kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: Con trai cố TBT Lê Duẩn: 'Mẹ tôi và những nỗi đau không nói hết thành lời'

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Con trai cố TBT Lê Duẩn: 'Mẹ tôi và những nỗi đau không nói hết thành lời'

    Con trai cố TBT Lê Duẩn: 'Mẹ tôi và những nỗi đau không nói hết thành lời'

    28/10/2018 0841 GMT+7



    Thế hệ mẹ tôi, ai cũng phải chịu đựng chiến tranh. Nhưng mẹ tôi, không chỉ chịu cuộc chiến với kẻ thù mà trong bà còn một cuộc chiến không phần thưởng, khốc liệt đến cuối đời.
    Những năm 1948- 1950 ba tôi là Bí thư Xứ uỷ Nam kỳ, ngoài 40 tuổi hoạt động ở miệt vườn Nam bộ.
    Tại đây ông đã gặp mẹ tôi, lúc đó là Trưởng đoàn phụ nữ cứu quốc tỉnh Cần Thơ. Khi biết chuyện ba tôi có ý thương bà, mẹ tôi hết sức bàng hoàng. Bà chỉ thấy anh Ba là nhà lãnh đạo uyên bác rất đáng tôn kính.
    Bà chỉ biết ghi chép những chỉ thị, nghị quyết, đường lối của ông để học tập, thi hành. Nhưng cũng từ đây bà bắt đầu để ý ông. Bà thấy ông luôn tự chọn cuộc sống đạm bạc đến khắc khổ. Ông chỉ có một chiếc xuồng tam bản. Đến cơ quan, cơ sở nào làm việc thì anh em lên nhà ngủ, ông vẫn ngủ dưới ghe.
    Một lần ông kể, mẹ ông làm nghề nấu cao dán mụn nhọt giúp người bệnh. Khi ông bị giặc bắt, thư gửi về được bà cho vào cái túi khâu lại đeo vào cổ như người đeo bùa. Bà chết, cái túi vẫn ở cổ bà…
    Một lần, ông Sáu Thọ nói với mẹ tôi:
    - Anh Ba thương chị vì biết chị là người chung thuỷ, sống có tình. Tổ chức xin ý kiến và được Bác Hồ đồng ý. Ý chị thế nào?
    Thế là một đám cưới rất kháng chiến được tổ chức. Những ngày tháng đầu tiên được làm vợ, bà không chỉ được gần gũi một nhà cách mạng cao cả mà ông còn dành cho bà một tình yêu chân thành và hết sức hồn nhiên thơ trẻ. Khi mẹ tôi mang thai chị Vũ Anh, có đêm bà nằm mơ được ăn quả xoài xanh khiến tỉnh dậy thèm chảy nước miếng. Bà kể với ông. Vậy mà trưa đi họp về ông đã cố tìm đâu được trái xoài tượng đem về cho vợ…
    Năm 1952, mẹ tôi sinh chị Lê Thị Vũ Anh. Năm 1954, mẹ tôi có mang tôi. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết. Tất cả cán bộ lãnh đạo Cộng sản miền Nam phải quay ra Bắc theo nghị quyết Hiệp định gọi là Tập kết. Gia đình tôi đứng đầu danh sách này.
    Ba tôi nghĩ: nếu tất cả lãnh đạo Xứ uỷ đều ra Bắc thì sự nghiệp cách mạng miền Nam sẽ khó khăn, mục tiêu giải phóng, thống nhất sẽ vô cùng xa vời. Ông liên tục gửi ba bức điện cho Bác Hồ xin ở lại miền. Bác và Trung ương đồng ý nhưng phải giữ bí mật.
    Mẹ tôi kể đó là một đêm mùa đông. Bà đang có mang tôi, khệ nệ những túi, bì, tay nải tư trang và bế trên tay đứa con ba tuổi theo chồng lên con tàu Kéreinski quốc tịch Ba Lan chở 2000 con người về Bắc. Đúng 12 giờ đêm, khi chỉ còn vài tiếng nữa tàu nhổ neo thì ba tôi phải quay lại bờ. Ông nói với bà: "Anh thương mẹ con em bao nhiêu thì anh cũng thương đồng bào đồng chí miền Nam bấy nhiêu. Anh mong rằng sau này em sẽ hiểu quyết định hôm nay của anh!".
    Bà không dám tiễn ông giây phút cuối nhưng bà vẫn nghe thấy tiếng ca nô áp sát mạn tàu đón chồng tiến vào màn đêm mịt mùng trắc ẩn. Ba tôi nói với các đồng chí: 20 năm nữa chúng ta mới có thể gặp nhau…
    Mẹ tôi ra Hà Nội ít lâu thì tôi ra đời. Nhật ký mẹ tôi viết: "11 giờ trưa ngày 17/4/1955, sinh Kiên Thành. Kiên Thành tức là kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam. Đó là ý chí của toàn dân và cũng là của ba con nữa… Kiên Thành sinh thiếu 23 ngày, nặng 2,2 ký. Không nuôi con được tròn những ngày trong bụng, mẹ sẽ ráng nuôi con ở ngoài đời vậy…". Thật lạ kỳ, đúng 20 năm sau cũng vào những ngày tháng tư chan hoà nắng mới, đất nước hoàn toàn thống nhất, ý nguyện "Kiên Thành" của dân tộc và ba mẹ tôi đã thành sự thật.
    Năm 1957, ba tôi ra Hà Nội. Trước ngày đoàn tụ, nhiều cán bộ nói với mẹ tôi: Hãy chủ động ly dị ba tôi. Vì ông đã có một bà vợ ở quê nhà...
    Mẹ tôi đau khổ và căng thẳng tột độ. Khi bà thổ lộ với ba tôi, ba tôi nói: anh nhất quyết không chấp nhận quan điểm đó. Chúng ta là những người Cộng sản, chúng ta đã cưới nhau do tổ chức sắp đặt, Bác Hồ cũng đồng ý. Người Cộng sản có lý tưởng, tôn trọng tổ chức thì cũng phải có thuỷ chung, tình nghĩa…".
    Câu trả lời khẳng khái của ba tôi làm bà rất hạnh phúc. Thế nhưng ông bà cũng chỉ được ở bên nhau ít tháng. Tuy không phải ly dị nhưng mẹ tôi cũng phải nhận nhiệm vụ công tác tận Bắc Kinh, Trung Quốc chưa biết ngày về. Khi đó bà cũng có mang. Và giữa vùng tuyết lạnh, xứ người, mẹ tôi lại một lần đơn độc sinh con …
    Cuối năm 1962 mẹ tôi từ Trung Quốc về Hà Nội. Bà chưa thể được ở HN cùng chồng mà phải về Hải Phòng làm Uỷ viên Ban Biên tập báo Hải Phòng. Bốn mẹ con sống trong một gian nhà cấp 4 do Thành uỷ cấp. Thỉnh thoảng ba tôi tranh thủ xuống thăm nhưng không lần nào bà không phải rơi nước mắt vì câu chuyện một chốn đôi nơi của ba tôi...
    Trước khi ở Trung Quốc về, bà đã viết một lá thứ dài 4 trang cho bà Sương (vợ cả ba tôi). Lời thư rất mộc mạc chân thành. Bà nhận cha tôi như người anh cả, bà Sương là người chị thứ hai. Mọi người sống yêu thương nhau như ruột thịt và đều chung lý tưởng cách mạng. Vậy nên ba anh chị em có thể sống cùng nhau trong một mái nhà… Thế nhưng, đến giờ phút này bà biết giấc mơ đó khó thành. Bà quyết định về Nam công tác.
    Trước ngày đi, mẹ tôi sống ở số 4 phố Bà Huyện Thanh Quan, thỉnh thoảng chúng tôi mới được tới thăm mẹ. Bà kể, sau bữa tiệc tiễn đưa, ba tôi động viên: "Thôi cuộc đời chúng mình đã như vậy, hãy lấy lý tưởng sự nghiệp làm chính. Như vậy chúng ta vẫn gần nhau.".
    Chúng tôi không biết trước ngày mẹ đi, thỉnh thoảng trốn người lớn, chạy chơi rẽ vào nơi bà ở. Thấy cửa khoá chỉ dám nhìn qua khe. Một hôm, tôi thấy căn phòng trống hươ trống hoác thì biết mẹ đã đi rồi. Sau này tôi được một chú cán bộ chứng kiến cảnh bà ra đi kể lại:
    Đêm khuya, bất ngờ hai chiếc xe tải lớn bịt mui đỗ chắn trước cửa ngôi nhà mẹ tôi. Hai xe đứng đối đầu và cách nhau chừng 20 mét. Cả hai cùng bật đèn pha sang quắc chiếu vào nhau khoảng 5 phút rồi bất ngờ tắt phụt. Trong màn đêm đặc quánh, mẹ tôi được vội vã đưa lên một chiếc xe nào đó mà người đứng ngoài không thể biết. Hai chiếc xe rú ga phóng về hai ngả. Trong đó một chiếc chở mẹ tôi. Bà ra Hải Phòng, lên tàu Không số sang đảo Hải Nam, đánh lạc hướng địch rồi mới xuôi Nam.
    Lá thư đầu tiên tôi nhận được từ bà vào năm 1965. Bà kể đang ở rừng U Minh. Cuộc sống nhiều gian nan nguy hiểm. Thương nhớ các con nên bà đã bạc tóc rồi. Bà sợ nhất là muỗi. Trong thư bà kẹp một con muỗi khô to tướng và một sợi tóc bạc.
    Tôi nhìn mà không cầm được nước mắt. Bà kể rằng, trong này bọn giặc vẽ hình bà cao 1,6m rộng 1,2m ở các chợ Rạch giá, Cần Sỏi, Cần Thơ với hàng chữ "Tên thật là Nguyễn Thuỵ Nga, tên mới là Nguyễn Thị Vân, vợ của lãnh tụ số 1 Cộng Sản Bắc Việt về nằm vùng…" kèm theo tiền thưởng cho ai bắt được.
    Đúng 10 năm xa cách, năm 1974 khi đang học ở Liên Xô thì tôi được đón bà giữa sân bay Mát-xkơ-va mênh mông tuyết trắng. Mẹ tôi tiều tuỵ và mang nặng dấu ấn sốt rét rừng trên gương mặt tím tái đến quặn lòng. Bà kể bà đã đi dọc đường Trường Sơn ra bắc lúc nào cũng có ý tìm con chỉ để dặn rằng: cuộc chiến đấu này gian khổ, tàn khốc muôn phần, con không được chủ quan…
    Ra tới HN ba mẹ tôi gặp nhau mừng mừng tủi tủi thế nhưng hạnh phúc chưa tròn bà lại phải sang Liên Xô chữa bệnh. Bà về HN, nhưng những mầm bệnh quái ác chưa hết, bà lại được đưa đi Cộng hoà dân chủ Đức.
    Đúng năm ấy, Sài Gòn giải phóng, đất nước thống nhất. Thế là suốt 10 năm gian khổ nhất cuộc chiến, bà đã ở đó nhưng ngày giải phóng thì bà ở tận bên kia quả địa cầu. Bà về nước, những đau thương, bất hạnh đã ngừng lại. Những chia ly, tan vỡ được dịp chữa lành. Dân tộc, gia đình, tình bạn, tình yêu được ngày sum họp. Nhưng với bà giấc mơ một mái ấm gia đình sống bên chồng và những đứa con yêu vẫn không thể thành sự thật. Miền Nam lại gọi bà, hay đúng hơn bà lại phải tìm đến một nơi xa xôi nhất với những người bà yêu thương.
    Mục đích cuối cùng vẫn là để ba tôi có một cuộc sống thuận lợi hơn, toàn tâm toàn ý hơn khi phục vụ cách mạng. Cuối đời, ba tôi nói sẽ về Nam nghỉ những năm còn lại. Bà đã chờ nhưng cũng như bao nhiêu lần chờ đợi khác, ba tôi không thể về bên bà, cho đến khi ông ấy ra đi vĩnh viễn. Vậy là tình yêu của bà mãi mãi không có ngày thống nhất.
    Theo Lê Kiên Thành (Soha/Trí Thức Trẻ
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Cuộc đời bà Bảy Vân - "người vợ miền Nam" của cố TBT Lê Duẩn

    Tần Khanh | 27/10/2018 12:59 PM



    Năm 1964, vì hoàn cảnh và nhiệm vụ riêng, bà Bảy Vân phải xa chồng con để vào miền Nam công tác và sống suốt phần đời còn lại.



    Theo nguồn tin từ gia đình, Bà Nguyễn Thuỵ Nga (tên thân mật là Bảy Vân) - phu nhân cố TBT Lê Duẩn đã qua đời ở TP.HCM vào tối qua, 26/10/2018, hưởng thọ 94 tuổi.


    Bà Bảy Vân thường được mọi người gọi là "người vợ miền Nam" của ông bởi suốt cuộc đời của bà từ khi sau khi kết hôn đều sinh sống ở miền Nam.
    Bà kết hôn với cố TBT Lê Duẩn vào năm 1950, khi ông Lê Duẩn đang là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, chịu trách nhiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến ở miền Nam.
    Cuộc hôn nhân của bà Bảy Vân và cố TBT được mai mối bởi ông Lê Đức Thọ và do chính ông Phạm Hùng làm chủ hôn. Đó là lúc ông Lê Duẩn đã bặt tin gia đình ở miền Trung gần 20 năm trời và chưa biết ngày gặp lại.


    Vợ chồng TBT Lê Duẩn và bà Bảy Vân khi mới kết hôn năm 1950 (Ảnh: Gia đình cung cấp)

    Sau khi kết hôn, bà Bảy Vân sinh được 3 người con là: bà Lê Vũ Anh ( đã qua đời ở Liên Xô), ông Lê Kiên Thành và ông Lê Kiên Trung. Nhưng quãng thời gian được sống hạnh phúc bên chồng con của bà rất ngắn ngủi. Năm 1964, vì hoàn cảnh và nhiệm vụ riêng, bà phải gạt nước mắt chia tay chồng, để lại 3 người con ở miền Bắc để vào miền Nam công tác, chấp nhận sống xa chồng suốt phần đời còn lại.





    Bà Bảy Vân sinh ra trong một gia đình trí thức trung lưu yêu nước ở Sài Gòn. Ông nội bà bị Pháp chặt đầu vì tham gia phong trào Cần Vương. Cha bà là chủ bút một tờ báo tiếng Pháp. Sau khi cha mất, bà vào chiến khu hoạt động cách mạng.
    Trước khi nghỉ hưu, bà Bảy Vân từng là Phó TBT Báo Sài Gòn Giải Phóng. Bà Bảy Vân là người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đi từ miền Bắc vào miền Nam bằng tàu không số.

    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  3. #3

    Mặc định





    Năm 1950, khi kết hôn với nhau, ông Lê Duẩn đã tặng cho người vợ thứ 2 của mình – bà Nguyễn Thuỵ Nga – một cuốn sổ tay với lời đề tặng: "Tặng em Nga, người bạn chung tình".
    Dưới dòng chữ ấy, bà Nguyễn Thuỵ Nga viết: ‘Sổ này, một kỷ vật đầu tiên của D. cho N – từ đây đời Nga sẽ ghi thêm những trang sách mới. Quyển sổ này sẽ chứa đựng mối tình dài lâu của Nga đối với Duẩn".
    Đó là ngày 29.5.1950 – những ngày tháng đầu tiên trong cuộc hôn nhân của họ!
    Đúng như lời hứa, bà Nguyễn Thuỵ Nga đã ghi lại tất cả những kỉ niệm đáng nhớ nhất về cuộc hôn nhân của bà, về tình yêu của bà với TBT Lê Duẩn trong cuốn sổ đó. Bà giữ cuốn sổ cho đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay.


    Cuốn sổ tay ô Lê Duẩn tặng vợ trong ngày cưới

    Nhưng khi bắt đầu viết những dòng đầu tiên về tình yêu lớn nhất và cũng là tình yêu sau cùng của đời mình, bà không biết rằng đó sẽ là mối tình lâu dài, nhưng hạnh phúc thì ngắn ngủi mà đau khổ và gian trân suốt một đời người…
    Cuộc gặp đầu tiên của bà Bảy Vân và ông Ba Duẩn là vào năm 1948, lúc ông Ba Duẩn là Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, bà Bảy Vân là Tỉnh uỷ Viên – Đoàn trưởng phụ nữ cứu quốc tỉnh Cần Thơ. Họ gặp nhau khi ông Ba Duẩn tham dự Hội nghị Tỉnh uỷ Cần Thơ – Hội nghị mà bà Bảy Vân bị đưa ra kiểm điểm và bị buộc chuyển công tác về Sài Gòn khi tổ chức phát giác ra chuyện bà đã đem lòng yêu một người đàn ông có vợ suốt 9 năm trời – kể từ khi bà 14 tuổi.
    Suốt hội nghị đó, ông Lê Duẩn im lặng.
    Sáng hôm sau, khi bà Bảy Vân được Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ lên kiểm tra bữa sáng của đồng chí Bí thư Xứ uỷ xem có gì sai sót hay không, ông Lê Duẩn mời bà cùng ăn sáng và hỏi bà nghĩ sao về cách xử lý của Tỉnh uỷ.
    Bà trả lời: "Tổ chức phân công công tác mới, dù nguy hiểm và khó khăn, nhưng em vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn gì. Chi xin đừng cấm em yêu người em đã yêu. Xa nhau thì được, nhưng yêu là do trái tim em. Em không thể ép buộc trái tim mình".
    Một lần nữa, ông Lê Duẩn lại im lặng!


    Hồi đó, vì bị tù đày ở Côn Đảo rồi vì nhiệm vụ cách mạng mà ông Lê Duẩn đã xa gia đình, vợ con ở miền Trung nhiều năm trời.
    Ở Đồng Tháp Mười, khi các thành viên khác trong Ủy ban Kháng chiến Nam bộ người nào người đấy đều có nhà cửa (dù chỉ là nhà lá), có người bảo vệ, người nấu bếp thì ông Ba Duẩn chỉ có một chiếc tam bản 4 chèo mà ông ở cùng với thư ký, bảo vệ của mình. Đến cơ quan nào, đến nhà bà mẹ nào, anh em lên nhà ngủ, còn ông ngủ dưới ghe.


    Vợ chồng TBT Lê Duẩn khi chuẩn bị kết hôn

    Khi gặp bà Bảy Vân lần đầu tiên, ông mặc chiếc quần thủng lỗ chỗ, áo rách cùi chỏ không có ai mạng, chỉ nặng 47 ký, người cao gầy, quắt queo vì thiếu bàn tay chăm sóc của người đàn bà.
    Chị em phụ nữ Nam Bộ ở chiến khu nhìn ông xót xa. Họ nói với ông:
    -Anh Ba phải lấy vợ để có người chăm sóc anh Ba. Nếu anh Ba không lấy vợ, chị em chúng tôi cũng kiên quyết không lấy chồng".
    Dù được các đoàn thể phụ nữ giới thiệu với rất nhiều cô gái Nam bộ xinh đẹp, nết na, ông Ba Duẩn vẫn một mực chối từ.
    Nhưng sau bữa ăn sáng với bà Bảy Vân, ông Ba Duẩn trở về cơ quan Xứ Ủy ở Đồng Tháp, nói với ông Lê Đức Thọ:
    -Nếu có cưới vợ, thì tôi thích lấy người tình nghĩa thủy chung như chị Nga!


    Sau này, khi ông Sáu Thọ có dịp xuống Cần Thơ công tác, ông Sáu Thọ đã giúp ông Ba Duẩn ngỏ ý với bà Bảy Vân:

    -Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ. Chị hãy nghĩ kĩ và nên ưng anh ấy. Anh ấy xa gia đình 20 năm nay, hầu như không có tin tức gì. Anh Ba trong lớp lãnh đạo hiện nay là người rất thông minh, sáng suốt, được gọi là ông "200 bougies" (200 ngọn nến). Nếu có người ở cạnh chăm sóc thì anh sẽ trở thành "400 bougies". Chị lấy anh ấy cũng là vì Đảng, vì cách mạng.



    Dù hoàn toàn bất ngờ vì lời đề nghị đó, nhưng mỗi lần gặp gỡ sau này, bà Bảy Vân lại dành cho ông Lê Duẩn thêm nhiều thiện cảm. Một năm sau kể từ lời đề nghị của ông Sáu Thọ, bà Bảy Vân chính thức thành vợ ông Ba Duẩn.

    Cuộc hôn nhân của họ không nhận được nhiều sự ủng hộ của một số chị em phụ nữ Nam Bộ. Vì yêu quý đồng chí Ba Duẩn, họ một mực nghĩ rằng, "anh Ba" xứng đáng với một người phụ nữ đẹp và một lý lịch trong sạch. Mà bà Bảy Vân năm ấy 25 tuổi, gầy gò, nhỏ bé, không phải người xinh đẹp nổi bật, lại có một "quá khứ" bị kiểm điểm vì yêu người có vợ. Không ai cho rằng, bà là sự lựa chọn xứng đáng với đồng chí Bí thư Xứ ủy mà họ yêu quý.
    Nhưng ông Ba Duẩn lại chọn bà Bảy Vân qua tình yêu và sự chung thuỷ của bà với một người đàn ông khác. Còn bà, bà chọn ông qua tình cảm lớn lao mà ông dành cho đồng bào, đồng chí, chọn ông vì nghĩ rằng lấy ông cũng là một điều tốt cho cách mạng, lấy ông là sự hi sinh mà bà có thể làm cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
    Trong đám cưới giữa chiến khu, ông Ba Duẩn làm một bài thơ tặng người vợ mới cưới. Bài thơ đó, ông nói rằng, ông thấu hiểu và chia sẻ với mối tình đầu không thành của bà, cùng với lời nhắn nhủ, dù là mối tình thứ hai, nhưng ông sẽ là mối tình trọn đời, không gì chia cắt được.


    Những năm tháng hạnh phúc nhất của bà Bảy Vân và ông Ba Duẩn là khi họ cùng nhau hoạt động ở chiến khu. Hồi đó, dù đi đâu, ông Ba Duẩn cũng đưa vợ đi cùng. Có những ngày phải đi công tác một mình, khi vừa về đến căn cứ, thấy vợ mình đã đứng đó đợi tự lúc nào, ông bước nhanh đến bế bổng vợ lên, hôn bà trước mặt cô giao liên và các chú thư ký không chút ngại ngần. Mỗi chiều, họ cùng nhau xuống suối tắm, kì lưng cho nhau.
    Khi bà Bảy Vân về Sài Gòn sinh con gái đầu lòng Vũ Anh, những ngày tháng xa vợ, ông Lê Duẩn thường viết những lời nhớ nhung vào cuốn sổ nhỏ ông tặng vợ mình. Không một ai ngoài bà Bảy Vân được đọc những dòng ấy. Bởi khi phải giao cuốn sổ cho thư ký cầm lúc di chuyển căn cứ, ông đã xé những trang giấy đó cất riêng.


    Những ngày tháng hạnh phúc đó kết thúc khi bà Bảy Vân đưa con ra miền Bắc tập kết. Năm 1957, trước khi ông Lê Duẩn ra Bắc để thay ông Trường Chinh làm Bí thư thứ Nhất, BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một số cán bộ của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam – những người từng ủng hộ và chứng kiến đám cưới của bà Bảy Vân và ông Lê Duẩn đã yêu cầu bà ly dị ông, để không vi phạm hôn nhân một vợ một chồng ở miền Bắc.
    Ngày 11, tháng 6 năm 1957, bà Bảy Vân viết một lá thư xin ly dị chồng, nhét vào bao thư. Bao thư để dòng chữ: "Sau khi gia đình khó khăn, tôi viết đơn gửi Trung ương xin ly dị ". Nơi nhận là Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.


    Nhưng năm 1957, khi ra Bắc và gặp lại vợ, biết được ý định của tổ chức và bức thư của bà Bảy Vân, ông Lê Duẩn kiên quyết không đồng ý ly dị.

    Một buổi chiều ở số 6 Hoàng Diệu, bên khung cửa sổ, ông Ba Duẩn gối đầu trên đùi bà Bảy Vân trong lúc bà nhổ tóc bạc cho chồng. Nước mắt ông chảy dài:

    Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, giờ trong hoàn cảnh nào chúng ta lại bỏ nhau khi đã có hai đứa con? Cho dù anh là Tổng Bí thư đi nữa mà phải bỏ vợ con mình, thì lòng anh không bao giờ yên ổn. Việc đó không đúng với tấm lòng người Cộng sản. Người Cộng sản thì phải có thuỷ, có chung, có tình, có nghĩa. Người Cộng sản không yêu vợ mình, không thương con mình, thì sao có thể yêu nhân dân, yêu đất nước?
    Khi ông Ba Duẩn kiên quyết không chịu ly dị vợ và bà Bảy Vân cũng không nghe lời khuyên của nhiều người mà bỏ chồng, thì ở miền Bắc, bà Bảy Vân bị một số chị em trung Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam ghét bỏ. Bà Bảy Vân ra miền Bắc không chỉ với tư cách vợ của Bí Thư Xứ ủy Nam Kỳ (và sau này trở thành Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam), bà còn là Tỉnh uỷ viên, là cán bộ trung cấp, có tiêu chuẩn chế độ riêng. Nhưng mọi chế độ đó, kể cả việc được khám bệnh ở Bệnh viện Việt Xô cũng bị cắt bỏ. Trong hồi ký, bà viết rằng, những năm tháng đó, dù là vợ của TBT trong một cuộc hôn nhân được Bác Hồ chấp thuận, bà vẫn có cảm giác mình như tội đồ trong mắt người xung quanh.


    Nhưng nếu như bà Bảy Vân là người vợ mà vì tình yêu, ông Lê Duẩn không muốn bỏ. Thì bà Lê Thị Sương, người vợ đầu của ông - lại là người mà vì tình nghĩa - ông cũng không thể bỏ.
    Suốt cuộc đời mình, ông Lê Duẩn không bao giờ giấu diếm tất cả con cái trong gia đình một điều: rằng cuộc hôn nhân đầu tiên của ông với bà Lê Thị Sương là một cuộc hôn nhân do cha mẹ sắp đặt. Nhưng dù không thể dành cho người vợ đầu tình yêu của một người đàn ông dành cho một người đàn bà, ông Ba Duẩn dành cho bà Lê Thị Sương sự trân trọng, biết ơn và khâm phục.


    Bà Lê Thị Sương (bên trái) và bà Bảy Vân - hai người vợ của cố TBT Lê Duẩn.

    Thời còn hoạt động cách mạng, có khi 7-8 năm trời mới về nhà được một lần, ông Ba Duẩn thường đề nghị bà Lê Thị Sương đi tìm người chồng khác. Nhưng lần nào bà cũng im lặng và lắc đầu.
    Khi ông Ba Duẩn hoạt động ở miền Nam, bà Lê Thị Sương ở Quảng Trị thay ông chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ chồng. Lúc bố chồng bà bị địch bắt, bà cắt mái tóc dài chấm đất bán lấy tiền đi thăm nuôi cha chồng. Những ngày chiến tranh, bà gánh bố chồng trong một bên thúng, một bên thúng còn lại gánh hai đứa con nhỏ đi chạy giặc, hai đứa con lớn hơn đi đằng sau, bước thấp bước cao đi đến nơi sơ tán.
    Vì không thể rời bỏ cả hai người phụ nữ: một người vì tình yêu, một người vì ân tình báo đáp một đời không hết, nên cuộc hôn nhân của cố TBT Lê Duẩn là cuộc hôn nhân nhiều đau khổ cho cả ba người, kể cả chính ông. Trong thư gửi cho bà Bảy Vân, ông viết: "anh và chị rất ít nói chuyện với nhau, trừ những lúc nói chuyện về việc học hành của con cái…".
    Nhưng người đau khổ hơn cả, hy sinh nhiều hơn cả và thiệt thòi nhiều hơn cả là bà Bảy Vân.


    Vì không được sự thừa nhận của người vợ đầu, vì sự phản đối quyết liệt từ những người con riêng của chồng, nên giữa lúc mang thai đứa con thứ 3, bà Bảy Vân xin sang Trung Quốc du học và một mình sinh con nơi xứ người, với hy vọng xa cách sẽ làm dịu đi những sóng gió trong cuộc hôn nhân của bà. Những chuyến công tác của TBT Lê Duẩn sang Bắc Kinh là những lần hiếm hoi bà được sống cạnh ông.

    Chụp ở Bắc Kinh năm 1960, cùng với ông Chu Ân Lai và ông Xuân Thuỷ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
    Ở Bắc Kinh, bà viết thư về cho người vợ đầu của chồng. Trong lá thư đó, bà Bảy Vân xin với bà Lê Thị Sương: "Anh ấy lớn nhất là anh cả. Chị là chị của em. Em là em út của hai người. Em mong rằng chúng ta có thể cùng nằm một giường nói chuyện vui vẻ, đầy tình thương. Vì chúng ta là một gia đình cách mạng, có một tình thương cách mạng, em tin rằng người khác thì không thể, nhưng chúng ta có thể sống với nhau như vậy".
    Dẫu là vậy, thì ước ao đó của bà Bảy Vân không bao giờ thành sự thật. Trở về nước sau 5 năm đi học nước ngoài, bà Bảy Vân hiểu rằng sẽ chẳng có cơ hội nào để bà có thể thực sống bên cạnh chồng mình như một người vợ thực sự. Nên năm 1964, giữa lúc chiến trường miền Nam khốc liệt nhất, bà theo đoàn tàu không số vào Nam, để lại người chồng bà yêu mà không thể ở cạnh, để lại 3 đứa con ở miền Bắc. Bà ra đi để ông Lê Duẩn bớt đi những gánh nặng, giằng xé trong gia đình, chuyên tâm vào việc lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng miền Nam.


    Ngày chia tay, ông Lê Duẩn nằm cạnh vợ, lại nước mắt chảy dài. Ông nói: "Thôi cuộc đời chúng mình đã vậy. Chúng mình cùng lấy lý tưởng làm lẽ sống, để vẫn được gần nhau. Vì chúng mình không thể ở cạnh nhau, anh mong em phấn đấu trở thành anh hùng".
    Nhưng một người đàn bà như bà Bảy Vân có lẽ thời khắc đó không tha thiết nhiều đến việc mình có thể trở thành anh hùng hay không.


    Năm 1974, gặp lại con trai Kiên Thành và con gái Vũ Anh giữa Moscow.

    Khi đoàn tàu không số cập bến miền Nam, trước lúc chia tay, những anh em, đồng chí trên tàu hỏi bà:
    -Chị có viết thư cho anh Ba thì tụi em chuyển ra?
    Và bà trào nước mắt.
    Khi chia tay, con gái Vũ Anh của bà mới 14 tuổi tay run bần bật trong tay mẹ, rồi chạy như điên loạn ngoài đường, gào khóc vì phải xa mẹ. Con gái đến tuổi trưởng thành mà bà không được ở cạnh để dìu dắt con thành một người đàn bà. Đó là nỗi đau không tả xiết của của người mẹ.
    Khi chia tay, con trai thứ của bà – Lê Kiên Thành mới 9 tuổi, ngày nào cũng dắt theo cậu em Kiên Trung 7 tuổi đi từ số 6 Hoàng Diệu sang số 4 Huyện Thanh Quan, nhòm qua ô cửa khoá, để xem bà đã đi chưa, mà bà không thể mở cửa gặp con, vì sợ rằng nếu gặp rồi thì không đủ can đảm rời bước. Mãi đến 10 năm sau, bà mới có dịp đoàn tụ con khi tất cả đã trưởng thành giữa Moscow đầy tuyết trắng.
    Trong hồi ký, bà viết, bỏ lại 3 đứa con ở miền Bắc, bà như cầm dao cùn cắt từng khúc ruột của mình. Làm sao bà có thể viết thư cho chồng, nói với ông hết những điều trong lòng bà mà không làm ông bận lòng?
    Nên cuối cùng, bà chỉ viết một bức thứ ngắn ngủi với vài lời từ biệt và một bài thơ đối lại bài thơ ông Lê Duẩn đã viết tặng bà trong ngày cưới.


    Trong số những người vợ của các Ủy viên Bộ Chính trị ngày đó, chỉ có một mình bà Bảy Vân là phải rời bỏ chồng con, dấn thân vào nơi chiến trường khốc liệt nhất.
    Ở Miền Nam, cái đầu của bà Bảy Vân luôn được giặc treo thưởng. Giặc vẽ hình bà treo giữa chợ kèm theo hàng chữ: "Nguyễn Thụy Nga - tên mới là Nguyễn Thị Vân, vợ của lãnh tụ số 1 Cộng sản Bắc Việt nằm vùng"…


    Bà Bảy Vân ở chiến trường Nam bộ những năm 1960.

    Nên, lẽ thường người đàn bà xa chồng, xa con sẽ để trong ví mình bức ảnh của chồng con để ngắm nhìn mỗi khi nhung nhớ, thì thay vào đó, bà Bảy Vân để trong ví mình tấm hình của một viên sĩ quan Cộng hoà mà bà nhận là cháu ruột. Tấm hình đó đã hơn một phen cứu bà thoát chết.
    Ở U Minh, bà nhận được thư của con gái Vũ Anh viết: "Thời gian trôi đi vùn vụt nhưng sao con vẫn thấy chậm. Đã mấy cái Tết rồi mẹ con mình phải xa nhau mẹ nhỉ? Con muốn mình chóng lớn để vào Nam đánh Mỹ cùng mẹ. Nhưng con chỉ sợ con sẽ không kịp lớn nữa. Sao mẹ không đẻ con sớm vài năm, để mẹ con mình có thể cùng nhau đánh giăc?". Mà bà vẫn phải nuốt nước mắt vào lòng.
    Ở U Minh, bà bị sốt rét rừng. Nỗi nhớ con và chiến trường khốc liệt khiến bà bạc tóc. Nhưng bà không bao giờ kêu khóc. Trong bức thư gửi cho con trai Kiên Thành từ rừng U Minh, bà kẹp vào đó một con muỗi to bằng đốt ngón tay, một sợi tóc bạc và bình thản kể về cuộc sống đầy nguy hiểm và khốc liệt của mình.


    Kết hôn với một người chồng như ông Ba Duẩn, bà đã chọn cho mình một số phận khó khăn và thách thức nhất, cũng là số phận mà bà sẽ buộc phải hy sinh nhiều nhất. Mà đó cũng là những gì mà ông Ba Duẩn chờ đợi và hy vọng ở bà, như trong bức thư ông viết cho bà:
    "Người đàn bà là một linh hồn để xoa dịu những đau đớn của con người.
    Em phải là người đàn bà ấy.
    Người đàn bà là một bài thơ, một bản nhạc hay, một bông hoa tươi đẹp thơm tho, một luồng gió mát, một biển cả mênh mông.
    Em phải là người đàn bà ấy.
    Người đàn bà là người có hằng hà sa số tình thương, là người bạn tốt nhất, đẹp nhất của người chồng.
    Em phải là người đàn bà ấy…".
    Và bà đã trở thành người đàn bà ấy - vì tình yêu và sự kỳ vọng của ông Ba Duẩn.


    Khi cả khu căn cứ bị giặc càn năm 1972, đồng đội đưa cho bà một quả lựu đạn cùng với lời dặn nếu địch bắt được thì nổ lựu đạn tự sát. Ôm quả lựa đạn trong tay và đau đớn nghĩ rằng sẽ không còn cơ hội gặp lại 3 đứa con, đó là lần duy nhất trong đời bà oán trách chồng, oán trách số phận hẩm hiu, cay đắng của mình.


    Bà Bảy Vân xa chồng, xa con vào miền Nam từ năm 1964 và sống ở miền Nam cho đến tận lúc bà qua đời vào ngày 26/10/2018. Nếu tính đến lúc TBT Lê Duẩn qua đời năm 1986, cuộc hôn nhân của ông bà kéo dài 36 năm. Nhưng những ngày thực sự được sống bên nhau hạnh phúc chỉ có 3 năm ngắn ngủi. Còn hơn 30 năm sau này, thời gian mà bà được sống cạnh chồng mình chỉ tính bằng ngày – những ngày rất ít ỏi trong những lần rất hiếm hoi mà bà có thể gặp chồng trong cảnh người Nam kẻ Bắc.


    Có rất nhiều người thắc mắc, năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, tại sao TBT Lê Duẩn - người có quyền lực cao nhất lúc ấy lại không thể đưa bà Bảy Vân ra miền Bắc, để vợ chồng có thể đoàn tụ?

    Rõ ràng là ông có thể, nhưng ông đã không làm thế. Vì nếu bà Bảy Vân ra miền Bắc, thì tất cả những người còn lại trong gia đình sẽ đau khổ. Ông Lê Duẩn nói với bà: "Vì em là người có học nhất, là người đàn bà phụ nữ nhất, hiểu anh nhất, nên anh mong em có thể là người vì anh mà hy sinh nhiều nhất…".
    Năm 1948, giữa rất nhiều cô gái Nam bộ trẻ hơn, nổi bật hơn, xinh đẹp hơn, ông Lê Duẩn đã chọn bà Bảy Vân, có lẽ là vì ông cảm nhận được bà là người phụ nữ có thể vì người đàn ông của mình mà hy sinh nhiều hết mức có thể, thậm chí là tất cả những gì mình có. Như trực giác mách bảo, ông Lê Duẩn hiểu rằng, ở cạnh một người Cộng sản như ông, người phụ nữ nào cũng phải chịu đựng thiệt thòi.
    Nên khi mà cả đất nước thống nhất, những người vợ trên khắp đất nước được sum họp với chồng, gia đình đoàn tụ, thì chỉ có một mình bà Bảy Vân với cuộc hôn nhân và mối tình không bao giờ có ngày thống nhất – vẫn phải sống cảnh người Nam kẻ Bắc.
    Chỉ có mình bà, dù chồng là TBT nắm trong tay quyền lực cao nhất, nhưng giữa những ngày chiến tranh biên giới Tây Nam, bà vẫn làm việc ở Tỉnh uỷ An Giang – một trong những nơi khốc liệt nhất của cuộc chiến - giữa những cánh đồng mà đi đâu cùng đầy những xác người.
    Cả cuộc đời mình, bà chưa một lần hé răng kêu than với con cái về những thiệt thòi đó.
    Càng những năm sau này, bà Bảy Vân càng hiểu rằng, sẽ không bao giờ còn có cái ngày mà bà có thể cùng chồng mình sống dưới một mái nhà. Bà viết cho chồng một lá thư vào cuốn sổ tay ông tặng bà ngày cưới - một lá thư bà không bao giờ gửi. Đó là những dòng chữ cuối cùng trong cuốn sổ tay lưu giữ toàn bộ tình yêu của cuộc đời bà.


    Năm 1986, khi chuẩn bị Đại hội VI, ông Lê Duẩn có nói với bà Bảy Vân: "Xong việc này rồi anh sẽ về miền Nam nghỉ, ở gần em". Bà trở về miền Nam đợi chồng. Nhưng ông Lê Duẩn không bao giờ có cơ hội trở về như lời ông đã hứa. Ông mất chỉ sau đó một thời gian ngắn, khi bà không thể kịp ra miền Bắc gặp ông lần cuối.

    Khi Lê Kiên Thành - con trai ông Lê Duẩn và bà Bảy Vân trao cho tôi cuốn sổ tay của bà và toàn bộ những lá thư mà bà Bảy Vân và ông Lê Duẩn viết cho nhau trong nhiều chục năm trời, tôi đã giải đáp được phần nào một điều mà tôi băn khoăn: ông Lê Duẩn có phải là một người hạnh phúc không?
    Tôi nhận ra rằng, cuộc đời của vị TBT từng nắm quyền lâu nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản dù vinh quang nhưng không ít buồn bã - những điều mà ông chỉ có thể chôn giấu trong lòng hay tâm sự với người vợ suốt đời xa cách của mình, chứ không thể nói được với ai.
    Một buổi chiều mùa hè năm 1986, Lê Kiên Trung - con trai út của TBT Lê Duẩn lên thăm ông giữa lúc ông đang ốm bệnh. Ông nắm lấy tay con: "Ở lại đây với ba, ba cô đơn quá."!
    Ngày hôm sau, ông mất. Lúc đó, bà Bảy Vân đang ở cách xa ông 2000 cây số.

    Nội dung: Tô Lan Hương

    Thiết kế: Đỗ Linh

    Ảnh: NVCC







    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Xin các bác đặt dùm tên cho cháu trai
    By viet23 in forum Hỏi Đáp, Tư Vấn
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 06-09-2014, 02:06 PM
  2. Bé trai 2 tuổi mớm cơm cho mẹ mỗi ngày
    By thanhpv in forum Chuyện thời sự, xã hội
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 26-09-2013, 06:52 PM
  3. Nở Rộ Tin Đồn Uống Nước giếng Đẻ con Trai
    By batquantrai in forum Chuyện thời sự, xã hội
    Trả lời: 12
    Bài mới gởi: 12-11-2010, 08:44 PM
  4. Cậu bé đỏ giận anh trai thì phải làm thế nào ạ
    By alexhero in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 28-10-2010, 11:10 PM
  5. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 23-02-2008, 06:20 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •