kết quả từ 1 tới 5 trên 5

Ðề tài: HỒI TƯỞNG CỦA NHÀ BÁO HUNGARY NHÂN 40 NĂM CUỘC CHIẾN BIÊN GIỚI 1979

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định HỒI TƯỞNG CỦA NHÀ BÁO HUNGARY NHÂN 40 NĂM CUỘC CHIẾN BIÊN GIỚI 1979

    HỒI TƯỞNG CỦA NHÀ BÁO HUNGARY NHÂN 40 NĂM CUỘC CHIẾN BIÊN GIỚI 1979

    Chủ nhật - 17/02/2019 04:18


    (NCTG) “Hà Nội là chuyến tác nghiệp dài đầu tiên ở nước ngoài của tôi, và Việt Nam từ ấy vẫn có vị trí đặc biệt trong trái tim tôi” - ký giả cựu trào Hungary, ông Dunai Péter chia sẻ trong bài viết dành riêng cho NCTG nhân 40 năm sự kiện 17-2-1979. Ông là một trong số ít ỏi các nhân chứng quốc tế có dịp chứng kiến những hậu quả của cuộc chiến biên giới 1979.


    Trao trả tù binh tại biên giới Việt - Trung - Ảnh do nhân vật cung cấp

    Từng được biết đến như một nhà báo Hungary tài ba, hiện đã nghỉ hưu, nhưng Dunai Péter vẫn làm việc trên cương vị chuyên gia tư vấn và nghiên cứu về các vấn đề quân sự và an ninh. Là thân hữu của NCTG, ông đã viết cho báo những hồi tưởng liên quan tới cuộc chiến xâm lược của Bắc Kinh, mà ông có được trong thời gian tác nghiệp tại Việt Nam.

    Dunai Péter có được nhiều trải nghiệm quý báu về sự kiện 1979 qua những chuyến đi tới vùng biên giới phía Bắc do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức cho nhóm phóng viên ngoại quốc chỉ có vỏn vẹn vài người lúc đó đang ở Hà Nội, mà ông là nhà báo Hung duy nhất. Ông hoàn toàn cảm nhận và chia sẻ được khổ đau của người dân Việt Nam thời kỳ ấy.

    Dunai Péter cũng ghi lại được nhiều hình ảnh quý, hiếm về những xóm làng bị đạn bom tàn phá hoang tàn, những vùng cư dân không còn bóng người và chìm trong đổ nát. Những đạo quân Trung Quốc khi rút lui đã cho nổ hết nhà cửa, tiêu hủy tất cả những gì có thể ích lợi với cư dân: các toa tàu hỏa, đường ray, thiết bị trong nhà máy, đường xá, kênh đào...

    Đặc biệt, Dunai Péter là một trong số ít những ký giả ngoại quốc tại Việt Nam thời đó có dịp mục sở thị những vụ trao đổi tù binh Việt - Trung, mà ông có viết lại kỹ lưỡng trong loại bài riêng gửi NCTG. Bên cạnh đó, 4 năm ở Việt Nam - khi đó đang trong cảnh khó khăn cùng quẫn theo con mắt của một người ngoại quốc, đã để lại dấu ấn không quên trong ông.

    Thuộc “thế hệ vàng” của các ký giả Hungary tài ba, lịch lãm, có sở học rộng và kiến văn vững vàng, bên cạnh lòng tự trọng và lương tâm của người cầm bút, Dunai Péter đã có những trang viết mà sau hơn 30 năm, khi đọc lại không thấy có những “lạc hậu”, “ấu trĩ” đáng kể, và không có những nét giáo điều, tuyên truyền cổ động thường thấy của thời đó.

    Đây là một phần bài viết dài mà Dunai Péter ưu ái viết cho NCTG. Cho dù “càng ngày càng ít viết lách vì công việc đã cuốn đi hết thời gian” như ông thổ lộ, nhưng khi có đề xuất của NCTG, ông đã nhiệt tình nhận lời ngay và lập tức hỏi lại rất “nhà nghề” “cần bao nhiêu từ? thời hạn là bao lâu?”. Để rồi, NCTG có được tiếng nói và ký ức từ Hungary trong dịp này!

    Chân thành cám ơn nhà báo Dunai Péter và trân trọng giới thiệu!

    Một tòa nhà xây năm 1976 tạo Cao Bằng, bị quân đội Trung Quốc san bằng trong cuộc chiến xâm lược 1979 (ảnh do Dunai Péter chụp năm 1982)

    Chưa bao giờ tôi đến được Hữu Nghị Quan, địa điểm có lẽ nổi tiếng nhất của biên giới Việt – Trung, nằm cách thị trấn Đồng Đăng chưa đầy 5km. Một thời, đây là cửa khẩu đường bộ đông đúc nhất, nhưng sau cuộc chiến biên giới Việt – Trung năm 1979, như sau này tôi mới biết, Trung Quốc đã chiếm làm sở hữu cả cửa khẩu này lẫn khu vực lân cận. Theo các nguồn của Trung Quốc, năm 1999, chính thức đã có 60km2 lãnh thổ Việt Nam bị sáp nhập vào Trung Quốc. Hiện tại, từ Hữu Nghị Quan tới cửa khẩu phía bên Việt Nam, cần phải đi bộ vài trăm mét.

    Ngày 17-2-1979, Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam và sự kiện này khởi đầu cho một cuộc chiến ác liệt kéo dài một tháng, sau đó còn dai dẳng chừng một thập niên và như sự khép lại của Chiến tranh Đông Dương thứ ba, Hữu Nghị Quan hoàn toàn thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Sau những trận chiến khốc liệt diễn ra trong vòng một tháng trên lãnh thổ Việt Nam, chiến tranh không kết thúc, mà chuyển sang một giai đoạn kéo dài nhiều năm mà ngày nay, chúng ta gọi bằng cụm từ chuyên môn trong tiếng Anh “low intensity conflict” (LIC, tức xung đột cường độ thấp). Phía Trung Quốc theo một số giả thiết đã tiến hành cuộc chiến mở màn ngày 17-2 như một sự trừng phạt, nhưng họ đã không đạt được mục đích, cho dù thiệt hại về vật chất cho Bắc - Việt Nam là hết sức nặng nề.

    Để lật đổ thể chế độc tài Polpot được Trung Quốc chống lưng, Việt Nam đã giúp đỡ lực lượng ái quốc Cam Bốt và điều này có thể đã khiến Bắc Kinh nổi khùng. Theo một bộ phim tài liệu năm 2016 của “Vietnam News”, chế độ Polpot đã trục xuất dân nhập cư Việt Nam khỏi đất nước và tấn công Việt Nam một cách hung hãn. Ngày 2-1-1979, phía Việt Nam huy động không quân cùng các lực lượng thiết giáp và giáng một đòn nặng xuống đầu Khmer Đỏ - chỉ trong vòng 5 ngày, quân đội Việt Nam đã tiến tới thủ đô Phnom Penh. Chế độ Polpot sụp đổ trong thực tế, chừng 10 ngàn cố vấn (quân sự) Trung Quốc bị phía Việt Nam bắt giữ.

    Với cuộc chiến này, Việt Nam muốn tránh việc chạm trán với hai địch thủ cùng một lúc: cuộc chiến ở biên giới Tây Nam với Khmer Đỏ, và sự đối đầu tại biên giới phía Bắc với Trung Quốc, khi đó ngày một trở nên thù địch. Ngày 17-2-1979, các đạo quân Trung Quốc đã khởi chiến với Việt Nam từ bốn hướng. Trận chiến chính diễn ra ở tỉnh Lạng Sơn, dọc đường quốc lộ số 1 (QL1A).

    Một giả thiết khác cho rằng trong giới lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đã diễn ra một số thay đổi: Đặng Tiểu Bình, người được coi là một mưu sĩ dày dạn, lúc đó lên nắm quyền và muốn loại trừ những nhóm Maoist trong quân đội Trung Quốc, và cuộc chiến chống Việt Nam là công cụ cho kế hoạch này. Bắc Kinh khả năng cũng tính đến việc khi khởi động cuộc tấn công, các đạo quân Việt Nam đang tiến nhanh ở Cam Bốt sẽ phải chững lại và như thế, Khmer Đỏ được “rảnh rang” hơn trong quá trình phòng ngự. (Tính đến thời điểm đó, sự kháng cự của Khmer Đỏ tại Cam Bốt đã tan rã trong thực tế, chỉ còn lại những đơn vị nhỏ và biệt lập tiến hành “chiến tranh du kích”). Những mối quan hệ ngày một khăng khít giữa Việt Nam và Liên Xô cố nhiên cũng khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh lo ngại: ở phía Bắc, Trung Nam Hải phải đối đầu với một quân đội lớn mạnh, và phía nam cũng có những lực lượng quân sự giàu kinh nghiệm, có khả năng tác chiến và bảo vệ nước CHXHCN Việt Nam mới được thống nhất).

    Từ Hữu Nghị Quan, chỉ mấy trăm mét thôi là khởi đầu của QL1A, quốc lộ số 1 nổi tiếng gần như xuyên suốt toàn lãnh tổ nước Việt. Đầu thập niên 80 thế kỷ trước, khi tới đó, những khu vực gần ranh giới của QL1A bị ngăn lại theo trí nhớ của tôi. Những cuộc giao tranh, lựu đạn và những bãi mìn do quân Trung Quốc để lại khi rút lui khiến việc đi lại không lấy gì làm an toàn. Tôi nhớ, để tới được địa điểm trao đổi tù binh - đoạn biên giới Việt – Trung -, chúng tôi đã phải đi bộ nhiều cây số theo con đường mòn hiểm trở mà cả hai bên đường là những bãi bom mìn. Bản thân việc trao trả tù binh thì được tiến hành trên con đường lát bê-tông hẹp nối liền hai nước với bề rộng chừng 5m và nham nhở bởi tạc đạn oanh tạc.

    Điều gì đã xảy ra 40 năm trước? Khi đó, chúng tôi có rất ít thông tin về cuộc chiến kéo dài khoảng một tháng của Việt Nam để chống lại quân Trung Quốc. Như đã từng nói, lúc ấy chúng tôi - mặc dù là những phóng viên ngoại quốc ở Hà Nội – cũng không có được thông tin chính xác, chân thực về những tổn thất chiến tranh (hoặc nếu có thì cũng chỉ rất hạn chế). Chẳng hạn, chỉ sau đó nhiều thập niên tôi mới hay, khoảng 10 ngàn người Việt và tối thiểu 30 ngàn người Trung Quốc đã trở thành nạn nhân của cuộc chiến. Nhưng như tôi được biết, những con số này cũng xuất phát từ các nguồn thứ cấp, theo ước tính của Phương Tây. Những nguồn tin bậc một, thời ấy và cả bây giờ cũng vẫn còn khá hạn chế.

    Trung Quốc không có kinh nghiệm trực tiếp về tác chiến vì trận chiến lớn cuối cùng mà binh lính nước này tham dự là vào đầu thập niên 50, khi chừng nửa triệu quân nhân được tung sang Bắc Hàn để bảo vệ chính thể ở đó, trong Lực lượng Chí nguyện quân Nhân dân Trung Hoa.

    Theo khẳng định của những nguồn tin Phương Tây, ví dụ Gerald Chan (NXB Oxford University Press, năm 1989) và tờ tạp chí Mỹ “Military Law Review” (số 119-122), những cuộc trao trả tù binh diễn ra vào tháng 5-6 năm 1979. Từng tham gia không ít cuộc trao đổi tù binh tại biên giới Việt – Trung, kinh nghiệm cá nhân của tôi là tới những năm 1982-1983 cũng còn nhiều đợt trao trả tù binh được tổ chức. Dĩ nhiên, một số tù binh được gọi là biệt kích, đột nhập vào lãnh thổ Việt Nam trong thời kỳ xung đột cường độ thấp, tức là sau những trận chiến ác liệt tháng 2-3 năm 1979. Một vài người còn bị đưa ra tòa ở Hà Nội vì những hành động biệt kích phá hoại. Những vụ án đó có được giới truyền thông Việt Nam tường thuật, vài vụ phóng viên nước ngoài cũng được dự, chí ít là ở phần công khai của phiên xử. Có trường hợp các tù binh Trung Quốc bị kết tội biệt kích phá hoại được giới thiệu riêng cho giới ký giả và các nhân viên ngoại giao nước ngoài.
    Trao trả tù binh tại vùng biên giới còn mùi đạn khói - Ảnh do nhân vật cung cấp

    Đầu thập niên 80 thế kỷ trước, những cuộc chiến ở biên giới hai nước vẫn tiếp diễn, cho dù tháng 3-1979 quân đội Trung Quốc chính thức rút khỏi lãnh thổ Việt Nam. Tại Hà Nội, Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao kết hợp cùng Bộ Tư lệnh quân sự các vùng biên giới thường xuyên tổ chức những chuyến đi làm phóng sự cho nhóm ký giả ngoại quốc làm việc tại thủ đô và các nhà báo địa phương cũng đi cùng.

    Vào thời điểm đó, chỉ có khoảng chục phóng viên nước ngoài làm việc ở Hà Nội, chủ yếu là đến từ các nước XHCN. Duy nhất một phóng viên thường trú Phương Tây được phép tác nghiệp, đó là nhân viên của hãng AFP (Pháp). Đông đảo nhất là các nhà báo Liên Xô. Nhiều phóng viên thường trú của các cơ quan truyền thông như hãng thông tấn TASS, tờ “Sự thật” (Pravda), tờ “Tin Tức” (Izvestia), của hãng thông tấn APN (Novosti)... đều có mặt khi đó.

    Đã có bận tôi ngủ tại một căn cứ của Việt Nam ở vùng biên giới, và đắp lên người bằng tấm đệm nhàu nát, cũ kỹ và không lấy gì làm mềm mại, hệt như các chàng “bộ đội” (tác giả viết bằng tiếng Việt - ND). Từ đó, chúng tôi đi bằng xe quân sự, khi tới gần biên giới thì xuống đi bộ xem tình hình thế nào. Người dẫn đoàn chỉ cho chúng tôi thấy những hố sâu trên đồng ruộng hoặc vườn cây do tạc đạn gây ra bởi pháo binh Trung Quốc bắn từ bên kia biên giới.

    Bản thân tôi cũng đã từng phục vụ trong binh chủng pháo binh thập niên 50 tại Hungary, do đó tôi có biết về các loại lựu đạn, các vũ khí của pháo binh và tác động của chúng. Tạc đạn công phá tạo thành những hố, có chỗ sâu tới nửa thước, thành hố ám khói xám. Có những hố còn bốc khói khi chúng tôi tới gần.

    Họ thường bắn từ bên kia biên giới, người dẫn đoàn cho chúng tôi hay, bằng loại đại liên 12,7mm của Liên Xô mà cả quân đội Trung Quốc lẫn Việt Nam đều sử dụng với cái tên được ưa chuộng là DShK. Tôi được biết là trong mọi trường hợp, biên phòng Việt Nam đều có “hồi âm” thích hợp và “tương xứng” sang phía bên kia. Trong thực tế, mục đích duy nhất của việc pháo binh Trung Quốc nã súng từ bên kia biên giới sang lãnh thổ Việt Nam là để quấy nông dân Việt làm việc ở vùng biên, trên những cánh đồng trồng lúa.

    Thời gian 1981-1984 tôi làm việc ở Việt Nam trên cương vị phóng viên thường trú tại Hà Nội của Hãng Thông tấn Hungary MTI và nhật báo “Tự do Nhân dân” (Népszabadság). Nhiều lần tôi đã đi suốt QL1A, đa phần là đoạn từ Hà Nội tới TP. Hồ Chí Minh (tức Sài Gòn). Khi đó còn chưa có các chuyến bay thường kỳ giữa Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, do vậy thông thường tôi hay đi xe trên con đường này (thời kỳ đầu là một chiếc Zhiguli 1200 của Liên Xô, sau đó, khi Trung tâm ở Budapest cho thêm tiền, tôi có thêm một chiếc Toyota Corona). Đi mất hai ngày, thường tôi ngủ đêm lại Đà Nẵng. Có lẽ tôi là phóng viên Hung đi lại nhiều nhất ở Việt Nam bằng xe hơi. Do đó, tôi đã đặt tên cho cuốn sách của mình là “Một trăm ngàn cây số tại Việt Nam” (“Százezer kilométer Vietnamban”, sách do NXB Kossuth ấn hành năm 1985).

    Sau cuộc chiến biên giới thắng lợi, Việt Nam trải qua những năm tháng yên bình hơn, dân tộc phải chịu quá nhiều khổ đau này xứng đáng được hưởng điều đó. Thời kỳ tôi ở Việt Nam, đất nước này đang tìm đường trong kinh tế: làm sao xây dựng được một thứ CNXH nào cho phù hợp với những hoàn cảnh đã đổi thay, Đảng Cộng sản làm sao lãnh đạo trong tình cảnh mới, phải nhường bước đến đâu cho những lợi ích (lợi nhuận) cá nhân, làm sao tổ chức lại nền nông nghiệp mà khi đó có lẽ là ngạch kinh tế quan trọng nhất.

    Từ dạo đó, tôi vẫn chú tâm tới sự phát triển của Việt Nam và rất vui mừng với sự phát triển ngoạn mục mà nước này đã đạt được. Hồi đầu thập niên 80, sau cuộc chiến với người Mỹ và Trung Quốc, có thể nhận thấy Việt Nam kiệt quệ ghê gớm. Đất nước nghèo khó khủng khiếp! Người dân gày gò vô cùng, ngay tại thủ đô cũng có nhiều người chết vì đói khổ thiếu thốn. Thuốc men cũng hiếm, người dân bị nhiều căn bệnh do chế độ dinh dưỡng ít ỏi và thiếu đa dạng, ví dụ bệnh tê phù Beriberi do thiếu vitamin B1 vì khẩu phần ăn vô cùng ít, chủ yếu chỉ có cơm. Thịt rất hiếm và rất đắt đỏ so với mức lương thời đó.

    Tôi cảm thấy hổ thẹn trước người dân Việt chịu nhiều khổ đau vì tôi có nhà, có ăn và có xe cộ để đi lại. Hồi ấy có hai khách sạn lớn ở Hà Nội, cả hai đều dành cho người nước ngoài ở thường xuyên (chủ yếu là giới ký giả và nhân viên các đại diện thương mại). Tôi được ở tầng trên cùng (tầng ba) của khách sạn Thống Nhất nằm ở ngay trung tâm Hà Nội, trong một căn hộ hai phòng và có cả nhà bếp. Khách sạn ấy, giờ đây đã trở nên rất được ưa chuộng trong một nhóm nhỏ, ở địa chỉ 15 phố Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm.

    Ở ngã tư nơi giao lộ giữa Hai Bà Trưng và Ngô Quyền, chúng tôi mua bánh mỳ Pháp loại dài một gang tay tại hàng bánh thắp đèn dầu của một phụ nữ luôn ngồi xổm cạnh bờ tường. Dạo đó bột làm bánh cũng tệ, đầy bọ và tất nhiên khi nướng lên thành chiếc bánh thơm ngon rồi thì vẫn thấy những con bọ đó. Khách từ Châu Âu hay Budapest qua, chúng tôi thường mời họ ăn loại bánh này, nhìn chung là rất ngon và hơi có vị dầu hỏa, chúng tôi trấn an khách rằng hạt thì là Tây đấy…

    Tôi có được nghe rằng giờ ở nơi từng là khách sạn Thống Nhất, đã có một khách sạn hoàn toàn mới được xây, nhưng vào thời tôi ở thì Thống Nhất còn giữ được vẻ bề ngoài ban đầu, cho dù nó đã rất tồi tàn và ở trạng thái cần tu sửa. Chúng tôi luôn lo ngại rằng những xà gỗ một lúc nào đó sẽ bốc cháy. Cũng tại đây, phóng viên AFP đã ở cùng vợ, anh ta là nhà báo Phương Tây duy nhất mà Việt nam cho phép tác nghiệp thời đầu thập niên 80. Cho dù khách sạn này đã trở thành một phần của lịch sử. Charlie Chaplin đã cùng Paulette Goddard hưởng tuần trăng mật tại đây. Somerset Maugham cho ra đời “Quý ông trong phòng trọ” (The Gentleman in the Parlour) giữa bốn bức tường của tòa nhà này. Năm 1951, Graham Greene khi viết “Một người Mỹ trầm lặng”, cũng ở khách sạn này. Và cũng ở một phòng nào đó của Thống Nhất, thời kỳ diễn ra cuộc chiến Việt – Mỹ, Jane Fonda khi đó bị phe cánh hữu bảo thủ gọi bằng cái tên châm chọc là “Hà Nội – Fonda” đã từng nghỉ chân ở đây. Chúng tôi, như đã nói, ở tầng 3 trong một căn hộ 2 phòng và có nhà bếp riêng, thời đó như thế là rất sang trọng. Dạo ấy, khách sạn Thống Nhất vẫn có điện khi tại các con phố lân cận, điện bị cắt một thời gian để tiết kiệm hoặc do thiết bị quá tải.

    Văn phòng ký giả của tôi ở tầng trệt phía cánh phải của khách sạn Thống Nhất. Tôi có một chiếc máy telex cũ rích của Mỹ, nếu tôi nhớ không nhầm thì là nhãn hiệu Westinghouse, và gửi các phóng sự về Budapest qua chiếc máy đó. Bao giờ tôi cũng phải liên lạc trước với trung tâm telex để họ cho tôi “đường dây” về Budapest. “Dear, pls give me a line to Budapest”, tôi viết như vậy với người thường trực đáng mến người Việt ở đường dây bên kia, mà tôi cho là phụ nữ. Vài phút sau, khi có “đường dây”, máy bắt đầu vận hành, tôi cài bài viết đã được ghi ra băng (chính xác hơn là đã được đục lỗ) và ở bên kia, tại Budapest, các bản tin của tôi đã được đọc.

    Tôi học được hai câu ngắn tiếng Việt đầu tiên. Câu đầu được các bạn Việt Nam dạy cho tôi trong những chuyến đi ven biên giới phía Bắc: “Có mìn” (tác giả viết bằng tiếng Việt - ND). Hai từ đó được viết bằng phấn lên những tấm bảng con đặt ở nhiều nơi, cảnh báo về một nguy hiểm chết người. Điều đó có nghĩa là tôi chỉ được đi trên con đường đất hẹp đã được vạch ra, vì nếu rời khỏi đó, có thể dẫm phải mìn của Trung Quốc thời 1979, hoặc thậm chí do người Mỹ ném từ máy bay thời kỳ trước đó.

    Câu thứ hai mà tôi học thuộc là “Không có điện”. Thời gian đó, đây có lẽ là câu nói được nhắc tới nhiều nhất mà tôi nghe từ Kiêm, người phiên dịch xuất sắc, người bạn của tôi mà từ ấy, tôi vẫn nghĩ đến anh với tình cảm thương mến. Anh đã giúp tôi rất nhiều, về mặt con người và chuyên môn. Sau này Kiêm chuyển sang Budapest sinh sống, gia đình anh một phần ở lại Việt Nam, tình bạn của chúng tôi sau nhiều thập niên vẫn được giữ gìn. Ở Budapest, tôi có dịp tham dự lễ cưới của con gái anh tại một nhà hàng Việt, cô dâu kết hôn với một chàng trai Hung.

    Ở Budapest và Hungary trong vòng 5 năm gần đây, ẩm thực Việt Nam trở nên rất được ưa chuộng. Tôi biết hàng tá quán ăn Việt, nơi có thể thưởng thức các món phở bò, phở gà, bò xào... (tác giả viết bằng tiếng Việt - ND) rất ngon. Trong những năm tháng làm việc ở Việt Nam, phở là món ăn chính của tôi, đặc biệt là khi tôi đi xe hơi khắp đất nước, làm các phóng sự dọc theo quốc lộ số 1. Tôi còn nhớ khi vừa ra khỏi miền Nam, từ Đông Hà ra phía Bắc qua con sông Bến Hải ngăn cách hai miền Nam - Bắc một thời ở vĩ tuyến số 17, trước khi tới Đồng Hới, sau khoảng 20 cây số tính từ con sông biên giới, phía bên trái đường có dãy quán nhỏ làm bằng lá dừa, tại đó phở được nấu nóng bỏng ngày đêm trong những chiếc nồi đen khổng lồ. Giới tài xế xe tải lai vãng chặng Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh bình chọn phở ở đây ngon nhất Việt Nam!

    Những tài xế đó làm việc nhiều không thể tả nổi. Khi tôi đi xe Zhiguli từ Bắc vào Nam và tới thị trấn Cửa Việt tại phía Nam của vĩ tuyến 17, khi ấy cây cầu bị bom oach tạc vẫn chưa được phục hồi, tôi luôn phải chờ đợi nhiều tiếng đồng hồ cho tới khi chưa tìm thấy một tài xế xe tải nào cho chiếc Zhiguli của tôi lên khoang phía sau, tất nhiên là cần trả tiền thích đáng. Bởi lẽ xe nhỏ, không thể qua con sông sóng cuộn, đôi khi sâu tới mét rưỡi bởi những cơn lũ mùa xuân.

    Tôi không phải là người duy nhất làm như thế. Khoảng thời gian ấy, những người đi ôtô chặng Hà Nội – Sài Gòn (viên chức nhà nước, nhân viên các công ty, vì dạo đó hầu như không có xe hơi cá nhân) đều chọn cách đó cả. Xe tải đậu cạnh một gò đất nhỏ và chiếc Zhiguli bò lên phần sau của nó vốn được dùng để chở hàng. Khi sang tới bên kia sông thì quá trình này lại diễn ra theo chiều ngược lại. Ngay cả những nông dân đi bộ - trong số đó nhiều người mặc áo tơi và đội nón để chống mưa – cũng bám vào và trèo lên xe tải để vượt sông.

    Không bao giờ tôi quên được 4 năm ở Việt Nam, cho dù điều kiện sống ở đó là khắc nghiệt nhất. Về sau, tôi còn làm phóng viên thường trú ở nhiều nơi khác, trong số đó có Moscow, Bắc Kinh, Berlin và vài chục nước trên thế giới như ở Mỹ, Cận Đông... nhưng Việt Nam vẫn đóng vai trò đặc biệt trong đời tôi và sự nghiệp chuyên môn của tôi. Hà Nội là chuyến tác nghiệp dài đầu tiên ở nước ngoài của tôi, và Việt Nam từ ấy vẫn có vị trí đặc biệt trong trái tim tôi.

    Nguyễn Hoàng Linh giới thiệu và dịch từ nguyên bản tiếng Hungary

    http://nhipcauthegioi.hu/lich-su/HOI...1979-6062.html
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Nhìn lại chiến tranh Việt - Trung (Phần 1): CHUYỆN TRAO TRẢ TÙ BINH VIỆT - TRUNG

    Thứ hai - 17/02/2014 00:12


    (NCTG) “Trong vụ trao đổi tù binh này có một tấn tuồng gì đấy mang tính kỳ quặc và buồn bã. Nhiều tù binh Trung Quốc, khi vừa bước qua biên giới, đã quẳng ngay túi quà với động tác ngoạn mục. Cứ mỗi người như thế lại có hai y tá mặc áo choàng trắng tiến đến gần, ôm lấy, dìu đi như thể bị ốm nặng - mặc dù họ hoàn toàn khỏe mạnh, được ăn uống đầy đủ, và đây là điều mà không phải mọi người Việt đều có được trong những thời gian đói kém ấy” - hồi ức của nhà báo Hungary Dunai Péter.




    Ký giả Duna Péter cùng phu nhân trong Tết Cộng đồng Xuân Giáp Ngọ - Ảnh: Trần Lê


    Lời giới thiệu: Dunai Péter, tác giả cuốn sách về Việt Nam “Một trăm ngàn cây số tại Việt Nam” (Százezer kilométer Vietnamban, NXB Kossuth 1986), từng là phóng viên thường trú ở Việt Nam của nhật báo “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) và của Hãng Thông tấn Hungary MTI.

    Ông là một nhà báo tài ba, đã từng khẳng định mình ở cả Moscow và Tây Đức, theo nhận định của cựu Đại sứ Hungary tại Việt Nam Szász Dénes, người có vợ Việt và nói, đọc thạo tiếng Việt, cũng như đã có nhiều năm làm việc cùng Dunai Péter tại Hà Nội.

    Bài viết hai phần sau đây của Dunai Péter nằm trong loạt hồi tưởng viết riêng cho NCTG về những năm, tháng ở Việt Nam, kèm những nhận định, phân tích trên cương vị một nhà báo, đồng thời cũng là chuyên gia tư vấn và nghiên cứu về các vấn đề quân sự và an ninh.

    Trong bài viết, Dunai Péter đả động tới cuộc chiến xâm lược Việt Nam năm 1979 do chính quyền Trung Quốc khởi động, thông qua một số sự việc mà ông có dịp tận mắt chứng kiến, trên tư cách một trong số không nhiều ký giả nước ngoài tại Việt Nam thời đó.

    Chân thành cám ơn nhà báo Dunai Péter đã gửi bài kèm những tấm ảnh tư liệu quý báu cho NCTG. Trân trọng giới thiệu với độc giả!



    Tác giả (giữa) trong một cuộc trao đổi tù binh. Ảnh chụp vào mùa đông năm 1982 tại biên giới Việt - Trung. Sau lưng nhà báo Dunai Péter là phía Trung Quốc. Cạnh tác giả là nhà báo Terzieff, phóng viên Hãng Thông tấn Bulgaria BTA - Ảnh do nhân vật cung cấp



    Ba mươi lăm năm trước, đúng vào những ngày này, đã nổ ra đụng độ vũ trang giữa Việt Nam và Trung Quốc (Chiến tranh biên giới Việt-Trung*), mà chúng ta có thể bình tâm gọi là “chiến tranh”. Vào ngày 17-2-1979 Trung Quốc đã huy động một lực lượng quân sự khổng lồ (theo các nguồn tin Phương Tây gồm 9 quân đoàn, 3 đại quân khu (phương diện quân) và vài chục sư đoàn, cùng lực lượng không quân) để tấn công nước láng giềng Việt Nam.

    Nhiều sử gia gọi sự kiện này là cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba (sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc chiến đấu chống Mỹ và các đồng minh).

    Tuy nhiên, những kẻ tấn công đã gặp phải một đối thủ đáng gờm. Quân đội Việt Nam trưởng thành và thu được nhiều kinh nghiệm trong những cuộc chiến giành độc lập dân tộc trước quân đội Mỹ và chính quyền miền Nam, và những kinh nghiệm ấy đã được nhân lên trong cuộc chiến chống lại những đợt tấn công của kẻ thù phương Bắc.


    Xin được ghi lại trong vài dòng những hồi tưởng của tôi liên quan tới cuộc chiến này. Tôi đến Việt Nam đầu năm 1981 trên cương vị phóng viên chung của nhật báo “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) và Hãng Thông tấn Hungary MTI, khi những cuộc chiến ác liệt đã khép lại. Cũng như những người “tiền nhiệm”, tôi dự định sẽ ở Việt Nam trong vòng 1 năm, nhưng rồi khoảng thời gian này đã kéo dài gần 4 năm.


    Tôi đã yêu đất nước và con người Việt Nam. Cho dù thời kỳ đó người dân Việt Nam phải trải qua một giai đoạn hết sức khó khăn. Sau những cuộc chiến dài nhiều thập kỷ chống thực dân Pháp và đế quốc Nhật, cuộc chiến hơn mười năm chống lại quân đội Mỹ và đồng minh Nam - Việt Nam của họ khiến người dân Việt Nam hết sức kiệt quệ cả về lực lẫn kinh tế. Trong tình trạng suy kiệt ấy, Việt Nam đã bị tấn công từ phương Bắc.


    Tôi có nhiều dịp tới vùng biên giới phía Bắc giữa Việt Nam và Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam thường xuyên tổ chức những chuyến đi tới vùng biên giới cho nhóm phóng viên ngoại quốc chỉ có vỏn vẹn vài người lúc đó đang ở Hà Nội. Lần nào tôi cũng tham gia những chuyến đi đó, một phần vì rất thú vị khi được thấy một miền quê ở khu vực mà một nhà báo không thể tới được theo cách khác, mặt khác, tôi được thúc đẩy bởi động lực vĩnh cửu của một phóng viên: tôi cần phải ở đó, bằng không nếu xảy ra điều gì quan trọng mà tôi lại chậm chân thì...


    Tôi là đại diện duy nhất của báo chí Hungary. Tôi đi xe riêng tới Lạng Sơn, nhưng từ đó thì Bộ Ngoại giao Việt Nam hoặc quân đội bố trí cho nhóm phóng viên phương tiện di chuyển, xe buýt hoặc Jeep và nhóm hộ tống có vũ trang. Chúng tôi đi lên phía Bắc, về phía biên giới, qua những xóm làng bị đạn bom tàn phá hoang tàn, những vùng cư dân không còn bóng người.


    Đồng Đăng là thị trấn lớn cuối cùng mà chúng tôi đi qua, đau lòng vô cùng khi thấy một thành phố chết chìm trong đổ nát. Những đạo quân Trung Quốc khi rút lui đã cho nổ hết nhà cửa, tiêu hủy tất cả những gì có thể ích lợi với cư dân: các toa tàu hỏa, đường ray, thiết bị trong nhà máy, đường xá, kênh đào...


    Khi không còn đường cho xe đi đi, chúng tôi xuống xe và tiếp tục đi bộ cho đến biên giới - đôi lúc, đấy chỉ là những đường mòn hẹp tới mức chúng tôi phải đi theo hàng một. Xung quanh chúng tôi là khu vực đã được rà mìn. Cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ rằng đâu đâu cũng có dòng chữ “Có mìn” viết trên đá và những tấm biển nhỏ, cảnh báo những nơi chưa được rà mìn.


    Cần phải tuân thủ nghiêm túc lời cảnh báo này - chúng tôi đã ý thức được qua một trường hợp buồn bã. Một bận, khi chúng tôi đi qua một đường mòn hẹp để tới đoạn biên giới Việt - Trung diễn ra trao trả tù binh, một tiếng nổ và khói mù mịt bay lên trong khu rừng rậm khiến bầy chim đang lượn trên những ngọn cỏ cao tới đầu người phải hoảng hốt.


    Cả đoàn người sững lại, chỉ về sau chúng tôi mới biết điều gì đã xảy ra. Sau chúng tôi là nhóm tù binh Trung Quốc gồm 50-60 người đang đi tới điểm trao trả. Có thể là một tù binh, dù đã bị cấm, nhưng ngại tiểu tiện trước mặt những kẻ khác, đã đi thêm vào bước vào rừng, đến khu vực cấm. Anh ta dẫm lên một trái mìn, mìn nổ khiến anh ta cụt bàn chân. Không chết nhưng người tù binh này cũng bị thương nặng.



    Một tòa nhà xây năm 1976 tại Cao Bằng, bị quân đội Trung Quốc san bằng trong cuộc chiến xâm lược 1979 - Ảnh do nhân vật cung cấp

    Bản thân việc trao đổi tù binh diễn ra theo một nghi thức nghiêm ngặt do hai bên tham chiến ấn định. Tại đây đường biên giới được biểu tượng bởi một vạch vôi màu trắng, có bề rộng bằng mu bàn tay, được quét hình chữ thập lên con đường rải bê-tông rộng chừng 5m, là nơi được tránh mọi mũi tên hòn đạn và mìn nổ. Các bạn Việt Nam lưu ý chúng tôi bằng mọi giá đừng có bước lên đường biên, vì sẽ có cớ để bên kia coi như một sự khiêu khích.


    Tiến đến gần biên giới, chúng tôi liếc nhìn thấy những người Hoa. Ở hai bên của con đường, các quân nhân có vũ trang đứng làm hai hàng, trước họ là một người có vẻ như quan chức ngoại giao vận áo kiểu Tôn Trung Sơn, bên cạnh người này là một nhóm ký giải, phóng viên ảnh đang nhộn nhạo chuẩn bị máy quay.

    Thời đó còn chưa có - ít nhất là tại Việt Nam và Trung Quốc - loại máy quay cầm tay đa chức năng TV - máy quay - đầu phát video - mà người quay phim ở cả hai bên đều dùng máy quay chạy bằng pin, hoặc loại “lên dây” bằng lò xo. Cả hai bên đều rất hăng hái chụp ảnh lẫn nhau, cố nhiên lý do không đơn thuần chỉ là sự tò mò của các nhà báo.

    Trong hồ sơ lưu trữ của cơ quan quân báo Trung Quốc có thể cũng có vài chục tấm ảnh chụp tôi thời đấy. (Dầu sao, hơn chục năm sau, khi tôi đã chuyển sang Bắc Kinh trên cương vị phóng viên thường trú của “Tự do Nhân dân”, chưa bao giờ có viên chức Trung Quốc nào bảo tôi “thưa ngài, chúng tôi đã thấy ngài ở bên kia biên giới phía Nam, bên Việt Nam”. Nói thêm là đến lúc đó các mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã được bình thường hóa...).


    Trở lại năm 1981. Tại biên giới phía bên Việt Nam, một sĩ quan Quân đội Nhân dân đứng lên và đọc một bài đã được viết sẵn, rồi các tù binh Trung Quốc, từng người một, đi sang phía bên kia biên giới. Tất cả đều mặc bộ quần áo giản dị và sạch sẽ màu xanh xám, mỗi người cầm một túi nhỏ, bên trong là những món quà.


    Trong vụ trao đổi tù binh này có một tấn tuồng gì đấy mang tính kỳ quặc và buồn bã. Nhiều tù binh Trung Quốc, khi vừa bước qua biên giới, đã quẳng ngay túi quà với động tác ngoạn mục. Cứ mỗi người như thế lại có hai y tá mặc áo choàng trắng tiến đến gần, ôm lấy, dìu đi như thể bị ốm nặng - mặc dù họ hoàn toàn khỏe mạnh, được ăn uống đầy đủ, và đây là điều mà không phải mọi người Việt đều có được trong những thời gian đói kém ấy.


    Rồi sau đó đến lượt tù binh Việt Nam được trao trả từ phía Trung Quốc. Những người lính Việt cũng mặc đồng phục sạch sẽ, tay cầm túi quà, nhưng không cư xử hề như một bộ phận tù binh Trung Quốc. Ở phía Việt Nam, một sĩ quan trong Ủy ban đón tiếp ôm chầm lấy từng người, nói “các đồng chí đã trở về quê hương”, rồi những người này lặng lẽ lùi ra sau để nhường chỗ cho người khác.

    Mỗi cuộc trao đổi tù binh như thế kéo dài không quá một tiếng rưỡi. Sau đó chúng tôi quay trở lại cũng trên con đường mòn chật hẹp ấy để trở lại xe, đi qua thị trấn Đồng Đăng bị tàn phá tan hoang đượm buồn, qua các làng bản và rồi một lát đã về tới Lạng Sơn.

    (*) Tác giả viết bằng tiếng Việt trong nguyên bản tiếng Hungary.


    Xem Phần 2 của bài viết.


    Nguyễn Hoàng Linh dịch và giới thiệu - Còn tiếp
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  3. #3

    Mặc định

    Nhìn lại chiến tranh Việt - Trung (Phần 2): VÀI KÝ ỨC CỦA MỘT PHÓNG VIÊN

    Thứ tư - 17/02/2016 19:01



    (NCTG) “Khỏi phải nói là ở tại tòa đại sứ Trung Quốc, tôi được chiều chuộng hết cỡ: được xem phim, mời ăn những món tuyệt vời và còn được tắm trong một bể bơi nước sạch tinh tươm - một thanh niên người Hoa vạm vỡ còn thách tôi thi bơi” - một câu chuyện thú vị của nhà báo Dunai Péter, phóng viên thường trú ở Việt Nam của nhật báo “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) và của Hãng Thông tấn Hungary MTI.



    Các phóng viên báo chí chứng kiến sự trao trả tù binh tại biên giới Việt - Trung - Ảnh: Dunai Péter




    Sau xung đột nghiêm trọng ở vùng biên giới tháng 4-1984, các bạn Việt Nam đưa giới phóng viên chúng tôi đến một đoạn khác của biên giới, tại đây chúng tôi có thể quan sát hoạt động của một trung đội biên phòng Việt Nam. Chương trình này kéo dài nhiều ngày, chúng tôi ngủ tại một doanh trại quân đội ở một xã nhỏ cạnh Lạng Sơn. Bộ đội Việt Nam cho chúng tôi mượn chăn vì ở vùng đó, về đêm nhiệt độ xuống gần 0 độ, mà độ ẩm lại cao nên rất khó chịu.


    Một số chiến sĩ thuộc trung đội luyện các bài chiến thuật - tiếp cận mục tiêu ẩn. Được trang bị súng trường AK-47, tận dụng địa thế không bằng phẳng, họ bò sát đất để đến gần mục tiêu.

    Trên sườn đồi nhìn về phía Trung Quốc (phía Bắc), tọa lạc hệ thống hào công sự ngoằn ngoèo, cứ một đoạn lại có cứ điểm đặt súng máy: đó là loại đại liên DShK 12,7 ly của Liên Xô, được gọi bằng cái tên “Dushka”. Đối diện với nó, trên những cánh đồng thuộc lãnh thổ Trung Quốc, nông dân vẫn làm việc, trồng lúa, họ cũng di chuyển nhịp nhàng hệt như những người Việt cùng số phận với họ.


    Cuộc chiến biên giới rộ lên năm 1979, nhưng sau giai đoạn đầu đó xung đột quân sự giữa đôi bên vẫn âm ỉ trong nhiều năm dài. Các bạn tháp tùng tôi nói rằng thỉnh thoảng, Trung Quốc lại bắn từ phía họ sang lãnh thổ Việt Nam, họ dùng cả đại liên và đại bác - cố nhiên Việt Nam cũng không chịu để yên.

    Thời trước tôi từng là lính pháo thủ, nên tôi có thể nhận ra dấu vết của tạc đạn loại 122 ly trên đồng ruộng bên Việt Nam, cách xa biên giới nhiều cây số. Pháo binh Trung Quốc dùng loại đạn nổ ngay khi tiếp đất, do đó nó tạo nên những “miệng núi lửa” đen xì đường kính 60-80cm, nhưng mảnh đạn của nó thì có thể oanh tạc người và động vật trong vòng 50-70m.


    Những dư chấn của cuộc chiến Việt - Trung cũng có ảnh hưởng tới chúng tôi, giới phóng viên ở Hà Nội. Cho dù nhóm ký giả quốc tế này có nhỏ bé thế nào đi nữa, nhưng tại đó cũng có sự hiện diện của hãng tin Pháp AFP (và tờ “Nhân đạo”, l’Humanité), độc nhất trong số các hãng truyền thông lớn của Phương Tây.

    Khi đó, tại Hà Nội, tòa đại sứ Trung Quốc vẫn hoạt động như một thế giới vô cùng khép kín. Đối với Bắc Kinh, quan trọng là họ đảm bảo được “thiện cảm” của giới phóng viên. Một bận, họ mời các phóng viên ngoại quốc tới Đại sứ quán Trung Quốc. Không phải tất cả đều nhận lời, nếu tôi nhớ không nhầm thì vài người, trong số đó có nhóm phóng viên Liên Xô - nhóm đông đảo nhất - đã từ chối.

    Tôi thì đi, vì tôi là nhà báo, nhiệm vụ của tôi là phải thu nhập được thông tin một cách rộng rãi nhất trong phạm vi có thể. Khỏi phải nói là ở tại tòa đại sứ, tôi được chiều chuộng hết cỡ: được xem phim, mời ăn những món tuyệt vời và còn được tắm trong một bể bơi nước sạch tinh tươm - một thanh niên người Hoa vạm vỡ còn thách tôi thi bơi.



    Lai Châu bị tàn phá ghê gớm - Ảnh: Dunai Péter



    Cuộc chiến Việt - Trung 1979 (còn được gọi là cuộc chiến Đông Dương thứ ba) có mối quan hệ gì với chính trường thế giới? Trung Quốc, như họ muốn, muốn “cho Việt Nam một bài học” vì nước này vào năm 1978 đã khởi quân chống thể chế diệt chủng Pol Pot ở Cam Bốt, vốn được Bắc Kinh bảo trợ.

    Họ chỉ chờ thời, và thời cơ tới khá nhanh: đầu năm 1979, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã sang thăm Hoa Kỳ để có được sự ủng hộ ngầm của Washington. Nếu không có được điều đó, khả năng là sau đó sáu tuần Bắc Kinh đã không dám hủy bỏ Hiệp ước Hữu nghị với Liên Xô, và hai ngày sau thì mở một cuộc tấn công quân sự trên bộ đối với Việt Nam với một sức mạnh chưa từng thấy ngay cả trong những năm diễn ra cuộc chiến Việt - Mỹ.

    Bắc Kinh, khí đó cũng mới chỉ ra khỏi thời kỳ “cách mạng văn hóa” đẫm máu và để lại sự tàn phá ghê gớm, nghi rằng đằng sau sự trợ giúp của Việt Nam đối với nhân dân Cam Bốt là dụng ý của Moscow, nhằm cô lập hóa Trung Quốc. Tất nhiên vào dạo ấy điện Kremlin cũng có đủ vấn đề phải lo nghĩ, vì Liên Xô đang bên bờ vực thẳm của sự sụp đổ về kinh tế.

    Cuộc chiến với Hoa Kỳ về công nghệ, được đẩy lên cực điểm trong cuộc chạy đua quân sự mang tên “Chiến tranh giữa các vì sao” của Ronald Reagan, rốt cục đã khiến Liên bang Xô-viết sụp đổ. Trung Quốc có thể an tâm, rằng trong một thời gian dài Moscow sẽ không đe dọa họ về quân sự, và gần như đồng thời với sự tan rã của đế chế này, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc được bình thường hóa.


    Vào thời điểm các sự kiện kể trên xảy ra - cách đây cũng đã hơn 35 năm -, Hoa Kỳ còn chưa có đại diện ngoại giao tại Hà Nội. Nếu ai đó nói với tôi, một phóng viên nước ngoài ở Hà Nội năm 1981, “cậu sẽ thấy, vài thập niên nữa USA sẽ là đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam”, khả năng là tôi sẽ phì cười. Điều đó giờ đã là một thực tế...



    Nguyễn Hoàng Linh dịch từ nguyên bản tiếng Hungary
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  4. #4

    Mặc định

    NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ CUỘC CHIẾN TRUNG - VIỆT DƯỚI CON MẮT MỘT KÝ GIẢ HUNGARY

    Thứ sáu - 17/02/2017 20:57



    (NCTG) Nhà báo kỳ cựu Hungary Dunai Péter, từng là phóng viên thường trú tại Việt Nam của nhật báo lớn nhất Hung “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) và Hãng Thông tấn Hungary MTI trong thời kỳ 1981-1984, đã gửi cho NCTG chùm ảnh tư liệu quý về cuộc chiến biên giới khởi đầu ngày 17-2-1979.



    Tác giả (giữa) trong một cuộc trao đổi tù binh. Ảnh chụp vào mùa đông năm 1982 tại biên giới Việt - Trung. Sau lưng nhà báo Dunai Péter là phía Trung Quốc. Cạnh tác giả là nhà báo Terzieff, phóng viên Hãng Thông tấn Bulgaria BTA


    Dunai Péter là một nhà báo tài ba, đã “từng khẳng định mình ở cả Moscow và Tây Đức”, theo nhận định của cựu Đại sứ Hungary tại Việt Nam Szász Dénes, nhà ngoại giao có vợ Việt và nói, đọc thạo tiếng Việt, cũng như đã có nhiều năm làm việc cùng nhà báo Dunai Péter tại Hà Nội.

    Ông cũng là tác giả cuốn sách về Việt Nam “Một trăm ngàn cây số tại Việt Nam” (Százezer kilométer Vietnamban), do NXB Kossuth ấn hành năm 1986. Hiện đã nghỉ hưu, nhưng Dunai Péter vẫn làm việc trên cương vị chuyên gia tư vấn và nghiên cứu về các vấn đề quân sự và an ninh.


    Là một thân hữu của NCTG, ông đã viết riêng cho báo những hồi tưởng về cuộc chiến xâm lược Việt Nam năm 1979, thông qua một số sự việc mà ông có dịp tận mắt chứng kiến, trên tư cách một trong số không nhiều ký giả nước ngoài tại Việt Nam thời đó (Xem Phần 1Phần 2 của bài viết).


    Chùm ảnh tư liệu sau mà Dunai Péter cung cấp cho NCTG được thực hiện trong những chuyến tác nghiệp của ông tới vùng biên giới phía Bắc do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức cho nhóm phóng viên ngoại quốc chỉ có vỏn vẹn vài người lúc đó đang ở Hà Nội, mà ông là nhà báo Hung duy nhất.



    Các phóng viên báo chí chứng kiến sự trao trả tù binh tại biên giới Việt - Trung


    Trong những chuyến đi đó, Dunai Péter có dịp chứng kiến những khổ đau mà người dân Việt Nam phải gánh chịu bởi cuộc chiến xâm lược của Trung Cộng. Ông đã ghi lại được hình ảnh về những xóm làng bị đạn bom tàn phá hoang tàn, những vùng cư dân không còn bóng người và chìm trong đổ nát.

    Theo lời ông kể lại, Đồng Đăng là thị trấn lớn cuối cùng mà nhóm phóng viên nước ngoài đi qua. Những đạo quân Trung Quốc khi rút lui đã cho nổ hết nhà cửa, tiêu hủy tất cả những gì có thể ích lợi với cư dân: các toa tàu hỏa, đường ray, thiết bị trong nhà máy, đường xá, kênh đào...

    Khi không còn đường cho xe đi đi, các nhà báo xuống xe và tiếp tục đi bộ cho đến biên giới, nhiều khi phải theo những đường mòn hẹp tới mức phải đi theo hàng một, và xung quanh là khu vực đã được rà mìn. Đâu đâu cũng có dòng chữ “Có mìn” viết trên đá cảnh báo những nơi chưa được rà mìn.


    Đặc biệt, Dunai Péter là một trong số ít những ký giả ngoại quốc tại Việt Nam thời đó có dịp mục sở thị​ những vụ trao đổi tù binh, mà ông có viết lại kỹ lưỡng trong bài viết cho NCTG, và còn giữ lại những tấm ảnh quý trong loạt ảnh sau đây. Trân trọng giới thiệu tới độc giả NCTG! (NCTG)

















    NCTG
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  5. #5

    Mặc định

    MẠN ĐÀM VỚI NHÀ BÁO HUNGARY VỀ CUỘC CHIẾN 1979

    Thứ hai - 25/02/2019 04:32


    (NCTG) Hơn 60 thành viên của cộng đồng Việt Nam tại Hungary đã có mặt trong buổi gặp gỡ, mạn đàm và giao lưu cùng nhà báo Hungary, ông Dunai Péter, do báo NCTG cùng một số bạn hữu tổ chức tại Nhà hàng Vin.Vin (Quận 13, Budapest).



    (Từ trái sang) Ông Márton Váraljai, ông Trần Đình Kiêm và ký giả Dunai Péter trong buổi giao lưu


    Buổi gặp mặt diễn ra trong bối cảnh Việt Nam hồi tưởng 40 năm cuộc chiến biên giới Việt - Trung (1979-2019). Là một nhà báo Hungary nổi tiếng, ký giả Dunai Péter thời kỳ 1981-1984 là một trong số hiếm hoi các ký giả ngoại quốc có dịp nhiều lần lên biên giới phía Bắc tác nghiệp, và được tận mắt chứng kiến những hậu quả tàn khốc của cuộc chiến.


    Trên cương vị phóng viên thường trú của “Tự do Nhân dân” (Népszabadság), tờ nhật báo lớn nhất của Hungary một thời, và của Hãng Thông tấn Hungary MTI, Dunai Péter là nhà báo Hungary đầu tiên có điều kiện làm việc tại Việt Nam với nhiệm kỳ công tác quá 1 năm, và tới giờ ông vẫn giữ nguyên những ấn tượng và tình cảm sâu đậm với mảnh đất này.



    TS. Phạm Khuê (giữa) giới thiệu ông Bakos Ferenc, chứng nhân Hungary cuối cùng của Hòa đàm Paris 1973, người vừa hoàn tất bản dịch tiếng Hung của tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh



    Trong buổi gặp mặt, đã có sự hiện diện của nhiều vị khách quý Hungary, trong đó có ông Márton Váraljai, một nhà ngoại giao với kinh nghiệm 13 năm công tác tại Việt Nam và do đó, có tầm hiểu biết sâu rộng về đất nước hình chữ S, hoặc ông Bakos Ferenc, “người Mohican cuối cùng” trong số những nhân chứng Hungary của cuộc Hòa đàm Paris năm 1973.


    Cũng trong dịp này, Dunai Péter đã gặp lại người bạn cũ, cựu cán bộ ngoại giao, nhà báo Trần Đình Kiêm, người đã hỗ trợ hữu hiệu công việc của nhiều phóng viên Hungary thường trú tại Việt Nam trên tư cách một phiên dịch. Từng có mặt tại vùng biên giới vào đêm trước của cuộc chiến 1979, các hồi tưởng của ông Kiêm đã thu hút sự chú ý của cử tọa.



    Hai người bạn cũ có dịp trùng phùng



    Nội dung chính của buổi gặp mặt là phần thuyết trình của nhà báo Dunai Péter - trên cương vị một nhà nghiên cứu chính trị, quân sự và an ninh - với nội dung “Cuộc tấn công Việt Nam của Trung Quốc trước đây 40 năm: Một phóng viên, nhân chứng ngoại quốc so sánh tình hình thời đó với hiện tại, và chia sẻ những suy nghĩ về thế giới khi đó và bây giờ”.

    Trong vòng gần 45 phút, với những dữ liệu cụ thể và nhận định có cơ sở, Dunai Péter đã phác họa nguyên nhân cuộc chiến biên giới Việt - Trung đặt trong khung cảnh sự giành giật của các siêu cường quốc tế, và đưa ra sự so sánh về vị thế và mối tương quan của các bên có liên quan - Trung Quốc, Việt Nam, Hoa Kỳ, Châu Âu... trong hoàn cảnh hiện tại.



    Vị ký giả Hungary vui mừng vì nhiều gương mặt trẻ cũng có mặt trong buổi tọa đàm



    Sau phần thuyết trình của nhà báo, cử tọa đã đặt một số câu hỏi thú vị - một phóng viên nước ngoài cách đây 40 năm có thể tác nghiệp khách quan đến mức nào trong hoàn cảnh thời bấy giờ, cuộc chiến biên giới có thể tránh khỏi thông qua những biện pháp ngoại giao hay không, có thểtránh khỏi một cuộc thế chiến mới trong tình hình an ninh hiện tại, v.v...

    Những phát biểu bổ sung của ông Márton Váraljai - nhà ngoại giao làm việc tại Việt Nam từ năm 1984, và do đó có nhiều dịp cùng Dunai Péter rong ruổi trên các nẻo đường nước Việt - về cuộc chiến biên giới 1979, cũng như những chia sẻ về ký ức Việt Nam đã mang lại nhiều thông tin và góc nhìn thú vị cho cử tọa, trong đó có không ít thành viên thuộc thế hệ trẻ.


    Nhà báo Dunai Péter và các bạn trẻ - Ảnh: Dũng Tạ



    Bầu không khí của 4 thập niên trước đây còn được tái hiện tại cuộc gặp mặt qua những hình ảnh trong “Thị xã trong tầm tay” (1981), bộ phim kinh điển về thời chiến tranh biên giới đã một phần làm nên tên tuổi NSND Đặng Nhật Minh, với phần giới thiệu của BS. Đặng Phương Lan, ái nữ của đạo diễn. Nhiều bà con đã ngỏ ý muốn xem lại phim trong một dịp gần nhất.

    Cũng trong buổi gặp mặt, NCTG đã giới thiệu và ra mắt số báo đặc biệt “Ký ức Việt Nam trong mắt nhà báo Dunai Péter”, vừa là sự tri ân một “tấm lòng vàng” Hungary, vừa là phần mở đầu cho loạt ấn phẩm mà NCTG muốn nhắm tới trong tương lai, đó là tìm hiểu và khai thác những tư liệu, hồi tưởng của giới ký giả, học giả, chính khách... Hungary về đề tài Việt Nam.


    Chụp ảnh kỷ niệm với nhà báo Hungary - Ảnh: Dương Vũ


    Cuộc tọa đàm kéo dài tới gần 11h đêm mà cử tọa còn chưa muốn ra về. Không chỉ là dịp nhìn lại quá khứ và liên hệ tới hiện tại một cách đa chiều, sự kiện này còn quan trọng ở chỗ, như nhà báo Hung chia sẻ trong thư cám ơn, để “những gương mặt trẻ” - mà ông đặc biệt vui mừng vì sự hiện diện của họ - “hiểu về lịch sử của Tổ quốc họ, về tình hình thế giới”!

    (*) NCTG chân thành cám ơn:

    - Nhà báo Dunai Péter đã có phần thuyết trình rất công phu, và có thiện cảm rất quý báu đối với cộng đồng.

    - Nhà hàng Vin.Vin và anh Nguyễn Tiến Sỹ​ đã tạo điều kiện tốt nhất cho buổi giao lưu.

    - Anh Nguyễn Tiến Chi đã hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ NCTG rất nhiều trong khâu chuẩn bị.

    - Tất cả các anh chị, các bạn đã tới tham dự, ủng hộ tài chính và tinh thần để khích lệ NCTG!



    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. KỶ NIỆM 40 NĂM CHIẾN THẮNG BIÊN GIỚI 17-2-1979 VIỆT - TRUNG
    By Bin571 in forum Lịch sử VN từ năm 1945 đến nay
    Trả lời: 33
    Bài mới gởi: 17-02-2020, 12:52 AM
  2. Trả lời: 36
    Bài mới gởi: 28-02-2016, 01:38 PM
  3. Nhớ ngày 17-2-1979. Nhìn lại chiến thắng bảo vệ biên giới 1979
    By Bin571 in forum Lịch sử VN từ năm 1945 đến nay
    Trả lời: 18
    Bài mới gởi: 20-02-2015, 12:46 AM
  4. TẬP HỢP NHỮNG THÔNG TIN, BÀI VIẾT VỀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI 1979
    By Yeu Viet Bai Trung in forum Chuyện thời sự, xã hội
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 16-05-2014, 04:39 AM
  5. Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 08-04-2013, 10:09 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •