - Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương của chi phái Bến Tre.

    - Giáo Tông Nguyễn Bửu Tài, chi phái Tiên Thiên.

    - Giáo Tông Cao Triều Phát, chi phái Cao Đài Duy Nhất.

    Để biện minh cho sự tồn tại của mình là chánh lý, chi phái đưa ra một cách giải thích khác về Pháp Chánh Truyền và quyền hành Giáo Tông. Chi phái cho rằng trên hết có một quyền hành là Đức Chí Tôn, Ngài lập thành nhiều chi phái theo thời gian, Đạo Cao Đài là tổng số các chi phái, và Tòa Thánh Tây Ninh mặc dù là tổ chức Hội Thánh nguyên thủy, vẫn bị coi là một trong số các chi mà thôi. Như thế, có nghĩa là trên hết có một Bát Quái Đài là quyền lực vô hình, dưới thế gian nầy có vô số Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, tùy theo nền Đạo bị biến tướng đến đâu, sẽ có thêm nhiều Giáo Tông và Hộ Pháp đến đó, mỗi vị điều khiển một chi của mình cùng tồn tại song song với nhau !!! Tính đối kháng trong hai quan niệm về quyền hành Giáo Tông là trở ngại chính khiến cho những nỗ lực nhằm thống nhất các chi phái không thành công được.

    Nó là hậu quả tất nhiên của tình trạng cơ bút sử dụng tự do, quá dễ dãi, đức tin thiếu phân biện của lý trí bất chấp lời cảnh giác của Đức Chí Tôn từ buổi ban sơ về sự phân biệt giả chơn đối với thần quyền. Sự đối kháng nầy nếu không giải tỏa được trong lòng người thì các hình tướng qui nhất chi phái Cao Đài chỉ là sự xoa dịu tâm lý nhơn sanh mà thôi. Làm sao có được một tổ chức nhân sự hữu hình thống nhất khi mà quyền lực lãnh đạo tối cao là Giáo Tông được hiểu theo quan niệm phát triển theo chiều hướng ly tán, không chịu tập trung làm một. Tinh thần và hình thể tương liên mật thiết với nhau như bóng với hình, pháp luật tượng trưng cho tinh thần, tổ chức nhân sự tượng trưng cho hình thể. Quan niệm về quyền hành Giáo Tông thuộc về tinh thần được hiểu theo chiều ly tán trong khi đó lại muốn có một tổ chức nhân sự thống nhất thì quả thật là điều nghịch lý.

    Năm 1934, chơn linh Đức Lý Thái Bạch với tư cách Giáo Tông Đạo Cao Đài (tổ chức nguyên thủy) đã giáng cơ ban hành Đạo Nghị Định thứ 8 không nhìn nhận tính cách hợp pháp của các chi phái Cao Đài (Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cùng ký tên ban hành Đạo Nghị Định nầy). Chi phái bị đặt ra ngoài vòng pháp luật Đạo giáo và đương nhiên không được tham dự vào các sinh hoạt thuộc hệ thống giáo quyền Tòa Thánh Tây Ninh.

    2. AI LÀ HỘ PHÁP ĐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

    Quyền hạn và trách nhiệm của Hộ Pháp có thể tóm tắt như sau :

    - Điều khiển tổng quát Hiệp Thiên Đài, đặc biệt là chi Pháp.

    - Gìn giữ luật pháp của Đạo.

    - Thông công với Bát Quái Đài.

    Vị Hộ Pháp trong Đạo Cao Đài là Ngài Phạm Công Tắc, người thủ vai đồng tử thông công quan trọng bậc nhất trong số đồng tử được Đức Chí Tôn sử dụng từ những ngày đầu của lịch sử Đạo. Nghi lễ Thiên phong dành cho Ngài là một cuộc hành pháp huyền linh. Đức Chí Tôn trục chơn thần Phạm Công Tắc ra khỏi thân xác để chơn linh Hộ Pháp giáng ngự và Ngài Phạm Công Tắc trở thành Hộ Pháp. Đây là trường hợp giáng linh ngự thể, nó có ý nghĩa như một cuộc lễ điểm Đạo, đã diễn ra vào tháng 4 năm 1926.

    Hộ Pháp là vị Phật đã có tự xa xưa. Tại các chùa Phật giáo thường có đặt tượng của vị Phật Hộ Pháp ngay cửa chánh bước vào nội điện. Đạo Cao Đài chủ trương qui Tam Giáo (Phật, Lão, Khổng ) nên cũng dùng nghi thức cũ của Tam Giáo có sửa đổi cho phù hợp với triết lý của Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Chí Tôn có dạy về tượng Phật Hộ Pháp như sau, trong đàn cơ ngày 18-9 năm Bính Dần (1926)tại Phước Linh Tự, Sài Gòn:

    “ Còn như Hộ Pháp đã xuống trần rồi còn thờ chi nữa, các con nên lập ra ba bài vị đề :

    - Hộ Pháp.

    - Thượng Phẩm bên hữu.

    - Thượng Sanh bên tả”( TNHT )


    Tại các Thánh Thất Cao Đài ở địa phương, bàn thờ Hộ Pháp được đặt ngay cửa chánh bước vào nội điện. Trên bàn Hộ Pháp có thờ chữ KHÍ. Nguồn gốc chữ bùa nầy do Đức Lý Thái Bạch giáng cơ vẽ ra làm mẫu. Tại Đền Thánh, phía trước tượng chữ KHÍ có đặt ngai Hộ Pháp. Xung quanh ngai có hình con rắn bảy đầu tượng trưng cho thất tình của con người. Hai bên tả hữu là ngai của Thượng Sanh và Thượng Phẩm xếp thành một hàng ngang. Khi còn sanh tiền ba vị chức sắc nầy phải ngự trên ngai của mình mỗi khi cúng đàn. Sau khi các Ngài qui thiên, Hội Thánh cho đúc tượng bằng xi măng của ba vị, Phạm Hộ Pháp, Cao Thượng Phẩm, Cao Thượng Sanh đứng trên ngai làm thể pháp mang ý nghĩa là tuy các Ngài đã về thiêng liêng vị, các Ngài vẫn chịu trách nhiệm điều khiển Hiệp Thiên Đài, dầu ngày sau có ai kế vị thì cũng chỉ là người thay mặt các Ngài mà thôi. Người kế vị không thể lên ngai ấy được.

    Khi mới thành lập Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn đã định con số chức sắc cầm quyền Hiệp Thiên Đài là :

    · 1 Hộ Pháp.

    · 1 Thượng Phẩm.

    · 1 Thượng Sanh.

    · 12 Thời Quân.

    Từ nguyên thủy Đức Chí Tôn định chỉ có một Hộ Pháp cầm quyền Đạo, nay chi phái sửa lại thành nhiều Hộ Pháp cầm quyền, như thế đã tổ chức nền Đạo sai Thánh ý Đức Chí Tôn. Đây là trở ngại lớn nhất về phương diện tổ chức và nó gắn liền với đức tin của tín đồ các chi phái, xưa nay vẫn đầy đủ lòng tôn kính đối với vị lãnh đạo tinh thần của mình.

    Vậy, cái nguyên nhân sâu xa làm cho các Chi phái không thể qui hiệp được, mà ít ai dám có can đảm nói ra, vì nó rất phàm tục nhưng lại rất quan trọng, đó là vấn đề phẩm tước của các Chức sắc lãnh đạo Chi phái.

    Nếu trong sự qui hiệp nầy mà Ðức Lý Giáo Tông tại Tòa Thánh Tây Ninh nhìn nhận tất cả phẩm tước của Chức sắc Chi phái, thì sẽ có:

    · Bốn, năm vị Giáo Tông

    · cả chục vị Chưởng Pháp

    · cả chục vị Ðầu Sư,

    · cả chục vị Chánh Phối Sư,

    · cả hai, ba vị Hộ Pháp,

    · cả ba bốn vị Thượng Phẩm, Thượng Sanh,

    · cả mấy chục vị Thời Quân.

    Thử hỏi như thế thì Tân Luật và Pháp Chánh Truyền còn giá trị gì nữa!

    ■ Nếu quí Chức sắc cầm đầu Chi phái chịu từ bỏ phẩm tước của Chi phái, qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, chờ đàn cơ cầu Ðức Lý Giáo Tông tại Cung Ðạo Tòa Thánh do chư vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài phò loan, để Ðức Lý giáng dạy và định phận, sẽ ban cho họ phẩm tước mới, đúng với trình độ tu hành và công đức của họ. Như vậy, nếu còn vị ngã, họ sẽ mặc cảm là bị sụt chức.

    (Chúng ta lưu ý rằng, Cung Ðạo tại TTTN là nơi mà Ðức Chí Tôn tiền định, để cầu cơ cho các Ðấng thiêng liêng giáng dạy điều hành nền Ðạo, và do hai vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài phò loan (đồng tử tiền định ) thì không có chơn linh quỉ vị nào dám vào đây phá khuấy)

    ■ Nếu không dùng Cơ bút để các Ðấng Thiêng liêng phân định mà dùng sự công nhận của Quyền Vạn Linh, thì chúng ta đều biết Quyền Vạn Linh do 3 Hội lập thành, mà quan trọng nhứt là Hội Nhơn Sanh vì đây là căn bản. Bên Chi phái, phần lớn số tín đồ hiện nay rất ít, cho nên Chi phái làm sao có đủ số Nghị viên và Phái viên trong Hội Nhơn Sanh đạt đủ số thăm quá bán để tín nhiệm công nhận quí vị.



    Có người nói tại Ðạo Nghị Ðịnh số 8 của Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp. Vậy, nếu giữa năm 1934, Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp không ra Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 thì sẽ ra sao? Phải chăng sẽ có một số Chức sắc cao cấp của Tòa Thánh Tây Ninh khi bất đồng với Hội Thánh sẽ tiếp tục tách ra để lập Chi phái? Làm cách nào để ngăn chận việc nầy? Cho nên Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 là hàng rào hiệu quả ngăn chận việc Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh tách riêng lập Chi phái, và từ đây mãi mãi đến thất ức niên về sau, Ðạo Cao Ðài nhờ Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 mà không còn tình trạng phân chia Chi phái nữa.

    Chúng ta thấy trước mắt chúng ta, các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, mỗi tôn giáo đều có hàng trăm Chi phái chống đối nhau, và còn có thể tiếp tục phân chia thêm nữa, vì các tôn giáo nầy không có một Ðạo luật nào ngăn chận sự phân chia Chi phái.

    Thử điểm lại một số các cột mốc quan trọng về sự diễn tiến của nền Ðạo, chúng ta sẽ thấy được sự huyền diệu trong câu nói xác định của Ðức Chí Tôn: "Chi chi cũng chỉ tại Tây Ninh đây mà thôi":

    15-10-Bính Dần (1926): Ðại Lễ Khai đạo tại Gò Kén.

    16-10-Bính Dần (1926): Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài Nam phái.

    09-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Lý Giáo Tông lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài Nữ phái

    12-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài.

    Từ 1926 đến đầu 1934: Các Chức sắc Cửu Trùng Đài tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh gồm quí Ngài: Ngô văn Chiêu, Như Nhãn, Nguyễn Văn Ca, Nguyễn Văn Chính, Trần Ðạo Quang, Lê văn Lịch, Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang.

    Năm 1935: Các Ðấng Thiêng liêng vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho Tân Kinh. Ðây mới chính thực là Kinh Cao Ðài, Kinh Tận độ chúng sanh, và ban cho Phật Mẫu Chơn kinh, dạy cách thờ phượng Ðức Phật Mẫu. Các bài kinh có trước năm 1935 đều là kinh thỉnh từ Tam giáo hay từ Ngũ Chi Minh đạo. Như vậy, chỉ có Tòa Thánh Tây Ninh mới hưởng được hồng ân nầy của Ðức Chí Tôn, còn các Chi phái không hưởng được, nếu muốn hưởng thì phải qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh mà thôi.
    NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

  12. #12

    Mặc định Kết luận

    1."Xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Phúc Âm Luca 22:42).

    Đó là lời cầu nguyện của Đức Giêsu xin vâng thánh ý Thiên Chúa. Lời cầu nguyện này là một định hướng rất rõ ràng và quyết liệt. Rõ ràng ở chỗ quyết tâm từ bỏ ý riêng mình để vâng phục ý Chúa Cha.; quyết liệt ở chỗ sẵn sàng phấn đấu để trung thành với ý Chúa Cha, mặc dầu phải đối đầu với thử thách bi kịch về sự thay đổi của lòng người.

    Chính quyền Pháp thấy gây ảnh hưởng lớn trong dân chúng nên tìm đủ mọi cách bắt bớ, buộc tội nền tôn giáo bản địa với truyền thống văn hóa dân tộc xa lạ với phương Tây, đồng thời tìm cách ly gián theo chính sách chia để trị. Các đảng phái lúc bấy giờ thấy được tôn giáo là một sức mạnh tinh thần ảnh hưởng lớn lao trên quần chúng, có thể làm mất ảnh hưởng của họ trên người dân nên tìm cách lạm dụng

    Các động cơ này đã đưa đến những bi kịch: lập nhiều chi phái để làm suy yếu sự phát triển, bắt bớ và giết hại tín đồ hàng lọat, đóng cửa Đền Thánh và các Thánh Thất, viết sách nói xấu, vu khống các chức sắc Đại Thiên phong….tất cả được làm với mục đích muốn người Cao Đài phải chịu nhiều đau khổ, nhục nhã, hoang mang đi đến mất đức tin. Hành trình đi theo thánh ý Thượng Đế vì thế mà thêm cay đắng. Nhưng tín đồ nào trung kiên đã và sẽ vượt qua những cơn sóng dữ để tuân theo ý đức Đại Từ phụ đến cùng.

    · Sức mạnh của những người thân tín,

    · Sức mạnh của tiền bạc,

    · Sức mạnh của phàm ngã trong ta.

    Những yếu tố ấy dễ bị ma quỷ và các trào lưu tội lỗi lợi dụng, để biến cử Đạo trở thành sân khấu của những bi kịch và người tín đồ không phân biệt được đâu là Chơn Pháp. Những ai còn hoang mang xin hãy tỉnh thức, cầu nguyện, tìm ánh sáng của Chơn Lý. Với ánh sáng và sức mạnh ấy, chúng ta sẽ phân biệt rõ đâu là thánh ý của Thượng Đế thực sự, đâu là thánh ý giả tạo. Đức Jésus nói với mọi người:

    'Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế gian mà phải mất chính mình, thì nào có lợi gì'" (Lc 9,23-25).

    Các chi phái, các nhóm khác thành lập sau này vẫn luôn tuyên bố là tuân theo Tân luật, Pháp Chánh Truyền nhưng thực tế thì: Giáo Tông là ai, Hộ Pháp là ai; nếu người làm được thì ta cũng làm được…Cứ như thế, tham dục đã đưa con người tới cuối đường hầm“ tận đọa tam đồ, bất năng thoát tục”.

    Nếu chư vị ấy nhớ đến lời minh thệ, nhớ đến lời cầu nguyện khi dâng Tam Bửu : con nguyện dâng cả thể xác, trí não, tinh thần cho Đức Chí Tôn toàn quyền xử dụng; nếu chư vị ấy nhớ rằng áo mão ở thế gian chỉ là Ơn Trên cho mượn để hành Đạo trong trật tự, luật pháp; còn tâm đức và công quả độ dẫn chúng sanh mới là phần thưởng thật sự nơi cõi Thiêng liêng; ắt hẳn đã kềm chế được lòng ganh tị và sân hận.

    Khi Ðạo khai mở thì Tà quyền cũng khởi dậy để thử thách như Ðức Chí Tôn đã dạy trước để cảnh giác.

    Tóm lại, chi phái có một vị trí đứng riêng ngoài Pháp Chánh Truyền. Đó là xét về phương diện pháp luật, tổ chức; còn xét về công đức thì bất cứ ai dìu dẫn khối nhơn sanh trở nên hiền cũng là người có công đức lớn. Còn về lời Minh thệ của Chư vị khi nhập môn, chúng ta không dám lạm bàn đến!

    2. Tu phải biết phân biện Chơn & Giả, Chính & Phụ

    Những người giữ đạo mà không phân biện Chơn & Giả được gọi là mù quáng. Cái làm cho sự mù quáng đó thành nguy hiểm, đó là sự nó tạo nên một ảo tưởng sai lầm, đưa con người vào ẩn trú trong đó. Người tín đồ Cao Ðài hôm nay phải tự nhận thức rằng, chỉ có con đường duy nhứt để tự cứu lấy mình, cứu lấy linh hồn mình là đừng bám víu vào những sai lầm của quá khứ, hãy tự giác trở về với nguồn cội. “ chi chi cũng ở tại Tây Ninh này mà thôi”. Về đây để tập trung sức người, sức của mà phát triển mối Chánh giáo của Đức Chí Tôn. Cửa Đạo luôn rộng mở để mọi người lo lập vị cho mình bằng cách làm công quả. Tuy đã có nội qui cho Tịnh Thất, nhưng Ðức Chí Tôn chưa cho phép luyện đạo một cách đại trà, bởi vì kỳ thi chung kết sắp mở trong Ðại ân xá của Chí Tôn là môn thi CÔNG QUẢ và chỉ thi môn nầy mà thôi. Ðức Chí Tôn dạy:

    "Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các con nghe, nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ."

    Ma và Phật đều ở trong Tâm ta. Con người, dù là người tu hành, phần lớn vẫn còn chấp ngã một cách vi tế nên còn coi trọng áo mão phẩm tước phàm trần. Ðức Chí Tôn đã dạy các thứ đó đều giả, đều là phàm mà Ðức Chí Tôn tạm cho mượn để làm công quả, cái phẩm tước thật là ở nơi cõi thiêng liêng. Do nghiệp chướng nên người tu gặp rất nhiều thử thách trên đường Đạo. Tội cho những tín đồ chơn chất, chỉ vì thiếu hiểu biết nên đi theo người hướng đạo sai lầm. Hậu quả là họ phải chịu nhiều thiệt thòi trên con đường giải thoát, không được hưởng Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn, rất nên oan uổng! Mong sao những thế hệ tiếp nối của Chi phái hiểu rõ ngọn ngành không còn bị lôi cuốn bởi áo mão phẩm tước, dẹp bỏ tự ái để tìm về nguồn cội, về với suối nguồn tâm linh vĩnh cửu.
    NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Đạo Giáo đan công tông phái mạn đàm
    By nhaply in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 07-07-2011, 09:54 AM
  2. Lão Tử tưởng nhĩ chú
    By nhaply in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 29-06-2011, 05:26 PM
  3. Nguồn gốc của các môn phái võ lâm
    By TuanBinh7069 in forum Võ Thuật
    Trả lời: 10
    Bài mới gởi: 10-06-2011, 08:01 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •