41 năm cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc (17/2/1979-17/2/2020)

Ký ức khó quên

TP - Chúng tôi bị đánh thức bởi những tiếng nổ vang trời rất ghê sợ. Và rồi, trong cơn ngái ngủ, lũ trẻ chúng tôi bị cuốn đi trong dòng người bìu ríu nhau theo đường mòn biên giới rời xa quê, sơ tán về tuyến sau.
Cảnh nhân dân Lạng Sơn sơ tán trên quốc lộ 1A ảnh: tư liệu








Cứ dịp tháng 2 khi bông hoa gạo nở trên rẻo biên cương chúng tôi lại có dịp tụ họp, ôn lại chuyện xưa. Mỗi lần nhắc về chiến sự biên giới phía Bắc, bà Vũ Kiều Oanh (SN 1967, Phó giám đốc Đài PTTH tỉnh Lạng Sơn) không giấu nổi niềm xúc động nhớ lại câu chuyện đã in sâu trong tâm khảm tuổi ấu thơ.



Chạy giặc
Bà Oanh bồi hồi nhớ lại và kể: Quê tôi ở thị trấn biên giới Na Sầm, huyện Văn Lãng. Sáng 17/2/1979, xảy ra cuộc chiến bảo vệ biên giới. Cả nhà quấn túm nhau chạy loạn. Chúng tôi qua sông, đi mãi đến Hội Hoan rồi vượt đèo qua Bình Gia để về Bắc Ninh, nơi anh trai tôi đóng quân và có bố mẹ nuôi để tá túc, nương nhờ.


Ngày ấy, bố tôi công tác ở thị xã Lạng Sơn, các anh chị lớn đều đi học, công tác xa. Ở nhà có mẹ và bốn anh em cùng giúp bà nội chạy giặc. “Trước khi rời khỏi nhà, mẹ sắp xếp đồ đạc vào đôi quang gánh, một bên là nồi cơm nếp, nồi thịt gà kho gừng làm lương thực đi đường, một bên là quần áo chăn màn và tất tật những gì mẹ thấy là quý giá và cần thiết cho chuỗi ngày chạy loạn. Tiền nong mẹ cẩn thận gói vào ruột tượng, đeo chắc trong người. Chị Phượng dắt đứa đằng trước, đứa địu sau lưng, xách thêm cái túi quần áo. Tôi cõng em Hà, em Quang đeo cái ba lô không nhớ có những gì. Bà nội chống gậy đi trước. Cả nhà hòa vào dòng người đông nghịt vượt sông Kỳ Cùng, đi miết trên đường, phồng rộp đôi chân”. Bà Oanh miêu tả.


Góp chung câu chuyện, ông Trần Thanh Sơn (SN 1970, trước đây ở số nhà 19, phố Đinh Tiên Hoàng, phường Chi Lăng, thị xã Lạng Sơn, nay công tác tại Công ty Điện lực Bắc Kạn) cho biết: “Từ sáng sớm đã nghe tiếng ùng oàng từ biên giới vọng về. Khi ấy, tôi chừng 10 tuổi cùng chúng bạn trong khu phố chạy ra ngoài ngõ bám người lớn đang túm tụm bàn tán, hóng chuyện.
Thế rồi thông tin chiến sự diễn ra ác liệt, quân Trung Quốc đã tràn vào thị trấn Đồng Đăng, đang tiến đánh thị xã Lạng Sơn. Các gia đình được thông báo sơ tán gấp. “Thế là tất cả nháo nhào bê nồi niêu xoong chảo, quần áo, chăn màn, gạo, lợn, gà… ầm ĩ cả khu phố. Ông hàng xóm tốt bụng cho chúng tôi đi nhờ xe ô tô và tất cả bắt đầu rời thị xã theo quốc lộ 1A, cứ thế đi miết về tuyến sau.


Dọc đường, từng đoàn xe ô tô, xe ngựa, xe trâu... đủ loại phương tiện rồi người đi bộ bồng bế nhau lếch thếch đầy đường. Bên kia đường, trên sườn núi có một số khẩu pháo có xe kéo của quân ta, vừa đi vừa bắn đùng đoàng. Sau gần một ngày đường, chúng tôi đến khu vực Mỏ đá 4 thị trấn Đồng Mỏ thuộc huyện Chi Lăng và dừng chân, tạm cư tại đây một thời gian dài”. Ông Sơn thuật lại.


Mưu sinh
Bà Vũ Kiều Oanh mau mắn khi kể đến chuyện “cơm áo gạo tiền” thời chiến: “Tôi nhớ, ngày đầu tiên nghỉ lại Nà Rảo, ở trong ngôi trường cấp 2 của xã Nam La (huyện Văn Lãng), mẹ tôi nhanh nhạy, ổn định chỗ ở tạm xong thì xoay sang tìm kiếm cách thêm tiền trang trải cuộc sống. Suy nghĩ một hồi rồi bà đi tìm mua trứng vịt trong làng, luộc lên rồi giao cho tôi ngồi bán cạnh đường, gần mấy hàng nước. Mỗi ngày bán hai ba chục quả cũng kiếm được tiền rau.
Sau hai tuần, nghe nói chiến sự ở biên giới ngày càng phức tạp, gia đình chúng tôi vượt đèo, núi về xuôi. Ngày ấy mưa lắm, mưa xuân nhưng hơi nặng hạt và dai dẳng, đường đèo trơn trượt. Bà nội không thể đi được nên phải thuê 4 người lực lưỡng xỏ võng vào đòn khiêng. Đường trơn khó đi, lại đèo đốc.


Theo bà Oanh, sau mấy ngày đi bộ ròng rã, cuối cùng mọi người cũng đã đến thị trấn Đồng Mỏ. “Ngay lập tức, gia đình tôi họp bàn tìm kế sinh nhai. Chúng tôi mở quán cơm bụi ngay ở chợ. Khi đó, tuổi còn bé nhưng tôi luôn ý thức được sự thương yêu mẹ. Bà đã quần quật cả ngày đêm với hàng quán để nuôi cả nhà, còn lo dành dụm sau này yên hàn về sửa nhà sửa cửa, rồi lo cho anh Long mắc lại ở Cao Bằng. Khi tình hình yên ổn đôi chút, mẹ còn theo các bà đi buôn giẻ rách cung ứng cho bộ đội lau súng”. Bà Oanh kể lại với niềm xúc động dâng trào.


Còn ông Trần Thanh Sơn cho biết, sau khi đã tạm ổn định, gia đình cũng đã làm một cái nhà nhỏ tường vách đất, mái lá tranh gần cổng ra vào khu Mỏ Đá 4, thị trấn Đồng Mỏ…


Nghĩa tình son sắt
Phố núi Đồng Mỏ vốn bé nhỏ, hiền hòa bên dòng sông Thương bỗng trở thành “hậu cứ” lớn, bao bọc hàng ngàn người dân mạn Bắc đổ về. Không chờ cấp ủy, chính quyền địa phương kêu gọi, vận động, các gia đình ở Đồng Mỏ đều chủ động mời dăm ba hộ dân sơ tán đến cho tá túc nơi ăn, chốn nghỉ.
Ngày ấy, tôi còn bé, được bố mẹ, anh trai căn dặn phải yêu thương, đùm bọc dân mình. Gia đình tôi có 3 hộ dân ở thị xã Lạng Sơn đến ở cùng. Tất cả đồ đạc sinh hoạt hàng ngày được tất cả bốn hộ dùng chung. Có hôm lạnh giá, bố mẹ bảo chúng tôi ngủ ghép, dành phần chăn ấm cho các bác cao tuổi, em nhỏ sơ tán.
Vào các phiên chợ Đồng Mỏ, phố xá náo nức, nhộn nhịp hẳn. Người thị xã Lạng Sơn, dân Đồng Đăng mở rất nhiều quán bán hàng. Nhiều nhất là quầy ăn uống, lần đầu tiên ở Đồng Mỏ, dân bản địa được biết đến lò nướng bánh mì giòn tan, nóng hổi. Rồi nghề rèn, mộc và sửa chữa kính khóa, đồng hồ được mở ra mà ngày ấy dân quê tôi ít ai có được tay nghề cao như vậy.


Ông Khổng Đình Quế, nguyên Phó chủ tịch UBND thị trấn Đồng Mỏ cho biết, thời chiến sự 1979 rất khó khăn, gian khổ nhưng tình người rất thủy chung, bền chặt. “Có đến 30 đến 35% người dân địa phương trở thành thông gia với các gia đình sơ tán. Khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam- Trung Quốc, rất nhiều hộ gia đình trẻ đã lên khu vực biên giới lập nghiệp”. Ông Quế chia sẻ.
Năm 1989 nhiều người dân thị trấn Đồng Đăng trở lại quê cũ, kiến thiết lại nhà cửa, ổn định cuộc sống, tạo dựng cuộc sống mới trên rẻo biên cương.


Bà Hoàng Minh Thảo, Chủ tịch UBND thị trấn Đồng Đăng cho biết, những năm 1990, thị trấn chỉ có hơn 1.680 hộ, với gần 10 nghìn nhân khẩu, đến nay đã tăng lên 13 nghìn hộ, với 41 nghìn nhân khẩu, trong đó hơn 90% dân số của thị trấn tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ.
“Từng là địa bàn đổ nát, hoang tàn sau cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biên giới, thị trấn Đồng Đăng đã vươn lên, khởi sắc. Để có thành tựu đó là sự nỗ lực vươn lên của người dân địa phương, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của những người đến từ các huyện hậu phương đã từng cưu mang chúng tôi. Nay họ lại chung tay, đồng lòng dựng xây tuyến biên giới lòng dân như thành đồng vững chắc không gì phá vỡ nổi”. Bà Chủ tịch thị trấn Đồng Đăng khẳng định.
Phố núi Đồng Mỏ ngày nay. Ảnh: Duy Chiến