Tóm lượt chủ yếu từ Tăng chi bộ 45 kinh số 8 (SN45.8 - Phân tích Con đường) và Trung bộ kinh số 141 (MN141 - Phân tích Sự thật).
1. Chánh Kiến - Cái nhìn Đúng đắn: - 10 thiện nghiệp và cội rễ của chúng - Phân biệt Đúng và Sai:
Tránh giết hại sinh vật; Tránh lấy thứ chưa được cho; Tránh tà dâm;
Tránh nói sai sự thật; Tránh nói lời chia rẽ và vu khống; Tránh nói lời thô tục; Tránh nói chuyện vô nghĩa;
Tránh tham thứ của người khác; Tránh ác ý muốn hại người khác; Tránh có định kiến sai trái.
Cội rễ của các ác nghiệp chính là là tham lam, sân hận và ngu si.
- 6 định kiến đúng đắn:
Việc cho đi, hy sinh và cúng dường không phải là không có ý nghĩa.
Hành động cho dù là tốt hay xấu đều sẽ có kết quả.
Có tồn tại thế giới bên kia.
Cha và mẹ là người đặc biệt và là nghĩa vụ của mình.
Có tồn tại những chúng sinh được sinh ra theo hình thức hóa hiện tức thời mà không phải trải qua thai kỳ.
Có những tu sĩ hoặc người trí luyện tập đạt được những quả vị cao thượng và những khả năng siêu phàm, đã tận mắt thấy và mô tả lại thế giới bên kia.
- 5 uẩn - 5 đống:
Sắc - vật chất:
6 giác quan, 6 đối tượng của 6 giác quan này, hay còn gọi là bên trong và bên ngoài cơ thể. Hình tướng cơ thể này được gộp lại từ đất, nước, lửa, gió, được tạo ra từ cha và mẹ, phát triển nhờ cơm nước, phải chịu đựng sự vô thường, sự hao mòn, sự hư hại và sự hủy diệt. Sau khi chết cái xác phân rã, để lại cho loài khác ăn thịt. Nhưng tâm họ sẽ đi về hướng khác.
Thọ - cảm giác:
3 cảm giác nguyên sơ: dễ chịu, khó chịu và trung tính.
Tưởng - cảm nhận:
Nhận thức từ trí nhớ, ví dụ: âm thanh đó là âm thanh gì, người đó là ai, cái này đẹp, cái kia xấu, người này kẻ thù, người kia là bạn, ...
Hành - kiến tạo:
Đưa ra quyết định. Thêu dệt và phóng đại dựa trên Thọ và Tưởng, tạo ra vô vàn cảm xúc, tâm tư, hoài bão.
Thức - biết:
Đơn giản là sự biết, biết 4 uẩn còn lại
Cả năm uẩn đều không phải là của mình, không phải là mình, không phải là bản thân hay linh hồn mình. Mà chỉ là những tiến trình:
- 4 Thánh Đế - 4 sự thật:(Nhiệm vụ: Cần phải hoàn toàn hiểu) Khổ là gì:
Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ;
Thân cận với thứ không thích là khổ;
Xa rời thứ mình thích là khổ;
Không có được thứ mình muốn là khổ.
Tóm lại, bám víu vào 5 uẩn là khổ.
(Nhiệm vụ: Cần phải từ bỏ) Nguyên nhân của Khổ:
Chính là sự ham muốn dẫn đến tái sinh trong tương lai, lẫn với thích thú và tham lam, muốn hưởng thụ khoái lạc ở nhiều cõi khác nhau.
Đó là, ham muốn hưởng thụ từ thể xác, ham muốn tiếp tục tồn tại, ham muốn cắt đứt sự tồn tại.
(Nhiệm vụ: Cần phải nhận ra) Sự tan biến của Khổ:
Đó là sự phai nhạt và tiêu biến của chính cái ham muốn ấy và không còn để lại gì;
Cho nó đi, thả nó đi, buông bỏ nó và không dính vào nó nữa.
(Nhiệm vụ: Cần phải phát triển) Con đường diệt Khổ:
Đơn giản chính là con đường 8 phần của các bậc thánh:
Xu hướng Đúng đắn, Lời nói Đúng đắn, Hành vi Đúng đắn, Nghề nghiệp Đúng đắn, Nỗ lực Đúng đắn, Tỉnh thức Đúng đắn và Định tâm Đúng đắn.
2. Chánh Tư duy - Xu hướng Đúng đắn:
Xu hướng buông bỏ, xu hướng không ác ý, xu hướng không tàn bạo.
3. Chánh Ngữ - Lời nói Đúng đắn:
Tránh lời sai sự thật, chia rẽ, thô tục và vô nghĩa.
4. Cháng Thân - Hành vi Đúng đắn:
Tránh giết sinh vật, trộm cướp, tà dâm (hoặc từ bỏ dâm dục nếu có thể).
5. Chánh Mạng - Nghề nghiệp Đúng đắn:
Từ bỏ nghề nghiệp sai trái, mưu sinh chính đáng.
6. Chánh Tinh Cần - Nỗ lực Đúng đắn:
Hăng hái phấn đấu ngăn chặn những tính chất xấu khi mà nó còn chưa khởi lên trong tâm.
Hăng hái phấn đấu loại bỏ những tính chất xấu đã khởi lên rồi.
Hăng hái phấn đấu sinh ra và làm khởi lên những tính chất tốt hiện chưa có.
Hăng hái phấn đấu gìn giữ và tăng trưởng những tính chất tốt hiện đang có.
7. Chánh Niệm - Tỉnh thức Đúng đắn:
- 4 Niệm Xứ thông qua việc quan sát hơi thở ra vào (anapanasati): thiền hơi thở, khi được phát triển, sẽ hoàn thành 4 niệm xứ, 4 niệm xứ khi được phát triển sẽ hoàn thành 7 yếu tố đưa đến giác ngộ, 7 yếu tố khi hoàn toàn được hoàn thiện sẽ đưa thẳng đến tự do và giải thoát:
Ở đây, này Ānanda, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống … “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.
Tu tập như vậy, này Ānanda, làm cho sung mãn như vậy, định niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn, có lợi ích lớn.
(Thân)
Lúc nào, này Ānanda, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy rõ biết: “Tôi thở vô dài”. Hay khi Tỷ-kheo thở ra dài, vị ấy rõ biết: “Tôi thở ra dài”. Hay khi Tỷ-kheo thở vô ngắn, vị ấy rõ biết: “Tôi thở vô ngắn”. Hay khi Tỷ-kheo thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân (toàn bộ hơi thở từ lúc vào cho tới ra), tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành (hơi thở), tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Này Ānanda, sống quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì sao?
Này Ānanda, Ta tuyên bố rằng, tùy thuộc về thân, tức là hơi thở vô, hơi thở ra. Do vậy, này Ānanda, quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
(Thọ)
Trong khi, này Ānanda, Tỷ-kheo: “Cảm giác vui sướng, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác vui sướng, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Cảm giác hạnh phúc, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác hạnh phúc, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Cảm giác về tâm hành (các cảm xúc), tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Trong khi quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì sao?
Này Ānanda, Ta tuyên bố rằng, tùy thuộc về thọ, tức là hơi thở vô, hơi thở ra, được khéo tác ý. Do vậy, này Ānanda, quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
(Tâm)
Trong khi, này Ānanda, Tỷ-kheo: “Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Với tâm cố định, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Trong khi quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì sao?
Này Ānanda, Ta tuyên bố rằng sự tu tập chánh niệm hơi thở vô, hơi thở ra không phải cho người thất niệm và không tỉnh giác. Do vậy, này Ānanda, quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trong khi ấy, trú nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
(Pháp)
Trong khi Tỷ-kheo, này Ānanda, “Quán vô thường (trong hơi thở), tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán vô thường, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Quán ly tham, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán ly tham, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Trong khi quán pháp trên các pháp, này Ānanda, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời, đoạn tận các tham ưu; sau khi thấy với trí tuệ, vị ấy khéo trú xả. Do vậy, này Ānanda, quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Ví như, này Ānanda, một đống rác bụi lớn ở ngã tư đường, nếu từ phương Ðông, một cái xe đi đến và làm cho đống rác bụi ấy giảm bớt đi; nếu từ phương Tây…; nếu từ phương Bắc…; nếu từ phương Nam, một cái xe đi đến và làm cho đống rác bụi ấy giảm bớt đi. Cũng vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo trong khi trú, quán thân trên thân, làm cho giảm bớt đi các ác, bất thiện pháp, khi trú, quán thọ trên các cảm thọ … khi trú, quán tâm trên tâm … khi trú, quán pháp trên các pháp … làm cho giảm bớt đi các ác, bất thiện pháp.
8. Chánh Định - Định tâm Đúng đắn:
- 5 trượt - 5 chướng ngại:
Tham đắm:
Nghĩ về sự hưởng thụ nơi các giác quan, ham muốn chúng, không tạm buông được.
Chán ghét:
Nặng như là thù hận, ác cảm, ghét bỏ cho tới chán nản, những tâm tiêu cực.
Mệt mỏi, buồn ngủ:
Uể oải, ý ạch, không có động lực, không có năng lượng, buồn ngủ vô cớ.
Tâm không yên, hối hận:
Tâm nhảy lung tung, tiếc nuối về quá khứ, mơ tưởng tương lai, hoặc hối hận do nghĩ về những sai lầm.
Nghi ngờ:
nghi ngờ về con đường, về phương pháp, về bản thân, về đâu là tốt đâu là xấu.
- 4 thiền (jhana) - 4 tầng thiền:
Sơ thiền:
Tạm tách biệt khỏi ham muốn, tách biệt khỏi những tâm xấu, thiền sinh nhập vào và an trú trong Sơ thiền. Nó có sự vui sướng và hạnh phúc sinh ra từ sự tách biệt, trong khi vẫn còn kéo tâm cố định lại nơi hơi thở và giữ tâm ở đó.
Thiền sinh lan tỏa ra toàn bộ cơ thể niềm vui và sự hạnh phúc có được từ sự tách biệt này.
Nhị thiền:
Khi việc kéo tâm và cố định tâm đã lặng đi, thiền sinh đi vào và an trú trong Nhị Thiền. Nó có sự vui sướng và hạnh phúc sinh ra từ việc tâm đã cố định, tâm lúc này rất sáng, rõ ràng, và hợp nhất, không còn ý nghĩ kéo hay giữ tâm nữa.
Thiền sinh lan tỏa ra toàn bộ cơ thể niềm vui và sự hạnh phúc có được từ tâm đã được cố định.
Tam thiền:
Với sự phai nhạt của vui sướng, thiền sinh nhập vào và an trú trong Tam thiền. Họ thiền với sự bình tĩnh, tỉnh thức, tự mình trải nghiệm niềm hạnh phúc và các bậc thánh thường nói "An tịnh và tỉnh thức, họ thiền trong niềm hạnh phúc".
Thiền sinh lan tỏa ra toàn bộ cơ thể sự hạnh phúc có được từ việc không còn cảm xúc vui sướng thô sơ kia.
Tứ thiền:
Hơn nữa, từ bỏ sung sướng và đau khổ, kết thúc hạnh phúc và buồn bã trước kia, thiền sinh nhập vào và an trú trong Tứ thiền. Một chốn không có sướng hay khổ, chỉ có sự an tịnh và tỉnh thức thuần khiết.
Thiền sinh lan tỏa ra toàn bộ cơ thể sự cái tâm trong sáng và thuần khiết.
- Nắm bắt Pháp:
Pháp học được thường xuyên được ôn lại kỹ càng, hiểu đúng, nằm lòng, và thấy rõ được bằng trí tuệ.
Giống như khi một người nhìn người khác, người đứng có thể thấy được người ngồi, người ngồi có thể thấy được người nằm.
Bookmarks