kết quả từ 1 tới 5 trên 5

Ðề tài: Bí ẩn xung quanh tác phẩm nổi tiếng thế giới và Việt Nam 'Hành Trình về phương Đông'

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Bí ẩn xung quanh tác phẩm nổi tiếng thế giới và Việt Nam 'Hành Trình về phương Đông'

    Bí ẩn xung quanh tác phẩm nổi tiếng thế giới và Việt Nam 'Hành Trình về phương Đông'

    30/03/2019 03:04 PM | THỜI SỰ

    Không chỉ là một trong những cuốn sách xuất sắc về nội dung, "Hành trình về Phương Đông" còn có một số phận kỳ lạ. Và không chỉ bây giờ mà suốt vài chục năm qua rất nhiều diễn đàn trong và ngoài nước đã tranh luận rất nhiều về nguồn gốc, xuất xứ cuốn sách này.



    “Hành trình về phương Đông” kể về những trải nghiệm của một đoàn khoa học gồm các chuyên gia hàng đầu của Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh được cử sang Ấn Độ nghiên cứu về huyền học và những khả năng siêu nhiên của con người. Suốt hai năm trời rong ruổi khắp các đền chùa Ấn Độ, diện kiến nhiều pháp thuật, nhiều cảnh mê tín dị đoan, thậm chí lừa đảo…của nhiều pháp sư, đạo sĩ…họ được tiếp xúc với những vị chân tu thông thái sống ẩn dật ở thị trấn hay trên rặng Tuyết Sơn. Nhờ thế, họ được chứng kiến, trải nghiệm, hiểu biết sâu sắc về các khoa học cổ xưa và bí truyền của văn hóa Ấn Độ như yoga, thiền định, thuật chiêm tin, các phép dưỡng sinh và chữa bệnh, những kiến thức về nhân duyên, nghiệp báo, luật nhân quả, cõi sống và cõi chết…

    Chúng tôi xin đăng tải bài viết của ông Nguyễn Văn Phước – nhà sáng lập First News về hành trình xuất bản cuốn sách nổi tiếng này cũng như bí ẩn về tác giả cuốn sách.



    Cuộc điện thoại lúc 2h sáng

    Cách đây đã khá lâu, vào một buổi tối trong lúc gặp nhiều khó khăn về tinh thần cuộc sống, tôi tình cờ được đọc cuốn sách đặc biệt Hành Trình về Phương Đông của dịch giả Nguyên Phong (bản in cũ sờn gáy từ rất lâu rồi mượn được của người bạn). Tôi chọn một nơi yên tĩnh để đọc cuốn sách này - hay đúng hơn là cầm cuốn sách để dỗ giấc ngủ, vì tên cuốn sách cũng gợi một điều gì đó rộng mở cần khám phá - và nhất là biết rõ tên cuốn sách cũ sẽ chẳng hề liên quan gì đến những vấn đề đang nặng nề trong tâm trí mà tôi đang muốn thoát ra.

    Nhưng thật lạ lùng, cuốn sách như hút lấy tâm trí tôi với những bí ẩn vô hình trong thế giới chúng ta đang sống từng bước được giải mã, sáng tỏ. Tôi đọc một mạch xong cuốn sách và quay lại các phần đọc lại để ráp nối các khám phá kỳ thú đến kinh ngạc được sắp xếp kết nối với nhau một cách thật logic, khoa học - đến khi trời gần sáng mà không hề thấy mệt.

    Đọc xong cuốn sách tôi cảm thấy rất nhẹ nhàng, bừng sáng, như đã giải quyết xong mọi vấn đề lo nghĩ bận tâm của mình trước giờ. Cuộc thám hiểm khám phá những điều huyền bí từ những đạo sĩ bí ẩn Ấn Độ của những nhà khoa học Anh Quốc thời xưa trong câu chuyện cũng là ước mong khám phá của chính mình. Cuốn sách đã làm tôi sáng tỏ hầu như những thắc mắc lúc bấy giờ về nhân quả, tâm linh, luân hồi, tôn giáo, về Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo... và các loại đạo khác trên thế giới. Sau này tôi tìm hiểu mới biết cuốn này cùng với những cuốn Nguyên Phong chọn dịch là những cuốn sách được người Việt Nam đọc nhiều nhất, ngang với Đắc Nhân Tâm, Quẳng Gánh Lo Đi, Hạt Giống Tâm Hồn... dù ko được giới thiệu quảng bá gì, chủ yếu do truyền miệng vì những cuốn sách này thực sự hay và giúp ích được cho nhiều người - vì người Việt Nam từ trong tiềm thức, bản năng rất muốn, rất thích khám phá, muốn có những trải nghiệm về tâm linh, nhân quả và hiểu về cách sống thuận với những qui luật vô hình của đất trời, vũ trụ.


    Bộ sách của GS john vũ

    Gấp cuốn sách lại, tôi rất xúc động, và tự nhiên có một ý tưởng, ước mong thật sự là được chính thức xuất bản cuốn sách quí giá này. Vì trước giờ First News luôn đi tìm kiếm những cuốn sách hay của các tác giả nổi tiếng trên thế giới về giới thiệu với bạn đọc Việt Nam thì First News rất nên có cuốn sách giá trị do một người Việt Nam dịch, viết này, để bạn đọc có thêm một đầu sách hay cũng như hy vọng có thể giúp được những ai đó trong hoàn cảnh như tôi đã từng tình cờ đọc được. Nhưng suốt một thời gian dài, tôi cùng các cộng sự First News tìm cách liên hệ với dịch giả Nguyên Phong bằng mọi hình thức, dù được biết dịch giả đã rời Việt Nam từ trước hay ngay sau giải phóng. Nhiều người kể rằng, rất khó có ai tiếp cận được với ông khi để cập về việc xuất bản sách, rất nhiều người từng đến gặp, liên hệ với ông về các tác phẩm của ông trong hàng chục năm nhưng đều ko đc hồi đáp.

    Không nản lòng, trong nhiều năm, tôi đã kiên trì tìm nhiều cách tìm kiếm, liên lạc với ông, và sau cùng, ơn đất trời, ông đã nghe cuộc điện thoại tôi gọi từ Việt Nam đến văn phòng ông ở Đại Học Carnegie Mellon ở Mỹ lúc 2h sáng giờ Việt Nam, cuộc nói chuyện kéo dài hàng giờ đồng hồ. Rất mừng vui, sau đó Trí Việt - First News được dịch giả Nguyên Phong - giờ là Giáo sư John Vu, từng là Vice President của Boeing, đang là Viện Trưởng Viện Công Nghệ Sinh Học Đại Học Carnegie Mellon, một trong 10 người sáng tạo nhất nước Mỹ đứng sau Bill Gates và Steve Job - gửi văn bản ký tên xác nhận đồng ý cho First News - Trí Việt in, xuất bản tất cả các tác phẩm do Giáo sư dịch, phóng tác, viết từ trước tới giờ. Tôi và tất cả anh em Trí Việt đều quá đỗi mừng vì ước mơ đã thành sự thật. Riêng tôi đến giờ còn rất ngạc nhiên, ko hiểu sao, cho đến ngay cả lúc này, tôi chưa từng có dịp được gặp Giáo Sư, dù trước đó rất nhiều người, ko chỉ ở Việt Nam, Mỹ và Canada... tìm gặp mà ko thành - Giáo Sư đã tin tưởng giao cho tôi và Trí Việt xuất bản tất cả những tác phẩm tâm huyết của Giáo sư cùng những hướng dẫn rất tận tình, ân cần, chu đáo. Mãi sau này, sau nhiều lần trò chuyện điện thoại với Giáo sư, tôi mới xúc động cảm nhận đc một phần lý do, và xin được chia sẻ trong phần 2.

    Biết ơn tấm chân tình của GS John Vu, tôi và các bạn Trí Việt trong nhiều năm đã chuyển, trao tặng cuốn sách này cùng các sách khác của GS John Vu - Nguyên Phong đến các nhà tù trại giam để tặng cho các phạm nhân, các trung tâm cai nghiện ma tuý, các thư viện vùng sâu vùng xa... (Anh Đặng Lê Nguyên Vũ - Chủ tịch Trung Nguyên lúc trước khi lên núi thiền 5 năm về trước hay gặp nhau, được tôi tặng và rất thích cuốn này, đã đọc nhiều lần và đã chia sẻ với tôi ý tưởng muốn cùng Trí Việt in tặng cuốn sách này cho thanh niên, sinh viên Việt Nam. Tôi và nhiều bạn trẻ vẫn đợi Vũ - nhưng Vũ đi lên núi lâu quá - quá lâu - đến giờ mãi vẫn chưa thấy về - dù gần đây thỉnh thoảng có mặt ở một vài nơi (!).

    NXB Mỹ xin phép GS. John Vu dịch cuốn sách sang tiếng Anh


    Một điều vô cùng ngạc nhiên, là trên cuốn sách cũ đó, ghi là dịch giả Nguyên Phong dịch từ Journey To The East, nhưng chúng tôi truy tìm trên internet, và liên hệ truy tìm tất cả các NXB của Ấn Độ, Anh, Pháp, Mỹ... lúc bấy giờ, kể cả những NXB đã đóng cửa, mà không tìm được phiên bản gốc, dù là dạng file hay bản in sách cổ.

    Mãi sau này, tới năm 2009, cuốn sách kỳ bí này mới "tái xuất" trở lại trên thế giới bằng tiếng Anh, sau khi bản tiếng Việt ra mắt ở Việt Nam gần bốn thập kỷ. Cụ thể NXB Booksurge Mỹ đã tìm mọi cách liên lạc với dịch giả Nguyên Phong suốt một thời gian dài mua bản quyền để xin phép được chuyển ngữ cuốn sách tiếng Việt này ra tiếng Anh với tựa đề ‘Journey To The East’ - Author: Nguyên Phong - phát hành trên Amazon và các bookstores trên thế giới. Và độc giả Mỹ, Phương Tây rất yêu thích, say mê tác phẩm này.

    Một cuốn sách có số phận kỳ lạ

    Không chỉ là một trong những cuốn sách xuất sắc về nội dung, "Hành trình về Phương Đông" còn có một số phận kỳ lạ. Và không chỉ bây giờ mà suốt vài chục năm qua rất nhiều diễn đàn trong và ngoài nước đã tranh luận rất nhiều về nguồn gốc, xuất xứ cuốn sách này. Mà người đã tạo ra nó lại yên lặng như không hề có liên quan.

    Theo nhiều người nói trước đó, cuốn sách là một phần trong bộ hồi ký nổi tiếng của giáo sư Baird T. Spalding (1857 – 1953), "Life and Teaching of the Masters of the Far East" (xuất bản năm 1953) ghi nhận đầy đủ về cuộc hành trình gay go nhưng kỳ thú, tràn đầy sự huyền bí ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư. Nhưng sự thật sau cùng lại dường như không phải như vậy: Cuốn sách ‘Hành Trình về Phương Đông’ này có thể là một cuốn độc lập, nội dung khác hoàn toàn - chỉ liên quan đến cái tên Baird T. Spalding mà thôi.

    "Hành trình về Phương Đông" còn khiến nhiều người tò mò không kém là vì dịch giả của cuốn sách là Nguyên Phong, một người nổi tiếng và đầy bí ẩn.
    Không xuất hiện trên truyền thông, mà chỉ sống ẩn danh nên có rất nhiều người không biết về dịch giả Nguyên Phong.


    Dịch giả Nguyên Phong- GS John Vũ.

    Nguyên Phong chính là bút danh của Giáo sư John Vu (tên thật là Vũ Văn Du). Ông là một tác giả, dịch giả nổi tiếng của các tác phẩm về văn học, tâm linh phương Đông, giáo dục và công nghệ.
    Sinh năm 1950 tại Hà Nội, ông Vũ Văn Du rời Việt Nam du học ở Mỹ từ năm 1968 và tốt nghiệp cao học ở hai ngành Sinh vật học và Điện toán.

    Ngoài công việc chính là một kỹ sư cao cấp tại Boeing trong hơn 20 năm, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu trong vai trò nhà khoa học tại Đại học Carnergie Mellon và Đại học Seattle. Hơn nữa, ông còn giảng dạy tại một số trường đại học quốc tế tại Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Pháp... về khởi nghiệp, giáo dục và lĩnh vực công nghệ phần mềm.

    Không phải ngẫu nhiên mà cuốn sách có số phận khá ly kỳ. Trong phần tái bản mới có ghi: "Xuất bản lần đầu ở Ấn Độ năm 1924, "Hành trình về phương Đông" đã gây tranh cãi không chỉ ở nước Anh mà ngay cả ở Châu Âu và Mỹ. Sau đó, vì tự ái và sĩ diện, Chính phủ Anh cấm phát hành cuốn sách này ở Anh Quốc, rồi Chiến tranh Thế giới thứ hai xảy ra, cuốn sách không còn được tái bản nữa và thất lạc".

    Có người cho rằng, rất có thể, chính Nguyên Phong là tác giả của cuốn sách, đã viết phóng tác theo sự trải nghiệm tiềm thức của mình. Vì một lý do nào đó - ông đã không thừa nhận điều này - rất có thể khi phóng tác còn khá trẻ, mới 24 tuổi, bản chất khiêm nhường, không muốn để tên mình là tác giả mà mượn tên GS Baird T. Spalding và để mình là người dịch. Thế nên mới có sự "biến mất" bí ẩn của tác giả, NXB (đóng cửa) và ngay cả nguyên tác cũng không lưu lại ở bất cứ thư viện lớn nào trên thế giới. (Tôi hoàn toàn đồng cảm và chia sẻ với Giáo sư nếu điều lý giải này là đúng - vì trước đây, khi còn trẻ, khi dịch, biên tập sách, tôi thỉnh thoảng có đưa vào một số câu châm ngôn mình nghĩ ra khá độc đáo, hợp ngữ cảnh nhưng không dám để tên mà đều ghi: "- Khuyết danh", xin bạn đọc lượng thứ).

    Vậy, Nguyên Phong là ai mà độc giả hâm mộ đến như vậy?

    Một con người cực kỳ khiêm tốn, một học giả của nhiều đầu sách dịch giá trị, nhưng đặc biệt - cái tên Nguyên Phong chỉ là bút danh. Ông là giáo sư John Vũ (tên thật là Vũ Văn Du). Các tác phẩm do ông dịch đã được First News - Trí Việt xuất bản ở VN gồm: "Ngọc sáng trong hoa sen", "Bên rặng Tuyết Sơn", "Hoa trôi trên sóng nước", "Minh triết trong đời sống", "Đường mây qua xứ tuyết", "Trở về từ xứ tuyết", "Khởi Hành", Kết Nối, Dấu Chân Trên Cát, Kiến tạo thế hệ Việt Nam ưu việt, ‘Huyền thuật và các Đạo sĩ Tây tạng’...và chuẩn bị ra mắt cuốn "Destination - Bước ra Thế giới".

    Khi bức màn bí mật về nhân vật Nguyên Phong được vén lên, thật bất ngờ, đó là một con người kiệt xuất. GS John Vũ - Nguyên Phong là một trong những nhà khoa học nổi tiếng ở Mỹ. Hiện nay, Giáo sư kiêm Viện trưởng Viện nghiên cứu phần mềm của ĐH Carnegie Mellon và là nghiên cứu viên kĩ thuật và kĩ sư trưởng Công nghệ thông tin tại Boeing. Trong 15 năm làm việc ở Boeing, ông từng tham gia vào chương trình phần mềm hỗ trợ cho máy bay Boeing 777 và là nhà vô địch về cải tiến qui trình ở Boeing...

    Ông từng giữ vị trí Phó Chủ tịch phụ trách kỹ thuật của Boeing. Ông đã từ chối nhận nhiều giải thưởng uy tín của Mỹ và từ chối các cuộc phỏng vấn của các hãng thông tấn lớn. Ông nhận lời thỉnh giảng và nói chuyện với sinh viên nhiều trường đại học lớn trên thế giới - và dự định, rất mong một ngày gần đây, GS. John Vu sẽ về quê hương để chia sẻ với bạn đọc, hướng dẫn các bạn trẻ, thanh niên và sinh viên Việt Nam.


    Nguyễn Văn Phước
    Theo Trí Thức Trẻ

    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Hành trình về Phương Đông: Cuộc gặp gỡ định mệnh khai mở cánh cửa huyền bí kéo dài hàng nghìn năm (P1)

    08/04/2019 02:15 PM | SỐNG

    Ấn Độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở thành một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt của người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hóa của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có.



    LTS: Hành trình về Phương Đông kể về câu chuyện một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh dẫn đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm Đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hóa học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước.

    Hội Khoa học Hoàng gia đã phải triệu tập một ủy ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn Độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí này. Và cho đến hôm nay sự huyền bí về Phương Đông vẫn luôn là điều mà các nhà khoa học trên thế giới muốn khám phá chinh phục.



    Những thất vọng ban đầu trong hành trình khám phá Ấn Độ

    Vì thế Hội Khoa học Hoàng gia đã bảo trợ cho phái đoàn chúng tôi đến Ấn Độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này. Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn Độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thỏa mãn hay học hỏi được điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lặp đi lặp lại những điều đã được ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hóa huyền thoại để đề cao văn hóa xứ họ. Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt.

    Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là chân sư (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn Độ giáo không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên Chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ.

    Ấn Độ giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo châu Âu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều rất thường xảy ra, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của Thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rối rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa học Hoàng gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý, nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hóa Ấn Độ và văn hóa châu Âu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.

    Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares.


    Cuộc gặp gỡ định mệnh giúp khai mở sự huyền bí về Phương Đông

    Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bổng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngả. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bã á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ Ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên "cò mồi" đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mải mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời:

    - Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng và có đông giáo đồ vì họ biết thu thập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số "từ chương" trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, tự nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?

    Giáo sư Spalding ngạc nhiên:
    - Tại sao ông biết rõ như thế?

    Người Ấn mỉm cười:
    - Các ông đã bàn với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về châu Âu và kết luận rằng châu Á chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.

    Giáo sư Spalding mất bình tĩnh:
    - Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?
    Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:
    - Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc Kinh Thánh: "Hãy gõ, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm, rồi sẽ gặp". Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.



    Hãy đến Hy Mã Lạp Sơn sẽ gặp những đạo sĩ chân chính

    Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh Thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say như tỉnh. Toàn thân ông rung động như chạm phải một luồng điện cao thế.
    Ông lắp bắp:
    - Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thị, làng mạc xứ Ấn…

    Người Ấn nghiêm nghị trả lời:
    - Hãy đến Rishikesh, một thị trấn nằm bên trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự truy cầu chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.

    Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:
    - Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chân sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…

    Giáo sư Spalding thắc mắc:
    - Ông vừa dùng danh từ chân sư, vậy chứ chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?
    - Nếu ông tin ở thuyết tiến hóa của Darwin, thì tôi xin tóm tắt: "Sự tiến hóa của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hóa; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…".
    - Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?

    Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:
    - Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải là mục đích tối hậu của con đường cầu đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Giải Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà Đức Jesus là một.

    Giáo sư Spalding cãi:
    - Nhưng Chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.
    Người Ấn bật cười trả lời:

    - Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng Chúa Jesus làm vậy cho mục đích khoe khoang hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hóa những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
    Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người phương Tây đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

    - Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng?
    Người Ấn nghiêm nghị:
    - Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng? Nếu Đức Phật hay Đấng Christ hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin phải không? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biểu diễn để lôi cuốn tín đồ, nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?

    - Nhưng… nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu?

    Người Ấn mỉm cười:
    - Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đúng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi quả quyết rằng đấng "Christ" vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, chúng ta không dễ gì hiểu thấu những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả. Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.

    Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:
    - Lúc nãy bạn nói rằng có một vị Chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không?
    - Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.
    Nói xong, người Ấn Độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ của thành phố Benares.

    Hành trình Phương Đông được viết bởi giáo sư Spalding, trưởng phái đoàn do Hội Khoa học Hoàng gia Anh cử sang Ấn Độ để tìm hiểu những điều huyện bí về con người thiên nhiên nơi đây. Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các nhà khoa học bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều đã chứng kiến và nhìn thấy.

    Năm 1924 giáo sư Spalding cho xuất bản cuốn sách "Journey To The East" tại Nhà xuất bản Adyar Ấn Độ năm 1924 và cuốn sách đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi không chỉ ở nước Anh mà ở cả châu Âu và Mỹ. Ít lâu sau, vì tự ái và sĩ diện, chính phủ Anh đã cấm xuất bản cuốn sách này ở Anh Quốc, rồi Thế chiến thứ hai xảy ra, cuốn sách sau cùng cũng không được tái bản ở bất kỳ nhà xuất bản nào khác trên thế giới. Mãi dến năm 2009, Nhà xuất bản Booksurge - Hoa Kỳ đã tìm mọi cách liên lạc với dịch giả Nguyên Phong - bây giờ là Giáo sư John Vu - để xin phép chuyển ngữ cuốn sách bản tiếng Việt này (được Nguyên Phong dịch phóng tác từ năm 1974) sang tiếng Anh với tựa sách Journey To The East phát hành trên thế giới, sau 85 năm thất truyền, và cuốn sách lại nhận được rất nhiều tranh luận và sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc trên thế giới.

    Lúc đó người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ châu Âu để sống đời tu sĩ trong dãy Tuyết Sơn. Điều gì đã khiến các nhà khoa học trong đoàn nghiên cứu từ bỏ tất cả để trở về sống gần hơn với thế giới tự nhiên. "Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người phương Tây nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người phương Tây phải quay về phương Đông để trở về với quê hương tinh thần".


    (Trích sách Hành trình về Phương Đông, do First News phát hành)

    Bồ Sách
    Theo Trí Thức Trẻ

    Last edited by Bin571; 10-04-2019 at 09:29 PM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  3. #3

    Mặc định

    Hành trình về phương Đông: Những điều huyền bí về pháp sư Vishudha và bộ môn Thái dương học với khả năng tự tỏa hương, đốt cháy đồ vật (P2)

    09/04/2019 02:45 PM | SỐNG

    Tiến sĩ Kavir cho biết nếu phái đoàn muốn nghiên cứu những sự kiện huyền bí, những phép thuật lạ lùng thì phải đến gặp pháp sư Vishudha.





    Vị đạo sư huyền bí có thể tự tỏa hương thơm

    Vị pháp sư này có lệ không bao giờ tiếp khách, ngay cả những tín đồ thuần thành sùng kính nhất. Ông sống trong một căn nhà nhỏ với một vài đệ tử thân tín và rất ít khi ra ngoài. Các đệ tử cho biết thầy họ không bao giờ biểu diễn phép thuật dù ở nơi kín đáo, và không chịu cho phái đoàn vào. Tiến sĩ Kavir mang hết tài dẫn dụ ngoại giao cũng như quyền lực hăm dọa nhưng họ vẫn khăng khăng. Sự hiện diện của một nhóm người Âu gây nhiều chú ý của dân chúng và tín đồ hành hương, nên chỉ sau một lúc, một đám đông đã vây kín phái đoàn. Có lẽ tiếng động ồn ào này tạo sự chú ý của vị pháp sư nên ông ra lệnh cho đệ tử mời tiến sĩ Kavir vào nói chuyện.

    Một lát sau, Kavir bước ra, nét mặt hân hoan:
    - Đạo sư Vishudha không tiếp khách lạ, nhưng ngài đặc biệt tiếp phái đoàn như một ngoại lệ đấy.
    Đó là một ông lão to lớn, tóc bạc trắng như cước ngồi trên tấm bồ đoàn kết bằng cỏ, nét mặt ông lạnh như băng và đôi mắt như nhìn vào khoảng không, như không thèm chú ý gì đến phái đoàn. Một đệ tử lên tiếng:
    - Các ông đến đây với mục đích gì?

    Giáo sư Allen lên tiếng:
    - Chúng tôi được biết đạo sư có các quyền năng phi thường. Mục đích chuyến đi này của chúng tôi là nghiên cứu những sự kiện huyền bí, ghi nhận một cách khoa học những điều tai nghe, mắt thấy…
    - Nếu đạo sư vui lòng…
    Vishudha nghe thông ngôn xong, mỉm cười yêu cầu giáo sư Oliver cho mượn một cái khăn tay và một cái kính lúp. Ông ta giơ chiếc kính lên ánh sáng mặt trời cho nó chiếu lên chiếc khăn tay và tuyên bố:
    - Tôi sẽ thu hút các mùi hương trong không khí, các ông thích mùi gì?
    - Tôi thích mùi hoa lài.

    Vishudha mỉm cười trao trả chiếc khăn cho giáo sư Oliver. Một mùi hương phảng phất khắp phòng và ai cũng biết đó là mùi hoa lài. Mọi người quan sát kỹ chiếc khăn, nó không hề ướt hay có dấu hiệu gì rằng người ta đã nhỏ vào đó một chút dầu thơm. Như đoán được ý nghĩ của mọi người, Vishudha yêu cầu giáo sư Mortimer đưa ra một chiếc khăn tay khác. Tiến sĩ Kavir thông dịch:
    - Bây giờ các ông hãy chọn một mùi hoa gì đặc biệt của xứ các ông mà không hề có tại xứ Ấn Độ.
    - Được lắm, tôi muốn mùi hoa uất kim hương (tulip).

    Vishudha mỉm cười giơ chiếc kính lúp lên ánh sáng mặt trời cho nó chiếu vào chiếc khăn và lần này mùi hoa uất kim hương lại thơm nồng khắp phòng. Phái đoàn vội vã yêu cầu những mùi hương lạ lùng và lần nào ông cũng làm họ hài lòng. Thậm chí đến cả những mùi thuốc hóa học, những mùi a-xít trong phòng thí nghiệm, ông cũng có thể làm được. Mọi người quan sát kỹ xem ông ta có giấu gì dưới lớp áo choàng không. Vishudha mỉm cười vén cao tay áo để chứng tỏ ông không hề làm trò ảo thuật hay cất giấu hương liệu gì đặc biệt trong người.



    Lần đầu tiên phái đoàn thám hiểm biết đến môn Thái dương học

    Giáo sư Mortimer buột miệng:
    - Xin ông giải thích việc này?

    Mọi người giật mình vì trong phong tục xứ Ấn, chất vấn một đạo sư là điều bất kính. Vishudha quay sang Kavir nói vài lời, ông này thông dịch:
    - Đó chỉ là môn khoa học gọi là Thái dương học. Ánh sáng mặt trời chứa đựng một năng lực rất mạnh, nếu biết chọn lựa và cô lập nó, ta có thể tạo mọi vật theo ý muốn.
    Giáo sư Mortimer giật mình:
    - Thái dương học, phải chăng đó là môn khoa học của dân Atlantic?

    - Đó là môn khoa học đã một thời thịnh hành tại châu Atlantic, nhưng không phải của riêng giống dân này.
    - Như thế châu Atlantic là có thật… châu này đã chìm xuống biển từ lâu và chỉ có Plato ghi nhận lại trong tập sách của ông…Chuyện này ra sao?
    Vishudha trầm ngâm:
    - Tin hay không là tùy các ông. Người Âu lúc nào cũng đòi hỏi bằng chứng này nọ, nếu các ông muốn gọi nó là truyền thuyết cũng chẳng sao… Khoa học nơi đâu cũng có nguồn gốc, nhưng khi tiến đến một trình độ cao xa thì thời gian hay không gian đâu có nghĩa lý gì nữa. Khoa Thái dương học thật ra xuất xứ từ Tây Tạng ở một thời đại xa xôi, khi Ấn Độ còn là một hòn đảo và rặng Hy Mã Lạp Sơn còn là một bờ biển… Nhưng điều này đâu có ích gì cho việc nghiên cứu của các ông?
    - Ông có thể làm gì với môn này?
    - Các ông còn muốn gì? Như vậy chưa thỏa mãn sao?

    Vishudha đứng dậy bước đến bên một chậu hoa gần đó. Mặc dầu chậu nở đầy hoa, nhưng trong đó cũng có một số hoa đã tàn. Vishudha giơ chiếc kính lúp chiếu lên các hoa này. Trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người, những hoa khô héo bỗng trở nên tươi tốt, thơm tho. Mọi người nín thở, không ai nói nên lời. Vishudha giơ chiếc kính lên chiếu vào lòng bàn tay ông. Một chùm nho tươi tốt bỗng xuất hiện. Nên biết Ấn Độ là xứ nhiệt đới, không trồng được nho, hơn nữa lúc đó đang vào mùa đông, các cây nho bên châu Âu cũng đều khô héo. Có được chùm nho tươi tốt là một việc vô lý, lạ lùng. Vishudha đưa chùm nho cho giáo sư Allen xem và thản nhiên tuyên bố:
    - Đây là giống nho Pajouti chỉ mọc ở miền nam nước Ý, không hề được xuất cảng. Mùi của nó thơm nhưng vị hơi chát.



    Những am hiểu sâu sắc cặn kẽ của Pháp sư Vishudha về Kinh Thánh làm kinh ngạc đoàn thám hiểm

    Mọi người xúm lại xem chùm nho. Có người ngắt vài quả bỏ vào miệng ăn như sợ rằng đó chỉ là một ảo tưởng. Chờ mọi người ăn xong, Vishudha trịnh trọng:

    - Đây đâu phải lần đầu các ông thấy một sự lạ xuất hiện. Các ông đã nghe nói về chuyện này rồi đấy chứ. Các ông không nhớ chuyện Đấng Christ hỏi thánh Phillip ở thành Galileo: "Chúng ta sẽ mua bánh mì ở đâu?". Ngài biết rõ rằng bánh mì mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua ngoài chợ. Ngài mượn dịp đó để chỉ cho các tín đồ rằng người ta có thể tạo ra bánh mì bằng sức mạnh của tinh thần. Thông thường mọi người chỉ nghĩ rằng ta có bao nhiêu bánh mì hay bao nhiêu tiền bạc là chỉ giới hạn trong một khuôn khổ nào đó thôi. Điều Đức Jesus muốn nói là khi ta đã sống với tâm thức của Chân Ngã, thì người ta không còn thiếu sót hay gò bó vào một giới hạn nào nữa. Ngài nhìn về Thượng đế là nguồn gốc sáng tạo ra muôn loài, và tạ ơn Thượng đế đã luôn đặt vào tay loài người cái quyền năng và chất liệu cần thiết để thỏa mãn tất cả nhu cầu của họ. Đức Jesus đã bẻ bánh mì và bảo tông đồ hãy phân phát cho mọi người. Khi tất cả ăn no rồi mà vẫn còn dư đến 10 rổ bánh. Cũng bằng cách đó mà Elisê đã làm cho người quả phụ thành Jerusalem có dầu ăn thừa thãi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có dư thừa dầu trong nhà, vì như thế số dầu chỉ giới hạn mà thôi. Những câu chuyện trong Kinh Thánh đã dạy ta điều gì? Phải chăng các môn khoa học đời nay không thể giải thích vấn đề này? Phải chăng có kẻ cho đó chỉ là một chuyện thần thoại? Có lẽ các ông cho rằng những chuyện này được ghi chép từ lâu rồi nên có phần nào sai lạc đi?

    Mọi người trong phái đoàn giật mình vì câu hỏi bất ngờ. Kinh Thánh đối với họ không phải quyển sách nào xa lạ. Phần lớn đều thuộc lòng nhưng ít ai suy nghĩ cặn kẽ về những sự kiện trong đó. Vishudha mỉm cười nhìn từng người rồi tiếp tục:

    - Đức Jesus đã dạy rằng trong thiên nhiên có chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể tìm lương thực của mình trong đó. Chúng ta chỉ cần rút các chất liệu này để tạo ra mọi thứ cần dùng. Nhưng con người hèn nhát và thiếu đức tin đã không nghĩ rằng họ có thể thực hiện được những việc này. Nhu cầu phải chăng cũng là ý muốn sáng tạo? Thay vì vươn lên để thực hiện ý muốn, để sáng tạo thì con người lại thu hẹp mình lại, nghĩ rằng mình không thể làm được những việc đó. Vì thế con người càng ngày càng rời xa Thượng đế. Đến nay con người tin rằng họ là một thực thể cách biệt với Thượng đế. Họ đã đi lệch hẳn con đường toàn vẹn, bỏ lỡ cái mục đích cao đẹp. Họ đã không để Thượng đế biểu lộ xuyên qua họ như ngài muốn. Chính Đức Jesus đã nói rằng: "Những gì mà ta làm được thì các ngươi cũng sẽ làm được, và các ngươi sẽ còn làm được những việc lớn lao hơn nữa". Ngài muốn nói điều gì đây? Phải chăng con người trong cương vị chân thật, chính là con của Thượng đế? Sứ mạng của Đức Jesus trên thế gian chính là chứng tỏ rằng trong cương vị nào đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách hoàn toàn tốt đẹp như Thượng đế. Khi ngài ra lệnh cho người mù hãy ra ao Siloe rửa mắt, phải chăng ngài đã chứng tỏ cho quần chúng biết rằng ngài được Thượng đế gửi xuống để sáng tạo cũng như Thượng đế vậy?

    Vishudha ngừng nói, đưa tay ra, một ổ bánh mì to lớn bỗng xuất hiện trên tay ông. Tất cả mọi người im lặng, nín thở, không ai thốt nên lời. Sự kiện một đạo sư Ấn không nói gì về truyền thống, tôn giáo xứ này, mà lại nói về Kinh Thánh như một vị mục sư làm mọi người kinh ngạc. Bỗng nhiên ổ bánh mì biến mất như bị thiêu hủy. Vishudha mỉm cười thong thả.



    Pháp sư Vishudha tự đốt cháy đồ vật khuyên đoàn thám hiểm nên đi tìm ý nghĩa mục đích của cuộc đời mình

    - Các ông đã thấy, tôi đã lạm dụng các định luật huyền bí giúp tôi thực hiện ý muốn. Tôi vừa đốt cháy đồ vật mà tôi tạo nên. Làm như thế tôi đã lạm dụng một điều luật bất di bất dịch của thiên nhiên. Nếu tôi tiếp tục làm thế thì không những món đồ bị đốt cháy, mà chính kẻ sáng tạo là tôi cũng chịu chung số phận. Các ông đã ngửi mùi hương và việc tôi làm các bông hoa hồi sinh, cũng như việc chùm nho xuất hiện… Tôi có thể sử dụng quyền năng này khi làm một việc có ích cho nhân loại, hoặc với một lòng bác ái thanh cao vì đó là hợp với luật vũ trụ, hợp với thiên ý. Trái lại, chỉ với một ý định xấu xa như khoa trương bản ngã, tôi sẽ đi lệch đường và chịu trách nhiệm về việc làm của mình, nghĩa là sẽ gặp ngay sự phản tác dụng về hành động của mình. Tôi đốt cháy một vật thì tôi cũng có thể cháy thành than tức khắc. Nếu con người phụng sự Thượng đế, hành động đúng theo thiên ý, hợp luật trời thì y đã bước chân vào cõi trời rộng mở, còn ngược lại thì y đang bước vào cánh cửa của địa ngục rồi đó…

    Vishudha nhìn thẳng vào mặt mọi người:
    - Này các ông, những nhà thông thái, thế đã thỏa mãn các mong ước, hiếu kỳ của các ông chưa? Nếu các ông còn mê man trong các cuộc khảo cứu, ghi nhận các hiện tượng lạ lùng mà khoa học chưa giải thích được thì khắp thành phố này, có hàng trăm đạo sĩ, pháp sư có thể làm những chuyện đó. Điều đáng tiếc rằng rất ít người hiểu biết về cái hậu quả họ sẽ phải gánh chịu. Các ông muốn ghi nhận những phép thuật thần thông để làm gì? Phải chăng các ông sẽ công bố cho mọi người Âu Mỹ biết hay sao? Như thế có ích lợi gì? Liệu đã có mấy ai tin tưởng rằng những điều các ông nói không phải là một sự tưởng tượng? Có thể họ sẽ lên án các ông là đằng khác. Có bao giờ các ông nghĩ rằng mình đang làm một chuyện vô ích hay không? Có lẽ các ông sẽ làm những phúc trình về các hiện tượng lạ lùng, nhưng rồi điều ấy sẽ đi đến đâu? Cuộc đời đâu phải chỉ là quan sát ghi nhận rồi làm những thống kê, có phải không? Này các nhà thông thái, các ông đã khám phá thế nào là mục đích cuộc đời chưa? Nếu các ông chưa tự hỏi mục đích cuộc đời mình để làm gì thì ghi nhận, nghiên cứu có ích lợi gì đâu? Khi chưa tìm được lời giải đáp cho chính mình thì các phúc trình, thống kê cũng vô ích thôi, có phải như thế không?

    Một sự im lặng bao trùm căn phòng. Vishudha thong thả ngồi trên tấm bồ đoàn, không nói thêm điều gì nữa. Tiến sĩ Kavir ra hiệu cho phái đoàn rút lui. Rời khỏi căn nhà đá, toàn thể mọi người đều xúc động, không ai nói lên một lời nào. Những sự kiện xảy ra đã làm đảo lộn mọi quan niệm thông thường về vật lý, hóa học… Đúng như nhà đạo sĩ đã nói, làm sao chứng minh một phép lạ đây?

    (Trích sách Hành trình về Phương Đông, do First News phát hành)


    Bồ Sách
    Theo Trí Thức Trẻ

    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  4. #4

    Mặc định

    Hành trình về Phương Đông: Vị đạo sĩ tráng kiện có thể chữa bách bệnh chỉ với uống nước suối và ăn cơm nhạt (P3)

    10/04/2019 02:45 PM | SỐNG

    Ram Gopal Mukundar là một đạo sĩ nổi tiếng có thể chữa trị mọi bệnh tật. Ông thành lập một đạo viện (Ashram) ở ngoại ô Rishikesh và có khá đông môn đệ.




    Vị đạo sĩ có bươc đi vững chãi như mãnh hổ

    Qua sự giới thiệu của tiến sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp xúc với phái đoàn. Ram Gopal có thân thể cực kỳ tráng kiện như một lực sĩ, bước đi của ông vững chãi và uyển chuyển như mãnh hổ, giọng nói hùng tráng như tiếng cồng. Hàng ngày, ông dành riêng một thời gian để tiếp xúc với bệnh nhân. Ông yêu cầu phái đoàn ngồi đó xem ông trị bệnh. Bệnh nhân gồm đủ hạng người, từ các bậc thượng lưu quý phái ngồi trên kiệu đến các loại bình dân nghèo đói, lê lết. Họ mang đủ thứ bệnh, từ các loại bất trị như ung thư, cùi hủi, đến các chứng đau tim, phong thấp, tiểu đường, v.v. Một bệnh nhân ăn mặc sang trọng, khuôn mặt tái nhợt cho biết ông là một phú ông giàu có tại Madras, bị đau tim đã đến thời kỳ trầm trọng. Bác sĩ cho biết nếu lên cơn một lần nữa chắc chắn ông không thể sống.

    Ram Gopal yên lặng nghe bệnh nhân kể lể rồi cho biết:
    - Hơi thở của ông bị đứt quãng nhiều, tôi nghĩ cơn đau tim sẽ tái phát trong một thời gian không lâu nữa.
    Bệnh nhân xanh mặt quỳ mọp xin cứu mạng. Ram Gopal thong thả cho biết:
    - Ông có thể sống thêm nhiều năm nữa nếu chịu khó điều trị. Chắc hẳn ông đã biết cách trị bệnh của tôi?
    Bệnh nhân im lặng suy nghĩ. Ram Gopal giải thích cho phái đoàn:

    - Bệnh tật là kết quả của những gì trái với thiên nhiên. Sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Con người bẩm sinh đều khỏe mạnh, họ mắc bệnh vì các thói quen, lối sống không hợp tự nhiên, rồi theo thời gian tiêm nhiễm vào cơ thể làm suy nhược. Khi bệnh mới phát ra, con người ỷ lại vào thuốc men, các phát minh khoa học. Tiếc thay, lối này chỉ có thể tạm thời cầm giữ bệnh tật cho nó không phát lên chứ không trừ tuyệt căn. Y học phương Tây chỉ ngăn bệnh tật không làm nguy hại đến tính mạng trong một thời gian, rồi sau đó cũng bó tay. Muốn trừ bệnh hoàn toàn, chỉ có một cách duy nhất là cương quyết trừ tuyệt gốc và người duy nhất có thể chữa được là "chính mình" mà thôi, ngoài ra không có ai khác. Một khi bệnh nhân ý thức được điều này và nhất định theo đuổi cách trị đến cùng thì hầu như bệnh gì cũng có thể chữa khỏi.



    Bệnh tật đến với bạn là kết quả của những gì trái với thiên nhiên, sống thuận theo nhiên nhiên không thể có bệnh

    Giáo sư Mortimer lên tiếng:
    - Xin ông giải thích rõ ràng hơn nữa.
    - Cách chữa cũng rất giản dị, việc đầu tiên bệnh nhân phải làm là quyết định xem có theo phương pháp này được không? Nếu nhất quyết thì người ấy phải từ bỏ tức khắc tất cả gia tài, sự nghiệp, hoàn cảnh gia đình bên ngoài để gia nhập đạo viện cho đến khi hết bệnh.
    - Ông muốn nói họ phải trở thành tu sĩ hay sao?

    Ram Gopal bật cười:
    - Không phải thế, đây không phải là một đạo viện có tính cách tôn giáo. Tôi không bao giờ bắt buộc ai phải học giáo lý, tin tưởng một số giáo điều, nghi thức hay sùng kính một đấng vô hình nào hết. Đạo viện (Ashram) này chỉ có mục đích chữa bệnh. Điều tôi muốn thực hiện là để bệnh nhân phải rời bỏ cái nếp sống cũ, cái hoàn cảnh, nguyên nhân đã khiến họ mắc bệnh. Lo nghĩ, phiền não, dinh dưỡng không đúng cách là nguyên nhân chính của hầu hết các thứ bệnh. Phải dẹp bỏ, dứt sạch tất cả cho tâm hồn thật thảnh thơi thoải mái, rồi mới có thể chữa trị được. Đó là điều kiện quan trọng nhất của phương pháp này.

    - Nhưng việc gì phải từ bỏ tất cả, đi dưỡng bệnh một nơi xa cũng có hiệu quả tương tự vậy.
    Ram Gopal bật cười:
    - Điều này không thể chữa tận gốc được, hoàn cảnh tuy có khác nhưng đầu óc bệnh nhân vẫn còn cố chấp, suy nghĩ, lo lắng thì làm sao dứt được phiền não? Chỉ có hoàn toàn dứt bỏ, để đầu óc không còn bận tâm chút gì nữa, để trở nên con người hoàn toàn mới thì may ra mới có thể chữa hết bệnh được.



    Từ bỏ gia tài, nhà cửa, gia đình đâu phải dễ dàng, mấy ai đã làm được như thế?

    Nói thì thật giản dị nhưng nó là cả vấn đề…


    - Này ông bạn, nếu chết, ông có mang mấy thứ đó đi theo được không? Ông cứ việc ôm chặt lấy những thứ giả tạo vật chất rồi để đau đớn giày vò và cái chết quanh quẩn ám ảnh chăng? Trước sau gì cũng mất nó, thì thà bỏ quách đi có hơn không? Cách chữa này có thể coi như ta đã chết rồi, đã mất tất cả rồi, và đi tìm cái sống trong cái chết.

    Nguyên lý của bệnh như sau: con người chìm đắm trong danh lợi, lo quanh nghĩ quẩn, tích trữ tài sản mà quên sự vô thường ở đời. Họ chỉ thấy lợi nhỏ mà quên hại lớn. Lo làm giàu vật chất mà quên tu tâm dưỡng tinh thần, vì thế thân thể suy nhược, tâm trí điên đảo, thần trí bất nhất, lại thêm tửu sắc quá độ, hỉ nộ bất thường, dinh dưỡng coi thường, và bệnh tật do đấy mà sinh ra.

    Khi bệnh còn nhẹ ta không để ý chữa trị, đến khi nó phát ra đe dọa trực tiếp vào đời sống, ta mới hoảng hốt tin tưởng vào các phát minh khoa học chữa trị. Thuốc men chỉ tạm thời ngăn chặn khiến cho bệnh chậm tái phát, kéo dài cuộc sống để ta tiếp tục đắm chìm trong dục vọng, phiền toái một thời gian nữa. Đến khi thuốc men trở nên vô hiệu, bệnh tái phát thật mạnh, thì khoa học bó tay, và con người chấp nhận sự phải đến sẽ đến, và coi như đó là số mạng. Đây là một lầm lẫn rất lớn mà ít ai để ý.

    Nguyên nhân chính của bệnh là do sự bận rộn với đời sống hàng ngày, nếp sống càng tiện nghi thì họ lại càng hết sức lao tâm lao lực để đạt đến cái tiện nghi hơn nữa. Thêm vào lòng tham muốn chiếm đoạt, tranh đua để thỏa mãn dục vọng nhất thời, khiến cơ thể trở nên mất quân bình, phá hoại cơ quan thần kinh.

    Cơ quan này là đầu mối của mọi thứ bệnh nên theo thời gian, bệnh từ từ ngấm vào tạng phủ khiến con người càng ngày càng lệch lạc, sống nghịch với thiên nhiên, mất đi sự an lạc sẵn có; nói một cách khác là họ mất đi chính mình. Sự xả ly, dứt bỏ tất cả là bước đầu để trở lại cái tinh thần nguyên thủy là điều kiện cần thiết để trị dứt căn bệnh trầm kha của loài người.



    Bệnh nhân chữa bệnh chỉ được mang theo một bộ quần áo, uống nước suối và ăn cơm nhạt

    Ram Gopal cho phái đoàn biết bệnh nhân chỉ được mang theo một bộ quần áo và tuyệt đối không được tiếp xúc với ai trong thời gian điều trị. Dĩ nhiên, khi hoàn tất việc chữa trị, họ có thể rời nơi này theo ý muốn. Một số người sau khi vào đây không từ bỏ việc đời lại bỏ ra về, và số này không phải ít.
    Giáo sư Allen thắc mắc:

    - Nhưng sau khi vào đây, họ sẽ phải làm gì? Ông chữa trị ra sao?
    - Như các ông đã biết, yếu tố đầu tiên là cương quyết chữa bệnh cho đến khi tuyệt căn mới thôi. Yếu tố này đòi hỏi việc xả ly, dứt bỏ tất cả mọi sự. Yếu tố thứ hai là tự mình chữa trị lấy cho mình vì không ai có thể chữa bệnh cho ai cả. Yếu tố này đòi hỏi việc làm chủ các cảm giác của mình để chữa bệnh. Tại đây, bệnh nhân ăn rất ít, thời gian đầu họ chỉ uống nước suối và ăn cơm nhạt thôi. Phương pháp này nhằm tẩy uế các chất độc trong cơ thể.

    Một lý do quan trọng gây nên nhiều chứng bệnh là sự ăn uống bừa bãi, không tiết độ. Để giúp cơ thể loại bỏ các độc tố đã nhiễm từ lâu, bệnh nhân chỉ ăn thật nhạt nghĩa là không một chút gia vị, đường hay muối. Mỗi ngày, bệnh nhân chỉ ăn một lần trước buổi trưa và uống nước vài lần thôi. Uống ít nước giúp cho tim đập chậm lại vì dung lượng nước qua tim sẽ ít đi. Tim và thận được nghỉ ngơi sẽ giúp cơ thể lấy lại quân bình mau chóng, đây là hai cơ quan thiết yếu giữ các vai trò quan trọng cho việc phục hồi sức khỏe. Ăn nhạt khiến gan và dạ dày thải bỏ các độc tố tích tụ trong đó.

    Cứ như thế trong khoảng hai tuần lễ là đa số độc tố đã bị khu trục cả. Nếu muốn, các ông cứ thử ăn nhạt ít tuần lễ là thấy cơ thể đổi khác ngay. Ngoài việc dưỡng sinh đúng cách, bệnh nhân dành trọn thời giờ tập Yoga để lấy lại quân bình cho cơ quan thần kinh, khối óc. Tư thế đầu tiên phải tập là cách ngồi cho ngay ngắn, lưng thật thẳng để luồng hỏa hầu di chuyển không gặp khó khăn. Hai tay buông thõng trên đầu gối và thở thật tự nhiên, không cố gắng thái quá. Trong khi tập tư thế này, không để tâm xao động, lo nghĩ việc gì, phải "vô cầu, vô niệm" mới là đúng cách. Không sử dụng thần chú hay xin xỏ một đấng thần linh nào, mà chỉ cần hết sức tự nhiên, theo thời gian bệnh sẽ từ từ thuyên giảm.



    Phương pháp chữa bệnh hoang đường khó tin lại trở nên vô cùng nhiệm màu

    Giáo sư Mortimer thốt lên:
    - Chỉ có thế thôi ư? Như vậy giản dị quá có khó gì đâu?

    Ram Gopal thản nhiên:
    - Dĩ nhiên, nhưng phải làm thật chuyên cần không gián đoạn trong suốt thời gian tại đây cho đến khi khỏi bệnh.
    Mọi người nhìn nhau, họ nghĩ đạo sĩ này phải có một phương pháp gì ghê gớm lắm hoặc sử dụng thuốc men gì đó để chữa trị, chứ phương pháp ông nói thật tầm thường và có vẻ hoang đường khó tin.

    Ram Gopal hiểu ý:
    - Khi trở về với chính mình, với con người nguyên thủy, hòa hợp với thiên nhiên thì bệnh tật và sức khỏe chỉ là những gì tương đối, không còn tranh chấp nữa. Con người thật của ta vốn sẵn có kia mà, việc gì phải gò bó, khó khăn mới tìm được. Khi dứt bỏ tất cả, ta trút được một gánh nặng ở tâm hồn. Khi ăn uống đúng cách, ta loại bỏ yếu tố gây nên bệnh tật, và cách tập Yoga giúp ta lấy lại quân bình nguyên thủy, trở về với con người thật của mình, như vậy là "tự mình chữa cho mình", không ỷ lại vào một tha lực hay một yếu tố bên ngoài nào hết.
    - Nhưng ngoài ra còn phải uống thuốc men gì nữa chứ?

    Ram Gopal lắc đầu:
    - Phương pháp này không sử dụng thuốc men gì cả, đó là một phương pháp hết sức tự nhiên và khoa học. Dĩ nhiên, nếu ông chở đến một người bệnh sắp chết hay một kẻ gãy chân, gãy tay thì tôi không thể chữa như thế được. Nói khác đi, nếu một kẻ mắc bệnh thời khí hay các bệnh thông thường thì họ đã đi kiếm các bác sĩ chữa trị, chứ việc gì phải đến đây? Hầu hết các bệnh nhân đến tận rừng hoang núi thẳm này chỉ là những kẻ đã tuyệt vọng hoặc gặp các chứng nan y mà bác sĩ đã bó tay. Các ông nên biết, cơ thể con người có khả năng tự hồi phục rất nhiệm mầu. Sở dĩ cơ thể suy yếu, bệnh hoạn là vì họ sống không tự nhiên, có thế thôi. Sống tự nhiên không những giúp thể xác khang kiện, mà còn một mục đích tối hậu là dẹp bỏ cái "phàm ngã" để trở về cái "chân ngã" của mình.

    Khi từ bỏ được bản ngã thấp hèn thì ta ung dung tự tại, thảnh thơi tiêu diêu cùng trời đất thiên nhiên, thì còn lo lắng chi nữa? Trên lý thuyết thì thật dễ dàng nhưng thực hành lại là cả một vấn đề. Con người quen sống bừa bãi, nô lệ dục vọng xác thân quá lâu đến nỗi sinh bệnh, rồi muốn cởi bỏ tất cả đâu có dễ. Quen ăn ngon mặc đẹp, bây giờ ăn vài nắm cơm nhạt, uống vài gáo nước suối đâu phải ai cũng làm được ngay lập tức. Khốn nỗi muốn trừ tận gốc phải uống thuốc đắng, và thuốc đắng chính là lối sống tự nhiên này.



    Những bằng chứng về phương pháp chữa bệnh kéo dài đời sống

    - Nhưng đã có bằng chứng gì về phương pháp này? Làm sao biết được nhờ thực hành như trên mà bệnh nhân khỏi bệnh, kéo dài đời sống?

    Ram Gopal không tỏ vẻ giận dữ về câu nói bất kính:
    - Tôi có hơn ba ngàn môn đệ, tất cả đều là người mắc bệnh nan y sống tại đây. Đa số đã bị các bệnh viện từ chối vì không chữa được nữa. Họ vẫn sống nhiều năm nay. Hàng ngày có cả trăm người đến xin gia nhập đạo viện, và chỉ có một thiểu số cương quyết mới được chấp nhận. Đã thế, nhiều người không qua được kỳ thử thách cũng bỏ đi rất nhiều. Nhưng tất cả những người ở lại đều hết bệnh, tuyệt căn. Các ông nên nhớ tôi không nhận thù lao hay đòi hỏi ân huệ gì, tôi cũng không tự xưng một danh vọng, chức tước nào hết.

    Đời sống ở đây hoàn toàn tự túc, và kẻ khỏe mạnh phải lo trồng tỉa, gặt hái thực phẩm. Quy tắc của đạo viện là không nhận tặng vật, dù bất cứ thứ gì, nhiều kẻ tỏ ý muốn dâng tài sản, sự nghiệp khi đến đây với hy vọng sẽ được đối xử đặc biệt.

    Tôi yêu cầu một khi đã dứt bỏ tất cả, thì hãy bố thí cho người nghèo, hoặc để lại cho con cháu, thân nhân, rồi đến đây với bộ quần áo trên người. Dù bệnh nhân là tiểu vương hay kẻ hành khất tôi cũng coi như nhau, mục đích của họ là chữa bệnh và chỉ có họ mới có thể chữa cho mình.
    Đạo viện được thành lập chỉ để thực hành việc chữa bệnh mà thôi, chứ không phải một nơi giam cầm hay có tính cách tôn giáo. Muốn gia nhập phải tuân theo các điều kiện, nhưng muốn rời đây thì tùy ý, không hề có sự ngăn cản.
    (Trích sách Hành trình về Phương Đông, do First News phát hành)


    Bồ Sách
    Theo Trí Thức Trẻ

    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  5. #5

    Mặc định

    Hành trình về Phương Đông: Giải mã về cõi vô hình và mối giao hảo với vong linh người quá cố của chuyên gia nghiên cứu

    11/04/2019 01:45 PM | SỐNG

    Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ mà phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai Cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi.



    Cõi vô hình được hiểu như thế nào cho đúng

    Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của tiến sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai Cập.

    Giáo sư Evans-Wentz vào đề:
    - Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…
    Pháp sư thản nhiên:
    - Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.
    - Như thế, ông tin rằng có ma…

    Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết:
    - Đó là một sự thật. Không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi.
    - Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật?
    - Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng?

    - Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên…
    - Được lắm, các ông hãy nhìn đây.
    Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả:
    - Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
    Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì. Giáo sư Mortimer sốt ruột:
    - Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao?

    Vị pháp sư nghiêm giọng:
    - Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này.



    Thiên đàng, địa ngục có hay không và đời sống của con người sau khi chết sẽ như thế nào qua lời giải thích của pháp sư Hamud

    Khi chết, ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là "dĩ thái". Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng "đồng thanh tương ứng" mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này.

    Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn.

    Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ xẻ súc vật, những cặn bã xã hội, những kẻ có tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tính. Vì ở cõi âm không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tính mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú.

    Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằn và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được.

    Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ xẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành, họ có các rung động khoái lạc và loài ma tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi giục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ.

    Nếu người sống sử dụng rượu và các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và sẽ thăng lên cõi giới tương ứng.

    Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu".

    Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai Cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viển vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người châu Á chăng?



    Pháp sư Hamud từ bỏ danh vị tiến sĩ vật lý học để lên núi tu hành đến với Khoa Huyền Bí học

    Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người:
    - Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp Đại học Oxford…
    Giáo sư Harding giật mình kêu lên:
    - Oxford ư? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao?
    - Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai Cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.
    - Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu?
    - Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai Cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn Độ và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc. Tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
    Giáo sư Evans-Wentz ngập ngừng:
    - Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma?
    - Dĩ nhiên.
    Kết bạn với vong linh người quá cố



    Kết bạn với vong linh người quá cố

    Tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lớn là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hóa riêng, khác với loài người. Có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
    - Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không?
    - Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng…
    - Như thế có nguy hiểm không?
    - Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn… Một số thầy phù thủy thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa…
    - Ông có thể làm như vậy không?

    Vị pháp sư nghiêm mặt:
    - Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hóa đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của những ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một nhà khoa học chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thủy chữa bệnh.
    - Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.

    - Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể: thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấy vật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược.

    Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau; có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngay. Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáy cũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau...

    Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được?
    Dù sao Hamud cũng là một tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp tại một đại học nổi tiếng nhất châu Âu chứ không phải một phù thủy vô học chốn hoang vu. Ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một nhà khoa học chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học?

    (Trích sách Hành trình về Phương Đông, do First News phát hành)


    Bồ Sách
    Theo Trí Thức Trẻ

    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 04-06-2014, 08:33 PM
  2. Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 15-05-2012, 02:54 AM
  3. Sự thật xung quanh ngôi miếu hai cô
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 09-06-2010, 09:38 AM
  4. Trả lời: 8
    Bài mới gởi: 18-04-2009, 01:33 PM
  5. Bí mật xung quanh những dấu chân kỳ quặc
    By Bin571 in forum Sưu Tập Khác...
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 30-10-2007, 10:14 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •