Trích dẫn một phần trong tác phẩm "Những con đường đưa về núi Thứu" - của sư Thích Nhất Hạnh.

Thiết lập một cái ngã thường còn

Chúng ta cũng có nhu yếu thiết lập ra một cái gì đó thường còn mà mình có thể nắm giữ được. Nếu tất cả đều vô thường, đều sinh diệt trong từng giây phút như trong Phật giáo Nguyên Thủy nói thì chúng ta khó mà nắm bắt được. Những người có căn cơ, có thể nắm được giáo lý sát na diệt rất ít. Sự quyến rũ thứ hai rất mạnh: đó là muốn đi tìm một thực thể nào đó nằm ở dưới mọi chuyển biến, nó bảo đảm cho một sự liên tục để mình có thể nắm lấy.

Trước hết, Độc Tử Bộ đưa ra cái gọi là thắng nghĩa Bổ đặc già la. Nếu không có cái ngã thường còn và liên tục thì làm sao giải thích được nhân quả, nghiệp báo, tu chứng? Đó là sự hấp dẫn rất lớn. Cố gắng đầu tiên của Độc Tử Bộ là lập ra thắng nghĩa Bổ đặc già la và muốn cho đừng trái chống với giáo lý của đức Thế Tôn thì chủ trương rằng cái pudgala (person) ở đây không phải là cái ngã trong kinh Vệ đà của Ấn độ giáo. Nó là thắng nghĩa, là bất khả tư nghì, là không thể quan niệm được.

Đại Chúng Bộ sản xuất ra Căn bản thức (mula-vijñāna), Hữu Bộ có Tế ý thức, Thượng Tọa Bộ sáng tạo ra Hữu phần thức (bhavānga). Trong Pháp tướng duy thức học nó là A lại da thức (Alaya-vijñāna), trong Tam luận là giáo lý Không (sunyata), là Chân như (suchness), rồi tới Phật tính, Pháp thân và Như lai tạng. Tất cả đều là sự tìm kiếm để thiết lập ra một cái gì thường còn nằm ở chiều sâu bên dưới hiện tượng để người ta bám vào. Dù nói tới pháp thân hay phật tính hay như lai tạng hay chân như v.v.. thì người ta vẫn cho rằng cái ấy thường còn nhưng không xa lìa, không phải là cái gì ở ngoài những phiền não và những sinh diệt biến dị. Họ tìm cách để chứng minh rằng giáo lý đó vẫn trung kiên với giáo lý vô thường và vô ngã của đức Thế Tôn. Nếu chúng ta không khéo thì những quan niệm về như lai tạng, về phật tính, về chân như, về không, v.v… có thể được nhận thức như một cái ngã. Điều kỵ nhất trong Phật giáo Nguyên Thủy là cái ngã.

Kinh luận về Duy thức có nói: Thức A nà đa rất tế nhị, rất sâu sắc. Các chủng tử trong ấy trôi như một dòng nước dốc. Đối với những căn cơ tầm thường tức phàm phu thì tôi (Bụt) không muốn nói cho họ nghe vì sợ những người đó nắm lấy và chấp đó là ngã. Ngay cả Duy thức học cũng thấy nguy hiểm khi đưa ra A lại da thức, sợ người ta nắm lấy nó và chấp đó là một cái ngã.

Khuynh hướng đi tìm và nắm lấy một cái ngã là khuynh hướng rất phổ cập. Trong khi đó giáo lý căn bản của đức Thế Tôn là vô ngã. Người ta có nhu yếu phải thiết lập một cái gì đó để làm nền tảng cho nhân quả, cho nghiệp báo, cho sự chứng ngộ. Nhưng làm công việc này rất nguy hiểm. Nếu không khéo ta sẽ đi ngược lại bản hoài của đức Thế Tôn. Trong suốt lịch sử 2500 năm của Phật giáo đã có sự vật lộn và tranh đấu như thế, và có khi người ta đã đưa đạo Bụt gần tới cái gọi là thần giáo.

Trong Mật tông có quan niệm Đại Nhật Như Lai (Vairochana). Đại Nhật Như Lai trở thành gần như một vị Thượng đế. Thế giới này là sự biểu hiện của Đại Nhật Như Lai. Đó là một hình thức của thần giáo. Nó có thể đánh mất đi những nét đặc thù của Phật giáo. Đạo Phật không phải là một thần giáo.

Tại sao trong thời của đức Thế Tôn, Ngài không cần hai nhu yếu trên mà vẫn tu chứng được? Tại sao sau đó người ta lại cần đến chúng? Đó là những công án lớn mà chúng ta phải tìm cách trả lời. Hồi thời đức Thế Tôn, Ngài không có chủ ý lập ra những chủ thuyết. Ngài giảng dạy và đưa ra những phương pháp thực tập rất đơn giản và rõ ràng. Nhưng sau này càng ngày giáo lý của Ngài càng mang tính hình nhi thượng học. Người ta đã lập ra những thuyết này, thuyết kia để chứng minh cái này, cái nọ, chứng minh nhân quả rồi chứng minh luân hồi, v.v… Đó như là một sự thật tất yếu. Nếu chúng ta không thấy, không nắm được điều này thì chúng ta không mở được đường cho tương lai và sẽ đi vào dấu chân sai lầm của những người đi trước.

Bụt không phải là một vị thần linh. Bụt chỉ là một vị đạo sư và chúng ta có niềm tin nơi Ngài, nơi trí tuệ và khả năng của Ngài. Chúng ta không thờ cúng Ngài như một thần linh. Đức Thế Tôn trước hết là một con người bằng da, bằng thịt, bằng năm uẩn như chúng ta. Vì có tuệ giác cao, có từ bi lớn nên người đã trở thành một vị đạo sư. Chúng ta thương mến, cung kính bậc thầy đó của chúng ta.


===> Duy Thức Luận là một trong tám ngã luận thủ (một trong bốn thủ) trong 12 nhân duyên sinh khổ (Tập Thánh đế). Chính vì không liễu tri thức uẩn (một trong năm uẩn) mà nhiều vị có những luận thuyết về thần thức, về a lại da thức..v..v. là một cái ngã (thức) vô nhân vô duyên, tự có-hằng có, dong ruỗi, lưu chuyển (ta bà - lang thang không định hướng) trong chuổi dài sinh tử. Những vị đó cho rằng chính cái thức (thần thức a lại da - ngã) đó thọ nhân tướng, thọ giả tướng, thọ chúng sanh tướng..v..v.

Trong khi chân lý Duyên Khởi trung đạo đã được Phật tuyên thuyết nhưng lại có những vị thiếu thẩm sát tư duy và trí tuệ pháp nhãn để nhìn được bao quát sự tập khởi của các pháp (hữu) mà lại luôn cho rằng có một cái gì đó trong 5 uẩn thường hằng bất biến, thanh tịnh sáng suốt, sẵn có-hằng có nhưng lại bị che mờ? Thật là nhọc nhằn cho Đức Thế Tôn lại một lần nữa "thanh lý môn hộ" tà kiến đó ngay trong Tăng Đoàn một cách triệt để. Hy vọng các hiền hữu kham nhẫn đọc bản kinh "Đại Kinh Đoạn Tận Ái" - thuộc Trung Bộ Kinh số 38. Hoặc nghe bản audio bài kinh ấy và khéo tác ý để khởi sanh tri kiến giải thoát thanh tịnh đã được Đức Như Lai khéo thuyết khéo giảng hoàn hảo sơ thiện, trung thiện, hậu thiện một cách đầy đủ thanh tịnh có nghĩa có văn.

Đại ý bản kinh: Tỷ-kheo Sati khởi lên tà kiến, xem thức là dong ruổi luân chuyển nhưng không đổi khác. Các Tỷ-kheo khuyên Sati nên bỏ tà kiến này, nhưng không được, bèn thưa lên Đức Phật. Đức Phật cho gọi Sati đến và Sati xác nhận có nói như thế. Rồi Thế Tôn xác nhận đúng nghĩa của thức là do duyên sanh, tuỳ duyên mà có tên sai khác. Rồi Ngài đề cập đến sự có mặt, sự tập khởi, sự đoạn diệt của thức và một số vấn đề liên quan đến vấn đề này.

KÍNH TƯỞNG ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT