kết quả từ 1 tới 18 trên 18

Ðề tài: CÁC TÔN GIÁO VÀ GIÁO PHÁI TRÊN THẾ GIỚI

  1. #1
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định CÁC TÔN GIÁO VÀ GIÁO PHÁI TRÊN THẾ GIỚI

    Tôn giáo là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tâm linh của loài người, theo đó , bên cạnh sự phát triển của loài người... tôn giáo đã ra đời và phát triển theo.
    Trên thế giới có : Ấn Độ giáo (Hinduism), Phật giáo (Buddhism), Thiên Chúa giáo (Christianity), Do Thái giáo (Judaism), và Hồi giáo (Islam) là 5 trong số những tôn giáo lớn nhất trên thế giới.
    Hàng nghìn năm qua, tôn giáo đã định hình tiến trình lịch sử và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của toàn nhân loại. Thông qua vô số những cuộc xung đột, cuộc chinh phục, truyền bá ,các tôn giáo lan rộng khắp thế giới và xuất hiện trên nhiều vùng địa lý rộng lớn khắp hành tinh.



    Bên cạnh các tôn giáo lớn như ở trên, còn nhiều các tôn giáo nhỏ hơn hoặc các giáo phái mới... chính thống hoặc không chính thống vẫn tiếp tục ra đời và phát triển theo đà phát triển của nhân loại
    Trong Thread này, tôi xin lần lượt giới thiệu các tôn giáo hoặc giáo phái trên thế giới.... có thể là chính thống, kỳ dị hoặc tà giáo... vẫn đang tồn tại.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  2. #2
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo phái tia sáng miền Đông (eastern lighting)

    Tín đồ giáo phái tia sáng miền Đông tin rằng Chúa Giê-su đã đầu thai vào Yang Xiangbin, vợ của người sáng lập nhóm. Giáo phái này có một lượng lớn các thành viên, khoảng hơn một triệu người ở khắp các vùng của Trung Quốc. Ở Trung Quốc, giáo phái này bị cấm và thường được nhắc đến với cái tên "tà đạo".

    Theo báo cáo của hãng thông tấn nhà nước Tân Hoa Xã, nhóm tà đạo, được coi là giáo phái nguy hiểm, đã lừa đảo nhiều người, thu tiền bất hợp pháp và "vi phạm pháp luật dưới chiêu bài tôn giáo".


    Hai kẻ cầm đầu nhóm tà đạo Tia sáng Miền đông Yang Xiangbin và Zhao Weishan đã trốn sang Mỹ từ năm 2000.

    "Một loạt những hành vi của các thành viên của nhóm này đã làm tổn hại đời sống và tài sản của người dân, phá vỡ sự ổn định xã hội", Tân Hoa Xã đưa tin.

    Hãng thông tấn của Trung Quốc nói thêm rằng các thành viên của giáo phái, còn được gọi là Eastern Lightning (Tia sáng miền đông) cũng phải chịu "rất nhiều" trách nhiệm liên quan đến hàng loạt vụ tự tử và giết người, thậm chí trong đó có nhiều thành viên trong gia đình riêng của những tín đồ cuồng đạo.

    Một phụ nữ 37 tuổi đã bị đánh đến chết trong cửa hàng thức ăn nhanh ở tỉnh Sơn Đông, phía đông Trung Quốc đã gây ra một làn sóng phẫn nộ của phương tiện truyền thông xã hội về nhóm tà đạo. Trong cuộc phỏng vấn truyền hình sau khi bị bắt, Trương Lập Đông, một trong các nghi phạm còn phát biểu: "Cô ta là một con quỷ... Cô ta mang trong mình linh hồn ma quỷ".

    Theo báo cáo phương tiện truyền thông Trung Quốc, nhóm này cũng có tên trong danh sách 14 tổ chức tôn giáo bị cấm do Bộ Công an Trung Quốc công bố từ năm 1995. Eastern Lightning còn liên quan đến một loạt các vụ cướp bóc, tấn công và bắt cóc. Trong năm 2012, hàng trăm thành viên của giáo phái này đã bị bắt giữ sau khi tung tin đồn thất thiệt về “ngày tận thế”.

    Được thành lập vào những năm 1990 ở Trung Quốc, Eastern Lightning tin rằng Chúa Giê-su đã đầu thai vàoYang Xiangbin, vợ của người sáng lập nhóm tà giáo Zhao Weishan. Theo Tân Hoa Xã, các vợ chồng Zhao đã bỏ trốn sang Mỹ từ năm 2000.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  3. #3
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo phái Raelian

    Có trụ sở tại Quebec, Canada người đứng đầu của Raelian là một nhà báo và cựu tay đua ô tô Claude Vorilhon, hay còn được gọi là Rael.
    Cựu thành viên của giáo phái Raelian nói những cô gái nóng bỏng nhất của họ sẽ lân la đến các quán bar, câu lạc bộ múa khỏa thân để tìm kiếm những trái tim cô đơn, đang thèm khát tình dục và dùng nó để thu phục họ tham gia vào tổ chức.

    Steve Hassan, người đã từng mê muội trong những lý tưởng của Realian nói: “Họ hoạt động trong các quán bar và dụ dỗ những người mong manh và dùng tình dục miễn phí như một phương thức sai khiến và tuyển thành viên”. Hiện nay, Steve đang là người đứng đầu của tổ chức Freedom of Thought ở Boston, Mỹ, được lập ra nhằm giúp đỡ những người đã từng lầm lỡ như ông.

    Nơi hội tụ những "trái tim cô đơn"

    Pete Cooke, một cựu thành viên của Raelian đã từng bị dụ dỗ tại quán bar ở Montreal, Mỹ. Ông nói: “Tôi đã ly hôn 16 năm. Dù không phải là người khó tính nhưng tôi gặp vấn đề trong việc kết bạn. Chính vì thế, cô gái đó đã thu hút và dụ dỗ được tôi”. Pete đã có 2 năm vùi trong giáo phái này với sự sùng bái tuyệt đối.

    Có trụ sở tại Quebec, Canada người đứng đầu của Raelian là một nhà báo và cựu tay đua ô tô Claude Vorilhon, hay còn được gọi là Rael. Ông ta tin rằng loài người chỉ là sản phẩm nhân bản của các sinh vật ngoài hành tinh.

    Giáo chủ Claude Vorilhon
    Bản thân Pete, ngoài là một người cô đơn, ông cũng tin vào đĩa bay. Dù đã rời khỏi giáo phái được 5 năm nhưng với ông những ký ức về tình dục trong những ngày tháng ở giáo phái này vẫn có gì đáng sợ và "không muốn nhắc lại".

    Khi sinh hoạt trong tổ chức này, các thành viên phải trải qua những bài thiền bắt buộc và nó mang nặng tính nhục dục. Các bài thiền hướng dẫn cách cho thành viên vuốt ve các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể, quan hệ tình dục lẫn nhau với nhiều kiểu cách khác thường, nguy hiểm.

    Tuy nhiên, không phải tất cả các thành viên của Raelian đều bị dụ dỗ tại các quán bar bởi những cô gái nóng bỏng. Mike Kropveld, Giám đốc điều hành của Info - Cult, tổ chức nghiên cứu các giáo phái nhạy cảm trên thế giới nói: “Một số người tham gia sau khi có mặt ở các buổi họp của Raelian. Một số phụ nữ từng hành nghề mại dâm hoặc múa thoát y thì tìm đến đây để cảm nhận được sự tự do và hỗ trợ từ các thành viên khác”.

    Giáo chủ kì quặc

    Đứng đầu của giáo phái là Claude Vorilhon, người tự xưng là phật Rael. Ông luôn khẳng định mình bị các sinh vật ngoài hành tinh bắt cóc, từ đó đã được mở mang đầu óc và trở thành nhà thông thái. Không những thế, Claude còn cho rằng ông ta là sản phẩm giữa sự kết hợp của bà mẹ người Trái đất và bố là sinh vật ngoài hành tinh.

    Raelian tuyên bố có hơn 80.000 thành viên trên khắp thế giới, tuy nhiên, các khảo sát gần đây cho thấy con số này chỉ khoảng từ 10 - 20.000 người.

    Theo Claude, những nhà khoa học từ thế giới của ông đã ghé đến Trái đất trong quá trình tìm kiếm hành tinh phù hợp cho phát triển sự sống như môt dự án nghiên cứu. Theo ông, có thể họ đã phát hiện ra Trái đất và có thể hoang đường hơn là "tạo ra" hành tinh của chúng ta với những yếu tố cần thiết để duy trì sự sống.

    29 năm đầu tiên tồn tại, Claude Vorilhon đã xây dựng được một mạng lưới các thành viên theo giáo phái của mình. Ông thực hiện điều đó bằng cách rao giảng về lý thuyết các nhà khoa học ngoài hành tinh đã tạo ra Trái đất và con người.

    Thế nhưng, tới năm 1988, Claude đã có tuyên bố với 5.000 tín đồ của mình rằng những tổ tiên của loài người "ngoài kia" sắp quay trở lại. Do đó, ông ta ra lời kêu gọi các cô gái trẻ đẹp trong giáo phái đi theo một bài đào tạo để trở thành các tiếp viên đón chào tổ tiên.

    Một nhóm hơn 100 phụ nữ đã được tuyển chuyện, mặc dù chưa thấy "tổ tiên" đâu nhưng họ đã sẵn sàng trao thân cho người đại diện ở Trái đất chính là Claude. Không chỉ hiến dâng về khía cạnh tình dục, các cô gái trẻ còn sẵn sàng hi sinh khi cần thiết để bảo vệ những người "sáng tạo" ra họ. Và theo Claude: “Khi con người sẵn sàng hi sinh để bảo vệ người mình yêu thương thì đó là một việc tốt đẹp”.

    Ngoài ra, Rael còn tuyên bố đã từng được người ngoài hành tinh đưa lên đĩa bay của họ. Sau đó sắp xếp cho 6 cô gái xinh đẹp - đều bằng robot - với các đặc trưng khác nhau như tóc vàng, tóc đỏ, châu Á..

    Họ bắt ông ta chọn 1 trong số đó làm người đồng hành trong chuyến tham quan nhưng Rael nói ông không chọn được, vì ai cũng quyến rũ, kết quả là cả 6 cô robot đã phục vụ ông ta tận tình trong suốt chuyến đi mà không có bất cứ sự khó chịu nào, mặc dù Rael thừa nhận có những yêu cầu quái đản.

    Vừa đánh trống vừa la làng

    Theo Raelian, các thành viên của họ sẽ "trường sinh bất tử" khi tham gia vào giáo phái. Tính cách, đặc trưng, thậm chí là ký ức của họ sẽ được lưu trữ và cấy vào những cơ thể mới sinh ra, sau quá trình nhân bản vô tính của người ngoài hành tinh. Như vậy, dù có qua đời, họ vẫn có thể hồi sinh với cơ thể mới và bộ óc đã được phát triển từ lâu.

    Giáo chủ Claude Vorilhon và một thành viên nữ của Raelian
    Dù các phương tiện truyền thông luôn mô tả Raelian là một giáo kỳ dị với niềm tin hoang đường vào người ngoài hành tinh và cách tuyển thành viên bằng tình dục, tuy nhiên, theo các thành viên, họ không phải là "giáo phái sex" như báo chí đưa tin.

    Trong những cuộc phỏng vấn với báo chí, họ luôn phủ nhận việc giáo phái chỉ tập trung vào các khoái lạc tình dục mà cho rằng đó chỉ là một khía cạnh họ quan tâm và dùng để giúp đỡ các thành viên. Để minh chứng cho lập luận của mình, họ nói có một phụ nữ 65 tuổi, chỉ tìm thấy niềm vui trong quan hệ nam nữ sau khi đến với Raelian và quan hệ với một thành viên nam khác của giáo phái.

    Mặc dù luôn miệng phủ nhận nhưng trên thực thế "phật Rael" có sở thích chụp ảnh với các thành viên nữ khi họ để ngực trần. Ngoài ra trong các văn bản của giáo phái thường xuyên xuất hiện hình ảnh của các phụ nữ khỏa thân hoặc đang tìm thấy sự khoái lạc trong cơn đau đớn cực độ.

    Đây chỉ là một vài trường hợp đặc biệt về các giáo phái kỳ dị trên thế giới. Không chỉ đi theo các vấn đề tình dục, nhiều giáo phái còn lợi dụng niềm tin của thành viên về các vấn đề mê tín như quỷ sa tăng, ma quái hay các vấn đề nhạy cảm khó tìm người chia sẻ như đồng tính hay tự kỷ.
    Last edited by changchancuu; 02-03-2019 at 07:01 AM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  4. #4
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo hội Sa-tăng (Satanist Church)

    Giáo hội Sa-tăng (Satanist Church). Trái với suy nghĩ của nhiều người, giáo hội Sa-tăng không thờ Sa-tăng, mà họ tin rằng Thiên Chúa hay quỷ sứ không xứng đáng được thờ phượng. Họ tự coi mình là các “nhà tư tưởng” có thể tự vận dụng logic chung để đi đến kết luận và đặt niềm tin

    Satan Giáo Là Gì?
    Satan Giáo, còn được biết đến với cái tên là LaVeyan Satanism, là một tôn giáo được sáng lập vào năm 1966 tại Califonia, Hoa Kỳ bởi nhà huyền học người Mỹ tên là Anton Szandor LaVey. Các nhà học giả đã phân loại Satan giáo vào dạng Tân giáo bí truyền. Năm 1966 được coi là năm thứ nhất của kỷ nguyên Satan khi ông thành lập Giáo Hội Satan.
    Các học thuyết được trình bày trong cuốn Kinh Satan của LaVey viết có trọng tâm về một tôn giáo tôn thờ vật chất, chối bỏ sự tồn tại của tâm linh siêu nhiên, linh hồn và cuộc sống sau khi chết. Tín đồ Satan không tin vào quỷ Satan cũng như không thờ phượng quỷ thần. Satan ở đây là xem là một hình mẫu của sự tự tôn vinh. Satan giáo cũng được xem như là một giáo phái bài xích những tôn giáo Abrahamic và những đạo giáo khác chỉ trích và đàn áp bản năng tự nhiên của con người và khuyến khích đi theo chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa vị kỷ.
    Satan Giáo cũng có những pháp môn riêng, được phân loại làm 2 dạng thức “tiểu” pháp và “đại” pháp. Đại pháp chính là những nghi lễ được thực hiện có tác dụng để khuấy động năng lượng cảm xúc của một người để hướng đến một mục đích cụ thể. Những nghi lễ này gồm 3 loại chính bao gồm lễ tình dục, lễ từ bi và lễ hủy diệt (love - hate - lust). Tiểu pháp là những thủ thuật sử dụng những phương pháp về tâm lý học và sự quyến rũ để thay đổi một cá nhân hoặc một tình huống của một người.
    Giáo Hội Satan bác bỏ quan điểm đánh giá từ những nhóm đạo khác về họ như là một đạo giáo tôn thờ ma quỷ. Satan giáo chính là “một lối sống”. LaVey và Giáo hội Satan có đồng quan điểm cho rằng “Tín đồ Satan luôn được sinh ra, chứ không phải là được tạo ra”. Có những người sống theo ý thích của mình và bị thu hút bởi Satan giáo bởi vì nó dẫn dắt họ nhận ra mình chính là tín đồ Satan bởi vì hệ thống niềm tin của Satan giáo phù hợp với quan điểm và lối sống của chính họ, mà họ đã sống như vậy từ trước đó lâu rồi.




    Kinh Satan Là Gì?
    Kinh Satan đã được xuất bản trong năm 1969 và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau (trong đó có Việt Nam). Satan Giáo không đối xử với kinh Satan giống như cái cách mà các tôn giáo khác đối xử với “thánh thi” của họ, tuy nhiên họ vẫn coi đây là một tài liệu có thẩm quyền và có hiệu lực như “sách thánh” trong giới Satan. Vì có nhiều những hội nhóm Satan và những tín đồ Satan trong các giáo phái khác không thuộc LaVeyan đều công nhận rằng tác phẩm kinh Satan của LaVey có sức ảnh hưởng tới họ.
    Trong một cuộc thăm dò lớn nhất, rất nhiều người đã nói rằng họ đã được chuyển mình sau khi tiếp cận với ấn phẩm kinh Satan, và 20% trong số đó thực sự đã cải đạo. Còn đối với các thành viên trong Hội, cuốn sách này không chỉ là một bản thảo tóm lược những ý tưởng mà còn để đánh giá và thẩm định lời tuyên bố là một tín đồ Satan của bất kỳ ai. Kinh Satan chính là nền tảng của Giáo hội Satan bởi giáo lý của nó. Cuốn sách này chứa đựng các nguyên tắc cốt lõi của Satan giáo, cho nên họ thường khuyến khích những ai muốn trở thành một tín đồ Satan thì nên đọc kinh Satan để “hiểu và nắm bắt được những điều cơ bản về Satan”

    Định Nghĩa và Khái Niệm về “Satan”
    LaVey là một người vô thần, và ông bác bỏ sự tồn tại của thần linh. LaVey và Giáo Hội của ông không đồng tình với quan điểm về việc tin rằng Satan như một thực thể tồn tại theo nghĩa đen, và ông cũng không khuyến khích việc thờ cúng Satan như một vị thần. Thay vào đó, Satan được sử dụng như một nhân vật mang tính biểu tượng và phê phán. LaVey đã củng cố hệ thống niềm tin của mình trong các quan điểm thế tục phi tôn giáo có nguồn gốc từ khoa học tự nhiên, vì thế ông đã có được một nền tảng vô thần để phê bình Kito giáo và các niềm tin siêu nhiên khác. Ông đã hợp pháp hóa tôn giáo của mình bằng cách làm nổi bật những gì mà ông tuyên bố là bản chất và sự hợp lý của chính nó, trái ngược với những đạo giáo khác coi là không tự nhiên và phù hợp.
    Satan được chấp nhận bởi vì nó gắn liền với sự không phù hợp và bài xích các hệ thống mang tính thống trị. LaVey chấp nhận hình ảnh Satan như một nhãn hiệu của tín đồ Satan, bởi vì nó gây sốc cho mọi người khi nghĩ về nó. Khi được hỏi về ý nghĩa của cái tên “Satan” giáo, ông đã trả lời rằng “lý do nó được gọi là Satan giáo là bởi vì nó rất vui, nó cũng chính xác và hiệu quả nữa”
    LaVey cũng đã khái niệm hóa Satan trở thành một biểu tượng cho sự sống của mỗi cá nhân, vì nó đại diện cho quyền lực tự trị bên trong, và là một biểu tượng cho sự tự do cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Xuyên suốt cuốn kinh Satan, quan điểm về thần linh của những tín đồ Satan chính là “hình ảnh phản chiếu của cái tôi được thể hiện ra bên ngoài dưới dạng một vị thần”. LaVey thường sử dụng thuật ngữ “god” và “Satan” thay thế cho nhau, vì ông xem cả hai đều là những cách thể hiện bản chất của một con người.
    LaVey sử dụng Kito Giáo như một tấm gương tiêu cực phản chiếu đức tin của mình. Satan Giáo bác bỏ các nguyên tắc cơ bản và thần học trong Kito Giáo, bởi vì nó giống như một lời nói dối giống như chủ nghĩa duy tâm, tự lừa mình, có hành vi đàn áp và phi lý. LaVey xem tôn giáo của ông có tác dụng nhằm cân bằng mọi thứ bằng cách khuyến khích chủ nghĩa duy vật, cái tôi, chủ nghĩa vô thần. Satan của LaVey còn đại diện cho một điều quan trọng nữa là bài xích sự bác bỏ về bản năng gốc của loài người, thay vào đó Satan Giáo khuyến khích việc vui hưởng và sử dụng những bản năng này. Và như vậy, ta sẽ đặt trọng tâm vào tâm hồn của mình chứ không phải là linh hồn.
    Bản Chất Của Loài Người Theo Satan Giáo
    LaVey nhìn nhận con người, khi đã chấp nhận rằng mình là một thể vượt trội hơn trên tất cả giống loài thì tất thảy đều trở thành “một con vật xấu xa nhất trong tất cả”. Đối với LaVey thì trẻ em và động vật không phải là con người đại diện cho lý tưởng này, bởi vì “đó là những tâm hồn thanh sạch nhất còn tồn tại” vì tất thảy những tâm hồn đó đều không bị vướng mắc và biết đến những khái niệm tội lỗi và xấu hổ, cũng như biết về các tôn giáo. Quan điểm của riêng ông chính là đặt mình và gia đình mình lên trên hết, sau đó là đến việc làm ăn kinh doanh, và cuối cùng thì đối với nam giới thì hãy đối xử như một quý ông. Để đối phó với những nguy hiểm và mối đe dọa, ông đã đảo ngược giáo lý của đạo Cơ đốc đó chính là “nếu một người cho ngươi ăn một bạt tai vào một bên mặt, thì hãy nghiền nát mặt bên kia của hắn”. LaVey không tin vào kiếp sau.
    Tương tự như vậy, LaVey đã lên tiếng chỉ trích thái độ tiêu cực và sự hạn chế về tình dục của những đạo giáo khác, thay vào đó là khuyến khích và hỗ trợ bất cứ hoạt động tình dục nào nếu như cả 2 bên đầu đồng thuận. Giáo hội của ông cũng chào đón những người đồng tính từ rất lâu. Ông tin rằng việc tiết chế ham muốn tình dục mà không được dùng các biện pháp giải tỏa chúng sẽ gây ra những tội ác ngoài đời thực, và nên thỏa mãn những ức chế tình dục bằng cách thủ dâm hoặc quan hệ theo bất cứ cách nào nếu cả 2 bên liên đới đều thoải mái và đồng tình, từ đó sẽ phát triển một xã hội hạnh phúc và lành mạnh hơn. Còn đối với phụ nữ, LaVey khuyến khích họ sử dụng tình dục như một công cụ để thao túng người khác, nằm nâng cao khả năng cá nhân của họ. Và ngược lại, việc quan hệ tình dục mà không nhận được sự đồng thuận ví dụ như hãm hiếp và ấu dâm đều đã bị LaVey và Giáo Hội của ông tố cáo.
    Định Nghĩa Về Pháp Thuật (Magic)
    Mặc dù lý tưởng của LaVey được định hình bởi một thế giới quan trần tục và khoa học, tuy nhiên ông thấy rằng niềm tin sẽ sản sinh ra nhiều dạng lực huyền diệu khác trong đời thực: thay vì mô tả chúng là siêu nhiên, quan điểm của LaVey pháp thuật chính là một phần của tự nhiên mà hiện chưa được khoa học khám phá thành công. Ông tin rằng niềm tin của những pháp thuật gia sẽ có thể tác động được đến thế giới bằng sức mạnh ý chí của riêng họ. Trong kinh Satan, ông đã định nghĩa pháp thuật là “sự thay đổi một tình huống hoặc một sự kiện thuận theo ý muốn của một người, mà không cách thức bình thường nào thay đổi được”. Quan điểm của ông về khoa học và pháp thuật bị ảnh hưởng bởi Crowley, nhưng ông không tin vào sự phân chia giữa pháp thuật trắng và ma thuật đen. Vì sự phân biệt này là điều hoàn toàn giả dối đến từ những kẻ tự nhận mình là “pháp sư chân thiện”
    Hệ thống pháp thuật của Satan Giáo được chia ra làm 2 loại “tiểu” và “đại”. Đại pháp thuật có nghĩa là những pháp thuật được thi triển dưới dạng một nghi thức, có ý nghĩa là sự kích động tâm trí để dồn năng lượng sản sinh ra và hướng về một mục đích cụ thể. Những nghi thức này có 3 dạng chính bao gồm từ bi (love), tình dục (lust) và hủy diệt (hate). Phòng hành lễ Satan được gọi là “phòng thư giãn lý trí”, nơi những sự hoài nghi đều bị gạt bỏ, và các pháp sư đều được tự do thỏa mãn các nhu cầu về tình cảm và tinh thần của mình theo mọi cách. Sự ham muốn chính là yếu tố quan trọng nhất của pháp thuật. Công dụng của pháp thuật là để thỏa mãn tình dục, đạt được thành tựu vật chất, sự thành công cá nhân hoặc để nguyền rủa kẻ thù. LaVey cũng nói về yếu tố CÂN BẰNG, nhằm nhấn mạnh rằng bất cứ pháp thuật nào đi nữa thì cũng phải thực tế. Những nghi lễ thường được coi là một hình thức trang trọng. LaVey cũng khuyến khích việc thực hành pháp thuật để hỗ trợ cho nhu cầu của con người. Phần lớn các nghi lễ Satan đều được thiết kế để hành pháp một mình, điều này cũng là vì sự độc lập chính là chìa khóa để thực hiện các pháp thuật.
    Còn tiểu pháp thuật, hay còn gọi là pháp thuật đời thường, là về cách sử dụng và thực hiện sự thao túng bằng phương pháp tâm lý học ứng dụng. LaVey định nghĩa các yếu tố quan trọng của tiểu pháp thuật chính là tình cảm, sự gây tò mò và tình dục. Phù thủy sẽ sử dụng ngoại hình và ngôn ngữ cơ thể của mình, cùng với mùi hương, màu sắc, dáng dấp của chính mình. Pháp môn này khuyến khích phù thủy tự cải thiện bản thân mình, thay đổi một số yếu tố về ngoại hình để ta có thể dụ dỗ và mê hoặc một đối tượng vì sự ham muốn.
    LaVey phát triển một cái gọi là “đồng hồ Synthesizer”, cấu tạo của nó là để nhằm phân tích con người ra thành những nhóm người khác nhau dựa trên cơ thể và tính cách. Chiếc đồng hồ này sẽ hỗ trợ phù thủy trong việc xác định bản thân, sau rồi sẽ trợ giúp trong việc sử dụng tìm kiếm một đối tượng qua những mặt đối lập. Khi bạn đã tìm thấy vị trí của mình trên đồng hồ, bạn sẽ được khuyến khích để thích ứng với nó cho phù hợp, và hoàn thiện loại thuật của bạn đang sử dụng bằng cách điều hòa các yếu tố nhằm đạt được sự thành công cao hơn.



    Khái Niệm Về Các Lễ Nghi

    Hai khái niệm này cần phải được làm rõ, các nghi thức, nghi lễ chính là nghi lễ pháp thuật được sử dụng để phục vụ nhu cầu của bản thân, còn lễ nghi là để tổ chức và dành cho những hoạt động đặc biệt. Các nghi lễ được tổ chức bởi một cá nhân, còn lễ nghi được tổ chức bởi một hội nhóm.
    Và cả hai đều không phải là những hành động thờ cúng quỷ thần.
    Các lễ nghi có nghĩa chính xác là “những màn trình diễn kịch tính” với những hướng dẫn cụ thể như phục trang cần mặc, cần sử dụng âm nhạc gì và thực hiện các động tác như thế nào. Mục đích của những nghi lễ này là để nhằm tạo nên hiệu ứng sân khấu hào nhoáng và tăng cường thêm người tham gia để bổ trợ cho sức mạnh pháp thuật. LaVey quy định nam giới sẽ mặc áo chùng đen, nữ giới lớn tuổi nên mặc đồ đen tuyền, còn phụ nữ trẻ thì sẽ ăn mặc khiêu gợi để tạo nên sự hấp dẫn và kích thích tình dục một trong số những người đàn ông. Tất cả những người tham gia đều phải mang bùa hộ mạng có biểu tượng ngôi sao năm cánh ngược hoặc ấn hiệu Baphomet.
    Theo hướng dẫn của LaVey, bàn thờ Satan sẽ treo một hình ảnh Baphomet. Nến được sử dụng để hành pháp là nến màu đen. Nến trắng chỉ được sử dụng trong nghi lễ hủy diệt, chỉ duy nhất một cây đặt bên phải bàn thờ. Ngoài ra pháp cụ còn gồm có một chiếc chuông, một chiếc chén đựng đồ uống gọi là “Rượu Ngọt Cuộc Đời”, một thanh gươm tượng trưng cho quyền lực, một chiêng, và giấy da để viết những lời thỉnh cầu Satan và sau đó sẽ được đốt. Mặc dù được sử dụng thức uống là rượu, nhưng không được phép quá say sưa và không hút ma túy, đó là điều cấm kỵ.
    Trong một số nghi thức, bàn thờ sẽ là một người nữ khỏa thân, đó là hình ảnh tượng trưng cho bàn thờ tiên khởi. Cô ta sẽ nằm trần truồng trên bàn thờ. Không có bất cứ hoạt động quan hệ tình dục hoặc hiến tế sinh mạng nào trong các nghi lễ Satan. Trẻ em bị cấm không được dự lễ này, ngoại trừ Bí Tích Rửa Tội Satan được thiết kế đặc biệt để dành cho trẻ em.





    Satan Giáo có những ngày “lễ thánh” nào?
    Có 3 ngày đại lễ trong Satan giáo mà tất cả mọi người cùng hân hoan, đó là ngày sinh nhật của chính mình, ngày Halloween và đêm hội phù thủy Walpurgisnacht.
    Biểu tượng của Satan Giáo

    Biểu tượng của Giáo hội Satan chính là một ngôi sao năm cánh đảo ngược cùng với một con dê bên trong. Ban đầu khi Giáo hội Satan chưa được thành lập thì LaVey thường sử dụng biểu tượng thập tự ngược để chế nhạo Kito giáo. Đến sau này ông mới sử dụng một biểu tượng sao năm cánh đảo ngược, có đầu con dê bên trong và những kí tự Do thái cổ bên ngoài ghép thành chữ “Leviathan”, đây được coi là một biểu tượng chính thức và độc quyền bởi giáo hội Satan. Nó được gọi là Ấn Hiệu Baphomet.

    Tiếp theo, làm thế nào để THỰC SỰ trở thành một tín đồ Satan?
    Không giống như tên gọi của nó, LaVeyan Satanism có rất ít, hoặc là chẳng hề liên quan đến Satan trong kinh thánh của đạo Thiên Chúa. Trên thực tế, những tín đồ Satan còn không tin vào ma quỷ. Được sáng lập bởi Anton Szandor LaVey vào năm 1966, chủ nghĩa Satan là một tôn giáo “vô thần” có trọng tâm là niềm tự tôn, sự tự do và sức mạnh. Chủ nghĩa Satan là chủ nghĩa cá nhân và tự do trong suy nghĩ. Để trở thành một tín đồ Satan, thì ta chỉ cần sống theo một vài nguyên tắc đơn giản thì đã được coi là một Satanist (tín đồ Satan) rồi. Nhưng có một vài cách để bạn có thể CHÍNH THỨC trở thành một tín đồ Satan thực sự.
    Bước 1: Tìm đọc kinh Satan
    Nội dung của kinh Satan bao gồm học thuyết và thực hành theo tư tưởng của Satan giáo, được viết và sáng lập bởi Anton Szandor LaVey. Bạn nên đọc kinh Satan trước khi có ý định trở thành một tín đồ Satan, mặc dù điều này cũng không cần thiết nếu như bạn không thực sự muốn được công nhận.
    *Sách được bày bán trên Amazon và Ebay, tên sách là “The Satanic Bible”. Nếu không thì bạn có thể tải miễn phí trên mạng về. Còn nếu thực sự nghiêm túc và muốn đầu tư, thì qua SatanShop Vietnam để sắm một cuốn kinh Satan ấn bản Tiếng Việt 100%. Trên mạng có sẵn một vài chương đầu bằng tiếng Việt của cuốn kinh Satan nhưng không đầy đủ.
    Bước 2: Học về Tam Đại Giới Luật
    Tam Đại Giới Luật Satan chính là nền tảng triết lý của Satan giáo, bao gồm:
    9 Tuyên Bố Của Satan
    11 Điều Răn Của Satan
    9 Mối Tội Đầu Của Satan
    Bước 3: Bắt đầu sống như một tín đồ Satan
    Hãy sống một cách độc lập. Giáo hội Satan tán thành tư duy độc lập như là một trọng tâm chính yếu của đạo. Vì trong Satan giáo, từ “Satan” đại diện cho sự lựa chọn. Bạn có quyền không đồng quan điểm với những người khác, thậm chí là với cả tín đồ Satan khác,
    - Độc lập có nghĩa là độc lập trong niềm tin và cuộc sống của bạn. Satan giáo tập trung chủ yếu vào những vấn đề xoay quanh cuộc sống và xã hội.
    - Hãy tự quyết, bạn không cần phải đồng tình với một người chỉ vì họ cũng là một tín đồ Satan. Bạn nên tự quyết định và duy trì ý kiến của chính mình để trở nên thực sự độc lập.
    Bước 4: Hành Pháp
    Nghi lễ Satan gồm có 2 loại “tiểu” và “đại” pháp thuật, có tác dụng để thực hiện hóa ước muốn của một người. Giống như việc thiền định hoặc yoga, các nghi lễ có trọng tâm là tập trung và hướng tâm trí tới một mục tiêu cụ thể hoặc cách suy nghĩ như thế nào để đạt được điều mình muốn.
    - Nghi lễ không cần phải được thực hiện dưới ánh nến hay trong đêm trăng. Sự ham muốn và khả năng tập trung là tất cả những gì cần thiết rồi. Bạn có thể làm điều này theo cách tốt nhất của mình.
    - Đại pháp liên quan đến bản thân bạn, để nhằm thay đổi cảm xúc và suy nghĩ của riêng bạn.
    - Tiểu pháp nhằm thay đổi cảm xúc và suy nghĩ của người khác thông qua những nỗ lực của chính bạn
    Bước 5: Kỉ niệm một số ngày lễ
    Trong Satan giáo, ngày lễ quan trọng nhất trong năm chính là ngày sinh nhật của mỗi người. Là một tôn giáo tự tôn vinh bản thân mình nên không có ngày lễ “thánh” nào to hơn sinh nhật của bạn được. Hãy tổ chức thật hoàng tráng, long trọng và dành cho mình một ngày đại lễ.
    - Tín đồ Satan cũng tôn vinh thiên nhiên. Trọng tâm là sự thay đổi theo mùa. Ví dụ như đông chí và xuân phân, họ cũng sẽ tổ chức một lễ kỉ niệm.
    - Halloween cũng là một dịp tương tự. Nhiều tín đồ Satan thích ngày này bởi vì mỗi năm một lần, ai ai cũng muốn được trở thành “một cái gì đó” và thuộc về chính mình.
    - Giáng sinh được coi là một lễ kỉ niệm dành cho việc vui hưởng chỉ sau lễ hội Cổ giáo. Mặc dù Giáng sinh thường sẽ là truyền thống của Kito giáo nhưng tín đồ Satan cũng không có vấn đề gì về điều này. Họ tập trung vào việc ăn uống vui chơi và mua quà tặng cho bạn bè.
    Bước 6: Hãy vui hưởng trong tầm kiểm soát.
    Nếu thú vui của bạn là điều hợp pháp thì cứ việc hưởng thụ. Tuy nhiên, Giáo Hội Satan chỉ tán thành sự vui hưởng chứ không phải là nghiện ngập. Nghiện ngập là đi ngược lại với khuôn khổ của Satan giáo. Vì sự sống còn là điều luật cao nhất!


    Hình ảnh Baphomet của Eliphas Levi's được LaVeyan Satanism sử dụng như là một biểu tượng của tính nhị nguyên, khả năng sinh sản và quyền lực của bóng tối. Đồng bộ với biểu tượng chính của họ, Ấn Hiệu Baphomet
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  5. #5
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo phái sáng tạo

    Giáo phái sáng tạo. Giáo phái sáng tạo là một tôn giáo mà chỉ có người da trắng được phép tham gia. Nhóm này được biết gây ra nhiều vụ đe dọa và khủng bố. Giáo phái này theo chủ nghĩa vô thần, phủ nhận "đức tin" vào thần thánh nên không thờ bất cứ ai
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  6. #6
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo phái Scientology

    Đây là một trong những giáo phái tôn giáo nổi tiếng nhất vì có sự tham gia của vài ngôi sao nổi tiếng Hollywood. Đối tượng mà Scientology hướng đến là tâm hồn, chứ không phải thể xác hay trí tuệ bởi giáo phái này cho rằng con người không đơn thuần chỉ là sự tương tác giữa gene với môi trường sống và con người có thể có được tự do tinh thần đích thực với Scientology. Các thành viên của giáo phái này tin rằng đời sống con người luôn bị cản trở bởi các ký ức tiêu cực trong kiếp trước và chỉ thông qua việc áp dụng phương pháp điều trị tâm lý với tên gọi Dianetics (Thuyết xuyên hồn) của người sáng lập Hubbard, họ mới có thể đạt được cảnh giới “trong sạch”.
    Giáo hội Scientology được lập ra bởi nhà văn L. Ron Hubbard vào năm 1952 với cốt lõi niềm tin rằng tâm hồn con người luôn bị cản trở bởi những ký ức tiêu cực tồn tại trong kiếp trước và điều này khiến họ không thể tận hưởng cuộc sống hiện tại. Việc áp dụng những luận lý của giáo hội sẽ giúp xây dựng cầu nối với sự tự do hoàn toàn và con người có thể sống như một linh hồn thuần khiết.


    Scientology có nhà thờ và trường huấn luyện cao cấp mang tên Sea Organization (Sea Org), được thành lập hồi năm 1968. Những đứa trẻ từ 5 đến 10 tuổi sẽ được dạy dỗ tại đây mà không có sự kiềm cặp của bố mẹ. Theo lời nam diễn viên Paul Haggis, người đã rút khỏi giáo phái, ví quá trình huấn luyện trẻ em nơi đây khắc nghiệt đến nỗi xem chúng chẳng khác gì "nô lệ trẻ em ở Haiti".

    Scientology chính thức được công nhận là một tôn giáo tại Mỹ, Úc, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thụy Điển và Đài Loan. Trong khi đó, ở một số quốc gia khác như Pháp, Đức, New Zealand, nhiều tranh cãi xoay quanh việc Scientology có thực sự là một tôn giáo hay không.

    Một trong những điểm cực đoan bị nhiều người lên án của Scientology chính là chính sách không liên hệ. Theo đó, các thành viên của giáo phái phải cắt đứt liên lạc với bạn bè, người thân và thậm chí cả vợ chồng, con cái nếu như những người đó nghi ngờ và phản đối tổ chức này.

    Không ít nguồn tin cho rằng chính sách này là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự tan vỡ của Tom Cruise và Katie Holmes. Lá đơn ly hôn được cho là mở ra con đường sống của 2 mẹ con Katie và Suri trước khi tham vọng đưa con gái của Tom Cruise trở thành đại sứ cho Scientology trên toàn thế giới, của giáo phái này trở thành sự thật. Gia đình tan vỡ không hề ảnh hưởng đến niềm tin tuyệt đối của Tom Cruise dành cho Scientology và đến nay anh vẫn là một trong những tín đồ ngoan đạo của giáo phái này.

    Tín đồ nổi tiếng nhất và được xem như "gương mặt đại diện" của giáo hội Scientology không ai khác chính là tài tử Tom Cruise.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  7. #7
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo phái khủng bố Yahweh ben Yahweh

    Giáo phái này được thành lập ở Miami, Mỹ, không theo Kitô giáo cũng không theo Do Thái giáo, thay vào đó, nhóm giáo phái này kết hợp niềm tin của nhiều tôn giáo khác nhau thành một tôn giáo mới, dựa trên nền tảng của phong trào Do Thái của người da màu

    Ác quỷ trên đất Mỹ

    Đập vào mắt anh là cảnh tượng hãi hùng – một người đàn ông bị chặt đầu trong trang phục quần jeans và áo phông. Máu vẫn cuộn trào tuôn chảy từ cổ người đàn ông xấu số. Bữa tiệc máu mới chỉ bắt đầu…
    Hành trình tội ác của cậu bé nghèo (…)

    Cái chết ghê rợn

    Ngày 13/11/1981, một công nhân xây dựng lái xe tải xuống mỏm đá ở rìa Everglades để kiểm tra thiết bị.

    Khi dừng xe, anh đột ngột phát hiện ra một chiếc chăn màu đỏ còn vương trên bụi rậm, cách đường cái một vài mét. Đây là cảnh tượng hiếm gặp ở vùng đất hẻo lánh xa xôi không một bóng người. Tò mò, anh rời khỏi xe rồi chầm chậm bước tới.

    Lại gần, anh cẩn trọng lật chiếc chăn lên. Đập vào mắt anh là cảnh tượng hãi hùng – một người đàn ông bị chặt đầu trong trang phục quần jeans và áo phông trường đại học Florida Atlantic. Máu vẫn còn tuôn chảy từ cổ của nạn nhân xấu số. Người lái xe nhanh chóng nhận ra người đàn ông này vừa bị sát hại. Ngay lập tức, anh trở về xe và báo cho cảnh sát.

    Nạn nhân tội nghiệp là Aston Green, 25 tuổi, gốc Jamaica. Anh là người đã dám thách thức giáo phái khủng bố mới nổi Yahweh ben Yahweh ở trung tâm thành phố Miami lúc bấy giờ. Đây là giáo phái cực đoan nổi cộm trong suốt cả thập kỉ sau đó. Giáo phái này hoạt động dưới sự lãnh đạo của kẻ da đen tự xưng là “Đấng cứu thế” Hulon Mitchell Jr – một kẻ căm ghét những người da trắng. Hắn luôn tiêm nhiễm vào đầu các con chiên của mình sứ mệnh “loại bỏ những con quỷ da trắng”. Hắn còn yêu cầu họ mang về các mảnh thi thể để chắc chắn rằng họ đã hoàn thành sứ mệnh được giao.

    Cơn thịnh nộ của Mitchell được đổ lên người Green, người đã không còn ảo tưởng với giáo điều ghê tởm của giáo phái và quyết định từ bỏ nó. Vì “tội lỗi” ấy, Green đã bị chặt đầu không thương tiếc. Green cũng là nạn nhân đầu tiên trong số 14 vụ sát hại dã man khác do giáo phái này gây ra.

    Trái tim thương tổn

    Hulon Mitchell Jr là con cả trong gia đình có 15 anh em của Pearl và Hulon Mitchell Sr. Gia đình hắn là một trong số ít các hộ dân da đen ở làng lúa mì Kingfisher, Oklahoma. Cha của hắn, Hulon Sr, là một mục sư Ngũ Tuần Thánh. Ông luôn bị chế nhạo bởi người dân trong làng, chủ yếu là những người Baptist bởi những nghi lễ thánh thần kì cục của mình.

    Mitchell là một cậu bé có nước da sáng giống hệt như người mẹ của cậu và đôi mắt xanh lá sáng ngời. Cậu là đứa trẻ khá nhạy cảm, luôn buồn vui bất chợt. Cậu đặc biệt thích thú với các bài giảng đạo của cha.

    Năm 1941, gia đình Mitchell chuyển tới sống tại Enid, bang Oklahoma. Ở đây, người da màu vẫn chỉ là thiểu số. Mitchell được cha mẹ gửi tới trường học. Trong suốt những năm này, Mitchell luôn bị giày vò bởi nạn phân biệt chủng tộc. Cậu bị xếp vào nhóm Boy Scout dành cho những người da màu. Mitchell phải mang đồ ăn từ nhà đi và ăn trưa ở bãi phế thải. Không một ai thân thiện với cậu muốn dùng bữa cùng cậu,…Tất cả chỉ vì Mitchell có nước da màu đen.

    18 tuổi, Mitchell gia nhập lực lượng không quân tại khu căn cứ quân sự không quân Vance, Enid. Cậu kết hôn với một thiếu nữ trẻ xinh đẹp và hai người có với nhau 4 mặt con.

    Cuộc sống quân ngũ dạy Mitchell biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hết thảy, kể cả tín ngưỡng tôn giáo, gia đình và bản thân.

    Tuy nhiên, thực tế cuộc sống vốn không đơn thuần như thế. Hàng ngàn người lính da đen đã ngã xuống vì nước Mỹ trong suốt chiều dài lịch sử. Vậy mà giờ đây, họ vẫn không được phép ngồi ở nhà ăn, dù chỉ để thưởng thức một li cà phê. Sự bất công ấy đã dấy lên trong lòng Mitchell những nghi hoặc và thù hận về mọi thứ.

    Mitchell trở thành lãnh đạo của phong trào đấu tranh đòi quyền con người ở Enid và xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc ở nơi đây.

    Sau khi giải ngũ, Mitchell được theo học chuyên ngành tâm lí tại trường đại học Enid's Phillips. Đây cũng là lúc hắn bắt đầu hoạt động trong các phong trào tôn giáo.

    Không thể chịu đựng được các hoạt động tôn giáo của chồng, vợ hắn đã đệ đơn xin ly dị.

    Nhưng rồi Mitchell bắt đầu mất niềm tin vào các phong trào dân quyền bởi theo hắn, các phong trào này không còn tập trung vào việc giải phóng những người da đen bị áp bức.

    Mitchell bắt đầu tham dự các cuộc họp của những quốc gia Hồi giáo. Tại đây, các tín đồ tin rằng, người da đen là chủng tộc cao quý nhất của loài người và kêu gọi phân biệt chủng tộc trên phạm vi toàn cầu. Lần đầu tiên trong đời, Mitchell thấy rằng nước da đen của mình là món quà của Thượng đế.

    Sự ra đời của một đế chế

    Những tín đồ Hồi giáo da đen, tự đổi tên cho mình, từ cái tên mà người chủ nô đã đặt cho tổ tiên họ thành chữ “X” để khẳng định việc chối bỏ sự áp bức của người da trắng.

    Michell cũng không là ngoại lệ. Hắn đổi tên mình thành Mitchell X rồi chuyển tới Atlanta và theo học thạc sĩ ngành kinh tế tại đại học Atlanta. Tại đây, hắn giúp đỡ những người da đen với sự trợ giúp từ người vợ mới, Chloe Hight. Hắn cũng đổi họ của mình thành “Shah” – có nghĩa là người thống trị.

    Hắn bắt tay xây dựng đế chế của riêng mình, khởi đầu với việc thâu tóm các nhà thờ Baptist. Không chỉ thế, với tấm bằng kinh tế trong tay, hắn không gặp mấy khó khăn trong việc thâu tóm quyền kiểm soát những doanh nghiệp của người Hồi giáo da đen, trong đó phải kể đến chuỗi nhà hàng sang trọng cùng 1 cửa hàng bánh và 1 cửa hàng thời trang.

    Khi quyền lực của Mitchell vượt khỏi tầm kiểm soát cũng là lúc hắn bị buộc tội biển thủ $50,000 đô từ kho bạc nhà thờ. Hắn nhanh chóng biến mất không một dấu vết.

    Thâu tóm quyền lực

    Ít lâu sau, Mitchell lại tái xuất ở Atlanta dưới một cái tên khác: Đức cha Michel.

    Lần này, Đức cha Michel hợp tác với thương nhân Freedberg, giành quyền kiểm soát hệ thống radio truyền thông ở Atlanta. Hắn mặc sức truyền đạo tới các con chiên của mình và không quên hứa hẹn sẽ mang đến cho các tín đồ sức khỏe, hạnh phúc và chiến thắng trong những trò chơi xổ số trúng thưởng.

    Hắn nói với đàn chiên của mình rằng: người da đen "mới là người Do Thái đích thực". Người da đen là một trong 12 thị tộc ở Israel đã bị đuổi ra khỏi quê hương của họ trong thời Cựu Ước. Hắn còn quả quyết rằng Chúa Trời là người da đen, giống như các tông đồ của mình. Hắn nói rằng hắn là “Đấng cứu thế”, Yahweh ben Yahweh, trong tiếng Do Thái có nghĩa là "Đứa con của Chúa". Hắn cũng không quên hứa hẹn sẽ đưa họ trở về miền đất hứa Jerusalem để thiết lập vương quốc của riêng họ.

    Thông điệp về việc đoạt lại quyền lợi cho người da đen của hắn gây được tiếng vang lớn trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi – những người hàng ngày hàng giờ là nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc bất công bấy giờ. Những người tham gia giáo phái của Mitchell thuộc nhiều thành phần trong xã hội: từ những đứa trẻ trong hội nam sinh, phó cảnh sát trưởng, những cụ bà cho đến cả những kẻ vừa mới ra tù. Họ đồng ý để Mitchell kiểm soát mọi khía cạnh cuộc sống của mình: từ chế độ ăn kiêng đến vấn đề tài chính và đời sống tình dục.

    Chẳng mấy ai nhận ra mình đang dần dần đánh mất tự do cho kẻ bạo chúa hoang tưởng.

    Những người Hồi giáo da đen luôn theo dõi chặt chẽ mọi động thái của hắn. Nhất cử nhất động của hắn đều được giám sát nghiêm ngặt. Họ cho rằng, việc chạy trốn khỏi các quốc gia Hồi giáo của hắn là minh chứng cho việc biển thủ công quỹ. Vì thế, họ muốn hắn trở lại trao trả số tiền trên. Mitchell cũng thuê vệ sĩ và trang bị hệ thống báo động và chống trộm trong động thái đáp trả.

    Cuối cùng, những gì Mitchell lo sợ đã trở thành sự thật. Tháng 5/1969, “Đức cha Michel” bị ba người đàn ông súng ống đầy đủ truy sát. May mắn sống sót, hắn ngay lập tức bắt lấy cơ hội kiếm chác.

    Hắn đăng những tờ rơi quảng cáo rằng mình có thể chữa khỏi bệnh và mang lại may mắn cho mọi người nhờ “Tấm vải thánh”. Trên tờ rơi còn đăng tải “lời cảm ơn” của những con chiên thiện nguyện dành cho hắn như: “nhờ có Đức cha mà tôi đã mua được xe Cadillac; nhờ Đức cha mà tôi mở được tiệm cắt tóc.”

    Công cuộc tuyên truyền của hắn thành công rực rỡ. Chẳng lâu sau, hắn và gia đình chuyển tới một căn biệt thự lớn. Hắn còn tự mở một nhà thờ riêng – “nhà thờ Thiên chúa giáo hiện đại”. Ở đây, hắn ăn vận như một ông hoàng với áo chẽn satin trắng, vương miện bằng vàng cùng một cây quyền trượng. Hắn cũng tự đặt ra điều lệ trong giáo hội, theo đó, hắn là giáo hoàng kiêm bộ trưởng phụ trách về cuộc sống.

    “Chúa muốn bạn trở nên giàu có” – đó là điều hắn tuyên bố với giáo đoàn của mình. Thông điệp này được những con chiên sùng đạo đón nhận nồng nhiệt. Nếu Chúa ban phát cho họ giàu có thì Đức cha Michel là người chỉ đường dẫn lối cho họ để đạt được điều đó. Họ đến nhà thờ của hắn vào chủ nhật hàng tuần, trích ra những đồng tiền xương máu mà mình đã vất vả kiếm được cho hắn để hi vọng vào một tương lai sáng lạn hơn như Mitchell đã hứa hẹn.

    Trò lừa đảo mạt hạng của Mitchell chấm dứt vào nửa cuối những năm 70 khi hắn bị khởi kiện vì tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hắn nhanh chóng một mình bỏ xứ mà đi.

    Con đường trở thành giáo chủ

    Lần xuất hiện tiếp theo của hắn là ở Orlando, Florida, với cái tên “Brother Love” dưới danh nghĩa một nhà truyền đạo.

    Hắn đi khắp các con phố để truyền bá về niềm tin và hi vọng cho những người bị áp bức, bóc lột. Chẳng mấy chốc, hắn đã tập hợp được một số lượng tín đồ đáng kể, trong đó có Linda, 29 tuổi, một bà mẹ đơn thân với 3 đứa con nhỏ. Linda nhận thấy Mitchell là một người đàn ông tốt với lối sống thẳng thắn – không rượu chè, nghiện ngập. Cô nghĩ rằng hắn sẽ có ảnh hưởng tốt tới các con mình. Cô trở thành người vợ thứ 3 của Mitchell. Linda không ngờ rằng, những nỗi kinh hoàng đang chờ đợi mình ở phía trước.

    Được các tín đồ chi trả mọi chi phí, Mitchell một lần nữa tiếp tục việc nghiên cứu tôn giáo còn dang dở. Hắn đọc hết các tư liệu về những tín ngưỡng tôn giáo trên thế giới mà hắn biết: từ đạo Phật, đạo Do Thái, đến đạo Sikh, đạo Hindu. Hắn tin rằng, những quyển Kinh Thánh chứa đựng nhiều thông điệp bí mật hữu ích. Hắn kết hợp niềm tin của nhiều tôn giáo khác nhau thành một tôn giáo mới, Yaweh ben Yahweh, dựa trên nền tảng của phong trào Do Thái của người da màu.


    Yaweh ben Yahweh
    Giống như những người da màu theo đạo Hồi, giáo phái Yaweh ben Yahweh bác bỏ Cơ đốc giáo – tôn giáo bắt buộc của người Mỹ gốc Phi do chủ nô áp đặt. Cả hai phong trào tôn giáo đều lấy màu đen làm chủ đạo, thay thế cho màu trắng của Cơ đốc giáo. Đạo Do Thái, với sự nhấn mạnh về tự do và câu chuyện Exodus - câu chuyện về con người bị bắt bớ thoát khỏi ách nô lệ và thành lập quốc gia riêng - có vẻ như rất phù hợp cho người da đen bị áp bức. Mitchell đổi tên thành Och Mosche Israel, tiếng Do Thái nghĩa là người anh cả Moses Israel, bởi hắn tin rằng hắn được thụ phong để lãnh đạo nhân dân của mình giành tự do.

    Năm 1978, Mitchell và Linda chuyển tới sống tại Miami. Những người da đen ở Miami là phần thiểu số bị lãng quên khi đảng cộng sản lên nắm quyền tại Cuba. Họ phải sống trong mớ bòng bong mưng mủ của nghiện ngập và đói nghèo. Mosche cho rằng sứ mệnh của mình là giải cứu những con người khốn khổ ấy.

    Vừa đặt chân tới vùng đất mới, Mitchell đã nhanh chóng truyền đạo để lôi kéo các tín đồ. Hắn tuyên truyền cho từng người một, đến từng nhà hàng, từng hiệu sách và công viên, giới thiệu mình là một "giáo viên Kinh Thánh”. Hắn mặc một bộ đồ sắc nét và nói chuyện với họ bằng một giọng điệu mềm mỏng, dễ chịu: “Bạn có biết rằng Chúa Trời là người da đen không? Đó là bí mật được lưu giữ bấy lâu nay”. Hắn hào sảng tuyên bố.

    Mitchell in tờ rơi và rải khắp các khu phố có người da đen sinh sống, mời mọi người tìm hiểu về tôn giáo mới của mình. Tò mò, nhiều người dân bắt đầu tụ tập trước cửa nhà hắn. Họ ngồi trên sàn nhà trong phòng khách của hắn, nghe Och Mosche Israel tuyên bố về “đắng cấp” thật sự của họ, và cảm thấy thăng hoa.

    Hắn cũng không quên dặn dò những tín đồ ngoan đạo của mình nên tự tách biệt với chủng người da trắng. Để hiện thực hóa điều đó, hắn tự mở trường tư tại nhà một tín đồ. Gần 20 đứa trẻ bị nhồi nhét trong một căn phòng chật hẹp. Mitchel tự soạn giáo trình học cho những đứa trẻ này bằng những bài báo về tội phạm để khẳng định “âm mưu” chống lại người Mỹ gốc Phi của người da trắng. Khi những đứa trẻ ra đường và hét lên rằng: “Tôi ghét lũ da trắng”, một vài bậc phụ huynh bắt đầu lo lắng và cho con thôi học ở trường của Mitchell.

    Tháng 12/1979, 5 cảnh sát Miami đã đánh một người da đen đến chết bằng đèn pin. Tuy nhiên, các thẩm phán da trắng lại tuyên bố 5 cảnh sát trên vô tội. Điều này vô hình trung đã chứng minh những luận điệu trước đó của Mitchell là đúng.

    Bạo loạn nổ ra nhanh chóng, cả thành phố chìm trong biển lửa. Ba ngày sau, 18 người đã thiệt mạng và 417 người bị thương.

    Không lâu sau, những tín đồ của hắn đã tới tìm gặp Mitchell với hàng loạt những câu kiểu như: “Tôi có thể bảo vệ con tôi khỏi lũ da trắng man rợ hay không? Người Mỹ da trắng là bọn bắt cóc, khủng bố dã man”. Tất cả họ đều lo lắng, giận giữ và mất niềm tin vào những người bảo vệ của pháp luật.

    Mitchell bảo đảm rằng hắn sẽ chăm lo cuộc sống cho họ từ cái ăn, cái mặc cho đến sự an toàn của họ. Dần dần, hắn tự gọi mình là Yahweh ben Yahweh, Con trai của Chúa Trời.

    Tháng 10/1980, Yahweh ben Yahweh đã phát triển thành giáo phái hùng mạnh. Mitchell quyết định mua một khu nhà kho đổ nát ở khu vực người da đen sinh sống ở thành phố Tự do, Miami để lập đại bản doanh của mình. Hắn yêu cầu các thành viên cắt đứt mọi mối liên hệ với người da trắng và chuyển về đây sinh sống. Hắn nói rằng, đây sẽ là nơi họ sống và làm việc cho đến khi trở về Jerusalem.

    Phần lớn các thành viên đều ngần ngại trước ý tưởng sinh hoạt, làm việc cả ngày ở đây và từ bỏ quốc tịch Mỹ. Cuối cùng, có 30 người bán nhà và xe hơi, bỏ học, thôi việc rồi chuyển về khu nhà kho đổ nát sinh sống.

    Tòa nhà khá lớn, trải dài một khu phố. Mọi người đều dốc sức để sửa chữa. Tường được sơn mới lại, hệ thống ống nước và điện cũng được khôi phục lại. Họ treo bức tranh của những nhân vật trong Kinh Thánh đen lên tường - một Đức Trinh Nữ Maria với nước da đen, Noah, Moses. Có người còn vẽ thành phố tương lai - thành phố của những người da đen.

    Họ đặt tên cho khu nhà kho ấy là Ngôi đền yêu thương Yahweh

    Họ chia nó thành một làng quê thu nhỏ, với không gian được chia tách cho một khu bảo tồn, một quán cà phê, một cửa hàng tạp hóa, giặt ủi, trung tâm y tế, và thậm chí cả một tiệm kem. Các cửa hàng in ấn phát hành những ấn bản tuyên truyền của Mitchell, bao gồm một cuốn sách gọi là “You Are Not a Nigger! Our True History; The World's Best Kept Secret" với những miêu tả về Đức Chúa da màu.

    Trong khu nhà ở, mỗi gia đình được quy hoạch sống trong khu vực rộng chừng 3-3,5m, ngăn cách với những người khác bằng một phân vùng dài 2,4m. Một số người trang trí tủ của mình với các vật lưu niệm của cuộc sống cũ của họ trong khi một số lại chỉ có độc một tấm chăn trên sàn nhà. Không hề có bất cứ sự riêng tư nào ở đây.

    Họ giữ nếp sinh hoạt khá nghiêm ngặt: Thức dậy vào 5 giờ sáng vệ sinh thân thể, sau đó sẽ bắt đầu cầu nguyện và học Kinh Thánh.

    Mitchell đã chọn 10 thanh niên khỏe mạnh, tạo thành “Vòng tròn chữ Thập” để giám sát nhà kho và các vùng lân cận.

    Đàn con chiên của hắn ngày càng lớn mạnh, đó cũng là lúc hắn đặt ra yêu cầu lớn hơn đối với họ.

    “Có bao nhiêu người trong số các bạn có thể sẵn sàng chết vì Yahweh? Bạn có dám giết người vì Yahweh không?” – Hắn điềm tĩnh hỏi các tín đồ của mình.

    Và đám đông hào hứng đáp lại: “Có. Chúng con sẵn sàng chết vì Yehweh. Chúng con sẽ giết người vì Yahweh.”

    Nhúng chàm

    Mitchell thường lẻn vào phòng các chị em vào nửa đêm với lí do “dạy” Kinh Thánh khi những ngọn đèn đã tắt. Thật khó để giữ bí mật tại các khu chật chội như vậy, và mọi người bắt đầu bàn tán về hành vi ngày càng đáng ngờ của hắn. Khi những lời đồn đại lọt tới tai Mitchell, hắn phẫn nộ tuyên bố rằng hắn không lập gia đình mặc dù đã được Đức Chúa yêu cầu.

    Ít lâu sau, các lớp học tình dục của Mitchell bắt đầu.

    Mitchell yêu cầu phụ nữ và trẻ em gái vị thành niên tham dự các lớp hộ sinh do bản thân hắn hướng dẫn. Họ bị bắt tránh xa y học hiện đại và để những đứa con của mình ở nhà, như trong thời Kinh Thánh.

    Các cặp vợ chồng bị cấm sử dụng biện pháp tránh thai, và “Con trai của Chúa” muốn các môn đệ của mình có em bé ngay sau khi họ đến tuổi dậy thì. Hắn muốn bộ tộc của mình ngày càng phát triển, bắt đầu từ bây giờ.

    Mitchell ghi chép lại cẩn thận danh sách những đứa trẻ được sinh ra ở dãy nhà kho vào một cuốn sách đen lớn mà hắn gọi là “Cuốn sách cuộc sống”, giống như cuốn sách mà Chúa Trời dùng để ghi chép tên của những con chiên sẽ được người cứu vớt.

    Những sự việc trong lớp hộ sinh được Mitchell ra lệnh giữ bí mật. Tuy nhiên, mọi chuyện vẫn bị rò rỉ ra ngoài.

    Mitchell vốn không có kiến thức về y học. Vì thế, hắn đọc sách hướng dẫn về việc hộ sinh tại gia. Các học viên khi tới lớp của hắn bị yêu cầu phải ở trần và quan hệ với hắn. Hắn bắt một người phụ nữ ở trần nằm sấp xuống đất và yêu cầu một người khác đập mạnh vào hậu môn của cô gái đang nằm. Hắn gọi đó là cách hô hấp nhân tạo cho em bé chưa được sinh ra.

    Ngoài ra, hắn cũng đã tổ chức các lớp học tình dục bí mật cho trẻ em trai và nam giới. Hắn cho họ xem phim của phụ nữ da trắng có quan hệ tình dục với động vật nhằm ngăn chặn ham muốn gần gũi của họ với những người phụ nữ da trắng. Không chỉ vậy, họ còn bị bắt kiểm tra dương vật. Những người không cắt bao quy đầu phải trả $100 để được cắt bỏ. Ca tiểu phẫu này do đích thân Mitchell tiến hành. Hắn cam đoan rằng, ca phẫu thuật sẽ nhanh chóng và không hề đau đớn. Nhưng sự thật thì hoàn toàn ngược lại. Khi ca phẫu thuật được tiến hành, rất nhiều người đã gào thét vì đau đớn, nhiều người còn ngất xỉu. Họ bắt đầu thì thầm bàn tán về những điều kì lạ đang xảy ra với vợ và bạn gái của mình. Thẩm quyền của Mitchell bắt đầu bị đặt vào vòng nghi vấn.

    Hàng năm, Mitchell như con thú săn mồi, luôn tìm kiếm những cô bé trạc 10 tuổi để thỏa mãn nhục dục của mình. Hắn nói với các cô bé rằng đây là nhiệm vụ mà Chúa giao cho hắn. Để các cô bé giữ im lặng, hắn thường tặng các bé những món quà nhỏ xinh như bộ váy mới, dây chuyền hay thậm chí là một bữa ăn tại nhà hàng sang trọng. Sau này, một nạn nhân của Mitchell cho biết, hắn đã cưỡng hiếp ít nhất 50 cô gái. Có lần, hắn còn cưỡng dâm hai người cùng một lúc.

    Một trong những nạn nhân của hắn là con gái của Linda, người vợ 3 của Mitchell. Trải qua những năm tháng đầy tủi nhục, cuối cùng cô gái tội nghiệp kiệt quệ cả về thể xác lẫn tâm hồn. Không thể chịu đựng nổi người cha dượng thú tính, cô kể hết sự tình với các anh trai, những người vốn đã không còn tin tưởng vào Mitchell nữa. Một người trong số họ đồng ý làm nội gián cho FBI. Nhờ đó, cảnh sát thu được những chứng cứ có giá trị để trừng trị thích đáng giáo phái cực đoan này.

    Con quỷ đội lốt người

    Từ cậu bé da đen nghèo khổ, Mitchell đã vụt biến thành trọc phú trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi với chiêu bài tôn giáo. Nắm quyền lực trong tay cũng là lúc Mitchell ngày một chìm sâu vào bóng đen tội lỗi…
    >> Ác quỷ trên đất Mỹ
    Cuộc hành quyết đầu tiên

    Mitchell ngày càng trở nên độc đoán và dã man. Không ai dám làm trái ý hắn bởi dù thế nào, hắn vẫn là “Đứa con của Chúa Trời”.“Ngôi đền yêu thương” cũng chính là biểu tượng cho thể chế thần quyền tuyệt đối của hắn. Những người dám thách thức hắn ta bị lôi đi nhạo báng tại những nơi công cộng. Có trường hợp, một người đàn ông trưởng thành bị bắt nằm sấp xuống ghế để những người phụ nữ thay phiên nhau giẫm lên anh. Trong trường hợp khác, một cô gái tuổi teen bị buộc phải cởi áo sơ mi và áo ngực của cô để Mitchell sàm sỡ. Bất cứ ai bất đồng với hắn bị gọi là "Bác Tom", hoặc tệ hơn, một “tên báng bổ”.

    “Vòng tròn chữ Thập” giờ đây được trang bị dao và mã tấu, liên tục tuần tra trong khu vực trước đền. Họ cũng có nhiệm vụ giám sát những kẻ có biểu hiện chống đối Mitchell.

    Tuy nhiên, một nhóm nhỏ những người bất đồng chính kiến với Mitchell đã tập hợp lại với nhau. Họ gặp nhau tại nhà của một thành viên Yahweh, người sống bên ngoài nhà kho và so sánh các ghi chú về những điều kỳ lạ đã diễn ra.

    Những cuộc họp bí mật của họ bị bại lộ. Mitchell cấm họ giao tiếp với mọi người, xóa bỏ tên của họ trong “Cuốn sách cuộc sống”, và in một tờ rơi có tiêu đề "Cảnh báo những kẻ đạo đức giả trong Yahweh."

    Tuy nhiên, mầm mống nổi loạn vẫn nổi lên liên tục, đe dọa trực tiếp đến đế chế của Mitchell. Những kẻ bất bình trở thành cái gai trong mắt hắn.

    Hắn công khai đe dọa những con chiên của mình: "Ai không muốn tôi cai trị họ, đó là kẻ thù của tôi. Và nếu bạn là kẻ thù của tôi, bạn phải chết, phải bị giết chết... Tôi muốn nhìn thấy cảnh đó... Tôi muốn nhìn thấy đầu của những tên phản loạn lìa khỏi cổ. Tôi muốn nhìn thấy máu rỉ ra từ tĩnh mạch của chúng. Chúng sẽ không thể nhìn thấy máu mình chảy, nhưng chúng sẽ cảm nhận được điều đó khi thanh kiếm cắm cổ. Mọi kẻ thù của tôi đều chết dưới một thanh kiếm. Điều này mới thú vị làm sao!"

    Những lời đanh thép sực mùi khủng bố của Mitchell được “Vòng tròn chữ Thập” khắc cốt ghi tâm. Và Aston Green trở thành nạn nhân đầu tiên.


    Hulon Mitchell Jr - "Đức cha Mitchell".
    Green vốn là một giáo viên vừa tròn 26 tuổi, tính đến ngày bị sát hại. Anh lấy tên Elijah Israel khi gia nhập giáo phái. Sau đó, anh đã đổi lại tên cũ khi rời bỏ giáo phái này. Bất chấp việc bị cấm giao lưu với những người ở nhà kho, Green vẫn thường xuyên quay trở lại đây để thăm bạn bè.

    Vì thế, khi anh quay lại đây vào thứ 6 ngày 13, Mitchell quyết định trừ khử anh. Họ bắt Green tới một vùng hẻo lánh và đánh đập anh dã man. Trong lúc người đàn ông tội nghiệp bị hành hạ, một đứa trẻ đã vô tình trông thấy. Đứa bé bị đuổi đi ngay tắp lự. Sau này, chúng phải sơn lại sàn nhà màu đỏ để che lấp đi những vết máu của nạn nhân.

    Chúng lôi Green lên một chiếc xe tải rồi lái xe đến gần mỏ khai thác đá, nơi anh cầu xin chúng rủ lòng thương bằng giọng điệu van lơn. Tuy nhiên, những tên sát thủ máu lạnh bỏ ngoài tai mọi điều anh nói. Green bị lôi xềnh xệch tới một mỏm đá. Ở đó, chúng tiến hành hành quyết anh. Tuy nhiên, vì lưỡi kiếm không đủ sắc nên chúng đã chém anh tới 20 lần mới mang được thủ cấp về.

    "Khi chúng ta lấy đầu kẻ tiếp theo, chúng ta sẽ đặt thủ cấp của chúng trong một cái giỏ để toàn thành phố có thể nhìn thấy và biết cúi sợ trước Yahweh”, Mitchell nói.

    Tin tức về cái chết của Green làm dấy lên làn sóng phản đối Mitchell mạnh mẽ. Một số quyết định báo cho cảnh sát biết những gì đang xảy ra bên trong khu phức hợp đổ nát tại thành phố này. Họ không biết rằng trong số họ có đám tay chân của Mitchell, chờ đợi để bán tin về sự phản bội này cho hắn.

    Cơn khát máu điên dại

    Lực lượng “hành pháp” của Mitchell đã chờ sẵn Carlton Carey, một cựu tín đồ Hồi giáo, khi ông vừa trở về nhà từ một cuộc phỏng vấn khá mệt mỏi với cảnh sát. Vợ ông, bà Mildred Banks, cũng có mặt cùng Carey khi bốn người đàn ông đeo mặt nạ trượt tuyết tấn công họ ngay lúc họ bước qua cánh cửa của ngôi nhà của mình. Họ bắn Carey cho đến chết. May mắn thay, Banks vẫn sống sót dù bị bắn vào ngực. Các tay súng bỏ mặc cô cho đến chết. Nhưng Banks dùng hết sức bình sinh còn sót lại, lết tới nhà của một người hàng xóm, người đã giúp cô báo cho cảnh sát.

    Mặc dù đã hồi phục, thay tên, đổi họ và di chuyển đến một nơi bí mật, nhưng vết sẹo vòng cổ lởm chởm trên cổ vẫn luôn nhắc Banks nhớ tới cái đêm địa ngục ấy.

    Lúc này, tại “Ngôi đền yêu thương”, Mitchell long trọng tổ chức tiệc ăn mừng cái chết của những kẻ ngoại đạo. Một số người tham dự không khỏi kinh hãi khi nghe hắn thông báo về cái chết của Carey. Tuy nhiên, không một ai dám để lộ điều đó ra ngoài. Đám lính gác đền theo dõi chặt chẽ hành động của các con chiên. Chúng đưa ánh mắt soi mói tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu phản kháng nào, dù là nhỏ nhất. Những người dân tội nghiệp không có sự lựa chọn ngoài việc vỗ tay khen ngợi Mitchell để bảo toàn mạng sống. Không ai muốn trở thành nạn nhân tiếp theo trong danh sách đen của Mitchell.

    Sau khi vụ giết người xảy ra, cảnh sát mặc thường phục bắt đầu tuần tra khu nhà kho 24/24h. Do chưa có bằng chứng thuyết phục về đợt tấn công của giáo phái này nên cảnh sát chưa thể đột kích hợp pháp vào thánh đường của giáo phái. Tất cả những gì họ có thể làm là tiếp tục theo dõi sát sao. 14 người đứng đầu làn sóng nổi dậy đã lẩn trốn và không quên xóa sạch dấu vết phía sau họ. Điều này càng khiến cuộc điều tra trở nên khó khăn thêm muôn phần.

    Cuối cùng, cuộc điều tra cũng có bước đột phá mới. Những người cảnh sát đã phát hiện ra một chiếc khăn quàng màu xanh lá cây được giắt ở thành ngôi đền. Chiếc khăn này giống hệt chiếc được tìm thấy trên thi thể nạn nhân Green. Điều tra viên Frank Wesolowski, người đứng đầu cục điều tra án mạng quyết định sẽ tới thăm chính thức ngôi đền.

    Mitchell “nồng hậu” đón tiếp ngài thanh tra tại phòng làm việc của hắn với hai tên vệ sỹ to lớn bảo vệ hai bên. Hắn liên tục đánh trống lảng bằng cách giảng giải về xung đột giữa người da đen và người da trắng. “Áp bức, bóc lột là những gì các anh đã làm với chúng tôi suốt 400 năm qua. Giáo phái chúng tôi thì ngược lại. Chúng tôi hướng tới hòa bình và tình yêu chứ không phải sự chết chóc như các anh.” – Hắn nói với thanh tra Wesolowski.

    Cuộc viếng thăm này không đem lại chút kết quả nào cho thanh tra Wesolowski.

    Mặc cho những cuộc tàn sát man rợ vẫn diễn ra, giáo phái của Mitchell vẫn trên đà phát triển và tuyển chọn thêm những thành viên mới.

    Hắn đã mở các nhà thờ tại 45 thành phố trên khắp cả nước, thu hút khoảng 10,000 tín đồ. Trong đó, 500 người trực tiếp sinh sống tại dãy nhà kho. Hắn còn mua lại những chiếc xe bus cũ của hạt Dade và thuê 4 người lái xe để phục vụ khách hành hương.

    Trong số những người hành hương có Leonard Dupree, 22 tuổi, là võ sinh đai đen karate đến từ New Orleans. Bố mẹ anh không muốn Dupree gia nhập giáo phái kì quái này. Tuy nhiên, với ý chí sắt đá, cuối cùng, Dupree cũng thuyết phục được cha đi vay tiền để mình đi xe bus về “miền đất thánh”. Và anh không bao giờ trở về.

    Dupree thu hút sự chú ý của những tên canh gác đền bởi anh tự ý tách ra khỏi lớp và lủi thủi một mình. Chúng bắt đầu nghi ngờ Dupree chính là sát thủ được cử tới để giết Mitchell. Mitchell nổi cơn tam bành trước “âm mưu ám sát” này.

    Ngay trong buổi chiều hôm đó, Dupree đã đánh nhau với một tín đồ Yahweh khác trước đám đông khoảng 70 người.

    Mitchell ngay lập tức có mặt tại hiện trường.

    - “Có phải nhà ngươi muốn giết ta?” Mitchell lạnh lùng hỏi.

    - “Dạ không? Con chỉ muốn được hôn chân Người.” Dupree trả lời.

    Không chút mảy may động lòng suy suyển, Mitchell buộc tội Dupree “âm mưu ám sát”. Đám đông điên loạn bắt đầu đùng đùng nổi giận. Họ xông vào đánh đập Dupree dã man.

    Mitchell lệnh cho lính gác khóa cửa đền để không ai có thể rời đi rồi triệu tập tất cả mọi người: đàn ông, phụ nữ và trẻ em không trừ bất kì ai. Tất cả đều phải tham gia hành hạ Dupree, mặc cho anh hét lên trong đau đớn. Những tín đồ này đã bị ràng buộc với nhau bằng máu người. Ai cũng phải nhúng chàm. Không ai có thể tố cáo các vụ giết người cho chính quyền. Mọi chuyện diễn ra hệt như những gì Mitchell tuyên bố ban đầu: “Chúng ta cùng nhau giết người bởi chúng ta là một.”

    Và Dupree đã ra đi đầy đau đớn như thế. Xác của anh bị chúng mang đi thủ tiêu và không ai có thể tìm thấy thi thể anh.

    Kẻ độc tài man rợ

    Để duy trì hoạt động quảng bá cho Yahweh, Mitchell phải tiêu tốn khá nhiều tiền của. Vì vậy, hắn tìm cách tiết kiệm chi phí trong khu đền. Hắn mở một công ty thực phẩm, doanh nghiệp kinh doanh nhà đất và một công ty đóng chai. Mọi thứ đồ uống không có nhãn của Yahweh đều bị cấm.

    Những người bán hàng rong phải làm việc cật lực 18 tiếng một ngày. Doanh số bán hàng được ghi chép lại tỉ mỉ, chi tiết. Nếu không đạt được doanh thu yêu cầu, họ sẽ bị đưa đến “phòng cầu nguyện” – còn được biết đến là “phòng tra tấn”. Tại đây, những sinh linh khốn khổ bị bắt quỳ hàng tiếng đồng hồ. Nếu họ đứng dậy khi chưa được cho phép, những tên lính gác sẽ đánh đập họ bằng một chiếc roi da.

    Những tín đồ Yahweh sinh sống ngoài khu vực đền thờ và vẫn có công việc ở bên ngoài được yêu cầu phải “đóng góp” toàn bộ tiền lương cho giáo phái.


    Mitchell tiết kiệm tiền bằng cách bỏ đói và bóc lột sức lao động của các con chiên. Hắn dành tiền đầu tư vào bất động sản.

    Mở rộng được tầm ảnh hưởng, Mitchell càng dễ dàng thâu tóm những khối bất động sản khổng lồ. Hắn sở hữu trong tay hàng loạt khu phức hợp nhà nghỉ, biệt thự và chuỗi cửa hàng tiện lợi. Nhờ vậy, trị giá của “Ngôi đền yêu thương” cũng đạt mốc $8,5 triệu đô. Nơi đây trở thành một trong những tập đoàn có trị giá lớn nhất do người da đen sở hữu tại Mianmi.

    Michell ngày càng trở nên hoang tưởng. Hắn thành lập một nhóm bí mật gọi là “hội anh em”, bao gồm những thanh niên trai tráng lực lưỡng được tuyển chọn cho những nhiệm vụ bí mật. Để trở thành hội viên “Hội anh em”, các ứng viên phải trải qua bài kiểm tra sát hạch là tự tay giết chết một “con quỷ da trắng” rồi đem một bộ phận của nạn nhân về để hắn kiểm chứng.

    Robert Rozier, cựu cầu thủ bóng đá là kẻ đứng đầu đội quân giết người của Mitchell.

    Rozier là gã đàn ông cao lớn, từng chơi bóng cho câu lạc bộ Saint Louis Cardinals và Oakland Raiders. Hắn từng bị cảnh sát Mỹ và Canada truy nã với tội danh lừa đảo. Sau sáu tháng nằm trại, hắn chuyển về sinh sống ở “Ngôi đền yêu thương” và đổi tên thành Neariah Israel.

    Tháng 4/1986, hắn quyết định thử sức mình với “Hội anh em”.

    Hắn đi bộ xuống phố Coconut Grove, khu phố của người đồng tính để tìm kiếm con mồi. Một người đàn ông say bí tỉ lọt vào “mắt xanh” của Rozier. Hắn lập tức bám theo ông ta. Khi người đàn ông tội nghiệp mở cửa nhà cũng là lúc mạng sống của anh ta bị tước mất. Rozier kết liễu người đàn ông với nhát dao chí mạng vào tim. Ở cùng nhà với người đàn ông xấu số là một người đàn ông da trắng nữa. Anh ta cũng bị Rozier sát hại. Rozier không tốn nhiều công sức để chặt đầu người đàn ông tội nghiệp. Tuy nhiên, hắn loay hoay không biết xử trí ra sao để mang được “chiến lợi phẩm” đó về. Rốt cuộc, hắn đành bỏ đi.

    Tuy vậy, “Chiến công” của Rozier vẫn được Mitchell hết lời tán thưởng.

    Sau này, Rozier thừa nhận mình đã giết chết bảy người và tình nguyện làm nhân chứng phơi bày tội ác của Mitchell tại tòa.

    Năm 1986, giáo phái hắc ám này chiếm đóng bất hợp pháp một căn hộ ở thành phố nhỏ Opa-locka ở phía tây bắc Mianmi. Khi những người dân sống tại đây kháng cự, hai trong số họ đã bị nhóm Yahweh bắn chết.

    Một nhân chứng đã báo tin cho cảnh sát về Rozier – kẻ trực tiếp ra tay sát hại. Hắn bị bắt vào lễ hội Halloween năm 1986 với tội danh giết người. Lúc đầu, hắn từ chối hợp tác với cảnh sát. Tuy nhiên, trước những chứng cứ không thể chối cãi, Rozier đã cúi đầu nhận tội. Hắn đồng ý giúp cảnh sát đưa giáo phái Yahweh ra ngoài ánh sáng để tránh án tử hình. Rozier bị kết án 22 năm tù giam.

    Những con chiên sùng đạo.
    Cảm nhận được những sóng gió sắp sửa ập đến với đế chế của mình, Mitchell cuống cuồng cải thiện hình ảnh giáo hội. Hắn thuê luật sư Ellis Rubin, chuyên gia đa phương tiện về làm người quảng bá hình ảnh Yahweh. Hắn tổ chức các ngày hội mở cửa giao lưu với thế giới bên ngoài. Trong những ngày đặc biệt đó, hắn ngụy trang đế chế bẩn thỉu với vẻ ngoài hào nhoáng: những tên lính gác trút bỏ vũ khí, thay vào đó là những tập tài liệu giới thiệu, quảng bá về Yahweh; trẻ em chơi đùa và học tập trên sàn nhà bóng loáng; người dân Yahweh mỉm cười thân thiện đón khách tham quan. Mitchell tự hào khẳng định: “Chúng tôi là đại gia đình hạnh phúc.”

    Nhân dịp này, hắn còn lên tiếng chỉ trích những “luận điệu sai trái” về Yahweh.“Giáo hội Yahweh không phải là tổ chức giết chóc man rợ. Những gì Rozier nói là hoàn toàn dối trá. Một mình hắn tự gây nên chuyện, hoàn toàn không liên quan tới giáo hội”, Mitchell hùng hồn khẳng định.

    Nhờ những hoạt động kể trên, Mitchell lại một lần nữa mở rộng ảnh hưởng của giáo hội thành công trong suốt vài năm sau đó. Ngày 7/10/1990, trong một sự kiện tại Miami Arena, thị trưởng thành phố Mianmi Xavier Suarez đã tuyên bố đây là ngày “Yahweh ben Yahweh”.

    Trong khi đó, bồi thẩm đoàn liên bang đã nhận được bản cáo trạng 25 trang tố cáo hành vi tội ác của Mitchell và 15 đệ tử của hắn gây ra như giết người, tra tấn và kinh doanh bất chính.

    Ngày càng nhiều người đàn ông da trắng, phần đông là người vô gia cư và nghiệp ngập bị sát hại trên đường phố Mianmi. Cảnh sát không thể ngờ, tất cả đều do một tay của “người lãnh đạo” cộng đồng người Mỹ da đen ở đây gây nên.

    Phiên tòa kì lạ hay sự nương tay của chính quyền Mỹ

    Mitchell chính thức bị đưa ra xét xử vào 1992 tại tòa án quận Fort Lauderdale, Mỹ. Chánh án Norman Roetgger cho biết, đây là tên tội phạm man rợ nhất từng được xét xử tại tòa án liên bang. Lo sợ rằng những phần tử cực đoan trong giáo hội của Mitchell sẽ làm loạn, các nhân viên của cục điều tra liên bang Mỹ buộc phải cấm đường tại các tuyến phố gần nơi xét xử. Lực lượng chống khủng bố cũng được điều động để chốt chặn tại các cứ điểm trọng yếu.

    Trước những lời phủ nhận và bào chữa từ phía luật sư của bị cáo, bồi thẩm đoàn đã công bố những bức ảnh chụp thi thể của các nạn nhân xấu số, trong đó có cả nạn nhân Aston Green trong tình trạng đầu lìa khỏi xác để chỉ rõ những tội ác man rợ của Mitchell và đám tay chân.

    Sau hàng năm dài im lặng, cuối cùng, những con chiên tỉnh ngộ giờ đã có cơ hội trừng trị tên bạo chúa trên tòa. Họ cung cấp thông tin tỉ mỉ, chi tiết về những việc làm độc ác, bẩn thỉu của giáo hội. Một người đàn ông còn cho biết, anh ta đã bất tỉnh nhân sự sau khi phải làm việc liên tục mười mấy tiếng đồng hồ mà không được ăn uống hay nghỉ ngơi.

    “Tôi đã tận mắt chứng kiến con cái mình đói khát mà không thể làm gì được. Tôi đã bị hắn đánh đập. Hắn còn cưỡng bức hầu như tất cả phụ nữ trong đền, trong đó có cả vợ tôi”. Người đàn ông đau khổ thống thiết.

    Hàng chục con chiên của hắn đã dũng cảm đứng lên làm chứng, tuy nhiên, Mitchell vẫn giữ bộ mặt điềm tĩnh và hoàn toàn vô cảm.

    Mặc dù các nhân chứng đứng ra làm chứng về các vụ giết người nhưng điều đó vẫn chưa đủ để chứng minh rằng Mitchell là người đưa ra mệnh lệnh.

    Cuộc chiến giữa chính quyền Mỹ và “Đứa con của Chúa” càng trở nên kì cụ hơn khi Mitchell bắt đầu tự bào chữa cho mình. Hắn tự nhận mình là người giữ cửa Thiên đàng, người kiến tạo nên vũ trụ. Hắn phủ nhận mọi tội lỗi đã bị cáo buộc. Hắn một mực khẳng định giáo hội của mình là về tình yêu thương chứ không phải sự chết chóc.

    Sau cuộc điều tra kéo dài một thập kỷ, trải qua hàng loạt các phiên tòa trong suốt hơn 1 năm với 160 nhân chứng, bồi thẩm đoàn buộc phải đưa ra phán quyết cuối cùng. Phán quyết này khiến mọi công tố viên đều choáng váng: bảy tên đệ tử không bị kết án giết người mà thay vào đó, chúng được khép vào tội âm mưu giết người. Mitchell cũng chỉ bị kết án vì phạm tội âm mưu giết người. Tòa án cũng không thể kết tội Mitchell về việc làm ăn phi pháp của hắn.

    Thẩm phán Roetgger kết án 7 môn đệ của Mitchell mức án 15-16 năm tù cho từng tên. Mitchell được kết án 18 năm tù giam. Những con chiên ngoan đạo của Mitchell khóc òa trong niềm vui sướng. Trong khi đó, những nạn nhân của hắn nhỏ những giọt nước mắt thất vọng cay đắng nặng nề. Tên đồ tể đã thoát tội trót lọt.

    Vào tháng 8/2001, Hulon Mitchell Jr, khi đó đã 65 tuổi, bước ra khỏi nhà tù, chính thức trở thành người tự do mặc dù hắn mới chấp hành án 10 năm. Ngay sau đó, hàng trăm tín đồ sùng đạo lại theo hắn, tái xuất tại một hội nghị ở Canada, “vùng đất hứa” mới của giáo phái man rợ này. Các tín đồ Yahweh giờ đây vẫn tích cực tuyển chọn thành viên mới trực tuyến tại trang web Yahwehbenyahweh.com.

    Kết

    Vẫn biết rằng Mỹ là đất nước tự do nhưng việc đảm bảo an toàn cho dân chúng vẫn phải là mục tiêu chú trọng hàng đầu.

    Việc Mitchell và đám tay chân của hắn không bị trừng trị thích đáng khiến công chúng đặt dấu hỏi về hệ thống luật pháp của Mỹ. Khi những dị giáo cực đoan như Yahweh ben Yahweh vẫn mặc nhiên tồn tại ở xã hội văn minh này, hàng ngày hàng giờ đe dọa tới sự an toàn của công dân Mỹ, thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc hệ thống pháp lý nơi đây vẫn còn nhiều hạn chế.
    Last edited by changchancuu; 21-03-2019 at 07:33 PM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  8. #8
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Nhóm giáo phái Universe People (dân tộc vũ trụ)

    Nhóm giáo phái có trụ sở tại Séc này đặt tín ngưỡng vào người ngoài hành tinh, vào sự thần giao cách cảm. Các tín đồ của đạo này đặt niềm tin vào sự tồn tại của vật ngoài trái đất.

    Universe People (Dân tộc vũ trụ) hay Cosmic People of Light Powers (Người quyền lực vũ trụ) ( tiếng Séc : Vesmírní lidé sil světla ) là một tôn giáo UFO của Séc và Slovakia được thành lập vào những năm 1990 và bởi Ivo A. Benda. Hệ thống niềm tin của họ dựa trên sự tồn tại của các nền văn minh ngoài trái đất giao tiếp với Benda và những người tiếp xúc khác kể từ tháng 10 năm 1997 qua thần giao cách cảm và thậm chí sau đó bằng cách tiếp xúc cá nhân trực tiếp. Chúng được coi là tôn giáo UFO đặc biệt nhất ở Cộng hòa Séc.

    Sau vụ tự sát hàng loạt của các thành viên của giáo phái Heaven's Gate (Cổng trời) năm 1997, Dân tộc vũ trụ đã thu hút sự chú ý của truyền thông Séc như một nhóm có ý thức hệ và tiềm năng tương tự để thực hiện các hành vi tương tự. Xác suất của sự phát triển này đã giảm trong những năm sau đó (2004). Đôi khi, nhóm cũng xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng của Séc và Slovakia.


    Lịch sử

    Ivo A. Benda bắt đầu các hoạt động công khai của mình vào giữa những năm 1990. Ông đã tổ chức hơn 180 bài giảng, được hơn 12.000 người ghé thăm (theo lời của chính ông). Năm 1997, ông xuất bản cuốn sách Rozhovory s poučením od mých přátel z vesmíru ( Phỏng vấn hướng dẫn từ những người bạn của tôi từ vũ trụ ). Vào đầu những năm 2000, anh đã tìm cách thâm nhập vào các phương tiện truyền thông đại chúng, anh xuất hiện trên Nova TV và trên Truyền hình Séc (kênh phát sóng của nhà nước Séc). Một số khách tham quan các bài giảng công khai của ông coi các bài phát biểu của ông là một bí ẩn hoặc trò đùa hoàn hảo, tuy nhiên, các nhà tâm thần học đã gán cho màn trình diễn của ông là một ảo tưởng tâm lý kỳ quái . Từ năm 1998 đến năm 2000, hệ tư tưởng của Dân tộc vũ trụ gần với chủ nghĩa bè phái , với ý tưởng trung tâm là thảm họa vũ trụ và di tản người sang hành tinh khác. Tuy nhiên, những nỗ lực sau đó của họ đã chuyển sang phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của những sinh vật ngoài trái đất tiêu cực, được gọi là người saurian hoặc người thằn lằn (theo tiếng Séc : ještírci ).


    Vào nửa cuối thập niên 2000, Ivo Benda và nhóm của ông được biết đến nhiều hơn ở Slovakia . Vào năm 2007, kênh truyền hình tư nhân Slovakia TV JOJ đã báo cáo rằng Nhân dân vũ trụ đã gửi hướng dẫn về cách phòng thủ trước các cuộc tấn công của các thực thể ngoài trái đất xấu xa tới Bộ Quốc phòng Slovakia . Các phong bì cũng chứa tài liệu đáng ngờ, đã báo động cho Cảnh sát Quân sự Slovakia và các dịch vụ an ninh. Một trong những tòa nhà của Bộ đã được sơ tán. Những phong bì này chứa đĩa CD hướng dẫn và tài liệu quảng cáo của nhóm. Ivo Benda tuyên bố trên TV:"Nếu bạn bị một con thằn lằn từ thế giới bên ngoài tấn công, Bộ Quốc phòng nên bảo vệ người dân, không nên sao? Hay bạn coi những người thằn lằn đó là bạn bè?" Sự nghi ngờ về một mối đe dọa an ninh đã không được chứng minh.
    Tư tưởng


    Theo Benda, các nền văn minh ngoài trái đất vận hành một đội tàu vũ trụ, dẫn đầu bởi Bộ chỉ huy thiên hà Ashtar , quay quanh Trái đất . Họ theo dõi chặt chẽ và giúp đỡ người tốt và đang chờ đợi để chuyển những người theo họ sang một chiều không gian khác. Các giáo lý của Dân tộc Vũ trụ kết hợp nhiều yếu tố khác nhau từ ufology (một số người nước ngoài tiếp xúc với Dân tộc Vũ trụ được ghi nhận, đã từ bỏ sau một thời gian vì cho là sai lầm hoặc lừa dối), Kitô giáo (Jesus was a "fine-vibrations" being) và thuyết âm mưu (cho rằng một thế lực Ma quỷ đang lập kế hoạch để tàn sát nhân loại).

    Benda dựa trên triết lý của mình dựa trên thông tin từ nhiều cuốn sách độc lập, bao gồm Angels In Stattles (Giorgio Dibitonto), Inside The Spaceships ( George Adamski ), Bringers Of The Dawn (Barbara Marciniak) và những người khác. Ông cũng chấp nhận một phần triết lý của công dân Thụy Sĩ Billy Meier . Tuy nhiên, triết lý của Benda ở một số điểm mâu thuẫn với Meier và Meier đã từ chối mọi liên hệ với Benda và không nhận ra sự ủng hộ của anh ta.

    Các thành viên của phong trào không tin tưởng các công nghệ hiện đại và cơ chế kiểm soát của xã hội. Họ coi truyền thông đại chúng là một công cụ áp bức và thao túng. Mặc dù vậy, Benda thường tìm cách liên lạc với các nhà báo để nói ý tưởng của mình với công chúng. Họ thường gặp vấn đề với vi phạm bản quyền , bởi vì Benda đã tuyên bố rằng chủ sở hữu bản quyền duy nhất là các sinh vật Vũ trụ, những người không coi đó là quan trọng. Phong trào cũng muốn xóa bỏ tiền bạc.
    Last edited by changchancuu; 27-03-2019 at 09:01 AM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  9. #9
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo hội của cái chết nhân đạo (The Church of Euthanasia)

    Giáo hội của cái chết nhân đạo (The Church of Euthanasia). Giáo hội này tự đặt ra nhiệm vụ khôi phục lại sự cân bằng giữa con người và các loài đang cư ngụ trên Trái đất. Chỉ có một quy tắc trong giáo hội và đó là cái chết nhân đạo. Nhóm này ủng hộ việc tự tử và phá thai cũng như kê gian (giao hợp giữa đàn ông với đàn ông).


    Các Giáo Hội của cái chết nhân đạo (còn gọi là CoE) là một tổ chức tôn giáo được thành lập bởi Mục sư Chris Korda và Pastor Kim (Robert Kimberk) ở Boston , Massachusetts , Hoa Kỳ vào năm 1992.

    Chris Korda


    Pastor Kim

    Như đã nêu trong trang web của Giáo hội, đó là "một nền tảng giáo dục phi lợi nhuận dành cho việc khôi phục lại sự cân bằng giữa Con người và các loài còn lại trên Trái đất". Các thành viên của tổ chức này khẳng định điều này chỉ có thể biến thành hiện thực bằng cách giảm dân số tự nguyện, điều này sẽ phụ thuộc vào bước nhảy vọt trong ý thức của con người đối với nhận thức về loài. Theo Linh mục Chris Korda , có khả năng Giáo hội này là tôn giáo chống nhân loại duy nhất trên thế giới.

    Khẩu hiệu phổ biến nhất của nó là "Hãy cứu lấy hành tinh, tự sát" và hệ tư tưởng sáng lập của nó được đặt trong một điều răn "Ngươi không được sinh ra", và bốn trụ cột chính: tự sát, phá thai, ăn thịt người (đã chết ) và sodomy ("bất kỳ hành vi tình dục nào không nhằm mục đích sinh sản"). Giáo hội nhấn mạnh việc giảm dân số chỉ bằng các biện pháp tự nguyện.

    Giáo hội thúc đẩy quan điểm môi trường của mình chủ yếu thông qua trang web của họ và web. Họ cũng sử dụng các bài giảng , biểu diễn nghệ thuật, trình diễn công cộng, gây nhiễu văn hóa , âm nhạc, các pha nguy hiểm công khai và hành động trực tiếp để làm nổi bật dân số không bền vững của Trái đất . Họ coi các phương pháp của họ tương tự như các phong trào Dadaist , tìm ra thế giới hiện đại vô lý đến mức các phương tiện cần thiết để tiếp cận thông điệp của họ tới công chúng phải là vô lý.

    Giáo hội Euthanasia cũng nổi tiếng với những xung đột với các nhà hoạt động Kitô giáo ủng hộ sự sống .

    Những khẩu hiệu được nhóm sử dụng bao gồm "Hãy cứu lấy hành tinh, tự giết mình", "Sáu tỷ con người không thể sai" và "Ăn một thai nhi Queer cho Jesus".

    Lịch sử

    Giáo hội đã thu hút sự chú ý sớm vào năm 1995 vì liên kết với paranoia.com , nơi lưu trữ nhiều trang web gây tranh cãi hoặc bất hợp pháp. Các thành viên sau đó đã xuất hiện trên một tập của chương trình The Jerry Springer Show có tựa đề "Tôi muốn tham gia một giáo phái tự sát".


    Sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 , Giáo hội đã đăng lên trang web của mình một video âm nhạc dài bốn phút có tựa đề Tôi thích xem , kết hợp video khiêu dâm khó tính với cảnh quay về sự sụp đổ của Trung tâm Thương mại Thế giới . Đoạn phim có một bản nhạc điện tử được ghi lại bởi Korda và lời bài hát, "Mọi người lặn xuống đường / Trong khi tôi chơi với thịt của tôi." Nó cũng cho thấy một người đàn ông thủ dâm và sau đó làm sạch mình bằng một lá cờ Mỹ. Korda mô tả dự án như thể hiện "sự khinh miệt và thất vọng với sự xấu xa sâu sắc của thế giới công nghiệp hiện đại".

    Trang web của Giáo hội trước đây đã có hướng dẫn về "cách tự sát" bằng cách ngạt bằng helium . Những trang này đã bị xóa vào năm 2003 sau khi một phụ nữ 52 tuổi sử dụng chúng để tự sát ở hạt St. Louis, Missouri , dẫn đến các mối đe dọa pháp lý chống lại nhà thờ.

    Last edited by changchancuu; 31-03-2019 at 10:39 AM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  10. #10
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo Phái Nuwaubianism

    Tổ chức tôn giáo được thành lập và lãnh đạo bởi Dwight York. Các tín đồ coi York là một người ngoài hành tinh đến từ hành tinh Rizq. Niềm tin của họ là những thứ chẳng hạn như sau khi bạn có con, bạn phải chôn cái nhau để ác quỷ không sử dụng nó để tạo ra một bản sao của em bé.


    Giáo phái Nuwaubian Nation hay phong trào Nuwaubian ( / n u w ɔː b i ən / ) là một nhóm tôn giáo Hoa Kỳ thành lập và lãnh đạo bởi Dwight York . York bắt đầu thành lập các nhóm Hồi giáo da đen ở New York vào năm 1967. Ông đã thay đổi giáo lý và tên của các nhóm của mình nhiều lần, kết hợp các khái niệm từ Do Thái giáo, Kitô giáo và nhiều tín ngưỡng bí truyền.

    Vào cuối những năm 1980, ông từ bỏ thần học Hồi giáo về phong trào của mình để ủng hộ chủ nghĩa Kemet và tôn giáo UFO . Năm 1991, ông đưa cộng đồng của mình đến định cư ở ngoại ô New York; sau đó họ chuyển đến gần Eatonton , quận lỵ của quận Putnam ở Georgia . Những người theo ông đã xây dựng một hợp chất có chủ đề Ai Cập cổ đại gọi là Tama-Re và đổi tên thành "Quốc gia Nuwaubian của người Moors". [1]

    Đến năm 2000, "United Nuwaubian Nation of Moors" có khoảng 500 tín đồ. Họ đã thu hút hàng ngàn du khách cho "Ngày của Saviour" (sinh nhật của York). Tuân thủ giảm mạnh sau khi York bị kết án vì nhiều tội lạm dụng tình dục và vi phạm tài chính, và bị kết án 135 năm tù liên bang vào tháng 4 năm 2004. Hợp chất Tama-Re bị bán dưới sự tịch thu và phá hủy của chính phủ. [3] Các Trung tâm Luật Nam nghèo được mô tả York như là một "lãnh đạo giáo phái supremacist đen", và đã được tổ chức như một "nhóm ghét".

    Nhóm này đã lấy rất nhiều tên, bao gồm Cộng đồng Ansaru Allah, Bộ Đền tạm, Quốc gia Moors của Vương quốc Hồi giáo (sau khi chuyển đến Georgia), Yamassee Người Mỹ bản địa của Quốc gia Lạch (cũng được sử dụng ở Georgia khi York tuyên bố tổ tiên bản địa thông qua di cư Ai Cập và giao thoa với Olmec cổ đại ) và Nuwaubian Nation of Moors.

    Người sáng lập


    Quốc gia Nuwaubian chỉ tập trung vào người của người sáng lập, Malachi (Dwight) York, người đã thay đổi tên của mình một cách hợp pháp nhiều lần và đã sử dụng hàng tá bí danh.

    York sinh ngày 26 tháng 6 năm 1935 (cũng được báo cáo là năm 1945). Ông bắt đầu chức vụ vào cuối những năm 1960, từ năm 1967 thuyết giảng cho một nhóm mà ông gọi là "Nubians" Pan-Phi (viz. Người Mỹ gốc Phi) ở Brooklyn .

    York thành lập nhiều đơn đặt hàng huynh đệ bí truyền hoặc bán tôn giáo dưới tên khác nhau trong những năm 1970 và 1980, lúc đầu cùng pseudo- Hồi giáo dòng, sau đó chuyển sang một chủ đề Ai Cập cổ đại Afrocentric lỏng lẻo, eclectically trộn ý tưởng lấy từ chủ nghĩa dân tộc Đen , cryptozoology và tôn giáo UFO và thuyết âm mưu phổ biến . Trong những năm 1980, ông cũng hoạt động như một nhạc sĩ, với tư cách là "Tiến sĩ York" xuất bản dưới nhãn hiệu "Passion Records".

    York đã xuất bản khoảng 450 tập sách (được đặt tên là "cuộn") dưới nhiều bút danh. Vào cuối những năm 1990, ông tự phong mình là một nhà tiên tri sáng lập thiên sai về phong trào của mình, đôi khi tuyên bố địa vị thần thánh hoặc nguồn gốc ngoài trái đất, xuất hiện trong lễ kỷ niệm Ngày Cứu thế của ông tại Tama-Re.

    York đã bị bắt vào tháng 5 năm 2002, và năm 2003, anh ta đã nhận tội lạm dụng tình dục trẻ em sau khi bị truy tố về 197 tội lạm dụng tình dục trẻ em, bao gồm các tội buôn bán tình dục trẻ vị thành niên trên toàn tiểu bang. Anh ta bị cầm tù. [8] Năm 2004, anh ta bị kết án 135 năm vì tội vận chuyển trẻ vị thành niên qua các dòng trạng thái trong quá trình lạm dụng tình dục họ, đấu giá và báo cáo tài chính. Những lời kết tội của anh ta được giữ nguyên khi kháng cáo. [9] Trường hợp của York được báo cáo là vụ truy tố tội lạm dụng trẻ em lớn nhất từng nhắm vào một người duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, cả về số lượng nạn nhân và số vụ việc. Vụ án được mô tả trong cuốn sáchUngodly: Câu chuyện có thật về Ác ma chưa từng thấy (2007) của Bill Osinski, một phóng viên đã đưa tin về Nuwaubian ở Georgia vào cuối những năm 1990.

    Một số phe phái của nền văn hóa siêu quyền lực đen ở Hoa Kỳ dường như tiếp tục ủng hộ York vào năm 2010, miêu tả niềm tin của anh ta là một âm mưu của "Cấu trúc quyền lực trắng". Malik Zulu Shabazz , chủ tịch của New Black Panther Party và luật sư của York, đã mô tả York là "một nhà lãnh đạo vĩ đại của nhân dân chúng tôi [Hồi và] nạn nhân của một âm mưu mở của kẻ thù của chúng tôi."

    Lịch sử

    Trong những năm 1970, nhóm đã thiết lập các hiệu sách và chương ở Trinidad; Baltimore ; và Washington, DC . Theo cựu tín đồ Saadik Redd, York có từ 2.000 đến 3.000 người theo dõi trong những năm 1970. Trụ sở chính của công ty đặt tại Bushwick, Brooklyn , cho đến năm 1983. Một phần của cộng đồng đã chuyển đến Hạt Sullivan, New York , đến một địa điểm mà họ gọi là Camp Jazzir Abba. Nhiều người ở lại Brooklyn cho đến khoảng năm 1991.


    Một giáo sĩ Hồi giáo, Bilal Philips , đã xuất bản The Ansar Cult ở Mỹ năm 1988, tố cáo phong trào này là phi đạo Hồi. Phillips đã dựa rất nhiều vào lời chứng thực của các cựu học viên trong việc mô tả niềm tin và thực hành của nhóm.

    Vào cuối những năm 1980, York đã vay mượn từ nhiều truyền thống tôn giáo và bí truyền ngoài Hồi giáo, tạo ra phong trào "Nuwaubian". York tạo kiểu cho phong trào của mình trong sự pha trộn giữa chủ đề Ai Cập cổ đại và người Mỹ bản địa . York đã thay đổi tên hợp pháp của mình một lần nữa, từ "Issa Al Haadi Al Mahdi" thành "Malachi York", có hiệu lực từ ngày 12 tháng 3 năm 1993.

    Cựu tín đồ Robert J. Rohan đã có một cái nhìn phê phán về những thay đổi của York, như đã lưu ý trong cuộc phỏng vấn này:

    "Malachi York đã nảy ra ý tưởng di chuyển xuống miền Nam ... bởi vì anh ta đang bị FBI điều tra," Rohan nói. "Anh ấy đã cung cấp cho chúng tôi những người theo anh ấy lý do không có thật rằng chúng tôi đang di chuyển xuống miền Nam để gặp cha mẹ thiêng liêng của mình. Anh ấy luôn nhanh chóng quên rằng anh ấy đã đưa ra nhiều hơn một lý do cho nhiều thay đổi mà anh ấy đã giới thiệu trong toàn tổ chức."

    Sau khi chuyển đến Georgia, York và những người theo ông đã tuyên bố liên kết với Masons và với các tín ngưỡng của người Do Thái, Kitô giáo và Ai Cập. "Một khi anh ấy bắt đầu thay đổi ý tưởng tôn giáo, những tín đồ lớn tuổi trở nên hoài nghi và rời khỏi nhóm," Rohan nói. "Đó là những gì đã xảy ra với tôi."

    Trong các chủ đề của nó, người Nuwaubia đã mượn một yêu sách đối với tổ tiên bản địa, có lẽ từ Quốc gia Washitaw (một nhóm ly khai Louisiana Black do một 'hoàng hậu' lập dị lãnh đạo). Họ tự xưng là người bản địa, tên là Yamasee (tuyên bố liên kết với liên minh các quốc gia Mỹ bản địa Muscogee (Lạch) ở khu vực Georgia) cũng như "Người Moors". Họ tuyên bố một cuộc di cư thời tiền sử đến Mỹ "trước khi các lục địa trôi dạt". Tại thời điểm này, nhóm tự gọi mình là "Những người thổ dân Mỹ bản địa Yamassee". Trong thời gian đầu những năm 2000, York chủ trì tại Tama-Re kiểu như "riêng Pharoah neter A'aferti Atum-Re chúng tôi", lãnh đạo và mystagogue trưởng của "The Ancient Egiptian Order."


    Ảnh hưởng chính trị ở Georgia
    Ban đầu người Nuwaubia được coi là lập dị nhưng có thể chịu đựng được. Nhưng căng thẳng gia tăng cục bộ khi họ phát tờ rơi tấn công người da trắng và tuyên bố đàn áp chủng tộc trong một cuộc xung đột quy hoạch. Họ đã thiết lập một hộp đêm trong một nhà kho trên tài sản của họ. Họ xa lánh nhiều cư dân trong khu vực, cả đen và trắng.

    Căng thẳng với chính quyền quận gia tăng vào năm 1998, khi quận tìm kiếm một lệnh cấm xây dựng và sử dụng vi phạm quy hoạch. Đồng thời, cộng đồng Nuwaubian đã tăng tờ rơi của Eatonton và các khu vực lân cận, buộc tội các quan chức da trắng phân biệt chủng tộc và cố gắng tăng cường phản đối họ. Các mối đe dọa được gắn kết và một xác chó bị cắt bỏ được để lại tại nhà của luật sư quận.

    Trong quận Putnam, người Nuwaubia mất sự hỗ trợ đen, một phần bằng cách cố gắng tiếp quản chương NAACP . Nhưng bên ngoài, họ đã kêu gọi các nhà hoạt động quốc gia, tuyên bố bị đàn áp chủng tộc trong quận. Trong thời gian này, nhóm đã duy trì các cửa hàng Đền tạm "tại hơn một chục thành phố ở Mỹ, Vương quốc Anh và Trinidad" và tiếp tục thu được doanh thu từ họ. York đã mua một biệt thự $ 557.000 để sử dụng riêng của mình trong Athens, Georgia , khoảng 60 dặm, nơi Đại học Georgia nằm.

    Năm 2001, nhóm đưa ra các ứng cử viên của riêng họ, liên kết với Đảng Cộng hòa, cho văn phòng công cộng, bao gồm cả cảnh sát trưởng.Ứng cử viên của họ đã bị đánh bại.

    Cùng với một cuộc diễu hành của quốc gia Nuwaubian được tổ chức tại Augusta, Georgia vào tháng 2 năm 2001, văn phòng của thị trưởng Augusta Bob Young (1999 ,2002005) đã công bố một tuyên bố được viết bởi tổ chức Nuwaubian, nêu rõ niềm tin của nhóm. Trích dẫn bao gồm "Nuwbun là người gốc da đen, da nâu đến da đen, lông cừu." "Sự vĩ đại của chủng tộc Đen đã được chấp nhận ở Mỹ và nhiều cuốn sách như người Timbuktu Châu Phi hoặc người Olmecia từ Uganda, Châu Phi, người di cư và đi bộ đến Bắc và Nam Mỹ để thiết lập đường đi trước khi trôi dạt lục địa."

    Trong một cuộc phỏng vấn với một phóng viên từ The Augusta Chronicle , Thị trưởng Young nói rằng ông đã không đích thân đọc bản tuyên bố trước khi phát hành. Ông giải thích rằng văn phòng của ông thường phát hành các tuyên bố được soạn thảo và đệ trình để xuất bản bởi các nhóm dân sự mà không phải chịu sự xem xét nội dung quan trọng. [20] Ông đề nghị rằng những tuyên bố như vậy không cấu thành các vị trí chính thức của văn phòng thị trưởng hoặc tuyên bố về quan điểm của thị trưởng.

    Vào ngày 8 tháng 5 năm 2002, Tama-Re bị đột kích bởi một lực lượng chung của các đặc vụ FBI và ATF, cảnh sát tiểu bang và cơ quan thực thi pháp luật địa phương. Mặc dù có những lo ngại rằng cuộc đột kích sẽ kết thúc bằng bạo lực, nhưng không có phát súng nào được bắn trong chiến dịch, mặc dù hơi cay được sử dụng bởi Đội giải cứu con tin của FBI.

    York, cùng với vợ của mình, đã bị bắt bên ngoài tài sản cùng ngày với các cáo buộc liên quan đến lạm dụng tình dục trẻ em và đánh vợt, bao gồm vận chuyển trẻ vị thành niên để sử dụng tình dục. Ông đã bị kết án vào năm 2004 bởi một bồi thẩm đoàn tại tòa án liên bang và bị kết án 135 năm tù giam liên bang. Kháng cáo của ông đã thất bại, và Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã từ chối nghe đơn kháng cáo cuối cùng. Tama-Re đã bị bán trong tình trạng tịch thu tài sản theo phán quyết và chủ sở hữu mới đã phá hủy các cấu trúc. Với những tiết lộ về hành vi của York, nhiều tín đồ đã từ bỏ nhóm, mặc dù một số phe phái của Quốc gia Nuwaubian vẫn tồn tại.

    York hiện đang bị giam giữ tại ADX Florence , một nhà tù liên bang có an ninh tối đa ở Florence, Colorado . Ông sẽ đủ điều kiện để được tạm tha vào năm 2122.

    Năm 2004, bảy sĩ quan của sở cảnh sát Macon, Georgia đã từ chức khỏi công việc của họ để phản đối việc truy tố York. Năm trong số những sĩ quan này sau đó được thuê bởi nhà tù Clarke County, Georgia làm lính canh. Bốn người trong số họ đã bị sa thải năm 2006 (người thứ năm từ chức) sau khi họ buộc tội buôn lậu văn học Nuwaubian vào nhà tù, tương ứng với tù nhân York, khuyến khích các tù nhân nổi dậy chống lại lính canh trắng và thể hiện sự ưu ái đối với tù nhân Nuwaubian. Chỉ huy nhà tù đã bị sa thải sau khi ông bắt đầu một cuộc điều tra về ảnh hưởng của Nuwaubian tại nhà tù. Anh ta nói rằng anh ta tin rằng anh ta đã bị sa thải vì anh ta thực hiện cuộc điều tra này.

    Ảnh hưởng đến hip-hop
    Là "Tiến sĩ York", người lãnh đạo phong trào đã hoạt động như một ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc ở Brooklyn trước khi rời khỏi khu vực. Trong thời gian này, những lời dạy Nuwaubian của ông có ảnh hưởng đến văn hóa hip hop và Black ở New York. Nhà báo Adam Heimlich của New York Press cho rằng những điều sau đây chịu ảnh hưởng của York: Jaz-O , Doug E. Fresh , Afrika Bambaataa , Kelvin Mercer (Posdnuos) từ De La Soul , Prodigy từ Mobb Deep và MF Doom .

    Trong bài viết của mình về giáo phái của York, Heimlich đã xem xét một số tác phẩm được xuất bản của nhà lãnh đạo. Ông viết rằng York đã mượn từ nhiều nguồn khác nhau cho ý tưởng của mình:

    Một danh sách một phần, từ ghi chú của tôi, về những nơi tôi đã gặp các khái niệm Nuwaubian trước đây bao gồm Chariots of the Gods và các tôn tạo của Rael trên cuốn sách đó, âm mưu thắp sáng, UFO thắp sáng, phong trào tiềm năng của con người , Phật giáo và thời đại mới , chiêm tinh , Thông Thiên Học và Blavatsky , Leonard Jeffries và khác Afrocentrics , Cayce , LaRouche , y học cổ truyền , tự lực sáng, Satan , các chế độ ăn kiêng Atkins , số họcvà yoga . Nhiều người trong số những đề cập đến York theo tên. Ngoài ra còn có các bài thuyết trình rộng rãi về Torah , Tin mừng và Koran , cũng như về Rastafarianism , Quốc gia Hồi giáo và Quốc gia năm phần trăm .

    Trong số các nhóm nhạc hip hop độc lập , có những người Nuwaubian thực hiện những gì họ gọi là Nu-wop, như Daddi Kuwsh, Twinity , Nefu Amun Hotep, 9thSellectist, Scienz of Life, Ntelek , Jedi Mind Tricks, Aslaam Mahdi, 720 El Bashir và những đứa trẻ bị mất của Babylon . Ở nơi "Swords of Malachai" của Light, Rasul buông lỏng: 'Khi lưỡi của tôi vung lên dưới dạng con dao hai lưỡi, nó mang đến Nuwaubu, đó là Kiến thức, sự khôn ngoan và hiểu biết đúng đắn.' "

    Trong một bài báo cho Honor Nation, AL JakeAl Reum suy đoán rằng những tranh cãi Native American kitsch trang phục và đạo cụ từ OutKast 's Giải Grammy lần thứ 46 thực hiện vào năm 2004 được lấy cảm hứng từ niềm tin Nuwaubian về người Mỹ bản địa là 'Moors' trong x

    Niềm tin


    Southern Poverty Law Center mô tả hệ thống niềm tin của Nuwaubian là "pha trộn các ý tưởng siêu quyền lực đen với sự thờ phượng của người Ai Cập và các kim tự tháp của họ, một niềm tin vào UFO và nhiều âm mưu khác nhau liên quan đến Illuminati và Bilderbergers" ngày 10 tháng 11. , 2004 như sau: "Người da trắng không được chọn để lãnh đạo thế giới. Họ thiếu cảm xúc thực sự trong sáng tạo của họ. Chúng tôi không bao giờ có ý định cho họ được bình yên. Họ được lai tạo để trở thành kẻ giết người, với mức sinh sản thấp và tuổi thọ ngắn." Một lời giải thích khác có người da trắng đến từ Cain: "Adam và Eva đã được gửi đến Quần đảo Aegean giữa châu Á và châu Âu, nơi họ bắt đầu có con và mỗi cặp vợ chồng 'trong Kinh thánh, và Cain là viết tắt của người da trắng. "

    Năm 1994, Ghazi Y. Khankan, giám đốc văn phòng New York của Hội đồng về Quan hệ Hồi giáo American American , đã bình luận về York và nhóm của ông dựa trên lịch sử của họ ở Brooklyn. Ông nói, "Đó là một giáo phái, theo ý kiến ​​của tôi và trong Hồi giáo không có giáo phái. Họ coi nhà lãnh đạo của họ là một nhà tiên tri, có nghĩa là họ đã đi chệch khỏi đạo Hồi."Sự tương đồng bề ngoài của niềm tin của York với tín ngưỡng của Cổng Trời đã dẫn đến một số bài báo lo lắng sau vụ tự tử hàng loạt của nhóm đó trong sự xuất hiện của Comet Hale Muff Bopp vào năm 1997, trong đó giáo phái được cho là đã nói rằng một con tàu vũ trụ đã theo dõi sao chổi.




    Đức tin
    be-lie-eve: nói dối con của Eve.
    Da trắng
    từ "Carcass-Asian" có nghĩa là "Châu Á thoái hóa" [ cần dẫn nguồn ]
    chứng khó đọc
    từ " khó khăn " trong tiếng Hy Lạp ( khó, khó hoặc chống lại ) và "lexia" Latin ( luật ), có nghĩa là "đi ngược lại luật" [30]
    Thượng Đế
    từ các chữ cái tiếng Do Thái Gomar, Oz, Dubar, biểu thị "sự khôn ngoan - sức mạnh - vẻ đẹp"; [31] luân phiên, từ này xuất phát từ việc đảo ngược các chữ cái của "con chó" (Điều này cần sự ủng hộ, vì tiếng Do Thái không có chữ O và tên của G và D lần lượt là Gimel và Dalet. Không phải Gomez và Dubar.) [32 ]
    Chúa Giêsu
    sự kết hợp của các từ "Jah" và "Zeus" [33]
    Hoa Kỳ
    từ tiếng Ai Cập "usa" có nghĩa là "mắt" [23]
    Last edited by changchancuu; 05-04-2019 at 08:34 PM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  11. #11
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Hội Aetherius

    Hội Aetherius: Các tôn giáo nói rằng Chúa Giê-su là một người ngoài hành tinh
    Được thành lập vào giữa những năm 1950 bởi một cựu tài xế taxi người Anh. Aetherius là một tôn giáo thời đại mới với hệ thống niềm tin được xây dựng xung quanh ý tưởng rằng một loạt "Bậc thầy vũ trụ" (chủ yếu từ Sao Kim và Sao Thổ) điều khiển số phận của loài người.

    Ngoài ra, họ tập trung rất nhiều vào việc cầu nguyện và "bổ sung năng lượng tinh thần" cho Trái Đất, nhằm dọn đường cho "Next Master”, một siêu nhân vật sẽ đáp xuống Trái Đất trong chiếc đĩa bay được trang bị “ma thuật” mạnh hơn “sức mạnh vật chất của tất cả quân đội trên thế giới”.


    Hội Aetherius là một tổ chức được tạo thành từ một nhóm người tuyên bố rằng Chúa Giê-su là một trong những nhân vật quan trọng nhất của Kitô giáo, thực ra là một người ngoài trái đất của hành tinh Kim tinh. Hiện tại, họ đang lên kế hoạch cho một cuộc hành hương đến một "ngọn núi thiêng liêng" nằm ở Devon.
    Nguồn gốc của hội Aetherius

    Hội Aetherius có nguồn gốc từ năm 1955, khi nó được George King thành lập. Người đàn ông này khi sống tuyên bố đã có liên lạc với Chúa Giê-su vào năm 1958, khi ông ở Holdstone Hill. Devon, Anh.

    Người đàn ông nói rằng đó là một ngày rất tối và có gió trong ngày trên đồi, đột nhiên thấy thứ gì đó từ khóe mắt anh trên bầu trời, là một nhân vật mặc áo choàng và mái tóc dài màu nâu xuất hiện trước mặt anh. Và điều đó, bằng cách nào đó, bằng thần giao cách cảm, ai đó nói với anh ta rằng đó là Chúa Giê-su và rằng anh ta đến từ hành tinh Venus (sao Kim).

    Ông cũng nói rằng Chúa Giê-su đã đến trong một tàu vũ trụ, và ngâm tẩm ngọn núi với năng lượng và bản thân mình . Vì lý do này, họ tin chắc rằng ngọn núi này là một nơi thiêng liêng.

    SAO KIM
    Hoạt động cầu nguyện sức mạnh

    Vào thứ Bảy ngày 28 tháng 7 năm nay, tổ chức sẽ thực hiện một chuyến hành hương đến Hill of Holdstone, mô tả nó như là một "sứ mệnh vũ trụ" được George King hình dung, nơi "năng lực tinh thần được gọi qua thần chú và cầu nguyện và nó được chuyển đến một thùng chứa vật lý đặc biệt, sẽ được giải phóng ".

    Niềm tin của Hội Aetherius

    Theo những gì họ đặt trên trang web của họ, niềm tin của họ dựa trên triết lý và giáo lý đến từ trí thông minh rất tiên tiến từ các hành tinh khác, như sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc và sao Thổ.

    Tóm lại, Hội Aetherius là một trong nhiều tôn giáo thời đại mới, tuyên bố có chân lý tuyệt đối của thế giới trong tay họ. Tuy nhiên, giống như phần còn lại, nó không có gì để sao lưu.
    Last edited by changchancuu; 31-07-2019 at 07:58 AM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  12. #12
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Hội Order of the Solar Temple

    Niềm tin và hoạt động của hội bí mật này liên quan đến sự pha trộn giữa Kitô giáo sơ khai, UFO, triết học Thời đại mới và các nghi lễ Freidiaon.

    Họ vốn là tổ chức hòa bình, với một số niềm tin khác thường, chẳng hạn như cái chết chỉ là ảo ảnh và cuộc sống vẫn tiếp diễn trên các hành tinh khác, cho đến khi con trai 3 tháng tuổi của một trong những thành viên hội tại Canada bị đem làm vật hiến tế vào tháng 10/1994 vì được cho là kẻ chống lại Chúa Trời.

    Ngay sau đó, 15 người trong hội đã tự sát hàng loạt và 38 người khác được phát hiện bị bắn hoặc đánh đập đến chết một cách bí ẩn, tất cả đều mặc áo choàng theo nghi lễ.

    Không dừng lại, tháng 11/1995, cảnh sát Pháp tiếp tục tìm thấy thi thể của 13 người trưởng thành và 3 trẻ em tại một cánh rừng. Tất cả đều có mối liên hệ với Hội Order Of The Solar Temple.

    Order of the Solar Temple, còn gọi là Ordre du Temple Solaire (OTS) ở Pháp và International Chivalric Organization of the Solar Tradition, hoặc đơn giản là The Solar Temple, là một tổ chức bí mật và là giáo phái mà tư tưởng được dựa trên những lý tưởng của các Hiệp sĩ gác đền (Knights Templar ). OTS được sáng lập bởi Joseph Di Mambro và Luc Jouretvào năm 1984 tại Geneva với tên gọi là Ordre International Chevaleresque de Tradition Solaire (OICTS) và sau đó đổi tên thành Ordre du Temple Solaire .
    Một số nhà sử học cho rằng Solar Temple được sáng lập bởi một người Pháp Jacques Breyer , người đã thành lập một overeign Order of the Solar Temple vào năm 1952. Năm 1968, một phân nhánh tách ra được đổi tên thành Renewed Order of the Solar Temple (ROTS) dưới quyền lãnh đạo của một nhà hoạt động chính trị người Pháp là Julien Origas .
    OTS có lẽ nổi tiếng nhất vì liên quan đến một loạt vụ giết người và tự sát hàng loạt vào năm 1994 và 1995 đã cướp đi hàng chục mạng sống ở Pháp , Thụy Sĩ và Canada .
    NIỀM TIN
    Theo "Peronnik" (bút danh của thành viên giáo phái Robert Chabrier) trong cuốn sách " Pourquoi la Résurgence de l'Ordre du Temple? Tome Premier: Le Corps " (" Tại sao một sự hồi sinh của Dòng mặt trời? Vol. One: The Body" ") 1975, tr. 147 -149, các mục tiêu của Dòng Đền mặt trời bao gồm: thiết lập" những quan niệm đúng đắn về uy quyền và quyền lực trên thế giới "; một sự khẳng định tính ưu việt của tâm linh đối với thời gian; hỗ trợ nhân loại thông qua một "quá trình chuyển đổi" lớn; chuẩn bị cho lần tái lâm của Chúa Kitô với tư cách là một vị vua mặt trời; và tiếp tục một sự hợp nhất của tất cả các nhà thờ Kitô giáo và Hồi giáo. Nhóm này đã thu hút được một số nguồn cảm hứng từ những lời dạy của nó từ nhà huyền bí người Anh Aleister Crowley , người đứng đầu Order of the Eastern Temple từ năm 1923 cho đến khi ông qua đời vào năm 1947, và Hermetic Order of the Golden Dawn , một Dòng Tên Rosicrucian thế kỷ 19 thuộc về Crowley Cả hai nhóm huyền bí đều có hệ thống cấp độ tương tự như Solar Temple . Một nhóm Rosicrucian khác, Hiệp hội Rosicrucian do Max Heindel đứng đầu, cũng đề cập rằng Rosicrucian tôn thờ Chúa Kitô là "The Solar Logos" (Rays từ Tạp chí Cross, tháng 6 năm 1933), mặc dù đây không phải là học thuyết Kitô giáo chính thống.
    Có những hội nhóm Solar Temple ở Morin Heights và Sainte-Anne-de-la-Pérade, Quebec , Canada , cũng như ở Úc , Thụy Sĩ , Martinique và các quốc gia khác. Các hoạt động của nhóm này là sự pha trộn giữa Bản sắc Kitô giáo sơ khai, tôn giáo UFO và triết lý Thời đại mới bằng cách sử dụng các nghi thức Freidiaon được điều chỉnh khác nhau . Jouret quan tâm đến các thành viên hấp dẫn, giàu có và có ảnh hưởng, và người ta tin rằng một số người châu Âu giàu có là thành viên bí mật của nhóm.
    CÂU TRÚC
    Theo tài liệu của OTS, cơ quan trung ương là Synarchy of the Temple,gồm những thành viên là bí mật. Có 33 thành viên hàng đầu của nó được biết đến như là Elder Brothers of the Rosy Cross (tên gọi thay thế của Rosicrucians), và có trụ sở tại Zürich , Thụy Sĩ . Council of the Order formed Lodges được điều hành bởi một người đứng đầu khu vực và ba trưởng lão. Trật tự trong Hội được phân theo cấp độ và cấp bậc, với ba cấp độ gồm - The Brothers of Parvis(Anh em của Parvis ), The Knights of the Alliance (Hiệp sĩ của Liên minh)và the Brothers of the Ancient Times(Anh em của Thời đại) theo thứ tự tăng dần. Có rất nhiều các tổ chức liên quan đến việc OTS, bao gồm International Archedia Sciences and Tradition, Archedia Clubs, Menta Clubs, Agata Clubs và Atlanta Clubs, tất cả đều được cung cấp những lời dạy của Lục Jouret cả cho công chúng nói chung và riêng cho các thành viên OTS. Các cở sở này đều có bàn thờ , nghi lễ và trang phục riêng. Các thành viên đã được bắt đầu ở mỗi giai đoạn thăng tiến trong các nghi lễ bao gồm mua hàng đắt tiền, đồ trang sức, trang phục, vương giả và thanh toán phí khởi xướng . Trong các buổi lễ, các thành viên mặc áo choàng Crusader và được giữ trong tay một thanh kiếm, mà Di Mambro nói là một cổ vật Templar đích thực, được trao cho anh ta một ngàn năm trước ở kiếp trước.

    VỤ GIÊT NGƯỜI HANG LOẠT VÀ TỰ TỬ
    Vào tháng 10 năm 1994, con trai sơ sinh của Tony Dutoit (Emmanuel Dutoit), được ba tháng tuổi, đã bị giết tại trung tâm của nhóm ở Morin-Heights, Quebec . Đứa bé đã bị đâm nhiều nhát bằng cọc gỗ. Người ta tin rằng Di Mambro đã ra lệnh giết người, bởi vì anh ta xác định đứa bé là Antichrist được mô tả trong Kinh thánh. Ông tin rằng Antichrist được sinh ra để ngăn Di Mambro thành công trong mục tiêu tâm linh của mình.
    Vài ngày sau , Di Mambro và mười hai tín đồ đã thực hiện nghi thức Bữa tối cuối cùng . Vài ngày sau đó , những vụ tự tử và giết người hàng loạt rõ ràng đã được tiến hành tại Cheiry và Salvan , hai ngôi làng ở Tây Thụy Sĩ, và tại Morin Heights, 15 thành viên của vòng tròn bên trong đã tự sát bằng thuốc độc, 30 người đã bị giết bởi đạn và 8 người khác đã bị giết bởi các nguyên nhân khác. Tại Thụy Sĩ, nhiều nạn nhân đã được tìm thấy trong một nhà nguyện bí mật dưới lòng đấtlót bằng gương và các mặt hàng khác của biểu tượng Templar. Các thi thể được mặc áo choàng theo nghi lễ và ở trong một vòng tròn, chân với nhau, hướng ra ngoài, hầu hết đều có túi nhựabuộc trên đầu của họ; họ từng bị bắn vào đầu. Các túi nhựa có thể là một biểu tượng của thảm họa sinh thái sẽ xảy ra với loài người sau khi các thành viên OTS chuyển đến Sirius; cũng có thể những chiếc túi này đã được sử dụng như một phần của nghi lễ OTS và các thành viên sẽ tự nguyện đeo chúng mà không bị đặt dưới sự cưỡng bức. Cũng có bằng chứng cho thấy nhiều nạn nhân ở Thụy Sĩ đã bị đánh thuốc trước khi họ bị bắn. Các nạn nhân khác được tìm thấy trong ba nhà trượt tuyết; Một số trẻ em đã chết nằm cùng nhau. Thảm kịch được phát hiện khi các sĩ quan đổ xô đến các địa điểm để chiến đấu với đám cháy đã được các thiết bị điều khiển từ xa đốt cháy. Những lá thư chia tay mà các tín đồ để lại tuyên bố rằng họ tin rằng họ sẽ rời đi để thoát khỏi "sự giả hình và áp bức của thế giới này".
    Một thị trưởng, một nhà báo, một công chức và một người quản lý bán hàng đã được tìm thấy trong số những người chết ở Thụy Sĩ. Hồ sơ bắt giữ bởi cảnh sát Quebec cho thấy rằng một số thành viên đã đích thân tặng hơn 1 triệu USD đến Di Mambro. Một nỗ lực tự sát hàng loạt khác của các thành viên còn lại đã bị cản trở vào cuối những năm 1990.Tất cả các vụ giết người / giết người và cố gắng xảy ra vào khoảng ngày của Equinoxes và solstice trong một số liên quan đến niềm tin của nhóm.
    Một sự cố chết hàng loạt khác liên quan đến OTS diễn ra trong đêm từ ngày 15 đến 16 tháng 12 năm 1995. Vào ngày 23 tháng 12 năm 1995, 16 thi thể được phát hiện trong một đội hình sao ở vùng núi Vercors của Pháp. Sau đó, hai người trong số họ đã bắn những người khác và sau đó tự sát bằng súng và thiêu. Một trong những người chết bao gồm Olympian Edith Bonlieu , người đã tham gia cuộc thi xuống dốc của phụ nữ tại Thế vận hội mùa đông năm 1956
    Vào sáng ngày 23 tháng 3 năm 1997, năm thành viên của OTS đã tự kết liễu đời mình tại Saint-Casimir, Quebec . Một ngôi nhà nhỏ phun trào trong ngọn lửa, để lại năm xác chết để cảnh sát kéo ra từ đống đổ nát. Ba thiếu niên, tuổi 13, 14 và 16, con của một trong những cặp vợ chồng chết trong vụ cháy, được phát hiện trong một nhà kho phía sau nhà, còn sống nhưng bị đánh thuốc nặng.
    Michel Tabachnik , một nhạc sĩ và nhạc trưởng người Thụy Sĩ nổi tiếng quốc tế, đã bị bắt làm lãnh đạo của Đền mặt trời vào cuối những năm 1990. Anh ta bị truy tố vì "tham gia vào một tổ chức tội phạm" và giết người. Anh ta đến xét xử ở Grenoble , Pháp vào mùa xuân năm 2001 và được tha bổng. Các công tố viên Pháp đã kháng cáo bản án và tòa phúc thẩm đã ra lệnh xét xử lần thứ hai bắt đầu từ ngày 24 tháng 10 năm 2006. Ông lại bị xóa án chưa đầy hai tháng sau đó vào tháng 12 năm 2006.
    TẠI TÂY BAN NHA
    Order of the Solar Temple cũng có trụ sở tại Tây Ban Nha , đặc biệt là ở Quần đảo Canary . Năm 1984, người sáng lập OTS, Luc Jouret, đã thuyết giảng trên đảo Tenerife . [7] Người lãnh đạo chi nhánh ở Tây Ban Nha sống ở phía nam hòn đảo. Người Tây Ban Nha duy nhất đã chết trong vụ tự sát của Order of the Solar Temple là một thợ cắt tóc từ Tenerife. Năm 1998, một giáo phái bị nghi ngờ âm mưu tự sát trong Vườn quốc gia Teide . Cả cảnh sát Tây Ban Nha và Đức ban đầu đã liên kết nhóm này với Order of the Solar Temple.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  13. #13
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Hội Thánh của Đức Chúa Trời

    Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Tin Lành Thế giới, còn gọi là Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ, là một phong trào tôn giáo mới bắt nguồn từ Hàn Quốc và hiện nay đã có mặt tại 175 quốc gia. Hội Thánh do Kim Joo-cheol và Jang Gil-ja thành lập năm 1985, tiếp quản từ Hội Thánh do Ahn Sahng-hong sáng lập năm 1964. Trụ sở chính của Hội đặt tại Bundang, thành phố Sungnam, tỉnh Kyunggi.
    Những người đi theo Hội thánh tin rằng Ahn Sahng-hong là Đức Chúa Trời Cha, Jang Gil-ja là Đức Chúa Trời Mẹ,[1] và cho rằng họ đang khôi phục lại lẽ thật của hội thánh sơ khai.

    Tên gọi
    Năm 1985, Hội Thánh của Đức Chúa Trời Nhân chứng Ahn Sahng-hong được thành lập. Năm 1997, hội thánh có tên là Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Tin Lành Thế giới nhằm tiện cho việc định danh và quản lý tài sản của Hội Thánh. Đây cũng là tên gọi chính thức cho những chi nhánh được thành lập sau này tại châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Đại Dương, Bắc Mỹ và Nam Mỹ.
    Lịch sử

    Ahn Sahng-hong (An Xang Hồng) sinh ra trong một gia đình Phật giáo và cải sang Giáo hội Cơ Đốc Phục lâm An thất nhật nhưng sau đó bị Giáo hội này khai trừ. Năm 1964, ông thành lập Hội Thánh của Đức Chúa Trời Nhân chứng Jesus tại Busan, Hàn Quốc. Sau khi ông qua đời năm 1985, Kim Joo-cheol, Jang Gil-ja và những người tin vào sự tiếp quản của họ, chuyển về Seoul và thành lập Hội Thánh của Đức Chúa Trời Nhân chứng Ahn Sahng-hong. Trụ sở chính hiện nay của hội thánh đặt tại Bundang, thành phố Sungnam, tỉnh Kyunggi, Hàn Quốc.

    Mốc thời gian
    1948 - Ahn Sahng-hong tuyên bố từ bỏ niềm tin Phật giáo, chịu phép Báp-têm của Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm;
    3/1962 - Ahn Sahng-hong bị khai trừ khỏi Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm bởi tranh cãi về ý nghĩa tôn giáo của Thánh Giá, ông cùng 23 người rời bỏ giáo hội;
    28/04/1964 - Ahn Sahng-hong thành lập Hội Thánh của Đức Chúa Trời Nhân Chứng Jesus (Witnesses of Jesus Church of God) tại Hàn Quốc
    1970 - 4 hội thánh được thành lập tại Hàn Quốc
    1980 - Tổng cộng 13 hội thánh được thành lập tại Hàn Quốc
    1985 - Ahn Sahng-hong qua đời vào tháng 2/1985; Hội Thánh của Đức Chúa Trời Nhân chứng Jesus phân thành hai hội thánh mới: Hội Thánh của Đức Chúa Trời Giao Ước Mới Lễ Vượt Qua (ở lại tổng hội ở Busan) và Hội Thánh của Đức Chúa Trời Nhân chứng Ahn Sahng-hong (chuyển tới Seoul);
    1988 - 10.000 tín đồ đăng ký
    1990 - Tổng cộng 30 hội thánh được thành lập tại Hàn Quốc
    1996 - Tổng cộng 107 hội thánh được thành lập; 100.000 tín đồ đăng ký
    1997 - Đổi tên thành Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp Hội Truyền giáo Tin Lành Thế giới; thành lập 3 hội thánh ở nước ngoài (Los Angeles - Mỹ, Lahore - Pakistan và Essen, Đức);
    1998 - Tổng cộng 210 hội thánh được thành lập;
    1999 - 200.000 tín đồ đăng ký;
    2000 - Tổng cộng 300 hội thánh được thành lập ở Hàn Quốc, 400.000 tín đồ đăng ký;
    2001 - Đoàn thăm viếng nước ngoài đầu tiên đến Hàn Quốc (từ Mỹ);
    2002 - Thực hiện việc truyền giáo tại 70 quốc gia;
    2003 - Phụng sự tình nguyện cho thảm họa tàu điện ngầm Daegu (cung cấp bữa ăn miễn phí trong vòng 55 ngày); nhận Tuyên dương của Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-jung; 500.000 tín đồ đăng ký;
    2004 - Nhận Huân chương Danh dự; 600.000 tín đồ đăng ký;
    2005 - Thành lập Viện tu luyện Go&Come Okcheon;
    2006 - Thành lập Bảo tàng lịch sử Hội Thánh của Đức Chúa Trời;
    2007 - Hơn 100 hội thánh chi nhánh được thành lập ở nước ngoài, 800.000 tín đồ đăng ký;
    2008 - 1 triệu tín đồ đăng ký;
    2009 - 32 đoàn truyền giáo ngắn hạn được gửi đi nước ngoài;
    2010 - 427 đoàn truyền giáo ngắn hạn được gửi đi nước ngoài; gửi hàng cứu trợ nạn nhân động đất ở Haiti và Chile cho Liên Hiệp Quốc (gây quỹ thông qua buổi hòa nhạc từ thiện);
    2011 - Nhận Giải thưởng Phụng sự tình nguyện Tổng thống từ Barack Obama; chia sẻ tình yêu thương với hàng xóm trong và ngoài nước nhân kỉ niệm 94 năm ngày giáng sinh của Ahn Sahng-hong;
    2012 - Chiến dịch vận động làm sạch môi trường thế giới nhân Ngày Lễ Vượt Qua; hiến máu trao sự sống nhân ngày Lễ Vượt Qua; 2.200 hội thánh chi nhánh tại 150 quốc gia được thành lập;
    2013 - Chiến dịch tình nguyện toàn thế giới nhân ngày Lễ Vượt Qua;
    2015 - Nhận Giải thưởng Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc
    2016 -Tuyên bố truyền đạo 7 tỷ; nhận Giải thưởng Phụng sự tình nguyện từ Nữ hoàng Anh Elizabeth II
    2017: có hơn 7000 nhà thờ thành viên
    Các tổ chức liên quan
    Viện tu luyện Go&Come Okcheon
    Viện tu luyện Jounyisan
    Viện tu luyện Elohim
    Viện thần học Hội Thánh của Đức Chúa Trời
    Bảo tàng lịch sử Hội Thánh của Đức Chúa Trời
    Tổ chức The International We Love U Foundation
    Ban nhạc Messiah
    Nhà trẻ Saet-byul
    Tín ngưỡng và niềm tin
    Hội thánh tin vào Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ mà Kinh thánh làm chứng và đã khôi phục lại lẽ thật của Hội thánh Sơ khai. Hội thánh tin rằng họ đang làm theo tất cả mọi lời dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh và được giải thích kỹ càng trong những cuốn sách của Ahn Sahng-hong.

    Jêsus đến lần thứ hai
    Hội thánh tin rằng Jêsus đã đến lần thứ hai trong xác thịt dưới hình dáng loài người. Họ tin rằng Ahn Sahng-hong chính là Jêsus đến lần thứ hai với tên mới (Khải huyền 3:11-12 và Khải huyền 2:17) và làm ứng nghiệm hết thảy lời tiên tri mà duy chỉ có Jêsus mới có thể hoàn thành.

    Đức Chúa Trời Mẹ
    Bởi vì Kinh thánh có ghi chép "Thánh Linh và Vợ Mới" (Thần khí và Tân Nương) ở Khải huyền 22:17, hội thánh tin rằng Vợ Mới (Tân Nương) chính là Đức Chúa Trời Mẹ. Theo như ghi chép trong Kinh thánh ở Sáng thế ký 1:26-27 Đức Chúa Trời phán "Chúng ta", làm chứng rằng Đức Chúa Trời tồn tại hai hình ảnh: Đức Chúa Trời mang hình nam và Đức Chúa Trời mang hình nữ. Hội thánh gọi Đức Chúa Trời mang hình nữ là Đức Chúa Trời Mẹ. Họ giải thích theo như lời tiên tri Kinh thánh, Đức Chúa Trời Mẹ xuất hiện vào những ngày sau cùng giống như việc Đức Chúa Trời đã tạo nên Eva vào thời điểm cuối cùng trong quá trình 6 ngày sáng tạo nên trời đất và muôn vật [cần dẫn nguồn].

    Các ngày lễ trọng thể

    Hội thánh cử hành 7 Lễ trọng thể được ghi chép trong Lê-vi-ký 23: Lễ Vượt Qua, Lễ Bánh Không Men, Lễ Trái Đầu Mùa (Lễ Phục Sinh), Lễ Ngũ Tuần, Lễ Kèn Thổi, Lễ Chuộc Tội, Lễ Lều Tạm. Hội thánh cử hành các ngày lễ trọng thể theo như Giao Ước Mới mà Đức Chúa Jêsus đã lập nên phân biệt với những lễ trọng thể trong Cựu Ước.

    Ngày Sa-bát
    Hội thánh giữ ngày Sa-bát thứ Bảy theo như lời phán của Đức Chúa Trời trong Sáng thế ký 2:1 (tham khảo thêm Mác 16:9). Ngày Sa-bát thứ Bảy được Kinh thánh biểu hiện là một dấu giữa Đức Chúa Trời và người dân của Ngài (Ê-xê-chi-ên 20:12, Xuất Ê-díp-tô Ký 31:13), và đây là ngày mà các thánh đồ phải giữ sự thờ phượng theo như sự làm gương của Đức Chúa Jêsus cũng giữ ngày Sa-bát 2000 năm về trước (Luca 4:16).

    Các thánh đồ hội thánh giữ 3 lễ thờ phượng vào ngày Sa-bát. Giữa các buổi thờ phượng, các thánh đồ tham gia những hoạt động của hội thánh như học Kinh Thánh, xem video của hội thánh và phát biểu Kinh Thánh giữa các tín đồ.

    Về hình tượng
    Hội thánh tin rằng theo như sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời về việc cấm làm ra bất kỳ hình tượng nào và thờ lạy (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4), những vật dụng như thập tự giá, tượng đúc hay tượng chạm... không được dựng hoặc đặt trên nóc hoặc bất kỳ nơi nào bên trong hội thánh.

    Nguồn gốc của loài người và sự chuộc tội
    Hội thánh tin rằng tất cả loài người trên trái đất này vốn dĩ là những thiên sứ ở trên trời. Những thiên sứ này đã phạm tội với Đức Chúa Trời ở trên trời và bị đuổi xuống trái đất như là một cơ hội thứ hai để được quay trở về Thiên Đàng [cần dẫn nguồn]. Họ cho rằng cách duy nhất để chúng ta có thể trở về quê hương Nước Thiên Đàng đó là giữ Lễ Vượt Qua Giao Ước Mới với bánh và rượu nho (thịt và huyết của Đức Chúa Jêsus) và làm theo mọi sự dạy dỗ của Kinh thánh được khôi phục lại bởi Ahn Sahng-hong [cần dẫn nguồn]. Hội thánh tin vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời Mẹ, là Vợ Mới (Jang Gil-ja) đang ban nước sự sống vào những ngày sau rốt (Khải Huyền 22:17).

    Nghi thức Báp-têm

    Hội thánh cử hành nghi thức báp-têm như là bước đầu tiên để nhận lấy sự cứu rỗi. Phép báp-têm phải được cử hành nhân danh của Đức Cha (Giê-hô-va), Đức Con (Jêsus) và Đức Thánh Linh (Ahn Sahng-hong) [cần dẫn nguồn].

    Cầu nguyện
    Hội thánh tin rằng sự cầu nguyện phải nhân danh Đức Thánh Linh Ahn Sahng-hong vào những ngày sau cùng và nữ tín đồ phải mang khăn trùm đầu khi cầu nguyện theo như 1 Cô-rinh-tô 11:1-16.

    Hoạt động truyền đạo
    Các tín đồ của hội thánh thường đi gõ cửa, đến các trung tâm thương mại, công viên, trường đại học... để chia sẻ Kinh thánh và truyền giáo.
    So sánh với đạo Cơ Đốc truyền thống

    Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Tin Lành Thế giới có nhiều quan điểm trái ngược với Cơ Đốc giáo chính thống. Hội thánh này tự nhận rằng họ đang làm theo các lời dạy và giữ các kỳ lễ của giao ước mới trong Kinh thánh, giống như hội thánh sơ khai trong thời Chúa Jêsus. Họ cũng tin rằng Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ đã đến trong xác thịt một người bình thường ở Hàn Quốc, ứng nghiệm lời tiên tri của Kinh Thánh. Khi những giáo lý này vấp phải sự chỉ trích, họ dạy rằng đây cũng chính là sự bức hại mà những Kitô hữu thuở ban đầu đã phải chịu đựng vì tin vào Jêsus trong xác thịt người bình thường trong lần đến đầu tiên của ông.Việc coi Ahn Sahng-hong và Zahng Gil-jah là Chúa Trời bị Cơ Đốc giáo chính thống chỉ trích mạnh mẽ và Hội thánh này bị Hội đồng Quốc gia các Giáo hội tại Hàn Quốc chính thức lên án là phạm thượng, dị giáo và cuồng giáo.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  14. #14
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo Phái Tân Thiên Địa, Shincheonji (viết tắt: SCJ)

    Tân Thiên Địa, Shincheonji (viết tắt: SCJ), (tiếng Hàn: 신천지; Hanja:新天地, IPA: [ɕintɕʰʌndʑi]) là một tổ chức tôn giáo do Lee Man-hee thành lập vào ngày 14 tháng 3 năm 1984 tại Hàn Quốc.

    Tân Thiên Địa đã bị các nhánh của Kitô giáo, bao gồm Tin lành, Công giáo và Nhà thờ Chính thống giáo ở Hàn Quốc, kết án là dị giáo.


    Tân Thiên Địa là một tổ chức tôn giáo gây tranh cãi và thường xuyên bị buộc tội là một cuồng giáo.Nó hiện có hơn 120.000 thành viên.

    Những người tin vào tôn giáo này cho rằng lãnh tụ tôn giáo của họ, Lee Man-hee, là một người kế tục được chỉ định của Jesus Christ.Tôn giáo này cho rằng Kinh Thánh bao gồm toàn ẩn dụ, và chỉ có Lee Man-hee mới có thể giải nghĩa và hiểu được chúng.


    Lee Man-hee
    Ra đời ngày 14/3/1984 bởi một người Hàn Quốc là Lee Man-hee, sinh năm 1931 tại thành phố Cheongdo, tỉnh Gyeongsang, phía Đông nam Hàn Quốc, giáo phái Tân Thiên Địa (Shincheonji) chủ yếu rao giảng những lời tiên tri về ngày tận thế, qua đó tổ chức những buổi cầu nguyện tập thể để có thể sống sót trong ngày này. Theo Lee Man-Hee, tất cả những điều viết trong Kinh thánh đều là ẩn dụ, và chỉ mình ông mới có thể giải thích.

    Bị giáo hội Thiên Chúa giáo, Tin lành, Chính Thống giáo Hàn Quốc gọi là tà đạo nhưng Tân Thiên Địa vẫn phát triển vì không bị chính quyền cấm đoán. Tính đến đầu năm 2020, Tân Thiên Địa có khoảng 250.000 tín đồ, chủ yếu ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó, giáo phái này còn có các chi nhánh ở Anh quốc, Ấn Độ.

    Riêng ở Trung Quốc, Tân Thiên Địa có khoảng 20.000 tín đồ, phần lớn sống ở các thành phố như Bắc Kinh, Thượng Hải, Đại Liên, Trường Xuân, Thẩm Dương và Hồ Bắc. Tại đây, họ nhóm họp mỗi tuần 2 lần vào thứ tư và chủ nhật. Mỗi lần thu hút khoảng 200 đến 400 tín đồ tùy theo từng nhà thờ. Cứ mỗi khi nghe tin cảnh sát kiểm tra, tín đồ lại chia ra từng nhóm nhỏ 3 hoặc 5 người, họp kín tại nhà một người nào đó trong nhóm.
    Ngày 17/11/2016, Đài truyền hình CBS phát sóng một phóng sự của Tòa án dân sự quận Seoul, Hàn Quốc, nội dung cáo buộc Tân Thiên Địa đã “tiêu diệt nhân cách của giới trẻ, khuyến khích họ ly hôn, từ bỏ gia đình” để “phá vỡ ràng buộc xã hội”. Phóng sự khẳng định Tân Thiên Địa tuyên truyền về ngày tận thế sắp đến, “giáo chủ” Lee Man-hee dùng tôn giáo để lừa đảo, tẩy não tín đồ.

    Tháng 11/2016, Giáo hội Anh quốc đưa ra một cảnh báo chính thức cho khoảng 500 giáo xứ ở Luân Đôn về các hoạt động mờ ám của chi nhánh Tân Thiên Địa, núp bóng tổ chức từ thiện Parachristo, đăng ký ở Anh.

    Đến ngày 13/8/2019, Giáo hội Baptist tại Manipur, Ấn Độ cảnh báo các tín đồ của mình "cần đề phòng cuồng giáo Tân Thiên Địa xuất xứ từ Hàn Quốc”, trong đó “giáo chủ Lee Man-hee tuyên bố rằng mình có các tri thức về Kinh thánh mà các tôn giáo khác không có. Mọi người chỉ có thể biết đến bằng cách đi theo và nghe những lời giảng của Tân Thiên Địa”.

    Tại Việt Nam, ngày 21/8/2019, Đội An ninh Công an Quận Thanh Khê, Đà Nẵng phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ và Công an phường An Khê kiểm tra Trung tâm ngoại ngữ Best One Language Academy thuộc Công ty Tránh nhiệm hữu hạn một thành viên Best One Language Academy, trụ sở đặt ở 239B đường Nguyễn Phước Nguyên, phường An Khê, thành phố Đà Nẵng. Tại đây, đoàn kiểm tra đã phát hiện 4 giáo viên, 18 học viên tham gia truyền đạo Tân Thiên Địa trái phép thông qua việc dạy và học tiếng Hàn.

    Theo ghi nhận của các chuyên gia về các vấn đề tôn giáo ở Hàn Quốc, phần lớn tín đồ Tân Thiên Địa là những người trẻ tuổi. Họ bỏ học, bỏ công ăn việc làm và thậm chí bỏ cả gia đình để tập trung vào việc truyền đạo cho người khác. Mỗi khi cầu nguyện, họ ngồi sát nhau, đầu gối chạm vào nhau.

    Các chuyên gia về giáo phái tôn giáo Hàn Quốc và các cựu thành viên của nhà thờ cho rằng những hoạt động nghi lễ của giáo phái này khiến cho các tín đồ của họ rất dễ nhiễm bệnh.

    ‘Không giống như các nhà thờ khác, Shincheonji yêu cầu các tín đồ phải ngồi trên sàn nhà, sát cạnh nhau trong suốt buổi lễ’ – Lee Ho-yeon, một cựu tín đồ từng rời khỏi nhà thờ vào năm 2015 cho hay. ‘Chúng tôi được yêu cầu không để bất cứ thứ gì trên mặt, như kính hay khẩu trang. Chúng tôi cũng được dạy phải hát các bài thánh ca thật to’.

    ‘Họ cũng dạy các tín đồ không sợ hãi bệnh tật, không quan tâm tới những thứ trần tục như công việc, tham vọng hay đam mê. Mọi thứ đều tập trung vào việc truyền đạo, ngay cả khi chúng tôi bị ốm’.


    Đây chính là nguyên nhân dẫn đến dịch COVID-19 bùng nổ ở Hàn Quốc bởi lẽ khi phát hiện ca nhiễm đầu tiên, ngành Y tế Hàn Quốc đã khuyến cáo công dân hạn chế tụ họp, đồng thời nên đeo khẩu trang mỗi khi ra đường nhưng tín đồ Tân Thiên Địa bỏ ngoài tai những khuyến cáo ấy.
    Bùng phát COVID-19 tại Hàn Quốc


    Các nghi lễ của giáo phái Shincheonji được cho là nguyên nhân khiến dịch bệnh bùng phát ở Hàn Quốc.
    Vào cuối tháng 2 năm 2020 trong dịch coronavirus 2019, một đợt bùng phát virus SARS-CoV-2 ở Hàn Quốc sau sự tham gia của một người nhiễm SARS-CoV-2, được gọi là "Bệnh nhân 31", đến một nhà thờ của giáo phái này tại Daegu.Tính đến ngày 20 tháng 2 năm 2020, 53 ca nhiễm bệnh mới là những thành viên của giáo phái Tân Thiên Địa. Tính đến ngày 23 tháng 2, Hàn Quốc đã có 602 người được xác nhận nhiễm virus và 5 người tử vong, trong đó 95 ca liên quan đến giáo phái này.

    Ngày 24/2/2020, Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh Hàn Quốc (KCDC) cho biết tổng số người nhiễm bệnh tại Hàn Quốc là 763, trong đó 7 người đã tử vong. Trong số các trường hợp nhiễm mới, 129 trường hợp liên quan tới nhà thờ của giáo phái Tân Thiên Địa ở thành phố Daegu. KCDC cho biết họ đã yêu cầu hơn 9.300 thành viên Tân Thiên Địa tự cách ly, trong đó 1.276 người đã có các triệu chứng nhiễm nCoV. Hầu hết những người này đều có liên quan đến nhà thờ của giáo phái ở thành phố Daegu. Cảnh sát thành phố Daegu đã huy động khoảng 600 sĩ quan để tìm kiếm những tín đồ Tân Thiên Địa chưa ra trình diện. Tuy nhiên, đại diện giáo phái cho hay họ đến nay chưa liên lạc được với khoảng 260 tín đồ.

    Trong một thông báo gửi tới các lãnh đạo chính trị Hàn Quốc ngày 1/3, Tân Thiên Địa yêu cầu nhà chức trách không khắc họa họ giống như một tổ chức tội phạm. "Chúng tôi đang hợp tác tích cực nhất có thể với giới chức địa phương nhằm ngăn chặn dịch Covid-19 lây lan", thông báo cho biết. "Chúng tôi muốn được các bạn giúp đỡ để chúng tôi tiếp tục hợp tác trong nỗ lực này".

    "Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ" và "Giáo phái Tân Thiên Địa" là hai tổ chức Tin lành có nguồn gốc từ Hàn Quốc, hoạt động phức tạp thời gian qua tại Việt Nam.

    "Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ" thuộc tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Tin Lành thế giới" có trụ sở tại Hàn Quốc. Tổ chức này không tổ chức lễ Giáng sinh, không thờ cây thánh giá, trong hình thức sinh hoạt có nhiều điểm mang yếu tố mê tín dị đoan, bất minh về tài chính và việc thu tiền của người tin theo.
    Tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Tin Lành thế giới" coi ông Ahn Sahng Hong là "Đức Chúa Trời Cha" và bà Jang Gil Ja là "Đức Chúa Trời Mẹ". Tại Hàn Quốc, các tổ chức Tin Lành chính thống "tẩy chay" và coi tổ chức này là tà giáo. Từ năm 2014-2017, nhiều gia đình tại Hàn Quốc và một số tín đồ rời bỏ tổ chức này đã gửi đơn tố cáo, khiếu kiện tổ chức này gây chia rẽ, phá vỡ hạnh phúc gia đình, lừa đảo, trốn thuế.
    Tại Việt Nam, "Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ" xuất hiện từ năm 2001 nhưng đến năm 2016 mới bắt đầu phát triển mạnh.

    Tổ chức này sử dụng nhiều cách để truyền giáo một cách trái pháp luật như: Phân công người đi các địa phương truyền đạo, sử dụng danh nghĩa công ty kinh doanh, giới thiệu việc làm để truyền giáo và đã lôi kéo được khoảng 5000 người tham gia. Từ năm 2017-2018, tổ chức này phát triển mạnh tại Việt Nam và có nhiều hoạt động vi phạm pháp luật, làm phức tạp tình hình an ninh, trật tự.

    Địa phương phản ánh sớm nhất về những biểu hiện cực đoan liên quan đến tổ chức này là tỉnh Thái Nguyên, tiếp đến là TP.Hà Nội.

    Phần lớn hoạt động của tổ chức này có nhiều mặt tiêu cực, trái với phong tục, tập quán, đạo đức xã hội Việt Nam, có biểu hiện mê tín dị đoan, lợi dụng giáo lý để trục lợi cá nhân.

    Hoạt động của tổ chức này đã gây ra dư luận xấu tại Việt Nam. Nhiều gia đình có vợ, chồng, con đi theo tổ chức này đã gửi đơn tố cáo đến các cấp chính quyền đề nghị cấm tổ chức này hoạt động do bức xúc trước việc người thân của họ sau khi theo tổ chức này bỏ bê công việc, vợ chồng mâu thuẫn, ly hôn, sinh viên bỏ học…
    Đối với giáo phái Tân Thiên Địa, đây cũng là giáo phái bắt nguồn từ Hàn Quốc. Tổ chức này hoạt động lén lút, bí mật, thường lấy danh nghĩa của các tổ chức phúc lợi công cộng, hỗ trợ nhân đạo để truyền giáo, lôi kéo tín đồ của các tổ chức Tin Lành hợp pháp.
    Những người sau khi tin theo phải đóng 40% thu nhập cá nhân, hoàn thành các chỉ tiêu tuyển thành viên hàng năm, nếu không sẽ bị phạt. Tổ chức này thường lấy phương thức tác động tư tưởng, lấy "ngày tận thế" để hù dọa, ràng buộc tín đồ.

    Tại Hàn Quốc, tổ chức này, bị các tổ chức Tin Lành chính thống tẩy chay và coi là tà giáo. Nhiều tín đồ Tân Thiên Địa tìm cách bỏ giáo phái do không chịu được giáo lý cực đoan, nghi lễ hà khắc, nhất là việc khuyến khích tín đồ nói dối, từ bỏ gia đình để đi theo giáo chủ.

    Đặc biệt, theo Cục An ninh nội bộ (Bộ Công an), thời gian gần đây, liên quan đến dịch Covid-19 tại Hàn Quốc, nhiều tín đồ Tân Thiên Địa mang tư tưởng nhiễm virus nhưng không đến bệnh viện mà đến nhà thờ xin tha tội và chữa bệnh.

    Điều này khiến bệnh dịch tại Hàn Quốc lây nhiễm phức tạp (khoảng 60% các ca lây nhiễm liên quan đến tổ chức Tân Thiên Địa).

    Ngày 1/3/2020, chính quyền TP. Seoul đã đề nghị khởi tố Ban lãnh đạo Tân Thiên Địa với các cáo buộc giết người, cố ý gây thương tích, vi phạm phòng ngừa bệnh truyền nhiễm.
    Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, Tân Thiên Địa vào Việt Nam từ năm 2016, thông qua số người Hàn Quốc sang Việt Nam dạy tiếng Hàn tại một số thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM, đã sử dụng nhiều phương thức hoạt động để phát triển đạo. Ngay sau khi phát hiện các hoạt động này, Công an địa phương đã phối hợp với lực lượng chức năng kiểm tra, xử lý và giải tán trung tâm.
    Last edited by changchancuu; 01-08-2020 at 08:42 PM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  15. #15
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo phái Heaven' Gate ( Giáo phái Cổng Trời )

    Heaven Gate là một giáo phái mà các thành viên đã tự sát hàng loạt vào năm 1997 khi Sao chổi Hale-Bopp vượt qua mặt trời. Họ tin rằng linh hồn của họ được sẽ tới được một tàu vũ trụ ngoài hành tinh khác nhờ đi theo sao chổi.
    Nhóm người này cho rằng cái chết sẽ đưa linh hồn của họ đến một thế giới tồn tại khác của con người, do hai nhân vật Marshall Applewhite và Bonnie Nettles thành lập năm 1974, khi gặp nhau trong bệnh viện tâm thần.
    Để tự tử, 39 thành viên đã dùng thuốc phenobarbital trộn với táo. Sau đó, đem pha hỗn hợp này bằng vodka, và sau đó đặt túi nhựa hỗn hợp này lên đầu cho đến khi hỗn hợp phản ứng chất hóa học gây ra ngạt thở.
    Tất cả đều mặc trang phục phù hợp với áo sơ mi màu đen với các bản khẩu hiệu quấn quanh mình "Heaven's Gate Away Team", một số mặc kết hợp áo len và giày Nike hoàn toàn mới.
    Hiện tại, đâu đó trên thế giới kiểu giáo phái này vẫn còn hoạt động.


    Heaven's Gate là một giáo phái của người Mỹ gốc Mexico có trụ sở tại San Diego, California , được thành lập năm 1974 và do Marshall Applewhite (1931–1997) và Bonnie Nettles (1927–1985) đứng đầu.

    ( Marshall Applewhite trong ảnh )


    ( Bonnie Nettles trong ảnh )

    Marshall Applewhite, người đứng đầu giáo phái Cổng Trời được sáng lập vào những năm 1970 tại Texas, Mỹ. Ngày 14-11-1996, một nhà thiên văn nghiệp dư thông báo đã nhìn thấy vật thể lạ đằng sau đuôi của sao chổi Hale-Bopp. Ngay lập tức, Applewhite bám vào chi tiết này thổi phồng lên rằng người ngoài hành tinh đã đi theo Hale-Bopp để thâm nhập Trái đất, hủy diệt loài người.

    Theo Applewhite, chỉ có thể tránh được ngày này bằng hành vi tự sát vì như vậy, linh hồn đó sẽ được đưa lên con tàu vũ trụ để đi tới một thiên đường ngoài Trái đất.




    Giáo phái dành cho người lớn trên mười tám tuổi, thành viên nhóm đã từ bỏ tài sản vật chất của họ và sống một cuộc đời khổ hạnh không có nhiều niềm đam mê. Các thành viên của giáo phái gắn bó chặt chẽ và mọi thứ được chia sẻ chung. Ở nơi công cộng, các thành viên luôn mang theo một hóa đơn năm đô-la và một phần tư. 8 trong số các thành viên nam của nhóm, bao gồm cả Applewhite, tự nguyện trải qua tự thiến ở Mexico như một phương tiện cực đoan để duy trì lối sống khổ hạnh không bị cám dỗ bởi tình dụ̶c̶

    Họ tin rằng bạn sẽ không đủ điều kiện để trở về sau khi trái đất đã bị xóa sổ trừ khi bạn đã loại bỏ tất cả dấu vết của bạn lúc đó. Điều này bao gồm các thành viên từ bỏ gia đình của họ, những người không tin vào giáo phái, tiền bạc, việc làm, tình dụ̶c̶ … .. bất cứ điều gì.

    Nhóm người thuộc giáo phái Cổng Trời đã thuê một ngôi biệt thự cao cấp ở Rancho Santa Fe, California làm trụ sở với chi phí 7.000USD mỗi tháng. Trong tháng 10-1996, số tiền bảo hiểm cho 50 thành viên để đề phòng người ngoài hành tinh bắt cóc lên đến 10.000USD.


    ( hình ảnh ngôi biệt thự nơi diễn ra thảm kịch )

    Màn tự tử tập thể
    Vào ngày 26/3/1997, cảnh sát phát hiện ra thi thể của 39 thành viên trong nhóm trong đó có cả hai thành viên đứng đầu, những người đã tham gia vụ tự sát tập thể vì họ tin rằng có môt tàu vũ trụ ngoài hành tinh đang tiến đến trái đất và cách duy nhất để lên đó là phải tự sát

    Trong điều kiện thời tiết ấm áp của mùa xuân California, nhiều thi thể bắt đầu phân hủy. Kết quả giám định y tế cho thấy họ đã sử dụng chất độc cyanide và arsenic cho nên phải hỏa táng.

    Khi ập vào ngôi nhà, các nhà chức trách nhận thấy người chết được đặt nằm gọn gàng trong giường tầng, khuôn mặt và thân hình bao phủ bởi một miếng vải vuông màu tía. Tất cả 39 người đều được mặc quần và "đóng thùng" áo sơ mi màu đen giống hệt nhau. Cảnh sát cho rằng những người tham gia tự tử chia thành 3 nhóm và mỗi nhóm tiến hành vào 1 ngày. Theo đó, khoảng 15 thành viên tự sát vào ngày 24-3, 15 người khác là ngày 25-3 và 9 người còn lại tiến hành ngày 26-3.

    ( Sơ đồ của ngôi biệt thự nơi từng thành viên chết )

    Các tình tiết của vụ tự sát

    Các thành viên đã dùng hỗn hợp thuốc Phenobarbital trộn với nước sốt táo và rửa sạch với vodka. Ngoài ra, họ bảo đảm túi nhựa xung quanh đầu của họ sau khi uống hỗn hợp để gây ngạt thở .

    Các nhà chức trách tìm thấy người chết nằm gọn gàng trên giường tầng, mặt và thân thể của họ được bao phủ bởi một miếng vải màu tím vuông. Tất cả 39 người đều mặc áo sơ mi màu đen và quần mồ hôi giống hệt nhau, đôi giày thể thao Nike Decades màu đen và trắng mới, và đeo các bản băng tay có dòng chữ " Heaven's Gate Away Team "


    ( hình ảnh một trong số những thi thể )
    Các tín đồ, trong độ tuổi từ 26 đến 72, được cho là đã chết thành 3 nhóm trong 3 ngày liên tiếp, với những người tham gia còn lại dọn dẹp sau mỗi cái chết của nhóm trước đó : 15 thành viên đã chết vào ngày 24 tháng 3, thêm 15 người nữa vào ngày 25 tháng 3 và 9 người vào ngày 26 tháng 3. Lãnh đạo Applewhite là thành viên thứ ba của thành viên cuối cùng chết; hai người vẫn ở sau anh ta và là những người duy nhất tìm thấy mà không có túi trên đầu của họ. Trong số những người chết là Thomas Nichols, anh trai của nữ diễn viên , người nổi tiếng với vai diễn Uhura trong phim truyền hình Stark Trek
    Chỉ có một thành viên trong nhóm Rio DiAngelo không tự sát. Ông đã quay video trong lâu đài ở Rancho Santa Fe; tuy nhiên, băng này không được công bố cho đến năm 2002, 5 năm sau sự kiện

    Trang web của giáo phái

    Nếu mọi người hứng thú thì có thể vào trang web này để nghiên cứu về Heaven's Gate ( http://www.heavensgate.com/ ). Trang web này chính là công cụ truyền bá trên internet của giáo phái này lúc bây giờ


    Điều đáng ngạc nhiên nữa là hai thành viên trong giáo phái vẫn còn sống và duy trì hoạt động trên trang web đến tận ngày nay




    Cái chết hàng loạt của các thành viên giáo phái Heaven's Gate được công bố rộng rãi trên các phương tiện truyền thông như là một ví dụ về hành vi sùng bái một cách mù quáng.


    Nói thật là mấy cái giáo phái đáng sợ như này nhắc nhở mình nhớ đến tà đạo Hội thánh đức Chúa trời mới nở rộ ở Việt Nam gần đây. Toàn những người nhẹ dạ cả tin để rồi trả giá không chỉ bằng tiền bạc mà còn về tính mạng
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  16. #16
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định MINH GIÁO:Bái Hỏa giáo hay Mani Giáo?

    Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký của Kim Dung, Trương Vô Kỵ - một người trung nghĩa, võ công tuyệt đỉnh - được “quần ma” tôn lập giáo chủ Minh giáo. Chu Nguyên Chương, một giáo đồ Minh giáo, thuộc hạ của Trương Vô Kỵ, đã dựa vào lực lượng này tiêu diệt nhà Nguyên, lập nên nhà Minh. Những điều này không phải hoàn toàn do Kim Dung hư cấu.

    Từ Iran sang Trung Quốc

    Minh giáo, hay còn gọi Minh Tôn giáo, Mạt Ni giáo, Mâu Ni giáo, là một tôn giáo cổ của Iran, vốn xuất phát từ Mani giáo -Manichaeism, do Mani (216-277, người Ba Tư) sáng lập vào khoảng thế kỷ 3, được truyền bá theo hai hướng Đông - Tây, cực thịnh một thời, ảnh hưởng sâu rộng. Về sau, giáo phái này tàn lụi dần và ít nghe tiếng tăm.
    Năm 1902, GS A.Granweldel, Bảo tàng Nhân chủng học Berlin - Đức, cùng cộng sự đã phát hiện số lượng lớn bản kinh của Mani giáo tại các hang động miền Tân Cương - Trung Quốc. Từ đó về sau, không ít nhà khoa học thế giới đã bỏ nhiều công sức để thu thập, tìm hiểu về giáo phái này và đã có những thành tựu quý giá. Hiện đã có học giả của 8 nước công bố công trình của mình với các cổ bản bằng văn tự Ba Tư, Đột Quyết, Pali...

    Giáo nghĩa chính thống của Mani giáo nằm trong bộ Nhị Tông kinh bằng chữ Ba Tư, truyền bá tư tưởng “Nhị tông, tam tế”. “Nhị tông” là hai thái cực sáng và tối, thiện và ác; “tam tế” là sơ tế, trung tế và hậu tế, tương ứng với quá khứ, hiện tại và tương lai. Tại hậu kỳ sơ tế và trung tế, Minh Vương cùng các vị thần của Quang Minh vương quốc liên tục chiến đấu với quần ma của vương quốc Bóng Tối do Ma Vương đứng đầu; đến hậu kỳ trung tế thì giành toàn thắng, thế giới bị hủy diệt, Minh Vương (Đại Minh Tôn) đưa nhân loại trở về Quang Minh vương quốc.

    Xét từ giáo nghĩa, Mani giáo mang tư tưởng mãnh liệt về hậu kiếp và cứu độ chúng sinh. Chính điều này đã khiến Mani giáo dễ dàng dung hợp với tín ngưỡng dân gian Trung Quốc theo những tín điều cơ bản của Phật giáo, Đạo giáo...

    Khởi thủy, khi Mani sáng lập Mani giáo đã từng phát thệ đại nguyện là truyền bá giáo pháp này trên khắp địa cầu, trở thành tôn giáo thế giới. Vào đầu thế kỷ XX, tại vùng Tulufan (Tân Cương) các nhà khảo cổ phát hiện bản kinh Mani giáo bằng chữ Ba Tư thời Trung cổ chép những dòng đầy hào khí: “Tôn giáo mà ta đã chọn phải hơn gấp mười lần bất cứ tôn giáo nào trước đây.

    Những tôn giáo trước đây chỉ giới hạn trong một quốc gia và một loại ngôn ngữ, còn tôn giáo của ta thì khác: Nó sẽ lưu hành ở mỗi quốc gia, nó sử dụng mọi ngôn ngữ hiện hữu, nó sẽ truyền khắp góc bể chân trời”. Tiếp đó là sách lược được áp dụng để thực hiện lý tưởng này: Tận dụng hết mức những giáo nghĩa, nghi thức và danh vị của những tôn giáo khác đã lưu truyền sâu rộng; đem kinh sách Mani giáo dịch ra các loại văn tự trên thế giới để ai cũng có thể tiếp xúc và bằng mọi cách truyền giáo vào tầng lớp thống trị để có chỗ đứng hợp pháp.

    Minh Giáo: Bái Hỏa giáo hay Mani Giáo?


    Khi nói tới Ba Tư (tức Iran ngày nay), chúng ta vẫn hình dung đó là một xứ mà mình vẫn gọi là “nghìn lẻ một đêm” với những truyện thần kỳ thật phong phú. Có lẽ ít ai biết rằng ở vào những thế kỷ đầu Công Nguyên, khu vực Trung Đông cũng đã có nhiều giao tiếp với Trung Hoa trên nhiều mặt, và tôn giáo chính của họ khi đó cũng khác hẳn với thế giới Muslim chúng ta thấy ngày nay. Đã có những triều đại thân cận với nước Tàu đến nỗi khi họ bị xâm chiếm, họ chạy qua cầu cứu và nhờ viện binh để quay về “phục quốc”, chẳng khác gì những Lê Chiêu Thống, Trần Thiêm Bình ở nước ta. Đời nhà Đường, vì gốc tích của họ cũng mang giòng máu ngoại vực, việc trao đổi văn hóa giữa các dân tộc vùng Trung Đông và Hán tộc cũng được dễ dàng. Sự phát triển và thịnh trị của thời kỳ này cũng nhờ vào chính sách tương đối khai phóng thuở ấy. Không những khoa học, kỹ thuật, các loại sản phẩm công nghiệp được trao đổi, mà tôn giáo cũng từ bên ngoài du nhập vào Trung thổ rất nhiều.

    Thời kỳ đó, phía Tây Trung Hoa có một dân tộc tương đối phát triển là Thổ Phồn, tổ tiên của dân tộc Tây Tạng ngày nay, là một chi lưu của người Khương. Khi vua Đường Thái Tông lên ngôi (626 Tây Lịch), vua nước Thổ Phồn là Tùng Tán Hãn Bố giao hiếu với Trung Hoa, được vua nhà Đường gả Văn Thành Công Chúa cho (641 TL). Sử sách chép rằng Công Chúa mang theo một đoàn tùy tùng rất lớn đến hơn năm ngàn năm trăm người, lại không biết bao nhiêu là sản vật, gia súc, tư trang, hàng hóa. Từ đó những vương tôn công tử nước Thổ Phồn sang Trường An du học mở đầu cho một thời kỳ giao lưu văn hóa giửa Trung thổ và các nước phía Tây. Chính thời này, các phát kiến của Trung Hoa như chế tạo nông cụ, dệt vải, nuôi tằm, xây cất, làm giấy, đồ gốm, luyện kim, lịch toán, y học… truyền ra bên ngoài và ngược lại nhiều kỹ thuật từ các nước Trung Đông cũng truyền vào nước Tàu. (Dư Tử Lựu, Nguồn Gốc Con Rồng – Long Đích Căn, Thương Vụ Ấn Thư Quán , Hongkong 1985, tr. 176)

    Về tôn giáo, việc truyền bá từ bên ngoài vào Trung Hoa đã có từ lâu. Ngay thời Nam Bắc Triều, một tôn giáo từ Ba Tư có tên là Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism) được truyền vào Trung Quốc. Tôn giáo này do một người Ba Tư tên là Zarathushtra – nguyên nghĩa là con lạc đà già – thành lập từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên tại Đại Hạ (nay ở biên giới A Phú Hãn). Người ta gọi họ là Majus hay Mazdeans. Giáo đồ của tôn giáo này lấy kinh của Ba Tư là A Duy Tư Đà (Àvesta Gatha)[1] làm kinh điển, chủ trương phân ra làm hai bên thiện ác, nhị nguyên. Theo họ, việc gì quang minh, lửa, thanh tĩnh, sáng tạo, sự sống thuộc về thiện đoan. Còn hắc ám, ác, dơ bẩn, phá hoại, chết thuộc về ác đoan. Con người được tự do chọn lựa để làm điều thiện hay điều ác. Khi chết đi sẽ được Thượng đế (tức Ahura Mazda) phán xét, ai qua được thì lên thiên đường, người nào không qua thì xuống địa ngục. Vì thế khi còn sống mọi người phải làm lành, lánh dữ, bỏ chỗ tối mà tìm chỗ sáng. Châm ngôn đạo đức của họ là nghĩ điều lành, nói điều lành, làm điều lành. Họ có một nghi thức riêng để lễ “thánh hỏa” dưới quyền chủ tế của một “majus”. Tôn giáo này có thời là quốc giáo của Ba Tư trong triều đại Sasanian.

    Đạo Bái Hỏa truyền vào bắc Trung Hoa từ năm 516-9 theo phái đoàn của người Ba Tư. Đến đời Tùy, họ được thành lập ở Trường An những khu vực riêng để hành đạo. Ngoài việc trao đổi các sứ thần giữa hai bên, các thương nhân Ba Tư cũng sang Trung Hoa buôn bán. Hiện nay, tại Quảng Châu, Tuyền Châu, Dương Châu và Trường An, Lạc Dương vẫn còn nhiều dấu tích của người Ba Tư thời đó.

    Năm 621, tiên từ (shrine) đầu tiên được xây dựng cho người “hồ” ở kinh đô và đến năm 631 thì một tu sĩ (Magi) được vào làm quan trong triều. Đến năm 652, khi người Muslim từ Ả Rập (Islam) sang xâm chiếm Ba Tư, họ bị đánh đuổi, một phần chạy sang phía tây nước Ấn (nay còn lại ở Bombay được gọi là Parsees có nghĩa là người Persian) nhưng một số lớn chạy sang Trung Hoa, khi đó vào đời nhà Đường. Vua cuối cùng của triều đại Sasanian là Yazdegird đệ tam (Yazdagard III) cầu viện vua Đường Thái Tông để đem quân khôi phục đất nước. Tuy nhiên, nhà Đường từ chối và họ đành phải sống lưu vong với dân chúng vùng Tân Cương ở Trung Á nhưng lại bị thổ dân phản bội. Gần đây, khi khai quật một số địa điểm vùng Tây An, người ta đã tìm thấy một số tiền làm bằng bạc của Ba Tư thời kỳ này, nhiều mộ chí bằng cả hai thứ tiếng Ba Tư và chữ Hán. (Dư Tử Lựu, tr. 183)

    Nhà Đường tiếp tục bảo vệ con của Yazdegird là Peroz (Firuz) và cho phép họ được xây cất đền thờ và tiếp tục hành đạo. Peroz vẫn được công nhận là vua nước Ba Tư và được phong một chức võ quan tại triều. Ông ta chết ở Trường An và con là Narseh được tập tước vương. Narseh cố gắng đem quân Tàu về lấy lại nước nhưng thất bại và những người thuộc triều đại Sasanian định cư tại Trung Hoa trong khoảng 200 năm. Một số tiểu quốc được hình thành nằm giữa biên giới Ba Tư và Trung Hoa không theo đạo Hồi, độc lập đã tồn tại trong nhiều năm và nhiều phái bộ, sứ thần đã đến kinh đô nhà Đường trong khoảng từ 713 đến 755 sau TL. Những cư dân của các tiểu quốc này trở thành những người buôn ngọc, phù thủy, thợ thủ công và thương nhân. Họ xây dựng bốn, năm tiên từ (thánh đường), tại Trường An, hai, ba tiên từ tại Lạc Dương, một tại Khai Phong và nhiều nơi khác như Dương Châu, Đôn Hoàng, Thái Nguyên … Họ cũng di cư đến nhiều nơi khác, có người tới tận Hải Nam và vùng nước ta nhưng không biết rồi ra sao.

    Đến năm 845, nhà Tống tiêu diệt các tôn giáo và bài xích tất cả các tôn giáo từ nước ngoài, nhất là đạo Phật và Bái Hỏa giáo cũng bị tiêu diệt. Vì họ coi lửa là đại biểu của quang minh (sáng sủa), nên việc thờ phụng “lửa thần” (thánh hỏa) là nghi lễ chính yếu. Người Trung Hoa gọi tôn giáo này dưới nhiều tên như tiên giáo, hỏa tiên giáo, bái hỏa giáo, Ba Tư giáo … Bái hỏa giáo đến đời Nguyên hay Minh thì không còn ai biết đến. Theo sách vở, Bái hỏa giáo là một tôn giáo chỉ thu hẹp trong phạm vi chủng tộc và không chủ trương bành trướng hay chiêu dụ người ta theo đạo. Kinh điển của họ không được dịch sang tiếng Tàu và có lẽ người Tàu cũng không ai đổi qua theo đạo này. Tuy nhiên, họ cũng đem lại một số ảnh hưởng, vì đời Đường là triều đại mở cửa nên nhiều kỹ thuật mới được du nhập, nhiều sắc thái văn hóa được đón nhận trong sinh hoạt hàng ngày.

    Một tôn giáo khác cũng truyền từ Ba Tư là Ma Ni giáo (tức Manichaeism, do Mani người Ba Tư sáng lập vào thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên). Ma Ni giáo kết hợp nhị nguyên luận của hỏa tiên giáo, đồng thời dung hợp nhiều tôn giáo trong đó có một số tư tưởng của Phật giáo và Ki tô giáo mà thành. Ma ni giáo được gọi là tôn giáo của ánh sáng (Religion of Light) và truyền vào Trung Hoa qua nhiều sự tích ly kỳ. Cho đến giờ phút này, người ta vẫn chưa rõ Mani là tên người hay là một cách xưng hô tôn quí. Nghĩa của chữ này cũng không rõ ràng, theo cổ ngữ Hi Lạp thì là skeuos và homilia, nhưng hình như nguyên thủy lại bắt nguồn từ tiếng Babylonian-Aramaic có nghĩa là Vua của Aùnh Sáng.

    Mani sinh ra tại Baghdad, khoảng thế kỷ thứ 3, dưới thời mà người Ba Tư làm chủ cả khu vực Mesopotamia, ngày nay là Iraq. Cha ông hình như là người Mandaeans. Sau khi đi lang thang trong vài năm, sống đời khổ hạnh để suy tưởng về giáo lý, năm 242 (có chỗ chép rõ là ngày 20 tháng 3) ông được mặc khải và tự cho mình là một nhà tiên tri, lập nên một giáo phái mới. “Cũng như Phật Thích Ca đến Aán Độ, Zoroaster[2] với Ba Tư, hay chúa Jesus đến miền Tây, thời kỳ này thiên sứ đến với ta, tức Mani, đến với vùng Babylonia”. Đó là lời tuyên bố của ông và tự cho mình là một tông đồ của Thượng đế. Ông lại đi lên Bactria ở miền tây bắc Ấn Độ, và nghiên cứu thêm về Phật giáo. Ông chịu ảnh hưởng sâu đậm của các tư tưởng Gnostic (mộït chi phái của Thiên Chúa giáo thời kỳ sơ khai, bị coi như tà giáo). Đến năm 241, ông quay về Ba Tư sau khi vua Shapur đệ Nhất lên ngôi, là người dung chứa các tôn giáo. Ông bắt đầu truyền giáo, dung hợp cả Gnosticism, Zoroastrianism, Christianity, Buddhism, Lão giáo và những tôn giáo địa phương tại Ba Tư. Trong suốt thời vua Shapur, ông được tự do truyền giáo và hoạt động trong khối giáo đồ của mình. Thế nhưng khi vua Bahram đệ nhất lên ngôi, người giáo đồ Bái hỏa coi Mani là thù nghịch. Mani bị cầm tù và bị đóng đinh, xác bị bêu tại cổng thành để răn đe những người theo ông. Những tín đồ của đạo Mani cũng bị tàn sát không thương tiếc. Theo sử sách ông chết khoảng 276-277 sau Công Nguyên. Tôn giáo của ông truyền sang tận Bắc Phi, Nam Âu châu và Trung Hoa.

    Tư tưởng chính yếu của đạo Manichaeism là nhị nguyên đối đãi và mục tiêu của con người là làm sao giải thoát được bằng cách khai mở luồng ánh sáng vốn bị vật chất giam hãm. Có hai đẳng cấp trong giáo phái này, đẳng cấp tu sĩ là thành phần được “thiên khải”, và “giáo đồ” là đại số quần chúng phục vụ cho thành phần được Thượng Đế lựa chọn. Tu sĩ sống độc thân, khắc kỷ, chỉ lo đi truyền giáo và học đạo. Những tu sĩ chắc chắn sẽ được giải thoát ngay khi chết vì họ đã được ân sủng của minh tôn. Giáo đồ có quyền lập gia đình nhưng phải chăm lo phục vụ các trưởng lão, và khi chết đi sẽ được tái sinh làm tu sĩ. Chính đạo này, dưới cái tên Ma ni giáo, Minh tôn giáo hay Minh giáo đã ảnh hưởng quan trọng trong sinh hoạt xã hội của Trung Hoa trong một thời gian khá dài, hơn hẳn những tôn giáo khác cũng xuất xứ từ Ba Tư.

    Ma ni giáo truyền vào Trung Thổ khoảng năm 694 đời nhà Đường, mặc dù đạo này có mộït số ảnh hưởng đến Lão giáo từ trước đó. Năm 694 cuốn “Nhị Tông Kinh” (Erzongjing) bộ kinh chính yếu của họ được đem vào nước Tàu. Theo Minh Sử viết vào thế kỷ thứ 17, một mục sư vào truyền giáo dưới thời vua Cao Tông (650-83) nhưng nhiều học giả không đồng ý mà chỉ công nhận là năm 719 có một đại trưởng lão của họ từ Tokharistan đến mà thôi. Năm 732, trong một chỉ dụ của nhà Đường có nhắc tới họ đi truyền tà giáo mang danh nghĩa một tông phái của đạo Phật. Tuy nhiên vì đây là một tôn giáo của người Hồ nên triều đình không cấm chỉ miễn là họ giới hạn việc sinh hoạt trong những dân tộc thiểu số. Năm 745, người Hồi Hột (Uighur) kiến tạo một vương quốc rộng lớn, kéo dài từ sông Ili (Y lê) đến tận sông Hoàng Hà. Một trong những tiểu vương (khans) theo đạo Ma ni năm 762 và Ma ni giáo trở thành quốc giáo của Tân Cương. Tới lúc đó, một số lớn người Hồi (Uighurs) đã cải đạo theo đạo Ma Ni và sau khi họ giúp nhà Đường chống lại loạn An Lộc Sơn, một số đông người Hán cũng theo. Họ có thể đã xây cất nhiều đền đài từ trước nhưng sách vở chỉ chắc chắn là có một đền Ma ni – dưới tên Hán tự là Đại Vân Quang Minh (Dayun huangming) được thành lập tại Trường An năm 768. Khoảng năm 771, tại các vùng Kinh, Dương, Hồng (Nam xương), Việt (Thiệu Hưng) cũng có đền Ma ni và đầu thế kỷ thứ 9, tại Lạc Dương, Thái Nguyên đã có những đền thờ của họ được xây cất. Như vậy xét về mặt địa lý, giáo phái này bành trướng từ miền Tây Trung Hoa lan sang tận miền đông, sát bờ biển. Nhà Đường tương đối khoan dung hơn người La Mã khi họ bách hại người Thiên Chúa giáo và người Ma ni giáo vào thế kỷ thứ tư sau Công Nguyên.

    Đến năm 842-3, khi dân tộc Hồi suy yếu vì bị người Kirghiz đánh bại, triều đình lại bắt đầu một chính sách bài giáo, đặc biệt là những tôn giáo từ bên ngoài truyền vào Trung thổ nhất là Phật giáo. Ma ni giáo cũng bị càn quét, đền đài bị phá hủy, của cải bị tịch thu, kinh sách bị đốt. Tại Trường An, hơn 70 nữ tu Ma ni bị giết. Từ đó họ phải lui vào bóng tối, hoạt động âm thầm và biến thành một đoàn thể bí mật. Họ chia ra thành nhiều chi phái, dưới nhiều tên khác nhau và cũng hoạt động trong những khu vực hay hình thái khác nhau. Chi lưu mạnh nhất có tên là Minh Giáo, tôn Trương Giác đời Đông Hán làm giáo tổ, còn thờ Ma Ni làm thần Quang Minh. Chính đây là tôn giáo mà Kim Dung đã huyền thoại hóa trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long ký thành Minh Giáo, một đoàn thể vừa mang màu sắc bang hội, vừa có thêm một số nghi lễ thần bí, đứng đầu phe hắc đạo.

    Giáo nghĩa của họ chủ yếu là phân biệt hai đằng thiện ác, sáng tối, dùng thuyết tam tế phân biệt ba cõi quá khứ, hiện tại, tương lai làm nền tảng, và tin tưởng rằng quang minh rốt ráo sẽ chiến thắng hôn ám. Giáo đồ Minh giáo mặc đồ trắng, sống giản dị, cần kiệm, ăn chay, không uống rượu, người chết thì để trần truồng đem bỏ ngoài sa mạc cho chim ăn, không thờ tổ tiên, thần, Phật mà chỉ lễ bái mặt trời, mặt trăng. Tổ chức trong giáo phái này rất nghiêm mật, trưởng lão của họ gọi là hành giả, giáo đồ chia thành thị giả, thính giả, cô bà, trai tỉ… Họ truyền bá mạnh tại các vùng Hoài Nam, Mân, Triết, Cám (Giang Tây). Về sau họ hợp nhất với Di Lặc giáo, Bạch Liên giáo. Minh giáo phát triển mạnh khoảng thế kỷ thứ 11 sau Công Nguyên. Theo Al-Beruni, một sử gia Ả Rập thì “đa số người Hồi, người Trung Hoa và Tây Tạng ở vùng Tây Vực, cả một số người Ấn Độ cũng theo đạo Mani”. Những kinh điển và tài liệu người ta tìm được ở Turfan gần đây phù hợp với những nhận định đó. Thời kỳ này Minh giáo đã bành trướng mạnh và trở thành một tôn giáo có thế lực.

    Qua đời Ngũ Đại, Tống, Nguyên họ khởi nghĩa nhiều lần, đặc biệt là cuộc nổi dậy Mẫu Ất thời kỳ cuối của nhà Lương, hay Phương Lạp đời Tống (1120-22). Cuộc khởi nghĩa quan trọng nhất mà họ tham gia có lẽ là cuộc nổi dậy chống lại người Mông Cổ vào thế kỷ thứ 14, lập nên triều đại nhà Minh, mặc dầu nhiều học giả không cho rằng nhà Minh có liên quan đến Minh giáo.

    Hiện nay, đền thờ duy nhất của người Ma Ni còn sót lại trên thế giới ở tại Quan Châu (Phúc Kiến), vùng duyên hải Trung Hoa trong đó có khắc nổi tượng Ma Ni dưới danh hiệu Quang Minh Phật (Buddha of Light). Có lẽ vì tên Mani tương đồng với Thích Ca Mâu Ni nên nhiều người đã lầm lẫn giữa hai tên này. Tuy nhiên hình tượng khác hẳn hình tượng của Phật giáo. Trên đầu có một vòng hào quang, với hai chùm tóc chảy từ đầu xuống vai. Hình tượng mặc áo trắng và theo tự tích khắc ở đó thì ngôi đền này do một giáo đồ kiến lập năm 1340. Tài liệu ngày nay người ta kiếm được để nghiên cứu về đạo Mani được gọi là Turfan (Turpan), là những kinh điển mà các khảo cổ gia người Đức đào được ở Đôn Hoàng (Dunhuang) vào khoảng 1902-14. Trong số các tự tích tìm thấy có cả những đoạn mà từ lâu nay bị mất trong thánh kinh của họ, cả những văn chương viết bằng tiếng Pahlavi, Saghdian, Thổ Phồn và tiếng Hán. Một số tài liệu khác về đạo Ma ni thì kiếm thấy ở Ai Cập năm 1933 và trong những sách vở bài xích đạo Ma Ni do người đạo Thiên Chúa, Muslim hay Bái Hỏa viết.
    Thi nhân Bạch Cư Dị đã từng viết một bức thư thay mặt vua nhà Đường trả lời cho vua nước Hồi khi họ xin triều đình Trung Hoa bảo vệ những người theo đạo Mani. Julia Ching nhận định là vấn đề của đạo Mani là họ vay mượn từ các tôn giáo khác khiến cho đối với các dân tộc Cận Đông thì họ giống như Thiên Chúa hay Do Thái giáo, trong khi đối với các dân tộc Viễn Đông thì họ lại giống như Phật giáo. Chính Mani cũng coi Jesus là đấng tiên tri của người Do thái, Zoroaster là đấng tiên tri của người Ba Tư, còn Phật Thích Ca là đấng tiên tri của người Ấn Độ. Và khi ông tổng hợp được nhiều tôn giáo trong đạo của mình, ông ta tin rằng “Giáo hội của ta ưu việt hơn các giáo hội đã có từ trước, và những tôn giáo trước đây chỉ phổ biến tại một số quốc gia hay thành thị, còn Giáo hội của ta sẽ lan truyền đến khắp mọi thành phố, và lời giao rảng của ta sẽ đến khắp thế gian.” (Julia Ching, Chinese Religions tr. 174)

    Một trong những đặc tính của các tôn giáo ở Trung Hoa là những tổ chức này không hoàn toàn mang tính chất tôn giáo mà luôn luôn pha thêm một số hình thức thế tục trên phương diện xã hội hay chính trị. Tôn giáo cũng không có một vị trí quyền lực cao cấp như tại Tây phương. Tuy có một số thời kỳ, nước Tàu có những Quốc Sư nhưng những vị cao tăng đó không thể nào sánh được với thế lực của những giáo hoàng hay giáo chủ ở Âu Châu hay Trung Đông. Minh giáo hình thành vào đời Đường là giai đoạn văn hóa tương đối khai phóng nên được chấp nhận dễ dàng cũng như Phật giáo nhưng đến triều Minh, Thanh, khi Nho giáo đã có một vị trí độc tôn, các tôn giáo có nguồn gốc từ bên ngoài không còn được coi trọng nữa. Chính vì thế, cũng như nhiều tôn giáo khác, Minh giáo dần dần tàn lụi.
    Trên thực tế, Minh giáo là một tôn giáo rất khắt khe. Những tu sĩ của họ phải sống một đời sống khắc kỷ và giữ mình nghiêm nhặt. Theo kinh điển của giáo phái này, những người được Thượng đế lựa chọn (Primates Manichaeorum) có một đời sống khổ hạnh và phải luôn luôn di hành, không được ở yên một chỗ. Họ không được quyền có tài sản, không ăn thịt, uống rượu, và trấn áp mọi dục tình. Họ cũng không có quyền có nghề nghiệp, buôn bán, hay học những ma thuật hoặc nghiên cứu tôn giáo ngoài chính tôn giáo của họ. Nhiệm vụ chính yếu của họ là kìm giữ và đóng kín ba cửa ải – miệng, tay và ngực (oris, manuum, sinus). Để giữ miệng, họ không được nói năng độc địa, không ăn uống các chất độc hại. Thịt gia súc sẽ khởi động ma vương trong cơ thể con người, vì thế họ chỉ được ăn rau cỏ và trái cây. Để giữ gìn cho bàn tay khỏi ô uế, họ không được sát sinh, bẻ cây hái trái. Để giữ gìn cho trái tim được trong sáng, họ không được nghĩ ngợi bậy bạ chẳng hạn như nghĩ những điều không trong sạch hay trái với giáo lý của đạo Mani. Họ cũng không được lập gia đình vì coi rằng sự truyền chủng là một hành động kéo dài sự tăm tối, và loài người sinh sản chính là vì bị Thượng đế trừng phạt. Chính vì khó khăn như thế nên số người được ở trong hàng giáo phẩm rất hiếm hoi.

    Triều Minh và Minh giáo

    Trong tiểu thuyết võ hiệp Ỷ Thiên Đồ Long ký của Kim Dung, Trương Vô Kỵ - một người trung nghĩa, võ công tuyệt đỉnh - sau khi đả bại hàng loạt cao thủ 6 đại môn phái võ lâm vây đánh đỉnh Quang Minh – tổng đà Minh giáo – đã được “quần ma” tôn lập giáo chủ Minh giáo. Lúc bấy giờ, Minh giáo cùng với Thiếu Lâm và Cái Bang được xem là 3 giáo phái, môn phái và bang hội hùng mạnh nhất võ lâm. Chu Nguyên Chương, một giáo đồ Minh giáo và là thuộc hạ của Trương Vô Kỵ, đã nhờ vào lực lượng này để dần dần tiêu diệt nhà Nguyên, thống nhất thiên hạ, lập ra triều Đại Minh, trở thành Minh Thái Tổ.

    Những điều này không phải hoàn toàn do Kim Dung hư cấu mà có cứ liệu lịch sử hẳn hoi. Chu Nguyên Chương là một nhân vật đặc biệt trong lịch sử các đế vương Trung Hoa vì chưa có ai lấy lưu vực sông Trường Giang thuộc miền Nam làm căn cứ địa mà đánh ra phía Bắc thành công. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy chưa hề có cuộc nổi dậy nào từ phương Nam thực hiện “Bắc tiến” mà thắng lợi nhưng Chu Nguyên Chương lại làm được, đây là thành công cực lớn chưa có tiền lệ.


    Về việc Chu Nguyên Chương lấy quốc hiệu “Minh” cũng là câu đố lịch sử hấp dẫn. Trong Minh giáo với đế quốc Đại Minh, GS Ngô Hàm nhận định: “Chỉ có Minh Thái Tổ năm Chí Chính thứ 27 (1367) lấy niên hiệu Ngô Nguyên Niên, năm sau lên ngôi hoàng đế lấy quốc hiệu Đại Minh, niên hiệu Hồng Võ. “Ngô” không phải là quốc hiệu, “Minh” không phải địa danh lúc đầu khởi nghĩa hay quan tước được phong, cũng chẳng phải truy nguyên nguồn gốc từ Hậu Đường, Hậu Hán...”.


    Quốc hiệu “Minh” thể hiện một số đặc điểm riêng tư trong cuộc đời của vị hoàng đế nông dân này, vì danh xưng ấy dễ liên tưởng đến “Minh giáo”, “Đại tiểu Minh Vương xuất thế kinh” mà ông từng là giáo đồ.

    Minh Giáo theo Kim Dung


    Không biết rằng vô tình hay cố ý, Kim Dung đã cố tình pha trộn giữa Bái hỏa giáo và Ma ni giáo. Mặc dù hai tôn giáo này có những điểm chung, sử sách không nói rằng Ma ni giáo cũng coi lửa làm biểu tượng của quang minh như Bái hỏa giáo. Do đó Minh giáo qua Kim Dung là một tổ chức được tiểu thuyết hóa, ít tôn giáo mà nhiều tính chất bang hội. Chính vì thế chúng ta thấy Minh giáo được tổ chức chặt chẽ nhưng lại dựa trên những liên kết thế tục hơn là thần quyền. Từ một đoàn thể bí mật, Minh giáo đã nhanh chóng biến mình để thành một đảng cách mạng. Chúng ta có thể nói rằng Minh giáo của thời Mạt Nguyên có nhiều điểm tương đồng với Thiên địa hội đời Thanh sơ hay Thái Bình Thiên quốc đời Thanh mạt và hoàn toàn khác hẳn những tôn giáo sẵn có ở Trung Hoa, tiêu biểu là Phật giáo hay Lão giáo. Ngay từ sau chương giới thiệu câu chuyện, Kim Dung đã cho xuất hiện nhiều nhân vật liên quan đến tà giáo nhưng không đề cập đến nguyên ủy ngọn ngành của họ. Một Ân Tố Tố nữ cải nam trang cố tình làm cho phái Thiếu Lâm tưởng Trương Thúy Sơn là thủ phạm vụ giết người ở Long Môn tiêu cục, một Tạ Tốn thần oai lẫm lẫm khi đến Vương Bàn Sơn đảo cướp thanh đao Đồ Long. Rồi những nhân vật hạng nhì như Thường Kim Bằng hay Bạch Qui Thọ cũng có võ công hơn người khi dương đao lập uy. Hết việc nọ tới việc kia, cho tới khi hai vợ chồng Trương Thúy Sơn – Ân Tố Tố tự sát, chúng ta vẫn chưa hiểu rõ tà phái được tổ chức như thế nào. Tấm màn bí mật đầu tiên được vén lên là khi Trương Tam Phong cứu Thường Ngộ Xuân khi người này bị quân Mông Cổ truy kích trên sông Hán Thủy:

    “… Đại hán đó ở tại sàn thuyền khấu đầu nói:
    – Lão đạo gia cứu mạng cho tiểu nhân, Thường Ngộ Xuân này xin rập đầu bái tạ.

    Trương Tam Phong đưa tay đỡ dậy, nói:
    – Thường anh hùng không cần phải dùng đại lễ.

    Vừa nắm tay y, thấy bàn tay lạnh như băng, hơi kinh hoảng, vội hỏi:
    – Phải chăng Thường anh hùng đã bị nội thuơng?

    Thường Ngộ Xuân nói:
    – Tiểu nhân từ Tín Dương hộ tống tiểu chủ xuôi Nam, giữa đường bốn lần tiếp chiến với bọn ưng trảo của Thát Đát đuổi theo, trên ngực và sau lưng bị một phiên tăng đánh trúng hai chưởng.

    Trương Tam Phong cầm cổ tay, thấy mạch nhảy rất yếu, vội cởi áo y ra để xem vết thương, lại càng kinh hãi, thấy chỗ trúng chưởng sưng vù lên cả tấc, không phải là nhẹ, giá như người khác chắc không chịu nổi. Người này chạy trốn hàng ngàn dặm, lại còn phải chống trả cường địch, quả là anh hùng. Thấy vậy ông liền khuyên y đừng nói năng nhiều, chỉ ở trong khoang tĩnh dưỡng.

    Cô bé gái tuổi chừng lên mười, quần áo cũ kỹ, hai chân không mang giày dép, tuy con nhà thuyền chài nghèo khổ, nhung mặt mày xinh xắn, thể nào sau này cũng thành một mỹ nhân, chỉ ngồi sụt sùi gạt nước mắt.

    Trương Tam Phong thấy cô bé đáng thương, hỏi:
    – Cô nương, tên cô là gì?

    Cô gái đáp:
    – Cháu họ Chu, tên là Chu Chỉ Nhược.
    Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Con nhà thuyền chài mà sao đặt tên thật hay” nên hỏi tiếp:
    – Thế nhà cháu ở đâu? Trong nhà còn những ai? Để ta gọi đò đưa cháu về.
    Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:
    – Chỉ có hai cha con cháu sống với nhau trên thuyền thôi… chứ không có ai khác.

    Trương Tam Phong ớ một tiếng, nghĩ thầm: “Cô gái này nhà tan người mất, lại bé bỏng quá, làm thế nào bây giờ đây?”

    Thường Ngộ Xuân nói:
    – Lão đạo gia võ công cao cường, từ xưa tới nay, tiểu nhân chưa thấy ai như thế bao giờ, xin vô phép hỏi pháp hiệu của ngài là gì?

    Trương Tam Phong cười:
    – Lão là Trương Tam Phong.
    Thường Ngộ Xuân “A!” lên một tiếng, vội nhỏm dậy, lớn tiếng:
    – Hoá ra lão đạo gia là Trương Chân Nhân của núi Võ Đương, thảo nào thần công cái thế, Thường Ngộ Xuân hôm nay may mắn được gặp tiên trưởng.
    Trương Tam Phong mỉm cười:
    – Lão đạo bất quá sống hơn vài năm, có gì là tiên với lại không tiên. Xin Thường anh hùng mau nằm xuống, đừng làm động đến vết thương.
    Ông thấy Thường Ngộ Xuân khẳng khái hào sảng, ăn nói ào ào, cảm thấy mến y vô cùng, nhưng nghĩ đến y là người trong ma giáo, nên không muốn nói chuyện nhiều, liền nhạt nhẽo:
    – Ngươi bị thuơng không phải là nhẹ, chớ nên nói nhiều.
    Trương Tam Phong tính tình khoáng đạt, đối với chính tà hai đường, vốn không quá thiên kiến. Trước đây ông đã từng nói với Trương Thúy Sơn:
    – Hai chữ chính tà, thật khó phân biệt. Đệ tử trong chính phái mà có tâm thuật bất chính, thì cũng là tà đồ; còn trong tà phái có người nhất tâm hướng thiện, thì cũng là chính nhân quân tử.

    Lại còn nói giáo chủ Thiên Ưng giáo là Ân Thiên Chính tuy tính tình nóng nảy, hành sự khác người, nhưng cũng là kẻ quang minh lỗi lạc, có thể kết làm bạn được. Thế nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết, ông thương đứa học trò yêu, đối với Thiên Ưng giáo hết sức căm giận, tự nhủ đệ tử thứ ba Du Đại Nham cả đời tàn phế, đệ tử thứ năm Trương Thúy Sơn thân tử danh liệt, cũng do Thiên Ưng giáo mà ra. Tuy nén lòng không đi kiếm Ân Thiên Chính hỏi tội phục thù, nhưng dù bụng dạ có rộng rãi đến đâu, hai chữ “tà ma” càng lúc càng thấy ghét bỏ.

    Kẻ tên gọi Chu Tử Vượng kia (tức cấp trên của Thường Ngộ Xuân) chính là đại đệ tử của Di Lặc Tông trong Minh giáo, năm trước khởi sự tại Viễn Châu đất Giang Tây, tự lập làm đế, lấy quốc hiệu là Chu, chẳng bao lâu bị quân Nguyên tiêu diệt, còn Chu Tử Vượng bị bắt chém đầu. Di Lặc Tông và Thiên Ưng giáo tuy không cùng một phái nhưng đều là chi lưư của Minh giáo, có liên hệ với nhau rất sâu xa. Khi Chu Tử Vượng khởi sự, Ân Thiên Chính có thanh viện tại Triết Giang. Trương Tam Phong hôm nay cứu Thường Ngộ Xuân, chỉ vì nhất thời lòng hiệp nghĩa khích động, và lúc đầu cũng không biết y thuộc Minh giáo, nên không lấy gì hợp với bản nguyện.

    Canh hai đêm đó thuyền đến Thái Bình điếm. Trương Tam Phong bảo thuyền phu rời thị trấn đến một cái bến ở xa. Người lái đò lên chợ mua đồ ăn, nấu cơm, bày trên thuyền nào thịt gà, thịt heo, cá, rau cả thảy đến bốn bát lớn. Trương Tam Phong bảo Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước, còn tự mình đút cho Trương Vô Kỵ ăn. Thường Ngộ Xuân hỏi nguyên do, Trương Tam Phong nói là y bị hàn độc xâm nhập tạng phủ, đã điểm huyệt đạo các nơi, tạm thời chưa nguy đến tính mệnh. Trương Vô Kỵ tủi thân, nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm xuống họng. Trương Tam Phong lại gặng đút nữa, y lắc đầu, không chịu ăn.

    Chu Chỉ Nhược đón lấy chén cơm trong tay Trương Tam Phong, nói:
    – Đạo trưởng ăn trước đi, để cháu bón cơm cho vị tiểu tướng công này.

    Trương Vô Kỵ nói:
    – Ta no rồi, không muốn ăn nữa.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    – Tiểu tướng công, nếu anh không ăn, lão đạo trưởng trong lòng không vui, ăn cơm không nổi, chẳng hóa ra cũng bị đói ư?

    Trương Vô Kỵ nghĩ quả không sai, nên khi Chu Chỉ Nhược đưa cơm tới miệng vội há mồm ăn. Chu Chỉ Nhược gỡ hết xương cá, xương gà, mỗi miếng cơm lại rưới thêm tí nước thịt, Trương Vô Kỵ ăn thấy thật ngon miệng, hết cả một bát lớn.

    Trương Tam Phong trong lòng thấy an ủi, nghĩ thầm:”Vô Kỵ số khổ, từ bé cha mẹ chết sớm, lại bị bệnh nặng. Nếu được người con gái có ý tứ thế này chăm sóc quả thật là hay”.

    Thường Ngộ Xuân không đụng tới thịt cá, chỉ ăn sạch bát rau, tuy đang trọng thương, nhưng cũng ăn hết bốn bát cơm trắng. Trương Tam Phong không kiêng thịt, thấy y ăn uống thật hào sảng, nên khuyên y ăn tí thị gà.

    Thường Ngộ Xuân nói:
    – Trương chân nhân, tiểu nhân thờ Bồ Tát nên không ăn mặn.
    Trương Tam Phong “A” một tiếng:
    – Ồ lão đạo quên.

    Lúc đó mới nhớ là người trong ma giáo qui củ rất nghiêm, không ăn mặn, từ đời Đường tới giờ, đều thế cả. Cuối thời Bắc Tống, đại thủ lãnh của Minh giáo là Phương Lạp khởi sự tại Triết Đông, đương thời quan cũng như dân gọi họ là “đạo ăn chay thờ ma”. Ăn chay và phụng thờ ma vương là hai qui luật lớn của ma giáo, đã truyền từ mấy trăm năm nay. Đời nhà Tống, quan phủ chém giết ma giáo rất ngặt, người trong võ lâm cũng coi họ chẳng ra gì, vì thế giáo đồ hành sự cực kỳ ẩn bí, tuy ăn chay nhưng đối với người ngoài phải giả xưng là thờ Phật, bái Bồ Tát, không dám tiết lộ thân phận của mình.

    Thường Ngộ Xuân nói:

    – Trương chân nhân, ngài có ơn cứu mệnh đối với tôi, lại đã biết rõ lai lịch rồi, nên không dám dấu diếm. Tiểu nhân là người trong Minh giáo, phụng sự Minh tôn. Triều đình quan phủ đối với chúng tôi mười phần căm ghét, người hiệp nghĩa trong các danh môn chính phái cũng coi nhẹ chúng tôi, thậm chí đến bọn đốt nhà cướp của, giết người không gớm tay trong hắc đạo cũng gọi chúng tôi là yêu ma quỉ quái. Lão nhân gia đã biết rõ lai lịch của chúng tôi mà vẫn ra tay tương cứu, cái ân đức đó, quả thực tôi không biết lấy gì báo đáp.


    Trương Tam Phong cũng đã từng nghe qua về lai lịch của ma giáo, biết ma giáo phụng thờ đại ma vương tên là Ma Ni, người trong tôn giáo gọi là Minh Tôn. Tôn giáo lày đến trung thổ từ đời Nguyên Hòa, Hiến Tông nhà Đường, khi đó gọi là Ma Ni giáo lại còn gọi là Đại Vân Quang Minh giáo, giáo đồ tự xưng Minh giáo nhưng người ngoài gọi họ là Ma giáo.” (Ỷ Thiên Đồ Long ký, tr. 415-8)

    Thế nhưng Minh giáo cũng còn rất mơ hồ, chưa thấy những liên kết với nhau. Khi sáu đại môn phái – Thiếu Lâm, Võ Đương, Hoa Sơn, Không Động, Nga Mi, Côn Luân – tiến hành cuộc trường chinh vây đánh thẳng vào trung khu của Minh giáo là Quang Minh Đính , Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi mới tiết lộ qua về tổ chức của Minh giáo:

    “Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái quát lên: “Dập tắt yêu hỏa, diệt hết ma hỏa”. Bà ta ngừng lại một lát nói tiếp:

    – Ma giáo lấy hỏa làm thánh, tôn hỏa làm thần. Từ khi giáo chủ đời thứ ba mươi ba của Ma giáo là Dương Đính Thiên chết đi, họ không có giáo chủ. Tả hữu Quang Minh sứ giả, bốn đại Hộ giáo Pháp vương, Ngũ Tán Nhân, lại thêm chưởng kỳ sứ Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, người nào cũng nhòm ngó chức vị giáo chủ, tranh đoạt tàn sát lẫn nhau, nên giữa đường ma giáo trở nên suy yếu. Lúc này lại là lúc sáu chính đại môn phái hưng vượng, âu cũng là cái số của yêu tà phải bị tiêu diệt. Nếu như ma giáo không có tranh chấp bên trong, muốn trừ đám yêu nghiệt này không phải là dễ.

    Trương Vô Kỵ từ nhỏ đã nghe đến ma giáo, cũng biết mẹ chàng có liên quan xa gần đến ma giáo, nên mỗi khi hỏi gặng thêm, cha mẹ đều không vui, hỏi nghĩa phụ thì hoặc ông ta lặng thinh xuất thần, rồi bỗng dưng nổi giận, thành ra ma giáo thực sự là gì, thủy chung vẫn không biết rõ. Về sau chàng lại thấy thái sư phụ Trương Tam Phong đối với ma giáo ghét bỏ cùng cực, mỗi khi nhắc đến luôn luôn căn dặn, không bao giờ được kết giao với giáo đồ của họ. Thế nhưng khi Trương Vô Kỵ gặp những người như Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô, Thường Ngộ Xuân, Từ Đạt, Chu Nguyên Chương đều là người của ma giáo, nhưng đều khẳng khái trượng nghĩa, chưa hẳn đã chỉ là ác nhân, có điều hành sự ngụy bí, người ngoài khó mà đo lường được. Tới lúc này khi nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tới ma giáo, nên chàng cố hết sức tập trung để nghe cho kỹ.

    Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

    – Các đời giáo chủ ma giáo đều lấy “Thánh Hỏa Lệnh” làm tín vật truyền từ đời nọ sang đời kia, thế nhưng đến tay đời giáo chủ thứ ba mươi mốt, trời đoạt hồn phách làm sao, không hiểu thế nào đánh mất thánh hỏa lệnh, nên hai đời ba mươi hai và ba mươi ba có quyền mà không có lệnh, hai chức giáo chủ đó cũng hơi miễn cưỡng. Dương Đính Thiên chết bất ngờ, chẳng biết do trúng độc hay do người nào ám toán, không kịp chỉ định người kế thừa. Trong ma giáo những đại ma đầu có bản sự không phải là ít, những người đủ tư cách để làm giáo chủ ít ra cũng năm, sáu người, ta không phục người, người chẳng phục ta, nội bộ hoá thành đại loạn. Cho đến lúc này, họ cũng chưa suy định được giáo chủ. Kẻ mà chúng ta gặp ngày hôm nay, cũng trong những người muốn làm giáo chủ. Y là một trong bốn hộ giáo pháp vương, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu.

    Đám đệ tử chưa ai nghe nói tới cái tên Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, nên đều lặng yên không nói gì.

    Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
    – Tên này từ trước chưa bước chân vào Trung Nguyên, hành sự của bọn ma giáo lại kín đáo, nên gã này tuy võ công cao cường mà không mấy ai biết đến tên tuổi. Thế nhưng Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hai tên đó hẳn các ngươi đã nghe qua rồi?

    Trương Vô Kỵ thấy rung động trong lòng, Châu Nhi cũng “A” lên một tiếng nhỏ. Ân Thiên Chính và Tạ Tốn danh tiếng vang dội, trong võ lâm không ai không biết. Tĩnh Huyền hỏi:
    – Sư phụ, hai người đó cũng ở trong ma giáo ư?

    Diệt Tuyệt sư thái nói:
    – Hừ, đâu phải chỉ “cũng ở trong ma giáo” mà thôi? “Ma Giáo Tứ Vương, Tử Bạch Kim Thanh”. Tử Sam Long Vương, Bạch Mi Ưng Vương, Kim Mao Sư Vương, Thanh Dực Bức Vương, đó là tứ vương trong ma giáo. Thanh Dực đứng hàng cuối cùng, thân thủ như thế nào, hôm nay tất cả đều trông thấy rồi. Như thế Tử Sam, Bạch Mi, Kim Mao chỉ tưởng tượng cũng đủ biết ra sao. Kim Mao Sư Vương táng tâm phát điên, hai mươi năm trước hành động rồ dại, đột nhiên giết người vô tội, sau không biết đi đâu mất, thành một đại bí mật trong võ lâm. Ân Thiên Chính không có khả năng lên được chức giáo chủ ma giáo, bực tức bỏ ra sáng lập Thiên Ưng giáo, tự mình làm giáo chủ một phe cho hả dạ. Ta vẫn tưởng Thiên Ưng giáo đã quay lưng với ma giáo rồi, đối với Quang Minh Đính thế thành nước lửa, nào ngờ khi Quang Minh Đính gặp nguy nan, lại chạy đến cầu cứu Thiên Ưng giáo.”(Ỷ Thiên Đồ Long ký tr. 684-5)

    Và sau cùng, Minh giáo được tường thuật do chính người của giáo phái này là Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc:

    “Thuyết Bất Đắc nói:
    – Tiểu huynh đệ, Minh giáo chúng tôi nguyên từ nước Ba Tư, truyền tới Trung Thổ từ đời Đường. Đương thời gọi là Tiên giáo. Vua nhà Đường cho xây chùa Đại Vân Quang Minh tại các nơi, chính là tự viện của Minh giáo. Giáo nghĩa của chúng tôi là làm điều thiện, trừ điều ác, mọi người đều bình đẳng, nếu như có vàng bạc tiền tài, thì đem cứu giúp người nghèo khổ, không được ăn thịt, uống rượu, chỉ thờ Minh Tôn. Minh Tôn tức là thần lửa, mà cũng là thiện thần. Chỉ hiềm là đời nào tham quan ô lại cũng áp bức chúng tôi, anh em trong Minh giáo không chịu nổi, thỉnh thoảng lại nổi lên chống lại. Từ đời Phương Lạp, Phương giáo chủ đời Bắc Tống đến giờ, không biết đã bao nhiêu lần.

    Trương Vô Kỵ đã nghe qua tên tuổi của Phương Lạp, biết ông ta ở vào đời Tuyên Hòa, một trong Tứ Đại Khấu, cùng với Tống Giang, Vương Khánh, Điền Hổ nổi danh, nên nói:

    – Hóa ra Phương Lạp là giáo chủ của quí giáo?



    Thuyết Bất Đắc nói: – Chính thế. Đến đời Nam Tống thời Kiến Viêm, có giáo chủ Vương Tông Thạch tại Tín Châu khởi sự, thời Thiệu Hưng có giáo chủ Dư Ngũ Bà tại Cù Châu khởi sự, đời Lý Tông, năm Thiệu Định có giáo chủ Trương Tam Thương tại một dải Giang Tây, Quảng Đông khởi sự. Chỉ vì bản giáo xưa nay luôn luôn chống lại triều đình, quan phủ nên triều đình gọi chúng tôi là “ma giáo”, càng cấm đoán nghiêm nhặt hơn. Chúng tôi muốn sống còn, hành sự không khỏi kín đáo, lạ lùng, để tránh tai mắt quan quân. Chính đại môn phái đối với chúng tôi tích oán thành thù hận, thế hia bên ghét nhau như nước với lửa. Đương nhiên, trong số giáo chúng của bản giáo, cũng đôi khi có những kẻ không tự kiềm chế, làm những trò không phải, ỷ mình có võ công, giết người vô tội cũng có, gian dâm cướp bóc cũng có, đem cái tiếng tăm của bản giáo đổ xuống sông xuống…”(Ỷ Thiên Đồ Long ký, tr. 757-8)

    Tuy nhiên, một cách chính thức phải kể đến đoạn mà Kim Dung thác danh một cuốn sách của Dương Tiêu soạn ra để viết về lịch sử của Minh giáo:

    “Hai người nói chuyện một lát, Trương Vô Kỵ thuận tay cầm một cuốn sách trên bàn của Dương Tiêu lên, thấy trên bìa có viết bảy chữ tựa đề “Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký”, bên dưới có một hàng chữ nhỏ “Đệ Tử Quang Minh Tả Sứ Dương Tiêu cung soạn”. Trương Vô Kỵ nói:

    – Dương tả sứ, ông văn võ toàn tài, thật là rường cột của bản giáo.

    Dương Tiêu chắp tay:
    – Đa tạ giáo chủ khen ngợi.

    Trương Vô Kỵ mở sách ra, thấy viết bằng chữ nhỏ theo lối khải, mọi việc đều dẫn chứng sách vở rõ ràng. Trong sách kể lại minh bạch, Minh giáo nguyên từ nước Ba Tư, tên thật là Ma Ni giáo, truyền vào Trung thổ từ Diên Tải nguyên niên, đời Đường Võ Hậu. Thời đó người Ba Tư tên là Phí Đa Diên mang bộ Tam Tông Kinh của Minh giáo đến triều, là lần đầu tiên người Trung Quốc biết đến bộ kinh này. Ngày 29 tháng 6 năm thứ ba đời Đại Lịch nhà Đường, chùa Minh giáo Đại Vân Quang Minh được xây cất tại Lạc Dương, Trường An. Sau đó tại các thị trấn lớn như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu, Việt Châu cũng đều có Đại Vân Quang Minh tự. Tới năm Hội Xương thứ ba, triều đình ra lệnh giết giáo đồ, thế lực Minh giáo đại suy. Từ đó về sau, Minh giáo trở thành một tôn giáo bí mật, phạm cấm, đời nào cũng bị quan phủ truy lùng giết chóc. Để có thể sinh tồn, người trong Minh giáo không thể không hành sự ngụy bí, để rồi chữ Ma trong Ma Ni bị đổi thành Ma, đồng nghĩa với tà ma, người ngoài gọi là ma giáo.[3]

    Trương Vô Kỵ đọc đến đoạn này, không khỏi thở dài, nói:
    – Dương tả sứ, giáo chỉ của bản giáo nguyên là làm điều thiện, trừ điều ác, cùng với đạo Phật chẳng khác bao nhiêu, vậy mà từ đời Đường đến giờ, đời nào sao cũng bị giết hại thảm họa?

    Dương Tiêu nói:
    – Người trong Thích đạo tuy nói phổ độ chúng sinh, nhưng tăng chúng xuất gia đều cố giữ thanh tu, không để ý đến chuyện đời. Đạo gia cũng thế. Còn bản giáo tụ tập lương dân, bất luận ai gặp nguy nan khốn khổ thì mọi giáo chúng đều ra tay giúp đỡ. Quan phủ áp bức dân lành, có đời nào ít đâu? Có vùng nào ít đâu? Nếu có người nào bị quan phủ ức hiếp, oan khuất, bản giáo liền đứng ra chống lại.

    Trương Vô Kỵ gật đầu:
    – Chỉ khi nào triều đình, quan lại không còn áp bức dân lành, thổ hào ác bá không còn hoành hành vô phép tắc, đến lúc ấy bản giáo mới có thể hưng vượng được.

    Dương Tiêu vỗ bàn đứng dậy, lớn tiếng nói:
    – Lời của giáo chủ quả thật nói lên được tôn chỉ gốc rễ của bản giáo.

    Trương Vô Kỵ nói:
    – Dương tả sứ, ông xem có một ngày nào được như thế chăng?

    Dương Tiêu trầm ngâm một hồi lâu rồi nói:
    – Cũng chỉ mong được một ngày như thế. Phương Lạp, Phương giáo chủ của bản giáo đời Tống khởi sự cũng chỉ vì muốn quan lại không áp bức dân lành mà thôi.
    Y lật quyển sách chỉ vào đoạn chép về giáo chủ Minh giáo Phương Lạp tại Chiết Đông nổi lên, chấn động thiên hạ. Trương Vô Kỵ đọc xong trầm ngâm, gập sách lại nói:

    – Đại trượng phu cố nhiên phải như thế. Tuy Phương giáo chủ tuẫn nạn, thân vong nhưng cũng làm nên một sự nghiệp thật là oanh liệt.
    Hai người cùng một lòng, không nói mà nhiệt huyết nổi lên bừng bừng.

    Dương Tiêu lại nói:
    – Bản giáo đời nào cũng bị nghiêm cấm, thế nhưng thủy chung vẫn đứng được mà không sụp đổ. Năm Thiệu Hưng thứ tư đời Nam Tống có một viên quan tên là Vương Cư Chính gửi lên hoàng đế một đạo tấu chương, nói về việc của bản giáo, giáo chủ có thể xem qua.
    Nói rồi lật cuốn sách đến đoạn sao lục tấu chương của Vương Cư Chính. Trương Vô Kỵ đọc thấy trong đó viết như sau:

    “Thần thấy hai huyện Chiết Châu có tục tục ăn rau phụng thờ ma vương. Trước đời Phương Lạp, pháp cấm còn lỏng, mà việc tôn thờ ma quỉ chưa đến nỗi mạnh. Phương Lạp chết rồi, pháp cấm càng nghiêm, nhưng việc thờ ma lại càng mạnh không trừ nổi…. Thần nghe nói rằng kẻ thờ ma mỗi làng mỗi xóm có một hai tên kiệt hiệt, gọi là ma đầu, xem hết các tên họ trong thôn, đều có thề thốt gia nhập ma đảng. Kẻ thờ ma không ăn thịt. Một nhà có chuyện gì, tất cả đồng đảng đều đến giúp đỡ. Vì chưng chúng không ăn thịt nên giảm chi tiêu, mà giảm chi tiêu nên dễ đầy đủ. Cùng một đảng nên thân lẫn nhau, thân lẫn nhau nên có chuyện gì dễ giúp nhau…”

    Trương Vô Kỵ đọc đến đây nói:
    – Gã Vương Cư Chính này tuy là cừu địch nhưng quả biết rằng giáo chúng trong bản giáo sống tiết kiệm, giản phác, tương thân tương ái.

    Chàng lại đọc tiếp đoạn sau của tấu chương:
    “… vì thế thần cố theo đạo của tiên vương để làm cho dân tương thân, tương hữu, tương trợ. Cốt sống đạm bạc, dạy dân tiết kiệm, khuyến khích lối sống giản dị. Nay làm kẻ dẫn dắt nhân dân, nên không thể không lấy đó làm cách trị dân. Thế nhưng những ma đầu đã trộm cái cách của triều đình để khuyến dụ dân chúng rồi, nên người người đều ca tụng đạo ma, đi trợ giúp tà thuyết. Dân ngu không biết gì cả, nghe lời ma, thờ đạo ma, dễ đủ ăn, dễ trợ giúp, thành ra những gì ma đầu nói ra đều tin, tất cả đều theo về với chúng. Thành ra pháp cấm càng nghiêm, thì lại càng không thắng được những điều cấm.”

    Chàng đọc đến đây, quay đầu nói với Dương Tiêu: – Dương tả sứ, cái câu “pháp cấm dũ nghiêm, nhi dũ bất khả thắng cấm” chính là rõ ràng nói lên việc bản giáo được lòng dân chúng.” (Ỷ Thiên Đồ Long ký tr. 1016-8)

    Thế nhưng khi tìm hiểu về Minh giáo trong khung cảnh thực tế xã hội Trung Hoa, chúng ta thấy rằng Kim Dung đã không đơn thuần chỉ dựa vào tài liệu và sử sách. Minh giáo trong Ỷ Thiên Đồ Long ký là một kết hợp giữa một giáo phái với một bang hội, một tổ chức mà những giáo đồ không chỉ có chung một đức tin. Chính cái tinh thần tương thân tương trợ, một kỷ luật nội bộ, những qui tắc và thứ bậc đã tạo cho Minh giáo thành một tổ chức có thực lực chính trị vì họ đã huy động được một hậu thuẫn quần chúng. Minh giáo của Kim Dung dưới thời mạt Nguyên đó và Thiên địa hội trong thời Thanh sơ có nhiều điểm tương đồng, ít nhất trong vai trò chính trị của nó là một tổ chức đối kháng với triều đình. Cả hai đều có ý định khôi phục lại giang sơn đang bị người bên ngoài thống trị. Tuy nhiên, Kim Dung không chỉ biến giáo phái này thành một tổ chức ái quốc, ông còn muốn đặt Minh giáo như một trong ba nguồn văn hóa chính yếu tạo nên cái gọi là văn minh Trung nguyên trong thời kỳ đó, đại diện cho một khuynh hướng võ thuật – võ công Tây vực, có xuất xứ từ Ba Tư với nền văn minh Trung Đông làm nền tảng. Văn minh Tây vực đó là một trong ba nền văn minh làm thành thế đỉnh túc cho Hán tộc bao gồm văn minh Trung nguyên, đại diện là quan niệm âm dương trong Dịch lý với Trương Tam Phong và phái Võ Đương, văn minh Thiên Trúc, với Phật học làm nền tảng mà chùa Thiếu Lâm là đại biểu.

    Trương Vô Kỵ được coi như một tập đại thành của ba nền văn minh khi chàng có căn bản là Cửu Dương Thần Công phát xuất từ một vị cao tăng của Thiếu Lâm, lại được học Càn Khôn Đại Na Di và võ công trong Thánh Hoả Lệnh của Minh Giáo, cũng như Thái Cực Quyền và Thái Cực Kiếm của Trương Tam Phong.
    Kết luận
    Tại Trung Hoa, tôn giáo không dựa trên tín niệm như tại Âu Châu, cũng như tổ chức thường rất rời rạc. Nhiều đoàn thể kết hợp bằng nhiều mẫu số, địa phương, sắc tộc, tương trợ, nghi thức tế lễ, giáo điều, ý thức hợp quần, và cả những mô thức sinh hoạt chung. Những bang hội, hiệp hội, môn phái, giáo phái … được kết hợp không khác nhau bao nhiêu. Riêng Minh giáo, tổ chức này không còn thuần túy như đạo Mani nguyên thủy mà đã bị đồng hóa với những tôn giáo có sẵn để trở thành một tổ chức quần chúng, ít phần tôn giáo nhưng nhiều phần thế tục.

    Hiện nay, giáo đồ của đạo Bái Hỏa chỉ còn chừng hai trăm nghìn, nhiều nhất là tại Ấn Độ (100,000) và Iran (60,000). Riêng ở Bắc Mỹ Châu có chừng 15,000 và hàng năm có những buổi lễ, nhất là vào khoảng tháng 8, 9 kỷ niệm ngày sinh của Zraathustra. Họ sống một đời sống trong sạch và hiền hòa, tôn trọng những giáo nghĩa cổ kính (không ngoan, lẽ phải, đạo đức, bác ái, toàn thiện, bất tử và thiêng liêng), yêu thiên nhiên.[4]

    Trong lịch sử, người ta đã thấy nhiều nhóm giáo phái biến hình thành một lực lượng nổi dậy, chẳng hạn như giặc Khăn Vàng thời Tam Quốc, Bạch Liên giáo đời Minh, Thiên Địa Hội đời Thanh. Có lẽ chính vì thế, những người cầm quyền tại Trung Hoa luôn luôn nhìn tôn giáo bằng một con mắt ít thiện cảm, nhất là những tôn giáo có khả năng điều động tín đồ thành một phong trào. Thiên Địa Hội đời sơ Thanh, Thái Bình Thiên Quốc thời Thanh Mạt, loạn Quyền Phỉ thời đầu thế kỷ, hay Thanh Bang thời Dân Quốc đều là những tổ chức bán chính trị, bán tôn giáo có ảnh hưởng rất mạnh đến vận mệnh của một triều đại. Có lẽ vì thế mà nhà cầm quyền Trung Hoa hiện nay cũng muốn “tiên hạ thủ vi cường” với những người trong nhóm Pháp Luân Công.
    Last edited by changchancuu; 13-08-2020 at 11:28 AM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  17. #17
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Giáo hội Church of All Worlds

    Giáo hội Church of All Worlds là một tôn giáo mới được thành lập năm 1962 bởi Oberon Zell-Ravenheart và vợ ông Morning Glory Zell-Ravenheart.

    Có trụ sở tại Cotati, California, tôn giáo này đã phát triển từ một nhóm bạn bè và những người yêu mến người được truyền cảm hứng bởi một tôn giáo hư cấu cùng tên trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Stranger in a Strange Land của Robert A. Heinlein.



    Giáo hội Church of All Worlds (CAW) là một nhóm tôn giáo của người American Neopagan, họ tuyên bố là có nhiệm vụ phát triển một mạng lưới thông tin, thần thoại, và kinh nghiệm cung cấp một bối cảnh kích thích cho sự thức tỉnh Gaia và Cuộc hội ngộ giữa đứa con của mình (Gaia) thông qua tribal community , được cho là có trách nhiệm quản lý cho sự phát triển của nhân loại và thế giới . Nó có trụ sở tại Cotati, California .
    Người sáng lập chính của CAW là Oberon Zell-Ravenheart , người phục vụ Giáo hội với tư cách là " Primate ", sau này cùng với vợ của mình, Morning Glory Zell-Ravenheart (mất năm 2014), được chỉ định là High Priestess. CAW được thành lập vào năm 1962, phát triển từ một nhóm bạn bè và những người yêu thích và lấy cảm hứng từ một tôn giáo hư cấu cùng tên trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Stranger in a Strange Land (1961) của Robert A. Heinlein ; thần thoại của nhà thờ bao gồm khoa học viễn tưởng cho đến ngày nay.
    Các thành viên của CAW, được gọi là Waterkin , tán thành Paganism , nhưng Giáo hội không phải là một tôn giáo dựa trên tín ngưỡng. Các thành viên trải nghiệm Thần tính và tôn trọng những trải nghiệm này đồng thời tôn trọng quan điểm của người khác. Họ nhận ra "Gaea," Earth Mother Goddess và Father God, , cũng như các Faerie và các vị thần của nhiều pantheons khác. Nhiều lễ kỷ niệm của họ tập trung vào các vị thần và nữ thần của Hy Lạp cổ đại .

    Sự hình thành
    CAW bắt đầu vào năm 1961 với một nhóm bạn trung học . Một trong số này là Richard Lance Christie đến từ Tulsa, Oklahoma . Christie bị cuốn hút bởi khái niệm " tự hiện thực hóa " của Abraham Maslow , một nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ , và sau khi gặp Timothy Zell lúc bấy giờ tại Đại học Westminster ở Fulton, Missouri, anh bắt đầu thí nghiệm về nhận thức ngoại cảm . Chính trong thời gian này, cả nhóm đã đọc cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của Heinlein, Stranger in a Strange Land (1961), cuốn tiểu thuyết này đã trở thành nguồn cảm hứng cho CAW.
    Cuốn sách của Heinlein, kết hợp với các khái niệm tự hiện thực hóa của Maslow, đã dẫn đến sự hình thành của một tổ chức mà Zell và Christie gọi là Atl , từ Aztec có nghĩa là "nước", và cũng có nghĩa là "quê hương của tổ tiên chúng ta". Atl trở nên quan tâm với sự thay đổi chính trị và xã hội và nhóm đã tăng lên khoảng 100 thành viên.
    Zell thành lập CAW từ Atl, và nộp đơn xin thành lập như một nhà thờ vào năm 1967. Nó chính thức được đăng ký vào ngày 4 tháng 3 năm 1968, trở thành Church of All Worlds đầu tiên được Hoa Kỳ công nhận là một tôn giáo.


    Tổ chức ban đầu và niềm tin
    CAW đã mô hình hóa tổ chức của mình theo nhóm trong tiểu thuyết của Heinlein, như một chuỗi 9 tổ trong các vòng thăng tiến, mỗi tổ được đặt tên theo một hành tinh. Tín điều cơ bản của CAW là không có giáo điều - "niềm tin" cơ bản là "thiếu niềm tin" đã nêu. Trong tôn giáo của họ, tội duy nhất là đạo đức giả và tội duy nhất trong mắt nhà thờ là can thiệp vào người khác.


    Sự phát triển
    Việc hướng tới sự chú trọng vào tự nhiên cuối cùng đã dẫn đến sự phá vỡ mối quan hệ giữa CAW và Atl. Đến năm 1974, CAW đã có tổ chức tại hơn một chục tiểu bang trên khắp Hoa Kỳ. Năm đó, Zell kết hôn với Morning Glory ( nhũ danh Diana Moore) và năm 1976 anh và Morning Glory định cư ở Eugene, Oregon và sau đó tại vùng đất Coeden Brith ở phía bắc California .
    Khi Zell rời bỏ quyền lãnh đạo trung ương, Giáo hội Church of All Worlds phải chịu đựng xung đột nội bộ dẫn đến việc giải thể hầu hết các giáo hội. Đến năm 1978, trung tâm và trụ sở chính được chuyển đến California với Zells và cấu trúc tổ chín vòng tròn đã được cải tạo. CAW sau đó phục vụ trong vài năm với tư cách là một tổ chức bảo trợ cho các tổ chức con của mình.
    Các Tổ chức con
    Morning Glory Zell thành lập Ecosophical Research Association (ERA) vào năm 1977 để nghiên cứu truyền thuyết và huyền thuật kỳ bí. Dự án đầu tiên đáng chú ý của nó là tạo ra những con kỳ lân sống vào năm 1980, sau khi ghi nhận rằng nghệ thuật sơ khai mô tả những sinh vật này giống dê hơn là giống ngựa. Gia đình Zells đã tái tạo lại những gì họ tuyên bố là một thủ tục trang hoàng cổ đại, một quy trình liên quan đến việc phẫu thuật điều khiển chồi sừng của những đứa trẻ trong tuần đầu tiên của cuộc đời và tạo ra một số kỳ lân, một số trong số đó đã đi lưu diễn với Ringling Brothers Circus trong một thời gian. ERA đã tài trợ cho chuyến thám hiểm tìm kiếm Nàng tiên cá ở Papua, New Guinea vào năm 1985 và một dự án ERA sau đó liên quan đến nghi lễ trên toàn thế giới vào tháng 5 năm 1996 để thu hút và kích hoạt lại Oracle tại Delphi. Nghi thức này liên quan đến một nỗ lực tương đối sớm trong việc sử dụng online communityvà các nghi thức trên virtual community được hỗ trợ bởi internet và được tiến hành đồng thời trên các múi giờ khác nhau, do Maerian Morris , một cựu Nữ tu sĩ cấp cao khác của CAW, làm việc từ Delphi, dẫn đầu. Việc kích hoạt lại Delphi là chủ đề của một loạt sáu bài xã luận trên Green Egg (số 125 đến 130) từ tháng 11/12/1998 đến tháng 9/10 / 1999.
    Năm 1978 CAW hợp nhất với Nemeton, một tổ chức Pagan do Gwydion Pendderwen và Alison Harlow thành lập . Năm 1987, CAW cũng tiếp nhận Forever Forest, một tổ chức khác của Pendderwen. Một tổ chức phát triển của Forever Forest được thành lập vào năm 1983 bởi Anodea Judith , chủ tịch trước đây và là Nữ tu sĩ cấp cao của CAW, được gọi là Lifeways.
    Holy Order of Mother Earth (HOME), được thành lập vào năm 1978 bởi Zells, là một tổ chức con khác, dành riêng cho việc sống và làm việc bằng phép thuật với vùng đất.
    Oberon và Morning Glory Zell-Ravenheart đã xuất hiện tại hơn 20 Lễ hội Starwood (và một số Hội nghị chuyên đề WinterStar) trong 25 năm qua; vì điều này, đã có một Giáo hội Church of All Worlds hiện diện tại Starwood, được gọi là CAWmunity, trong hơn một thập kỷ.
    Nỗ lực Phục hưng lần đầu
    Đến giữa những năm 1980, CAW thực tế đã ngừng hoạt động bên ngoài Ukiah, California , nơi Zells chuyển đến vào năm 1985. Anodea Judith đảm nhiệm chức vụ chủ tịch cho đến năm 1991, và cấu trúc của tổ chức đã được sửa đổi với kế hoạch tổ chức nhiều cuộc họp, các khóa đào tạo, mới nghi lễ, và các ấn phẩm. Vào cuối những năm 1980, CAW đã gia tăng số lượng thành viên quốc tế, trở nên đặc biệt mạnh mẽ ở Úc, nơi nó được thành lập hợp pháp vào năm 1992.
    Năm 1998, Oberon Zell-Ravenheart tạm nghỉ vai trò Primate trong thời gian 1 năm 1 ngày, và trụ sở Giáo hội được chuyển đến Toledo, Ohio .
    Đã cố gắng chấm dứt & Phục hưng thứ hai
    Vào tháng 8 năm 2004, Hội đồng quản trị quyết định chấm dứt CAW do những khó khăn về tài chính và pháp lý. Vào tháng 1 năm 2006, do nỗ lực cứu tổ chức của Jack Crispin Cain, CAW đã được tái lập với Zells một lần nữa đảm nhận vai trò lãnh đạo. Năm 2007, Green Egg , tạp chí có ảnh hưởng của CAW, đã quay trở lại xuất bản dưới dạng trực tuyến. “Sự phục sinh của Phượng Hoàng lần thứ 3 của CAW” vẫn tiếp tục cho đến nay.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  18. #18
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    688

    Mặc định Children of God

    Tiết lộ "động trời" của đứa trẻ chôn vùi tuổi thơ trong giáo phái ví như "động quỷ": Bắt cóc, giam giữ, hiếp dâm và loạn luân đều có đủ.
    “Một đứa trẻ 14 tuổi từng ở 9 ngày tại một xã của "Children of God" kể rằng chính mình bị cưỡng hiếp và vì từ chối hợp tác với những người lớn tuổi nên đã bị biệt giam không dưới ba lần”.

    Ngày nay, chỉ cần nghe đến cái tên "Children of God" hay thủ lĩnh của nó là David Berg, nhiều người vẫn sởn da gà bởi những câu chuyện kinh hãi, bệnh hoạn đến mức không tưởng. Những đứa trẻ dù là có bố mẹ hay côi cút đều trở thành "con mồi" cho chúng nhồi nhét niềm tin lệch lạc, để rồi, cả tuổi thơ hay tương lai bọn trẻ bị hoen ố trong cái gọi là "nhân danh tình yêu", tôn thờ Chúa trời...

    Câu chuyện của cậu bé Michael Young dưới đây chỉ là một trong số rất nhiều câu chuyện đã được kể ra, chưa tính những mảnh đời trẻ thơ bất hạnh khác đã bị làm nhục bởi giáo phái quái dị này!

    Chôn vùi tuổi thơ trong kinh thánh "xuyên tạc"
    Trong số 8 anh chị em của mình, Michael Young là nhà truyền giáo đường phố nhiệt thành nhất. Khi còn là một đứa trẻ lớn lên ở Monterrey, Mexico, anh đã thuyết giảng tới 10 giờ/ngày, 3-4 ngày/tuần. Anh bắt chuyện với những người lạ trên phố và thậm chí còn gõ cửa từng nhà. Anh sẽ hỏi họ bằng vốn tiếng Tây Ban Nha ít ỏi rằng liệu họ có muốn lên thiên đường. Nếu họ nói có, anh sẽ cầu nguyện cho họ. Nếu họ nói không, anh sẽ xin họ một khoản quyên góp nhỏ cho The Family, một tổ chức mà trước đây được gọi là giáo phái khét tiếng "Children of God" (Tạm dịch: Những đứa con của Chúa).


    Michael Young và gia đình của anh ấy. Young không biết rằng nhà thờ nơi cha mẹ anh làm việc bị FBI gán cho cái mác một giáo phái.

    Cha mẹ của Young, đều là những nhà truyền giáo sùng đạo người Mỹ đã chuyển đến Mexico vào năm 1998, nói với anh rằng công việc như vậy là SỐ PHẬN và NGHĨA VỤ của anh. Đổi lại, khi chết đi, sang thế giới bên kia anh sẽ được sống trong "khu ổ chuột trên thiên đường", một nơi chỉ tốt hơn một chút so với địa ngục.

    Năm 2000, khi Young lên 8 tuổi, gia đình Young chuyển đến bang Texas (Mỹ) và tiếp tục công việc truyền giáo tại các trung tâm mua sắm mini và bãi đậu xe Walmart, truyền tải những truyền thuyết thần học về ngày tận thế sắp xảy ra và nó sẽ sớm quét sạch những người không tin.

    Young nói rằng anh rất vui. Anh nói: “Tôi sống tâm linh theo một cách rất ám ảnh và rất kiên định".


    Michael Young: "Tôi sống tâm linh theo một cách rất ám ảnh".

    Nhưng Young không biết rằng nhà thờ của cha mẹ anh đã bị FBI gán cho cái mác là một giáo phái và cả những cáo buộc lạm dụng trẻ em. Trong một báo cáo năm 1974, văn phòng tổng chưởng lý New York cũng đã gọi "Những đứa con của Chúa" là một “giáo phái”. Các hoạt động của nhóm đã thu hút các cuộc điều tra từ FBI và Interpol, 2 tổ chức truy lùng thủ lĩnh của giáo phái này là David Berg. Một người (giấu tên) từng tham gia giáo phái này cũng tiết lộ chuyện hiếp dâm, giam giữ, bắt cóc và loạn luân trong tổ chức này.

    Cuộc điều tra kết thúc vào năm 1994, sau cái chết của David Berg. Nhưng vào năm 2009, "Children of God" bắt đầu sụp đổ. Nhà thờ tan rã và Young đột nhiên buộc phải rèn cho mình một cuộc sống mới, cùng với hàng ngàn nhà truyền giáo biệt lập khác phải hòa nhập vào một xã hội mà họ đã khước từ từ lâu.

    Giáo phái tàn độc nhân danh tình yêu nhưng chẳng khác nào "động quỷ"

    "Children of God" bắt đầu vào năm 1968 với tư cách là một nhóm nhỏ gồm những thiếu niên và hippy (thuật ngữ dùng để chỉ những thanh niên lập dị chống lại những quy ước của xã hội) bỏ trốn. Theo báo cáo của văn phòng tổng chưởng lý New York, dưới sự chỉ đạo của Berg, một nhà thuyết giảng Tin Lành, hết lòng tôn thờ Chúa Giê-su và quan hệ tình dục lăng nhăng, nhóm này hoạt động năng nổ và ngày càng phát triển.


    Hình ảnh tên David Brandt Berg khi còn sống.

    Bản báo cáo ghi lại toàn bộ hành vi loạn luân của Berg và lời kể của các nhân chứng, những người đã đứng ra làm chứng rằng hiếp dâm trẻ em được sử dụng như một cái cớ để “gia tăng dân số giáo phái”.

    “Một đứa trẻ 14 tuổi từng ở 9 ngày tại một xã của "Children of God" kể rằng chính mình bị cưỡng hiếp và vì từ chối hợp tác với những người lớn tuổi nên đã bị biệt giam không dưới ba lần”, báo cáo viết.

    Nam diễn viên quá cố River Phoenix, người lớn lên trong "Children of God", nói với Tạp chí Details Magazine vào năm 1991 rằng anh quan hệ tình dục lần đầu khi mới 4 tuổi.

    Young cho biết bản thân chưa từng bị các thành viên trong nhà thờ lạm dụng tình dục nhưng đã chứng kiến. “Đó chắc chắn không phải là một nơi an toàn để lớn lên, đặc biệt nếu bạn là một cô gái”, anh nói. “Những người bạn thân của tôi khi lớn lên đã bị lạm dụng và hãm hiếp".

    Triết lý của Berg, mà ông ta gọi là Quy luật tình yêu, là sự pha trộn giữa giáo điều Cơ đốc và lý tưởng tình yêu tự do của cuộc cách mạng tình dục những năm 1960. Young nói: “Quy luật tình yêu là một học thuyết nhằm biện minh và che giấu việc bóc lột tình dục. Nó được tạo ra để khiến người khác cảm thấy có nghĩa vụ phải từ bỏ cơ thể của mình để hiến dâng cho cái gọi là nhu cầu tình dục của người khác. Rằng cơ thể của bạn không phải của riêng bạn, bạn phải dâng nó cho Chúa”.




    Berg, với bộ râu dài bạc trắng và những hình ảnh khải huyền, tự coi mình là nhà tiên tri. Thông điệp của ông ta tương đối đơn giản, nếu không muốn nói là rất nguyên bản: Chúa sẽ sớm trở lại Trái đất để ra tay phán xét. Để tránh cơn thịnh nộ của Ngài, Berg khuyên các tín đồ của mình nên sống một cuộc sống khắc khổ và từ bỏ tất cả tài sản của mình. Và họ đã làm theo đúng như thế.

    Bộ trưởng Tư pháp New York đã tìm thấy ước tính có khoảng 120 xã của "Children of God" vào năm 1974, nhiều xã trong số đó có các thành viên được yêu cầu giao nộp đồ đạc cá nhân và tiền bạc cho các thủ lĩnh. Hơn 3 thập kỷ sau, vào năm 2006, đã có hơn 1.400 xã ở hơn 100 quốc gia.

    Berg không khuyến khích các thành viên làm việc và cho con đi học, theo các cuộc phỏng vấn với 10 cựu thành viên đã sinh ra trong giáo phái này. Các thành viên sống trong các xã lớn, thường có 4-5 gia đình dưới một mái nhà, cùng sống để chờ đợi ngày tận thế sắp xảy ra.

    "Children of God" có các xã ở các thành phố lớn và nhỏ phân tán như đảo Staten, Tucson và Coachella. Nó tuyển chọn những thanh thiếu niên bất mãn, bỏ học rồi dụ dỗ chúng cống nạp hết tiền lấy được từ phụ huynh.

    Berg đã đổi tên phong trào của mình là "Family of Love" (Gia đình Tình yêu) ngay sau vụ tự sát hàng loạt tại Jonestown năm 1978. Vụ việc này khiến giới truyền thông tỏ rõ thái độ tiêu cực với các giáo phái Cơ đốc khác. Năm 2004, "Family" (Gia đình) lại đổi tên thành Family International" (Quốc tế Gia đình).

    “Chúng tôi luôn gây quỹ bằng tiền mặt, sử dụng số tiền đó để trả tiền thuê nhà và sau đó gây quỹ vào tháng tiếp theo nên có rất nhiều lo lắng”, Young kể lại. "Chúng tôi không mua thực phẩm từ cửa hàng tạp hóa, thường là được tặng". Young đã dành phần lớn thời gian của mình để dạy trong các khóa học Kinh thánh.

    Nhưng ngày tận thế chẳng bao giờ xảy ra...

    Rút chân ra khi chưa quá muộn

    Trong hàng chục cuộc nói chuyện qua điện thoại, Young kể cho phóng viên tờ The Guardian nghe rằng anh đã phải vật lộn như thế nào để rời khỏi nhóm. Anh nói rằng bản thân đã hoàn toàn "vỡ mộng" với "Children of God" nhưng anh không ngay lập tức quay lưng lại với nhà thờ. Anh đọc Kinh Thánh từ đầu đến cuối để tìm kiếm ý nghĩa của Đức Chúa Trời.

    “Thời điểm đó, tôi đã khá hoảng sợ và tôi rơi vào hoảng loạn đến mức nghĩ rằng mình sẽ xuống địa ngục", anh nói.


    Michael Young: "Tôi đã rơi vào những cơn hoảng loạn mà tôi nghĩ rằng mình sắp xuống địa ngục".

    Young không tìm được việc làm, không có kinh nghiệm ngoài công việc truyền giáo. Nhưng rất giỏi trong việc làm bóng bay cho trẻ em và thổi chúng ở nhà hàng để đổi lấy tiền boa.

    Một lần, có một nữ nhân viên chủ động tiếp cận Young và tỏ ý muốn hẹn hò với anh. Cô mua một quả bóng bay, tặng anh một nụ hôn và cho cả số điện thoại. Họ về nhà với những người bạn cùng phòng của cô và nói về các trò chơi điện tử và chương trình truyền hình. Young kể lại: “Tôi bị tê liệt vì không biết nói gì và cứ ngồi im, thấy rất kỳ lạ. Tôi rất thích cô ấy và tôi thực sự cảm thấy tổn thương ghê gớm vì sau lần đó cô ấy không gọi cho tôi thêm lần nào nữa".

    Tiến sĩ Marlene Winell, một nhà tâm lý học nghiên cứu về sự truyền dạy tôn giáo, cho biết có thể mất nhiều thời gian để các thành viên cũ của các giáo phái hoặc các nhóm tôn giáo cực đoan cảm thấy thoải mái khi trở về với thực tế mới.

    Winell nói: “Đó là điều phổ biến khi bạn cảm thấy mình phải thích nghi với thế tục vì có quá nhiều kỳ vọng và kiểu hành vi mà bạn không quen thuộc. Có thể mất nhiều thời gian để rời khỏi những nhóm đó, đặc biệt nếu họ được sinh ra ở đó. Họ cũng phải vật lộn để định hình bản thân với câu hỏi rằng "Nếu mình không phải là tín đồ của giáo phái hay tín đồ của tôn giáo này, thì mình là ai?'".

    Hơn một năm rưỡi sau khi rời khỏi "Children of God", Young đã tham gia một chương trình của trường cao đẳng cộng đồng, chương trình này giúp sinh viên nhận được học bổng và chuyển tiếp lên trường cao đẳng với lộ trình 4 năm.

    "Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy mình có bạn. Chúng tôi đã nói về nghệ thuật, âm nhạc, khiêu vũ'", anh nói. "Tôi ngay lập tức cảm thấy mình thuộc về thế giới như thế này".

    Ngày nay, giáo phái "Gia đình" (trước đây là "Children of God") chỉ có khoảng 2.500 thành viên ở khoảng 80 quốc gia.

    Đối với Young, người vừa mới bắt đầu học thạc sĩ tại Đại học Penn State, chẳng có gì về những ngày xưa cũ của "Gia đình" để anh phải hoài niệm.

    Anh nói: "Điều tôi lo lắng nhất khi ra đi là liệu tôi có tìm được bạn bè, một người bạn gái phù hợp, một nơi mà tôi thuộc về. Tôi đã tìm thấy những người tôi cần sau khi tôi tìm thấy những người chia sẻ giá trị và mục tiêu của tôi, thay vì cố gắng hòa nhập".

    Nguồn: The Guardian
    Last edited by changchancuu; 10-01-2022 at 11:43 AM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. ĐẠO PHẬT KHÔNG NẰM TRÊN SÁCH VỞ
    By phapchieumt in forum Đạo Phật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 29-05-2017, 08:30 AM
  2. MƯỜI LOÀI HOA ĐẶC BIỆT TRÊN THẾ GIỚI
    By Tiều Phu Già in forum Ngãi
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 18-10-2015, 11:38 AM
  3. HOÁ RA MỌI THỨ TRÊN ĐỜI THẬT ĐƠN GIẢN !
    By Dieudiem in forum Tản mạn nhân sinh
    Trả lời: 16
    Bài mới gởi: 04-11-2012, 07:48 PM
  4. ĐẸP MÊ HỒN THÀNH PHỐ TRÊN KHÔNG!
    By Dieudiem in forum Nét Văn hóa, Văn Minh của các nước khác
    Trả lời: 26
    Bài mới gởi: 03-09-2012, 06:47 AM
  5. NHÀ SƯ BÒ 800 KM TRÊN ĐƯỜNG !
    By Dieudiem in forum Tản mạn nhân sinh
    Trả lời: 30
    Bài mới gởi: 11-08-2012, 07:23 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •