Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 42

Ðề tài: Kinh điển Pali nói về Tánh Không

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Kinh điển Pali nói về Tánh Không

    Kinh Culasunnata-sutta

    (Bài kinh ngắn về Tánh Không)
    (dựa theo các bản tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna và tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu)

    Tôi từng được nghe như thế này:

    Có một lần Đấng Thế Tôn ngụ nơi tịnh xá của thân mẫu vị Migâra-Mita tại nơi Tu Viện Phía Đông (Pubbarama) thuộc thành Xá Vệ (Sâvathi). Sau khi chấm dứt buổi thiền định một mình vào lúc trưa thì vị Tôn Kính A-nan-đà (nguyên bản trong kinh là Ayasmanta Ananda, chữ Ayasmanta có thể dịch là vị Tôn Kính hay vị Đáng Kính. Tuy nhiên cũng nên lưu ý là trong các kinh sách "nguyên thủy" bằng tiếng Pa-li thì chữ Ayasmanta chỉ duy nhất được dùng để gọi các vị đệ tử trực tiếp của Đức Phật) đứng lên và tiến về phía Đấng Thế Tôn. Khi đến gần thì vị Tôn Kính A-nan-đà đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi lại và ngồi sang một bên. Sau khi an tọa thì vị Tôn Kính A-nan-đà bèn cất lời như sau:

    - "Bạch Thế Tôn, có lần Ngài ngụ ở thị trấn Nagaraka thuộc xứ của dân Sakka (Sakka là tiếng Pa-li, tiếng Phạn là Sakya, dịch âm ra tiếng Việt là Thích-ca, và đấy cũng là tên gọi của bộ tộc thuộc dòng họ của Đức Phật). Vào dịp ấy và trước mặt Ngài tôi đã được nghe chính Ngài nói lên như thế này: 'Này A-nan-đà, Ta luôn an trú trong tánh không, và đang trong lúc này thì Ta lại càng an trú sâu xa hơn nữa'. Bạch Thế Tôn, tôi nghĩ rằng tôi đã nghe đúng như thế, và hiểu đúng như thế"

    Đấng Thế Tôn đáp lại như sau:

    - "Quả đúng như thế, này A-nan-đà, những gì người đã được nghe thấy đúng là như thế; những gì người hiểu được cũng đúng là như thế. Đang trong lúc này, và cũng tương tự như trước đây Ta từng an trú trong tánh không thì nay Ta lại càng an trú sâu xa hơn trong tánh không. Cũng chẳng khác gì như gian tịnh xá này do Migâra-Matâ xây cất hoàn toàn trống không, không có một con voi nào, không có một con bò cái nào, không có một con ngựa đực nào, không có một con ngựa cái nào, không có vàng cũng chẳng có bạc, hoàn toàn trống không, chẳng có đám đàn ông hay đàn bà nào tụ tập. Gian tịnh xá chỉ duy nhất không-trống-không về cái đặc tính độc nhất [của nó] thiết lập bởi tập thể Tăng Đoàn (tức là danh xưng mà Tăng Đoàn đã sử dụng để gọi đấy là gian tịnh xá).

    1- Cảm nhận về rừng

    Tương tự như thế, này A-nan-đà, người tỳ-kheo không tập trung vào sự cảm nhận liên quan đến ngôi làng, không tập trung vào sự cảm nhận liên quan đến con người, [mà chỉ] tập trung vào đặc tính duy nhất thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến khu rừng (Thanissaro không dịch là "khu rừng" mà gọi là "nơi hoang dã" - wilderness, trong nguyên bản bằng tiếng Pa-li thì chữ này là khu rừng). Tư duy của người ấy lắng sâu vào sự cảm nhận về khu rừng. Tư duy của người ấy cảm thấy thích thú nơi ấy, trụ vào nơi ấy, tìm thấy sự giải thoát cho mình trong cảnh giới ấy. Do đó, người ấy cũng hiểu rằng: 'Nơi này không có mối quan tâm nào phát sinh do sự cảm nhận về ngôi làng. Nơi này không có mối quan tâm nào phát sinh do sự cảm nhận về con người. Nơi này chỉ có mối quan tâm về đặc tính duy nhất của tư duy thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến khu rừng'. Do đó người ấy sẽ hiểu rằng: 'Sự nhận thức ấy trống-không về sự cảm nhận về ngôi làng. Sự nhận thức ấy trống-không về sự cảm nhận về con người. Sự nhận thức ấy chỉ không-trống-không về đặc tính duy nhất được thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến khu rừng' (tất cả đều trống không và hoang dã - không có làng mạc cũng như không có con người - duy nhất chỉ ý thức được "khái niệm" về khu rừng). Tương tự như thế, nếu không có một sự vật nào (trong khu rừng chẳng hạn) thì người ấy cũng sẽ nhận biết được rõ ràng về sự vắng mặt ấy. Nếu có một chút tàn dư (résidu / remains) nào, thì đối với sự tàn dư ấy người này sẽ hiểu rằng: "Khi cái này có, [thì] cái kia có" (đấy là quy luật tương liên - interdependence - có nghĩa là mọi hiện tượng sở dĩ hiện hữu là nhờ lôi kéo nhau mà có, không có một hiện tượng nào tự chúng hiện hữu một cách độc lập, riêng rẽ và tự tại được. Câu kinh trên đây có nghĩa là nếu trong khi thiền định về sự trống không của khu rừng mà vẫn còn cảm nhận có một cái gì khác nữa thì đấy cũng chỉ là một sự lôi kéo tự nhiên của các hiện tượng làm phát sinh ra nó). Này A-nan-đà, đấy chính là cách mà người tu tập hội nhập với tánh không mang tính cách đích thật, không sai lầm và tinh khiết (dù vẫn còn trong cấp bậc sơ khởi thế nhưng đấy cũng đã là cách khởi sự bước vào tánh không đích thật).

    2- Cảm nhận về đất

    "Hơn nữa, này A-nan-đà, người tỳ-kheo không tập trung vào sự cảm nhận liên quan đến con người, không tập trung vào sự cảm nhận liên quan đến khu rừng, [mà] chỉ tập trung vào đặc tính duy nhất thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến đất. Này A-nan-đà, đấy cũng chẳng khác gì một tấm da bò được căng thật thẳng bằng một trăm cái cọc, và không còn dính một chút mỡ nào cả. Cũng thế, này A-nan-đà, người tỳ kheo không tập trung vào những thứ thuộc về đất, chẳng hạn như những vùng đất cao, những vùng đầm lầy, sông ngòi, cây cối với cành lá và gai góc... hoặc núi non, thung lũng, v.v..., [mà] chỉ tập trung vào đặc tính duy nhất thiết lập trên sự cảm nhận về đất. Tư duy của người ấy lắng sâu vào sự cảm nhận liên quan đến đất (cảm nhận về đất và chỉ thấy có đất, không thấy nơi cao chỗ thấp, sông ngòi, cây cỏ, tương tự như chỉ thấy tấm da bò căng thẳng mà không thấy con bò đâu cả, kể cả những vết mỡ dính trên tấm da cũng không còn). Tư duy của người ấy cảm thấy thích thú nơi ấy, trụ vào nơi ấy, tìm thấy sự giải thoát cho mình trong cảnh giới ấy. Do đó người ấy cũng hiểu rằng: 'Nơi này không có mối quan tâm nào phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về con người. Nơi này không có mối quan tâm nào phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về rừng. Nơi này chỉ có mối quan tâm phát sinh từ đặc tính duy nhất của tư duy thiết lập trên sự cảm nhận về đất' (chỉ cảm nhận toàn là đất, ngoài ra không có gì khác). Vì thế, này A-nan-đà, đấy chính là cách mà người ấy hòa nhập vào tánh không đích thật, không sai lầm và tinh khiết.

    3- Cảm nhận về không gian vô tận

    "Hơn nữa, này A-nan-đà, người tỳ kheo không tập trung vào sự cảm nhận về rừng, không tập trung vào sự cảm nhận về đất, [mà] chỉ tập trung vào đặc tính duy nhất thiết lập trên sự cảm nhận về "bầu không gian vô tận" (sphère de l'espace infini / infinitude of space). Tư duy của người ấy lắng sâu vào sự cảm nhận về "bầu không gian vô tận". Tu duy của người ấy cảm thấy thích thú nơi ấy, trụ vào nơi ấy, tìm thấy sự giải thoát cho mình trong cảnh giới ấy. Do đó, người ấy cũng hiểu rằng: 'Nơi này không có mối quan tâm nào phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về rừng. Nơi này không có mối quan tâm nào phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về đất. Nơi này chỉ có mối quan tâm phát sinh từ đặc tính duy nhất của tư duy thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến ''bầu không gian vô tận"' (có nghĩa là chỉ duy nhất cảm nhận được một bầu không gian vô tận mà thôi). Vì thế, nếu không có một sự vật nào thì người ấy cũng nhận biết được rõ ràng về sự vắng mặt ấy. Nếu vẫn còn một chút tàn dư nào thì đối với sự tàn dư ấy, người này cũng hiểu rằng: "Khi cái này có [thì] cái kia có". Do đó, này A-nan-đà, đấy chính là cách mà người ấy hội nhập vào tánh không đích thật, không sai lầm và tinh khiết.

    4- Cảm nhận về bầu không gian của tri thức vô tận

    "Hơn nữa, này A-nan-đà, người tỳ-kheo không tập trung vào sự cảm nhận về đất, không tập trung vào sự cảm nhận về "bầu không gian vô tận", [mà] chỉ tập trung vào "bầu không gian của tri thức vô tận" (sphère de conscience infinie / the infinitude of consciousness. Xin lưu ý bầu không gian vô tận trong phần trên đây là cách hình dung ra sự bao la của không gian bên ngoài. Trong giai đoạn này hay cấp bậc này là cách hình dung ra một tri thức bao la bên trong nội tâm của người hành thiền). Tư duy của người ấy lắng sâu vào sự cảm nhận về "bầu không gian của tri thức vô tận". Tư duy của người ấy cảm thấy thích thú nơi ấy, trụ vào nơi ấy, tìm thấy sự giải thoát cho mình trong cảnh giới ấy. Do đó, người ấy sẽ hiểu rằng: 'Nơi này không có mối quan tâm phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về đất. Nơi này không có mối quan tâm phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về "bầu không gian vô tận". Nơi này chỉ có mối quan tâm phát sinh từ đặc tính duy nhất của tư duy thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến "bầu không gian của tri thức vô tận" '. Do đó người ấy sẽ hiểu rằng: Sự nhận thức ấy trống-không về sự cảm nhận về đất. Sự nhận thức ấy trống-không về sự cảm nhận về 'bầu không gian vô tận'. Sự nhận thức ấy chỉ không-trống-không về đặc tính duy nhất thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến "bầu không gian của tri thức vô tận" '. Vì thế, nếu không có một sự vật nào (xảy ra trong bầu không gian của tri thức vô tận đó), thì người ấy cũng nhận biết được rõ ràng về sự vắng mặt ấy. Nếu vẫn còn một chút tàn dư nào, thì đối với sự tàn dư ấy người này cũng hiểu rằng: "Khi cái này có, [thì] cái kia có". Do đó, này A-nan-đà, đấy chính là cách mà người ấy hòa nhập vào tánh không đích thật, không sai lầm và tinh khiết.

    5- Cảm nhận về thể dạng hư vô

    "Hơn thế nữa, này A-nan-đà, người tỳ-kheo không tập trung vào sự cảm nhận về "bầu không gian vô tận", không tập trung vào sự cảm nhận về "bầu không gian của tri thức vô tận", [mà] chỉ tập trung vào đặc tính duy nhất thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến "thể dạng hư vô" (sphère du néant / dimension of nothingness / sự trống không, sự vắng lặng không hàm chứa một thứ gì cả). Tư duy của người ấy lắng sâu vào sự cảm nhận về "thể dạng hư vô". Tư duy của người ấy cảm thấy thích thú nơi ấy, trụ vào nơi ấy, tìm thấy sự giải thoát cho mình trong cảnh giới ấy. Do đó, người ấy sẽ hiểu rằng: "Nơi này không có mối quan tâm phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về "bầu không gian vô tận". Nơi này, không có mối quan tâm phát sinh từ "bầu không gian vô tận". Nơi này không có mối quan tâm phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về "bầu không gian của tri thức vô tận". Nơi này chỉ có mối quan tâm phát sinh từ đặc tính duy nhất của tư duy thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến "thể dạng hư vô" '. Do đó, người ấy sẽ hiểu rằng: "Sự nhận thức ấy trống-không về sự cảm nhận về "bầu không gian vô tận". Sự nhận thức ấy trống-không về sự cảm nhận về "bầu không gian của tri thức vô tận". Sự nhận thức ấy chỉ không-trống-không về đặc tính duy nhất của sự cảm nhận về "thể dạng hư vô" '. Vì thế, nếu không có một sự vật nào (hiện ra trong thể dạng hư vô đó), thì người ấy cũng nhận biết được rõ ràng về sự vắng mặt ấy. Nếu vẫn còn một chút tàn dư nào, thì đối với sự tàn dư ấy người này cũng hiểu rằng: "Khi cái này có, [thì] cái kia có". Do đó, này A-nan-đà, đấy chính là cách mà người ấy hòa nhập với tánh không đích thật, không sai lầm và tinh khiết.

    6- Không-cảm-nhận thế nhưng cũng Không-phải-không-cảm-nhận

    "Hơn nữa, này A-nan-đà, người tỳ-kheo không tập trung vào sự cảm nhận về "bầu không gian tri thức vô tận", không tập trung vào sự cảm nhận về "thể dạng hư vô", [mà] chỉ tập trung vào đặc tính duy nhất thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến "thể dạng không-cảm-nhận cũng không-phải-không-cảm-nhận" (sphère sans perception ni non-perception / dimension of neither perception nor non-perception / chữ này trong bản kinh gốc tiếng Pa-li là nevasannânâsannâyatana, các chữ sanna-na-sanna trong từ ghép này có nghĩa là: cảm-nhận không cảm-nhận). Tư duy của người ấy lắng sâu vào sự cảm nhận về "thể dạng không-cảm-nhận cũng không-phải-không-cảm-nhận". Tư duy của người ấy cảm thấy thích thú nơi ấy, trụ vào nơi ấy, tìm thấy sự giải thoát cho mình trong cảnh giới ấy. Do đó, người ấy sẽ hiểu rằng: 'Nơi này không có mối quan tâm phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về "bầu không gian của tri thức vô tận". Nơi này, không có mối quan tâm phát sinh do nguyên nhân cảm nhận về "thể dạng hư vô". Nơi này chỉ có mối quan tâm phát sinh từ nguyên nhân của đặc tính duy nhất của tư duy thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến "thể dạng không-cảm-nhận cũng không-phải-không-cảm-nhận" '. Do đó, người ấy sẽ hiểu rằng: "Sự nhận thức ấy trống-không về sự cảm nhận về "bầu không gian của tri thức vô tận". Sự nhận thức ấy trống-không về sự cảm nhận về "thể dạng hư vô". Sự nhận thức ấy chỉ không-trống-không về đặc tính duy nhất của tư duy thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến "thể dạng không-cảm-nhận cũng không-phải-không-cảm-nhận" '. Vì thế, nếu không có một sự vật nào (hiện ra trong thể dạng đó), thì người ấy cũng nhận biết được rõ ràng về sự vắng mặt ấy. Nếu vẫn còn một chút tàn dư nào, thì đối với sự tàn dư ấy người này cũng hiểu rằng: "Khi cái này có, [thì] cái kia có". Do đó, này A-lan-đà, đấy chính là cách mà người ấy hòa nhập với tánh không đích thật, không sai lầm và tinh khiết.

    7- Cảm nhận về thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích

    "Hơn nữa, này A-nan-đà, một người tu tập không tập trung vào sự cảm nhận về "thể dạng hư vô", không tập trung vào sự cảm nhận về "thể dạng không-cảm-nhận cũng không-phải-không-cảm-nhận", [mà] chỉ tập trung vào đặc tính duy nhất thiết lập trên sự cảm nhận liên quan đến "thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích" (concentration mental sans indice / theme-less concentration / tiếng Pa-li là animitta-ceto-samâdhi, có nghĩa là định tâm nhưng không hướng vào gì cả ). Tư duy của người ấy lắng sâu vào sự cảm nhận về "thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích". Tư duy của người ấy cảm thấy thích thú nơi ấy, trụ vào nơi ấy, tìm thấy sự giải thoát cho mình trong cảnh giới ấy. Do đó, người ấy sẽ hiểu rằng: 'Thể dạng tập trung tâm thức không chủ đích ấy sở dĩ có là nhờ vào nhiều điều kiện tạo ra nó, tức là liên đới với lục giác (ngũ giác và tri thức). Vì thế nếu nó là một thể dạng được tạo tác bởi tư duy; [thì] nó cũng sẽ không tránh khỏi sự tan biến'. Khi người ấy hiểu được điều này và nhìn thấy được điều này, thì tư duy [của người ấy] cũng sẽ loại bỏ được sự ô nhiễm của sự thèm muốn dục tính; tư duy [của người ấy] cũng sẽ loại bỏ được vô minh. Khi nào người ấy đã loại bỏ hết [những thứ ấy] thì sự hiểu biết sẽ hiện ra [và người ấy sẽ vụt thốt lên]: 'Thế ra sự giải thoát chính là như thế ấy!'. Do đó người ấy sẽ hiểu rằng: 'Tất cả mọi sự sinh mới đều được tiêu trừ, những gì phải thực hiện đều đã được hoàn tất, không còn lưu lại bất cứ gì để phải thực hiện nữa' (có nghĩa là đã đạt được sự giải thoát). Người ấy sẽ hiểu rằng: 'Nơi này không có mối quan tâm nào phát sinh từ nguyên nhân của sự ô nhiễm do sự thèm muốn dục tính. Nơi này không có mối quan tâm nào phát sinh do nguyên nhân của sự ô nhiễm vì thèm muốn được hiện hữu và được hình thành. Nơi này không có mối quan tâm phát sinh do nguyên nhân của sự ô nhiễm vì vô minh. Nơi này chỉ có mối quan tâm phát sinh từ nguyên nhân của sáu lãnh vực giác cảm (six sphères sensorielles / six sensory spheres / sáu lãnh vực giác cảm: gồm ngũ giác và tri thức) lệ thuộc vào sự sống này, lệ thuộc vào thân xác này'. Do đó người ấy cũng hiểu rằng: 'Sự nhận thức ấy trống không về mọi thứ ô nhiễm gọi là sự "thèm muốn dục tính". Sự nhận thức ấy trống không về mọi thứ ô nhiễm gọi là "sự thèm muốn được hiện hữu và được hình thành". Sự nhận thức ấy trống-không về sự ô nhiễm gọi là "vô minh" '. Nơi này, những gì không-trống-không là sáu lãnh vực giác cảm liên hệ đến sự sống này, liên hệ đến thân xác này. Do đó, nếu không có một sự vật nào (hiện ra trong thân xác và sự sống đó), thì người ấy cũng sẽ nhận thấy rõ ràng được sự vắng mặt ấy. Nếu có một chút tàn dư nào, thì đối với sự tàn dư ấy, người này sẽ hiểu rằng: "Khi cái này có, [thì] cái kia có" (không liên hệ gì đến tánh không của sự hiện hữu này). Do đó, này A-nan-đà, chính đấy là cách mà người ấy hội nhập vào tánh không đích thật, không sai lầm và tinh khiết.

    "Này A-nan-đà, trong quá khứ thật xa xưa nếu có những người tu hành và giáo sĩ (tức là những người luyện tập du-già và các vị Bà-la-môn) từng hội nhập và thường trú trong tánh không hoàn toàn tinh khiết, vô song và tối thượng, thì tất cả những người ấy cũng đã hội nhập và thường trú đúng trong chính cái tánh không hoàn toàn tinh khiết, vô song và tối thượng ấy. Này A-nan-đà, trong tương lai thật xa sau này nếu có những người tu hành và giáo sĩ sẽ hòa nhập và thường trú trong tánh không hoàn toàn tinh khiết, vô song và tối thượng, thì tất cả những người ấy cũng sẽ hòa nhập và thường trú đúng trong chính cái tánh không hoàn toàn tinh khiết, vô song và tối thượng ấy. Này A-nan-đà, trong thời hiện tại nếu có những người tu hành và giáo sĩ đang đạt được và an trú trong tánh không hoàn toàn tinh khiết, vô song và tối thượng, thì tất cả những người ấy cũng đang hội nhập và thường trú đúng trong chính cái tánh không hoàn toàn tinh khiết, vô song và tối thượng ấy. Chính vì thế, này A-nan-đà, người nên tập luyện bằng cách tự nhủ rằng: "[Khi đã] hội nhập vào tánh không hoàn toàn tinh khiết, vô song và tối thượng ấy thì tôi [cũng sẽ] thường trú ở nơi ấy" (đoạn trên đây cho biết khi đã hòa nhập đúng vào tánh không đích thật thì sẽ vĩnh viễn thường trú trong thể dạng đó, vượt thoát khỏi không gian và thời gian).

    Đấng Thế Tôn thuyết giảng như trên đây, vị tôn kính A-nan-đà vui sướng và hân hoan tiếp nhận những lời giảng ấy của Đấng Thế Tôn.

    Vài lời ghi chú

    Một trong những điểm nổi bật nhất trong bài kinh trên đây là tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụng và thiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát. Do đó tánh không có thể được hình dung dưới ba khía cạnh khác nhau:

    1- tánh không là một đối tượng của sự chú tâm hay thiền định

    2- tánh không là bản chất hay đặc tính của tất cả mọi hiện tượng

    3- tánh không là một phương tiện giúp người tu tập đạt được sự giải thoát

    Bài kinh trên đây bao gồm và trình bày toàn diện cả ba khía cạnh này dưới những hình thức ứng dụng trực tiếp và thực tiễn, không nêu lên một sự biện luận mang tính cách siêu hình nào cả. Thanassaro Bikkhu phân tích và phân chia bài kinh này thành bảy cấp bậc hay bảy giai đoạn luyện tập khác nhau. Buddhadasa Bikkhu trong quyển sách "Cốt lõi của cội Bồ-đề" cũng đã phân chia phép tu tập về tánh không thành bảy cấp bậc từ thấp đến cao đúng với bài kinh này. Dù sao cũng xin lưu ý về một chi tiết nhỏ là bài kinh gốc trong Trung A Hàm mang tính cách liên tục, sở dĩ Thanassaro Bikkhu đã phân chia thành bảy phân đoạn là chỉ nhằm vào mục đích giúp người đọc dễ theo dõi. Vậy cũng xin mạn phép ghép thêm một vài ghi chú nhỏ nhằm giải thích thêm từng cấp bậc như dưới đây.

    1- Cảm nhận về sự hoang dã, tiếng Pa-li là arannasanna (aranna có nghĩa là rừng, sanna là sự cảm nhận). Ở cấp bậc sơ khởi này Đức Phật dạy người hành thiền hãy hình dung ra một cảnh tượng hoang dã mênh mông và an trú trong cảnh hoang dã đó: tất cả đều trống không, không có sự hiện diện của một người nào cả trong ngôi làng cũng như trong khu rừng. Trong cảnh giới đó không có một nhân dạng nào hay một sự vật nào hiện hữu có thể mang lại mối bận tâm và sự xao lãng cho người hành thiền. Tuy rằng cách hình dung ra sự vắng mặt của mọi nhân dạng và mọi sự vật ấy chỉ biểu trưng cho một thể dạng "thô thiển" nhất của tánh không, thế nhưng cũng đủ để cho người hành thiền tìm thấy cho mình một sự giải thoát đích thật nào đó trong cấp bậc tiên khởi của quá trình luyện tập. Nên hiểu rằng một sự luyện tập sai lầm có thể đưa đến những thể dạng lệch lạc của sự nhận định về tánh không.

    2- Cảm nhận về đất, tiếng Pa-li là pathavisanna (pathavi có nghĩa là đất). Ở cấp bậc này bài kinh giảng thật rõ: người hành thiền hình dung ra chung quanh mình chỉ toàn là đất và "xóa bỏ" tất cả những gì liên hệ đến đất, từ núi đồi đến cây cỏ, từ sông ngòi đến biển cả. Thí dụ mà Đức Phật đưa ra trong bài kinh để nhấn mạnh thêm đối tượng thiền định này thật hết sức điển hình và dễ hiểu: khi trông thấy một con bò thì cũng chỉ nhìn thấy một tấm da căng thật thẳng bằng một trăm cái cọc, không còn dính một chút mỡ nào cả. Ngoài tấm da căng thật thẳng thì con bò bằng xương bằng thịt đang gặm cỏ đã bị loại ra khỏi tâm thức của người hành thiền và hoàn toàn biến mất. Người hành thiền xóa bỏ tất cả những gì mà tâm thức diễn đạt khi phóng nhìn vào cảnh tượng chung quanh, tương tự như lấy một cục gôm (cục tẩy) xóa bỏ những nét bút chì trên một tờ giấy trắng mà sự vận hành của xung năng và tác ý trong tâm thức xui khiến mình vẽ lên đấy.



    Thế nhưng tại sao cấp bậc này lại cao hơn cấp bậc thứ nhất trên đây. Cấp bậc cảm nhận về sự hoang dã thật ra dưới một khía cạnh nào đó chỉ là một cách tự đánh lừa mình. Đấy chỉ là một cách "tưởng tượng" ra trong gian nhà, trong ngôi làng, trong khu rừng, tất cả đều trống không. Ở cấp bậc thứ hai người hành thiền nhận thấy trực tiếp các hiện tượng bên ngoài thế nhưng không tạo ra bất cứ một sự diễn đạt nào, tương tự như khi trông thấy con bò nhưng thật ra trước mặt mình chỉ là một tấm da căng thật thẳng không còn dính một chút mỡ nào.

    3- Cảm nhận về không gian vô tận, tiếng Pa-li là akasananacayatana (akasa là không khí, không gian, bầu trời..., nanaca: không có gì cả, yatana: sự cố gắng, sự cảm nhận). Trong cấp bậc này người hành thiền chỉ duy nhất cảm nhận "một bầu không gian vô tận", bầu không gian đó trống không và vắng lặng không hàm chứa và chuyển tải bất cứ gì cả, kể cả ngôi làng trống không, khu rừng hoang dã và cả mặt đất mênh mông và bằng phẳng. Người ấy an trú trong cảnh giới vô tận và "bầu không gian trống không đó".

    Trong ba cấp bậc vừa kể người hành thiền cố gắng xóa bỏ các đối tượng vật chất và cụ thể, tức là các hiện tượng thuộc vào lãnh vực hình tướng (rupavacara bhumi). Nên hiểu rằng không gian cũng là một thành phần mang tính cách "cụ thể" và "hình tướng", không phải là tánh không. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể nhận thấy một sự thăng tiến tuần tự và tinh tế nào đó trong ba cấp bậc trên đây: cấp bậc thứ nhất là sự vắng mặt của các đối tượng mang tính cách thật cụ thể như nhân dạng, ngôi làng, khu rừng; đối tượng của cấp bậc thứ hai là mặt đất bao la, không còn con người, làng mạc, núi đồi, cây cỏ, sông ngòi gì cả...; sau cùng là cấp bậc thứ ba, và đối tượng của cấp bậc này là không gian bao la. Sự trống không của không gian cũng tượng trưng cho một sự chuyển tiếp khi phép thiền định chuyển sang các đối tượng thuộc lãnh vực phi-hình-tướng trong các cấp bậc tiếp theo sau đó.

    4- Cảm nhận về tri thức vô biên, tiếng Pa-li là vinnanacayatana (vin có nghĩa là tự nhiên như thế, không sáng tạo hay tạo dựng ra gì cả): là cách hướng tư duy vào sự vô tận của tri thức, không dừng lại ở một đối tượng tâm thần nào cả, chỉ cảm nhận được tri thức của mình mở rộng ra trong bầu không gian bao la của tâm thức. Bắt đầu từ cấp bậc này người hành thiền chuyển sang một lãnh vực tinh tế và khác hẳn so với ba cấp bậc trước đây, người hành thiền bắt đầu tập cảm nhận các hiện tượng phi-hình-tướng có nghĩa là các đối tượng thuộc lãnh vực tâm thần (arupavacara bhumi / lãnh vực vô sắc giới). Khi đã tiếp cận với lãnh vực vô sắc thì người hành thiền cũng sẽ không còn cảm nhận được các hiện tượng thuộc lãnh vực của sắc giới nữa - tức là thuộc vào ba cấp bậc đầu tiên.

    5- Cảm nhận thể dạng hư vô, tiếng Pa-li là akincannayatana (akincanna: không có gì gần bên cạnh): trong thể dạng này người hành thiền không còn cảm nhận được tri thức của mình tỏa rộng trong một bầu không gian vô tận, mà chỉ cảm nhận được một bầu không gian hoàn toàn trống không, một sự trống không tuyệt đối. Sự trống không ấy không phải là một đối tượng nhận biết mang tính cách một "thực thể", chẳng hạn như không gian hay tri thức, mà chỉ là một "tên gọi", một sự " chỉ định" (pannatti / designation / appellation) của tâm thức và do tâm thức "hình dung" ra. Bầu không gian trống không và vô tận đó không phải là một thực thể gọi là không gian mà chỉ là một sự "chỉ định" hay một sự "nhận biết" bởi tri thức (a mental index). Trong cái không gian trống không đó không hàm chứa hay tồn lưu bất cứ gì cả, mà đơn thuần chỉ có cảm tính về sự trống không.

    6- Cảm-nhận-không-cảm-nhận, tiếng Pa-li là nevasannanasannayatana (sanna-na-sanna: cảm-nhận-không-cảm-nhận): là một thể dạng tâm thức không-cảm-nhận vô cùng tinh tế. Tuy nhiên người hành thiền cũng không phải là đã trút bỏ hay đã hoàn toàn đình chỉ được sự cảm nhận. Cũng dễ hiểu bởi vì thể dạng không cảm nhận đó luôn luôn phải đi kèm với một sự "ghi nhận" hay "nhận biết" tâm thần (a mental index). Nói cách khác thì dù đấy là một tư duy thăng bằng trụ vào một sự suy tư duy nhất đi nữa - trong trường hợp này là thể dạng không-cảm-nhận - thì đấy cũng là một tư duy đang vận hành, đang "nhận biết" được thể dạng ấy, tức là thể dạng cảm-nhận-không-cảm-nhận.

    7- Cảm nhận tánh không tối thượng, tiếng Pa-li paramanuttarasunnata (para: một thứ gì khác / another, anuttara: không vượt hơn được / insurpassable, sunnata: tánh không) Buddhadasa gọi thể dạng này là "tánh không tối thượng không có gì vượt hơn được", Thanassaro Bhikkhu và Môhan Wijayaratna thì gọi là một sự "tập trung tâm thần không chủ đích" (concentration sans indice / theme-less concentration / nimitto-ceto-samadhi) tức là tập trung tâm thức thật mạnh nhưng không hướng vào một đối tượng nào cả.
    Trong thể dạng này tư duy sẽ trút bỏ được tất cả mọi sự diễn đạt và nhờ đó sẽ đạt được sự hiểu biết về mọi sự vật đúng như thế, nói cách khác là quán thấy được hiện thực và đấy cũng là cách loại bỏ vô minh. Khi vô minh đã bị loại bỏ thì sự vận hành của uẩn thứ tư (sankhara / formation karmique / "hành", tức là sự hình thành của tác ý, và còn gọi là sự tạo nghiệp) cũng sẽ bị đình chỉ. Sự đình chỉ của uẩn thứ tư này sẽ không làm phát sinh ra uẩn thứ năm tức là tri thức (vinnana / consciousness / "thức"), do đó "cái tôi" và cái "của tôi" cũng sẽ không có. Đấy là sự Giải Thoát.
    Bài kinh cũng cho biết rằng trong từng cấp bậc thuộc quá trình trên đây "tư duy của người tu tập cũng sẽ cảm thấy thích thú nơi ấy, trụ vào nơi ấy, tìm thấy sự giải thoát cho mình trong cảnh giới ấy", điều này cho thấy rằng người tu tập trong các giai đoạn đầu cũng đã thừa hưởng được kết quả mang lại từ trình độ luyện tập của mình, chẳng hạn như ngay trong cấp bậc thứ nhất khi mới hình dung ra được sự trống không của gian nhà, của ngôi làng và của khu rừng, thì người hành thiền cũng đã có thể an trú trong những nơi ấy để tìm cho mình một sự giải thoát nào đó, dù đấy chỉ là một hình thức thật thô thiển của tánh không.
    Ở mỗi cấp người hành thiền đều "hội nhập vào tánh không đích thật, không sai lầm và tinh khiết", điều này cho biết rằng tánh không không phải là một thứ gì huyền bí và linh thiêng nằm bên ngoài tâm thức của người tu tập, mà đấy chỉ là một thể dạng tâm thức mà chính mình phải tạo ra cho mình và cái thể dạng đó gồm có nhiều cấp bậc khác nhau. Cấp bậc cao nhất là "sự đình chỉ vận hành của sankhara"(uẩn thứ tư, tức là quá trình diễn đạt các cảm nhận của ngũ giác tạo ra sự hình thành của tác ý còn gọi là sự tạo nghiệp)", là "sự tập trung cao độ của tâm thức không hướng vào một chủ đích nào", là "tánh không tối thượng không có gì vượt hơn được", là "tánh không của tánh không", là "niết-bàn".

    Trích:
    KHÁI NIỆM TÁNH KHÔNG
    TRONG PHẬT GIÁO
    Hoang Phong dịch
    Nhà xuất bản Hồng Đức 2013
    Không có không gian còn lo chi lớn, nhỏ.
    Chẳng có thời gian nên khỏi ngại trước, sau.

  2. #2

    Mặc định

    Anh văn, Pali, nhưng vẫn không đơn giản, nhỉ?
    Cư trần lạc đạo

  3. #3

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Itdepx Xem Bài Gởi
    Anh văn, Pali, nhưng vẫn không đơn giản, nhỉ?
    Bạn đọc phần vài lời ghi chú có giải thích kỹ hơn:
    Để minh họa cho Tính không Đức Phật đã đưa ra 7 mức hình dung từ cụ thể tới trừu tượng.

    Ở mức 1: Khi bạn quan sát cánh rừng thì bạn không trụ tâm vào các đối tượng chi tiết nhỏ trong khung cảnh như "ngôi làng" có trong tầm nhìn, tất cả tầm nhìn chỉ là "cánh rừng" và không chia chẻ phân biệt trong cánh rừng đó.

    Ở Mức 2: Khi cảm nhận về "đất", ta gom luôn mọi thứ chi thiết trên đất như nhà, người , rừng...thành một thứ là "đất".
    ....
    Ở mức tổng quan nhất là mức 7: Cảm nhận về thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích (tánh không tối thượng), tâm ta không trụ vào bất cứ thứ gì dẫn tới không có "hành uẩn" (tác ý) -> không có "thức uẩn" (tri thức) dẫn tới "Cái Tôi" và "Cái Của Tôi" đều không có (Vô Ngã).

    Tóm lại Kinh này không chỉ giải thích Tánh Không mà còn hướng dẫn người tu thực hành quán tâm không phân biệt từ mức thấp đến cao rồi trụ trong trạng thái Tánh Không Tối Thượng.

    Với mức 1 tôi có ví dụ dễ hiểu hơn:
    VD trước mắt bạn có một số chó, gà, lợn bò, trâu ngựa. Khi bạn không phân biệt thì cả nhóm đó chỉ là súc vật. Việc nó là chó hay gà là kết quả của Tâm phân biệt của Ta (Bản Ngã của Ta) mà thôi còn nếu coi nó là súc vật thì chó hay gà cũng như nhau đều là súc vật.

    Mọi vô minh đều khởi nguồn từ Tâm phân biệt rồi so sánh yêu ghét...nên việc đối trị lại là thực hành quán Tâm không phân biệt (chính là tánh không).

    Việc đọc bản dịch từ ngôn ngữ Phương Tây cũng cho ta một góc nhìn mới rất thú vị vì ngôn ngữ thường đơn nghĩa hơn các âm Hán Việt.

    "Cảm nhận về thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích"= "Tánh Không"

    Không hề có mâu thuẫn gì với Tánh Không của PG Phát Triển.
    Không có không gian còn lo chi lớn, nhỏ.
    Chẳng có thời gian nên khỏi ngại trước, sau.

  4. #4

    Mặc định

    Không hề có mâu thuẫn gì với Tánh Không của PG Phát Triển.

    Hà Hà. Hình như 1 năm trước, tôi có viết topic nói về vấn đề này, và một số vấn đề khác của mấy phái truyền thừa. Chẳng có gì mâu thuẩn cả, chẳng qua giọng Bắc thì the thé, giọng nam thì nhựa nhựa vậy thôi. Ha Ha. Tôi là nghe quen tiếng Bắc rồi. Khà khà.

    Còn Quang Âm Thiên, cũng thế.

    Đạo hữu cũng thấy được những vấn đề này ha. Phúc lành, phúc lành.

    Nhiều khi tôi nghĩ, "Chẳng phải kinh văn sờ sờ, rõ ràng như vậy. Người ta là không thấy, hay cố tình không thấy, hay không muốn thấy?"
    Last edited by Itdepx; 21-02-2019 at 02:00 PM.
    Cư trần lạc đạo

  5. #5

    Mặc định

    Xin mạn phép được hỏi: đoạn kinh này trích trong bài kinh nào? bộ kinh nào ah?

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Tuanfodacon Xem Bài Gởi
    Xin mạn phép được hỏi: đoạn kinh này trích trong bài kinh nào? bộ kinh nào ah?
    Bản trên là dịch từ Tiếng Anh và Tiếng Pháp
    Còn có tên khác là:

    Đại Tạng Kinh Việt Nam
    KINH TRUNG BỘ
    Majjhima Nikàya
    Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
    121. Kinh Tiểu không
    (Cùlasunnata sutta)
    Không có không gian còn lo chi lớn, nhỏ.
    Chẳng có thời gian nên khỏi ngại trước, sau.

  7. #7
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,223

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Tuanfodacon Xem Bài Gởi
    Xin mạn phép được hỏi: đoạn kinh này trích trong bài kinh nào? bộ kinh nào ah?
    - Đoạn này được trích trong bài kinh Tiểu Không, thuộc Trung Bộ Kinh. Có sự giống nhau về từ ngữ là chữ "không tánh" giữa tạng Pali và tư tưởng "tánh không" của PG China (Lão giáo thiền đông độ Đại Đường Bắc Kinh tông). SMC xin tóm ý bài kinh này như sau, để Hiền hữu tiện so sánh giữa "không tánh" của đức Phật với "tánh không" của Thiền Đông Độ.

    Ngài Ananda hỏi Phật:
    - Con từng nghe nói Đức Thế Tôn nói :"Ta an trú không, nên nay an trú rất nhiều", có phải không ạ?
    - Thật vậy, này Ananda, điều ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều.

    Rồi đức Phật đưa ra ví dụ: thí dụ tại giảng đường này, chỉ có chúng Tỳ Kheo; không có voi bò chó gà vịt... thì tất cả thứ không có (voi, bò, chó, gà, vịt...) là không có. Và chỉ có một cái KHÔNG-PHẢI-KHÔNG, tức là sự nhất trí do duyên chúng Tỷ-kheo.

    Như vậy, không tác ý heo tưởng, không tác ý bò tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên Chúng Tỳ Kheo tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến Chúng Tỳ Kheo tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên heo tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên bò tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Chúng Tỳ Kheo tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có heo tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có bò tưởng". Và chỉ có một cái này không-phải-không, tức là sự nhất trí do duyên Chúng Tỳ Kheo tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.

    ===> Đó là toàn bộ nội dung bài kinh (y vậy với những ví dụ khác mà đức Phật đưa ra).

    Trong khi đó, "tánh không" China giáo là cái tánh ngu không biết phân biệt thiện - ác, đúng - sai, cho nên mới lòi ra Tế Điên ăn thịt uống rượu nói cười ngã ngớn, Nam Tuyền chém mèo đứt đôi, mấy cha Đông độ thì đốt kinh mắng Phật. Đó là "tánh không" của China Bà-la-môn giáo, nghĩ là không được dạy dỗ, không có học pháp, không có phân biệt chánh tà, dựa vào cái không đó mà mấy ổng tung hoành cho thỏa chí lưu manh tôn giáo rồi mặt dày tự đánh đồng với kinh Tiểu không và kinh Đại không của Đức Phật Thích Ca.

    Học theo cái "tánh không" China đó phẻ ha, khỏi tu khỏi chứng, vô tu vô chứng, khỏi học gì ráo, đói ăn khát uống mệt đi ngủ như heo cho phẻ há, tu theo ông Thích Ca mệt thấy mồ tổ, ăn ngày một buổi, khất thực, oai nghi đi đứng nằm ngồi ko phóng dật, thiệt là khó quá đi. China giáo thoáng hơn Phật giáo, tu tiên đạo Lão China giáo là hảo hảo hảo.

    Bậc Sư Trưởng Giáo Hội Bà La Môn Pùrana Kassapa thuộc nhóm lục sư ngoại đạo trình bày tâm vô phân biệt vô nghiêp thiện ác với Vua A Xà Thế như sau: "Này Ðại vương, tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây áo não hay khiến người gây áo não, tự mình gây sợ hãi hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác gì. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng chịt, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không vì vậy mà có phước báo". Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả hiện tại thiết thực của hạnh Sa-môn, Pùrana Kassapa đã trả lời với thuyết vô nghiệp thiện ác, vô phân biệt thiện ác. Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít, hoặc hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài. Cũng vậy, Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả hiện tại thiết thực của hạnh Sa-môn, Purana Kassapa đã trả lời với thuyết vô nghiệp thiện ác, vô phân biệt thiện ác.

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi smc Xem Bài Gởi
    - Đoạn này được trích trong bài kinh Tiểu Không, thuộc Trung Bộ Kinh. Có sự giống nhau về từ ngữ là chữ "không tánh" giữa tạng Pali và tư tưởng "tánh không" của PG China (Lão giáo thiền đông độ Đại Đường Bắc Kinh tông). SMC xin tóm ý bài kinh này như sau, để Hiền hữu tiện so sánh giữa "không tánh" của đức Phật với "tánh không" của Thiền Đông Độ.

    Ngài Ananda hỏi Phật:
    - Con từng nghe nói Đức Thế Tôn nói :"Ta an trú không, nên nay an trú rất nhiều", có phải không ạ?
    - Thật vậy, này Ananda, điều ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều.

    Rồi đức Phật đưa ra ví dụ: thí dụ tại giảng đường này, chỉ có chúng Tỳ Kheo; không có voi bò chó gà vịt... thì tất cả thứ không có (voi, bò, chó, gà, vịt...) là không có. Và chỉ có một cái KHÔNG-PHẢI-KHÔNG, tức là sự nhất trí do duyên chúng Tỷ-kheo.

    Như vậy, không tác ý heo tưởng, không tác ý bò tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên Chúng Tỳ Kheo tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến Chúng Tỳ Kheo tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên heo tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên bò tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Chúng Tỳ Kheo tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có heo tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có bò tưởng". Và chỉ có một cái này không-phải-không, tức là sự nhất trí do duyên Chúng Tỳ Kheo tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.

    ===> Đó là toàn bộ nội dung bài kinh (y vậy với những ví dụ khác mà đức Phật đưa ra).

    Trong khi đó, "tánh không" China giáo là cái tánh ngu không biết phân biệt thiện - ác, đúng - sai, cho nên mới lòi ra Tế Điên ăn thịt uống rượu nói cười ngã ngớn, Nam Tuyền chém mèo đứt đôi, mấy cha Đông độ thì đốt kinh mắng Phật. Đó là "tánh không" của China Bà-la-môn giáo, nghĩ là không được dạy dỗ, không có học pháp, không có phân biệt chánh tà, dựa vào cái không đó mà mấy ổng tung hoành cho thỏa chí lưu manh tôn giáo rồi mặt dày tự đánh đồng với kinh Tiểu không và kinh Đại không của Đức Phật Thích Ca.

    Học theo cái "tánh không" China đó phẻ ha, khỏi tu khỏi chứng, vô tu vô chứng, khỏi học gì ráo, đói ăn khát uống mệt đi ngủ như heo cho phẻ há, tu theo ông Thích Ca mệt thấy mồ tổ, ăn ngày một buổi, khất thực, oai nghi đi đứng nằm ngồi ko phóng dật, thiệt là khó quá đi. China giáo thoáng hơn Phật giáo, tu tiên đạo Lão China giáo là hảo hảo hảo.

    Bậc Sư Trưởng Giáo Hội Bà La Môn Pùrana Kassapa thuộc nhóm lục sư ngoại đạo trình bày tâm vô phân biệt vô nghiêp thiện ác với Vua A Xà Thế như sau: "Này Ðại vương, tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây áo não hay khiến người gây áo não, tự mình gây sợ hãi hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác gì. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng chịt, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không vì vậy mà có phước báo". Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả hiện tại thiết thực của hạnh Sa-môn, Pùrana Kassapa đã trả lời với thuyết vô nghiệp thiện ác, vô phân biệt thiện ác. Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít, hoặc hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài. Cũng vậy, Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả hiện tại thiết thực của hạnh Sa-môn, Purana Kassapa đã trả lời với thuyết vô nghiệp thiện ác, vô phân biệt thiện ác.

    Đức Phật giảng về Tánh Không từ nhỏ tới lớn, từ cụ thể đến trừu tượng qua 7 đoạn mà lại lấy 1 đoạn đơn giản nhất để nói "đại ý kinh nói vậy" hahaha. Lại cố hướng để người đọc hiểu "Tánh Không" là "Không có...".

    Các Alahan rởm cũng chuyên sử dụng thủ đoạn này để đánh lừa người lười đọc, muốn kẻ khác đọc hộ rồi tóm lược giúp mình.

    Hãy đọc hiểu về Tánh Không, chứng đạt được trạng thái đó rồi hãy phán xét, hãy tự ngẫm ai mới là kẻ lưu manh tôn giáo khi trích dẫn kinh cắt xén phục vụ mục đích của mình.

    Và nữa bạn cần đọc lại lịch sử để biết kinh PG Phát Triển Sanskrit có trước gần 200 năm khi Kinh Sách có mặt tại Trung Quốc.
    Đừng kích động tâm lý bài Trung của người đọc. Lợi dụng kích động đó cũng là bản chất của lưu manh vậy.

    Việc coi Tánh Không của PG Phát Triển là không phân biệt phải trái cũng là điều dối trá nữa. "Tánh không" là nói rõ mọi sự vật hiện tượng đều không có Tánh (hay tính chất, thuộc tính). Các thuộc tính hay tính chất chỉ xuất hiện khi có một cái Tôi tác ý tới.

    Do vậy Kinh Tiểu Không chỉ cách thực hành bằng cách không "tác ý" tập trung vào một đối tượng nào:
    "Cảm nhận về thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích"= "Tánh Không" =ƯNG VÔ SỞ TRỤ.


    Tốt nhất ta tu để chứng đạt Tánh Không đã, rồi lúc đó xem tại sa Tế Điên ăn thịt chó uống rượu cũng chưa muộn.






    Không có không gian còn lo chi lớn, nhỏ.
    Chẳng có thời gian nên khỏi ngại trước, sau.

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi


    Hãy đọc hiểu về Tánh Không, chứng đạt được trạng thái đó rồi hãy phán xét, hãy tự ngẫm ai mới là kẻ lưu manh tôn giáo khi trích dẫn kinh cắt xén phục vụ mục đích của mình.

    Và nữa bạn cần đọc lại lịch sử để biết kinh PG Phát Triển Sanskrit có trước gần 200 năm khi Kinh Sách có mặt tại Trung Quốc.
    Đừng kích động tâm lý bài Trung của người đọc. Lợi dụng kích động đó cũng là bản chất của lưu manh vậy.

    Việc coi Tánh Không của PG Phát Triển là không phân biệt phải trái cũng là điều dối trá nữa. "Tánh không" là nói rõ mọi sự vật hiện tượng đều không có Tánh (hay tính chất, thuộc tính). Các thuộc tính hay tính chất chỉ xuất hiện khi có một cái Tôi tác ý tới.

    Do vậy Kinh Tiểu Không chỉ cách thực hành bằng cách không "tác ý" tập trung vào một đối tượng nào:
    "Cảm nhận về thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích"= "Tánh Không" =ƯNG VÔ SỞ TRỤ.


    Tốt nhất ta tu để chứng đạt Tánh Không đã, rồi lúc đó xem tại sa Tế Điên ăn thịt chó uống rượu cũng chưa muộn.






    Thật là đầy đủ và đúng thời thưa bạn, lành thay.
    Chớ nói nhiều. Niệm Phật đi

  10. #10
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,223

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Đức Phật giảng về Tánh Không từ nhỏ tới lớn, từ cụ thể đến trừu tượng qua 7 đoạn mà lại lấy 1 đoạn đơn giản nhất để nói "đại ý kinh nói vậy" hahaha. Lại cố hướng để người đọc hiểu "Tánh Không" là "Không có...".
    - Tôi thấy tội nghiệp bạn vô cùng! Trong 1 bài kinh đức Phật nói về một vấn đề, thì tất nhiên MỌI VÍ DỤ đều xoay quanh vấn đề đó. Thế, tôi giải nghĩa 1 ví dụ thì tất cả cũng như vậy, chứ ý bạn là những ví dụ khác không giống à? Còn đi cãi chày cãi cối...

    - Thứ 2, một người có tác ý đúng đắn khi đọc cmt của tôi, sẽ không cho là tôi nói : "tánh không" là "không có".... Tôi nói chỗ này hồi nào ? Làm ơn đọc lại thật kỹ càng, từng chữ một của cái câu màu đỏ mà tôi đã cố tình nhấn mạnh trong cmt bên trên của tôi đi !

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Các Alahan rởm cũng chuyên sử dụng thủ đoạn này để đánh lừa người lười đọc, muốn kẻ khác đọc hộ rồi tóm lược giúp mình.
    - SMC không nằm trong đây ! SMC lại khởi lên nghi ngờ rằng: Bạn chưa từng đọc hết bài kinh Tiểu Không đấy !

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Hãy đọc hiểu về Tánh Không, chứng đạt được trạng thái đó rồi hãy phán xét, hãy tự ngẫm ai mới là kẻ lưu manh tôn giáo khi trích dẫn kinh cắt xén phục vụ mục đích của mình.
    - Nghĩa là bạn không đồng ý với tóm tắt đoạn kinh của SMC. Vậy, xin hãy tóm tắt nội dung đoạn kinh Tiểu Không trong Trung Bộ Kinh mà bạn đã nhắc ở đầu topic BẰNG NGÔN NGỮ CŨNG NHƯ SỰ HIỂU CỦA BẠN. SMC lắng lòng lóng nghe.

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Và nữa bạn cần đọc lại lịch sử để biết kinh PG Phát Triển Sanskrit có trước gần 200 năm khi Kinh Sách có mặt tại Trung Quốc.
    Đừng kích động tâm lý bài Trung của người đọc. Lợi dụng kích động đó cũng là bản chất của lưu manh vậy.
    - Đó là tự bạn nghĩ! Trong khi đó, SMC chỉ ra và so sánh rất rõ ràng:

    * đức Phật và Tăng đoàn: oai nghi tế hạnh, ngày ăn 1 buổi, chánh niệm trong 4 oai nghi, không phóng dật...
    * thiền đông độ China: Tế Điên ăn thịt uống rượu, đói ăn mệt ngủ như con heo, Nam Tuyền chém mèo ra làm đôi, Mã tổ đội dép lên đầu, 1 số Thiền "sư" quát mắng, đánh đập...

    => Nếu nói như bạn, thì bạn nên tự đặt câu hỏi: hình như các Tổ, Bồ tát, chuyện lạ này nọ lọ chai... đều hết 95% xuất phát từ... Trung Quốc. Sao kỳ vậy? Quan Âm thì ở Phổ Đà Sơn, Phổ Hiền thì Nga Mi, Địa Tạng là núi Cửu Hoa, Văn Thù trú xứ tại Ngũ Đài sơn ... Cả 4 đều là danh sơn của China ??? Why ???

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Việc coi Tánh Không của PG Phát Triển là không phân biệt phải trái cũng là điều dối trá nữa. "Tánh không" là nói rõ mọi sự vật hiện tượng đều không có Tánh (hay tính chất, thuộc tính). Các thuộc tính hay tính chất chỉ xuất hiện khi có một cái Tôi tác ý tới
    - Cái này là bạn nói !

    - Với tôi, TÁNH CỦA VẠN PHÁP chính là: Vô thường - Khổ - Vô ngã. Có cần tôi trích kinh ra để cho bạn đọc Đức Phật dạy điều này ở đâu, như thế nào không ?

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Do vậy Kinh Tiểu Không chỉ cách thực hành bằng cách không "tác ý" tập trung vào một đối tượng nào:
    "Cảm nhận về thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích"= "Tánh Không" =ƯNG VÔ SỞ TRỤ.
    Lại nữa, này Ananda, vị Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định. Vị ấy tuệ tri như sau: "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy. Do vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, là sự hiểu biết (nana) rằng đã được giải thoát. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa". Vị ấy tuệ tri: "Các ưu phiền do duyên dục lậu không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt có ở đây; các ưu phiền do duyên vô minh lậu không có mặt ở đây. Và chỉ ở một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có dục lậu". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có hữu lậu". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có vô minh lậu. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh.


    => Đọc đoạn kinh Tiểu Không bên trên đi, nhất là câu kết luận màu đỏ... Coi có khác với "tánh không" của Lão giáo China Thiền Đông Độ không ?

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Tốt nhất ta tu để chứng đạt Tánh Không đã, rồi lúc đó xem tại sa Tế Điên ăn thịt chó uống rượu cũng chưa muộn.
    - Đi lang thang đâu đó, lụm được "tánh không" giống giống, na ná rồi đem vào bảo giống kinh Phật Thích Ca.

    Nói như bạn, chắc bạn chứng "tánh không" rồi nên biết "tại sao Tế Điên ăn thịt chó, uống rượu" !

    ====> Và câu cuối cùng: PHÁP HÀNH cụ thể nào để chứng đạt Tánh Không mà bạn nhắc tới ? Xin chia sẽ để SMC thọ trì học tập ạ ! Chứ nói không không ai nói mà không được !

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi smc Xem Bài Gởi
    - Tôi thấy tội nghiệp bạn vô cùng! Trong 1 bài kinh đức Phật nói về một vấn đề, thì tất nhiên MỌI VÍ DỤ đều xoay quanh vấn đề đó. Thế, tôi giải nghĩa 1 ví dụ thì tất cả cũng như vậy, chứ ý bạn là những ví dụ khác không giống à? Còn đi cãi chày cãi cối...

    - Thứ 2, một người có tác ý đúng đắn khi đọc cmt của tôi, sẽ không cho là tôi nói : "tánh không" là "không có".... Tôi nói chỗ này hồi nào ? Làm ơn đọc lại thật kỹ càng, từng chữ một của cái câu màu đỏ mà tôi đã cố tình nhấn mạnh trong cmt bên trên của tôi đi !



    - SMC không nằm trong đây ! SMC lại khởi lên nghi ngờ rằng: Bạn chưa từng đọc hết bài kinh Tiểu Không đấy !



    - Nghĩa là bạn không đồng ý với tóm tắt đoạn kinh của SMC. Vậy, xin hãy tóm tắt nội dung đoạn kinh Tiểu Không trong Trung Bộ Kinh mà bạn đã nhắc ở đầu topic BẰNG NGÔN NGỮ CŨNG NHƯ SỰ HIỂU CỦA BẠN. SMC lắng lòng lóng nghe.



    - Đó là tự bạn nghĩ! Trong khi đó, SMC chỉ ra và so sánh rất rõ ràng:

    * đức Phật và Tăng đoàn: oai nghi tế hạnh, ngày ăn 1 buổi, chánh niệm trong 4 oai nghi, không phóng dật...
    * thiền đông độ China: Tế Điên ăn thịt uống rượu, đói ăn mệt ngủ như con heo, Nam Tuyền chém mèo ra làm đôi, Mã tổ đội dép lên đầu, 1 số Thiền "sư" quát mắng, đánh đập...

    => Nếu nói như bạn, thì bạn nên tự đặt câu hỏi: hình như các Tổ, Bồ tát, chuyện lạ này nọ lọ chai... đều hết 95% xuất phát từ... Trung Quốc. Sao kỳ vậy? Quan Âm thì ở Phổ Đà Sơn, Phổ Hiền thì Nga Mi, Địa Tạng là núi Cửu Hoa, Văn Thù trú xứ tại Ngũ Đài sơn ... Cả 4 đều là danh sơn của China ??? Why ???



    - Cái này là bạn nói !

    - Với tôi, TÁNH CỦA VẠN PHÁP chính là: Vô thường - Khổ - Vô ngã. Có cần tôi trích kinh ra để cho bạn đọc Đức Phật dạy điều này ở đâu, như thế nào không ?



    Lại nữa, này Ananda, vị Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định. Vị ấy tuệ tri như sau: "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy. Do vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, là sự hiểu biết (nana) rằng đã được giải thoát. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa". Vị ấy tuệ tri: "Các ưu phiền do duyên dục lậu không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt có ở đây; các ưu phiền do duyên vô minh lậu không có mặt ở đây. Và chỉ ở một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có dục lậu". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có hữu lậu". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có vô minh lậu. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh.


    => Đọc đoạn kinh Tiểu Không bên trên đi, nhất là câu kết luận màu đỏ... Coi có khác với "tánh không" của Lão giáo China Thiền Đông Độ không ?



    - Đi lang thang đâu đó, lụm được "tánh không" giống giống, na ná rồi đem vào bảo giống kinh Phật Thích Ca.

    Nói như bạn, chắc bạn chứng "tánh không" rồi nên biết "tại sao Tế Điên ăn thịt chó, uống rượu" !

    ====> Và câu cuối cùng: PHÁP HÀNH cụ thể nào để chứng đạt Tánh Không mà bạn nhắc tới ? Xin chia sẽ để SMC thọ trì học tập ạ ! Chứ nói không không ai nói mà không được !

    Vâng vì Đức Phật luôn hiểu Ngài đang giảng những điều quá trừu tượng với người phàm phu nên một vấn đề thường Đức Phật giảng đi giảng lại xoay quanh một vấn đề nhưng với nhiều Tầng, Mức khác nhau, nhiều góc nhìn khác nhau.

    Trong bài kinh trên tôi đa gửi cả 7 phần và cả phần giải thích nữa. 7 phần này từ cụ thể tới trừu tượng, từ Vật chất tới Ý thức. Tách riêng bất cứ phần nào cũng không được.
    Tôi cũng chủ ý chọn bản dịch từ Pali sang Anh sang Việt tránh dùng bản của Cố Hòa thượng Thích Minh Châu dịch vì biết rõ chữ Không trong Hán Việt dễ gây nhầm lẫn.

    Vì vậy hãy đừng dùng thủ đoạn vứt một câu kinh Phật đơn lẻ để bắt bẻ câu chữ. Trong khi không bao giờ bạn dám diễn giải một góc nhìn của bạn về vấn đề.
    Như vậy khác gì con vẹt, hay máy thu âm.


    Còn về Thần tích (mà bạn gọi là chuyện lạ..) trong các chuyện Phật Giáo Trung Hoa các bạn phải nhìn nhận như sau:

    1. Dù ta ghét Trung Quốc cỡ nào thì cũng phải công nhận là Văn hóa Việt Nam và Văn Hoác Trung Quốc là tương đồng, trong Tiếng Việt có 60-70% chung gốc với Tiếng Trung. Hầu như tất cả từ trừu tượng mô tả về Tư tưởng, Ý Thức đề là có chung gốc với Tiếng Trung, ta hay gọi là gốc từ Hán-Việt. Tên nước "CHXN CN VN" toàn bộ là có gốc Hán Việt. Vậy để đọc hiểu kinh sách Tiếng Việt ta cũng cần phải trau dồi hiểu viết về từ gốc Hán Việt.
    2. Do tương đồng văn hóa và đường truyền giáo lớn của Đạo Phật qua nước ta là xuyên qua TQ bao nhiêu đời nay cho nên các câu chuyện Phật Giáo nói chung đều có yếu tố TQ.
    Nhưng như vậy không có nghĩa là dòng Nam Truyền không có Thần Tích - Mời bạn đọc về chùa Vàng Myanmar. Chưa kể các câu chuyện ở Lào, Campuchi, Thái Lan đầy rẫy chỉ là do SMC cuồng đạo quá chưa đọc mà thôi.
    3. Theo tôi biết, riêng các Thầy người Việt nam lịch sử cũng để lại 3 vị có Nhục Thân xá lợi: 2 vị ở Chùa Đậu tu Thiền, 1 vị Người Việt ở Campuchia PG Nguyên Thủy.
    4. Thiền Đông Độ qua Việt Nam và TQ trong cùng thời kỳ bởi hai thiền sư Ấn Độ khác nhau là Bồ Đề Đạt Ma và Tì Ni Da Lưu Chi và trong cổ sử còn nói về một vị tên là Phật Quang sư phụ của Chử Đồng Tử (một trong Tứ bất tử). Rõ ràng không phải Made In China, đó là bịp bợm.

    5. Nếu các bạn đi qua TQ mà tới những nơi tu tập của họ mà xem, đâu có bầy hầy như SMC nói. Còn SMC không chấp nguồn gốc kinh PG Phát Triển lại đi chấp mấy câu truyện truyền thừa của họ. Đó không phải là tác ý có tâm địa.. sao?

    6. Tại Việt nam, các bạn có thể trực tiếp tham dự và quan sát sự tu tập bài bản và tôn nghiêm ở hai hệ thống Hệ Phái Khất Sĩ và Thiền Trúc Lâm để thấy rõ.
    7. Còn chuyện về các bậc được coi đã chứng đắc như Tế Điên, Lục Tổ...thì tôi không bàn tới vì mình chưa đắc nên chưa thể hiểu để nói về họ. Chỉ là mong ước được gặp mặt nói chuyện cùng những người như họ mà âu cũng là chuyện xa vời.


    8. Còn câu cuối cùng: Nếu hiểu rõ Tánh Không, hiểu rõ về Nghiệp thì một hành động không Tác Ý thì không Sinh Nghiệp. Quan trọng ta tu tập sao để thực hiện được việc đó.
    Nói ra vậy nhiều bạn sẽ nói là đơn giản. Nhưng các bạn nên hiểu NẾU BẠN THỰC HIỆN NÓ TRÊN ĐẦU MÔI HOẶC Ý NGHĨ THÌ ĐÓ CŨNG KHÔNG PHẢI TRONG TÂM.

    Các thông tin tôi đưa ra để mong các bạn tìm hiểu, học tập để thêm kiến thức. Đừng lười đọc rồi nghe theo những suy nghĩ nông cạn hẹp hòi làm cản trở đường tu. Rồi bắt trước theo làm loang truyền những Tà Kiến ảnh hưởng người khác.

    Còn PHÁP HÀNH thì trong bài Kinh tôi post đó. SMC chỉ lo nổi sân chứ có đọc gì đâu. hehe.

    Pháp Hành của bản thân tôi:
    1. Ý thức rõ mọi sự vật và hiện tượng không có thuộc tính. Sự phân chia đối đãi chỉ xuất hiện khi Tâm ta trụ nơi sự vật và hiện tượng đó.
    2. Trong lúc ngồi thiền thực hành không trụ Tâm vào đâu. Khi một Ý nổi lên tức sẽ có đối tượng để Trụ ta biết đó là Vọng Niệm dần dần sẽ hết.
    3. Trong cuộc sống hàng ngày: khi một phân biệt đối đãi khởi lên, ta chỉ cần nhận ra đó là Vọng Niệm.

    Mong các thông tin trên hữu ích với ai đó.
    Chúc các bạn tinh tấn
    Last edited by aptruong; 23-02-2019 at 10:38 AM.
    Không có không gian còn lo chi lớn, nhỏ.
    Chẳng có thời gian nên khỏi ngại trước, sau.

  12. #12
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,223

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Vâng vì Đức Phật luôn hiểu Ngài đang giảng những điều quá trừu tượng với người phàm phu nên một vấn đề thường Đức Phật giảng đi giảng lại xoay quanh một vấn đề nhưng với nhiều Tầng, Mức khác nhau, nhiều góc nhìn khác nhau.

    Trong bài kinh trên tôi đa gửi cả 7 phần và cả phần giải thích nữa. 7 phần này từ cụ thể tới trừu tượng, từ Vật chất tới Ý thức. Tách riêng bất cứ phần nào cũng không được.
    Tôi cũng chủ ý chọn bản dịch từ Pali sang Anh sang Việt tránh dùng bản của Cố Hòa thượng Thích Minh Châu dịch vì biết rõ chữ Không trong Hán Việt dễ gây nhầm lẫn.

    Vì vậy hãy đừng dùng thủ đoạn vứt một câu kinh Phật đơn lẻ để bắt bẻ câu chữ. Trong khi không bao giờ bạn dám diễn giải một góc nhìn của bạn về vấn đề.
    Như vậy khác gì con vẹt, hay máy thu âm.
    - Tôi hỏi bạn đại ý bài kinh ntn theo bạn, thì bạn không trả lời. Thôi, để tôi nói cho bạn luôn vậy:

    Trung Bộ Kinh thuộc tạng kinh Pali tập trung vào phần PHÁP HÀNH. Riêng bài kinh Tiểu Không này, thực sự rất sâu xa, chỉ dành cho những bậc chứng đắc Tứ Thiền (từ Sơ Thiền trở lên) mới có thể thấy được "Không tánh".

    Ở các ví dụ trên, đức Phật lấy ví dụ từ Lộc Mẫu giảng đường với các Thầy Tỳ-kheo -> rừng -> địa -> ko vô biên xứ -> thức vô biên xứ -> vô sở hữu xứ -> phi tưởng ppt xứ, tức là nói đến Tâm Định của vị ấy khi tu tập thiền quán vào đối tượng. Đi từ Dục giới -> Sắc giới -> Vô Sắc giới (Tam Giới). Vì trong giảng đường, ngoài các vị Tỳ Kheo còn có những người khác đến thính pháp, thì những người đó có đạt được Sơ Thiền đâu mà nói, nên Ngài mới dẫn chứng từ cái thấp nhất, dễ thấy nhất, là: giảng đường, Thầy Tỳ-kheo, voi, đàn ông, đàn bà ...v...v... (Dục Giới); kế đến là Sắc Giới, như: rừng, địa đại...; cuối cùng là Vô Sắc Giới, như: 4 thiền (ko vô biên xứ ---> phi tưởng ppt xứ).

    Khi tu tập đạt định trong Tứ Thiền này (từ Sơ thiền), hành giả mới có khả năng (năng lực Tâm Định) thấy được "cái này có, cái kia có", tức là thấy Duyên Khởi, y như thật tướng các pháp, cái thấy như thật, thấy được Vô ngã, chứng đắc Niết Bàn, nhìn đâu cũng thấy "cái này có, cái kia có".

    Nhấn mạnh: chỉ khi nào đạt được Tứ Thiền mới có sự THẮNG TRI về "không tánh" này, về thực tướng các pháp, về Duyên Khởi. "Không Tánh" này là một kinh nghiệm, một trải nghiệm trong Định, chứ không phải để nói đến "một cái tánh - mang tên KHÔNG", vì nói ra như vậy là có ngã trong đó. Tức là: công phu hành thiền để đoạn diệt đi cái Ngã của Tâm thức, nói cách khác là diệt phục cái Ngã tưởng; chứ không phải làm mất đi cái Ngã để ra 1 cái gì đó. Đây là một phương pháp hành (PHÁP HÀNH), chứ không phải một mệnh đề, một triết lí để mà có thể suy từ A ra B.

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi


    Còn về Thần tích (mà bạn gọi là chuyện lạ..) trong các chuyện Phật Giáo Trung Hoa các bạn phải nhìn nhận như sau:

    1. Dù ta ghét Trung Quốc cỡ nào thì cũng phải công nhận là Văn hóa Việt Nam và Văn Hoác Trung Quốc là tương đồng, trong Tiếng Việt có 60-70% chung gốc với Tiếng Trung. Hầu như tất cả từ trừu tượng mô tả về Tư tưởng, Ý Thức đề là có chung gốc với Tiếng Trung, ta hay gọi là gốc từ Hán-Việt. Tên nước "CHXN CN VN" toàn bộ là có gốc Hán Việt. Vậy để đọc hiểu kinh sách Tiếng Việt ta cũng cần phải trau dồi hiểu viết về từ gốc Hán Việt.
    2. Do tương đồng văn hóa và đường truyền giáo lớn của Đạo Phật qua nước ta là xuyên qua TQ bao nhiêu đời nay cho nên các câu chuyện Phật Giáo nói chung đều có yếu tố TQ.
    Nhưng như vậy không có nghĩa là dòng Nam Truyền không có Thần Tích - Mời bạn đọc về chùa Vàng Myanmar. Chưa kể các câu chuyện ở Lào, Campuchi, Thái Lan đầy rẫy chỉ là do SMC cuồng đạo quá chưa đọc mà thôi.
    3. Theo tôi biết, riêng các Thầy người Việt nam lịch sử cũng để lại 3 vị có Nhục Thân xá lợi: 2 vị ở Chùa Đậu tu Thiền, 1 vị Người Việt ở Campuchia PG Nguyên Thủy.
    4. Thiền Đông Độ qua Việt Nam và TQ trong cùng thời kỳ bởi hai thiền sư Ấn Độ khác nhau là Bồ Đề Đạt Ma và Tì Ni Da Lưu Chi và trong cổ sử còn nói về một vị tên là Phật Quang sư phụ của Chử Đồng Tử (một trong Tứ bất tử). Rõ ràng không phải Made In China, đó là bịp bợm.

    5. Nếu các bạn đi qua TQ mà tới những nơi tu tập của họ mà xem, đâu có bầy hầy như SMC nói. Còn SMC không chấp nguồn gốc kinh PG Phát Triển lại đi chấp mấy câu truyện truyền thừa của họ. Đó không phải là tác ý có tâm địa.. sao?

    6. Tại Việt nam, các bạn có thể trực tiếp tham dự và quan sát sự tu tập bài bản và tôn nghiêm ở hai hệ thống Hệ Phái Khất Sĩ và Thiền Trúc Lâm để thấy rõ.
    7. Còn chuyện về các bậc được coi đã chứng đắc như Tế Điên, Lục Tổ...thì tôi không bàn tới vì mình chưa đắc nên chưa thể hiểu để nói về họ. Chỉ là mong ước được gặp mặt nói chuyện cùng những người như họ mà âu cũng là chuyện xa vời.


    8. Còn câu cuối cùng: Nếu hiểu rõ Tánh Không, hiểu rõ về Nghiệp thì một hành động không Tác Ý thì không Sinh Nghiệp. Quan trọng ta tu tập sao để thực hiện được việc đó.
    Nói ra vậy nhiều bạn sẽ nói là đơn giản. Nhưng các bạn nên hiểu NẾU BẠN THỰC HIỆN NÓ TRÊN ĐẦU MÔI HOẶC Ý NGHĨ THÌ ĐÓ CŨNG KHÔNG PHẢI TRONG TÂM.

    Các thông tin tôi đưa ra để mong các bạn tìm hiểu, học tập để thêm kiến thức. Đừng lười đọc rồi nghe theo những suy nghĩ nông cạn hẹp hòi làm cản trở đường tu. Rồi bắt trước theo làm loang truyền những Tà Kiến ảnh hưởng người khác.

    Mong các thông tin trên hữu ích với ai đó.
    Chúc các bạn tinh tấn
    - Không có ý kiến ! Tôi cũng như bạn, tôi cũng chỉ mong mọi người tìm hiểu, học tập, đừng lười đọc rồi theo những suy nghĩ nông cạn hẹp hòi làm cản trở đường tu. Rồi bắt trước theo làm loang truyền những Tà Kiến ảnh hưởng đến sự tồn tại của Diệu Pháp.

    Mong các điều SMC nói hữu ích với người có duyên.

    Chúc an lạc. Mong hoan hỷ.

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Còn PHÁP HÀNH thì trong bài Kinh tôi post đó. SMC chỉ lo nổi sân chứ có đọc gì đâu. hehe.

    Pháp Hành của bản thân tôi:
    1. Ý thức rõ mọi sự vật và hiện tượng không có thuộc tính. Sự phân chia đối đãi chỉ xuất hiện khi Tâm ta trụ nơi sự vật và hiện tượng đó.
    2. Trong lúc ngồi thiền thực hành không trụ Tâm vào đâu. Khi một Ý nổi lên tức sẽ có đối tượng để Trụ ta biết đó là Vọng Niệm dần dần sẽ hết.
    3. Trong cuộc sống hàng ngày: khi một phân biệt đối đãi khởi lên, ta chỉ cần nhận ra đó là Vọng Niệm.
    - Oh, SMC thành thật xin lỗi. Là do bạn tự viết nguyên bài này mà SMC không biết !!!

  13. #13

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi smc Xem Bài Gởi
    - Tôi hỏi bạn đại ý bài kinh ntn theo bạn, thì bạn không trả lời. Thôi, để tôi nói cho bạn luôn vậy:

    Trung Bộ Kinh thuộc tạng kinh Pali tập trung vào phần PHÁP HÀNH. Riêng bài kinh Tiểu Không này, thực sự rất sâu xa, chỉ dành cho những bậc chứng đắc Tứ Thiền (từ Sơ Thiền trở lên) mới có thể thấy được "Không tánh".

    Ở các ví dụ trên, đức Phật lấy ví dụ từ Lộc Mẫu giảng đường với các Thầy Tỳ-kheo -> rừng -> địa -> ko vô biên xứ -> thức vô biên xứ -> vô sở hữu xứ -> phi tưởng ppt xứ, tức là nói đến Tâm Định của vị ấy khi tu tập thiền quán vào đối tượng. Đi từ Dục giới -> Sắc giới -> Vô Sắc giới (Tam Giới). Vì trong giảng đường, ngoài các vị Tỳ Kheo còn có những người khác đến thính pháp, thì những người đó có đạt được Sơ Thiền đâu mà nói, nên Ngài mới dẫn chứng từ cái thấp nhất, dễ thấy nhất, là: giảng đường, Thầy Tỳ-kheo, voi, đàn ông, đàn bà ...v...v... (Dục Giới); kế đến là Sắc Giới, như: rừng, địa đại...; cuối cùng là Vô Sắc Giới, như: 4 thiền (ko vô biên xứ ---> phi tưởng ppt xứ).

    Khi tu tập đạt định trong Tứ Thiền này (từ Sơ thiền), hành giả mới có khả năng (năng lực Tâm Định) thấy được "cái này có, cái kia có", tức là thấy Duyên Khởi, y như thật tướng các pháp, cái thấy như thật, thấy được Vô ngã, chứng đắc Niết Bàn, nhìn đâu cũng thấy "cái này có, cái kia có".

    Nhấn mạnh: chỉ khi nào đạt được Tứ Thiền mới có sự THẮNG TRI về "không tánh" này, về thực tướng các pháp, về Duyên Khởi. "Không Tánh" này là một kinh nghiệm, một trải nghiệm trong Định, chứ không phải để nói đến "một cái tánh - mang tên KHÔNG", vì nói ra như vậy là có ngã trong đó. Tức là: công phu hành thiền để đoạn diệt đi cái Ngã của Tâm thức, nói cách khác là diệt phục cái Ngã tưởng; chứ không phải làm mất đi cái Ngã để ra 1 cái gì đó. Đây là một phương pháp hành (PHÁP HÀNH), chứ không phải một mệnh đề, một triết lí để mà có thể suy từ A ra B.

    Cảm ơn bạn đã đưa ra Tri Kiến của mình.
    Tôi xin bổ xung thêm một Tri Kiến rất quan trọng của Tánh Không: Đó là mọi sự vật và hiện tượng bản thân nó không có tính chất gì. Mọi tính chất chỉ xuất hiện khi có một "Tâm" trụ vào sự vật hiện tượng đó. Thực hành điều này trong cuộc sống cũng đem nhiều lợi lạc giúp ta nhìn thấy cái gốc trong chuỗi diễn biến Tâm Lý của mình.
    Last edited by aptruong; 24-02-2019 at 12:31 AM.
    Không có không gian còn lo chi lớn, nhỏ.
    Chẳng có thời gian nên khỏi ngại trước, sau.

  14. #14

    Mặc định

    Mọi người hay nhắc đến Tế Điên nhỉ? Đó là truyền thuyết. Còn việc ăn thịt chó uống rượu thì không được gọi ông ấy là Phật. Đó là 1 biến tướng của Đạo Phật thì đúng hơn. Và việc tồn tại hay không một vị la hán như vậy cũng cần xem xét. Chẳng hạn như lịch sử TQ ghi lại đã có những vụ giả làm Bồ Tát để mưu đồ. Võ Tắc Thiên cũng từng phao tin rằng bà ấy là hiện thân của Phật Di Lặc.
    Lịch sử đã có 4 vị Phật. Sau Phật Thích Ca Mâu Ni thì phải hàng trăm triệu năm nữa mới có Phật Di Lặc. Khi mà Phật Giáo biến tướng, suy tàn và bị lãng quên. Ông ấy xuất hiện và giáo hóa con người.
    Thanh tâm tự khởi Pháp Phật. Tà tâm tự khởi Pháp Ma. Chánh tà khó tự phân, tâm không nên cố chấp. Phật không đến rước đi. Hãy tự thân tìm đến.

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi canhchimma Xem Bài Gởi
    Mọi người hay nhắc đến Tế Điên nhỉ? Đó là truyền thuyết. Còn việc ăn thịt chó uống rượu thì không được gọi ông ấy là Phật. Đó là 1 biến tướng của Đạo Phật thì đúng hơn. Và việc tồn tại hay không một vị la hán như vậy cũng cần xem xét. Chẳng hạn như lịch sử TQ ghi lại đã có những vụ giả làm Bồ Tát để mưu đồ. Võ Tắc Thiên cũng từng phao tin rằng bà ấy là hiện thân của Phật Di Lặc.
    Lịch sử đã có 4 vị Phật. Sau Phật Thích Ca Mâu Ni thì phải hàng trăm triệu năm nữa mới có Phật Di Lặc. Khi mà Phật Giáo biến tướng, suy tàn và bị lãng quên. Ông ấy xuất hiện và giáo hóa con người.
    Nếu lấy ăn chay làm thước đo tâm phật thì chắc con trâu con bò thành phật trước con người.

    Nếu một vị nào còn mong chờ chúng sanh gọi vị ấy là Phật.... thì vị ấy chẵng phải phật.

    Thích ca là một con người bằng xương bằng thịt, tu hành và chứng đắc qua các cõi tâm thức lần lượt như sau:

    Cõi phàm phu - cõi thần - cõi thánh - cõi Alahan - cõi bồ tát - Cõi Phật - Cõi trời - Cõi NHƯ LAI (Không tánh)

    Mỗi cõi tâm thức tương ứng với một tầng số rung động và trí tuệ tương ứng.... việc phân chia các cõi tâm thức cũng là một cách chia đại diện để phân định các loại tâm chứ thực ra giữa các cõi tâm thức cũng ko có ranh giới rõ ràng...

    Giống như việc phân chia màu sắc thành: Đỏ cam vàng lục năm chàm tím, hay việc phân chia trường âm ra: Đồ rê mi pha sôn la si....

    DI LẶC là một cõi tâm sâu thẳm hơn cõi NHƯ LAI. Sẽ ko có một vị Di Lặc nào xuất hiện cả... chỉ có người nào tu hành đến cõi ấy mà thôi.

    Và trong vũ trụ cũng ko ít người đạt được cõi tâm thức đó.... chỉ có điều là họ chẵng màn gì đến danh đến vọng.

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Nếu lấy ăn chay làm thước đo tâm phật thì chắc con trâu con bò thành phật trước con người.

    Nếu một vị nào còn mong chờ chúng sanh gọi vị ấy là Phật.... thì vị ấy chẵng phải phật.

    Thích ca là một con người bằng xương bằng thịt, tu hành và chứng đắc qua các cõi tâm thức lần lượt như sau:

    Cõi phàm phu - cõi thần - cõi thánh - cõi Alahan - cõi bồ tát - Cõi Phật - Cõi trời - Cõi NHƯ LAI (Không tánh)

    Mỗi cõi tâm thức tương ứng với một tầng số rung động và trí tuệ tương ứng.... việc phân chia các cõi tâm thức cũng là một cách chia đại diện để phân định các loại tâm chứ thực ra giữa các cõi tâm thức cũng ko có ranh giới rõ ràng...

    Giống như việc phân chia màu sắc thành: Đỏ cam vàng lục năm chàm tím, hay việc phân chia trường âm ra: Đồ rê mi pha sôn la si....

    DI LẶC là một cõi tâm sâu thẳm hơn cõi NHƯ LAI. Sẽ ko có một vị Di Lặc nào xuất hiện cả... chỉ có người nào tu hành đến cõi ấy mà thôi.

    Và trong vũ trụ cũng ko ít người đạt được cõi tâm thức đó.... chỉ có điều là họ chẵng màn gì đến danh đến vọng.
    Trâu Bò là kiếp bị đày vì tội nghiệp, sao mà thành phật trước hay sau... Không biết bạn ở chùa nào... Nhưng quan niệm của sư sãi giờ với toàn giáo lý "tự nghĩ ra" hoặc ai đó biên soạn ra. Rồi cả đi gọi vong, giải nghiệp kiếm tiền dưới danh nghĩa "độ thế". Xong tìm mọi lý lẽ ngụy biện cho đúng. Đã tham ăn mạng thì không thành chính quả được. Bởi vì trong lòng vẫn còn thèm dục lạc. Nó như bạn uống thuốc chuột thì Gan bạn khỏe đến mấy cũng chết. Tu hú ngày ngày ăn thịt uống rượu, gái gú thì đầu óc bằng thánh cũng không tu lên nổi.

    Trích dẫn Nguyên văn bởi aptruong Xem Bài Gởi
    Hành động trên Thân mà tác động vào Tâm cần có sự Tác Ý bạn à.

    Các bậc Tu hành bảo vệ Tâm mình bằng nhiều cách lắm.
    Bạn cứ Tu tập tinh tấn tới khi nào chỉ cần bạn khởi Tà niệm mà bạn tự động mắc ói liền tức thì, lúc đó bạn sẽ hiểu.
    :))
    Thanh tâm tự khởi Pháp Phật. Tà tâm tự khởi Pháp Ma. Chánh tà khó tự phân, tâm không nên cố chấp. Phật không đến rước đi. Hãy tự thân tìm đến.

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi canhchimma Xem Bài Gởi
    Trâu Bò là kiếp bị đày vì tội nghiệp, sao mà thành phật trước hay sau... Không biết bạn ở chùa nào... Nhưng quan niệm của sư sãi giờ với toàn giáo lý "tự nghĩ ra" hoặc ai đó biên soạn ra. Rồi cả đi gọi vong, giải nghiệp kiếm tiền dưới danh nghĩa "độ thế". Xong tìm mọi lý lẽ ngụy biện cho đúng. Đã tham ăn mạng thì không thành chính quả được. Bởi vì trong lòng vẫn còn thèm dục lạc. Nó như bạn uống thuốc chuột thì Gan bạn khỏe đến mấy cũng chết. Tu hú ngày ngày ăn thịt uống rượu, gái gú thì đầu óc bằng thánh cũng không tu lên nổi.


    :))
    CHào bạn!

    Tôi ko có tu chùa nào cả... mà cũng chẵng tu tại gia.

    Năm 2012 tôi có ăn chay khoảng 6 tháng, sau đó cũng có một khoảng thời gian nhập thất...

    Tôi ko phải ý nói con trâu còn bò thành phật, nhưng tôi khẳng định ăn chay không phải là cách để thành phật.... cho nên cho dù ăn chay hay ăn mặn thì cũng vậy thôi.

    Uống rượu, chất men say thì tuyệt đối cấm, dục vọng thì tuyệt nhiên phải ko có... điều này tôi công nhận.

    Tu là ở cái tâm của mình, chứ ko phải hình thức. CHo dù có mặc áo cà sa hay mặc quần thun áo bun thì cũng ko liên quan đến có thành phật hay ko.

    SỞ dĩ phật dạy ăn chay.... đó là vì khi Phật đã thành phật rồi thì tình yêu thương muôn loài nó khiến phật ko sát sanh được, và phật dạy đệ tử mình ăn chay...

    Chứ thực tình thì ăn chay hay phóng sanh nó ko có tạo ra một chút công đức hay phước báu gì cả... cũng ko phải là phương tiện giúp mình thành phật.

  18. #18
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,223

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Tu là ở cái tâm của mình, chứ ko phải hình thức. CHo dù có mặc áo cà sa hay mặc quần thun áo bun thì cũng ko liên quan đến có thành phật hay ko.
    - Thế vô vũ trường, vô bar pub tu được không?

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    SỞ dĩ phật dạy ăn chay.... đó là vì khi Phật đã thành phật rồi thì tình yêu thương muôn loài nó khiến phật ko sát sanh được, và phật dạy đệ tử mình ăn chay...
    - Ai đồn ?

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Chứ thực tình thì ăn chay hay phóng sanh nó ko có tạo ra một chút công đức hay phước báu gì cả... cũng ko phải là phương tiện giúp mình thành phật.
    - Tà kiến !

    ===> Những điều trên hoàn toàn chứng minh được câu nói...

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Tôi ko có tu chùa nào cả... mà cũng chẵng tu tại gia.

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi smc Xem Bài Gởi
    - Thế vô vũ trường, vô bar pub tu được không?
    ĐƯỢC!

    Tu cho đến khi nào Vũ trường hay Bar chẵng có ý nghĩa gì với mình cả.... Nó ko làm cho mình vui mà cũng chẵng gay ra cho mình đọng lòng... thì khi ấy là đắc đạo.

    Chẳng phải tu là ngồi gõ mõ tụng kinh, hay bế quan tu luyện mà thành...

    Tu là cho đến khi nào đối cảnh không sanh tâm thì khi ấy là thành là tựu...

    Nhiều người nói cao nói siêu cho cố vào... chỉ cần nghe 1 lời trái ý là quát ma vương, ngoại đạo, tà kiến, ngu dốt............. thì người ấy chẵng có tựu có thành gì cả.

  20. #20
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,223

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    ĐƯỢC!

    Tu cho đến khi nào Vũ trường hay Bar chẵng có ý nghĩa gì với mình cả.... Nó ko làm cho mình vui mà cũng chẵng gay ra cho mình đọng lòng... thì khi ấy là đắc đạo.
    - Tôi không nói "sau khi thành tựu". Vì ông nói tu là tu tâm, không tu hình thức. Vậy vô bar tu được không? (chứ còn tu THÀNH rồi thì nói làm gì)

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Chẳng phải tu là ngồi gõ mõ tụng kinh, hay bế quan tu luyện mà thành...
    - Quá trình hình thành nhân cách 1 người, có cần nhiều điều kiện không? Tại sao đi học phải học 5-7 môn mà không học 1 môn thôi ???

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Tu là cho đến khi nào đối cảnh không sanh tâm thì khi ấy là thành là tựu....
    - Điều này ai cũng biết! Nhưng cụ thể là con đường nào.

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Nhiều người nói cao nói siêu cho cố vào... chỉ cần nghe 1 lời trái ý là quát ma vương, ngoại đạo, tà kiến, ngu dốt............. thì người ấy chẵng có tựu có thành gì cả.
    - Tà kiến thì nói tà kiến. Nói sai thì nói: nói bậy, nói không trúng, nói tào lao...v...v.... => Cũng chỉ 1 nghĩa mà thôi. Chẳng qua ông chấp vào ngôn từ người ta nói mà thôi.

    Ông bảo "tụng kinh, gõ mõ, làm phước, bố thí".... không có công đức. Thì đây là tà kiến, là tri kiến sai lạc.

    Lời dạy bậc Đạo Sư:

    Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà kiến? Không có bố thí, không có cúng dường, không có tế tự, không có quả báo các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh; ở đời không có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự mình chứng đạt lại tuyên bố lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà kiến.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 24-03-2017, 10:40 PM
  2. Pháp Môn Tịnh Độ trong kinh điển Pali
    By chỉnh_tâm in forum Đạo Phật
    Trả lời: 17
    Bài mới gởi: 09-09-2013, 06:25 PM
  3. đại tạng kinh pali
    By cau_tu in forum Đạo Phật
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 22-07-2010, 01:30 AM
  4. Đi vào các bản kinh cổ Pali để tìm hiểu nguồn gốc con người
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 30-04-2010, 02:19 PM
  5. Năm chữ vàng trong Kinh tạng Pali
    By thienmenh2009 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 17-05-2009, 05:56 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •