kết quả từ 1 tới 7 trên 7

Ðề tài: Một năm mở rộng: Văn hóa Hà Nội đã ít nhiều xô lệch

  1. #1

    Mặc định Một năm mở rộng: Văn hóa Hà Nội đã ít nhiều xô lệch

    Một năm mở rộng: Văn hóa Hà Nội đã ít nhiều xô lệch
    01/08/2009 09:13 (GMT + 7)

    (TuanVietNam) - Ngành văn hóa đã chưa có động thái rõ ràng trong việc bảo vệ ba vùng văn hóa của Hà Nội mở rộng.



    Hôm nay, 1/8, tròn một năm ngày Hà Tây sáp nhập với Hà Nội. Sáp nhập một tỉnh vào với thủ đô chắc chắn là một công việc đầy khó khăn, thách thức. Với nhiều nỗ lực, chính quyền Hà Nội và Hà Tây cũ đã đạt được không ít thành công trong quá trình chuyển đổi đó. Tuy nhiên, công cuộc sáp nhập phức tạp cũng không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế trên một số khía cạnh khác nhau.


    Với mong muốn góp những ý kiến xây dựng để cuộc chuyển đổi hậu sáp nhập được trọn vẹn hơn, Tuần Việt Nam xin được giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Diện về những ảnh hưởng trên khía cạnh văn hóa.



    Văn hóa xứ Đoài xô lệch
    Hôm nay là ngày chẵn một năm tỉnh Hà Tây chính thức sáp nhập và trở thành một bộ phận của Hà Nội. Trước đó nhiều cơ sở văn hóa của tỉnh Hà Tây đã kịp biến mất. Bảo tàng tỉnh, nhà triển lãm, trụ sở các nhà hát chèo, cải lương, kịch nói đã bị bán cho doanh nghiệp, dồn các cơ quan này ăn nhờ ở đậu khắp nơi. Đã có cả văn bản ký quyết định giải tán Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tây, phá hội trường, dồn 40 cán bộ tâm huyết của cơ quan này xuống thành cán bộ quận Hà Đông. May mà nhờ báo chí lên tiếng cứu lại được.

    Sáp nhập, người chưa quen người, việc chưa quen việc, chân chưa quen đường. Ngơ ngác và xáo trộn. Rồi cũng qua đi. Người Hà Tây và người Hà Nội trong các cơ quan nhìn nhau trong sự dè chừng, rồi cũng qua đi…

    Như vậy, sau khi sát nhập, Hà Nội có ba vùng văn hoá: vùng văn hoá Thăng Long (trung tâm Hà Nội); vùng văn hóa Sơn Nam Thượng (các huyện phía Nam tỉnh Hà Tây cũ); vùng văn hoá xứ Đoài (vùng phía Bắc tỉnh Hà Tây cũ). Trong đó xứ Đoài là vùng có những nét văn hoá đặc sắc.


    Cổng làng Mông Phụ yên bình.


    Hà Tây cũ là tỉnh mà về mặt văn hóa rất đáng tự hào. Với 1.110 di tích đã xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh (trong đó có nhiều di tích được liệt hạng đặc biệt quan trọng của quốc gia: Chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Bối Khê, chùa Thầy, đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, làng Việt cổ Đường Lâm...). Hà Tây có nhiều di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc và khảo cổ học đặc sắc. Mỗi một ngôi đình, đền, chùa này lại không đơn giản chỉ là một hiện vật bảo tàng, mà xung quanh đó, hàng ngày, hàng giờ vẫn diễn ra các sinh hoạt tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân. Vì vậy, nó chính là một bảo tàng sống động về văn hóa.

    Hà Tây còn là đất trăm nghề, là tỉnh có nhiều nghề thủ công mỹ nghệ đứng đầu cả nước (Lụa Vạn Phúc, Khảm Chuyên Mỹ, Quạt Vác, Thêu Quất Động, Mộc Chàng Sơn, Bún Bặt, Bún Cổ Đô...). Cùng với đó, Hà Tây là tỉnh có nhiều dân ca nhất nước (ca trù, hát Dô Liệp Tuyết, hát Chèo Tàu, hát Chèo, hát Tuồng Dương Cốc, hò Phú Nhiêu...). Rồi còn ca dao hò vè, truyện kể dân gian, còn phong tục nữa. Xưa kia, chiếng chèo Đoài là một chiếng lớn, đặc sắc. Năm 1957, thành lập đoàn chèo Cổ Phong.





    Xứ Đoài là vùng đất phía Bắc của tỉnh Hà Tây cũ, là nơi có địa thế kẹp giữa hai dãy núi – Tam Đảo và Tản Viên, bị bao vây bởi sông Hồng và hai dãy núi nên đây là vùng đất tương đối biệt lập và khép kín, ít có giao lưu. Nơi đây, hình thành nên làng mạc khép kín, do đó lưu giữ được tương đối toàn vẹn những nét văn hóa Việt cổ (Việt - Mường) và bảo tồn cảnh quan văn hóa xứ Đoài như đền chùa đình miếu và các nhà ở dân gian.

    Dưới thời phong kiến và dưới thời Tây, Hà Tây thuộc hai trấn (xứ) hoặc hai tỉnh khác nhau (Hà Đông và Sơn Tây), bao gồm hai vùng văn hóa: văn hóa trấn Sơn Nam thượng và văn hóa xứ Đoài, trong đó văn hóa xứ Đoài là rất đặc sắc. Người xưa phân địa giới như vậy là căn cứ vào điều kiện địa lý, thổ nhưỡng và văn hóa của mỗi vùng. Từ năm 1945 đến nay, xứ Đoài (gồm các huyện phía Bắc của tỉnh Hà Tây cũ) đã từng nhiều lần tách nhập với Hà Nội. Mỗi lần tách ra, xứ Đoài gần như không có gì mới so với khi nó được nhập vào, trên tất cả các phương diện.

    Và sau 1 năm, những những lo lắng của các nhà nghiên cứu, các nhà văn hoá về vấn đề văn hoá, về sự xô lệch của cảnh quan diễn ra đúng như họ lo ngại. Ở nhiều nơi, cảnh quan làng đang mất dần vì những dự án xây dựng sân golf, khu công nghiệp. Nhiều người đau xót khi không còn thấy luỹ tre làng xanh, không còn không gian thoáng đãng, đẹp đẽ của cầu ao, bến nước, ao làng mà thay vào đó là kiến trúc của một cảnh quan xô bồ.

    Ngược lại, những dòng người từ các làng quê khắp nơi, nhất là từ Hà Tây cũ đang kéo về trung tâm Hà Nội. Họ là những công chức trước kia công tác ở Hà Tây; là những người dân ở các làng quê mà diện tích canh tác bị thu hẹp nhường chỗ cho các khu công nghiệp không còn tư liệu sản xuất đành phải ra thành phố làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Cuộc sống tạm bợ của họ ít nhiều đã gây nên những xáo trộn nơi địa bàn mà họ mưu sinh, khiến cho khuôn mặt văn hóa của một Hà Nội êm đềm xưa kia lại thêm ít nhiều xô lệch.

    Trong việc sát nhập này, một vấn đề cũng làm cho người dân và cả những nhà khoa học lo lắng, đó là việc trùng tu, tu bổ các đình, chùa nơi đây ra sao.

    Ví dụ như khu Đền Và – Cung điện lớn nhất thờ Tản viên Sơn thánh đã bị dỡ ra, tu sửa và tiến hành trùng tu một cách vô nguyên tắc, tùy tiện (không hỏng cũng muốn phá dỡ làm lại, phá bức tường thành đá ong). Đình Tây Đằng được xem như là bảo tàng về điêu khắc gỗ của thế kỷ 16, 17 khi mà dỡ ra tu bổ cũng không còn được hồn phách, dáng hình ngày xưa nữa. Đình đã bị quây lại bằng tường bao, đóng kín và cô lập với bên ngoài, triệt tiêu tính chất mở của đình làng – kiến trúc công cộng lớn nhất của một làng quê.

    Đình Mông Phụ nằm giữa trung tâm làng cổ Đường Lâm cũng bị tu sửa vô nguyên tắc khiến nhân dân địa phương bất bình. Mái đình bị lợp một nửa mái ngói mới, một nửa ngói cũ, như tấm áo vá; sân đình còn tốt còn đẹp thì bị bóc dỡ để lát lại toàn bộ, mà lại lát mạch gạch đâm vào đình (một điều cấm kỵ của dân gian, cả ở kiến trúc công cộng lẫn nhà ở dân dụng). Chỉ đến ngày nghiệm thu, dân làng mới được mời ra để nhận lấy công trình. Các cụ bức xúc, đơn vị thi công mới buộc phải dỡ mái ngói lợp lại và lát lại sân đình…

    Không gian văn hóa làng đang bị phá vỡ

    Để Hà Nội trở thành đô thị rộng lớn thì phải đô thị hoá. Chính đô thị hoá như vậy, dù muốn dù không, thì bao giờ cũng triệt phá đi cảnh quan làng. Đây cũng chính là điều mà GS. Suenari Michio người Nhật Bản, người đã dành cả đời nghiên cứu về nông thôn Việt Nam, lên tiếng cảnh báo từ nhiều năm trước.

    Chúng ta đều biết rằng làng Việt đã là nơi cất giữ gần như toàn bộ gia sản văn hóa của tổ tiên chúng ta. Kiến trúc đình, chùa, miếu và các nhà ở dân gian là kết tinh sự hiểu biết của người xưa về môi trường, kiến trúc và quan niệm về sự ở của tổ tiên chúng ta. Lũy tre xanh và cách bố trí dân cư theo hình xương cá hoặc bố trí dọc theo nguồn nước là cách tự vệ và sự tuân thuận theo tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên. Đó là một triết lý của người Việt.

    Bên cạnh đó, các di sản văn hoá phi vật thể cũng có thể bị mất đi theo trào lưu chung. Người dân, nhất là giới trẻ quay lưng lại với di sản văn hóa phi vật thể cha ông để chạy theo lối sống mới, văn hoá mới. Họ không trở thành những chiến sĩ gìn giữ văn hoá cổ truyền, họ không trở thành những người lính bảo vệ văn hoá cổ mà chối bỏ tất cả, nhập vào cuộc sống mới đang được đô thị hóa rất nhanh chóng.




    Cổng 1 nhà dân ở làng cổ Đường Lâm.


    Làng Việt chính là nơi cất giữ văn hóa Việt. Chính làng Việt đã bảo vệ văn hóa Việt Nam khỏi cuộc đồng hóa của Tàu, của Tây từ hàng ngàn năm nay, làm nên sức mạnh đề kháng của văn hóa Việt Nam, tạo nên bản sắc và bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Vì thế, trước cơn cuồng phong của đô thị hóa như một quy luật tất yếu của thời đại mới, trong cơn mưa Âu gió Á này, làng Việt cổ truyền thống đang dần biến mất, thì chính là lúc văn hóa Việt bị đe dọa nhất.

    Nếu chúng ta không giữ được làng Việt thì cũng sẽ không giữ được văn hóa Việt. Và đương nhiên nếu không giữ được văn hóa Việt thì chuyện mất sức đề kháng, bị đồng hoá, bị văn hóa ngoại lai đánh gục là một nguy cơ trông thấy.

    Có một thực tế đáng buồn, sau khi Hà Tây sát nhập về Hà Nội thì các cơ quan ngôn luận (gồm kênh H1, H2 Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội; Báo Hà Nội mới…) dành “đất” quá ít ỏi cho những thông tin về Hà Tây cũ, chưa tương xứng với vùng đất này.

    Dường như các cơ quan truyền thông của Hà Nội đã thực sự không chú ý không tuyên truyền cho văn hóa Hà Tây cũ. Gần như trong 1 năm vừa qua vùng đất lớn bao bọc Hà Nội trở thành như là bộ phận lạc lõng, bị lãng quên không ai để ý đến.

    Thiếu thông tin, đô thị hóa ồ ạt không tính toán tới bản chất mưu sinh của người nông dân là gắn với ruộng đồng nên đẩy người dân vào tình thế cười ra nước mắt. Người nông dân ở quê mong có con đường chạy qua, bán vài sào ruộng để kiếm tiền. Lúc đó, người nông dân không có phương tiện sản xuất, phải gồng gánh vào nội đô để bán sức lao động giản đơn. Khi có tiền, họ cũng du nhập về làng quê họ nhiều thứ như nghiện hút, nạn mại dâm cùng các tệ nạn xã hội khác…

    Khi không còn đất để canh tác, người dân cũng dần quên đi các lễ hội tôn vinh nghề nghiệp; còn các câu hát dùng trong sinh hoạt nông nghiệp, phong tục liên quan đến cấy trồng không được truyền và tiếp nhận nữa.

    Người thành phố ồ ạt về nông thôn mua đất cát làm biệt thự, điền trang. Chính họ đã đem văn hóa của thành phố về với nông thôn, gây nên những xáo trộn trong những làng quê tưởng chừng đời đời bình yên sau lũy tre làng xanh tươi.


    Mái Đình Mông Phụ sau khi tu sửa thành như thế này đây! (Ảnh do tác giả cung cấp)



    Cần bảo tồn văn hóa 3 vùng miền

    Như đã nói ở trên, Hà Nội mở rộng hôm nay đang có ba vùng văn hóa: Vùng văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Vùng văn hóa xứ Đoài (các huyện phía Bắc tỉnh Hà Tây cũ) và Vùng văn hóa Sơn Nam Thượng (các huyện phía Nam tỉnh Hà Tây cũ). Đặc sắc văn hóa là ở đó, và việc tôn trọng văn hóa vùng phải là kim chỉ nam cho công tác chỉ đạo làm văn hóa.

    Sau một năm, giới nghiên cứu chúng tôi không thấy có một động thái nào rõ ràng của ngành văn hóa trong việc chỉ đạo để tôn trọng văn hóa vùng như thế nào.

    Đoàn chèo Cổ Phong Hà Tây mặc dù đã được 9 nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật tại Hà Nội có Thư ngỏ tới Lãnh đạo Thành phố đề nghị giữ độc lập để giữ bản sắc chèo Đoài, nhưng đáp lại vẫn là chữ “sáp nhập”. Đoàn chèo Hà Tây vẫn sát nhập vào đoàn chèo Hà Nội. Từ sau đó, chèo Cổ Phong không có hoạt động nào một cách độc lập để giữ gìn những nét đẹp xưa của chiếng chèo cổ xứ Đoài nữa.

    Tất nhiên chúng ta không thể cưỡng lại được với xu thế đô thị hóa. Tôi nghĩ, ngành văn hóa Hà Nội cần có chủ trương quán triệt tới từng cấp cơ sở về vấn đề bảo vệ văn hóa vùng. Chúng ta phải có quy hoạch rõ ràng khu nào đô thị hóa, khu nào giữ nguyên cảnh quan.

    Thêm nữa, chúng ta phải tôn trọng tính nguyên bản của các sinh hoạt văn hóa lễ hội, tín ngưỡng và văn hóa dân gian: hát, hò, vè; kiến trúc, phong tục, nền nếp gia phong dòng tộc… Phải làm thế nào để giáo dục cho nhân dân biết trân trọng giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mà họ đang nắm giữ, do tổ tiên họ truyền lại; biết tự hào về điều đó và coi đó là một thứ tài sản thiêng liêng mà mình đang sở hữu.

    Những người làm nghiên cứu văn hóa như chúng tôi mong sao ngành văn hóa Hà Nội hôm nay: “Gìn vàng giữ ngọc cho hay. Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”, giữ ba vùng văn hóa không bị mất mát, pha trộn và giữ cho được những đặc sắc riêng của từng vùng.



    TS Nguyễn Xuân Diện (sinh năm 1970 tại làng Việt cổ Đường Lâm), tốt nghiệp Đại học Tổng hợp năm 1992, thạc sỹ năm 1998 và bảo vệ Tiến sĩ năm 2007.

    Ông là chuyên gia về ca trù; văn hóa truyền thống và hiện đang là Phó Giám đốc Thư viện của Viện nghiên cứu Hán Nôm.

    TS Diện đã công bố một số công trình về xứ Đoài: Nhân vật (Kiều Oánh Mậu, Nguyễn Bá Lân, Lê Anh Tuấn); Làng Việt cổ (Đường Lâm, Cổ Đô, Yên Nội); Lễ hội (đình So, đền Và); Ẩm thực (Sơn Tây tứ quý)…


    TS. Nguyễn Xuân Diện
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của khaiphamkhac
    Gia nhập
    Mar 2008
    Nơi cư ngụ
    Hà nội
    Bài gởi
    561

    Mặc định

    Ngôi làng cổ, quê hương của Xuân Diện đẹp thật. lại là nơi Địa Linh cao vút nữa chứ. Hèn chi các Đại Gia mơ ước mộng Bá Vương. Hi ...hi...
    KPK

  3. #3
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của khaiphamkhac
    Gia nhập
    Mar 2008
    Nơi cư ngụ
    Hà nội
    Bài gởi
    561

    Mặc định

    KP biết rất nhiều Huyền Thoại về Ngôi làng cổ Đường Lâm nhà XD. Nhưng e đụng hàng với XD. Vậy XD hãy viết nhiều về những điều huyền bí nơi đây cho DĐ bHuynh Đệ cùng hiểu biết đi. Thân ái.
    KPK

  4. #4

    Mặc định

    Anh XUÂN DIỆN có biết về thám hoa giang văn minh không. nếu anh biết anh hãy kể 1 vài giai thoại về người này nhé, hôm rồi em có vào xem lăng mộ của người này , táng ở 1 nơi rất đẹp

  5. #5
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Apr 2008
    Bài gởi
    86

    Mặc định

    Làng cổ Mông Phụ - xưa và nay

    Nguyễn Xuân Diện

    Xin được bắt đầu câu chuyện về làng cổ Mông Phụ từ những cái giếng của làng quê ấy. Làng có 5 xóm, mỗi xóm có một cái giếng khơi quanh năm nước đầy và trong được xây bằng đá ong loại tốt nhất. Mỗi cái giếng đều nổi tiếng và được định vị bởi những giai thoại rất thú vị. Một cái giếng có tấm bia khá lớn dựng ngay bên cạnh, đề bốn chữ “Nhất phiến băng tâm” (lấy chữ từ Đường thi) nhắc người đời giữ giếng sạch trong như giữ lòng trong sáng. Một cái giếng khác có bia ghi về việc sửa giếng vào năm 1705 mà bài bi ký ấy lại do một vị Tiến sĩ chấp bút. (Ghi lại một việc sửa giếng cũng nhờ tay một ông Nghè, xem thế, đủ biết giếng làng quan trọng đến như thế nào). Còn một cái giếng kia thì lại là khởi nguồn cho một câu chuyện thi vị. Giếng ấy, xưa kia có một cái gầu múc nước dùng chung cho cả xóm. Trai gái làng đã khéo hò hẹn nhau qua một mối dây gầu. Chiều chiều đi gánh nước, người con trai kia đã ngấm ngầm thắt một nút trên sợi dây gầu. Và họ đã nhận ra tín hiệu của nhau. Một mối dây gầu thắt lại, ấy là hò hẹn, là dấu hiệu đêm ấy họ gặp gỡ nhau ở điểm đã hẹn. Đêm ấy, có một cô gái trốn nhà đi chơi. Mối dây gầu như một thông điệp, như thắt chặt mối tình của đôi người yêu nhau nơi thôn dã. Mối dây nên vợ nên chồng, nên ông nên bà cả trăm năm.

    Nước giếng Hè, giếng Giang là ngọt hơn cả, nên nhà nào làm đám cưới đều đến lấy nước ở các giếng đó về dùng. Người ta đồn rằng như vậy đôi bạn trẻ kia sẽ hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

    Khi nghe tôi kể về những cái giếng đá ong trứ danh ấy, một ông bạn của tôi cứ khăng khăng bảo rằng thủy thổ như vậy, tất phải là đất chuộng văn học và phải là nơi phát khoa danh, văn hiến truyền đời.

    Cách thị xã Sơn Tây yên bình và xinh đẹp 4 km, có một con đường đất dài gần 1 km, dẫn từ đường quốc lộ 32 vào một cổng làng cổ kính nằm bên gốc đa già: Cổng làng Mông Phụ. Trên con đường non một cây số ấy, nếu ta gặp được một người hay chuyện, thì ta cũng biết được khối chuyện để rồi đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nào gò Yên Ngựa, gò Núm Chiêng, gò Tang Trống, nào gò Mũi Dáo, Mũi Mác... như đặt như bày, cùng sóng hàng hai bên lối đi với khí thế hùng hậu.

    Xa xa là núi Tản mờ xanh đỉnh quyện khói mây mà những đồi xa đồi gần như đàn rùa khổng lồ chầu non thiêng của Đức Tản Viên. Văn Miếu tỉnh Sơn, làng cũ của Ngô Vương và Phùng Bố Cái quanh quất kề bên, mà đền Và thờ Thánh Tản Viên, miếu Mèn thờ mẹ Hai Bà Trưng chỉ là láng giềng gần.

    Làng Mông Phụ có ngôi đình thật to. Đình làng Mông Phụ là chốn hội nhân, vì nó là đầu mối giao thông lớn của cả làng. Nhiều nhà dân tộc học, nhà nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật đã về nghiên cứu ngôi đình này. Riêng cái xích hậu (một hạng mục trong tổng thể kiến trúc của đình) cũng đã làm cho một vị giáo sư phải bóp trán suy nghĩ tính toán mất mấy ngày về tên gọi, chức năng sử dụng của nó. Một học giả nước ngoài thì sung sướng khi phát hiện ra rằng, đình Mông Phụ là mối giao thông, vậy mà kẻ qua người lại chẳng có ai quay lưng thẳng lại với tòa đại đình cả. Đình Mông Phụ hiện còn giữ được nhiều tự khí cổ có giá trị về mỹ thuật.

    Ngay cạnh đình là nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh, vị sứ thần đã làm rạng danh cho đất Việt vào dịp tuế cống nhà Minh năm 1638. Trong nhà thờ hiện còn đầy đủ cả bia đá, biển đề và tự khí cổ truyền. Hàng năm, ngày giỗ Thám hoa Giang Văn Minh vẫn cứ là ngày giỗ lớn của cả họ Giang. Nhà thờ hiện còn đôi câu đối ca ngợi tiếng thơm của Giang Thám hoa và ca ngợi lễ nghĩa, phong tục của làng Mông Phụ.

    Lễ nghĩa bách niên Mông Phụ ấp
    Phong thanh thiên cổ Thám hoa môn.

    (Trăm năm lễ nghĩa làng Mông Phụ
    Ngàn thuở danh thơm cửa Thám hoa).

    Xa xa, giữa cánh đồng kia là đình Giang (còn gọi là quán Giang), nơi quàn linh cữu của Thám hoa trước khi an táng Người. Chuyện rằng: Khi sang sứ nhà Minh, ông đã đối đáp khảng khái, giữ được quốc thể, nên đã bị vua Minh sai người mổ bụng để xem bên trong có đúng là có một túm lông ở trong lá gan không. Ông đã không tránh được cái chết dưới lưỡi dao đồ tể và mưu đồ hại người tài của vua quan nhà Minh. Thi hài của Giang Thám hoa được chuyển về nước. Ngựa trạm từ cửa ải Lạng Sơn về báo với dân làng Mông Phụ và triều đình từ 6 tháng trước khi mang được quan tài ông về đến quê. Trong 6 tháng ấy, những người dân địa phương đã đào đá ong xây một ngôi nhà để đón linh cữu của ông. Ngôi nhà ấy có 8 cột đá ong nguyên khối, khi dựng cột phải cần đến mấy chục trai đinh khỏe mạnh mới có thể làm được.

    Ngoài nhà thờ họ Giang, các dòng họ khác đều còn giữ được nhà thờ Tổ, là nơi quy tụ anh linh tiên liệt và giáo dục truyền thống gia tộc. Nhiều vị danh nhân tên tuổi rạng rỡ nơi khoa giáp, hiển hách chốn triều chính xưa đã xuất thân từ các dòng họ này.

    Người dân làng Mông Phụ hiền lành, chất phác, cư xử rất trọng lễ nghĩa. Cái thiên tính ấy có thể biết được mỗi khi chúng ta giao tiếp với họ. Người làng Mông Phụ nói bằng thứ tiếng nặng nặng của mình. Mông Phụ là một trong bốn làng nằm trên một cái gò đất rộng. Trên cái gò đất ấy, bốn làng cùng chung cả thủy, thổ, vậy mà cách phát âm của mỗi làng ấy vẫn cứ khác nhau. Dân làng Mông Phụ có nếp sống riêng và tiếng nói thô và nặng chất Việt cổ. Đến bây giờ tiếng làng vẫn được dân làng bảo trọng, giữ gìn. Các cụ già trong làng cho rằng, người dân dù tha phương nơi đất khách quê người, dù lưu lạc nơi góc bể chân trời, mà khi trở về quê hương bản quán vẫn nói được tiếng làng là không quên gốc, rất đáng quý trọng.

    Người dân Mông Phụ rất trọng việc học hành. Xưa làng có nền Văn chỉ để thờ Khổng Tử và các vị danh nho đỗ đạt của làng. Văn bia “Bản xã tiên hiền bi ký” trên bia Văn chỉ của làng do cụ Mai Hiên Nguyễn Công Hoàn thân phụ của Tiến sĩ, Thượng thư 6 bộ Nguyễn Bá Lân, người làng Cổ Đô, huyện Tiên Phong, nay là Ba Vì, Hà Tây soạn vào năm Long Đức 2 (1733). Bản Quy ước văn hóa của làng dành hẳn một điều để nhấn mạnh trách nhiệm mỗi gia đình phải tạo điều kiện để con em mình được học hành tốt. Hàng năm, làng có tổ chức họp mặt và tặng quà cho các học sinh thi đỗ vào các trường đại học.

    Được khích lệ, động viên kịp thời, trẻ em trong làng rất chịu khó học hành. Nhiều gia đình cuộc sống còn vất vả mà vẫn gắng công nuôi con ăn học. Người tài được sinh ra từ làng quê này không phải là ít, xưa cũng vậy và nay cũng vậy. Người ta bảo Mông Phụ là đất học cũng là vì thế. Dù ra đồng, hay vào làng là đều gặp những biểu tượng tôn vinh việc học. Kìa bia Văn chỉ năm tháng rêu phong vẫn lưu dòng bút tích, nọ cửa Thám hoa trăm năm cổ kính còn ngời dấu vinh phong. Nhà thờ họ Phan, họ Hà, họ Nguyễn... còn đấy, vẫn nghi ngút khói hương ghi ơn tiên liệt. Lăng cụ Tuần, mộ cụ Giáo cùng chùa Ón rêu phong giữa cánh đồng là hiện diện của khí tượng văn võ vô song.

    Làng Mông Phụ là một làng đồi, song vì đây là một điểm quần cư rất sớm nên không có cảnh những ngôi nhà tọa lạc giữa vườn cây trái sum suê, nhà nọ cách nhà kia bằng cả một khoảnh vườn rộng lớn. Ở đây nhà cửa san sát, lối ngõ đan cài. Nhà xây chủ yếu bằng vật liệu đá ong - một loại “đặc sản” của miền trung du nắng cháy, một vật liệu “đắc dụng” trong kiến trúc xưa. Có những nhà xây hẳn tòa cổng lớn bằng đá ong để trần không trát vữa; đá lại được đẽo gọt trang trí công phu rất ưa nhìn. Qua tháng qua năm, qua nắng hạ mưa đông tắm sương gội nắng, cái cổng đá ấy thêm chắc thêm bền. Cái cổng đá ong đẹp một vẻ đẹp mộc mạc đơn sơ mà đủ vẻ thanh kỳ quyến chân du khách. Đá cũng trở nên có hồn!

    Làng Mông Phụ nhà cửa san sát, ngõ xóm chằng chịt, chẳng khác nơi đô thị, vậy mà cũng không trở thành một làng buôn nổi tiếng. Điều này đã làm cho nhiều học giả trong và ngoài nước rất để tâm lý giải. Giáo sư Trần Quốc Vượng đã về đây nhiều lần, cũng ăn ở với dân làng để tìm ra bí ẩn của cái giáp ở đây. Giáo sư Nguyễn Dương Bình về Mông Phụ để khảo mấy chữ Bố Cái Đại vương và những vấn đề liên quan.Còn Giáo sư Diệp Đình Hoa thì khẳng định 4 làng cổ ở Đường Lâm trong đó có làng Mông Phụ đã có lịch sử 4000 năm; và đã nối cho Mông Phụ mối dây truyền thống từ thời đại đồ đồng thau đến hôm nay.

    Mông Phụ, cho đến hôm nay vẫn vẹn nguyên dáng cổ. Cả làng hiện không có nhà hai tầng nào. Không phải là vì dân nghèo, mà vì đã có một lời nguyền không ai được xây cao hơn mái đình. Và thế là trong làng, ngoài đồng đều còn nguyên cả, từ nhà cửa, đình đền đến quán trạm, lăng mộ... Đường đi lối lại phong quang sạch sẽ, ưa nhìn. Rất nhiều đoàn làm phim đã về làng Mông Phụ để chọn bối cảnh dựng phim. Nhiều thước phim tài liệu, khoa học, du lịch đã được quay tại đây. Hồi trước, làng Mông Phụ là nơi sơ tán của anh em văn nghệ sĩ Hà Nội, nên vẻ đẹp như tranh của làng đã vào tranh của rất nhiều họa sĩ. Bức tranh vẽ cổng làng Mông Phụ của họa sĩ Phan Kế An (người làng Mông Phụ) hiện đang được lưu giữ tại Viện bảo tàng Mỹ thuật ở nước ngoài.

    Cảnh quan tốt đẹp, dáng cổ vẹn nguyên, những gì xa xưa vẫn còn giữ lại đến hôm nay, không bởi tại trời mà bởi tại người. Người dân làng quê này đã bao đời quần tụ trong môi trường ấy, gìn giữ và tô điểm cho nét văn của làng. Cảnh quan ấy có được là do mỗi người dân đều gắng công xây dựng, gìn giữ rất tự nguyện. Xưa làng có Hương ước, nay làng có Quy ước văn hóa làm khuôn mẫu cho tất cả mọi người.

    Có thể hình dung một phần cuộc sống xưa kia của làng qua bản Hương ước cổ của làng, cái hay cũng có mà cái dở cũng không phải là không có. Trên tinh thần gạn đục khơi trong, dân làng đã xây dựng cho mình một bản quy ước mới gồm 6 chương với ngôn ngữ dễ hiểu, dễ nhớ và ngắn gọn, phản ánh đầy đủ những nội quy mà mỗi thành viên trong làng phải thực hiện.

    Hiện nay làng Mông Phụ đã có một thư viện với 5 số báo và một tủ sách phục vụ bạn đọc cho mọi lứa tuổi vào các ngày thứ ba, thứ năm và thứ bảy hàng tuần. Ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm, làng tổ chức đấu vật (trong Hương ước cổ gọi là giao điệt) ở chùa Ón rất đông vui. Chùa Ón, gọi là chùa nhưng phải là nơi thờ Phật. Đó là một nếp nhà gỗ ba gian và một hậu cung nhỏ, bên trong không có tượng Phật mà chỉ có một bát hương nhỏ, bát hương này chỉ được thắp hương vào ngày hội vật hàng năm.

    Làng không phải là đã giầu, nhưng đã có nhiều ti vi, xe máy và máy điện thoại. Và đường làng chắc sẽ còn rộng thêm ra để xe ô tô từ các nẻo đường đi về đây mà tham quan, nghiên cứu, khám phá mọi khía cạnh văn hóa của một làng cổ khá tiêu biểu của trung du Bắc Bộ.

    Giáo sư Trần Quốc Vượng về làng nghiên cứu đã từng coi đây là “Một làng rất đáng được nghiên cứu, ít nhất cũng về phương diện lịch sử và bảo tàng học”. Thật vậy! Sau khi bạn bước chân vào con đường dẫn vào làng, bạn đã thấy được núi xa đồi gần rất hùng hậu mà thanh bình. Trên con đường vào làng bạn đã được thấy gốc đa kề sát cổng làng rất cổ kính, thấy mái đình nét cong duyên dáng. Và những ngôi nhà cổ vẫn còn đây. Bước qua lần cổng là gặp một sân lát gạch. Góc sân sẵn mấy chum tương - mà cái tương cà gia bản là cái sinh hoạt thường ngày của người nông dân xứ Bắc. Có chum tương nó biểu hiện như một cái gì đó nền nếp, căn bản của nền kinh tế nông nghiệp. Nhà lợp ngói mũi, cấu kiện tòa nhà đều bằng gỗ đã nâu một mầu thời gian. Bàn thờ ở gian giữa, một vị trí trang trọng nhất của một gia đình. Hoành phi câu đối nét vàng chói lọi ca ngợi tổ tiên, nêu cao nếp gia phong truyền đời. Nhà cổ ấm về mùa đông và mát mẻ về mùa hè. Cả không gian là một màu nâu; màu sẫm của ngói, gỗ, vật dụng tiện nghi, và cả màu nâu ngăm ngăm khuôn mặt chữ điền của chủ nhân. Nếu là người hay chuyện, ham học hỏi, bạn sẽ được chủ nhà giảng giải cho mọi điều về một ngôi nhà cổ. Nào là cửa gỗ bức bàn, nào là cái dại cửa, chồng giường, thượng thu hạ thách... gom góp lại, cùng với những gì đã đọc, nếu thông minh bạn cũng có thể hình dung được về kiến trúc nhà cửa ở nông thôn Việt Nam mấy trăm năm về trước, cũng như lịch trình của kiến trúc nhà ở nông thôn, nắm bắt được tâm tính và phong cách của người dân Việt ở châu thổ Bắc bộ Việt Nam.

    Khi đêm về, các ngõ lớn là nơi tụ tập của đám trai gái làng. Còn trong xóm nhỏ là nơi các bậc lão nông tri điền hội ẩm bên ấm nước chè xanh vừa hãm. Chuyện làng, chuyện nước, cả chuyện quốc tế nữa được đàm luận dõng dạc như các bậc lão thần bàn quốc sự. Gặp một hội uống chè như thế, bạn nên ngồi im mà nghe và cứ hãy tỏ ra là người ít nói, bạn sẽ được biết nhiều chuyện lắm đấy!

    Các thế hệ cháu con họ Giang, họ Phan, họ Đỗ, họ Hà... ở Mông Phụ đều có thể tự hào về truyền thống của gia tộc, tự hào về công tích của cha ông tiền bối. Tên tuổi của các tiên liệt vẫn còn lưu trong sử vàng bia đá, và hành trang của các tiên liệt vẫn còn làm nên những huyền thoại trong dân gian xứ Đoài...

    Họ Đỗ xưa nay vốn có tiếng là cao cờ. Xưa, nghe nơi nào có hội là người họ Đỗ lại rủ nhau đi giật giải chơi và lần nào cũng giật được giải. Có bao nhiêu hội lớn hội nhỏ ở cái tỉnh Đoài này, nếu họ Đỗ không đến thì thôi, chứ nếu đến là giải về tay họ Đỗ cả. Dân làng bảo “Cờ họ Đỗ, giỗ họ Giang” là vì thế! Tôi được nghe kể rằng, xưa có một vị họ này trên đường đi nhậm chức, hai cha con đi hai cái võng, cứ thế đánh với nhau cái ván cờ tưởng tượng trên suốt dặm đường mà không hề có quân đi, không có bàn bày chi tiết. Lại có người bảo, vị quan Đốc (học), người sở hữu viên đá cuội cứ bỏ vào bát nước lã là thành rượu thơm trong thiên truyện “Trên đỉnh non Tản” của cụ Nguyễn Tuân nửa hư nửa thực ấy chính là chuyện có thật của cụ Đỗ Doãn Chính, ông tổ của dòng họ Đỗ nổi tiếng hay chữ, Đốc học tỉnh Sơn Tây hồi xưa. Chuyện là thế, thực hư thế nào, xin chờ các bậc thức giả giúp hiểu biết sau vậy.

    Nhưng tôi biết chắc rằng, cụ Đỗ Doãn Chính là Bang biện tỉnh vụ kiêm Đốc học Sơn Tây cùng với học trò là Giang Văn Sâm, là tác giả của hai bài văn bia “Vân Già Đông Chấn cung”, soạn năm Tự Đức 36 (1884); hiện bia còn đặt tại nhà Tiền tế đền Và, nơi thờ Tản Viên Sơn thần, một trong những đại danh thắng của xứ Đoài. Phòng sách của cụ có hoành phi đề ba chữ “Dưỡng tâm an”, nay hãy còn. Con cháu của cụ Đốc học là cụ Đội Hớn, tức Đỗ Vân Hán là tác giả của một truyện thơ Nôm lục bát dài có nhan đề là Tản Viên Sơn sự tích để ca ngợi uy linh của Đệ nhất Phúc thần Tản Viên Sơn. Bản truyện này với thư pháp tuyệt đẹp là thủ bút của cụ nay con cháu vẫn giữ gìn cẩn thận.

    Mông Phụ là đất văn vật. Tâm tính của người dân chất phác, phóng khoáng mà khảng khái. Xưa, làng có nhiều võ quan, hình quan tài đức, tiết tháo. Quan Án sát Nguyễn Khắc Nguyên thời gian nhậm chức ở Quảng Bình rất được nhân dân kính trọng. Ông cũng từng là thế lực đối lập với quan đại thần Trương Đăng Quế thời Tự Đức, nhà Nguyễn. Dân làng Mông Phụ khi làng cũng như ở nơi thiên hạ rất đoàn kết với nhau. Vào khoảng đời Thành Thái (1889-1907) có bọn giặc cướp quấy phá, dân làng đã hạ thủ được tướng cướp, triệt nọc được một băng cướp khét tiếng tỉnh Đoài. Vì thành tích ấy, làng được Công sứ đại thần, Tuần phủ Sơn Tây vâng mệnh vua ban tặng cho dân làng bức hoành phi “Dũng cảm khả tưởng” (Dũng cảm đáng khen) để biểu dương. Bức hoành phi này nay vẫn còn treo ở đình làng.

    Mông Phụ là một làng nông nghiệp thuần túy. Nguồn sống chính của dân làng vẫn là từ nghề làm ruộng. Mông Phụ và Phụ Khang là hai làng chủ yếu của HTX Nông nghiệp Đường Lâm. Làng cổ, nghề xưa truyền đời nên người dân Mông Phụ có trình độ canh tác, kinh nghiệm cao. Họ thật sự là những lão nông tri điền. Họ có thể giảng giải cho chúng ta một cách tường tận về những trải nghiệm và hiểu biết của mình về đất, nước, cây con và thời tiết, mùa vụ như một chuyên gia thực thụ.

    Xưa, ở đây có nhiều sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng đã trở thành phương ngôn:

    Dưa hấu, dưa gang là làng Mông Phụ
    Nước giếng Giang, khoai lang Đồng Bường.

    Đàn bà con gái Mông Phụ không có vẻ đẹp thanh thoát của phụ nữ liễu yếu đào tơ mà họ có khuôn hình chắc khỏe của người con gái trong tranh Tố nữ và trong tác phẩm điêu khắc cổ dân gian. Mặt to, đầy đặn, lông mày dày, ánh mắt hiền hậu, vai rộng, ngực nở và tiếng nói ấm trầm. Đấy là những gì có thể nói về người con gái làng Mông Phụ. Những bà già Mông Phụ mặt vuông chữ điền, mũi to và cao, khiến người ta phải nghĩ rằng đây chắc là vợ hay con gái một ông quan nào đó.

    Hy sinh và chịu đựng, chịu thương, chịu khó, nhưng người đàn bà thôn quê này rất hiền hậu, thương chồng yêu con rất mực. Và mỗi người đều mang sẵn trong mình cái mơ ước được “võng anh đi trước, võng nàng đi sau” trở thành bà Thám, bà Nghè, bà Cử. Nhiều người trong số họ được đáp đền xứng đáng.

    Đặc biệt làng Mông Phụ có một người phụ nữ được tôn vinh là Hậu thần, được phối thờ cùng Thành hoàng. Đó là bà Giang Thị Thắng, chị gái của sứ thần Giang Văn Minh, một người phụ nữ thông minh, tài đức đã từng được vua vời vào kinh để làm Nhũ mẫu. Bà cùng với chồng là Phù Việt hầu Cao Phúc Diễn (người làng Cam Thịnh) được tôn vinh là Thánh ông và Thánh bà ở đình làng Cam Thịnh, cùng xã. Hiện nay, ở trong đình làng Cam Thịnh còn giữ được một tấm bia lớn “Hậu thần bi ký” dựng năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1712) đời Lê Dụ Tông để ghi nhớ việc ông bà đã cúng 400 quan tiền và 2 mẫu ruộng “thượng đẳng điền” cho làng.

    Bà Phan Thị Biên là cháu dâu và các bà Giang Thị Phương, Giang Thị Thưởng là chắt của Thám hoa Giang Văn Minh là những người hưng công và có đóng góp lớn trong việc xây dựng giếng làng được ghi tên trong bia “Tu lý bi ký”.

    Ai có về Mông Phụ hôm nay hẳn sẽ cảm thấy rất sung sướng vì được sống trong một không gian Việt trong lành, thuần phác. Không gian ấy là không gian hòa quyện giữa núi xa và đồi gần, giữa ruộng lúa nước và nương khoai đồi, giữa cái bình thản của thế đất và cái san sát của xóm làng, sự hòa quyện của cổ và kim trong kiến trúc, quy hoạch và lối sống cộng đồng. Không gian ấy đích thực là một không gian văn hóa nhiều chiều. Chúng ta sẽ gặp ở đây nét văn hóa của làng xưa chuộng lễ nghĩa, trọng học và sự tiến bộ. Từ xa xưa đến nay, Mông Phụ vẫn cứ là đất mến khách. Đến đây, bạn sẽ được thỏa ước nguyện tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá cho dù bạn là người khó tính hoặc cầu toàn nhất. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của làng Mông Phụ như mách bảo cho bạn biết rằng bạn đã đến một làng văn hóa thực thụ. Làng văn hóa này không phải của riêng Sơn Tây, hay tỉnh Hà Tây mà là của cả nước.

    Về với Mông Phụ, cho dù bạn không phải là người con của quê hương ấy thì khi cất bước chân đi bạn cũng sẽ thấy đây là một quê hương của bạn rồi. Vì rằng Mông Phụ có tất cả vẻ đẹp cổ truyền và vẹn nguyên của một làng văn hiến mà hồn của muôn xưa vẫn còn hiện diện đâu đây, trong giọng nói tiếng cười, trong nếp sinh hoạt của người dân hôm nay.

    Tháng 6/1997.

  6. #6
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của khaiphamkhac
    Gia nhập
    Mar 2008
    Nơi cư ngụ
    Hà nội
    Bài gởi
    561

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi XUANDIEN70 Xem Bài Gởi
    Làng cổ Mông Phụ - xưa và nay

    Nguyễn Xuân Diện
    Ai có về Mông Phụ hôm nay hẳn sẽ cảm thấy rất sung sướng vì được sống trong một không gian Việt trong lành, thuần phác. Không gian ấy là không gian hòa quyện giữa núi xa và đồi gần, giữa ruộng lúa nước và nương khoai đồi, giữa cái bình thản của thế đất và cái san sát của xóm làng, sự hòa quyện của cổ và kim trong kiến trúc, quy hoạch và lối sống cộng đồng. Không gian ấy đích thực là một không gian văn hóa nhiều chiều. Chúng ta sẽ gặp ở đây nét văn hóa của làng xưa chuộng lễ nghĩa, trọng học và sự tiến bộ. Từ xa xưa đến nay, Mông Phụ vẫn cứ là đất mến khách. Đến đây, bạn sẽ được thỏa ước nguyện tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá cho dù bạn là người khó tính hoặc cầu toàn nhất. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của làng Mông Phụ như mách bảo cho bạn biết rằng bạn đã đến một làng văn hóa thực thụ. Làng văn hóa này không phải của riêng Sơn Tây, hay tỉnh Hà Tây mà là của cả nước.

    Về với Mông Phụ, cho dù bạn không phải là người con của quê hương ấy thì khi cất bước chân đi bạn cũng sẽ thấy đây là một quê hương của bạn rồi. Vì rằng Mông Phụ có tất cả vẻ đẹp cổ truyền và vẹn nguyên của một làng văn hiến mà hồn của muôn xưa vẫn còn hiện diện đâu đây, trong giọng nói tiếng cười, trong nếp sinh hoạt của người dân hôm nay.

    Tháng 6/1997.
    Vâng ! Một làng quê bình dị, hiền hòa, tàng ẩn biết bao giá trị văn hóa ngàn đời, với những người dân chân chất, hiền lành, chịu thương, chịu khó nhưng dũng cảm, quật cường trong đấu tranh gìn giữ Quê hương, đất nước. Đó là hùng khí tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam chúng ta.
    Chỉ mong rằng : Cơn Bão Đô thị hóa đừng làm ngả ngiêng, xô lệch những đường nét, văn hóa muôn đời của Làng Quê Việt.
    KPK

  7. #7

    Mặc định

    Đau khổ thay, cái mà ta thấy hàng ngày đó là gì hỡi các huynh đệ ??????
    Đó chính là "PHÁ......HẾT......!"

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Bài Tổ tôm và văn hiến Việt
    By dienbatn in forum Văn Hóa thời HÙNG VƯƠNG
    Trả lời: 21
    Bài mới gởi: 05-09-2008, 01:45 AM
  2. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 30-01-2008, 10:26 AM
  3. Sự Tích đức Văn Thù Sư Lợi
    By dmtuan in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 02-11-2007, 11:00 PM
  4. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
    By Lão_Ngoan_Đồng in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 02-11-2007, 12:13 PM
  5. Văn-thù-sư-lợi
    By vampire2001vn in forum Mật Tông
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 15-10-2007, 11:02 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •