kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Ðề tài: SỰ TÍCH 8 PHẬT LỰC

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Cool SỰ TÍCH 8 PHẬT LỰC

    Nhận thấy bản văn về 8 cảm thắng nhiệm mầu mà sư Hộ Pháp kết tập qua nhiều năm vẫn chưa có ai in thành sách hay file pdf để tiện cho các học giả tiện in ấn, có chút thời gian nên gom các bản online trên budsas .org lại thành 1 file cho mọi người download để đọc online hoặc tiện in đóng thành sách đọc.

    8 Mẫu Phật tích từng gây cảm xúc rất mạnh cho mình khi những năm đầu mới tìm hiểu Phật pháp, mong nó sẽ là nguồn cảm hứng cho những ai từng, đã và đang đi theo con đường mà Thế Tôn giảng bày.
    Link download: https://drive.google.com/open?id=1L_...52px-7MdDoV3gb
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 01:13 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  2. #2

    Mặc định

    SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ NHẤT

    ÐỨC BỒ TÁT TOÀN THẮNG ÁC MA THIÊN


    -ooOoo-

    Ðức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên có quyền lực bậc nhất, do nhờ 30 pháp hạnh ba la mật tròn đủ.

    Trong Tăng Chi bộ kinh (Anguttaranikàya, Catukkanipàta, kinh Pannatisutta), Ðức Phật dạy có bốn chúng sinh được chế định là bậc siêu việt nhất (aggapannatti).

    - Trong tất cả chúng sinh có thân hình to lớn, chỉ có Ràhu Asurinda là thiên nam có thân hình to lớn nhất.

    - Trong tất cả chúng sinh hưởng lạc ngũ trần, chỉ có Ðức vua Mandhàtu, bậc Chuyển luân thánh

    vương, là người hưởng lạc bậc nhất.

    - Trong tất cả chúng sinh có quyền lực, chỉ có Ác Ma Thiên là thiên vương có quyền lực bậc nhất.

    - Trong tất cả loài người, vua chúa, Sa môn, Bà la môn, chư thiên, Phạm thiên toàn cõi thế giới, chỉ có Ðức Phật là bậc Vô thượng.

    Ác Ma Thiên là thiên vương có quyền lực bậc nhất ở cõi Tha hóa tự tại thiên (Paranimmitavasavatti), là tầng trời thứ sáu tột cùng của cõi trời Dục giới, y có ác tâm không muốn một chúng sinh nào giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, nên y cám dỗ bằng những miếng mồi ngũ trần của y như sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc êm ấm, hoặc danh cao, chức lớn, quyền lợi... để làm cho chúng sinh ấy say mê, đắm đuối trong sắc thân, trong cảnh giới ấy. Nếu dùng mồi cám dỗ không được, y dùng đến phép thuật, các loại vũ khí, làm cho đối phương phải khuất phục.

    SỨ MẠNG ÐỨC BỒ TÁT GIÁNG SANH

    Theo bộ Chú giải Buddhavamsa, Ðức Bồ Tát Siddhattha, tiền thân kiếp áp chót là một vị thiên nam ở cõi trời Tusita (Ðâu suất đà thiên) tên là Setaketu. Ðến thời kỳ Ðức Bồ Tát sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, nên chư thiên, Phạm thiên trong mười ngàn thế giới hội họp lại cùng nhau đến kính thỉnh Ngài tái sanh làm người, đi xuất gia để trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, tế độ chúng sinh.

    Ðức Setaketu bèn quán xét 5 điều:

    - Thời kỳ tuổi thọ con người: Khoảng 100 năm.

    - Châu để tái sanh: Nam thiện bộ châu.

    - Quốc độ tái sanh: Trung Ấn Ðộ, kinh thành Kapilavatthu.

    - Dòng dõi tái sanh: Hoàng tộc Sakya.

    - Thời gian tuổi thọ Phật mẫu: Chánh cung Hoàng hậu Mahàmayàdevì có tuổi thọ còn đúng 10 tháng lẻ 7 ngày.

    Ngài quán xét thấy đầy đủ 5 điều trên, nên nhận lời thỉnh cầu của chư thiên, Phạm thiên.

    Từ cõi trời Tusita, Ngài giáng sanh vào lòng Phật mẫu Mahàmayàdevì, Chánh cung Hoàng hậu của Ðức vua Suddhodana trị vì kinh thành Kapilavatthu, nhằm vào ngày rằm tháng sáu âm lịch. Lúc ấy, Hoàng hậu ở độ 55 tuổi 6 tháng 20 ngày, Bà mang thai tròn đúng 10 tháng. Ðến ngày rằm tháng tư âm lịch năm sau, Ngài đản sanh tại vườn Lumbini và đặt tên là Siddhattha. Ngài có đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Ðức vua Suddhodana thỉnh mời các vị thầy Bà la môn vào cung điện xem tướng cho Ngài. Có 7 vị Bà la môn đều tiên đoán rằng: "Nếu Thái tử sống tại gia sẽ trở thành bậc Chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác". Trong 7 vị ấy, Sudatta, một Bà la môn nhỏ tuổi nhất thuộc dòng Kondanna, khẳng định rằng: "Chắc chắn Thái tử sẽ xuất gia và sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác".

    Sau khi Ngài đản sanh được 7 ngày thì Hoàng hậu Mahàmayàdevì quy thiên, tái sanh lên cõi trời Tusita, trở thành một vị thiên nam tên Santussita.

    Thái tử Siddhattha trưởng thành, năm 16 tuổi, được phụ vương truyền ngôi vua và thành hôn cùng Công chúa Yasodhara, Ngài trị vì thiên hạ đem lại sự hạnh phúc an lành cho muôn dân.

    ÐỨC BỒ TÁT XUẤT GIA

    Lần đầu tiên vào ngày rằm tháng 6, Ðức vua Bồ Tát đi du ngoạn vườn Thượng uyển. Trên đường đi, bỗng nhiên Ngài nhìn thấy một người già, do chư thiên biến hóa để làm cho Ngài phát sanh động tâm (samvega). Thật vậy, Ngài chưa từng nhìn thấy người già như thế bao giờ, cho nên Ngài suy tư: "Chắn chắn ta cũng có sự già như thế, không thể tránh khỏi sự già được", nỗi ưu tư tràn ngập trong lòng, không còn muốn đi nữa, Ngài truyền bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.

    Lần thứ nhì, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 10, Ðức vua lại đi du ngoạn vườn Thượng uyển. Trên đường đi, lần này Ngài nhìn thấy một người bệnh, cũng do chư thiên biến hóa. Cũng như lần trước, Ngài suy tư: "Chắc chắn ta cũng có sự bệnh như thế, không thể tránh khỏi sự bệnh được", tâm trạng u buồn, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.

    Lần thứ ba, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng hai, để vơi bớt nỗi buồn, Ðức vua lại muốn đi du ngoạn vườn Thượng uyển. Trên đường đi, bất chợt Ngài nhìn thấy một người chết, cũng do chư thiên biến hoá. Cũng như hai lần trước, Ngài suy tư: "Chắc chắn ta cũng có sự chết như thế, không thể tránh khỏi sự chết được", nỗi lo sợ phát sanh trong lòng, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.

    Từ đó, Ðức Bồ Tát lúc nào cũng suy tư về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài tự hỏi, có con đường nào giải thoát sự già, sự bệnh, sự chết hay không? Sở dĩ có sự già, sự bệnh, sự chết là vì có sự tái sanh. Ôi! Sự tái sanh đáng kinh sợ thật!

    Lần thứ tư, sau 4 tháng, vào ngày rằm tháng sáu, để khuây khỏa nỗi u buồn, lo sợ trong lòng, một lần nữa, Ðức vua đi du ngoạn vườn Thượng uyển. Trên đường đi, Ngài nhìn thấy một Bậc xuất gia đang tĩnh tọa dưới cội cây tỏ vẻ an nhiên tự tại, cũng do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài nghĩ đến việc xuất gia. Thật vậy, khi Ðức Bồ Tát nhìn thấy Bậc xuất gia liền trút bỏ mọi nỗi ưu tư nặng trĩu trong lòng về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài quyết định xuất gia ngay đêm ấy để tìm con đường giải thoát sự tái sanh, là giải thoát khổ lão, bệnh, tử.... Hôm ấy, Ðức Bồ Tát cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên Ngài vẫn tiếp tục đi du lãm vườn Thượng uyển.

    Khi Ðức Bồ Tát hồi cung, trong đêm ấy nghe tin Hoàng hậu Yasodhara hạ sanh Hoàng tử, tình thương con trỗi dậy trong lòng, Ngài than rằng: "Sự ràng buộc lớn!". Do đó, Hoàng tử được đặt tên là "Ràhula". Mặc dù vậy, chí nguyện xuất gia của Ðức Bồ Tát vẫn không thay đổi, đêm ấy Ngài đến tìm Channa, người cận thần thân tín, bảo:

    "Này Channa, đêm nay ta sẽ rời hoàng cung đi xuất gia, ngươi hãy sửa soạn cho ta con ngựa Kandaka ngay bây giờ, không cho một ai hay biết".

    Bỗng nhiên Ngài thoáng nghĩ: "Trước khi xuất gia, ta nên đến nhìn mặt Hoàng nhi". Ngài lén vào phòng Hoàng hậu Yasodhara, dưới ánh đèn mờ nhạt, Hoàng hậu đang nằm nghiêng, choàng cánh tay trái qua Hoàng tử, vì đứng đằng sau nên không thể nhìn rõ mặt, Ngài thầm nghĩ: "Nếu ta đến gần e Hoàng hậu sẽ thức giấc làm trở ngại việc xuất gia của ta trong đêm nay. Bây giờ ta chưa nhìn thấy mặt hoàng nhi, thì chờ sau khi ta chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, ta sẽ trở về gặp sau cũng không muộn".

    Ðức Bồ Tát nhẹ nhàng bước ra, lên ngựa Kandaka, còn Channa theo sau, vào lúc nửa đêm ngày rằm tháng sáu âm lịch, trốn khỏi hoàng cung đi xuất gia. Mỗi vó ngựa đều có bàn tay chư thiên nâng đỡ, không phát ra một tiếng động, nên không một ai hay biết. Ðến cửa thành có chư thiên mở cửa cho ngựa Kandaka phi nhanh qua.

    ÁC MA THIÊN CẢN TRỞ ÐỨC BỒ TÁT XUẤT GIA

    Khi Ðức Bồ Tát ra khỏi thành, Ác Ma Thiên ở cõi Tha hoá tự tại thiên biết rõ chí nguyện xuất gia của Ngài, sợ rằng nếu Ngài trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì không chỉ riêng Ngài giải thoát cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, mà Ngài còn tế độ chúng sinh khác cũng giải thoát như Ngài. Như vậy, họ sẽ giải thoát quyền lực của y, nên Ác Ma Thiên tìm cách cản trở việc xuất gia của Ðức Bồ Tát.

    Ác Ma Thiên liền hiện xuống cản đường Ðức Bồ Tát thưa rằng: "Kính thưa bậc Thượng nhân, xin Ngài đừng vội xuất gia, Ngài nên trở lại hoàng cung vì chỉ còn 7 ngày nữa Ngài chắc chắn sẽ trở thành bậc Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu lớn, hai ngàn châu nhỏ, có đầy đủ thất báu: xe báu, ngựa báu, voi báu, ngọc ma ni báu, Hoàng hậu báu, phú hộ báu, tể tướng báu, thọ hưởng lạc thú ở cõi đời. Thưa Ngài".

    Ðức Bồ Tát hỏi rằng:

    - Ngươi là ai mà dám cản đường ta.

    Ác Ma Thiên tâu rằng:

    - Tâu bậc Thượng nhân, quả nhân là Ma vương (Màra) ở cõi Tha hoá tự tại thiên.

    - Này Ác Ma Thiên, những điều ngươi nói ta đã biết rõ, nhưng ta không cần trở thành bậc Chuyển luân thánh vương, ta chỉ mong trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác để tế độ chúng sinh, giải thoát cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Này Ác Ma, hãy tránh ra, ngươi không thể cản được ta đâu!

    Ác Ma Thiên không thuyết phục được Ðức Bồ Tát, nên kể từ ngày ấy, luôn luôn theo dõi, cố tìm chỗ sơ hở, nhược điểm của Ðức Bồ Tát để ngăn cản Ngài.

    Ðêm rằm tháng sáu, ánh trăng sáng tỏ lạ thường, chư thiên lại còn dùng hào quang của mình làm ánh sáng soi đường cho Ngài, ánh hào quang lan rộng khắp toàn thế giới, trên mặt đất các loài hoa nở rộ, toả ra mùi hương thơm ngát, trên hư không, chư thiên rải đầy hoa manda, vật thơm và các nhạc cụ ở cõi trời trỗi lên, những khúc nhạc du dương trầm hùng... để cúng dường Ðức Bồ Tát. Ngài đi qua xứ Sakya, Koliya và Malla khoảng 30 do tuần, chỉ trong một đêm, đến bờ sông Anomà, Ngài ra hiệu cho ngựa Kandaka và vị cận thần cùng bay qua bên kia sông. Xuống ngựa, Ngài bảo Channa rằng:

    - Này Channa, ta sẽ làm lễ xuất gia tại nơi đây, còn con hãy đem những đồ trang phục và ngựa Kandaka của ta trở về hoàng cung tâu cho phụ hoàng ta biết.

    Channa lưu luyến với Ngài tâu:

    - Tâu thánh thượng, xin Ngài cho phép kẻ hạ thần này được xuất gia cùng Ngài.

    Ngài không cho phép Channa xuất gia, rồi truyền lệnh đem tất cả đồ trang phục trở về hoàng cung trình cho Ðức vua Suddhodana biết. Vị cần thần tuân lệnh, cúi đầu xin phép lên đường. Khi ấy, Ngài dùng thanh kiếm báu cạo sạch râu, cắt tóc ngắn độ còn hai lóng tay, cắt xong, phần tóc còn lại, tự xoắn theo vòng xoáy khu ốc sang bên phải nằm sát trên da đầu. Chỉ một lần ấy thôi, từ đó về sau suốt cả cuộc đời, Ngài không phải cắt tóc, cạo râu nữa.

    Sau khi cắt xong, Ngài cầm nắm tóc trên tay phát nguyện: "Nếu tôi sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì xin cho nắm tóc này ở trên hư không; nếu tôi không thể trở thành Bậc Chánh Giác, thì nắm tóc này sẽ rơi xuống đất".

    Ngài ném nắm tóc lên. Thật phi thường thay! nắm tóc bay thẳng lên hư không khoảng một do tuần rồi ở nguyên một chỗ, Ðức vua trời Sakka đem hộp bằng ngọc đựng nắm tóc của Ngài để tôn thờ nơi ngôi bảo tháp Cùlamani tại cung Tam thập tam thiên.

    Khi ấy, vị Ðại Phạm thiên Ghatikàra là bạn thân cũ của tiền thân Ngài trong thời kỳ Ðức Phật Kassapa, biết Ngài hôm nay xuất gia nên đem 8 món đồ dùng của Sa môn đến kính dâng Ngài. Ngài mặc y cà sa màu lõi mít xuất gia trở thành Tỳ khưu.

    ÐỨC BỒ TÁT THỌ GIÁO PHÁP HÀNH THIỀN ÐỊNH

    Ngài tìm đến vị Ðạo sư Àlàra Kàlàmagotta xin thọ giáo, vị Ðạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài rồi truyền dạy pháp môn thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc năm bậc thiền hữu sắc và chứng đắc đến đệ tam thiền vô sắc gọi là Vô sở hữu xứ thiền (Akincannàyatanajjhàna), ngang bằng với bậc thiền mà vị Ðạo sư Àlàra Kàlàmagotta đã chứng đắc.

    Vị Ðạo sư tán dương, ca tụng Ngài:

    - Tôi đã chứng đắc đến bậc thiền vô sắc nào, hiền giả cũng chứng đắc đến bậc thiền vô sắc ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô sắc nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô sắc ấy.

    Này Hiền giả, từ nay hai chúng ta cùng nhau làm Ðạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.

    Ngài nghĩ rằng: "Bậc đệ tam thiền vô sắc Vô sở hữu xứ thiền này sẽ cho quả tái sanh lên cõi phạm thiên vô sắc giới, Vô sở hữu xứ thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 60.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sanh, lão, bệnh, tử luân hồi trong tam giới".

    Ðức Bồ Tát không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Ngài xin từ giã vị Ðạo sư Àlàra Kàlàmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác hầu mong giải thoát khổ sanh, lão, bệnh, tử.

    Sau khi từ giã vị Ðạo sư Àlàra Kàlàmagotta, Ngài tìm đến vị Ðạo sư Udaka Ràmaputta xin thọ giáo, vị Ðạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài rồi truyền dạy pháp môn thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc 5 bậc thiền hữu sắc và chứng đắc đệ tứ thiền vô sắc gọi là "Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền" (Nevasannànàsannàyatanajjhàna), là bậc thiền tột cùng của thiền vô sắc giới, ngang bằng với bậc thiền mà vị Ðạo sư Udaka Ràmaputta đã chứng đắc.

    Vị Ðạo sư tán dương ca tụng Ngài rằng:

    - Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột cùng nào, hiền giả cũng chứng đắc bậc thiền vô sắc tột cùng ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô sắc tột cùng nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột cùng ấy.

    Này Hiền giả, tôi xin thỉnh hiền giả làm Ðạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.

    Ngài suy xét rằng: "Bậc đệ tứ thiền vô sắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền này sẽ cho quả tái sanh lên cõi trời Phạm thiên vô sắc giới, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sanh, lão, bệnh, tử luân hồi trong tam giới".

    Ngài xin từ giã Ðạo sư Udaka Ràmaputta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sanh, lão, bệnh, tử.

    ÐỨC BỒ TÁT HÀNH KHỔ HẠNH

    Từ giã vị Ðạo sư Udaka Ràmaputta, Ðức Bồ Tát đi đến khu rừng Uruvela gần con sông Neranjarà, nơi đây có nhóm năm Tỳ khưu, Ngài Kondanna trưởng nhóm cùng với các Ngài Vappa, Ngài Bhaddhiya, Ngài Mahànàma và Ngài Assaji xin theo hộ độ Ðức Bồ Tát.

    Ðức Bồ Tát tinh tấn hành pháp khổ hạnh (Dukkaracariyà), phương pháp nín thở ra - vô bằng miệng và mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai, rồi tiếp tục nín thở ra

    - vô bằng miệng, bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi phát nóng toàn thân kinh khủng đến nỗi làm cho Ngài chết ngất.

    Có số chư thiên tưởng rằng: "Sa môn Gotama đã chết rồi". Số khác tưởng rằng: "Sa môn Gotama đang gần chết!". Số khác cho rằng: "Sa môn Gotama không phải chết, cũng không phải đang gần chết, mà Sa môn Gotama đang hành pháp bậc Thánh Arahán".

    ÁC MA THIÊN KHUYÊN ÐỨC BỒ TÁT

    Trước đây Ác Ma Thiên đã từng cản trở Ðức Bồ Tát đi xuất gia không được, từ đó ngày đêm y vẫn theo dõi Ðức Bồ Tát hòng tìm lỗi lầm của Ngài nhưng vẫn chưa thấy, dù một lỗi nhỏ, chỉ thấy Ngài có chí kiên trì, có tánh cương quyết tinh tấn không thoái chí, như vậy không sớm thì muộn chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Ác Ma Thiên nghĩ rằng:

    "Tốt hơn hết, ta nên kịp thời cản trở việc chứng đắc của Ðức Bồ Tát".

    Ác Ma Thiên liền hiện xuống khu rừng Uruvela bạch rằng:

    - Thưa Ðức vua Siddhattha, Ngài quyết chí tinh tấn hành khổ hạnh như vậy chỉ tự làm khổ mình, rồi cũng chẳng biết chết lúc nào.

    Thưa Ðức vua Siddhattha, xin Ngài bảo trọng sanh mạng, sự sống lâu là điều tốt, nhờ sống lâu, Ngài còn có cơ hội tạo mọi thiện pháp như bố thí, giữ giới, thờ cúng thần lửa, hành thiền định.... Sự hành khổ hạnh của Ngài chẳng có lợi ích gì, chỉ tự làm khổ thân mình mà thôi.

    Nghe lời tha thiết đầy lòng thương hại của Ác Ma Thiên, Ngài từ tốn đáp lại rằng:

    - "Này Ác Ma Thiên, Ngươi không muốn một ai giải thoát khổ trong vòng tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài, vì vậy, Ngươi luôn luôn tìm mọi cách cản trở việc tu hành giải thoát khổ của ta.

    Này Ác Ma Thiên, Ngươi ca tụng mọi thiện pháp là thứ thiện nghiệp ấy còn cho quả tái sanh, hễ còn tái sanh là còn phải chịu bao nhiêu cảnh khổ.

    Này Ác Ma Thiên, ngươi chẳng bao giờ lung lạc được chí nguyện của ta đâu. Dầu thân ta chỉ còn da bọc xương, máu huyết khô cạn, khi ta chưa chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, ta vẫn chưa chịu từ bỏ sự tinh tấn hành đạo".

    Một lần nữa, Ác Ma Thiên thất bại.

    Ngài tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật thực chỉ vừa lòng bàn tay, từ từ giãm xuống chỉ còn bằng hạt sen.... Do đó, kim thân của Ngài gầy ốm còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng thì đụng phải đường xương sống. Trước kia kim thân của Ðức Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp với làn da màu vàng sáng ngời, đến nay các tướng tốt và vẻ đẹp đã biến mất còn làn da trở thành màu đen sẫm.

    Một hôm Ðức Bồ Tát suy xét: "Ta đã hành pháp khổ hạnh đến chỗ cùng tột rồi. Trong quá khứ, chưa từng có Sa môn, Bà la môn nào đã hành pháp khổ hạnh đến mức như ta đang hành. Hiện tại và vị lai cũng không có Sa môn, Bà la môn nào có thể hành pháp khổ hạnh như ta, thế mà ta không thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Như vậy, chắc chắn phải còn có một pháp hành nào khác".

    Ngài đã hành pháp khổ hạnh ròng rã suốt 6 năm trường mà vẫn chưa chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Ngài hồi tưởng lại khi còn nhỏ cùng phụ vương ra đồng làm lễ hạ điền, phụ vương để Ngài ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây Trâm, Ngài đã niệm về đề mục hơi thở vô - ra và đã chứng đắc đệ nhất thiền hữu sắc. Như vậy, chắc chắn pháp hành thiền định này làm nền tảng, đưa đến sự chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác cũng nên!

    Sau đó, Ngài suy xét tiếp rằng: "Bây giờ thân thể ta gầy ốm, sức khỏe yếu đuối, ta không thể tiến hành thiền định đề mục niệm hơi thở, vậy điều tốt hơn hết, ta nên độ vật thực trở lại cho có sức khoẻ rồi mới có thể tiến hành thiền định được".

    Quyết định như vậy xong, Ðức Bồ Tát mang bát vào xóm Senà đi khất thực, thọ thực được ít lâu, sức khỏe Ngài được hồi phục trở lại, kim thân của Ngài lại hiện rõ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, và làn da trở lại màu vàng sáng ngời như trước.

    Canh chót, vào đêm 14 tháng 4 âm lịch, Ngài nằm thấy năm đại mộng, qua năm đại mộng này, Ngài đoán biết mình chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác.

    Sáng hôm rằm tháng tư âm lịch, Ngài đi đến ngồi dưới gốc cây Da chờ đến giờ đi vào xóm khất thực.

    Tại nơi đây hằng năm vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujàtà thường đem lễ vật đến cúng dường, tạ ơn chư thiên, theo lời nguyện của nàng.

    Nàng Sujàtà là con gái của ông phú hộ Mahàsena ở làng Senà gần khu rừng Uruvela, khi nàng trưởng thành có đến tại gốc cây Da này cầu nguyện rằng:

    "Kính thưa chư thiên tại nơi đây, nếu tôi có chồng cùng dòng Bà la môn và có đứa con trai đầu lòng, thì hằng năm, vào ngày rằm tháng tư, tôi sẽ đem cơm nấu bằng sữa bò đến đây cúng dường quý Ngài".

    Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý, cho nên hằng năm vào ngày rằm tháng tư, nàng đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn chư thiên.

    Từ sáng sớm, nàng Sujàtà thức dậy vắt sữa tinh khiết tám con bò, khi nàng đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, dòng sữa chảy ra một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt bảy con bò còn lại, dòng sữa cũng chảy một mạch như vậy. Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu cơm, nước sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào chảy tràn ra bên ngoài, còn lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên. Sở dĩ, có những việc lạ thường như vậy, là vì sáng nay có Tứ đại thiên vương trông coi lò lửa, vua trời Sakka lấy củi bỏ vào lò, vua trời Phạm thiên che dù, tất cả chư thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của mình bỏ vào nồi cơm sữa.

    Nàng Sujàtà gọi tớ gái tên Punnà bảo rằng:

    - Này Punnà, hôm nay chư thiên của ta thật đáng kính, trước đây ta chưa từng chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế này!

    Con hãy mau đến cội cây Da quét dọn cho sạch sẽ, để chúng ta mang cơm sữa đến dâng cúng, tạ ơn chư thiên.

    Người tớ gái Punnà vâng lời đến gốc cây Da để quét dọn, cô nhìn thấy Ðức Bồ Tát đang ngồi quay mặt về hướng Ðông, từ kim thân của Ngài phát ra hào quang sáng ngời toả khắp quanh vùng, cô nghĩ rằng:

    "Sáng hôm nay, vị Thiên thần của chúng ta hiện xuống ngồi đợi thọ nhận cơm sữa cúng dường", nên cô vô cùng hoan hỷ vội vàng trở về báo tin mừng cho bà chủ biết.

    Nàng Sujàtà nghe lời tường trình rõ ràng của người tớ gái, trong lòng cảm thấy vui mừng khôn xiết và bảo rằng:

    - Này Punnà, kể từ hôm nay con trở thành con gái lớn của ta. Nói xong, nàng ban cho những đồ trang sức quý giá, xứng đáng với địa vị con gái lớn của mình.

    Nàng Sujàtà đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm, cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn tuần tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt thì vừa đầy.

    Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng lấy một chiếc mâm khác đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh.

    Hôm ấy, nàng Sujàtà trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá rồi đội mâm cơm sữa cùng người con gái lớn Punnà đi theo sau đến gốc cây Da. Nhìn thấy Ðức Bồ Tát có đầy đủ tướng tốt và các vẻ đẹp, hào quang tỏa ra từ kim thân của Ngài sáng khắp vùng, làm cho nàng phát sanh đức tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ chưa từng có bao giờ, vì nàng tưởng rằng Ngài là một vị thiên nam hiện xuống thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng.

    Nàng Sujàtà cung kính đến gần Ðức Bồ Tát, đặt chiếc mâm vàng đầy cơm sữa cùng bình nước, hoa quả, vật thơm... cung kính dâng lên Ngài, cái bát của Ngài bỗng nhiên biến mất, nên Ngài đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật quý giá rồi nhìn nàng Sujàtà. Nàng liền bạch rằng:

    "Kính bạch Ðức thiên thần, con thành kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này, kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài; con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng toại nguyện như thế ấy". Nàng Sujàtà vô cùng hoan hỷ. Sau khi thọ nhận xong, Ngài đứng dậy rời gốc cây Da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Neranjarà, nơi mà chư Bồ Tát quá khứ trước khi chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác cũng đều ngự đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supatitthita; Ngài đặt mâm ở bến Supatitthita, rồi xuống dòng sông Neranjarà tắm. Khi tắm xong, Ngài mặc y cà sa tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh Arahán; đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Ðông, độ hết 49 vắt cơm, rồi uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ (49 ngày), Ðức Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát Niết Bàn).

    Sau khi độ cơm xong, Ngài cầm chiếc mâm vàng phát nguyện rằng:

    "Nếu hôm nay ta được chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không, thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước".

    Nguyện xong, Ngài ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông. Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt dòng nước đang chảy trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, một đoạn khá xa, chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của ba Ðức Phật quá khứ là Ðức Phật Kakusandha, Ðức Phật Konàgamana và Ðức Phật Kassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kàlanàga tỉnh giấc nghĩ rằng: "Hôm qua một Ðức Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Ðức Phật nữa xuất hiện", rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ.

    Trưa hôm ấy, Ngài nghỉ trong một khu rừng Sàla, những cây Sàla đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng, bên bờ sông Neranjarà. Buổi chiều Ngài ngự đến cội cây Assattha, dọc theo hai bên đường, chư thiên trang hoàng những đoá hoa trời rất xinh đẹp, các hàng chư thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng sinh. Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược chiều lại phía Ngài, nhìn thấy Ngài, liền phát sanh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ, Ngài cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha.

    Khi đứng hướng Nam của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avìci, còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc giới Phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng: "Ðây không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác". Ngài ngự đi sang hướng khác.

    Khi đứng hướng Tây của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Ðông, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Tây bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avìci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Ðông được nổi lên đến cõi trời sắc giới Phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng: "Ðây cũng không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác". Ngài ngự sang hướng khác.

    Khi đứng hướng Bắc của cội cây, Ngài nhìn thẳng hướng Nam, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Bắc bị chìm sâu xuống điạ ngục Avìci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Nam được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh, Ngài nghĩ rằng: "Ðây cũng không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác". Ngài ngự sang hướng khác.

    Sau cùng, đứng hướng Ðông của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Tây, thật phi thường thay! Ngài có cảm giác toàn cõi thế giới thăng bằng, Ngài nghĩ rằng: "Chính đây là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác". Ngài trải tám nắm cỏ tại hướng Ðông của cội Assattha. Thật phi thường thay! ngay khi ấy trở thành ngôi bồ đoàn quý báu, có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một bồ đoàn tuyệt đẹp như vậy! Bởi vì ngôi bồ đoàn quý báu này phát sanh do phước báu ba la mật tròn đủ của Ðức Bồ Tát sắp trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác.

    Ngài ngồi kiết già vững vàng trên ngôi bồ đoàn quý báu, quay mặt về hướng đông rồi phát nguyện rằng:

    "Dầu cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dầu sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, ta quyết không bao giờ rời khỏi bồ đoàn này".

    ÁC MA THIÊN TRANH GIÀNH NGÔI BỒ ÐOÀN

    Từ lâu, Ác Ma Thiên vẫn luôn luôn theo dõi để tìm cách cản trở việc hành đạo của Ðức Bồ Tát, bằng lời nói, cả hai lần đều thất bại, vì không thể làm cho Ðức Bồ Tát thoái chí. Nay Ác Ma Thiên nhìn thấy bồ đoàn quý báu hiện lên và nghe lời phát nguyện từ lòng quyết tâm đanh thép của Ðức Bồ Tát, y cảm thấy rúng động thật sự. Bây giờ đã đến giai đoạn quyết liệt, Ác Ma Thiên tự nghĩ: "Ta đã dùng địa vị của bậc Chuyển luân thánh vương để cám dỗ cũng thất bại và đã dùng lời ân cần tha thiết khuyến dụ cũng không làm lay chuyển được Sa môn Gotama. Bây giờ chỉ còn cách duy nhất là dùng sức mạnh của chúng thiên ma và những loại phép thuật lợi hại của ta để đánh đuổi Sa môn Gotama, quyết tranh giành ngôi bồ đoàn quý báu ấy về cho ta mà thôi".

    Thế rồi, Ác Ma Thiên huy động toàn bộ lực lượng thiên ma binh, thiên ma tướng hùng hậu, trang bị tất cả mọi khí giới hình thù quái dị, kinh khủng nhất, rầm rộ rời khỏi Tha hoá tự tại thiên. Ác Ma Thiên cưỡi voi Girimekhala đi đầu, hoá ra ngàn cánh tay đều cầm khí giới khác nhau, cùng chúng thiên ma hiện xuống vây chặt xung quanh cội Assattha, kéo dài 12 do tuần, bên trên hư không dày đặc 9 do tuần, chúng la hét, âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi.

    Vừa rồi có 10 ngàn thế giới chư thiên, chư Phạm thiên đến cung kính cúng dường, tán dương ca tụng Ðức Bồ Tát như vua trời Sakka thổi còi Vijayutara, Long vương Mahàkàla tán dương Ðức Bồ Tát hàng trăm bài kệ, vị trời Ðại Phạm thiên cầm lọng vàng che cho Ngài... nhưng khi thoáng thấy Ác Ma Thiên cùng với thiên ma binh trùng trùng điệp điệp, từng đoàn, từng lớp hiện xuống, tất cả chư thiên, Phạm thiên đều bay xa lánh mặt, vua trời Sakka bay thật xa đứng nhìn, Long vương Mahàkàla chạy về long cung, vị trời Ðại Phạm thiên trở về cõi trời sắc giới, chư thiên, chư Phạm thiên đều bay về chỗ ở của mình, thế là chẳng còn một chư thiên, Phạm thiên nào ở lại, chỉ còn một mình Ngài đang điềm nhiên ngự trên ngôi bồ đoàn.

    Ác Ma Thiên lớn tiếng hét vang, truyền lịnh cho bộ hạ rằng:

    - "Này hỡi chúng thiên binh, thiên tướng, Sa môn Gotama có oai lực phi thường, không có ai dám sánh, các ngươi chớ khá xem thường, hãy chờ lệnh của ta. Bây giờ, chính tự tay ta quyết chiến với Sa môn Gotama".

    Ðức Bồ Tát nhìn chung quanh không một chư thiên, Phạm thiên nào còn ở lại, Ngài chỉ thấy Ác Ma Thiên cỡi voi Girimekhala, có cả ngàn cánh tay cầm đủ tất cả khí giới cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng hùng hậu với tất cả các loại khí giới cực kỳ nguy hiểm, bao vây quanh Ngài.

    Ngài nghĩ rằng: "Ác Ma Thiên đem chúng thiên ma hùng hậu với mục đích mong chiến thắng chỉ một mình ta, tại nơi đây ta không có cha mẹ, anh em bà con thân quyến nào cả, ta chỉ có 30 pháp hạnh ba la mật xem như là những bộ hạ thân tín, mà ta đã tạo nên và nuôi dưỡng trưởng thành suốt thời gian lâu dài trải qua vô số kiếp. Bây giờ ta phải sử dụng đến những pháp hạnh ba la mật này như là những đội quân thiện chiến bảo vệ ta, chúng cũng là tấm giáp an toàn chống đỡ lại phép thuật của Ác Ma Thiên". Ngài quán tưởng đến 30 pháp hạnh ba la mật xong, Ngài vẫn điềm tỉnh ngự trên ngôi bồ đoàn quý báu.

    CUỘC CHIẾN CỦA ÁC MA THIÊN

    Ðầu tiên Ác Ma Thiên dùng phép thuật cuồng phong bão tố, với ý nghĩ làm cho Sa môn Gotama sợ hãi rời bỏ ngôi bồ đoàn mà chạy trốn. Y liền hoá phép nổi lên trận cuồng phong bão tố khủng khiếp, sức gió mạnh mẽ phát xuất từ mọi hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc. Trận cuồng phong bão tố này không những bứng trốc cả rừng cây đại thọ, tiêu hủy xóm làng, mà còn có khả năng bạt đi cả bảy quả núi dài 3 do tuần.

    Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận cuồng phong bão tố kia, khi đến gần Ngài liền tan biến mất, không thể làm cho chéo y của Ngài lay động.

    Thật là một điều phi thường! Ban đầu Ác Ma Thiên vô cùng ngạc nhiên, sau y đùng đùng nổi giận, tức khắc sử dụng phép thuật thứ nhì đó là nước lụt để làm cho Ðức Bồ Tát chết đuối. Y hoá phép một trận mưa lớn như thác đổ, cuồn cuộn tràn đầy hồ ao, sông núi, dâng ngập mặt đất, dâng cao đến ngọn cây, rồi dâng đến đỉnh núi để ngập chìm Ngài.

    Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận lụt lớn kia bỗng nhiên hóa ra vô hiệu, không còn một hạt nước mưa nào có thể làm thấm ướt được chéo y của Ngài. Y càng thêm tức giạän liền sử dụng loại phép thuật thứ ba đó là mưa đá than hồng để thiêu đốt Ðức Bồ Tát. Y hoá phép làm một trận mưa đá than hồng cháy đỏ hừng hực liên miên, bất tận rơi trút xuống kim thân Ngài.

    Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, những cục đá than hồng kia lại biến thành những đoá hoa trời màu sắc xinh đẹp nhẹ nhàng rơi xuống xung quanh Ngài.

    Y vô cùng tức tối, liền sử dụng loại phép thuật thứ tư đó là trận mưa vũ khí để giết chết Ðức Bồ Tát. Y hoá phép những loại vũ khí sắc bén như gươm, giáo, răng cưa, móc nhọn... tua tủa rơi từ hư không đâm xuống chỗ Ngài.

    Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, những loại vũ khí sắc bén kia lại biến thành những đoá hoa trời, những báu vật rơi rải rác xung quanh Ngài.

    Y giận lồng lộn lên, ngay tức khắc sử dụng loại phép thuật thứ năm đó là trận mưa lửa than để thiêu đốt Ðức Bồ Tát. Y hoá phép trận mưa lửa than đỏ rực cả vùng trời phủ xuống kim thân Ngài.

    Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận mưa lửa than kia lại biến thành chùm pháo hoa cõi trời đẹp mắt rơi xuống xung quanh Ngài.

    Y bây giờ giận dữ điên cuồng, sử dụng loại phép thuật thứ sáu đó là trận mưa tro nóng để thiêu rụi Ðức Bồ Tát. Y hoá phép trận mưa tro nóng rơi xuống chỗ Ngài.

    Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận mưa tro nóng kia lại biến thành bột trầm cõi trời thơm ngát rơi rải rác xuống xung quanh Ngài.

    Ác Ma Thiên sử dụng loại phép thuật thứ bảy đó là vũ khí mưa cát mịn có độ nóng kinh khủng để thiêu hủy Ðức Bồ Tát. Y hoá phép trận mưa cát mịn rơi xuống chỗ Ngài.

    Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận mưa cát mịn kia lại biến thành vật thơm cõi trời ngào ngạt rơi rải rác xung quanh Ngài.

    Ác Ma Thiên sử dụng loại phép thuật thứ tám đó là trận mưa bùn có độ nóng khủng khiếp để thiêu hoại Ðức Bồ Tát. Y hoá phép trận mưa bùn rơi xuống chỗ Ngài.

    Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận mưa bùn kia lại biến thành vật thoa trời mát dịu rơi rải rác xuống xung quanh Ngài.

    Ác Ma Thiên tức giận điên cuồng, khi dùng các loại phép thuật giết hại mà không có hiệu quả; nên y thay đổi chiến thuật sử dụng loại phép thuật thứ chín đó là không gian tối tăm như mực để làm cho Ðức Bồ Tát kinh sợ bỏ chạy, y hoá phép làm cho không gian tối đen mù mịt.

    Do oai lực ba la mật từ kim thân Ngài phát ra hào quang tỏa rộng như vầng thái dương sáng tỏ, làm tan biến bóng tối đen như mực kia ngay tức khắc.

    Thế là Ác Ma Thiên đã sử dụng hết chín loại phép thuật lợi hại: cuồng phong, bão tố, nước ngập lụt, mưa đá than hồng, mưa vũ khí, mưa lửa than, mưa tro nóng, mưa cát nóng, mưa bùn nóng và không gian tối mịt... nhưng Ðức Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại ngự trên ngôi bồ đoàn quý báu, bất khả xâm phạm. Bị thất bại chua cay, biết là chẳng thể nào làm cho Ðức Bồ Tát từ bỏ ngôi bồ đoàn, nhưng Ác Ma Thiên vẫn tỏ ra oai vệ dõng dạc hét lớn truyền lệnh chúng thiên ma rằng:

    - Các ngươi hãy tấn công vào bắt Sa môn Gotama, hãy đánh đuổi Sa môn Gotama ra khỏi ngôi bồ đoàn kia.

    Ác Ma Thiên la hét thật lớn, nhưng chẳng có ma quân, ma tướng nào dám cả gan xông đến gần, bởi do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát.

    Ác Ma Thiên vẫn chưa chịu thất bại, ngồi trên lưng voi Girimekhala đưa tay chỉ vào Ðức Bồ Tát nói như ra lệnh:

    - Này Sa môn Gotama, ông hãy mau mau rời khỏi chỗ ấy, vì ngôi bồ đoàn ấy là của ta!

    Ðức Bồ Tát từ tốn đáp:

    - Này Ác Ma Thiên, ngôi bồ đoàn quý báu này phát sanh do phước báu của 30 pháp ba la mật, năm hạnh đại thí, ba pháp hành mà Như Lai đã tạo từ vô số kiếp. Như vậy ngôi bồ đoàn này thuộc về của Như Lai, không phải của ngươi. Khi chưa chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì Như Lai vẫn chưa thể rời khỏi ngôi bồ đoàn quý báu này.

    VŨ KHÍ CUỐI CÙNG

    Ðức Bồ Tát nói như vậy, Ác Ma Thiên vô cùng giận dữ đến phát điên, liền sử dụng phép thuật vũ khí vòng sắt cực kỳ nguy hiểm, quyết sát hại Ðức Bồ Tát.

    Ðây là một đòn trí mạng cuối cùng. Nếu chiếc vòng sắt ấy ném xuống đất, thì mặt đất bị thiêu hủy suốt 12 năm không có cỏ cây nào mọc được. Nếu chiếc vòng sắt ấy ném lên hư không, thì suốt 12 năm trường không có một giọt mưa nào rơi xuống. Nếu chiếc vòng ấy ném vào núi Sineru (Tu di sơn), thì núi ấy bị cắt làm đôi.

    Với ý chí quyết thắng Ðức Bồ Tát, với ác tâm sát hại chúng sinh, Ác Ma Thiên ném vũ khí vòng sắt lên hư không phát ra tiếng sấm sét vang trời, đồng thời ra lệnh thiên ma binh, thiên ma tướng xô đẩy những quả núi lớn xuống nơi Ðức Bồ Tát đang ngự trên bồ đoàn.

    Ác Ma Thiên nghĩ là mình sẽ chiến thắng, nếu Sa môn Gotama không từ bỏ ngôi bồ đoàn kia, thì thân xác ông ta sẽ bị nghiền nát.

    Tất cả chư thiên, chư Phạm thiên từ xa khi nhìn thấy phép thuật vũ khí vòng sắt của Ác Ma Thiên được ném ra, một số vô cùng lo ngại cho sanh mạng của Ðức Bồ Tát, một số khác tin rằng do oai lực 30 pháp hạnh ba la mật tròn đủ của Ngài, sắp chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì không có một loại phép thuật vũ khí nguy hiểm nào có thể sát hại được Ngài.

    Quả thật như thế, do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, vũ khí vòng sắt cực kỳ nguy hiểm kia đã biến thành cuộn dây chùi chân nhẹ nhàng rơi xuống bên cạnh ngôi bồ đoàn, còn tất cả quả núi lớn kia đã biến thành những đóa hoa cõi trời xinh đẹp rơi rải rác xung quanh ngôi bồ đoàn quý báu nơi Ngài đang ngự.

    CUỘC ÐẤU TRÍ CUỐI CÙNG

    Khi ấy, Ngài suy sét rằng: "Chư Bồ Tát ở quá khứ khi đã hành tròn đủ 30 pháp ba la mật, thì ngôi bồ đoàn quý báu phát sanh đối với họ để chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, ta cũng là Bồ Tát đã hành tròn đủ 30 pháp ba la mật. Như vậy, ngôi bồ đoàn quý báu này thuộc về của ta hôm nay, để chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác".

    Suy xét xong, Ngài bèn hỏi Ác Ma Thiên.

    - Này Ác Ma Thiên, ngôi bồ đoàn quý báu phát sanh do sự tròn đủ 30 pháp ba la mật của Như Lai; ngươi có từng tạo tròn đủ 30 pháp hạnh ba la mật đâu, mà ngươi dám nói ngôi bồ đoàn này là của ngươi; vậy ngươi có gì làm bằng cớ?

    Ác Ma Thiên đắc chí chỉ vào chúng thiên ma của mình tuyên bố:

    - Tất cả thiên binh, thiên tướng làm chứng ngôi bồ đoàn kia là của ta.

    Chúng thiên ma đồng thanh đáp:

    - Ðúng thế! Ngôi bồ đoàn kia là của Ðức vua chúng tôi.

    Ác Ma Thiên tưởng mình đã thắng thế, bèn hỏi Ðức Bồ Tát rằng:

    - Thưa Sa môn Gotama, Ngài tuyên bố ngôi bồ đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài, vậy ai làm chứng cớ cho Ngài?

    Ðức Bồ Tát nhìn xung quanh đều không có một chư thiên, Phạm thiên nào, Ngài suy tưởng: "Ta đã từng tạo 30 pháp ba la mật trải nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, không nói kiếp trước xa xôi, chỉ nói đến kiếp gần đây, khi sanh làm thái tử Vessantara hành đại thí ba la mật: bố thí voi quý, của cải, vợ con..., mặt đất không có tâm thức này cũng đã từng 7 lần rung chuyển".

    Ðức Bồ Tát bèn đưa bàn tay phải ra dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất tuyên bố bằng lời chân thật rằng:

    "Trong tiền kiếp, khi tôi là thái tử Vessantara, tôi đã từng làm đại thí ba la mật 7 lần. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng sinh có tri giác nào đứng ra làm chứng cho tôi, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho tôi được không?".

    Thật phi thường thay! lời chân thật của Ðức Bồ Tát vừa chấm dứt, lập tức mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lỡ đất, Ác Ma Thiên kinh hoàng khiếp đảm giục voi bỏ chạy trở về cõi Tha hoá tự tại thiên, còn đám ma binh hỗn quân hỗn quan vô cùng khiếp đảm bỏ mặt nạ, vũ khí, hốt hoảng chạy tán loạn để thoát thân theo chủ soái của mình.

    ÐỨC BỒ TÁT TOÀN THẮNG ÁC MA THIÊN

    Ðức Bồ Tát ngự trên bồ đoàn quý báu dưới cội cây Assattha đã toàn thắng Ác Ma Thiên vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Ðông. Khi ấy 10 ngàn thế giới chư thiên cõi trời Dục giới, chư Phạm thiên cõi trời sắc giới, Long vương dưới thuỷ cung... toàn thể chư thiên, Phạm thiên vui mừng reo hò vang dội khắp các từng trời, tán dương ca tụng oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát rằng:

    Ðức Bồ Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!
    Ác Ma Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!

    Do đó, ngôi bồ đoàn quý báu này gọi là "Aparàjitapallanka": ngôi bồ đoàn nơi toàn thắng Ác Ma Thiên.

    Chư thiên, chư Phạm thiên đem những đóa hoa trời xinh đẹp, hương thơm đến cúng dường, tán dương ca tụng oai lực ba la mật của Ngài.

    ÐỨC BỒ TÁT CHỨNG ÐẮC TAM MINH

    Sau khi toàn thắng Ác Ma Thiên, vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài tiến hành thiền định với đề mục niệm hơi thở vô - ra (anàpànassati) tuần tự chứng đắc bốn bậc thiền hữu sắc.

    - Ðức Bồ Tát chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc, có định tâm trong sáng thanh tịnh, Ngài hướng tâm đến sự chứng đắc Túc Mạng Minh (Pubbenivàsànussatinàna).

    Ngài có khả năng nhớ rõ tiền kiếp: 1 kiếp, 2 kiếp... hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp cho đến vô số kiếp không hạn định, cùng với mọi chi tiết như loại chúng sinh, dòng dõi, tên họ, đã tạo ba la mật....

    Túc Mạng Minh là minh thứ nhất mà Ðức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư.

    - Tiếp theo, Ðức Bồ Tát hướng tâm đến chứng đắc: Thiên Nhãn Minh (Dibbacakkhunàna), thấy rõ, biết rõ sự tử, sự sanh của mỗi chúng sinh do bởi nghiệp - quả nào, còn gọi là Sanh Tử Minh (Cutùpapàtanàna). Thiên nhãn minh có thể thấy rõ, biết rõ kiếp vị lai của mỗi chúng sinh, gọi là Vị Lai Kiến Minh (Anàgatamsanàna), cho nên Ðức Phật thường thọ ký theo phước thiện cùng nguyện vọng của chúng sinh ấy bằng Vị lai kiến minh này.

    Thiên Nhãn Minh là minh thứ nhì mà Ðức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh giữa đêm rằm tháng tư.

    - Tiếp theo, Ðức Bồ Tát dùng đệ tứ thiền hữu sắc làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ (Vipassanàbhàvanà), trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đối tượng Paticcasamùppàda (Thập nhị duyên sanh):

    * Theo chiều thuận: "Thập nhị duyên sanh", để trí tuệ thấy rõ, biết rõ "sự sanh" của mỗi chi pháp, chứng ngộ Khổ thánh đế và Nhân sanh Khổ thánh đế.

    * Theo chiều nghịch: "Thập nhị nhân diệt", để trí tuệ thấy rõ, biết rõ "sự diệt"của mỗi chi pháp, chứng ngộ Diệt thánh đế và Ðạo thánh đế.

    Ngài chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt hoàn toàn phiền não trầm luân (àsavakilesa); đồng thời diệt đoạn tuyệt vô minh, tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót; và đặc biệt nhất là diệt được mọi tiền khiên tật[*], là tật xấu của thân và khẩu, đã trở thành thói quen từ nhiều đời nhiều kiếp ở quá khứ không còn dư sót. Cho nên, đối với Ðức Phật về thân và khẩu hoàn toàn không có chỗ nào chê trách được.
    [*] Ðối với bậc Thánh Than Văn có khả năng diệt đoạn tuyệt phiền não nhưng không có khả năng diệt được tiền khiên tật như Ðức Phật.

    Trí tuệ quán xét thấy rõ, biết rõ đã hoàn toàn giải thoát khổ, bằng Arahán Thánh Quả, kiếp này là kiếp chót, không còn tái sanh kiếp nào nữa.

    Như vậy, Ðức Bồ Tát là bậc tự mình chứng ngộ chân lýTứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh

    Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong mười ngàn thế giới chúng sinh. Cho nên, Ngài có danh hiệu là "Sammàsambuddha": Chánh Ðẳng Giác tại cội cây Assattha. Do đó, cây Assattha này gọi là Bodhirukkha (Cây Bồ Ðề) đối với Ðức Phật Gotama.

    Lậu Tận Minh là minh thứ ba mà Ðức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư âm lịch.

    Mười ngàn thế giới chư thiên, chư Phạm thiên vô cùng hoan hỷ thốt lên lời:

    Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!
    Buddho uppanno! Ðức Phật xuất hiện trên thế gian rồi!
    Dhammo uppanno! Ðức Pháp xuất hiện trên thế gian rồi!
    Samgho uppanno! Ðức Tăng sẽ xuất hiện trên thế gian.

    Tiếng hoan hô vang dội khắp cả mười ngàn thế giới chúng sinh, chư thiên, chư Phạm thiên cúng dường Ðức Phật bằng những thiên hoa xinh đẹp, thiên hương thơm ngát, thiên nhạc du dương ca tụng ân Ðức Phật bằng hàng ngàn bài kệ.

    Khi ấy, Ðức Thế Tôn tự thuyết ở trong tâm bằng hai bài kệ:

    153- Anekajàtisamsàram,
    Sandhàvissam anibbisam.
    Gahakàram gavesanto,
    Dukkhajàti punappunam.

    154- Gahakàraka! dittho’si,
    Puna geham na kàhasi.
    Sabbà te phàsukà bhaggà,
    Gahakùtam visankhatam.
    Visankhàtam gatam cittam,
    Tanhànam khayamajjhagà.

    Nghĩa:

    153- "Này người thợ "tham ái" xây nhà,
    Như Lai tìm ngươi chưa gặp,
    Nên phải tử sanh luân hồi vô số kiếp,
    Sự tái sanh mãi mãi trong tam giới là khổ.

    154- Này tham ái, người thợ xây nhà!
    Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi.
    Từ nay ngươi không còn xây nhà cho Như Lai được nữa.
    Tất cả sườn nhà "1500" phiền não của ngươi,
    Như Lai đã huỷ diệt sạch rồi.
    Ðỉnh nhà "vô minh" Như Lai cũng đã tiêu diệt rồi,
    Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn, pháp diệt khổ.
    Như Lai đã đoạn tuyệt 108 loại tham ái rồi".

    (Dhammapadagàthà số 153, 154.)

    Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm là Phật ngôn đầu tiên của Ðức Phật.

    -ooOoo-

    Giải thích từ ngữ:

    * Màra: sự cản trở, tiêu diệt mọi thiện pháp, âm là Ma.

    Màra, có 5 loại gọi là ngũ ma.

    1- Devaputtamàra: Ác Ma Thiên, là vua trời ở cõi trời Dục giới thứ sáu, "Tha hoá tự tại thiên", có nhiều quyền lực, có ác tâm muốn tất cả chúng sinh đều ở trong quyền lực của y, nên không muốn ai thoát khỏi ba giới bốn loài.

    Ðức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên tại cội Bồ Ðề, chiều ngày rằm tháng tư âm lịch.

    2- Kilesamàra: Phiền não ma, phiền não có mười loại: tham, sân, si, tà kiến, ngã mạn, hoài nghi, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi, nếu kể đầy đủ có 1500 loại phiền não. Tất cả mọi phiền não đều phát sanh ở bất thiện tâm.

    Ðức Bồ Tát đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi phiền não cùng tiền khiên tật bằng 4 Thánh Ðạo Tuệ tại cội cây Bồ Ðề vào canh chót đêm rằm tháng tư âm lịch.

    3- Abhisankhàramàra: Nghiệp chướng ma: gồm tất cả mọi ác nghiệp và thiện nghiệp cho quả tái sanh trong ba giới bốn loài.

    Ðức Bồ Tát đã chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, sau khi trở thành bậc Thánh Arahán tại cội Bồ Ðề, thì mọi tác ý (cetanà) không thành nghiệp nữa, chỉ là duy tác tâm mà thôi, không cho quả tái sanh.

    4- Khandhamàra: Ngũ uẩn ma: là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn tại rừng Kusinàrà, nghĩa là Ngũ Uẩn Niết Bàn cũng diệt chính tại nơi ấy.

    5- Maccumàra: Tử thần ma: là sự cắt đứt dòng sanh mạng của mỗi kiếp chúng sinh. Ðức Phật đã diệt đoạn tuyệt tử thần ma lần cuối cùng tại khu rừng Kusinàrà, Ngài tròn 80 tuổi.

    * Pháp hạnh ba la mật có 10.

    Bố thí ba la mật, Giữ giới ba la mật, Xuất gia ba la mật, Trí tuệ ba la mật, Tinh tấn ba la mật, Nhẫn nại ba la mật, Chân thật ba la mật, Chí nguyện ba la mật, Tâm từ ba la mật, Tâm xả ba la mật.

    Mười pháp hạnh ba la mật bậc thường: liên quan phần bên ngoài như của cải, tài sản, ngôi báu, vợ con....

    Mười pháp hạnh ba la mật bậc trung: liên quan đến các bộ phận bên trong thân thể như mắt, ....

    Mười pháp ba la mật hạnh bậc thượng: liên quan đến sanh mạng....

    Bậc Chánh Ðẳng Giác Bồ Tát (Sammàsambodhisatta) cần phải tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba la mật để có thể trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác Phật.

    * Năm đại thí:

    - Bố thí của cải.
    - Bố thí ngôi vua.
    - Bố thí vợ con.
    - Bố thí bộ phận trong thân thể.
    - Bố thí sanh mạng.

    * Ba pháp hành:

    - Pháp hành đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.
    - Pháp hành đem lại lợi ích cho bà con thân quyến.
    - Pháp hành để chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác.

    -ooOoo-
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:37 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  3. #3

    Mặc định

    SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ NHÌ

    ÐỨC PHẬT CẢM THẮNG DẠ XOA ÀLAVAKA


    -ooOoo-

    Ðức Phật cảm thắng dạ xoa Àlavaka rất hung ác, hơn cả Ác Ma Thiên, nhờ pháp nhẫn nại.

    Dạ xoa Àlavaka thuộc bộ hạ của vua trời Kuvera (một trong Tứ đại thiên vương cai trị chúng dạ xoa ở về phương Bắc). Dạ xoa Àlavaka rất hung ác, tàn bạo, ăn thịt người, lại có nhiều phép mầu cực kỳ nguy hiểm hơn cả Ác Ma Thiên.

    Ðức Phật cảm thắng dạ xoa Àlavaka trong trường hợp đặc biệt, dạ xoa Àlavaka chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Tóm lược bài Kinh Àlavakasutta (Khuddakanikàya, Bộ Suttanipàta, kinh Àlavakasutta) và Chú giải những sự kiện xảy ra trước khi Ðức Phật thuyết bài kinh này:

    -- Một hôm, Ðức vua Àlavaka[*] trị vì tại xứ Àlavi dẫn quân vào rừng, để tiểu trừ bọn cướp cùng những kẻ thù nguy hiểm đang ẩn náu ở đây. Trên đường trở về kinh, Ðức vua cho đoàn quân nghỉ chân rồi truyền lệnh:

    - Tất cả chúng ta đều phải đi săn nai! Nhưng Trẫm ra lệnh hễ nai chạy về phía người nào thì người ấy phải có trách nhiệm bắt cho kỳ được, cả Trẫm cũng vậy.
    [*] Có ba nhân vật trùng tên:

    Àlavaka yakkha: Dạ xoa Àlavaka
    Àlavaka ràjà: Ðức vua Àlavaka trị vì xứ Àlavi.
    Àlavaka kumàra: Thái tử Àlavaka con của Ðức vua Àlavaka.

    Cả đoàn quân rất thích thú mang cung tên, đao kiếm... kéo nhau vào rừng, chia ra mỗi người mỗi ngã. Ðức vua cũng một mình mang kiếm đi một đường, chợt một con nai to lớn chạy ngang, Ðức vua cố gắng hết sức rượt đuổi theo đến ba do tuần, nai kiệt sức bị bắt, còn Ðức vua cũng mệt lả ghé lại gốc cây Ða rậm rạp có bóng mát ngồi nghỉ.

    Tại cây Ða ấy, có lâu đài nguy nga lộng lẫy, là nơi thường trú ngụ của dạ xoa Àlavaka có nhiều oai lực; được Ðức vua Kuvera cho phép: Buổi trưa, nửa ngày đúng giờ ngọ, hễ có ai đi vào trong bóng mát dưới gốc cây Ða này, thì dạ xoa được phép bắt để ăn thịt, còn ở ngoài ranh giới ấy thì dạ xoa không có quyền bắt ai ăn thịt. Vì vậy, khi thấy Ðức vua ngồi nghỉ trưa dưới bóng mát cây Ða trong phạm vi cho phép, dạ xoa Àlavaka từ lâu đài (lâu đài của dạ xoa phát sanh là do phước báu của chư thiên. Do đó, các hàng chư thiên có thiên nhãn mới nhìn thấy được. Ðối với loài người, chỉ có hạng người đắc thiên nhãn thông mới có thể nhìn thấy, còn mắt thường không thể nhìn thấy) hiện xuống định bắt Ðức vua để ăn thịt.

    Ðức vua hoảng hốt khi thấy một hạng phi nhân hình thù khác lạ từ đâu xuất hiện, đòi bắt mình để ăn thịt.

    - Ngươi là ai? Từ đâu đến mà dám bắt ta để ăn thịt. - Ðức vua hỏi.

    - Ta là dạ xoa Àlavaka, nơi đây là lâu đài của ta, ngươi đã vào trong phạm vi và thời gian cho phép, vậy bắt ngươi để ăn thịt là hợp lệ.

    Ðức vua bừng tỉnh lại mới biết đây là dạ xoa ăn thịt người, bèn cam kết với dạ xoa rằng:

    - Ta là vua trị vì xứ Àlavi này, ngươi hãy tha mạng sống cho ta, thì mỗi ngày ta sẽ nộp cho ngươi một mạng người để ăn thịt.

    Dạ xoa nói:

    - Nếu ta tha cho nhà ngươi, nhà ngươi không giữ lời cam kết thì ta có gì ăn để sống, bởi ta chỉ được phép ăn thịt người nào, đi vào bóng mát cây Ða lúc buổi trưa mà thôi. Vì vậy, ta không thể tha mạng cho nhà ngươi được.

    Ðức vua khẩn khoản cam kết chắc chắn một lần nữa:

    - Nếu ngày nào ta không nộp người cho ngươi để ăn thịt, thì ngày ấy ngươi hãy bắt ta mà ăn thịt. Dạ xoa Àlavaka chấp thuận buông tha, Ðức vua mới hoàn hồn trở lại và quay về chỗ quan quân đang chờ.

    Các quan quân đón rước khi nhìn thấy Ðức vua bèn tâu rằng:

    - Tâu bệ hạ, chúng thần thấy bệ hạ có vẻ không vui, chẳng hay có việc gì xảy ra khiến cho bệ hạ phải lo âu?

    Ðức vua thuật lại sự việc xảy ra với dạ xoa Àlavaka rồi cùng các quan quân trở lại kinh thành.

    Ðức vua truyền lệnh gọi viên quan cai ngục ở trong thành đến và cho biết rằng:

    - Này khanh, trẫm đã cam kết với dạ xoa Àlavaka rằng, mỗi ngày đem nộp cho y một mạng người để y ăn thịt. Vậy khanh hãy bắt tử tù đem nộp cho y.

    - Tâu bệ hạ, hạ thần xin vâng lệnh, hạ thần muốn biết thời gian hạn định bao lâu.

    - Không, lời cam kết của trẫm không có hạn định thời gian. - Ðức vua trả lời.

    - Tâu bệ hạ, không hạn định thời gian, dân chúng sẽ bị khổ sở. Nhưng bệ hạ hãy an tâm, để hạ thần lo liệu việc này.

    NỘP NGƯỜI CHO DẠ XOA

    Kể từ sáng hôm sau, mỗi ngày viên quan cai ngục bắt một tử tù trói chặt rồi truyền quân lính đem đến nộp cho dạ xoa ăn thịt. Qua một thời gian, nhóm người tử tù đã hết, đến lượt nhóm tù chung thân khổ sai, cho đến nhóm tù giam, cuối cùng trong ngục không còn một tù nhân nào cả. Vì dân chúng trong nước nghe tin Ðức vua truyền lệnh đem nộp tù nhân cho dạ xoa Àlavaka ăn thịt, cho nên không ai dám phạm pháp. Bấy giờ, tù nhân cũ không còn, tù nhân mới không có, viên quan cai ngục tâu việc này lên Ðức vua.

    Ðức vua truyền triệu tập bá quan văn võ hỏi xem ai có mưu kế nào hay để giải quyết.

    Một vị quan hiến kế:

    - Tâu bệ hạ, nên cho lính rải vàng bạc ngoài đường phố rồi canh chừng, hễ ai tham lam nhặt lấy của ấy, luật triều đình sẽ bắt tội.

    Ðức vua chấp thuận. Cho đến lúc vàng bạc rải khắp mọi nơi mà chẳng có ai dám đụng đến.

    Một vị quan cho ý kiến:

    - Tâu bệ hạ, trong quốc độ ta có nhiều người già yếu, bệnh hoạn ốm đau, chẳng bao lâu họ cũng phải chết. Vậy, bệ hạ truyền bắt lần lượt họ mà nộp cho dạ xoa ăn thịt, có nên chăng?

    Các vị quan khác phản đối, vì cho rằng con cháu rất thương yêu kính mến ông bà, cha mẹ. Nếu chúng ta bắt người già nộp cho dạ xoa ăn thịt, thì con cháu chắc chắn sẽ nổi loạn. Chính Ðức vua cũng không chấp thuận ý kiến này.

    Một vị quan khác tâu:

    - Tâu bệ hạ, nên bắt những đứa trẻ còn nằm trong nôi, chúng còn nhỏ chưa biết gì.

    Ý kiến này được Ðức vua chấp thuận.

    Thế là kể từ ngày ấy, Ðức vua truyền lệnh bắt trẻ con đem nộp cho dạ xoa Àlavaka ăn thịt. Dân chúng biết tin này, những bà mẹ bồng con của mình đi lánh nạn sang nước láng giềng và những bà mẹ mang thai cũng trốn ra khỏi nước để sanh con khôn lớn mới dám trở về.

    Tình trạng bắt trẻ con đem nộp cho dạ xoa Àlavaka ăn thịt kéo dài suốt 12 năm, gây bao nhiêu cảnh đau thương tang tóc cho những bậc cha, mẹ. Một ngày kia, quân lính đã tìm khắp trong nước mà không còn thấy một đứa trẻ nào nữa, các quan tâu lên Ðức vua:

    - Tâu bệ hạ, trong nước cũng như trong kinh thành không còn một đứa trẻ nào ngoài Thái tử Àlavaka, con của bệ hạ.

    Ðức vua bảo rằng: "Thái tử là một đứa con yêu quý của trẫm, nhưng trẫm lại là người yêu quý nhất trên đời. Ngoài trẫm ra, chẳng còn ai đáng yêu quý hơn. Vậy các khanh hãy bắt Thái tử con của trẫm để đem nộp cho dạ xoa Àlavaka ăn thịt ngày mai".

    Các cô thị nữ vừa mới tắm rửa cho Thái tử Àlavaka sạch sẽ, thoa bột thơm, xức hương hoa, thay y phục trang điểm đẹp đẽ xong, bồng Thái tử đến trao cho Hoàng hậu. Hoàng hậu cảm thấy vô cùng hạnh phúc, bồng hoàng nhi đặt lên bắp vế, nâng niu hôn đứa con yêu quý. Ðúng lúc đó, nhóm quân lính theo lệnh của Ðức vua bắt Thái tử để đem nộp cho dạ xoa ăn thịt ngày mai. Biết vậy, Hoàng hậu ngất xỉu, các cô thị nữ thương tiếc Thái tử nên khóc than kêu gào. Nhưng lệnh vua là lệnh trời, nào ai dám không tuân!

    Ôi, ngày mai Thái tử Àlavakakumara sẽ trở thành vật thực của dạ xoa Àlavaka!

    ÐỨC PHẬT CẢM THẮNG DẠ XOA ÀLAVAKA

    Ngày hôm ấy vào canh ba, lúc chưa hừng đông, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định ở Gandhakuti chùa Jetavana. Xả định, Ngài quán xét bằng Phật nhãn xem chúng sinh nào có duyên lành nên tế độ. Ngài nhìn thấy Thái tử Àlavakakumàra có duyên lành, kiếp hiện tại này chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai (Anàgàmi) và dạ xoa Àlavakayakkha khi nghe giải đáp những câu hỏi xong cũng sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu (Sotàpanna), cùng với 84.000 chúng sinh chư thiên, Phạm thiên chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả tuỳ theo pháp hạnh ba la mật của mình.

    Sáng hôm ấy, Ðức Phật đi khất thực như mọi ngày. Sau khi độ ngọ xong, Ngài chỉ một mình từ xứ Sàvatthi ngự đến xứ Àlavi cách xa ba do tuần, đến lâu đài của dạ xoa Àlavaka rất nguy nga tráng lệ ở tại cây Ða vào lúc chiều tối.

    Lâu đài của chư thiên ở sáu cõi trời Dục giới được thành tựu do quả báu của phước thiện, lâu đài của dạ xoa Àlavaka thuộc cõi trời Tứ đại thiên vương cũng như vậy; thường chư thiên có sắc thân rất vi tế, mắt người không thể nhìn thấy được; chỉ khi nào chư thiên, dạ xoa biến hoá ra sắc thân thô, thì mắt thường của con người mới có thể nhìn thấy được.

    Ðức Phật ngự đến trước lâu đài của dạ xoa Àlavaka lúc hoàng hôn, dạ xoa Àlavaka chủ nhân của lâu đài đi vắng, y đã đi dự đại hội dạ xoa ở núi Himavanta, dạ xoa gác cửa tên là Gadrabha nhìn thấy Ðức Phật, cung kính đảnh lễ Ngài rồi bạch rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, trời đã chiều tối rồi, Ðức Thế Tôn có việc gì mà đến đây vào lúc phi thời như vậy. Bạch Ngài?

    - Này Gadrabha, dĩ nhiên là Như Lai có việc, nếu con cảm thấy không có gì làm phiền phức, thì con có thể để cho Như Lai nghỉ nhờ một đêm ở lâu đài của dạ xoa Àlavaka này có được chăng?

    Dạ xoa Gadrabha thành kính bạch rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, đối với con là người có đức tin trong sạch nơi Ngài, do đó, không có gì gọi là phiền phức cả. Nhưng Àlavaka, chủ của con không có đức tin nơi Tam bảo, y có tánh hung ác tàn bạo, cứng đầu, khó dạy, có tánh kiêu căng, ngã mạn, không biết cung kính những bậc đáng cung kính, thậm chí ngay chính cha mẹ của y, y cũng không kính trọng thì nói gì đến Sa môn và Bà la môn khác. Vì vậy, con kính xin Ðức Thế Tôn không nên nghỉ lại ở lâu đài này.

    Lần thứ nhì, Ðức Phật dạy:

    - Này Gadrabha, Như Lai đã biết rõ dạ xoa Àlavaka có tánh hung ác, tàn bạo... nhưng chắc chắn sẽ không hại đến Như Lai đâu. Nếu con cảm thấy không có gì làm phiền phức, thì con có thể để cho Như Lai nghỉ nhờ một đêm ở đây để cảm hoá dạ xoa Àlavaka có được không?

    Dạ xoa Gadrabha còn có chút lo ngại, nên cung kính bạch Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Àlavaka rất hung ác, tàn nhẫn, thường nóng giận kinh khủng, đã có các Sa môn, Bà la môn đến nơi này làm cho y không hài lòng, y đều móc trái tim của họ, cầm đôi chân ném xuống đại dương. Vì vậy, con kính xin Ðức Thế Tôn không nên nghỉ lại ở lâu đài này.

    Lần thứ ba, Ðức Thế Tôn dạy:

    - Này Gadrabha, Như Lai cũng đã biết rõ dạ xoa Àlavaka là như vậy, nhưng Dạ xoa Àlavaka chắc chắn chẳng bao giờ làm hại được Như Lai đâu! Nếu con cảm thấy không có gì làm phiền phức, thì con có thể để cho Như Lai nghỉ nhờ một đêm ở lâu đài dạ xoa Àlavaka này có được không?

    Dạ xoa Gadrabha an tâm, chắc chắn dạ xoa Àlavaka không thể nào làm hại Ðức Thế Tôn, còn về phần mình thì lo không toàn sanh mạng nên bạch Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, như vậy, để con đi trình báo ngay cho Àlavaka hay tin có Ðức Thế Tôn đến nghỉ ở lâu đài, nếu con không trình báo cho y biết, y sẽ giết chết con ngay.

    Ðức Phật dạy:

    - Này Gadrabha, vậy con hãy nên đi trình báo cho Àlavaka biết ngay !

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, con kính thỉnh Ðức Thế Tôn ngự vào lâu đài.

    Dạ xoa Gadrabha đảnh lễ Ðức Thế Tôn xong, xin phép lên đường bay thẳng đến núi Himavanta, để trình báo với dạ xoa Àlavaka về việc Ðức Thế Tôn đang ngự ở lâu đài của y.

    Ðức Thế Tôn đi vào lâu đài, ngự trên bảo toà cao quý bằng thiên báu của dạ xoa Àlavaka, Ngài phát ra hào quang sáng ngời hơn hẳn các hào quang của chư thiên, Phạm thiên có oai lực bậc nhất cũng không sánh được. Các nữ dạ xoa tỳ thiếp của dạ xoa Àlavaka nhìn thấy Ðức Phật, bảo nhau đến đảnh lễ Ngài xong, họ ngồi một bên lắng nghe Ðức Phật thuyết pháp.

    Ðức Thế Tôn khuyên dạy các hàng nữ dạ xoa:

    - Này các con, các con đang hưởng sự an lạc như thế này là do nhờ kiếp trước đã từng làm phước bố thí, giữ giới, biết cung kính lễ bái cúng dường những bậc đáng tôn kính. Nay kiếp hiện tại này cũng nên tạo mọi phước thiện, các con chớ nên có tâm ganh tỵ, bỏn sẻn với mình và người khác, các con phải nên có sự hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi....

    Các nữ dạ xoa lắng nghe lời dạy của Ðức Phật xong vô cùng hoan hỷ. Lúc ấy có hai dạ xoa Sàtàgira và Hemavata, là những dạ xoa có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, chúng rủ nhau cùng đến hầu Ðức Thế Tôn tại chùa Jetavana, rồi mới đi dự đại hội tại núi Himavanta. Lúc đang vân hành trên không, khi gần đến lâu đài của dạ xoa Àlavaka, cả hai đều bị rơi xuống đất. Ngạc nhiên, chúng tìm hiểu nguyên nhân, liền biết ngay có Ðức Thế Tôn đang ngự tại lâu đài của dạ xoa Àlavaka. Bởi vì, nơi nào có Ðức Phật đang ngự, nơi ấy không có một chư thiên, Phạm thiên, Sa môn, Bà la môn... nào có thể bay ngang qua được.

    Hai dạ xoa hoan hỷ đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, lắng nghe lời khuyên dạy xong, chúng xin phép Ngài đi dự đại hội dạ xoa tại núi Himavanta.

    Ðến Himavanta, giữa hàng ngàn dạ xoa từ mọi nơi tụ hội, cả hai thấy dạ xoa Àlavaka đang giận dữ la mắng dạ xoa Gadrabha là đã tự ý cho khách lạ đến lâu đài của y, dạ xoa Gadrabha sợ run không nói một lời nào.

    Hai Dạ xoa Sàtàgina và Hemavata đến gặp dạ xoa Àlavaka nói rằng:

    - Này Àlavaka, thật là đại phước cho ngươi có Ðức Thế Tôn đang ngự tại lâu đài của ngươi, ngươi nên mau về hầu Ngài.

    Dạ xoa Àlavaka đã tức giận lại càng thêm giận hơn, quát lớn lên.

    - Ðức Thế Tôn ấy là ai, lại cả gan dám đến lâu đài, ngự trên bảo tọa của ta chứ.

    - Này Àlavaka, Ðức Thế Tôn là vị Tôn Sư của chúng ta, ngươi không biết thật hay sao?

    Dạ xoa Àlavaka biết rõ về Ðức Thế Tôn nhưng vì quá giận dữ nên trả lời:

    - Ta không biết, ta không thấy.

    - Này Àlavaka, dầu ngươi giả bộ không biết, không thấy, Ðức Thế Tôn vẫn là bậc Tối thượng trong tam giới, là bậc Thầy của chư thiên, Phạm thiên và nhân loại. Còn ngươi chỉ là dạ xoa kiêu căng, ngã mạn, cứng đầu khó dạy, thần lực của ngươi so với Ðức Thế Tôn cũng như con bê mới sanh, so với bò chúa; cũng như voi con mới sanh, đọ sức với voi chúa; cũng như con chó rừng dơ dáy, dám tranh tài với sư tử chúa; cũng như con quạ gãy cánh, muốn đối đầu với điểu vương Garuda....

    Nghe lời mạt sát của hai dạ xoa kia, dạ xoa Àlavaka vô cùng tức giận đến điên cuồng, liền đứng phắt dậy, chân trái đạp tảng đá manosila, chân phải đạp đỉnh núi cao 60 do tuần, ngẩng mặt lên hét lớn:

    - Ta là Àlavaka! Các ngươi hãy coi, vị Tôn Sư của các ngươi có nhiều oai lực hay ta có nhiều oai lực hơn?

    Tiếng hét vang rền khắp Nam thiện bộ châu.

    DẠ XOA ÀLAVAKA DÙNG PHÉP MẦU

    Dạ xoa Àlavaka lập tức bay về lâu đài của mình, nhìn thấy Ðức Thế Tôn đang ngự trên bảo toạ quý báu của y, tức giận quá đỗi, y hoá một trận cuồng phong dữ dội từ bốn phương thổi tới, trận cuồng phong này còn mạnh hơn gấp bội lần trận cuồng phong của Ác Ma Thiên, có thể phá hủy dãy núi dài và cao hàng do tuần.

    Ðức Phật nguyện rằng: "Trận cuồng phong này không làm thiệt hại đến sanh mạng và vật nào cả".

    Quả thật, trận cuồng phong dữ dội kia bị vô hiệu hoá ngay tức khắc, không còn một làn gió nhẹ nào có thể làm lay động chéo y của Ðức Phật.

    Dạ xoa Àlavaka xiết bao kinh ngạc, sao mà Sa môn Gotama vẫn bình an vô sự như không có chuyện gì xảy đến. Y giận dữ hơn liền hoá trận mưa lớn trở thành bão lũ làm cho núi lở, đất trôi; nhưng đối với Ðức Phật cũng đều vô hiệu ngay tức khắc, trận mưa lớn kia không còn một hạt sương đủ làm thấm chéo y của Ngài.

    Dạ xoa Àlavaka liền hoá ra trận mưa đá, từng tảng đá nóng như than hồng cháy đỏ từ hư không rơi xuống; nhưng những tảng đá kia đến gần Ðức Phật đã biến thành những đoá hoa trời xinh đẹp vô cùng.

    Dạ xoa Àlavaka liền hoá ra trận mưa các loại vũ khí sắc bén từ hư không rơi xuống; nhưng các loại vũ khí kia đến gần Ðức Phật biến thành các loại hoa trời muôn màu, muôn sắc.

    Dạ xoa Àlavaka liền hoá ra trận mưa lửa, những cục than cháy đỏ từ hư không ào ào rơi xuống; nhưng những cục than cháy đỏ kia đến gần Ðức Phật liền biến thành những đoá hoa trời sắc màu xinh đẹp rơi xuống.

    Dạ xoa Àlavaka liền hoá ra trận mưa tro cực nóng rơi xuống; nhưng mưa tro nóng kia rơi đến gần Ðức Phật đã biến thành bột trầm thơm ngát.

    Dạ xoa Àlavaka liền hoá ra trận mưa cát mịn cực nóng rơi xuống; nhưng mưa cát mịn kia đến gần Ðức Phật đã trở thành bột thơm toả khắp chung quanh Ngài.

    Dạ xoa Àlavaka liền hoá ra trận mưa bùn nóng cực độ, nhưng mưa bùn nóng kia đến gần Ðức Phật đã trở thành vật thoa mát dịu rơi xuống.

    Dạ xoa Àlavaka đã hoá ra tám loại vũ khí cực kỳ nguy hại đến sanh mạng, nhưng tất cả đều vô hiệu hoá, không sát hại được Ðức Phật mà cũng không xua đuổi được Ðức Phật ra khỏi lâu đài của y.

    Cuối cùng, dạ xoa Àlavaka làm cho không gian tối đen như mực với hy vọng Ðức Thế Tôn sẽ kinh sợ mà rời đi ra khỏi lâu đài; nhưng màn tối tăm mù mịt kia chợt tan biến ngay, khi chạm phải ánh sáng hào quang của Ðức Phật.

    Thế là các loại phép mầu của dạ xoa Àlavaka hoàn toàn bất lực, không thể nào làm cho Ðức Thế Tôn rời khỏi lâu đài. Vậy mà dạ xoa Àlavakà vẫn cứng đầu ngoan cố, chưa chịu khuất phục, y còn điên cuồng huy động quân lính thuộc hạ, mỗi tên một loại vũ khí, y hét lớn.

    - Các ngươi hãy bắt Sa môn Gotama! Hãy giết Sa môn Gotama!

    Mặc dù dạ xoa Àlavaka hét lớn đến đâu đi nữa, toàn bộ quân lính của y cũng không thể nào tiến lại gần Ðức Phật được, nhưng lùi ra ngoài thì chúng lại sợ oai lực của y. Tình trạng này kéo dài đến quá nửa đêm, mà vẫn không làm sao lay chuyển được Ðức Phật, Ngài vẫn an nhiên tự tại ngự trên bảo toà cao quý ấy.

    VŨ KHÍ DUSSÀVUDHA

    Cuối cùng, không còn cách nào khác, dạ xoa Àlavaka bèn lấy ra một vũ khí cực kỳ lợi hại, có tên là "Dussàvudha". Vũ khí này, nếu ném lên hư không thì suốt 17 năm liền chẳng hề có một giọt mưa nào rơi xuống. Nếu ném xuống mặt đất, các loại cỏ cây sẽ chết khô và suốt 12 năm liền chẳng có giống thảo mộc nào mọc lên nổi. Nếu ném xuống đại dương, biển sẽ khô không còn một giọt nước. Nếu ném vào núi Sineru núi sẽ bể ra từng mảnh vụn.

    Khi ấy, toàn thể chư thiên, chư Phạm thiên mười ngàn thế giới hội lại đều nghĩ rằng: "Hôm nay, Ðức Thế Tôn sẽ cảm thắng dạ xoa Àlavaka. Chúng ta sẽ được chứng kiến sự thất bại thảm hại của y, rồi chúng ta sẽ được nghe Ðức Thế Tôn thuyết pháp".

    Lúc ấy, dạ xoa Àlavaka bừng bừng tức giận, ném vũ khí Dussàvudha về phía Ðức Thế Tôn, phát ra tiếng nổ gầm vang rền, làm rung chuyển cả không gian, nhưng khi đến gần Ðức Phật, vũ khí Dussàvudha biến thành mảnh vải lau chân vuông vắn rơi xuống phía dưới bàn chân của Ngài.

    Thấy sự việc lạ thường chưa từng có, dạ xoa Àlavaka đứng ngây như pho tượng, ngơ ngác như kẻ mất hồn, bao nhiêu tánh tự cao ngã mạn hống hách bấy lâu nay của y chợt tiêu tan trong khoảnh khắc.

    Dạ xoa Àlavaka cảm thấy mình không còn một chút oai lực nào nữa, ví như bò chúa bị gãy đôi sừng, rắn độc bị nhổ hết răng. Y thấy mình hoàn toàn bất lực, hoàn toàn thất bại. Lúc ấy, dạ xoa Àlavaka suy nghĩ rằng: "Vũ khí Dussàvudha cực kỳ lợi hại kia tại sao có thể biến thành mảnh vải lau chân được? Ôi! có lẽ Sa môn Gotama này có từ bi và đức nhẫn nại là vũ khí bảo vệ, chống đỡ mọi thứ vũ khí cực kỳ nguy hiểm khác. Vậy thì ta nên chọc tức cho Sa môn Gotama phát sân, không còn tâm từ và nhẫn nại nữa".

    Nghĩ thế xong, dạ xoa Àlavaka đổi chiến thuật mới, cất giọng nhã nhặn mà thưa rằng:

    - Thưa Sa môn Gotama, tôi chưa thỉnh Sa môn đến lâu đài của tôi. Tôi cũng chưa mời Sa môn ngự trên bảo toạ của tôi. Thế mà, Sa môn đã ngự trên bảo toạ này một cách an nhiên tự tại, lại còn có các tỳ thiếp của tôi ngồi xung quanh, mà Sa môn là bậc phạm hạnh cao thượng, như vậy có nên hay không? Thưa Sa môn. Tôi là chủ nhân, xin mời Sa môn rời khỏi lâu đài.

    Ðức Phật nhẹ nhàng đứng dậy đi ra khỏi lâu đài theo lời của dạ xoa Àlavaka, vì Ngài biết rằng dạ xoa này rất hung dữ, cứng đầu khó dạy, không thể dùng thần thông hoặc trí tuệ mà tế độ, khi y đang còn sân hận. Vậy chỉ có thể dùng đến phương tiện pháp rải tâm từ và pháp nhẫn nại để xoa dịu bớt tâm sân hận của y, sau đó mới có thể tế độ y được.

    Thật vậy, dạ xoa Àlavaka tâm bớt sân hận và thoáng nghĩ: "Sa môn Gotama dễ bảo thật vậy hay sao? Sao mà ta đã mất biết bao công sức, bao nhiêu phép mầu kể cả vũ khí Dussàvudha nữa, ta đã khổ công vất vả hơn nửa đêm nay đều không hiệu quả, không bằng dùng lời lẽ ôn hoà. Có phải chỉ dùng lời lẽ ôn hoà mà chiến thắng dễ dàng như vậy sao? Hay vị Sa môn Gotama này tức giận ta mà bỏ đi chăng? Vậy thì ta hãy chọc giận Sa môn này, phải thử lại một lần nữa".

    Dạ xoa Àlavaka bèn gọi lại:

    - Này Sa môn Gotama, xin mời đi vào!

    Ðức Thế Tôn dùng phạm âm đáp lại giọng ngọt ngào "Sàdhu! Lành thay!" rồi ngự vào chỗ bảo toạ.

    Dạ xoa muốn chọc tức, nên khi Ðức Phật vừa ngồi trên bảo toạ liền mời Ngài.

    - Này Sa môn Gotama, xin mời đi ra!

    Ðức Thế Tôn nhẹ nhàng bước ra khỏi cửa, y liền mời Ðức Thế Tôn đi vào.

    Ðức Thế Tôn đi ra rồi đi vào cả ba lần theo ý muốn của y. Lúc này, tâm trạng của dạ xoa Àlavaka không còn hung ác, cang cường như ban đầu nữa, nhưng y vẫn còn tánh tự phụ, tự đề cao "ta là kẻ vô địch", nên y nghĩ: "Ta sẽ ra lệnh cho Sa môn Gotama này đi ra đi vào cho đến mệt, lúc ấy ta sẽ nắm đôi chân của Sa môn Gotama ném xuống dòng sông Gangà", rồi y liền ra lệnh cho Ðức Phật.

    - Này Sa môn Gotama, xin mời đi ra!

    Ðức Thế Tôn biết được ác tâm của dạ xoa Àlavaka và cũng thấy đã đến lúc, hợp thời có thể cảm hoá y, nên Ngài vẫn an nhiên tự tại ngự trên bảo tọa của y và truyền dạy rằng:

    - Này Àlavaka, Như Lai đã đi ra, đi vào đến ba lần theo ý muốn của ngươi rồi. Bây giờ, Như Lai không đi ra nữa, ngươi muốn hỏi điều gì thì cứ hỏi?

    Sở dĩ Ðức Phật nói như vậy, là vì Ngài biết rõ dạ xoa Àlavaka sẽ hỏi 8 câu hỏi mà y đã ghi lại trên tấm biển bằng vàng cất kỹ trong lâu đài. Tám câu hỏi này, Dạ xoa Àlavaka đã từng đem ra hỏi các vị đạo sĩ có thần thông bay đến lâu đài của y, nhưng không một vị nào có thể giải đáp được.

    Nguồn gốc của 8 câu hỏi này, vào thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, cha mẹ của dạ xoa Àlavaka có duyên lành đến hầu Ngài và được nghe 8 câu hỏi cùng 8 câu trả lời. Àlavaka được cha mẹ dạy lại, về sau, cha mẹ của Àlavaka qua đời, trải qua thời gian quá lâu, Àlavaka chỉ còn nhớ 8 câu hỏi, mà quên mất 8 câu trả lời. Bởi vì 8 câu trả lời thuộc về trí tuệ của Ðức Phật, cho nên không một ai có thể trả lời cho đúng được.

    Dạ xoa Àlavaka nghe Phật dạy: "... ngươi muốn hỏi điều gì thì cứ hỏi". Y nghĩ đây là một cơ hội tốt cho mình, y bèn đặt điều kiện với Ðức Phật:

    - Này Sa môn Gotama, tôi sẽ hỏi những câu hỏi. Nếu Sa môn không trả lời cho đúng được, thì tôi sẽ móc trái tim của Sa môn ném nơi khác, hoặc nắm đôi chân của Sa môn ném xuống dòng sông Gangà.

    Ðức Phật từ bi dạy rằng:

    - Này Àlavaka, ngươi nên biết rằng Như Lai chưa từng thấy Sa môn, Bà la môn, chư thiên, Ma vương hoặc Phạm thiên nào, hay bất cứ một ai có thể móc trái tim của Như Lai ném đi nơi khác, hoặc nắm đôi chân của Như Lai ném xuống dòng sông Gangà; còn ngươi muốn hỏi điều gì thì cứ hỏi, Như Lai sẽ trả lời rành rẽ cho ngươi nghe.

    TÁM CÂU HỎI

    Dạ xoa Àlavaka vào lấy tấm biển vàng có ghi 8 câu hỏi ra liền hỏi Ðức Phật rằng:

    - Này Sa môn Gotama,

    1- Pháp nào là của cải hài lòng, cao quý nhất của chúng sinh trong đời?

    2- Pháp nào khi chúng sinh đã thực hành rồi, sẽ cho quả an lạc?

    3- Vị nào là vị cao thượng hơn các vị khác?

    4- Chư bậc Thiện trí nói: chúng sinh sống như thế nào mới được gọi là sống cao thượng nhất?

    Bằng giọng phạm âm ngọt ngào, với tâm từ vô lượng, tuần tự Ðức Phật trả lời:

    - Này Àlavaka,

    1- Ðức tin là của cải hài lòng, cao quý nhất của chúng sinh trong đời.

    2- Thiện pháp khi chúng sinh đã thực hành rồi, sẽ cho quả an lạc.

    3- Pháp chân thật là vị cao thượng hơn các vị khác.

    4- Chư bậc Thiện trí nói rằng: "chúng sinh sống bằng Trí tuệ mới được gọi là đời sống cao thượng nhất".

    Ðức Phật đã trả lời 4 câu hỏi giống như Ðức Phật Kassapa ở quá khứ đã trả lời, mà cha mẹ của dạ xoa Àlavaka đã từng dạy y như vậy. Dạ xoa Àlavaka lắng nghe Ðức Phật giải đáp đúng như những câu hỏi, mà thời gian trải qua quá lâu đã chìm sâu vào trong tâm thức, y không thể nào nhớ lại được. Nay y được nghe Ðức Phật trả lời đúng theo câu hỏi, nhắc cho y hồi tưởng lại được, nên y vô cùng hoan hỷ, phát sanh hỷ lạc lạ thường, phát sanh đức tin trong sạch, lòng tôn kính nơi Ðức Phật, đồng thời diệt tâm sân hận ngay, bèn đổi cách xưng hô.

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, kính xin Ngài mở lòng từ bi đối với con, giải đáp cho con 4 câu hỏi nữa.

    5- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể vượt qua bốn vùng nước xoáy?

    6- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể vượt qua biển khổ tử sanh luân hồi?

    7- Bằng pháp nào, chúng sinh có thể giải thoát khổ tử sanh luân hồi?

    8- Bằng pháp nào, chúng sinh mới trở nên hoàn toàn trong sạch?

    Ðức Phật giải đáp:

    - Này Àlavaka, con hãy lắng nghe:

    5- Nhờ Ðức tin chúng sinh vượt qua bốn vùng nước xoáy.

    6- Nhờ Tâm không dễ duôi, có Chánh niệm chúng sinh vượt qua biển khổ tử sanh luân hồi.

    7- Nhờ Tâm tinh tấn chúng sinh giải thoát khổ tử sanh luân hồi.

    8- Nhờ Trí tuệ chúng sinh mới trở nên hoàn toàn trong sạch.

    Ðức Phật trả lời 4 câu hỏi giống như Ðức Phật Kassapa ở quá khứ.

    Lắng nghe xong 4 câu giải đáp của Ðức Phật, dạ xoa Àlavaka hiểu được ý nghĩa sâu xa, vi diệu trong tám câu hỏi gia bảo của cha mẹ truyền lại.

    Dạ xoa Àlavaka đã lắng nghe hiểu rõ, mới thực hành theo liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu (Sotàpanna) đã diệt đoạn tuyệt được tâm tà kiến và hoài nghi không còn dư sót, còn tâm sân chưa diệt được, song tâm sân không đến nỗi làm điều tội lỗi, phạm giới sát sanh.... Bởi bậc Thánh Nhập Lưu có giới đức hoàn toàn trong sạch, luôn luôn có tâm hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi, có đức tin hoàn toàn trong sạch và vững chắc nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp.

    Dạ xoa Àlavaka hết lòng tôn kính Ðức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, vô cùng cảm kích trước tâm đại bi của Ðức Phật mà bạch rằng:

    - "Kính bạch Ðức Thế Tôn, con kính xin Ðức Thế Tôn tha thứ những lỗi lầm lớn lao của con. Ngài đến đây với tâm đại bi tế độ con, nhờ tâm từ và đức nhẫn nại của Ngài đã cảm hoá con cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh. Con hết lòng thành kính xin quy y nơi Ðức Thế Tôn, Ðức Pháp và Ðức Tăng. Kính xin Ðức Thế Tôn nhận biết cho con là cận sự nam đã quy y Tam bảo kể từ hôm nay cho đến trọn đời".

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, kính xin Ngài từ bi giải đáp những câu hỏi khác nữa để cho con học hành, hầu mong đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho con.

    Ðức Thế Tôn dạy:

    - Sàdhu! Lành thay! Con hãy hỏi những điều con thắc mắc.

    Kính bạch Ðức Thế Tôn:

    1- Người có được trí tuệ bằng pháp nào?

    2- Người tìm có được của cải bằng cách nào?

    3- Người có được danh thơm tiếng tốt nhờ pháp nào?

    4- Người muốn được kết bạn thân thiết với người khác bằng pháp nào?

    5- Người từ bỏ kiếp này, đi tái sanh kiếp sau được an lạc, phải thực hành pháp nào ?

    Ðức Phật giải đáp:

    - Này Àlavaka, con hãy lắng nghe:

    1- Người có đức tin trong sạch nơi chánh pháp của bậc Thánh Arahán, nhờ biết lắng nghe một cách cung kính, sẽ có được trí tuệ.

    2- Người có nghề nghiệp chân chánh, tinh tấn, cố gắng, chuyên cần làm việc sẽ có được của cải.

    3- Người có danh thơm tiếng tốt nhờ đức tính chân thật.

    4- Người muốn kết bạn thân thiết với người khác nhờ pháp bố thí.

    5- Người nào thường thực hành những pháp như: chân thật, trí tuệ, tinh tấn, bố thí, người ấy sau khi từ bỏ kiếp này, đi tái sanh ở kiếp vị lai được an lạc.

    Này Àlavaka:

    - Không có pháp nào để phát sanh trí tuệ bằng sự lắng nghe chánh pháp của bậc Thiện trí.

    - Không có pháp nào phát sanh của cải ngoài sự tinh tấn, cố gắng chuyên cần trong công việc làm ăn chân chánh.

    - Không có pháp nào tạo nên danh thơm tiếng tốt bằng pháp chân thật.

    - Không có pháp nào để kết bạn thân thiết với người khác bằng pháp bố thí những vật đáng hài lòng.

    - Không có pháp nào để đem lại sự an lạc ở kiếp vị lai bằng những pháp như: pháp chân thật, trí tuệ, tinh tấn, bố thí.

    Dạ xoa Àlavaka bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, hôm nay con đã hiểu biết rõ sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai. Ngài có tâm đại bi ngự đến xứ Àlavi ở trong lâu đài của con, chính vì sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài của con.

    Người nào có duyên lành, có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, lắng nghe chánh pháp của Ngài, người ấy sẽ được thiện pháp trong tam giới và thiện pháp Siêu tam giới.

    NỘP THÁI TỬ ÀLAVAKAKUMÀRA

    Sáng hôm ấy, chư thiên ở khu rừng vô cùng hoan hỷ nói lên lời Sàdhu! Lành thay! thì một toán quan quân triều đình khiêng chiếc kiệu vàng mang Thái tử Àlavakakumàra đến nộp cho dạ xoa Àlavaka ăn thịt theo lệ thường ngày. Khi họ vừa đến gốc cây Da to, họ nghe tiếng Sàdhu! Lành thay! vang dội cả không gian.

    Khi quan quân đến gần, nhìn thấy Ðức Thế Tôn đang ngồi trên bảo tọa, còn dạ xoa Àlavaka đang đứng một bên hầu Ngài, từ kim thân của Phật toả ra hào quang sáng ngời, họ đến hầu đảnh lễ Ðức Phật xong, rồi thưa với dạ xoa Àlavaka:

    - Này dạ xoa Àlavaka, Ðức vua của chúng tôi truyền đem Thái tử Àlavakakumàra nộp cho ngươi.

    Dạ xoa Àlavaka trước kia là dạ xoa hung ác, lấy thịt người làm vật thực. Nhưng bây giờ, đã được Ðức Phật cảm hóa rồi, dạ xoa Àlavaka đã trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, có giới đức hoàn toàn trong sạch, luôn luôn có tâm hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi; nên khi nghe các quan thưa như vậy, tâm vô cùng hổ thẹn, Àlavaka cung kính khom mình đưa hai tay đón nhận Thái tử, rồi quỳ xuống dưới chân Ðức Phật mà bạch rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Thái tử Àlavakakumàra này, các quan đem đến hiến dâng cho con; con kính dâng Ngài Thái tử này. Kính xin Ngài với tâm đại bi tế độ Thái tử.

    Lúc ấy, dạ xoa Àlavaka cảm kích đọc bài kệ:

    "Con hoan hỷ với thiện tâm trong sạch,
    Dâng Ngài Thái tử À-LA-VA-KA,
    Là đứa bé có phước thiện lớn lao,
    Thân hình đầy đủ, tướng mạo tốt đẹp,
    Xin Ngài từ bi tế độ Thái tử,
    Vì lợi ích, an lạc cho muôn loài".

    Ðức Phật thọ nhận Thái tử từ tay của dạ xoa Àlavaka, rồi Ngài cho cả hai đều quy y Tam bảo. Ngài phúc chúc:

    Xin cho Thái tử Àlavakakumàra được an lạc sống lâu!
    Àlavaka, con cũng được an lạc, sống lâu!
    Chúc các con được sự lợi ích, sự tiến hoá cho mình và cho tất cả chúng sinh.

    Ðức Phật trao Thái tử Àlavakakumàra cho các quan và dạy rằng:

    - Này các con, các con hãy về tâu với Ðức vua Àlavaka hãy nuôi nấng tử tế Thái tử Hatthaka Àlavakakumàra trưởng thành cho Như Lai.

    Từ ấy, Thái tử Àlavakakumàra có tên là Hatthaka Àlavakakumàra. Bởi vì Thái tử được vị quan đỡ hai tay trao cho dạ xoa Àlavaka, Àlavaka lại đỡ hai tay kính dâng lên Ðức Phật, rồi Ðức Phật đỡ hai tay trao lại cho các quan (từ hai tay này sang hai tay khác, nên gọi là hatthaka).

    Các quan quân của triều đình vô cùng cảm kích trước tâm đại bi tế độ của Ðức Phật, hết lòng thành kính đảnh lễ dưới chân Ngài, tán dương ca tụng oai lực của Ngài. Họ vô cùng hoan hỷ, đảnh lễ Ðức Thế Tôn, từ giã dạ xoa Àlavaka, rồi xin phép khiêng kiệu Thái tử Hatthaka Àlavakakumàra trở lại hoàng cung.

    Trên đường trở về, dân chúng nhìn thấy khiêng kiệu Thái tử, trong lòng lo sợ bèn hỏi các quan:

    - Có phải dạ xoa Àlavaka chê Thái tử nhỏ quá không chịu ăn thịt, chỉ muốn ăn thịt người lớn chăng?

    Các quan nói trấn an dân chúng, rồi tường thuật lại rành rẽ những điều mắt thấy tai nghe cho mọi người an tâm. Từ thôn làng này, tin lan truyền nhanh qua thôn làng khác, ai ai cũng vui mừng đã thoát khỏi nạn tang tóc khổ đau. Toàn thể dân chúng hướng về phía lâu đài của dạ xoa Àlavaka, nơi có Ðức Thế Tôn đang ngự cung kính lễ bái Ngài và nói lên lời Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

    Ðã đến giờ đi khất thực, Ðức Thế Tôn ngự đi trước, còn dạ xoa Àlavaka ôm bát tiễn chân Ngài ra đến giữa đường, Ðức Thế Tôn dừng lại, biết ý, dạ xoa Àlavaka dâng bát lên cho Ngài, đảnh lễ Ngài rồi trở về lâu đài của mình.

    Ðức Thế Tôn chậm rãi đi vào thành Àlavi khất thực, Ngài đến một gốc cây thanh vắng gần cửa thành Àlavi để thọ thực và nghỉ trưa.

    Chuyện Ðức Thế Tôn cảm hoá dạ xoa Àlavaka hung dữ đã lan truyền từ các xóm làng, cho đến kinh thành. Các quan kiệu Thái tử trở về hoàng cung tâu trình Ðức vua được rõ mọi việc. Ðức vua, Hoàng hậu, các quan cùng toàn thể hoàng gia vô cùng vui mừng khi được nhìn thấy lại mặt Thái tử. Lúc ấy, xa giá Ðức vua Àlavaka, Hoàng hậu cùng đoàn tuỳ tùng ra khỏi hoàng cung, số đông dân chúng theo sau, đến hầu Ðức Thế Tôn. Khi đến gần, Ðức vua xuống kiệu từ xa, đi chân đến, thành kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn, tất cả cũng đều đảnh lễ theo, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.

    Ðức vua bạch Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài đã cảm hoá dạ xoa Àlavaka như thế nào? Bạch Ngài.

    Nhân dịp ấy, Ðức Phật thuyết giảng bài kinh Àlavakasutta, thuật lại rõ từng chi tiết cho hội chúng nghe về việc Ngài đã dùng pháp nhẫn nại để cảm hoá dạ xoa Àlavaka.

    Thời pháp chấm dứt, tất cả hội chúng thảy đều hoan hỷ, có số chư thiên, chư Phạm thiên, nhân loại gồm có 84.000 chúng sinh chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả tuỳ theo trình độ ba la mật của họ.

    Sau đó, Ðức vua Àlavaka và dân chúng kinh thành Àlavi, hàng ngày đem lễ vật đến dâng cho dạ xoa Àlavaka đầy đủ.

    Thái tử Hatthaka Àlavaka đến tuổi trưởng thành thường đến hầu Ðức Phật, nghe pháp, cúng dường bốn món vật dụng đến chư Tăng. Nhờ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, sự tinh tấn tiến hành thiền tuệ, chẳng bao lâu sau, Thái tử Hatthaka Àlavaka đã chứng đắc đến bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh thứ ba trong Phật giáo.

    Thái tử Hatthaka Àlavaka cùng nhóm cận sự nam tùy tùng thường tế độ những người khác bằng bốn pháp tế độ:

    1- Bố thí của cải đến người khác.
    2- Nói lời chân thật, ngọt ngào dễ nghe.
    3- Hành động lợi ích cho mọi chúng sinh.
    4- Hoà đồng với mọi người.

    Ðức Thế Tôn tán dương và ca ngợi Thái tử Hatthaka Àlavaka như sau:

    "Này chư Tỳ khưu, Hatthaka Àlavaka là người có bốn pháp tế độ tối thắng nhất trong hàng cận sự nam của Như Lai".

    -ooOoo-

    Giải thích từ ngữ:

    - Pháp nước xoáy: là bốn pháp làm cho chúng sinh chìm đắm trong biển khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài, không thể ngoi đầu nổi lên được.

    Bốn pháp nước xoáy (ogha):

    1- Ngũ dục như nước xoáy làm chúng sinh chìm đắm trong sắc, thanh, hương, vị và xúc.

    2- Tà kiến như nước xoáy làm chúng sinh chìm đắm trong tà kiến sai lầm.

    3- Kiếp sanh như nước xoáy làm chúng sinh chìm đắm trong kiếp sanh cõi Dục giới, cõi sắc giới và cõi vô sắc giới.

    4- Vô Minh như nước xoáy làm chúng sinh chìm đắm trong si mê, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế.

    Saddhà: Ðức tin, tin nơi Tam bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp; tin thiện nghiệp cho quả vui, ác nghiệp cho quả khổ. Ðức tin là pháp dẫn đầu trong mọi thiện pháp, người có đức tin, có sự tinh tấn tiến hành thiền tuệ, có thể chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, mới có thể vượt qua bốn pháp nước xoáy.

    Ðức Phật dạy: nhờ đức tin người ta vượt qua bốn pháp nước xoáy.

    Chỉ có bậc Thánh Nhập Lưu mới có đức tin trong sạch hoàn toàn.

    Appamàda: Không dễ duôi, nghĩa là luôn luôn có chánh niệm là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, là con đường duy nhất vượt qua biển khổ tử sanh luân hồi.

    Annava: Biển khổ luân hồi, mọi cảnh khổ của mỗi chúng sinh, quanh quẩn trong vòng tử sanh luân hồi quá mênh mong bao la, sâu thẳm như biển đại dương.

    Do đó, Ðức Phật dạy: "Nhờ tâm không dễ duôi, có chánh niệm, chúng sinh vượt qua biển khổ tử sanh luân hồi".

    Vìriya: Tâm tinh tấn, sự kiên trì cố gắng không ngừng để thiện tâm tăng trưởng.

    - Tinh tấn không để cho ác pháp phát sanh.
    - Tinh tấn diệt ác pháp đã sanh.
    - Tinh tấn làm cho thiện pháp chưa sanh được phát sanh.
    - Tinh tấn làm cho thiện pháp đã phát sanh càng thêm tăng trưởng đến sự chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt vô minh, tham ái và mọi ác pháp không còn dư sót.

    Dukkha: Khổ: khổ sanh, khổ lão, khổ bệnh và khổ tử, khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

    Do đó Ðức Phật dạy: "nhờ tinh tấn, chúng sinh thoát khỏi khổ tử sanh luân hồi".

    Pannà: Trí tuệ: ở đây đó là Arahán Thánh Ðạo Tuệ, có khả năng diệt đoạn tuyệt tất cả mọi vô minh, tham ái, phiền não, ác pháp không còn dư sót.

    Parisujjhati: hoàn toàn trong sạch: tâm hoàn toàn trong sạch nghĩa là tâm không còn vô minh, tham ái, phiền não và mọi ác pháp, đó là tâm của bậc Thánh Arahán.

    Do đó Ðức Phật dạy: "Nhờ trí tuệ chúng sinh trở nên hoàn toàn trong sạch".

    -ooOoo-
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:38 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  4. #4

    Mặc định

    SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BA

    ÐỨC PHẬT CẢM THẮNG VOI NÀLÀGIRI


    -ooOoo-

    Ðức Phật cảm thắng được voi Nàlàgiri, do nhờ tâm từ.

    (Bộ Chú giải Jàtaka..., bộ Vinayapitaka...)

    Hoàng tử Devadatta là hoàng huynh của Công chúa Yasodharà, cả hai là con của Ðức vua Suppabuddha dòng Sakya, (cậu ruột của Thái tử Siddhattha) và Hoàng hậu Amittà (cô ruột của thái tử Siddhattha). Như vậy Hoàng tử Devadatta vừa là anh em cô cậu, vừa là anh vợ của Thái tử Siddhattha.

    Thái tử Siddhattha đi xuất gia, trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, một thời gian sau, Ngài ngự trở về kinh thành Kapilavatthu để tế độ phụ vương Suddhodana cùng hoàng tộc Sakya. Ðức vua Suddhodana động viên, khuyến khích các Hoàng tử dòng Sakya đi xuất gia theo Ðức Phật, cùng một lúc có 1.000 Hoàng tử xuất gia trở thành Tỳ khưu và đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Sau đó Hoàng tử Devadatta cũng đi xuất gia trở thành Tỳ khưu cùng với năm Hoàng tử khác là: Hoàng tử Bhaddiya, Anuruddha, Ànanda, Bhagu và Hoàng tử Kimila. Sau khi trở thành Tỳ khưu các Ngài Ðại Ðức Bhaddiya, Ðại Ðức Anuruddha, Ðại Ðức Bhagu và Ðại Ðức Kimila đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán trong thời kỳ Ðức Phật còn tại thế; còn Ðại Ðức Ànanda chỉ chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, về sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn khoảng ba tháng bốn ngày sau mới chứng đắc thành bậc thánh Arahán. Riêng Tỳ khưu Devadatta chỉ chứng đắc bát thiền thế gian (4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc) và đắc thần thông, vẫn còn là phàm nhân, không phải là bậc Thánh nhân.

    Một thuở nọ, Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng đang ngự tại xứ Kosambì, các nhà phú hộ, vua chúa phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, hàng ngày đem nhiều lễ vật đến cúng dường Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Sàriputta, Ðại Ðức Moggallànà, Ðại Ðức Mahàkassapa, Ðại Ðức Bhaddiya, Ðại Ðức Anuruddha, Ðại đức Ànanda..., còn Tỳ khưu Devadatta ít ai hỏi đến và cũng ít ai dâng cúng đặc biệt gì cả.

    Thế là Tỳ khưu Devadatta cảm thấy tự ái: "vốn ta cũng là Hoàng tử xuất thân từ dòng Sakya đi xuất gia trở thành Tỳ khưu, sao ít ai dâng cúng đến ta, ta không có nhiều lợi lộc". Rồi lại nghĩ: "Bằng cách nào để cho ta có quyền thế và có nhiều lợi lộc, ta không thể nào làm thân với Ðức vua , các nhà phú hộ, vì những vị này có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật và các bậc Thánh nhân. Ta không dễ gì làm cho quý vị ấy tin ở ta được. Ðức vua Bimbisàra có thái tử Ajàtasattu còn nhỏ dại, chưa phân biệt rõ thiện - bất thiện, phước - tội... ta có thể thuyết phục Thái tử tin theo ta được".

    Nghĩ xong, từ Kosambi Tỳ khưu Devadatta đi đến kinh thành Ràjagaha dùng thần thông hoá ra một đứa trẻ; từ hai tay, hai chân, cổ và đầu mỗi nơi hóa ra một con rắn, có sáu con rắn, mỗi con quấn vào người, bay lên hư không, đáp xuống ngồi trọn vào vế của thái tử Ajàtasattu.

    Ajàtasattu sợ hãi hỏi: Ngươi là ai?

    - Thưa Thái tử, tôi là Tỳ khưu Devadatta - Tỳ khưu Devadatta thưa.

    - Xin Ngài hóa trở lại con người thật đi! - Thái tử yêu cầu.

    Tỳ khưu Devadatta hoá trở lại là Tỳ khưu mặc y mang bát đứng trước mặt Thái tử.

    Thái tử vô cùng cảm phục phép thần thông của Tỳ khưu Devadatta, phát sanh đức tin nơi Tỳ khưu Devadatta, cho nên mỗi ngày sai lính đem 500 cỗ xe chở cơm và thức ăn đến dâng cúng.

    Lợi lộc làm cho tâm tham của Tỳ khưu Devadatta càng thêm đen tối, nên tham vọng ngông cuồng phát sanh: "Ta nên làm một vị Phật, cai quản nhóm Tỳ khưu Tăng".

    Do nghĩ sai lầm như vậy, nên các bậc thiền và phép thần thông của Tỳ khưu Devadatta bị hư mất ngay.

    Sau đó, Ðức Phật từ xứ Kosambi cùng chư Tỳ khưu Tăng du hành đến kinh thành Ràjagaha, ngự tại chùa Veluvana. Khi ấy chư Tỳ khưu đến bạch với Ðức Phật về việc Tỳ khưu Devadatta đến thân cận với thái tử Ajàtasattu, mỗi ngày Thái tử sai lính đem 500 cỗ xe chở 500 nồi cơm và đồ ăn đến cúng dường Tỳ khưu Devadatta.

    Ðức Phật dạy:

    - Này chư Tỳ khưu, danh và lợi phát sanh đối với Devadatta để tự hại mình, tự giết mình.

    Này chư Tỳ khưu, cũng ví như:

    Cây chuối trổ buồng ra trái chín, tự hại mình.
    Cây tre trổ cờ ra hột, tự hại mình
    Cây sậy trổ cờ, tự hại mình.
    Ngựa Assatara có thai đúng tháng ngày sanh, hại ngựa mẹ.

    Cũng như vậy, danh và lợi đối với Devadatta để tự hại mình, tự giết mình.

    LẦN ÐẦU TIÊN TỲ KHƯU DEVADATTA OAN TRÁI VỚI ÐỨC PHẬT

    Một hôm, Ðức Phật thuyết pháp giữa số đông các hàng Phật tử, chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Ðức vua, phú hộ, dân chúng,... có Tỳ khưu Devadatta ngồi trong nhóm chư Tỳ khưu Tăng, Devadatta quỳ chấp tay bạch Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, bây giờ Ngài đã già rồi, lớn tuổi, quá thời lão niên.

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, kính thỉnh Ngài nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già, giao cho con lo việc cai quản chư Tỳ khưu Tăng, con lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng.

    Ðức Phật nghe Devadatta bạch như vậy bèn dạy rằng:

    - Này Devadatta, chẳng nên vậy đâu! Con chớ nên có tham vọng lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng.

    Tỳ khưu Devadatta bạch lần thứ nhì và lần thứ ba cũng như vậy, và cả ba lần Ðức Phật đều không chấp thuận. Ngài dạy:

    - Này Devadatta, đối với Sàriputta và Moggallàna mà Như Lai cũng không trao quyền lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng, huống hồ đối với con, là người tham đắm trong lợi lộc thấp hèn, như dùng đồ nước miếng, làm sao Như Lai trao quyền hành cho con được.

    Tỳ khưu Devadatta nghe Ðức Phật ca tụng Ðại Ðức Sàriputta và Ðại Ðức Moggallàna, còn chê trách mình dùng vật dụng phát sanh không trong sạch, như đồ nước miếng, giữa các hàng Phật tử, nên tức giận đảnh lễ Ðức Phật bỏ đi ra.

    Tỳ khưu Devadatta đến gặp thái tử Ajàtasattu, khuyến dụ thái tử nên giết vua cha lên ngôi vua, còn y sẽ giết Ðức Phật rồi thay thế Phật.

    Thái tử Ajàtasattu mang con dao lén vào phòng chờ giết vua cha, bị bại lộ, các quan bắt quả tang dẫn đến trình Ðức vua Bimbisàra phán xét.

    Ðức vua tra hỏi thái tử:

    - Này hoàng nhi, tại sao con có ý định giết cha?

    - "Tâu phụ vương, con muốn lên ngôi làm vua." -Thái tử tâu.

    Ðức vua dạy rằng:

    - Này hoàng nhi, con muốn lên ngôi thì cha truyền ngôi vua lại cho con.

    Ðức vua Bimbisàra truyền ngôi, làm lễ đăng quang thái tử Ajàtasattu lên ngôi vua ở kinh thành Ràjagaha trị vì xứ Magadha.

    Thái tử Ajàtasattu được lên ngôi vua, tâm vô cùng hoan hỷ báo tin mừng cho Tỳ khưu Devadatta, Tỳ khưu Devadatta ác tâm bày kế giết Ðức vua Bimbisàra để trừ hậu họa giành lại ngôi báu.

    Ðức vua Ajàtasattu bắt vua cha giam trong nhà tù, lệnh cấm đem vật thực nuôi dưỡng và cấm không được ai đến thăm viếng ngoại trừ mẫu hậu, về sau cũng cấm luôn mẫu hậu.

    Thái thượng hoàng Bimbisàra không có vật thực nuôi dưỡng thân thể, nhưng nhờ nhập Thánh quả định Nhập Lưu và đi kinh hành nên vẫn kéo dài sự sống còn. Vua Ajàtasattu biết vậy, cho người thợ cạo đem dao rạch bàn chân[*] xoa dầu, xát muối, hơ lửa không còn đi được nữa, về sau không lâu, đức Thái thượng hoàng băng hà tái sanh làm thiên nam ở cõi Tứ đại thiên vương tên là Janavasabha.
    [*] Tiền kiếp của Ðức vua Bimbisàra đã từng mang dép đi lên xung quanh bảo tháp hoặc quanh cội Bồ Ðề..., nên kiếp này phải chịu quả bị rạch 2 bàn chân.

    Thái thượng hoàng Bimbisàra băng hà cùng ngày với Hoàng tử Udayabhadda con của Ðức vua Ajàtasattu hạ sanh.

    Các quan trước tiên tâu Ðức vua rằng:

    - Tâu bệ hạ, Hoàng hậu đã hạ sanh Hoàng tử.

    Ðức vua nghe các quan tâu như vậy, tình thương con dạt dào trổi lên nghĩ rằng: "khi ta sanh ra đời, chắc chắn phụ hoàng ta cũng thương ta như vậy".

    Ðức vua liền ra lệnh:

    - Các quan hãy đi mau, thả phụ hoàng ta ra!

    Nhưng hỡi ôi! còn người đâu mà thả ra được nữa!

    Các quan tiếp theo tâu rằng: Thái thượng hoàng đã băng hà hôm nay rồi!

    Ðức vua Ajàtasattu vô cùng hối tiếc đi tìm mẫu hậu, nghe mẫu hậu thuật lại, biết rõ tình thương con của phụ hoàng vô hạn, Ðức vua khóc than thảm thiết, tổ chức làm lễ táng phụ hoàng rất trọng thể.

    Ðức vua Ajàtasattu nghe lời Tỳ khưu Devadatta phạm trọng tội giết cha thuộc ngũ vô gián nghiệp.

    TỲ KHƯU DEVADATTA ÂM MƯU GIẾT ÐỨC PHẬT

    Một hôm Tỳ khưu Devadatta tìm đến vua Ajàtasattu và yêu cầu Ðức vua tuyển chọn một số tay thiện xạ về cung nỏ để giết Ðức Phật. Ðức vua chấp thuận, truyền lệnh gọi quân lính đến bảo rằng: Các ngươi hãy chấp hành theo lệnh của Ngài Devadatta.

    Devadatta bí mật chia thành năm nhóm, mỗi nhóm hoàn toàn không biết nhau, chỉ tuân hành theo lệnh của y, nhóm thứ nhất một xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh rằng:

    - "Ngươi hãy đến giết Sa môn Gotama ở chỗ này, sau khi giết Sa môn Gotama xong, đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

    Nhóm thứ nhì có 2 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

    - "Hai ngươi hãy giết người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

    Nhóm thứ ba có 4 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

    - "Các ngươi hãy giết hai người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

    Nhóm thứ tư có 8 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

    - "Các ngươi hãy giết bốn người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

    Nhóm thứ năm có 16 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

    - "Các ngươi hãy giết tám người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

    THI HÀNH LỆNH TỲ KHƯU DEVADATTA

    Nhóm thứ nhất, một xạ thủ, mang cung nỏ đến chỗ mà Tỳ khưu Devadatta đã chỉ định, nhìn thấy Ðức Phật, khi đến gần phát sanh tâm run sợ đến nỗi cứng đơ người, không cử động được. Ðức Phật bèn gọi:

    - Này con, con đừng sợ, hãy lại đây với Như Lai.

    Người xạ thủ lắng nghe giọng nói dịu dàng, ngọt ngào phát ra từ tâm đại bi của Ðức Phật, tâm trở lại bình tĩnh an lạc, thân cử động được, ném bỏ cung nỏ, cung kính đến hầu đảnh lễ dưới chân Ngài, quỳ xin tạ tội. Ðức Phật tha tội rồi thuyết pháp tế độ, người xạthủ lắng nghe pháp, rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, xin quy y nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng. Ðức Phật chấp thuận cho Quy y theo Siêu tam giới (lokuttarasarana), rồi Ngài dạy rằng:

    - Con chớ nên trở về theo con đường do Tỳ khưu Devadatta chỉ dẫn, mà con nên đi theo con đường này sẽ được an toàn tánh mạng.

    Nhóm thứ nhì có hai xạ thủ mai phục trên con đường chờ xạ thủ thứ nhất trở lại, chờ lâu không thấy, lần theo con đường ấy thì nhìn thấy Ðức Phật ngồi một mình, hai người xạ thủ liền bỏ cung nỏ đến hầu đảnh lễ Ngài, ngồi nghe pháp rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu rồi xin quy y nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Ðức Phật chấp thuận cho quy y theo Siêu tam giới, rồi Ðức Phật chỉ dạy:

    - Các con chớ nên trở về theo con đường do Tỳ khưu Devadatta chỉ dẫn, mà nên đi theo con đường này sẽ được an toàn tánh mạng. Nhóm thứ ba có 4 xạ thủ, nhóm thứ tư có 8 xạ thủ, nhóm thứ năm có 16 xạ thủ, mỗi nhóm chờ lâu không thấy, đi lần theo con đường ấy thì nhìn thấy Ðức Phật ngồi một mình, họ bỏ cung nỏ đến hầu đảnh lễ Ngài, ngồi nghe pháp rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu rồi xin quy y nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Ðức Phật chấp thuận cho Quy y theo Siêu tam giới.

    Người xạ thủ thứ nhất trở về vào trình với Tỳ khưu Devadatta:

    - Con không thể giết Ðức Phật được, Ngài là bậc đại oai lực, khi con nhìn thấy đã phát run sợ đến nỗi đứng đơ người không cử động được. Nhờ tâm đại bi của Ðức Phật gọi con đến, con mới hoàn hồn tỉnh lại, thân mới cử động được....

    Tỳ khưu Devadatta nghe trình như vậy, la hét:

    - Thôi thế là đủ! Ngươi giết Sa môn Gotama không được, vậy tự tay ta giết.

    TỲ KHƯU DEVADATTA CỐ GIẾT ÐỨC PHẬT

    Sau lần âm mưu ra lệnh cho các xạ thủ giết chết Ðức Phật không thành, Tỳ khưu Devadatta rất căm tức muốn tự mình giết Ðức Phật. Một hôm, Ðức Thế Tôn đang đi kinh hành dưới chân núi Gijjhakùta, Tỳ khưu Devadatta nghĩ đây là cơ hội tốt nhất để giết Ðức Phật, ông liền mò leo lên đỉnh núi, quan sát đường lăn tảng đá xuống, rồi dùng cây làm đòn bẩy bật một tảng đá lớn lăn xuống chỗ Ðức Phật đang đi kinh hành với tác ý ác tâm giết Ðức Phật. Tảng đá lớn lăn nhanh xuống. Thật phi thường thay! Có hai tảng đá lớn hơn gấp bội đồng nghiêng đầu chụm lại, ngăn chặn tảng đá kia làm vỡ ra một mảnh nhỏ văng trúng nhằm bàn chân của Ðức Phật làm cho bàn chân Ngài bầm máu và sưng lên.

    Ðức Phật quở trách Tỳ khưu Devadatta:

    - Này Devadatta, con người vô dụng! Con có ác tâm muốn giết Như Lai, nhưng mà đối với Như Lai chỉ bị bầm máu mà thôi, như vậy, con đã tạo ác trọng nghiệp lớn rồi!

    Ðức Phật gọi chư Tỳ khưu dạy rằng:

    - Này chư Tỳ khưu, Devadatta đã phạm tội, có ác tâm muốn giết Như Lai, nhưng mà không thể giết Như Lai được, chỉ làm bầm máu ở bàn chân của Như Lai. Như vậy, lần đầu tiên Tỳ khưu Devadatta đã phạm trọng tội lớn là làm bầm máu bàn chân (lohituppàdaka) của Như Lai thuộc ngũ vô gián nghiệp.

    Vết thương của Ðức Phật, nhờ vị lương y Jìvaka tận tâm cứu chữa, mổ xẻ lấy máu bầm ra và thoa thuốc nên không bao lâu, bàn chân của Ngài đã bình phục.

    Chư Tỳ khưu được biết Tỳ khưu Devadatta có ác tâm muốn giết Ðức Thế Tôn, vì vậy, chư Tỳ khưu chia từng nhóm canh gác bảo vệ Ðức Phật, có nhóm học kinh, tụng kinh; có nhóm đi kinh hành chung quanh Gandhakuti nơi Ðức Phật đang ngự. Ðức Thế Tôn nghe tiếng tụng kinh bèn hỏi Ðại Ðức Ànanda, Ðại Ðức Ànanda bạch với Ðức Thế Tôn là chư Tỳ khưu chia thành từng nhóm canh gác, bảo vệ Ðức Thế Tôn, không để Tỳ khưu Devadatta đến làm hại Ngài.

    Ðức Phật bèn dạy Ðại Ðức Ànanda gọi chư Tỳ khưu mà dạy rằng:

    "Atthànametam Bhikkhave anavakàso, yam parùpakkamena Tathàgatam jìvità voropeyya.
    Anupakkamena Bhikkhave Tathàgatà parinibbàyanti...".

    "Này chư Tỳ khưu, điều chẳng bao giờ xảy ra là việc giết hại Ðức Phật do sự cố gắng của người khác. Này chư Tỳ khưu, chư Phật tịch diệt Niết Bàn hoàn toàn không phải do sự cố gắng của một ai cả. Này chư Tỳ khưu, các con nên trở về chỗ ở của mình. Không một ai có thể làm hại được Như Lai. Các con chớ bận tâm bảo vệ sanh mạng của Như Lai..." (Vinayapitaka, Cùlavagga).

    CẢM THẮNG VOI NÀLÀGIRI

    Ðức Thế Tôn đã bình phục như thường, một hôm Ngài cùng chư Tăng đi vào thành Ràjagaha để khất thực. Tỳ khưu Devadatta chăm chú nhìn Ðức Phật có đầy đủ tướng tốt và vẻ đẹp trang nghiêm, nghĩ rằng: "Phần đông người ta nhìn thấy Sa môn Gotama như vậy, thì phát sanh đức tin trong sạch và lòng tôn kính, lại còn có Phật lực phi thường, cho nên không một người nào có đủ can đảm đến gần để giết hại Sa môn Gotama được. Họa may chỉ có loài súc sanh không biết gì về Ân Ðức Phật mới có thể hại Sa môn Gotama được mà thôi. Vậy ta nên dùng voi Nàlàgiri hung dữ của Ðức vua Ajàtasattu kia để giết hại Sa môn Gotama".

    Tỳ khưu Devadatta đến gặp vua Ajàtasattu trình tâu âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để sát hại Ðức Phật, được Ðức vua chấp thuận và truyền lệnh gọi quản tượng đến bảo rằng:

    - Ngươi hãy nghe theo lệnh của thầy Devadatta, ngày mai cho voi Nàlàgiri uống rượu say rồi thả ra theo đường nào mà Sa môn Gotama đi vào thành để khất thực.

    - Ngày thường, ngươi cho hung tượng Nàlàgiri uống bao nhiêu hũ rượu? - Tỳ khưu Devadatta hỏi.

    - Tám hũ, thưa Ngài - Quản tượng thưa.

    Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

    - Vậy ngày mai, ngươi phải cho hung tượng Nàlàgiri uống 16 hũ rượu, say điên cuồng rồi thả ra theo con đường mà Sa môn Gotama đi vào thành để khất thực, để nó chạy thẳng đến giết chết Sa môn Gotama.

    Quản tượng chỉ còn biết tuân lệnh mà thôi.

    Vua Ajàtasattu truyền lệnh các quan trong kinh thành thông báo cho dân chúng trong thành biết. "Vào ngày mai, quản tượng sẽ thả voi Nàlàgiri hung dữ ra đường, vậy toàn thể dân chúng trong thành hãy làm xong công việc từ sáng sớm rồi trở về nhà đóng cửa ở trong nhà, cấm không được ai đi lại ở ngoài đường".

    Dân chúng trong thành biết tin Tỳ khưu Devadatta âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để giết Ðức Phật và đã được vua Ajàtasattu chấp thuận. Vì vậy, những người cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo dẫn nhau đến chùa Veluvana bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, sáng ngày mai, Tỳ khưu Devadatta âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để giết hại Ngài, vua Ajàtasattu đã chấp thuận. Như vậy, sáng ngày mai, kính xin Ðức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng không nên đi vào thành khất thực, kính xin Ðức Thế Tôn cho phép chúng con được mang vật thực đến chùa để cúng dường Ðức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng.

    Ðức Thế Tôn không chấp thuận hoàn toàn lời thỉnh cầu của dân chúng trong thành Ràjagaha, Ngài dạy rằng:

    - Ngày mai, Như Lai sẽ cảm thắng voi Nàlàgiri, đồng thời cảm hoá được một số nhóm ngoại đạo. Vì vậy, Như Lai cùng chư Tỳ khưu Tăng đông đảo sẽ đi vào thành Ràjagaha. Sau khi cảm thắng voi Nàlàgiri xong, Như Lai cùng chư Tỳ khưu Tăng sẽ ra khỏi thành trở về chùa Veluvana, khi ấy các con đem vật thực đến chùa dâng cúng chư Tỳ khưu Tăng có Như Lai chủ trì.

    Nhóm cận sự nam - nữ hiểu ý Ðức Phật, đảnh lễ Ngài trở về với lòng tôn kính Ðức Phật vô hạn.

    Như thường ngày, ban đêm vào cuối canh, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định, xả định quán xét chúng sinh có duyên lành đặc biệt nên tế độ. Bằng Phật nhãn, Ngài nhìn thấy rõ trong lúc cảm thắng voi Nàlàgiri bằng tâm từ, đồng thời có 84.000 chúng sinh có duyên lành chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả tuỳ theo ba la mật của mình.

    Vào sáng hôm ấy, Ðức Phật gọi Ðại Ðức Ànanda dạy rằng:

    - Này Ànanda, con nên thông báo cho tất cả chư Tỳ khưu ở 18 đại tự viện, sáng nay cùng đi với Như Lai vào thành Ràjagaha.

    Sáng hôm ấy, trong thành Ràjagaha có số cận sự nam - nữ bảo nhau rằng: "Hôm nay chúng ta sẽ tận mặt nhìn thấy Ðức Phật cảm thắng được voi hung ác Nàlàgiri một cách phi thường", nên họ leo lên tầng nhà cao hay mái nhà để quan sát cho rõ.

    Còn một số dân chúng thuộc nhiều môn phái ngoại đạo, họ bảo nhau rằng: "Voi Nàlàgiri rất hung ác, có sức mạnh phi thường, không biết gì về Ân Ðức Phật, hôm nay chúng ta được tận mắt nhìn thấy thân thể của Sa môn Gotama bị chà nát dưới bàn chân của voi hung ác Nàlàgiri...", nên họ cũng leo lên tầng nhà cao hay mái nhà để quan sát.

    Khi ấy, nhóm quản tượng cho voi Nàlàgiri uống 16 hũ rượu theo lệnh của Tỳ khưu Devadatta. Voi Nàlàgiri sáng nay say như điên, được thả ra trên con đường ngược chiều với lộ trình của Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng đang đi vào thành Ràjàgaha. Voi Nàlàgiri nhìn thấy Ðức Thế Tôn từ xa ngự đến liền cong vòi, quạt hai lỗ tai, cong đuôi chạy thẳng đến nơi Ðức Thế Tôn ví như quả núi nghiêng đổ về phía Ngài.

    Chư Tỳ khưu thấy vậy bèn bạch với Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, voi Nàlàgiri rất hung ác, sát nhân, đang say như điên chạy đến đây, chúng con kính thỉnh Ðức Thế Tôn trở lại. Bạch Ngài.

    Ðức Thế Tôn dạy chư Tỳ khưu:

    - Này chư Tỳ khưu, các con đừng có sợ hãi, không có một ai có thể làm hại Như Lai được, Như Lai sẽ cảm thắng voi Nàlàgiri này.

    Lúc ấy, Ðại Ðức Sàriputta liền bạch Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, thông thường có việc gì xảy đến với phụ thân, phận sự ấy thuộc về đứa con trưởng. Kính bạch Ðức Từ Phụ, cho phép con cảm hoá voi Nàlàgiri ấy.

    Ðức Thế Tôn bảo với Ðại Ðức Sàriputta rằng:

    - Này Sàriputta con, oai lực của bậc Thánh Thanh Văn kém oai lực của Ðức Phật, vậy con hãy để việc này cho Như Lai.

    Sau đó, 80 vị Thánh Thanh Văn đại đệ tử tuần tự xin phép Ðức Phật cảm hoá voi Nàlàgiri, nhưng Ðức Thế Tôn không chấp thuận vị nào cả.

    Lúc ấy, Ðại Ðức Ànanda không thể nào đứng yên nhìn sự nguy hiểm đến tánh mạng của Ðức Phật, vì quá kính yêu Ngài, Ðại Ðức nghĩ rằng: Voi Nàlàgiri hung ác này hãy giết chết ta trước, ta quyết hy sinh tánh mạng thay cho Ðức Phật, nên Ðại Ðức vội vàng bước ra đứng chắn trước mặt Ðức Phật.

    Ðức Thế Tôn dạy bảo rằng:

    - Này Ànanda, con hãy tránh sang nơi khác, không được đứng trước Như Lai.

    Ðại Ðức Ànanda vẫn không chịu tránh, bèn bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Voi Nàlàgiri rất hung ác, nó giết chết con trước khi đụng đến Ðức Thế Tôn.

    Ðức Thế Tôn bảo Ðại Ðức Ànanda tránh sang nơi khác đến ba lần như vậy mà Ðại Ðức vẫn đứng yên. Do vậy, Ngài phải dùng đến thần thông bắt buộc Ðại Ðức Ànanda tránh sang nơi khác, Ðức Thế Tôn đứng trước chư Tỳ khưu Tăng.

    Bỗng nhiên, có một người đàn bà đang ẵm con, nhìn thấy voi Nàlàgiri đang lao tới với tốc độ kinh khủng, bà quá đỗi khiếp đảm nên để đứa con mình xuống đường tìm nơi thoát thân, hung tượng Nàlàgiri đuổi theo người đàn bà, nhưng không thấy bèn trở lại đưá trẻ đang nằm gần Ðức Phật, đứa bé thấy voi sợ quá khóc lớn, Ðức Phật niệm rải tâm từ đến voi Nàlàgiri rồi gọi bằng một giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến:

    - Này Nàlàgiri con yêu quý, người ta cho con uống 16 hũ rượu mạnh làm cho con say điên cuồng, họ không cố ý giết hại người khác, thật ra họ cố ý nhờ con giết hại Như Lai, con hãy đến đây với Như Lai, Nàlàgiri yêu qúy!

    Voi Nàlàgiri hung ác nghe giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến của Ðức Phật, liền mở mắt, ngẩng đầu, nhìn thấy kim thân Ðức Phật toả ánh từ bi, cơn say điên cuồng tan biến mất, tâm thức tỉnh. Do nhờ oai lực của Ðức Phật, voi Nàlàgiri hạ vòi xuống, ngoan ngoãn đi lần đến quỳ một cách cung kính dưới bàn chân Ðức Phật.

    Khi ấy, Ðức Thế Tôn dạy voi Nàlàgiri rằng:

    Này Nàlàgiri, con yêu quý,
    Con là voi thuộc hàng súc sanh,
    Như Lai là Ðức Phật, gọi là voi chúa,
    Kể từ nay con không nên hung ác sát nhân nữa.
    Con nên có tâm từ đối với tất cả chúng sinh.

    Ðức Thế Tôn rải tâm từ đến voi Nàlàgiri, rồi đưa bàn tay phải vuốt trên đầu voi và khuyên dạy rằng:

    "Này Nàlàgiri, con yêu quý,
    Con là voi con có vòi,

    Chớ nên hại voi chúa cao thượng là Như Lai.
    Vì sự làm hại voi chúa cao thượng,
    Là nhân đem lại sự đau khổ cho con,
    Người nào làm hại voi chúa cao thượng,
    Người ấy không được tái sanh cảnh giới an lạc.

    Này Nàlàgiri con yêu quý,
    Con chớ nên say mê, không nên dễ duôi nữa,
    Vì sự dễ duôi quên mình, tạo nên ác nghiệp,
    Phải sa vào cảnh ác đạo, chịu khổ lâu dài,
    Con nên tạo thiện nghiệp, để được sự an lạc,
    Ðược tái sanh thiện cảnh, hưởng an lạc lâu dài".

    Ðức Phật thuyết pháp tế độ voi Nàlàgiri, toàn thân tâm của voi Nàlàgiri phát sanh hỷ lạc chưa từng có. Nếu không phải là loài súc sanh, sau khi nghe pháp xong, chắc chắn nó đã chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả (nhưng vì là loài súc sanh nên không thể chứng đắc).

    Dân chúng trong thành Ràjàgaha tận mắt nhìn thấy Ðức Phật cảm thắng hung tượng Nàlàgiri trở nên hiền lành một cách phi thường, kỳ diệu như thế, cho nên họ vô cùng hoan hỷ vỗ tay reo hò vang dội, họ ném những đồ trang sức vòng vàng châu báu xuống thân mình voi Nàlàgiri thành đống. Từ đó, voi Nàlàgiri có tên là voi Dhanapàlaka (voi giữ gìn của cải). Ðức Phật cho hiền tượng Dhanapàlaka thọ ngũ giới, hiền tượng nằm mọp xuống lấy vòi hút bụi ở bàn chân của Ðức Phật, rồi phun lên đầu của mình tỏ lòng tôn kính Ðức Phật.

    Voi Dhanapàlaka đi lùi ra xa một đoạn đường, cúi đảnh lễ Ðức Phật rồi trở về chỗ ở của mình; kể từ hôm ấy voi Dhanapàlaka rất hiền lành dễ mến. Ðức Phật cảm thắng hung tượng Nàlàgiri rồi Ngài chú nguyện rằng: "của cải người chủ nào được hoàn lại cho người chủ ấy", tức thì tất cả của cải đều trở lại người chủ.

    Sáng hôm ấy, Ðức Phật đã cảm thắng được voi Nàlàgiri xong và nhân cơ hội này, Ngài thuyết pháp tế độ chúng sinh gồm có 84.000 chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả tùy theo ba la mật của mình, Ðức Phật không đi vào thành Ràjàgaha để khất thực, mà Ngài dẫn đầu đoàn Tỳ khưu Tăng đông đảo ra khỏi thành ngự về chùa Veluvana.

    Dân chúng kinh thành Ràjàgaha vui mừng, cùng nhau mang theo những vật thực ngon lành đến chùa Veluvana để cúng dường chư Tỳ khưu Tăng, có Ðức Thế Tôn chủ trì với tâm vô cùng hoan hỷ và tôn kính. Họ được nhìn thấy Ðức Phật đã cảm thắng hung tượng Nàlàgiri trở nên hiền tượng có ngũ giới, kể từ nay về sau voi Nàlàgiri không còn đáng kinh sợ nữa, mà trở nên đáng yêu quý hơn, cho nên họ cùng tán dương ca tụng Ðức Phật bằng bài kệ:

    "Người ta dạy voi hay ngựa,
    Bằng móc sắt, bằng roi mây
    Nhưng thật phi thường thay!
    Ðức Thế Tôn bậc đại bi,
    Cảm hoá voi Nàlàgiri hung dữ,
    Chẳng cần dùng đến móc sắt,
    Và cũng không có roi mây!".

    -ooOoo-

    Chú thích:

    * Giai đoạn cuối cuộc đời Tỳ khưu Devadatta

    Tỳ khưu Devadatta bị mọi người chê trách thậm tệ về những hành động ác mà y đã tạo, cho nên vua Ajàtasattu không còn tin nơi y nữa, ngưng hộ độ 500 xe vật thực dâng cúng mỗi ngày, còn Tỳ khưu Devadatta đi khất thực, dân chúng không để bát nữa, những quyền lực và lợi lộc bị suy thoái hoàn toàn.

    Cuối cuộc đời của Tỳ khưu Devadatta bị bệnh nặng, muốn đến hầu đảnh lễ Ðức Phật sám hối trước khi chết. Devadatta nhờ những người học trò khiêng giường đến chùa Jetavana, nghỉ bên hồ nước gần chùa để tắm rửa cho y. Khi Tỳ khưu Devadatta từ trên giường vừa chạm đôi chân xuống đất, mặt đất nẻ ra rút y xuống. Khi còn lại hai bàn tay, y chấp tay đưa lên cao: "Xin quy y nương nhờ nơi Ðức Phật" rồi chìm sâu trong lòng đất.

    Tỳ khưu Devadatta sau khi chết, do năng lực của ác trọng nghiệp cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avìci, chịu quả khổ do ác nghiệp mà y đã tạo; khi mãn ác nghiệp rồi, đến kiếp vị lai sau này được trở lại tái sanh làm người.

    Ðức Phật thọ ký rằng: từ kiếp trái đất này về sau, trải qua hơn một trăm ngàn đại kiếp trái đất nữa, kiếp vị lai của Tỳ khưu Devadatta sẽ chứng đắc thành Ðức Phật Ðộc Giác có danh hiệu Atthissara.

    * Cuộc đời Ðức vua Ajàtasattu

    Ðức vua Ajàtasattu thân cận với Tỳ khưu Devadatta phạm phải trọng tội giết cha, khi Ðức vua nghe tin Tỳ khưu Devadatta bị đất rút, nên phát sanh tâm sợ hãi kinh hồn; nhờ ngự y Jìvaka dẫn đến hầu Ðức Phật xin sám hối tội lỗi của mình đã tạo. Ðức Phật thuyết pháp tế độ Ðức vua; nếu Ðức vua không phạm trọng tội giết cha, thì khi nghe Ðức Phật thuyết pháp xong, có thể chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu; nhưng vì đã phạm vô gián nghiệp chắc chắn phải sa vào địa ngục, cho nên Ðức vua không thể chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả nào; Ðức vua chỉ phát sanh đức tin trong sạch, xin quy nơi Tam bảo, trở thành người cận sự nam tận tâm lo hộ độ Tam bảo.

    Sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn được 3 tháng 4 ngày chính Ðức vua lo hộ độ chư Thánh Tăng trong kỳ kết tập Tam tạng lần thứ nhất tại động Sattapanni gần thành Ràjagaha gồm có 500 bậc Thánh Arahán, do Ngài Ðại Ðức Trưởng lão Mahàkassapa chủ trì. Mặc dầu phước thiện lớn lao như vậy, Ðức vua cũng không tránh khỏi sa vào cảnh địa ngục. Ðáng lẽ Ðức vua sau khi chết, do năng lực của ác trọng nghiệp cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avìci, song nhờ phước thiện ấy, nên chỉ tái sanh vào địa ngục Lohakumbhì suốt 60.000 năm, đến khi mãn ác nghiệp, được trở lại tái sanh làm người, kiếp vị lai sau này sẽ chứng đắc thành bậc Ðộc Giác Phật có danh hiệu Vijitàvì.

    -ooOoo-
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:38 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  5. #5

    Mặc định

    SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ TƯ

    ÐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMÀLA


    -ooOoo-

    Ðức Phật cảm hóa được kẻ cướp sát nhân Angulimàla, do nhờ phép thần thông.

    (Theo Chú giải Kinh Angulimàlasuttavannanà - Bộ chú giải Majjhimapannàsa, kinh Angulimàlasuttavannanà).

    Ðại đức Angulimàla vốn tên thật là Ahimsaka xuất thân từ dòng dõi Bà la môn, trong một gia đình quý tộc nhiều đời. Thân mẫu Ngài tên Mantanì; thân phụ Ngài tên Gagga, là quân sư tài đức khả kính của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.

    Trong đêm Ngài sinh ra đời, một hiện tượng lạ thường chưa từng có đã xảy ra: tất cả vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng chói lòa; ngay cả thanh gươm báu của Ðức vua Pasenadi nằm ở trong bao, đặt trong căn phòng ngủ, cũng phát ra ánh sáng thép lạnh buốt, làm cho Ðức vua kinh hoàng.

    Ông Bà la môn, thân phụ của Ngài Angulimàla, nhìn thấy hiện tượng như vậy, liền bước ra hiên nhìn lên trời xem thiên văn, giữa hư không vời vợi một ngôi sao "kẻ cướp sát nhân" vừa xuất hiện. Ông nhẩm tính một hồi, rồi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Ngôi sao ấy chính là biểu hiệu số mạng con trai vừa mới chào đời của ông. Sau nầy nó sẽ trở thành tên cướp giết người khét tiếng!

    Là quân sư của Ðức vua, người nắm cán cân công lý và sự an nguy cho xã tắc, ông Bà la môn không cho phép mình vì tình riêng mà dấu kín mầm móng tai họa, nên trời vừa sáng, ông đã vào chầu Ðức vua Pasenadi tâu rằng:

    - Ðêm qua bệ hạ ngủ có được an giấc hay không?

    Ðức vua đáp:

    - Thưa quân sư khả kính, Trẫm có ngủ yên được đâu! Không biết điềm xấu gì xảy ra mà thanh gươm báu của Trẫm đặt ở trong bao lại phát ra ánh sáng chói lòa rất là khủng khiếp. Trẫm lo sợ có điều tai họa gì đó liên quan đến tánh mạng của Trẫm, hoặc có chuyện bất trắc gì xảy ra cho ngai vàng của Trẫm chăng?

    - Tâu bệ hạ - vị quân sư mau mắn đáp - đêm qua hạ thần có xem thiên văn, quả thật có một hung tinh vừa xuất hiện. Nhưng điềm xấu ấy không liên hệ gì đến tánh mạng cũng như ngai vàng của bệ hạ.

    Tâu bệ hạ, không những chỉ riêng thanh gươm báu của bệ hạ, mà còn tất cả các loại vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng; đó là do năng lực ác nghiệp của con trai hạ thần vừa mới ra đời đêm qua.

    Ðức vua ngạc nhiên:

    - Có chuyện như vậy sao! Quân sư hãy nói rõ cho Trẫm nghe!

    - Tâu bệ hạ, con trai hạ thần vừa mới hạ sanh đêm qua ứng vào vị hung tinh ấy. Sau nầy, nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân rất nguy hiểm.

    - Thật vậy sao? Ðức vua hỏi. Nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân? - chỉ là một tên cướp sát nhân thôi, hay là thủ lãnh một nhóm trộm cướp chuyên giết người, cướp của, dã man, tàn bạo, phá xóm, phá làng... và đe dọa cả ngai vàng của Trẫm?

    - Không phải vậy, tâu bệ hạ! Nó chỉ là một tên cướp. Một mình nó thôi. Tuy chẳng tổn thương gì đến bệ hạ và ngai vàng, nhưng để tránh những tai họa về sau, thần xin phép bệ hạ cho thần được giết chết nó khi đang còn nhỏ.

    Ðức vua Pasenadi vốn là một vị vua hiền đức, nghe vậy liền có lời can ngăn:

    - Ðừng nên làm như thế, thưa quân sư khả kính! Nếu chỉ là một mình nó thì không thể gây ra tai họa lớn lao được. Trẫm biết rõ quân sư một đời nghiêm minh, thận trọng, chí công vô tư, không vì tình riêng mà che mờ phép nước. Nhưng đứa trẻ kia vừa mở mắt chào đời, chưa làm gì nên tội, xin quân sư hãy tha mạng sống cho nó.

    Nếu bảo là do năng lực của ác nghiệp, thì quân sư nên tìm cách ngăn chặn, bằng cách nuôi dưỡng nó trong môi trường đạo đức, như vậy thì quả của ác nghiệp khó có cơ hội phát sanh.

    Quân sư hãy chăm sóc, nuôi nấng, dạy bảo nó trở nên con người hiền lương. Ví như thanh gươm nằm trong vỏ, mũi tên nằm trong bao tên, thì nó làm sao có thể hại đến ai được!

    Vậy quân sư nên đặt tên cho đứa trẻ là Ahimsaka (người không làm hại, làm khổ đến ai).

    Bà la môn Gagga nghe vậy, cúi đầu tuân phục, ông cảm kích và tri ân Ðức vua hiền minh không kể xiết.

    Cậu bé Ahimsaka lớn lên, rất thông minh dĩnh ngộ, lại có sức mạnh phi thường, sống trong gia đình dòng dõi Bà la môn có truyền thống đạo đức lâu đời, cho nên cậu bé được nuôi dưỡng và giáo dục tốt trong một môi trường sống hiền hòa, tạo nhân tạo duyên cho thiện pháp phát sanh, những phẩm chất hiền lương của con người càng thêm tăng trưởng.

    Khi đứa bé lớn, đến tuổi đi học, ông Bà la môn Gagga gởi con du học xứ Takkasilà, tại ngôi trường đào tạo các vị Hoàng tử, con cháu Bà la môn từ các quốc độ... có vị đã trở thành đấng minh quân, những nhà lãnh đạo tài ba, những bậc hiền triết uyên thâm....

    Là đứa trẻ vốn có thiên tài xuất chúng, nên bất cứ môn học nào Ahimsaka cũng đều xuất sắc hơn các người học trò khác. Ngoài ra, cậu là người học trò luôn luôn làm tròn tất cả mọi phận sự đối với thầy, mọi lễ nghi phép tắc... không ai có thể chê cậu ở một điểm nhỏ nào. Tài năng và đức hạnh của Ahimsaka đều vẹn toàn, cho nên, người thầy Bà la môn và phu nhân của thầy rất hài lòng, thương yêu Ahimsaka và xem như đứa con ruột của mình.

    Mọi sự việc ấy làm cho bạn bè đồng học ganh tỵ, họ bàn luận với nhau rằng: "Kể từ khi có mặt Ahimsaka nơi nầy, trong chúng ta không có một ai hơn nó, dầu chỉ một bộ môn nào. Nó là người có tài trí hơn hẳn chúng ta về mọi phương diện kể cả đạo đức. Ahimsaka là người học trò tài đức vẹn toàn, luôn luôn được thầy khen, ngược lại tất cả chúng ta là Hoàng tử, công tử... mà thầy quở trách chúng ta. Ðó cũng chỉ vì Ahimsaka quá tài giỏi hơn chúng ta gấp bội, còn chúng ta so với nó thì quá kém cỏi mà thôi".

    - Vậy chúng ta có mưu kế nào để đuổi Ahimsaka ra khỏi trường nầy không?

    - Chúng ta chẳng có cách gì nói xấu Ahimsaka được.

    - Nếu nói Ahimsaka thuộc dòng dõi thấp hèn ư? Chẳng thể nào, vì Ahimsaka thuộc dòng dõi Bà la môn cao quý, là con của ông Gagga, vị quân sư của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.

    - Nếu nói Ahimsaka là đứa học trò không làm tròn bổn phận, vô lễ với thầy ư? Chẳng thể nào vì Ahimsaka là người học trò làm tròn bổn phận, có lễ phép, tôn kính thầy hơn tất cả chúng ta....

    Cuối cùng có một người trong nhóm đưa ý kiến:

    "Tất cả chúng ta chia ra làm ba nhóm, và nhóm nào cũng đều thưa với thầy một điều giống nhau. Ban đầu có lẽ thầy không tin, thầy quở trách, chúng ta phải nên kiên nhẫn chịu đựng, nhưng dần dần thầy sẽ hoang mang ngờ vực và cuối cùng thầy sẽ tin".

    Tất cả xem đó là một mưu kế hay.

    Thế là theo kế hoạch, phải thực hiện tuần tự theo thời gian.

    Ngày hôm sau, vào một dịp thuận lợi nhất, nhóm thứ nhất vào quỳ và thưa thầy rằng:

    - Ai cũng biết bạn Ahimsaka là người học rất giỏi, có tài trí, lễ phép, từ lâu rất được thầy yêu bạn mến, nhưng chúng con nghi y có âm mưu hại thầy, chúng con kính yêu thầy, xin thưa cho thầy biết để đề phòng trước thì hơn.

    Nghe nói vậy, vị thầy rất bực tức quở trách họ, vì cho rằng họ có ác tâm muốn làm tổn thương tình cảm giữa ông và Ahimsaka, người học trò ông rất mực thương yêu như con, bèn xua đuổi nhóm đó đi ra ngoài ngay.

    Một thời gian sau, y theo kế hoạch, nhóm thứ nhì với số người đông hơn, cũng vào quỳ hầu thầy và thưa chuyện với nội dung y như lần trước. Họ cũng bị thầy quở trách rồi đuổi đi ra. Một thời gian lâu sau, nhóm thứ ba cũng thưa như hai nhóm trước, vị thầy cũng đối xử như hai nhóm trước. Mặc dầu vậy, nhóm thứ ba nầy tỏ vẽ khẩn khoản van xin thầy: nếu thầy không tin chúng con, xin thầy xem xét Ahimsaka có tài trí khác thường, nếu y mưu tính việc lớn thì khó ai biết được.

    Sau nhiều lần, vị thầy bắt đầu suy nghĩ: "Sao cả ba nhóm học trò nầy đều thưa một việc giống nhau? và chúng đều có ý lo lắng cho sự an toàn của ta".

    Vị thầy bắt đầu hoang mang ngờ vực, khi đã ngờ vực rồi thì mọi hành vi cử chỉ, lời nói của Ahimsaka cũng đáng nghi cả. Sự nghi ngờ ấy tuy chưa tìm ra chứng cớ rõ ràng, nhưng vị thầy cảm thấy lo sợ, bất an, vị thầy nghĩ: "Cách tốt nhất để giữ gìn bảo vệ sanh mạng của ta là phải tìm kế hạ thủ trước. Nếu tự tay ta đầu độc hoặc giết chết y, bọn học trò sẽ biết, và như vậy thì vua chúa, Bà la môn, quý tộc... cũng sẽ biết, tiếng xấu sẽ lan truyền ra mọi quốc độ rằng: "thầy mà giết chết học trò", thì còn gì là uy tín và đạo đức của ta nữa. Khi thiên hạ mất đức tin ở nơi ta thì họ sẽ không còn gởi con cháu đến đây học nữa. Khi ấy, danh vọng ta sẽ mất mà lợi lộc cũng không còn! Vậy tốt hơn hết ta hãy bày ra một kế để cho người ta giết Ahimsaka".

    Vì nghĩ như thế, nên một hôm ông gọi Ahimsaka lại bảo:

    - Nầy Ahimsaka con yêu quý, con là một người học trò có tài trí phi thường, con rất xứng đáng, nên thầy muốn truyền dạy môn học tột bậc cho con, với điều kiện con phải giết đủ một ngàn người đem trình cho thầy, để ứng dụng vào môn học ấy, cũng đồng thời là sự tạ ơn thầy một cách xứng đáng với công lao nuôi dạy của thầy.

    - Kính thưa thầy, con sanh ra ở dòng dõi Bà la môn cao quý, con không thể nào giết hại người được, bạch thầy - Ahimsaka thưa.

    Vị thầy dạy rằng:

    - Nếu như vậy, con không thể nào thành đạt đến tột cùng môn học, thật là uổng công lao nuôi dạy của thầy! Con không đền đáp được công ơn thầy.

    Ahimsaka nghe thầy nói vậy, bất đắc dĩ phải làm theo lời thầy, xem là việc đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy, nhưng thật tâm hoàn toàn không thích làm việc bất lương như vậy.

    Sau khi lạy từ giã thầy, Ahimsaka mang năm loại vũ khí theo mình đi vào rừng, chờ có ai đi vào rừng hay đi ngang qua rừng sẽ giết. Vì tâm không ham thích giết người, đây chẳng qua là một việc làm bất đắc dĩ nên chàng không nhớ rõ đã giết bao nhiêu người rồi. Sau đó, hễ giết được một người, chàng cắt lấy một đầu ngón tay cho dễ đếm, những ngón tay để rãi rác bị thất lạc, hoặc các loài thú ăn mất. Cuối cùng, Ahimsaka nghĩ ra một cách là xâu những đầu ngón tay nầy thành vòng đeo ở cổ. Từ đó chàng có biệt danh là Angulimàla: có nghĩa là kẻ cướp sát nhân, cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ.

    Dân chúng trong thành nghe đến tên cướp sát nhân Angulimàla thảy đều kinh sợ, không ai dám đi một mình qua khu rừng, nhưng dầu đi từng toán từ 10 người - 20 người hay 30 người cũng không một ai thoát khỏi lưỡi đao của Angulimàla.

    Tiếng đồn vang xa từ làng nầy qua làng khác quanh vùng, không ai dám đi ngang qua khu rừng ấy. Thế là bắt buộc Angulimàla phải vào xóm làng tìm người để giết cho đủ số 1000. Dân chúng kinh sợ bỏ xóm làng, đi lánh nạn sang nơi khác cách xa khu rừng ba do tuần.

    Chuyện Angulimàla giết hại mọi người náo động đến kinh thành Sàvatthi. Một nhóm các bô lão đại diện dân chúng xin vào cầu cứu Ðức vua Pasenadi rằng:

    - Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu dân vô tội, tên Anguli-màla kẻ cướp giết hại nhiều người, cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ, dân chúng kinh sợ đã bỏ xóm làng đi lánh nạn sang nơi khác, chịu cảnh cực khổ thiếu thốn.

    Kính xin bệ hạ bắt y trị tội để chúng con được trở về quê hương yên ổn làm ăn.

    Nghe dân chúng kêu van thảm thiết như vậy, Ðức vua liền hội triều hỏi ý kiến các quan. Ðức vua quyết định thân chinh cầm đầu dẫn quân truy bắt Angulimàla, tên cướp giết người để trị tội.

    Trong buổi hội triều, vị Bà la môn Gagga, quân sư của Ðức vua Pasenadi có linh tính báo cho biết Angulimàla tên cướp sát nhân ấy không ai khác mà chính là Ahimsaka, con trai yêu quý của ông.

    Bãi triều, về nhà, ông âu sầu kể lại cho bà Mantanì, vợ ông, biết rằng: Nầy phu nhân "tên cướp sát nhân" ấy không phải ai khác mà chính là Ahim-saka, đứa con trai yêu quý của chúng ta.

    Nghe vậy, bà Mantanì khóc lóc cầu xin chồng đi tìm con trở về nộp cho Ðức vua, xin Ðức vua từ bi ân xá tội chết, trước khi Ðức vua truy bắt.

    Ông Bà la môn cũng thương yêu con, nhưng bây giờ nó đã trở thành kẻ cướp sát nhân rồi, ông Bà la môn là bậc trí thức biết suy xét về lời dạy của bậc hiền triết ngàn xưa có dạy rằng: "Có bốn hạng người không nên đặt niềm tin vào họ" :

    - Là tên cướp sát nhân, dầu trước đây hắn là bạn cũ.

    - Là bạn cũ, dầu đã từng sống chung với nhau lâu năm.

    - Là Ðức vua, dầu được Ðức vua tin cẩn.

    - Là đàn bà, dầu trước đây đã từng đối xử rất tốt với bà ta.

    Suy ngẫm bốn hạng người nầy, con trai của ông là một trong những hạng người ấy, không nên đặt niềm tin vào nó. Cho nên, ông Bà la môn từ chối lời yêu cầu của vợ.

    Biết vậy, bà Mantanì rất nóng lòng vì thương yêu đứa con của bà, với tình thương yêu của một người mẹ, bà nghĩ: "nó là gì đi nữa, thì nó cũng chỉ là đứa bé nhỏ dại, đáng thương, đáng yêu của mình, đáng được tha thứ!".

    Thế là chẳng quản gian lao vất vả, nguy hiểm, bà Mantanì quyết đi tìm Ahimsaka, đứa con yêu quý của bà.

    ĐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMÀLA

    Cuối canh chót đêm ấy, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định, sau khi xả định, quán xét chúng sanh có duyên lành nên tế độ, Ðức Thế Tôn nhìn thấy Angulimàla hiện trong mạng lưới đại bi của Ngài. Ngài biết rằng: duyên lành của Angulimàla đã đến, Như Lai sẽ tế độ Angulimàla, chỉ cần nghe lời giải đáp xong Angulimàla sẽ phát sanh đức tin trong sạch, từ bỏ mọi vũ khí, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, về sau Angulimàla sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Thánh Quả cùng với Tam minh.

    Ðức Thế Tôn còn thấy rõ rằng: nếu Ngài đến chậm trễ, Angulimàla sẽ giết mẹ, phạm trọng tội trong ngũ vô gián nghiệp thì vô phương cứu thoát.

    Thế rồi, sáng hôm ấy, Ðức Thế Tôn đi vào thành Sàvatthi để khất thực như lệ thường, sau khi độ ngọ xong, dọn dẹp chỗ ở, rồi Ðức Thế Tôn chỉ một mình mặc y, mang bát đi theo con đường mòn nhỏ nhắm hướng đi thẳng đến khu rừng nơi ở của Angulimàla.

    Dân chúng bên đường nhìn thấy Ðức Thế Tôn (không nhận biết được Ðức Phật) đi theo con đường vào khu rừng nơi trú ngụ của Angulimàla, lo sợ Ngài bị giết bèn ra ngăn cản:

    - Kính bạch Sa môn, kính xin Ngài đừng đi theo con đường nầy, ở trong khu rừng kia có tên Angulimàla là kẻ cướp giết người, bất luận là ai y cũng không thương xót. Kẻ cướp sát nhân nầy đã tàn sát dân làng già trẻ, dân chúng còn sống sót kinh sợ đều bỏ làng đi lánh nạn nơi khác. Một vùng đất rộng bên trong kia chỉ còn cảnh tiêu điều vắng vẽ, không một bóng người qua lại.

    - Kính bạch Sa môn, trước đây có những toán người đông 20 người, 30 người, 40 người... đi qua con đường nầy cũng đều bị Angulimàla sát hại, không còn một ai sống sót cả. Kính xin Sa môn đừng vào nơi nguy hiểm ấy.

    Ðức Thế Tôn nghe dân chúng bạch đến ba lần, rồi dạy:

    - Các con hãy an tâm! Không có điều gì xảy đến với Như Lai đâu! Rồi Ngài vẫn tiếp tục đi.

    Hôm ấy, Angulimàla nghĩ rằng: "Ta sống ở đây đã lâu rồi, ta đã giết rất nhiều người, những người chết mà ta đã cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đếm được 999 ngón, chỉ cần giết thêm một người nữa, cắt một đầu ngón tay là tròn đủ 1000 ngón, là đủ 1000 người; ta cần phải ra ven rừng, hễ nhìn thấy người nào trước tiên là giết người ấy cho đủ số, đem về trình cho thầy, để đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy và thầy sẽ truyền đạt bộ môn tột bậc cuối cùng cho ta. Lúc đó ta sẽ cạo râu, cắt tóc thay đổi y phục, xin bái tạ thầy trở về hầu thăm cha mẹ".

    Nghĩ xong, Angulimàla mang vũ khí đi ra ven rừng. Người trước tiên mà y nhìn thấy từ xa đang đi đến là bà Mantanì, mẹ của y. Bà Mantanì nhận ra người cầm gươm kia là con của mình, bà vui mừng gọi tên con Ahimsaka! Ahimsaka! Con yêu quý! Nghe gọi vậy, Angulimàla nhận biết người đàn bà kia là mẹ của mình, nhưng do tà kiến chấp thủ, với ý nghĩ "người nào trước tiên" là giết liền cho đủ số 1000 người, nên y đành lòng phải giết mẹ thôi!

    Angulimàla chạy ra đón đường thì bỗng nhiên nhìn thấy Ðức Phật, xuất hiện ở khoảng giữa y và mẹ của y, Angulimàla liền thay đổi ý định thay vì giết mẹ, thì giết vị Sa môn đi một mình này. Angulimàla cầm gươm đuổi theo Ðức Phật, Ðức Phật dùng thần thông bước đi chậm rãi khoan thai như bình thường, nhưng đằng sau, Angulimàla đã cố chạy đuổi theo hết sức lực mà vẫn không bắt kịp Ngài.

    Angulimàla thoáng nghĩ: "Thật lạ thường thay! Chưa từng có bao giờ! Trước đây dầu voi, ngựa, nai, xe ngựa chạy ta cũng chạy đuổi theo bắt được dễ dàng. Nhưng bây giờ dầu ta đã chạy hết sức mà vẫn không đuổi kịp vị Sa môn đang bước đi khoan thai chậm rãi kia".

    Angulimàla cầm gươm chạy đuổi theo Ðức Phật suốt ba do tuần, đã đuối sức, dừng chân lại, cất tiếng gọi lớn.

    - Này ông Sa môn kia, Hãy dừng lại! Hãy dừng lại!

    Ðức Phật biết được nhân duyên đã đến, Ngài vừa chậm rãi bước đi, vừa cất giọng phạm âm dạy vọng lại:

    - Này Angulimàla, Như Lai đã dừng lại lâu rồi! Còn chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!

    Nghe vậy, Angulimàla rất ngạc nhiên suy nghĩ: những Sa môn dòng Sakya này là bậc thường hay nói sự thật, nói như thế nào, làm như thế ấy; làm như thế nào, nói như thế ấy. Nhưng tại sao, ở đây, rõ là ông Sa môn này đang bước đi mà nói là: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn ta là người dừng chân lại rồi, ông Sa môn lại nói: "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!", thế là nghĩa làm sao?

    Angulimàla bèn hỏi Ðức Thế Tôn rằng:

    - Này ông Sa môn, rõ ràng ông đang đi mà lại nói: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn tôi thì đã dừng chân lại rồi nhưng ông lại nói "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại", nghĩa là sao?

    Ðức Phật thuyết giảng dạy Angulimàla rằng:

    - Này Angulimàla, thật vậy, Như Lai đã dừng lại lâu rồi. Nghĩa là Như Lai đã từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh từ lâu rồi; còn con chưa từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh. Vì vậy, Như Lai mới gọi "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại".

    Angulimàla vừa nghe xong, tỉnh thức ngay, liền ném các loại vũ khí xuống hố sâu bên sườn núi, vì biết rõ vị Sa môn này chính là Ðức Thế Tôn, bèn bạch rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài là bậc xứng đáng lễ bái cúng dường của chư thiên, Phạm thiên và nhân loại, với tấm lòng đại bi, Ngài ngự đến khu rừng này, để tế độ cho con thoát khỏi si mê lầm lạc, giúp cho con có được trí tuệ sáng suốt, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho con. Kể từ nay về sau, con xin nguyện từ bỏ mọi tội lỗi do thân, khẩu và ý. Mong Ngài minh chứng cho con, thành tâm sám hối tội lỗi này.

    Angulimàla bạch Ðức Thế Tôn xong, rồi đến quỳ đảnh lễ dưới chân Ðức Phật, cầu xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

    Với tâm từ bi quảng đại, với Phật nhãn thấy rõ phước duyên của Angulimàla đầy đủ tam y quả bát, các vật dụng của Sa môn, cho nên Ðức Phật đưa bàn tay phải chỉ ngón trỏ vào Angulimàla mà dạy rằng:

    "Ehi bhikkhu......".

    "Con trở thành Tỳ khưu như con đã xin phép. Pháp mà Như Lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối, con nên thực hành phạm hạnh cao thượng để giải thoát khổ hoàn toàn".

    Ðức Thế Tôn dạy xong, Angulimàla liền trở thành vị Tỳ khưu với tướng mạo và đầy đủ tám món vật dụng của Sa môn, phát sanh do phước duyên từ kiếp trước. Từ đây, Tỳ khưu Angulimàla thu thúc lục căn thanh tịnh như một vị Ðại đức cao hạ. Tế độ Angulimàla xong, Ðức Thế Tôn dẫn vị tân Tỳ khưu theo sau ngự đi về chùa Jetavana.

    ĐỨC VUA PANESADI CA TỤNG ĐỨC PHẬT

    Cũng trong khoảng thời gian ấy, Ðức vua Pasenadi xứ Kosala thân chinh dẫn một đoàn quân gồm 500 binh mã ra khỏi thành truy tìm Angulimàla. Khi gần đến chùa Jetavana, Ðức vua xuống ngựa đến hầu Ðức Phật. Thấy Ðức vua đến cùng một đoàn quân trang bị vũ khí và binh mã thiện chiến, Ðức Thế Tôn bèn hỏi Ðức vua Pasenadi:

    - Nầy Ðại vương, có phải vị vua các nước láng giềng khiêu chiến nên Ðại vương thân chinh, dẫn quân đi đánh phải không?

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, không phải Ðức vua Bimbasàra trị vì xứ Magadha làm cho con bực tức, cũng không phải Ðức vua Licchavi trị vì xứ Vesali chọc giận con, vua các nước lớn, nước nhỏ khác cũng không làm cho con phải khó chịu....

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, bởi vì trong nước của con có tên Angulimàla, kẻ cướp sát nhân rất hung ác và rất tinh nhuệ, nó đã giết nhiều người, cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ. Dân chúng ở gần khu rừng kinh sợ bỏ đi nơi khác lánh nạn, chịu bao nổi khổ cực thiếu thốn. Cho nên, hôm nay con phải đích thân dẫn tinh binh đi truy tìm Angulimàla, tên cướp sát nhân dã man tàn bạo ấy, đem về triều đình trị tội, để đem lại sự bình an cho dân chúng của con.

    - Này Ðại vương, nếu Ðại vương nhìn thấy Angu-limàla cạo râu tóc, mặc y cà sa xuất gia trở thành Tỳ khưu, hành phạm hạnh cao thượng, có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn thanh tịnh, thì Ðại vương đối xử với vị Tỳ khưu ấy như thế nào?

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, đối với vị Tỳ khưu ấy, con sẽ cung kính đón tiếp, đảnh lễ thỉnh mời ngồi chỗ cao quý và xin hộ độ tứ vật dụng.

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, nhưng Angulimàla là kẻ cướp sát nhân tàn bạo, không còn nhân tính, ác tâm phát sanh, khiến tạo mọi tội lỗi khủng khiếp, thì làm sao có thể trở thành vị Tỳ khưu có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn thanh tịnh cho được. Bạch Ngài.

    Lúc ấy, Tỳ khưu Angulimàla ngồi không xa chỗ Ðức Phật, Ngài đưa tay chỉ về phía Tỳ khưu Angulimàla và nói:

    - Này Ðại vương, vị Tỳ khưu đang ngồi ở chỗ kia chính là Angulimàla đó!

    Ðức vua Pasenadi vô cùng ngạc nhiên, vẽ mặt hoảng sợ, Ðức Phật liền trấn an:

    - Này Ðại vương, hãy bình tĩnh! Chắc chắn sẽ không bao giờ có một tai họa xảy đến cho Ðại vương nào do từ Angulimàla đâu!

    Nghe Ðức Phật dạy vậy, Ðức vua liền trấn tĩnh, nhưng không khỏi ngạc nhiên, nên đến gần vị Tỳ khưu Angulimàla bạch hỏi rằng:

    - Thưa Ngài, Ngài chính là Angulimàla phải không?

    - Phải vậy, thưa Ðại vương. - Vị Tỳ khưu đáp.

    Ðức vua vẫn chưa hết ngờ vực, hỏi tiếp.

    - Thưa Ngài, thân phụ và thân mẫu của Ngài tên gọi là gì?

    - Thưa Ðại vương, thân phụ của bần đạo tên gọi Gagga, thân mẫu tên gọi là Mantànì.

    Ðến đây, không còn nghi ngờ gì nữa, Ðức vua Pasenadi vô cùng hoan hỷ, cung kính đảnh lễ Tỳ khưu Angulimàlà và bạch rằng:

    - Cầu chúc cho người con thân yêu của quân sư Gagga và bà Mantanì được an vui! Con xin hộ độ bốn món vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bịnh cho Ngài.

    Angulimàla, sau khi trở thành Tỳ khưu đã nguyện thực hành hạnh đầu đà, tri túc trong bốn món vật dụng, nghe Ðức vua bạch như vậy nên thưa lại rằng:

    - Thưa Ðại vương, xin Ðại vương đừng bận tâm, vật dụng đối với bần đạo đủ rồi.

    Ðức vua Pasenadi thấy Ðức Phật đã cảm hoá được Angulimàla từ một tên cướp sát nhân dã man, hung ác đã trở thành một Tỳ khưu có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn thanh tịnh... mà không cần đến một vũ khí, quyền lực nào ngoài tâm đại bi vô lượng vô biên của Ngài. Một lòng tôn kính vô hạn phát sanh, Ðức vua quỳ đảnh lễ dưới chân Ðức Phật rồi tán dương rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn,

    Thật là một điều phi thường chưa từng có!

    Chỉ có Ngài mới có thể tế độ được người mà trên thế gian này không một ai có thể tế độ được! Chỉ có Ðức Thế Tôn mới có thể làm vắng lặng phiền não nơi người, mà không một ai có thể làm cho vắng lặng phiền não được!

    Với tâm đại bi vô lượng vô biên của Ðức Thế Tôn, đã dẫn dắt những người từ nơi si mê tăm tối, tìm đến chỗ ánh sáng trí tuệ kỳ diệu mà không một ai có thể làm được.

    Chính con đây, con không thể nào dùng quyền lực hay vũ khí để bắt buộc người khác cải tà quy chánh. Con hết lòng thành kính tri ân Ðức Thế Tôn vô thượng!

    Ðức vua Pasenadi đảnh lễ, bái biệt Ðức Thế Tôn và Tỳ khưu Angulimàla rồi dẫn quân trở lại kinh thành.

    Một buổi sáng, Ðại đức Angulimàla mặc y mang bát đi vào thành Sàvatthi để khất thực, khi đi dọc theo một con đường, Ngài nhìn thấy một thai phụ đang đau đớn quằn quại, vì không sanh con ra được, Ngài phát sanh tâm bi: "Ôi chúng sinh quá đau khổ, thật đáng thương xót thay!".

    Thấy cảnh đau khổ của người đàn bà ấy, khiến Ngài phát sanh tâm bi cứu khổ, tìm cách nào cứu bà đây? Ngài đi khất thực độ ngọ xong, trở về chùa Jetavana, Ngài liền vào hầu Ðức Phật bạch lại sự việc đã tận mắt chứng kiến, phát sanh tâm bi thương xót đến nỗi khổ của chúng sinh.

    Ðức Phật dạy:

    - Này Angulimàla, con hãy đi đến chỗ người đàn bà đang đau khổ ấy, phát nguyện bằng lời chân thật rằng:

    "Yato’ham bhagini ariyàya jàtiyà jàto, nàbhijànàmi, sancicca pànam jìvità voropetà. Tena saccena sotthi te hotu sottha gabbhassa".[*]

    "Này cô, kể từ khi bần đạo xuất gia trở thành Tỳ khưu trong dòng dõi Thánh tông, biết mình không cố ý sát hại chúng sinh. Do lời chân thật này, xin cho cô sinh nở được dễ dàng, thai nhi của cô cũng được an toàn".
    [*] Majjhimanikàya. Majhjhimapannàsa, đoạn kinh Angulimàlasutta

    Nghe theo lời chỉ giáo của Ðức Phật, Ðại đức Angulimàla đi lại chỗ người đàn bà ấy, Ngài ngồi bên ngoài bức màn che, với tâm bi, đọc lời chú nguyện: "Yato’ham bhagini ariyàya jàtiyà jàto, nàbhijànàmi, sancicca pànam jìvità voropetà. Tena saccena sotthi te hotu sottha gabbhassa." [**], mà Ðức Phật đã chỉ dạy.

    [**] Về sau, lời chú nguyện này trở thành kinh Paritta, có hiệu nghiệm mọi lúc, mọi nơi. Hễ có trường hợp người đàn bà nào khó sanh, đọc bài kinh này, chú nguyện trong ly nước, đổ trên đầu người đàn bà khó sanh ấy, ngay tức khắc người đàn bà ấy sinh con ra một cách dễ dàng, an toàn cả mẹ lẫn con.

    Lạ lùng thay! Lời chân thật vừa dứt, người đàn bà sinh đứa con một cách dễ dàng - như đổ nước ra khỏi bình - và hài nhi cũng được an toàn như ý nguyện.

    ĐẠI ĐỨC ANGULIMÀLA CHỨNG ĐẮC THÁNH QUẢ ARAHÁN

    Ðại đức Angulimàla sống riêng một mình nơi thanh vắng, không dễ duôi, tinh tấn tiến hành Tứ niệm xứ, bằng trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, Ngài đã chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được vô minh và tham ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tam minh.

    Như vậy, Ngài đã hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh đế, đồng thời hoàn thành xong phạm hạnh. Ngài biết rõ kiếp này là kiếp chót, không còn tái sanh kiếp nào khác nữa.

    Mặc dầu, sau khi Ðại đức Angulimàla đã trở thành bậc Thánh Arahán, tất cả mọi nghiệp (thiện nghiệp, ác nghiệp) mới không tạo, song nghiệp cũ vẫn còn có hiệu lực cho quả ở kiếp hiện tại, cho nên khi Ngài đi vào thành Sàvathi để khất thực, những cục đá, những khúc cây... người ta ném đi đâu đó lại rơi xuống trúng nơi đầu hoặc thân hình của Ngài, làm cho đầu bị chảy máu, thân hình bị bầm tím, y rách, bát bể... trông thấy thật đáng thương.

    Khi trở về, Ðại đức Angulimàla đến hầu Ðức Thế Tôn, Ngài thấy như vậy, khuyên dạy an ủi rằng:

    - Này Angulimàla, con hãy cố nhẫn nại, thay vì phải chịu quả khổ lâu dài ở trong điạ ngục, thì nay con chỉ chịu quả khổ một phần nào ở kiếp hiện tại này thôi.

    Ðại đức Angulimàla hoan hỷ vâng theo lời giáo huấn của Ðức Phật.

    ĐẠI ĐỨC ANGULIMÀLA CẢM HỨNG TỰ THUYẾT

    Ðại đức Angulimàla chỉ có một mình ở nơi thanh vắng, nhập Arahán Thánh Quả Ðịnh, hưởng sự an lạc giải thoát, khi xả định, Ngài cảm ứng tự thuyết những bài kệ rằng:

    "Người nào trước kia dễ duôi quên mình,
    Về sau có chánh niệm và tinh tấn,
    Người ấy làm cho đời thêm xán lạn,
    Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.
    Người nào đã tạo ác nghiệp tội lỗi,
    Quả ác được ngăn bởi 4 Thánh Ðạo,
    Người ấy làm cho đời thêm xán lạn,
    Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.
    Tỳ khưu nào dẫu còn thời trẻ trung,
    Tinh tấn hành theo giáo pháp Ðức Phật,
    Tỳ khưu ấy làm cho đời xán lạn,
    Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.

    Rồi tiếp theo Ðại đức rải tâm từ đến cho những người mà Ngài đã lầm lỡ, làm khổ trước đây bằng những bài kệ:

    "Này tất cả những người thù ghét tôi!
    Xin hãy đến đây lắng nghe chánh pháp.
    Mà tôi đã được nghe từ Ðức Phật,
    Hãy nên thân cận với bậc Thiện trí,
    Là bậc đã chứng ngộ pháp siêu thế,
    Xin hãy thực hành theo lời giáo huấn
    Của Ðức Phật cao thượng hơn chúng sinh.

    Này tất cả những người thù ghét tôi!
    Xin mời quý vị tùy thời nghe pháp.
    Bậc Thiện trí thường tán dương ca tụng,
    Pháp rải tâm từ và đức nhẫn nại,
    Lắng nghe và thực hành theo pháp ấy,
    Dập tắt được oan trái và hận thù.

    Này tất cả những người thù ghét tôi!
    Xin các người không nên làm khổ tôi,
    Và không nên làm khổ chúng sinh khác,
    Nên tinh tấn thực hành theo chánh pháp
    Chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả, Niết Bàn,
    Diệt đoạn tuyệt tham ái và phiền não.

    Ngài Ðại đức hướng dẫn cách tu hành bằng những bài kệ:

    Người nông dân cần nước,
    Làm mương dẫn nước vào.
    Người thợ làm mũi tên,
    Uốn cây tên cho thẳng.
    Người thợ mộc đẽo cây,
    Ðẽo cây theo ý mình.
    Cũng như bậc Thiện trí,
    Tự dạy mình mà thôi.
    Có người dạy súc vật,
    Dùng gậy, móc sắt, roi.
    Còn Ðức Phật dạy tôi,
    Bằng phép mầu cao thượng,
    Không quyền lực, vũ khí.
    Từ trước tôi làm hại,
    Tất cả mọi chúng sinh,
    Thế mà mang cái tên,
    Là A - him - sa - ka[*] .
    Kể từ nay về sau,
    Không làm hại ai cả,
    Ðúng nghĩa thật tên tôi.
    Trước kia tôi chính là,
    Một kẻ cướp sát nhân,
    Nổi danh khắp đó đây,
    Aí - gu - li- mà - la,
    Ðắm chìm trong nước xoáy,
    Sanh tử khổ luân hồi.
    Nay tôi đến quy y,
    Nơi Ðức Phật cao thượng.
    Từ trước tôi nổi danh,
    Aí - gu - li - mà - la,
    Kẻ giết người vấy máu.
    Nay chứng ngộ Niết Bàn,
    Nhổ gốc rễ tham ái,
    Chặt đứt mầm tái sanh.
    Tôi đã tạo ác nghiệp,
    Ðáng lẽ sa ác đạo,
    Chịu khổ đau nhiều kiếp.
    Nhờ chứng ngộ Thánh Ðạo,
    A - ra - hán Ðạo Tuệ,
    Diệt tận các phiền não,
    Tâm trong sạch thanh tịnh,
    Dùng vật thực không nợ.
    Người ngu không trí tuệ,
    Thường sống trong dễ duôi.
    Bậc Thiện trí hiểu biết,
    Giữ gìn không dễ duôi,
    Luôn luôn có chánh niệm,
    Như giữ gìn cuả báu.
    Chớ nên sống dễ duôi,
    Chớ say đắm ngũ trần.
    Người hành Tứ niệm xứ,
    Con đường duy nhất ấy,
    Luôn tinh tấn chuyên cần,
    không dễ duôi chánh niệm,
    Chứng đắc 4 Thánh Ðạo,
    4 Thánh Quả, Niết Bàn.
    Tôi đến với Phật giáo,
    Là sự đến tốt lành,
    Ðiều suy xét của tôi,
    Không phải là sai lầm.
    Tôi đã chứng đắc được,
    A-ra-hán Thánh Ðạo,
    A-ra-hán Thánh Quả,
    Cùng Niết Bàn cao thượng,
    Trong giáo pháp Ðức Phật.
    Sự xuất gia Tỳ khưu,
    Của tôi là cao quý,
    Chứng đắc thành bậc Thánh
    A-ra-hán, Tam minh,
    Hoàn thành lời Phật dạy.
    [*] A-him-sa-ka: vô hại, không làm hại chúng sanh.
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:38 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  6. #6

    Mặc định

    SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ NĂM

    ÐỨC PHẬT THẮNG NÀNG CINCÀMÀNAVIKÀ


    -ooOoo-

    Ðức Phật thắng nàng kỹ nữ Cincàmànavikà, nhờ pháp an tịnh.

    (Bộ Chú giải Dhammapadatthakathà, chuyện Cincànavikà; bộ Chú giải Jàtaka ...)

    Thuở ấy, Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Savàtthi, nhóm các tu sĩ ngoại đạo âm mưu với nàng kỹ nữ Cincàmànavikà vu oan, mắng nhiếc Ðức Phật, để làm mất uy tín của Ngài trước tứ chúng đệ tử (Chuyện xảy ra vào khoảng thời gian sau hạ thứ 7, chưa đến hạ thứ 8 của Đức Phật).

    Vào thời kỳ đầu của chánh pháp, các hàng đệ tử ngày một thêm đông, chư thiên, Phạm thiên, nhân loại đã chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả vô số không sao kể xiết. Vì vậy, danh thơm tiếng tốt của Ðức Phật lan toả khắp mọi nơi. Ðại đa số quần chúng trước kia có truyền thống theo các giáo phái ngoại đạo, nay đã trở thành đệ tử của Ðức Phật. Ðó là điều mà các tu sĩ ngoại đạo cảm thấy bị tổn thương, những tín đồ cũ không giữ lại được, tín đồ mới không thêm, sự cúng dường lợi lộc càng ngày càng giảm dần.

    Khi thấy quần chúng lũ lượt kéo nhau đi nghe pháp cúng dường tứ vật dụng đến Ðức Phật và Tăng chúng, các tu sĩ ngoại đạo đã ra đứng chặn giữa đường rồi lớn tiếng thuyết phục:

    - Không chỉ Sa môn Gotama là Ðức Phật mà chúng tôi đây cũng là Phật. Bố thí cúng dường đến Sa môn Gotama có phước nhiều, quả báu nhiều, thì bố thí cúng dường đến chúng tôi cũng như vậy!

    Mặc dù các tu sĩ ngoại đạo gắng sức rao truyền quảng cáo, cũng không thể đem lại đức tin cho quần chúng được nữa. Khi mà đức tin đã mất thì danh vọng, lợi lộc của chúng đều bị suy giảm. Bởi vậy, chúng họp bàn với nhau bày mưu kế thâm độc để hạ uy tín của Ðức Phật.

    Thời ấy, trong thành Savatthi có người kỹ nữ duyên dáng, xinh đẹp như thiên nữ tên là Cincàmàna-vikà, nàng vốn là đệ tử thuần thành của các tu sĩ ngoại đạo. Thấy sắc đẹp tuyệt trần của nàng Cincà-mànavikà, các tu sĩ ngoại đạo nghĩ ra diệu kế: "Chúng ta dùng nàng kỹ nữ Cincàmànavikà giả mang thai với Sa môn Gotama, gây ra sự hiểu lầm làm mất uy tín của y!".

    Mưu kế ấy được họ chấp nhận.

    Một hôm, như lệ thường nàng Cincàmànavikà đến tu viện ngoại đạo, làm lễ các tu sĩ xong, nàng ngồi một bên. Nàng Cincàmànavikà rất ngạc nhiên không hiểu sao hôm nay các tu sĩ ngồi im lặng không nói với nàng một câu nào. Nàng thoáng nghĩ: "Mình có lỗi gì đây".

    Nàng bạch vị Trưởng lão rằng:

    - Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng con không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?

    Vị trưởng lão tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng:

    - Không! Này con, con là một đệ tử rất tốt, con không có lỗi gì! Hiện nay đời sống của quý thầy khổ sở, thiếu thốn lắm con à, vì vậy, quý thầy buồn bực, khổ tâm, không ai buồn nói với ai điều gì nữa.

    Nàng Cincàmànavikà ngạc nhiên nóng lòng hỏi:

    - Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?

    - Này Cincàmànavikà, con không biết gì hay sao? Chính Sa môn Gotama đã làm khổ quý thầy, chính Sa môn Gotama đã làm mất hết cả uy tín, danh vọng và những lợi lộc cúng dường... cho nên, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy.

    Nàng Cincàmànavikà cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa:

    - Vậy mà con có hay biết gì đâu? Không biết con có thể làm gì, để giúp đỡ cho quý Ngài?

    Các vị tu sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói:

    - Chỉ sợ con ngại khó, mà không giúp quý thầy đó thôi.

    Nàng Cincàmànavikà mau mắn đáp:

    - Không, khó khăn gì con cũng có thể làm được, miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi.

    Vị tu sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói:

    - Ðây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý thầy, thì chỉ có một phương pháp duy nhất là con hãy dùng cái sắc đẹp duyên dáng đầy quyến rũ của con, làm thế nào đó giả mang thai với Sa môn Gotama. Con làm được như vậy, sẽ làm giảm uy tín của Sa môn Gotama, như thế thì phần đông tín đồ của Sa môn Gotama sẽ trở về lại với chúng ta.

    Nàng Cincàmànavikà hớn hở nói:

    - Ðúng vậy, kế này rất hay! Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.

    Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sàvatthi sau khi nghe Ðức Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, đảnh lễ Ðức Phật trở về nhà, họ thường gặp nàng Cincàmànavikà ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay đang đi trên đường hướng đến chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi:

    - Chiều tối rồi, cô đi đâu mà ăn mặt đẹp vậy?

    Nàng Cincàmànavikà trả lời cố ý tạo ra một sự nghi ngờ:

    - Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

    Nói xong, nàng bước đi theo hướng đến chùa Jetavana, nhưng lại nghĩ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.

    Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận sự nam, cận sự nữ đem vật dụng đến chùa Jetavana để cúng dường Ðức Phật và Tăng chúng, thì thấy nàng Cincà-mànavikà từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Savatthi, người ta lại hỏi nàng:

    - Ðêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

    Nàng Cincàmànavikà ỡm ờ đáp:

    - Tôi nghỉ đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!

    Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, nàng Cincàmàna-vikà đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận sự nam, cận sự nữ khác hỏi rằng:

    - Ðêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

    Nàng Cincàmànavikà thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực.

    - Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi mà! Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin khai thật: "Ðêm qua tôi nghỉ ở Gandhakuti chung với Sa môn Gotama để phục vụ Ngài, là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi". Nói xong, nàng tỏ vẻ đắc ý bỏ vào thành.

    Khi nghe nàng Cincàmànavikà nói vậy, có số cận sự nam, cận sự nữ thiểu trí nên sanh tâm bán tín bán nghi cho đến khi trải qua 3-4 tháng, nàng Cincà-mànavikà lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài làm như người đang mang thai. Có một số người không có trí tuệ, không hiểu biết về giáo pháp của Ðức Phật nghĩ là cô Cincàmànavikà thật sự có thai với Sa môn Gotama rồi.

    Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Ðức Thế Tôn đến hồi chung cuộc. Nhóm tu sĩ ngoại đạo gọi nàng Cincàmànavikà đến, họ dùng một miếng gỗ đẻo hình dạng giống như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có bốn đầu giây ràng, bảo nàng Cincà-mànavikà mang vào buộc chặt sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người mang thai thật, xong nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng cây đánh ở sống bàn tay, bàn chân cho sưng lên nhìn đúng là người đàn bà sắp đến thời kỳ sinh nở.

    ĐỨC PHẬT THẮNG NÀNG CINCÀMÀNAVIKÀ

    Vào một buổi chiều, khi Ðức Phật đang ngự trên pháp toà, tại giảng đường chùa Jetavana, tứ chúng đệ tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì nàng Cincàmànavikà từ ngoài xồng xộc đi vào, đến trước Ðức Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:

    - Này ông đại Sa môn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ? Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ.... Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dầu ông bận không lo cho tôi được, thì ông bảo những người hộ độ ông như Ðức vua Pasenadi, ông phú hộ Anàthapindika, bà Visàkhà... lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thoả mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây!

    Nghe nàng Cincàmànavikà mắng nhiếc, Ðức Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại, an tịnh trên pháp toà rồi từ tốn nói:

    "Bhagini, tayà kathitassa tathabhàvam và vitathabhàvam và ahameva ca tvanca jànàma".[*]

    - Này cô em! Cô nói lời chân thật hay giả dối chỉ có Như Lai và cô biết rõ mà thôi?
    [*] Bộ Chú giải Dhammapadatthakathà, chuyện Cincàmànavikàvatthu

    Nàng Cincàmànavikà liền đáp:

    - Ðúng vậy, này ông đại Sa môn! Chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi!

    Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam thập tam thiên, bảo toà của vua trời Sakka nóng lên, bằng thiên nhãn quan sát nguyên nhân, vua trời thấy rõ ràng nàng Cincàmànavikà đang mắng nhiếc Ðức Phật trước tứ chúng đệ tử, bởi những chuyện không có thật. Ðây là âm mưu thâm độc của nhóm tu sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ nữ Cincàmànavikà vô liêm sỉ, cố ý làm hạ uy tín của Ðức Phật trước tứ chúng đệ tử. Vua trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Vua trời cùng bốn thiên nam xuất hiện xuống giảng đường chùa Jetavana ngay tức khắc. Bốn vị thiên nam, theo lệnh của vua trời hoá thành bốn con chuột, cùng một lúc bò lên cắn đứt bốn sợi dây cột tấm gỗ, hình dạng giống bào thai ràng buộc sau lưng nàng Cincàmànavikà, đồng thời vua trời hoá một luồng gió thổi cho tấm gỗ kia rơi xuống đất đụng nhằm hai bàn chân của nàng Cincàmànavikà, làm cho đôi chân của nàng bầm máu.

    Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên phơi bày trước mắt tứ chúng đệ tử. Nàng Cincàmànavikà bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người đánh đập, nhổ nước bọt rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên chùa. Nàng Cincàmànavikà thất vọng, thất tha thất thểu bước đi ra vừa khuất tầm mắt của mọi người, mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy nàng rồi rút xác nàng xuống sâu dưới lòng đất. Sau khi nàng Cincàmànavikà chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avìci chịu quả khổ do ác nghiệp đã tạo.

    Chuyện nàng Cincàmànavikà vu khống Ðức Phật đã lan truyền khắp mọi nơi, từ xứ này sang xứ khác. Và ai ai cũng đều biết đó là âm mưu thâm độc đê tiện của nhóm tu sĩ ngoại đạo. Một số người trước kia còn hộ độ nhóm tu sĩ ngoại đạo, nay họ nghe thấy như vậy, mất hết đức tin, nên không còn phát tâm cúng dường các món vật dụng cho nhóm tu sĩ ngoại đạo nữa, đời sống của nhóm tu sĩ ngoại đạo thiếu thốn khổ cực nay lại càng tệ hại hơn nữa.

    Trái lại, dân chúng khắp mọi nơi phát sanh thiện tâm trong sạch cúng dường Ðức Phật và chư Tăng các món vật dụng sung túc, bởi vì, số người nào chưa có đức tin thì nay lại có đức tin nơi Tam bảo, số người nào đã có đức tin nơi Tam Bảo rồi lại càng thêm tăng trưởng.

    Ðức Phật đã thắng lời vu khống của nàng Cincàmànavikà nhờ pháp an định.

    CÂU CHUYỆN TIỀN KIẾP

    Ngày hôm sau, trong giảng đường chùa Jetavana, chư Tỳ khưu hội họp bàn luận chuyện nàng Cincàmànavikà vu khống, mắng nhiếc Ðức Phật, do đó, nàng bị lửa thiêu, đất rút chết rồi sa vào cõi điạ ngục Avìci, chịu quả khổ lâu dài do ác nghiệp của mình đã tạo, vừa lúc ấy, Ðức Thế Tôn ngự đến, Ngài hỏi:

    - Này chư Tỳ khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?

    Chư Tỳ khưu bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng con đang bàn luận về chuyện nàng Cincàmànavikà.

    Ðức Phật dạy:

    - Này chư Tỳ khưu, không phải chỉ kiếp hiện tại này, nàng Cincàmànavikà mới vu khống, mắng nhiếc Như Lai, để dẫn đến quả khổ tai hại đất rút chết rồi sa vào địa ngục Avìci, mà trong kiếp quá khứ của cô ta cũng từng làm như vậy.

    Nghe dạy vậy, muốn biết chuyện tiền kiếp của nàng Cincàmànavikà, chư Tỳ khưu kính thỉnh Ðức Phật thuyết lại chuyện tiền kiếp của nàng.

    Tóm lược như sau:

    Một thời quá khứ xa xưa, có Ðức vua Brahma-datta trị vì xứ Bàranasì. Lúc ấy, Ðức Bồ Tát hạ sanh vào lòng Hoàng hậu của Ðức vua Brahmadatta. Khi Ðức Bồ Tát chào đời, Ðức vua, Hoàng hậu và cả hoàng tộc đều vui mừng hớn hở, nhìn thấy Ðức Bồ Tát đẹp đẽ và dịu hiền như một đoá hoa sen mới nở, nên đặt tên cho Thái tử là Paduma.

    Thái tử trưởng thành, tài trí và đức hạnh đều vẹn toàn, được Ðức vua, Hoàng hậu, hoàng tộc và cả triều đình thảy đều quý mến. Vì muốn cho Thái tử văn võ thảy đều song toàn, nên Ðức vua đã gửi Thái tử đi học ở xứ Takkasilà. Lúc Thái tử thành tài trở lại hoàng cung thì Hoàng hậu đã quy thiên, Ðức vua phong một người thứ phi còn trẻ lên ngôi Hoàng hậu và tấn phong cho Thái tử làm phó vương.

    Nhằm lúc biên thùy nổi loạn, Ðức vua thân chinh cầm quân dẹp loạn. Trước khi ra đi, Ðức vua bảo Hoàng hậu rằng:

    - Này ái khanh, ái khanh ở lại bảo trọng sức khoẻ, còn trẫm phải ra biên thùy dẹp loạn, chẳng bao lâu, trẫm sẽ trở về!

    Ðức vua dạy Thái tử phó vương:

    - Bây giờ hoàng nhi thay cha cầm quyền trị nước! Ðối với quần thần, con phải anh minh sáng suốt, phán xét mọi việc công minh chánh trực. Ðối với Hoàng hậu con phải phụng dưỡng giống như mẫu hậu của con vậy!

    Ðức Bồ Tát phó vương tuân lệnh, rồi đưa tiễn vua cha lên đường.

    Ðức vua đi rồi, phó vương ở lại chăm lo việc triều chính một cách nghiêm minh, quần thần đều mến phục. Phó vương thỉnh thoảng ghé thăm Hoàng hậu, vấn an sức khoẻ, thăm hỏi ân cần, lễ độ đúng theo bổn phận làm con, như vua cha truyền dạy. Nhưng Hoàng hậu nhìn thấy phó vương trẻ đẹp như vị thiên thần nên phát sanh tâm dục vọng. Tuy nhiên, chính sự lễ độ, tôn trọng của phó vương làm cho bà chưa dám hành động xấu.

    Ðức vua dẹp loạn xong, dẫn quân trở về kinh thành. Giữa đường Ðức vua ra lệnh cho tướng sĩ dựng trại nghỉ ngơi, rồi truyền các quan báo tin cho Thái tử phó vương trang hoàng nội cung để ăn mừng chiến thắng. Thái tử được tin phụ vương sắp trở về nên lo trang hoàng cung điện thật lộng lẫy. Lúc ấy, Thái tử một mình đến thăm kế mẫu. Riêng bà Hoàng hậu đã có tâm dục vọng thấp hèn từ lâu, nên vừa nhìn thấy Thái tử liền phát sanh tâm ái dục.

    Thái tử làm lễ xong bèn thưa:

    - Kính thưa mẫu hậu, mẫu hậu cần việc gì để con phụng sự?

    - Bà lả lơi nói rằng: "Từ nay chàng đừng gọi em là mẫu hậu nữa!".

    Rồi bà bước xuống nắm tay Thái tử và bảo:

    - Chàng hãy bước lên cùng em.

    Thái tử quá đỗi ngạc nhiên và thưa:

    - Thưa mẫu hậu, người nói gì vậy?

    Bà mĩm cười khiêu gợi, dịu dàng nói:

    - Chàng và em hưởng lạc trong lúc Ðức vua chưa trở về.

    Vẽ mặt Thái tử trang nghiêm thưa:

    - Thưa mẫu hậu, mẫu hậu là Hoàng hậu của phụ vương, là kế mẫu của con, con đâu dám làm chuyện tày trời như thế được?

    Bà Hoàng hậu nài nỉ hai ba lần, Thái tử vẫn một mực từ chối. Bực mình quá, bà vừa ra lệnh vừa hăm doạ:

    - Nếu ngươi cả gan không chịu làm theo lời của ta, ta sẽ trình tâu với Ðức vua, ngươi dụ dỗ ta không được nên cưỡng bức, hãm hiếp ta! Lúc ấy, Ðức vua sẽ hành tội giết chết ngươi.

    Thái tử vẫn dõng dạc nói:

    - Thưa mẫu hậu, con chẳng bao giờ làm trái với luân thường đạo lý, còn mẫu hậu trình tâu với Ðức vua thế nào tuỳ mẫu hậu!

    Thái tử xin phép lui ra.

    Bà hoàng hậu vừa tức giận, vừa hổ thẹn, và lúc ấy bà sực tỉnh mà sợ rằng:

    "Nếu Thái tử Paduma tâu Ðức vua biết chuyện này, thì ta khó sống nỗi, vậy ta phải hạ thủ trước mới được!".

    Thế rồi đ? thực hiện việc dã tâm, bà bắt đầu nhịn ăn, mặc y phục cũ, lấy tay cào cấu thành vết trầy trụa trên thân thể rồi dạy bảo các người hầu nữ rằng:

    - Này các em, Ðức vua trở về có hỏi đến ta thì nói Hoàng hậu lâm bệnh nặng.

    Nói xong, bà bước vào hậu cung đóng kín cửa.

    Ðức vua về đến kinh thành, Ðức phó vương dẫn bá quan ra tận cổng thành nghinh đón Ðức vua, quỳ lạy và tung hô vạn tuế. Ðức vua Brahmadatta hài lòng hỏi han công chuyện ở triều đình, Ðức phó vương trình tâu vắn tắt nhưng đầy đủ, bước vào cung điện, thấy trần thiết huy hoàng, các quan đứng theo vị trí rất chỉnh tề và thứ tự. Ðức vua không ngớt khen ngợi là phó vương có đầu óc, biết tổ chức và xắp xếp mọi việc.

    Sau khi bá quan lui ra, quân lính trở về doanh trại đợi lệnh khen thưởng, Ðức vua liền đi thẳng vào nội cung, không thấy Hoàng hậu đón tiếp như mọi lần, Ðức vua bèn hỏi người hầu nữ:

    - Hoàng hậu ở đâu mà sao trẫm không thấy?

    - Tâu đại vương, lệnh bà lâm bịnh nặng đang nằm trong hậu cung.

    Ðức vua đến nơi thăm hỏi, nhưng hỏi thế nào hoàng hậu vẫn im lặng không đáp, Ðức vua lấy làm bực mình hỏi gắt:

    - Này ái khanh, lý do gì mà ái khanh không nói chuyện với trẫm?

    Bà ngồi dậy khóc ấm ức, tức tửi tâu rằng:

    - Tâu Hoàng thượng, thần thiếp là Hoàng hậu của Hoàng thượng thế mà có người bức hiếp thần thiếp đến như thế này!

    Chưa rõ nguồn cơn ra sao, Ðức vua đã nổi trận lôi đình.

    - Ai dám bức hiếp ái khanh? Hãy nói cho trẫm biết ngay, trẫm sẽ trị tội chết.

    Bà hoàng hậu tâu:

    - Tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng trao quyền cho ai trông coi kinh thành này, lúc Hoàng thượng đi dẹp loạn?

    - Chẳng lẽ là hoàng nhi, phó vương Paduma?

    Bà cất giọng khẳng định:

    - Tâu Hoàng thượng, chính là vị phó vương cao quý của bệ hạ, chính y đến nơi đây muốn cưỡng bức thần thiếp cho thoả mãn dục vọng của y, mặc dầu thần thiếp khẩn khoản van xin: "Này hoàng nhi, con đừng làm việc tội lỗi loạn luân như vậy, dù sao ta cũng là Hoàng hậu của phụ vương con, là kế mẫu của con!".

    Nghe thần thiếp nói vậy, Thái tử buông lời ngạo mạn khi quân: "Ngoài ta ra, còn ai là Hoàng thượng nữa, vậy em hãy cùng ta hưởng lạc thú ái ân!". Thần thiếp không chịu làm theo ý ngông cuồng của Thái tử, lúc ấy Thái tử tức giận nắm lấy đầu tóc của thần thiếp lôi đi, đánh đập thần thiếp một cách dã man, không thoả mãn dục vọng của mình, phó vương tức giận bỏ đi ra.

    - Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu thần thiếp!

    Ðức vua nhìn thấy những vết trầy trụa trên thân hình của Hoàng hậu, người nổi cơn thịnh nộ, rồi tức tốc ra lệnh cho nhóm ngự lâm quân đến lâu đài của phó vương Paduma, bắt phó vương trói lại bằng sợi dây xích sắt, lôi đi quanh thành, đồng thời cho lính dùng loa tuyên bố tội trạng của phó vương cho muôn dân được biết:

    "Phó vương toan phạm tội loạn luân, dùng vũ lực bức hiếp Hoàng hậu là mẹ kế của mình".

    Ðức phó vương biết rõ đây là âm mưu thâm độc của Hoàng hậu muốn hại mình, nên nói với dân chúng rằng: "Ta không phải là con người xấu xa đê tiện như vậy! Ta hoàn toàn vô tội!".

    Dân chúng trong thành Bàranasì từ lâu biết Ðức phó vương là bậc Thiện trí, chẳng bao giờ làm đều trái luân thường đạo lý, chắc chắn đó là âm mưu độc ác vu khống đức phó vương, mọi người nghẹn ngào khóc than rằng: "Sự việc này không đáng xảy ra cho đức phó vương, chúng tôi biết Ngài bị hàm oan".

    Nhóm ngự lâm quân giải Ðức phó vương đến quỳ dưới chân Ðức vua Barahmadatta, vừa thấy mặt Ðức phó vương, Ðức vua nổi cơn giận dữ tuyên bố giữa đám quần thần rằng:

    - Thái tử này chưa phải là vua mà tự xưng mình là vua trước mặt Hoàng hậu, ấy là khi quân, phạm thượng - tội thứ nhất.

    - Tội thứ hai, dám cả gan toan bức hiếp Hoàng hậu, kế mẫu của y, phạm tội loạn luân.

    Nay ta phán lệnh án:

    - Các ngươi đem Thái tử ném xuống vực sâu, chỗ thường hay hành hình bọn cướp, cho nó chết tan xương nát thịt.

    Thái tử có vẻ điềm tĩnh, từ tốn tâu phụ hoàng rõ:

    - Tâu phụ vương, con biết rõ, con không làm điều gì nên tội, con hoàn toàn vô tội, xin phụ vương hãy nên suy xét lại cho phân minh, chính chắn, xin đừng tin những lời của kế mẫu, mà giết oan con.

    Lúc ấy, hàng trăm cung phi mỹ nữ ôm nhau than khóc tỏ ý vô cùng thương tiếc vị Thái tử hiền lành phúc hậu, các vị bô lão trong hoàng tộc và các quan đại thần trong triều đồng bước ra quỳ xuống trình tâu:

    - Muôn tâu bệ hạ, Ðức phó vương là người có tài đức vẹn toàn, có đức hạnh cao quý, lẽ nào lại làm việc trái với luân thường đạo lý? Xin bệ hạ hãy suy xét phân minh, trước khi phán quyết tội trạng kẻo hối hận thì đã muộn rồi!

    Ðức vua giận dữ mà phán rằng:

    - Tại sao các ngươi đồng bênh vực cho Thái tử, lại chẳng có ai lên tiếng bảo vệ Hoàng hậu là người đức hạnh đoan trang, hiền thục vậy!

    Ta truyền lệnh: "Ðem Thái tử Paduma ném xuống hố sâu, chỗ thường hay ném các tên cướp ngay!".

    Lệnh phán truyền tối hậu của Ðức vua làm cho mọi người bàng hoàng, một số ngất đi, một số ngậm ngùi than khóc.

    Nhìn cảnh tượng ấy, Ðức vua suy nghĩ: "Ai ai cũng tỏ vẻ thương tiếc Thái tử cả, trước tình trạng này, thì chính ta phải đích thân theo lên núi truyền lệnh cho lính nắm hai chân hắn đưa lên trên, đầu dốc ngược xuống, rồi ném xuống vực thẳm. Nếu không có ta, bọn lính kia thương mến Thái tử, âm mưu tha chết cho Thái tử, ta làm sao biết được!".

    Dầu biết mình sắp chết, Ðức phó vương vẫn rải tâm từ đến Ðức vua, Hoàng hậu, tất cả mọi người, tâm không sân, không hận, chư thiên ở núi rừng thương mến Ðức Bồ Tát nên hiện ra cốt để cho một mình Ðức Bồ Tát nhìn thấy, rồi thưa rằng:

    - Xin Thái tử an tâm, có chúng tôi cứu Ngài.

    Khi Thái tử vừa rơi xuống vực sâu, Long vương hiện ra dùng thần thông đón nhận Thái tử một cách nhẹ nhàng, Long vương cung thỉnh Ðức Bồ Tát về long cung, rồi chia cho Ðức Bồ Tát một nửa giang sơn để cùng nhau trị vì.

    Ðức Bồ Tát hưởng an lạc tại cõi Long cung được một năm, sau đó Ðức Bồ Tát khẩn khoản xin Long vương trở lại cõi người với ý nguyện xuất gia làm đạo sĩ, Long vương rất kính phục Ðức Bồ Tát và tôn trọng nguyện vọng của Ngài nên làm lễ tiễn đưa Ngài đến tận núi Himavantu.

    ĐỨC BỒ TÁT XUẤT GIA LÀM ĐẠO SĨ

    Ðức Bồ Tát vào dãy núi Himavantu xuất gia làm đạo sĩ, hằng ngày sống bằng các loại trái cây và thực hành pháp hành thiền định, một thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc Bát thiền (4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc), và đắc ngũ thông (thần thông, nhãn thông, nhĩ thông, túc mạng thông và tha tâm thông).

    Một hôm có người thợ săn gặp Ðức Bồ Tát đạo sĩ, nhìn thấy hình dáng, khuôn mặt của Ðức Bồ Tát, người thợ săn vô cùng ngạc nhiên, kính cẩn hỏi rằng:

    - Kính thưa đạo sĩ, có phải Ngài là Thái tử Paduma không?

    Ðức Bồ Tát đạo sĩ chân thật đáp:

    - Phải, trước đây, bần đạo ta Thái tử Paduma, con của Ðức vua Brahmadatta.

    Người thợ săn gặp lại Thái tử Paduma là đạo sĩ cảm thấy rất hãnh diện, vui mừng nên tình nguyện ở lại vài ngày để hầu hạ đạo sĩ. Mấy hôm sau trở lại kinh thành, ngươi thợ săn ngay lập tức đến cung điện xin bệ kiến Ðức vua Brahmadatta rồi tâu trình rằng:

    - Muôn tâu Hoàng thượng, hạ thần có gặp một đạo sĩ, chính là Thái tử Paduma con của Hoàng thượng, ở trong một cốc lá tại núi Himavantu, hạ thần đã ở đó mấy hôm để hầu hạ Ngài.

    Ðức vua Brahmadatta đích thân ra lệnh ném Thái tử xuống vực sâu trong lúc nóng giận, không suy xét chín chắn, lúc bình tĩnh, Ðức vua hồi tưởng lại gương mặt hiền hậu và thông minh sáng suốt của Thái tử, đặc biệt nhất là tính tình trung thực, từ nhỏ đến lớn chưa hề nói lời dối trá, dầu là việc nhỏ. Thái tử làm thế nào, nói thế ấy; nói thế nào, làm thế ấy. Ðức vua nhớ lại lời Thái tử tâu "Con hoàn toàn vô tội, xin phụ vương hãy suy xét lại cho phân minh chín chắn, xin đừng tin những lời của kế mẫu mà giết oan con!". Chắc chắn đó là những lời chân thành của Thái tử, giờ đây văng vẳng bên tai. Và còn những lời của các vị trung thần tâu: "Ðức phó vương là người có tài đức vẹn toàn, có đức hạnh cao quý, lẽ nào lại làm việc trái với luân thường đạo lý, xin bệ hạ hãy suy xét phân minh trước khi phán quyết tội trạng, kẻo hối hận thì đã muộn rồi!".

    Ðúng là bây giờ ta ăn năn hối hận thì đã muộn rồi!

    Bây giờ nghe người thợ săn báo tin Thái tử còn sống, Ðức vua xiết bao vui mừng, cất giọng hỏi dồn dập:

    - Quả thật vậy không? Chính ngươi thấy tận mắt ư? Ðúng đạo sĩ là Thái tử Paduma con của trẫm đó chứ?

    Người thợ săn khẳng định chắc chắn một lần nữa:

    - Ðúng vậy, tâu bệ hạ, chính hạ thần đã nghe rõ vị đạo sĩ đã xác nhận: "trước đây, bần đạo là Thái tử Paduma con của Ðức vua Brahmadatta", hạ thần đã ở hầu Thái tử mấy ngày qua.

    Vô cùng vui mừng, ngay tức khắc Ðức vua ra lệnh chuẩn bị xa giá, triệu tập các vị bô lão trong hoàng tộc, các quan đại thần cùng quân lính rầm rộ kéo đến núi Himavantu để nghinh đón Thái tử, có người thợ săn dẫn đường.

    Ðến bìa rừng, Ðức vua ra lệnh đóng quân, còn Ðức vua cùng các vị bô lão, đại thần đi bộ đến cốc lá của Thái tử Paduma.

    Ðức Bồ Tát đón tiếp, vấn an phụ vương và các quan rồi mời dùng trái cây rừng thanh đạm. Ðức vua nhìn thấy Thái tử sắc diện tươi trẻ, trầm tỉnh đáng kính, hàn huyên câu chuyện, Ðức vua tò mò hỏi lý do làm sao Thái tử đã rơi xuống vực sâu mà còn sống được?

    Ðức Bồ Tát thành thật kể lại rằng:

    - Thưa phụ vương, khi con vừa rơi xuống thì có chư thiên và Long vương cứu giúp. Long vương thỉnh xuống long cung chia một nửa giang sơn cho con trị vì, được một năm, con xin trở lại cõi người để xuất gia làm đạo sĩ.

    Nghe xong, Ðức vua vô cùng hoan hỷ bèn quỳ xuống, Ðức Bồ Tát liền đỡ vua cha lên, Ðức vua nói:

    - Này hoàng nhi, phụ vương hoàn toàn tin theo lời của con, phụ vương là người si mê, đã tin theo lời người đàn bà làm cho con khổ, phụ vương đã biết lỗi của mình, chính con là bậc có giới đức trong sạch hoàn toàn.

    Ðức vua nói xong, liền quỳ xuống đảnh lễ đạo sĩ và tiếp:

    - Này hoàng nhi, xin con từ bi tha thứ những lỗi lầm của phụ vương.

    Ðức Bồ Tát đạo sĩ thưa:

    - Kính thưa phụ vương, sự việc đã qua rồi, con không dám bắt lỗi phụ vương đâu, con chỉ xin phụ vương dầu việc nhỏ hay lớn, phụ vương nên suy xét cho chu đáo, phân minh rồi mới phán quyết, để cho thần dân thiên hạ được nương nhờ đức lành của bậc thiên tử.

    Ðức vua hoan hỷ tiếp lời:

    - Này hoàng nhi, phụ vương xin thỉnh mời con về triều, phụ vương sẽ làm lễ truyền ngôi cho con theo truyền thống của dòng tộc. Nếu được vậy, thứ nhất là phụ vương có cơ hội chuộc lại lỗi lầm, thứ hai là chứng tỏ con đã thật sự tha thứ cho phụ vương và thứ ba là thần dân trăm họ được hưởng đức lành của đấng minh quân.

    Ðức Bồ Tát đạo sĩ thưa:

    - Con xin tri ân phụ vương, con xin phép thưa phụ vương rằng: ví như người nuốt phải lưỡi câu, may mắn làm sao, người ấy nhả được lưỡi câu dính đầy máu kia ra rồi, được an lạc như thế nào, người xuất gia làm đạo sĩ cũng cảm thấy mình như thế ấy.

    Ðức vua bèn hỏi:

    - Này con, xin giải thích cho cha hiểu:

    "Cái gì gọi là lưỡi câu?".
    "Cái gì gọi là lưỡi câu dính đầy máu?".
    "Thế nào gọi là nhả lưỡi câu dính đầy máu?".

    Ðức Bồ Tát đạo sĩ điềm nhiên giải thích.

    - Kính thưa phụ vương, kính xin phụ vương hiểu như vầy:

    * Ngũ trần: sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm ấm gọi là lưỡi câu.

    * Ngai vàng, danh vọng, vợ đẹp, con yêu, ngọc ngà, châu báu của cải, sự nghiệp... gọi là lưỡi câu dính đầy máu.

    * Sự từ bỏ tất cả đi xuất gia, không dính mắc gì cả gọi là nhả lưỡi câu dính đầy máu.

    Ðức Bồ Tát đạo sĩ thưa tiếp:

    - Thưa phụ vương, bây giờ con đã xuất gia trở thành đạo sĩ rồi, nên việc phụ vương truyền ngôi cho con là không thể chấp nhận được. Kính xin phụ vương tiếp tục trị vì xứ sở bằng thiện pháp; đừng để bốn pháp thiên vị: thiên vị vì thương, thiên vị vì ghét, thiên vị vì si mê, thiên vị vì sợ chi phối làm ô nhiễm tâm trí của phụ vương, hầu đem lại sự an vui, hạnh phúc cho thần dân thiên hạ, đem lại thái bình thịnh vượng cho xứ sở.

    Ðức vua vô cùng cảm kích trước tấm lòng cao quý của Thái tử và cảm động quá, Ðức vua đã khóc thật, những giọt nước mắt của sự ăn năn biết lỗi, nhưng đành phải từ giã Thái tử cao quý, bậc đạo sĩ cao thượng có giới đức trong sạch, có trí tuệ siêu phàm trở lại hoàng cung.

    Trên đường về, Ðức vua hỏi các quan:

    - Trẫm phải xa cách Thái tử, người con cao quý, bậc có giới đức và trí tuệ trong sáng, lý do bởi đâu hở các khanh ?

    Một lão thần tâu:

    - Tâu bệ hạ, bởi do Hoàng hậu.

    Ðức vua truyền lệnh bắt Hoàng hậu ném xuống vực sâu, chỗ trước đây đã ném Thái tử.

    Từ đó về sau, Ðức vua Brahmadatta trị vì đất nước bằng thiện pháp, tránh bốn pháp thiên vị, đem lại sự an lạc cho hoàng tộc và thần dân thiên hạ trong xứ sở.

    Ðức Phật thuật lại chuyện tiền thân ở quá khứ. Bây giờ, kiếp hiện tại những nhân vật là:

    - Bà kế mẫu kiếp trước kia, nay kiếp hiện tại này là nàng Cincàmànavikà.

    - Phụ vương Brahmadatta, kiếp hiện tại này là Tỳ khưu Devadatta.

    - Long vương cứu Thái tử, kiếp hiện tại này là Ðại đức Ànanda.

    - Chư thiên hộ trì Thái tử, kiếp hiện tại này là Ðại đức Sàriputta.

    - Thái tử Paduma, kiếp hiện tại này chính là Như Lai.

    -ooOoo-
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:39 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  7. #7

    Mặc định

    SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ SÁU

    ÐỨC PHẬT CẢM THẮNG BÀ LA MÔN SACCAKA


    -ooOoo-

    Ðức Phật cảm thắng Bà la môn Saccaka đầy kiêu căng và tự phụ, do nhờ đuốc tuệ.

    (Phỏng theo bài kinh Cùlasaccakasutta, Majjhimanikàya Mùlapannàsa)

    Saccaka là con trai của hai ông bà Bà la môn Nigantha, họ nổi tiếng thông thái, uyên bác có tài hùng biện, vì mỗi người học hiểu 500 luận thuyết, nên tài vấn đáp của hai ông bà ít ai sánh nổi. Saccaka là người con được thừa huởng di sản tinh thần sở học của cha và mẹ. Ngoài ra, Saccaka còn theo học tất cả các giáo lý của các phái ngoại đạo đương thời, để biết rõ sở trường, sở đoản, điểm ưu, điểm khuyết của các giáo phái ấy nữa. Bởi thế, càng lớn lên, tiếng tăm của Saccaka càng vượt trội hơn cả cha mẹ, trở thành nhà hùng biện vô địch. Khi gặp các nhà luận sư trưởng của các phái, mở cuộc tranh biện, thì bao giờ chàng cũng là kẻ thắng cuộc. Các cuộc đấu trí trổ tài hùng biện, chàng đều là kẻ chiếm thượng phong, chưa có một Sa môn, Bà la môn nào có đủ tài trí khả dĩ xứng đáng là đối thủ của chàng.

    Và kể từ đó, Saccaka tự cho mình có tài trí hơn người, sanh tâm ngã mạn, một số đông quần chúng hết lời ca tụng về tài hiểu biết sâu rộng của chàng. Quá kiêu căng tự phụ về sở học của mình, sự hiểu biết nhiều quá sợ có ngày vỡ bụng nên Saccaka làm một dây nịt bằng sắt ràng rịt cái bụng lại.

    Danh tiếng Saccaka lại càng vang dội, khi hoàng tộc Licchavi trị vì xứ Vesali, mời chàng dạy học cho các Hoàng tử cùng con cháu của các hoàng thân quốc thích.

    SACCAKA GẶP ĐẠI ĐỨC ASSAJI

    Thuở ấy, Ðức Phật cùng nhóm đông Tỳ khưu Tăng có phạm hạnh cao thượng, ngự đến tại một ngôi tịnh xá ở trong khu rừng lớn gần thành Vesali.

    Một hôm đứng trước hội chúng của mình ở Vesali, Saccaka tuyên bố một cách ngạo nghễ rằng: "Ta thấy không có một Sa môn, một Bà la môn nào, dù là giáo chủ, trưởng giáo phái hoặc bậc Ðạo sư lỗi lạc tự xưng là bậc Arahán, một khi đối đáp với ta, không ai mà không hồi hộp, run sợ, không toát mồ hôi lạnh; thậm chí nếu ta cật vấn cây cột không có tâm thức, nó cũng rung chuyển lay động, huống nữa là con người có tâm thức!".

    Vào một buổi sáng, Ðại đức Assaji đắp y mang bát vào thành Vesali đi khất thực. Lúc ấy, Saccaka đang đi dạo với đám đồ chúng trong thành vừa nhìn thấy Ngài Assaji từ xa đi đến, chàng đến gặp và vấn an Ngài xong, chàng đứng một nơi hợp lẽ, lễ phép cung kính của một bậc trí thức, bèn thưa rằng:

    - Thưa Ðại đức, Sa môn Gotama thường chỉ dạy cho các hàng đệ tử của Ngài như thế nào? Và lời giáo huấn của Sa môn Gotama cho các hàng đệ tử ấy ra sao?

    Ðại đức Assaji đáp rằng:

    - Này Aggivessana! Ðức Thế Tôn thường chỉ dạy các hàng đệ tử như vầy:

    "Này chư Tỳ khưu, sắc uẩn là vô thường, thọ uẩn là vô thường, tưởng uẩn là vô thường, hành uẩn là vô thường, thức uẩn là vô thường; sắc uẩn là vô ngã, thọ uẩn là vô ngã, tưởng uẩn là vô ngã, hành uẩn là vô ngã, thức uẩn là vô ngã, tất cả các pháp đều vô ngã...".

    Này Aggivessana, Ðức Thế Tôn thường chỉ dạy cho các hàng đệ tử như vậy, lời giáo huấn của Ngài cho các hàng đệ tử cũng như vậy.

    - Thưa Ðại đức, tôi được nghe lời giáo huấn của Sa môn Gotama như vậy đó, quả thật chính tai tôi đã nghe những điều chẳng lành. Nếu có cơ hội, tôi sẽ gặp Sa môn Gotama để luận chiến, đấu trí, thế nào tôi cũng đè bẹp những lời giáo huấn sai lầm và tệ hại ấy bằng lý lẽ của tôi.

    SACCAKA LUẬN CHIẾN VỚI ĐỨC PHẬT

    Hoàng tộc Licchavi gồm chừng 500 người đang hội họp tại đại hội trường. Lúc ấy, Saccaka đột ngột bước vào, chàng cổ động họ:

    - Này chư vị, xin quý vị hãy cùng đi với tôi.

    Nói như vậy hai ba lần, rồi chàng nói tiếp:

    - Hôm nay sẽ có cuộc luận chiến, đấu trí xảy ra giữa tôi và Sa môn Gotama. Nếu quả thật lời giáo huấn của Sa môn Gotama như Ðại đức Assaji đã trình bày cho tôi nghe, tôi sẽ vặn hỏi, bắt bẻ lý lẽ của Sa môn Gotama bằng lý lẽ của tôi. Ví như, một thanh niên khỏe mạnh đầy sức lực, một tay nắm lấy cổ con cừu, tay kia nắm lông cừu dài rồi lột tuột ra không chừa môät mảy - thì tôi cũng như vậy, tôi sẽ vặn hỏi bắt bẻ lý lẽ lời giáo huấn của Sa môn Gotama, bị lột trần bằng lý lẽ vững chắc của tôi như thế ấy. Hoặc ví như người khoẻ mạnh làm việc lâu năm trong xưởng nấu rượu, tay cầm vợt vớt bọt rượu trong một chảo sâu, kéo từ bên này sang bên kia rồi ngược lại như thế nào, thì tôi cũng như vậy, tôi sẽ vặn hỏi, bắt bẻ lý lẽ lời giáo huấn của Sa môn Gotama từ đầu này sang đầu kia và ngược lại, bằng lý lẽ kiến thức rộng lớn của tôi cũng như thế ấy. Hoặc ví như một người nghiện rượu, tay cầm chung rượu, khi thì úp khi thì ngửa như thế nào, thì tôi cũng như vậy, tôi sẽ vặn hỏi, bắt bẻ lời giáo huấn của Sa môn Gotama khi thì úp, khi thì ngửa bằng lý lẽ biện luận sắc bén của tôi như thế ấy.

    Xin mời qúy vị hãy đi cùng với tôi! Hôm nay tôi sẽ có cuộc luận chiến với Sa môn Gotama.

    Trong nhóm hoàng tộc Licchavi, có số người nghĩ rằng:

    "Sa môn Gotama làm sao mà thắng lý lẽ của Saccaka, sự thật, Saccaka chắc chắn thắng lý lẽ của Sa môn Gotama!".

    Nhưng trong nhóm đó có số người nghĩ trái ngược rằng:

    "Saccaka làm sao mà thắng được lý lẽ của Sa môn Gotama, sự thật, Sa môn Gotama mới thắng lý lẽ của Saccaka!".

    Sau đó, Saccaka cùng nhóm 500 người thuộc hoàng tộc Licchavi cùng nhau đi đến tịnh xá có đỉnh cao ở trong khu rừng lớn gần thành Vesali. Ở đây có một số đông Tỳ khưu đang đi kinh hành ở bìa rừng thoáng mát. Lúc ấy, Saccaka lễ phép đến hỏi một vị Tỳ khưu rằng:

    - Thưa Ngài, hiện giờ Sa môn Gotama đang ở đâu? Chúng tôi muốn gặp Ðức Ðạo Sư ấy.

    Vị Tỳ khưu chỉ dẫn:

    - Này Aggivessana, Ðức Thế Tôn đang nghĩ trưa dưới cội cây trong khu rừng lớn đằng kia.

    Saccaka cùng với nhóm hoàng tộc đến lễ phép vấn an Ðức Phật, rồi chàng ngồi xuống một nơi hợp lẽ, số người còn lại, có người đảnh lễ Ðức Phật, có người còn ân cần hỏi thăm bằng những lời thân mật, có người chỉ chấp tay, có người tự xưng tên và dòng dõi của mình, có người chỉ im lặng, rồi tất cả mọi người đều ngồi nghiêm chỉnh một nơi hợp lẽ.

    Saccaka cảm thấy hồi hộp, e ngại, cố lấy lại sự bình tĩnh bèn thưa với Ðức Phật rằng:

    - Kính thưa Sa môn Gotama, xin Ngài vui lòng trả lời những câu hỏi của tôi.

    Ðức Phật dạy rằng:

    - Này Aggivessana, Như Lai rất sẵn lòng, ngươi cứ hỏi tùy ý.

    Saccaka được cơ hội liền bạch:

    [Sac: Saccaka - ÐP: Ðức Phật]

    Sac: - Kính bạch Sa môn Gotama, Ngài thường chỉ dạy cho các hàng đệ tử của Ngài như thế nào? Và lời giáo huấn của Ngài cho các hàng đệ tử ra sao?

    ÐP: - Này Aggivessana, Như Lai thường chỉ dạy cho các hàng đ? tử như vầy:

    "Này chư Tỳ khưu, sắc uẩn là vô thường, thọ uẩn là vô thường, tưởng uẩn là vô thường, hành uẩn là vô thường, thức uẩn là vô thường; sắc uẩn là vô ngã, thọ uẩn là vô ngã, tưởng uẩn là vô ngã, hành uẩn là vô ngã, thức uẩn là vô ngã, tất cả các pháp đều vô ngã.

    Này Aggivessana, Như Lai thường chỉ dạy cho các hàng đệ tử như vậy, lời giáo huấn của Như Lai cho các hàng đệ tử cũng như vậy.

    Sac: - Kính bạch Sa môn Gotama, xin phép Ngài cho tôi đưa ra ví dụ:

    Kính bạch Sa môn Gotama, các loại giống, loại cây nào có đủ nhựa sống, được tăng trưởng tươi tốt, tất cả loại cây ấy đều nương nhờ từ đất, mọc ở trong đất mà lớn lên phát triển tốt, tăng trưởng tốt rồi đơm hoa kết trái, hoặc như mọi công việc trồng trọt đồng áng, công việc xây dựng nhà..., những công việc ấy người ta phải nương nhờ ở đất, đặt trên đất mới thành tựu. Cũng như vậy, người ta chấp sắc uẩn là ta, rồi nương nhờ nơi sắc uẩn mới tạo nên thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp; người ta chấp thọ uẩn là ta, rồi nương nhờ thọ uẩn mới tạo nên thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp; người ta chấp hành uẩn là ta, rồi nương nhờ hành uẩn mới tạo nên thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp; người ta chấp thức uẩn là ta, rồi nương nhờ thức uẩn mới tạo nên thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp,

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi nói rằng: Sắc uẩn là cái ngã của ta (rùpam me attà), thọ uẩn là cái ngã của ta, tưởng uẩn là cái ngã của ta, hành uẩn là cái ngã của ta, thức uẩn là cái ngã của ta có phải vậy không?

    Sac: - Kính bạch Sa môn Gotama, không phải chỉ riêng tôi nói như vậy, mà nhiều người khác cũng nói như vậy.

    ÐP: - Này Aggivessana, những người khác không liên quan đến tà kiến của ngươi, chính ngươi phải xác nhận sở kiến của mình.

    Sac: - Kính bạch Sa môn Gotama, tôi xin xác nhận sở kiến của tôi: Sắc uẩn là cái ngã của tôi, thọ uẩn là cái ngã của tôi, tưởng uẩn là cái ngã của tôi, hành uẩn là cái ngã của tôi, thức uẩn là cái ngã của tôi.

    ÐP: - Này Aggivessana, nếu như vậy Như Lai hỏi ngươi, ngươi hài lòng thế nào thì trả lời thế ấy.

    Này Aggivessana, ví như Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala, Ðức vua Ajàtasattu trị vì xứ Màgadha đã làm lễ đăng quang lên ngôi trị vì vương quốc của mình, các Ðức vua ấy có quyền giết người đáng tội chết, tịch thu của cải của người đáng tội tịch thu, lưu đày những người đáng tội lưu đày có được chăng?

    Sac: - Thưa được, kính bạch Sa môn Gotama! Những Ðức vua cai trị vùng Vajjì, vùng Malla cũng có thẩm quyền làm được việc ấy, huống gì là Ðức vua Pasenadi, Ðức vua Ajàtasattu các nước lớn ấy.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này, ngươi nói sắc uẩn nào là: "Sắc uẩn là cái ngã của ta" (rùpam me attà)? vậy ngươi có thẩm quyền khiến sắc uẩn ấy rằng:

    "Sắc uẩn của ta hãy như thế này!" (evam me rùpam hotu). (Nghĩa là sắc uẩn của ta hãy trẻ trung, mạnh khỏe, sống lâu).

    "Sắc uẩn của ta đừng như thế kia!" (evam me rùpam mà ahosi). (Nghĩa là sắc uẩn của ta đừng có già, đừng có bịnh, đừng có chết).

    Như vậy có được không?

    Nghe Ðức Phật hỏi vậy, Saccaka ngồi sững như bị sét đánh, mặt tái ngắt, không nói được lời nào. Ðức Phật hỏi lại lần thứ nhì, chàng vẫn ngồi ngậm câm không trả lời được.

    Ðức Phật bảo Saccaka rằng:

    - Này Aggivessana, bây giờ là lúc mà ngươi phải trả lời, không phải lúc ngươi ngồi làm thinh.

    Này Aggivessana, khi Như Lai hỏi người nào, về một vấn đề gì hợp với sự thật, đúng với chân lý đến ba lần, mà người ấy vẫn không chịu trả lời, thì cái đầu của người ấy sẽ vỡ thành bảy mảnh ngay tại nơi ấy.

    Lúc ấy Ðức Sakka vua cõi Tam thập tam thiên liền hoá ra dạ xoa, tay cầm cái chùy kim cang phát ra luồng ánh sáng khiếp người, ngồi trên đỉnh đầu của Saccaka nói cho chàng nghe rằng: "Này Aggivessana, nếu Ðức Thế Tôn hỏi ngươi đến lần thứ ba mà ngươi vẫn ương ngạnh, ngoan cố không chịu trả lời thì ta sẽ dùng cái chùy kim cang này đánh vào cái đầu của ngươi vỡ ra thành bảy mảnh".

    Sự việc xảy ra như trên chỉ có Ðức Phật và Saccaka nhìn thấy. Saccaka kinh sợ, khiếp đảm vô cùng, rởn tóc gáy, toát mồ hôi. Bây giờ chàng chỉ còn biết nương nhờ vào oai lực của Ðức Phật mà thôi, bèn chấp tay run sợ bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài hỏi lại, con sẽ trả lời ngay.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này? Ngươi nói sắc uẩn nào là "Sắc uẩn là cái ngã của ta"?

    Vậy ngươi có thẩm quyền khiến sắc uẩn ấy rằng:

    Sắc uẩn của ta hãy như thế này!
    Sắc uẩn của ta đừng như thế kia!

    Như vậy có được không?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, điều ấy là không thể được.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi hãy suy xét kỹ càng, thấu đáo rồi mới trả lời, đừng để cho lời sau không hợp với lời trước, hoặc lời trước và lời sau của ngươi không tương hợp, không đồng nhất.

    Sac: - Con hiểu rõ. Bạch Ðức Gotama.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này?

    Ngươi nói thọ uẩn nào là "thọ uẩn là cái ngã của ta"?

    Vậy ngươi có thẩm quyền khiến thọ uẩn ấy rằng:

    "Thọ uẩn của ta hãy như thế này!" (nghĩa là thọ uẩn của ta hãy thọ lạc).
    "Thọ uẩn của ta đừng như thế kia!" (nghĩa là thọ uẩn của ta đừng thọ khổ).

    Như vậy có được không?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, điều ấy là không thể được.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi hãy suy xét kỹ càng, thấu đáo rồi mới trả lời....

    Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này?

    Ngươi nói tưởng uẩn nào là "tưởng uẩn là cái ngã của ta"?

    Vậy ngươi có thẩm quyền khiến tưởngï uẩn ấy rằng:

    "Tưởng uẩn của ta hãy như thế này!" (nghĩa là tưởng uẩn của ta hãy tưởng đối tượng tốt, đối tượng thiện).
    "Tưởng uẩn của ta đừng như thế kia!" (nghĩa là tưởng uẩn của ta đừng tưởng đối tượng xấu, đối tượng ác).

    Như vậy có được không?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, điều ấy là không thể được.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi hãy suy xét kỹ càng, thấu đáo rồi mới trả lời....

    Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này?

    Ngươi nói hành uẩn nào là "hành uẩn là cái ngã của ta"?

    Vậy ngươi có thẩm quyền khiến hành uẩn ấy rằng:

    "Hành uẩn của ta hãy như thế này!" (nghĩa là hành uẩn của ta hãy hành thiện).
    "Hành uẩn của ta đừng như thế kia!" (nghĩa là hành uẩn của ta đừng hành ác).

    Như vậy có được không?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, điều ấy là không thể được.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi hãy suy xét kỹ càng, thấu đáo rồi mới trả lời....

    Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này?

    Ngươi nói thức uẩn nào là "thức uẩn là cái ngã của ta"?

    Vậy ngươi có thẩm quyền khiến thức uẩn ấy rằng:

    "Thức uẩn của ta hãy như thế này!" (nghĩa là thức uẩn của ta hãy biết đối tượng tốt, đối tượng thiện).
    "Thức uẩn của ta đừng như thế kia!" (nghĩa là thức uẩn của ta đừng biết đối tượng xấu, đối tượng ác).

    Như vậy có được không?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, điều ấy là không thể được.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi hãy suy xét kỹ càng, thấu đáo rồi mới trả lời, đừng để cho lời sau không hợp với lời trước, hoặc lời trước và lời sau của ngươi không tương hợp, không đồng nhất.

    Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này:

    Sắc uẩn thường hay vô thường?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, sắc uẩn vô thường.

    ÐP: - Này Aggivessana, sắc uẩn nào là vô thường, sắc uẩn ấy khổ hay lạc?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, sắc uẩn ấy là khổ.

    ÐP: - Này Aggivessana, sắc uẩn nào là vô thường, khổ, có sự biến đổi là thường, vậy có nên chấp thủ sắc uẩn ấy là của ta (do tham ái), sắc uẩn ấy là ta (do ngã mạn), sắc uẩn ấy là tự ngã của ta (do tà kiến) chăng?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, không nên chấp như vậy.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này thọ uẩn..., tưởng uẩn..., hành uẩn....

    Thức uẩn là thường hay vô thường?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, thức uẩn là vô thường.

    ÐP: - Thức uẩn nào vô thường, thức uẩn ấy khổ hay lạc?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, thức uẩn ấy là khổ.

    ÐP: - Thức uẩn nào vô thường, khổ, có sự biến đổi là thường, vậy có nên chấp thủ thức uẩn ấy là của ta, thức uẩn ấy là ta, thức uẩn ấy là tự ngã của ta chăng?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, chẳng nên chấp như vậy.

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này?

    Người nào đang dính mắc trong sự khổ, đang ở trong sự khổ, đang chịu đựng khổ, mà còn chấp thủ khổ ấy rằng: "khổ này là của ta, khổ này là ta, khổ này là tự ngã của ta". Như vậy, sự thật, người ấy có thể tự mình phân tách biết rõ sự khổ được chăng? mong cho hết khổ, giải thoát khổ được chăng?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, làm sao có được, điều ấy chắc chắn không thể được!

    ÐP: - Này Aggivessana, ngươi nghĩ thế nào về điều này?

    Có phải chính ngươi đang dính mắc sự khổ, đang ở trong sự khổ, đang chịu đựng khổ, mà ngươi còn chấp thủ khổ ấy rằng: khổ này là của ta, khổ này là ta, khổ này là tự ngã của ta chăng?

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, đáng lẽ con không nên chấp như vậy, nhưng mà sự thực con đã chấp nó như vậy.

    ÐP: - Này Aggivessana, như một người cần lõi cây, mong muốn lõi cây, tìm lõi cây, mang búa đi vào rừng, thấy một cây chuối rừng cao, to lớn, thẳng đứng, chưa trổ buồng, người ấy bèn chặt cây chuối ấy tận gốc, chặt ngọn rồi lột tất cả bẹ chuối, từ ngoài vào trong ra hết, không hề tìm thấy giác cây thì làm sao y tìm thấy lõi cây được.

    Này Aggivessana, cũng như vậy, Như Lai đã xét hỏi về những sở học và những kiến thức của ngươi, chúng đều rỗng tuếch, trống không, vô bổ, không có lợi ích gì, thế mà ngươi dám tự cao ngã mạn tuyên bố với hội chúng ở Vesali rằng: "Ta không thấy có một Sa môn, một Bà la môn nào, dù là giáo chủ, trưởng giáo phái hoặc bậc đạo sư lỗi lạc tự xưng là bậc Arahán, một khi đối đáp với ta, không ai là không hồi hộp, run sợ, không toát mồ hôi lạnh. Thậm chí, nếu ta cật vấn cây cột không có tâm thức, nó cũng rung chuyển lay động, huống hồ nữa là con người có tâm thức!".

    Như vậy, này Aggivessana, mồ hôi của ngươi toát ra từ trán, chảy xuống mặt thấm qua áo rồi rơi xuống mặt đất.

    Này Aggivessana, trong thân của Như Lai, Như Lai không thấy một giọt mồ hôi nào toát ra cả.

    Ðức Phật bèn vạch chiếc y của mình để lộ ra màu da vàng óng ánh, cho Saccaka và hội chúng hoàng tộc Licchavi nhìn thấy rõ.

    Lúc ấy, Saccaka ngồi co rúm lại, gục đầu, da mặt tái đi, thân toát mồ hôi lạnh, chàng ngồi im lặng, không nói ra được một lời nào nữa.

    Trong hội chúng hoàng tộc Licchavi, có ông hoàng Dummukha nhận thấy Saccaka hoàn toàn mất hết nhuệ khí ban đầu, đang ngồi chết lặng vì xấu hổ bèn hướng về Ðức Phật mà bạch rằng:

    - Kinh bạch Ðức Thế Tôn, kính xin Ðức Thế Tôn cho phép con đưa ra một ví dụ.

    Ðức Thế Tôn làm thinh cho phép.

    Ông hoàng Dummukha bạch Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, ví như ở gần xóm làng có một cái ao, một nhóm trẻ tinh ngịch kéo nhau đến ao ấy, chúng xuống ao bắt một con cua đem lên bờ để chơi, hễ con cua đưa cái càng nào ra, thì chúng lấy cây hay đá đập gãy càng ấy, cứ như vậy cho đến lúc nó không còn một cái càng nào, bèn phải nằm yên không cựa quậy, không nhúc nhích được, chẳng còn bò đi xuống ao được nữa.

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, cũng như vậy, những tà kiến hiểu lầm, tánh ngã mạn, tự cao tự đại, những luận thuyết của Saccaka như những càng cua đã bị trí tuệ của Ðức Thế Tôn bẻ gãy. Từ nay về sau, Saccaka sẽ không còn có những ý nghĩ ngông cuồng đối với Ðức Thế Tôn như vậy nữa.

    Khi nghe vậy, Saccaka nổi giận nói rằng:

    - Này Dummukha, xin ông đừng nói nữa!

    Chàng hổ thẹn yêu cầu ông hai lần như vậy, rồi chấp tay hướng về Ðức Phật:

    - Kính bạch Ðức Gotama, con thành tâm sám hối những tội lỗi của con, kính xin Ngài từ bi tha thứ những tội lỗi ấy do si mê lầm lạc, mà con đã lỡ phạm, con xin phép học hỏi Ngài những điều mà con thắc mắc.

    Ðức Thế Tôn cho phép, Saccaka bèn bạch hỏi:

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, bậc Thánh Thinh văn đệ tử của Ngài thực hành như thế nào gọi là hành giả hành đúng theo chánh pháp, hành đúng theo lời giáo huấn của Ngài, để đoạn tuyệt được mọi hoài nghi, đạt đến trí tuệ Siêu tam giới, không còn tin vào người khác, sống được an lạc trong giáo pháp của Ngài.

    Ðức Phật dạy rằng:

    ÐP: - Này Aggivessana, trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh văn đệ tử của Như Lai, là hành giả có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ sắc uẩn đúng theo thật tánh của các pháp rằng:

    "Sắc uẩn nào ở quá khứ, vị lai, hiện tại, sắc uẩn bên trong, sắc uẩn bên ngoài, sắc uẩn thô, sắc uẩn vi tế, sắc uẩn thấp hèn, sắc uẩn cao quý, sắc uẩn ở gần, sắc uẩn ở xa; tất cả sắc uẩn ấy không phải là của ta (netam mama), không phải là ta (neso hamasmi), không phải là tự ngã của ta (na meso attà). Và cũng như vậy, có trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ, biết rõ, thọ uẩn..., tưởng uẩn..., hành uẩn..., thức uẩn đúng theo thực tánh của các pháp rằng: "thức uẩn nào ở quá khứ, vị lai, hiện tại, thức uẩn bên trong, thức uẩn bên ngoài, thức uẩn thô, thức uẩn vi tế, thức uẩn thấp hèn, thức uẩn cao quý, thức uẩn ở gần, thức uẩn ở xa; tất cả thức uẩn ấy không phải là của ta, không phải là ta, không phải tự ngã của ta.

    Này Aggivessana, với trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn đúng theo thật tánh cuả các pháp như vậy, gọi là hành giả hành đúng theo chánh pháp, hành đúng theo lời giáo huấn của Như Lai, đạt đến trí tuệ Siêu tam giới, không còn tin vào người khác, sống an lạc trong giáo pháp của Như Lai.

    Sac: - Kính bạch Ðức Gotama, thế nào gọi là Tỳ khưu bậc Thánh Arahán đã tận diệt được tất cả mọi phiền não trầm luân, đã hoàn thành phạm hạnh, đã hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh đế, đã bỏ được gánh nặng ngũ uẩn, đã chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, đã diệt đoạn tuyệt pháp ràng buộc tái sanh kiếp sau, đã trở thành bậc Thánh Arahán, đã giải thoát khổ?

    ÐP: - Này Aggivessana, Tỳ khưu là hành giả có trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ, biết rõ sắc uẩn nào ở quá khứ, vị lai, hiện tại, sắc uẩn bên trong, sắc uẩn bên ngoài, sắc uẩn thô, sắc uẩn vi tế, sắc uẩn thấp hèn, sắc uẩn cao quý, sắc uẩn ở gần, sắc uẩn ở xa; tất cả sắc uẩn ấy "không phải là của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta".

    Cũng như vậy, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thọ uẩn... tưởng uẩn... hành uẩn..., thức uẩn..." không phải là của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta".

    Này Aggivessana, với trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn đúng theo thực tánh của các pháp như vậy, gọi là Tỳ khưu là bậc Thánh Arahán đã tận diệt được tất cả mọi phiền não trầm luân, đã hoàn thành phạm hạnh, đã hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh đế, đã bỏ được gánh nặng ngũ uẩn, đã chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, đã diệt đoạn tuyệt pháp ràng buộc tái sanh kiếp sau, đã trở thành bậc Thánh Arahán, đã giải thoát khổ.

    Này Aggivessana, Tỳ khưu có tâm hoàn toàn giải thoát khổ như vậy, có ba đặc tính ưu việt là:

    - Trí tuệ chứng ngộ ưu việt.

    - Pháp hành ưu việt.

    - Tâm giải thoát khổ ưu việt.

    Này Aggivessana, Tỳ khưu có tâm hoàn toàn giải thoát khổ như vậy, nên thường tôn kính lễ bái, cúng dường Như Lai rằng:

    - Ðức Thế Tôn là Bậc Chánh Ðẳng Giác, tự mình đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế.

    - Ðức Thế Tôn là bậc tự mình đã thực hành xong, rồi thuyết pháp chỉ dạy cho chúng sinh thực hành theo.

    - Ðức Thế Tôn là bậc tự mình đã diệt đoạn tuyệt phiền não xong, rồi thuyết pháp chỉ dạy cho chúng sinh cùng diệt đoạn tuyệt phiền não.

    - Ðức Thế Tôn là bậc tự mình đã vượt qua khỏi vùng nước xoáy tử sanh luân hồi, rồi thuyết pháp dạy chúng sinh cùng vượt qua khỏi vùng nước xoáy tử sanh luân hồi như Ngài.

    - Ðức Thế Tôn là bậc tự mình đã dập tắt mọi phiền não không còn dư sót xong, rồi thuyết pháp chỉ dạy cho chúng sinh cùng dập tắt mọi phiền não.

    SACCAKA TỰ THÚ

    Lắng nghe Ðức Thế Tôn thuyết giảng xong, Saccaka bạch Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Gotama, chính con là người si mê, không biết đến tài đức cao thượng của người khác, là người có tánh tự cao tự đại, ngã mạn, khinh thường người khác, cho nên con trở nên người tự phụ, nghĩ sai lầm rằng lý lẽ của mình chắc chắn sẽ thắng được lý lẽ của Ðức Gotama.

    Sự thật, người nào đối chọi với voi lên cơn say, người ấy còn hy vọng thoát thân được; còn người nào đấu trí, luận chiến với Ðức Gotama thì chắc chắn chỉ chuốc lấy sự thất bại mà thôi. Tương tự như vậy, một người đang ở trong vòng lửa cháy ngùn ngụt bốn bề, hẳn còn chút may mắn thoát ra khỏi; hoặc một người bị rắn độc cắn, hẳn còn hy vọng chữa trị được, còn người nào luận chiến, đấu trí với Ðức Gotama thì chắc chắn chỉ chuốc lấy sự thất bại thảm hại mà thôi.

    Kính bạch Ðức Gotama, chính con là người si mê, không biết Ðức Gotama là bậc Toàn tri diệu giác, con quen tánh tự cao ngã mạn, nên tự phụ nghĩ sai lầm rằng: con mở cuộc luận chiến, đấu trí với Ðức Gotama, con sẽ thắng; nhưng sự thật thì ngược lại, con hoàn toàn thảm bại.

    Kính bạch Ðức Gotama, ngày mai, con kính thỉnh Ngài cùng chư Tỳ khưu Tăng ngự đến tư xá, để cho con cùng hội chúng hoàng tộc Licchavi được có cơ hội làm phước dâng vật thực cúng dường Ngài cùng chư Tỳ khưu Tăng.

    Ðức Phật làm thinh nhận lời.

    Saccka thành kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn với tâm vô cùng hoan hỷ và tri ân. Sau đó, Saccaka, một lần nữa, cùng hội chúng hoàng tộc Licchavi đảnh lễ Ðức Thế Tôn trở về với tâm vô cùng hoan hỷ.

    Sau khi Ðức Phật đã nhận lời thỉnh mời, Saccaka mới thông báo cho hoàng tộc Licchavi rằng:

    - Này chư quý vị, ngày mai Ðức Gotama cùng chư Tỳ khưu Tăng nhận thọ thực tại tịnh xá của tôi, xin qúy vị hãy mang những vật thực ngon lành đến cùng tôi để cúng dường Ðức Gotama cùng chư Tỳ khưu Tăng.

    Ðêm đã qua, sáng sớm hôm ấy, tất cả hội chúng hoàng tộc Licchavi mỗi người mỗi phần, gồm cả thảy 500 phần vật thực ngon lành, đem đến tịnh xá của Saccaka, hùn chung để cúng dường Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng.

    Vào buổi sáng, Ðức Thế Tôn mặc y mang bát cùng số đông chư Tỳ khưu Tăng ngự đến tịnh xá Saccaka để thọ thực. Saccaka cùng nhóm hội chúng hoàng tộc Licchavi hân hạnh được đón rước Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng, chàng thỉnh Ðức Phật ngự chỗ cao quý nhất, tiếp theo là chư Tỳ khưu Tăng. Lúc ấy, Saccaka tự mình dâng những vật thực ngon lành đến Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng.

    Khi Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu thọ thực xong, Saccaka ngồi một nơi hợp lẽ ở chỗ thấp hơn bèn bạch với Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, cầu mong phước thí và quả báu của phước thí này sẽ được thành tựu hạnh phúc, an lạc đến cho tất cả mọi người trong hoàng tộc Licchavi.

    Ðức Phật dạy rằng:

    - Này Aggivessana, phước thí này những thí chủ do nương nhờ ở con là người chưa diệt được phiền não tham, sân, si thì sẽ được thành tựu an lạc đến cho tất cả thí chủ trong hoàng tộc Licchavi.

    Này Aggivessana, phước thí này con nương nhờ ở Như Lai là Bậc đã diệt đoạn tuyệt phiền não tham, sân, si thì sẽ được thành tựu sự an lạc đến cho con.

    Saccaka cùng toàn thể thí chủ trong hoàng tộc Licchavi vô cùng hoan hỷ theo lời giáo huấn của Ðức Thế Tôn.

    -ooOoo-
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:39 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  8. #8

    Mặc định

    SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BẢY

    ÐỨC PHẬT CHO PHÉP ÐẠI ÐỨC MAHÀMOGGALLÀNA
    THU PHỤC RỒNG CHÚA NANDOPANANDA


    -ooOoo-

    Ðức Phật cho phép Ðại đức Mahàmoggallàna vận dụng thần thông để thu phục Rồng chúa Nandopananda, là Rồng tà kiến có nhiều thần thông.

    (Phỏng theo Chú giải Theragàthà và Apàdàna, chuyện Đại đức Màhàmoggallàna)

    Thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại Jetavana gần thành Sàvatthi. Phú hộ Anàthapindika, sau khi nghe xong thời pháp, rất hoan hỷ đảnh lễ Ðức Thế Tôn bạch rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, con kính thỉnh Ðức Thế Tôn cùng Tăng chúng 500 vị Tỳ khưu ngự đến thọ thực tại tư gia của chúng con vào ngày mai.

    Ðức Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời của ông, biết Ðức Phật đã nhận lời, tâm ông phú hộ vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Ðức Thế Tôn rồi xin phép trở về.

    Vào canh chót đêm ấy, như lệ thường, Ðức Phật nhập đại bi định, khi xả định quán xét thế gian xem chúng sinh nào hữu duyên nên tế độ. Ngài nhìn thấy Rồng chúa Nandopananda hiện ra trong mạng lưới đại bi tế độ của Ngài. Ðức Phật quán xét thấy Rồng chúa là Rồng tà kiến, không có đức tin nơi Tam bảo, rất hung dữ có nhiều thần thông. Nhưng cuối cùng, nó sẽ có đức tin rồi quy y Tam bảo. Vậy, ai là người có khả năng thu phục được Rồng chúa này? Ngài biết rằng Ðại đức Mahàmoggallàna có năng lực thu phục được Rồng chúa này.

    Sáng hôm ấy, Ðức Phật gọi Ðại đức Ànanda dạy:

    - Này Ànanda, con hãy thông báo cho 500 vị Tỳ khưu cùng đi theo Như Lai lên cõi Tam thập tam thiên.

    Cũng vào sáng hôm ấy, tại cung điện Long vương có tổ chức yến tiệc linh đình, Rồng chúa Nandopananda ngự trên ngai có lọng trắng che, bá quan văn võ áo mũ chỉnh tề ngồi theo thứ bậc, cùng hoàng tộc nhà Rồng đang say mê xem những vũ khúc kỳ diệu của các long nữ, và cùng nhau thưởng thức những món ngon vật lạ đặc biệt chốn long cung.

    Ngay lúc ấy, Ðức Phật cùng với 500 vị Tỳ khưu Tăng đang bay qua khoảng không gian phía trên địa phận cung điện của Rồng chúa, cố ý làm rơi bụi xuống đầu, cốt để cho chúng Rồng nhìn thấy như chọc tức, như khiêu khích, cho nên Rồng chúa Nandopananda nổi cơn thịnh nộ, tuyên bố với bọn bầy tôi thuộc hạ: "Bọn Sa môn đầu trọc này lên cõi Tam thập tam thiên, dám bay ngang qua cung điện của ta, ta sẽ làm cho họ phải kính nể, để về sau không dám bay ngang qua đây nữa". Rồng chúa tức giận đi đến chân núi Sineru dùng phép thuật hoá thân hình to lớn và dài bao vòng quanh, cuộn tròn cả ngọn núi, chồng lên nhau bảy vòng, rồi phồng mang che phủ luôn cả đỉnh núi, bao trùm cả cõi Tam thập tam thiên. Thế là từ xa chẳng ai còn nhìn thấy cõi trời đâu nữa.

    Khi ấy, Ðại đức Ratthapàla bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, trước kia mỗi lần lên ngang đây, con đều nhìn thấy, không những núi Sineru mà còn nhìn thấy cõi Tam thập tam thiên, nhìn thấy cả cung điện Vejayantapasàda của Ðức vua trời Sakka cùng lá cờ trên đỉnh cung điện ấy, nhưng bây giờ con chẳng nhìn thấy được gì cả.

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, do nhân duyên nào vậy, Bạch Ngài.

    Ðức Phật dạy rằng:

    - Này Ratthapàla, Rồng chúa Nandopananda tức giận các con, nên đã hoá thân hình to lớn và dài, bao quanh núi Sineru chồng lên bảy vòng, rồi phồng mang che phủ luôn cả đỉnh núi, bao trùm cả cõi Tam thập tam thiên, cho nên con không nhìn thấy được gì nữa.

    Ðại đức Ratthapàla bạch với Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, kính xin Ðức Thế Tôn cho phép con được dạy Rồng chúa bớt tánh kiêu căng ngã mạn ấy.

    Ðức Phật không cho phép, rồi lần lượt Ðại đức Bhaddiya, Ðại đức Ràhula... vị nào cũng muốn trừng phạt Rồng chúa ấy, nhưng Ðức Phật đều không cho phép, cuối cùng Ðại đức Mahàmoggallàna bạch Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, kính xin Ðức Thế Tôn cho phép con được thu phục Rồng chúa Nandopa-nanda ấy.

    Ðức Phật chấp nhận cho phép Ðại đức Mahà-monggallàna vận dùng thần thông biến hoá thành con Rồng có thân hình to lớn và dài hơn Rồng chúa Nandopananda, bao quanh thân hình Rồng chúa, chồng lên nhau 14 vòng, siết chặt lấy thân hình của nó, phồng mang lớn đè lên mang của nó, Ðại đức Mahàmonggallàna càng siết vào, thân mình Rồng chúa càng đau đớn chịu không nổi.

    Rồng chúa tức giận hoá ra luồng khí độc phun ra để làm hại Ngài Ðại đức Mahàmonggallàna, nhưng không hại được Ngài, ngược lại Ngài Ðại đức cũng hoá ra luồng khói mạnh hơn làm cho Rồng chúa vô cùng khó chịu.

    Rồng chúa càng tức giận hoá ra luồng lửa phun ra để thiêu đốt Ngài, Ngài Ðại đức cũng hoá ra luồng lửa mạnh hơn làm cho thân hình Rồng chúa nóng như thiêu như đốt.

    Thế là một phần thân thể bị siết chặt, đau đớn, một phần thì bị khói và lửa thiêu đốt không sao chịu nổi được nữa.

    Rồng chúa muốn biết vị Sa môn này là ai, bèn hỏi rằng:

    - Ngươi là ai? Sao dám làm khổ ta đến như vậy?

    Ðại đức Mahàmoggalàna trả lời:

    - Này Nandopananda, bần đạo là Mahàmoggalàna đây!

    Rồng chúa yêu cầu Ngài Ðại đức rằng: Bạch Ðại đức, xin Ngài hiện trở lại hình tướng vị Tỳ khưu.

    Ðại đức Mahàmoggallàna biết mưu mô xảo quyệt của Rồng chúa muốn hại Ngài, cho nên Ngài vừa hiện ra, liền đi thẳng vào lỗ tai bên phải, đi sang lỗ tai bên trái, rồi từ lỗ tai bên trái đi sang lỗ tai bên phải của Rồng chúa. Rồng chúa đau đớn khó chịu, nhanh như chớp, Ngài lại đi vào từ lỗ mũi bên phải đi sang lỗ mũi bên trái, rồi từ lỗ mũi bên trái đi sang lỗ mũi bên phải của Rồng chúa.

    Rồng chúa càng đau đớn, càng khó chịu gấp bội phần, dường như không còn chịu đựng được nữa, nó van xin Ngài Ðại đức tha lỗi cho nó; nhưng thật tâm của nó chưa chịu khuất phục, đây chỉ là một mưu kế chờ có cơ hội là hại Ngài, ngay tức khắc. Ngài Ðại đức biết rõ ác tâm của nó, cho nên Ngài vừa thoát ra khỏi lỗ mũi, khi Rồng chúa vừa mở miệng, Ngài lại nhanh như chớp đi thẳng vào miệng của Rồng chúa mà nó không hề hay biết, Ngài đi thẳng vào bụng của nó, mở đường đi kinh hành từ hướng Ðông sang hướng Tây, rồi đi ngược lại, và từ hướng Nam sang hướng Bắc, rồi đi ngược lại làm cho Rồng chúa đau đớn và khó chịu vô cùng.

    Ðức Thế Tôn nhìn thấy như vậy, nhắc nhở Ðại đức Mahàmoggallàna.

    - Này Moggallànà, con nên thận trọng, Rồng chúa có nhiều phép mầu lợi hại và ác tâm, vậy con hãy cẩn thận kẻo nguy hiểm.

    Ðại đức Mahàmoggallàna bạch với Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã luyện Iddhipàla (tứ thần túc) đến chỗ thuần thục, vận dụng như ý. Còn ý nghĩ độc ác của Rồng chúa thì con biết rõ.

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài đừng bận tâm lo cho con. Dầu có hàng trăm, hàng ngàn Rồng chúa như Nandopananda thì con cũng có khả năng thu phục được dễ dàng, huống hồ gì chỉ có một con. Bạch Ngài.

    Rồng chúa Nandopananda nghĩ rằng: "Lúc đầu vị Sa môn này đi vào miệng mà ta chẳng hề hay biết, bây giờ ta chờ y ra, ta sẽ cắn răng, nhai nuốt y vào bụng mới hả cơn tức giận này".

    Rồng chúa bạch Ngài Ðại đức:

    - Kính bạch Ðại đức, tôi xin chịu khuất phục Ngài rồi, kính thỉnh Ngài từ bi ra ngoài, Ngài đi qua, đi lại trong bụng của tôi, làm cho tôi đau đớn khó chịu quá!

    Ngay lúc ấy, Ðại đức Màhàmoggallàna đi ra khỏi miệng, mà Rồng chúa Nandopannanda không hề hay biết gì cả. Ngài hiện ra đứng trước mặt, vừa nhìn thấy Ngài Ðại đức Rồng chúa bằng giọng căm tức nói:

    - Chính Sa môn này đây à!

    Nhanh như chớp, từ hai lỗ mũi, Rồng chúa phun ra hai luồng khí độc như vũ bão cực kỳ nguy hiểm để giết hại Ngài Ðại đức; ngay tức khắc, Ngài Ðại đức liền nhập đệ tứ thiền hữu sắc, nên luồng khí độc của Rồng chúa không thể làm cho đầu sợi lông chân của Ngài lay động.

    Thấy vậy, Rồng chúa Nandopananda vô cùng kinh ngạc, nghĩ rằng vị Sa môn này có thần thông thật là phi thường.

    Lúc ấy, Ðại đức Mahàmoggallàna hoá ra điểu vương Garuda, to lớn phát ra một luồng khói mạnh, phóng thẳng đến Rồng chúa, làm cho thân hình của nó quằn quại lảo đảo một cách khốn khổ. Rồng chúa tự biết mình không thể chịu đựng nổi oai lực của Ngài Ðại đức nên đành chịu khuất phục trước uy lực và đức độ của Ngài.

    Rồng chúa hoá ra một cậu bé chấp tay đảnh lễ Ðại đức rồi bạch rằng:

    - Kính bạch Ngài Ðại đức, con đem hết lòng thành kính xin nương nhờ nơi Ngài, rồi y cúi đầu đảnh lễ dưới chân của Ngài Ðại đức một cách thành kính bằng tâm phục thiện.

    Như vậy, Ðại đức Mahàmoggallàna đã thu phục được Rồng chúa Nandopananda cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, Ngài Ðại đức bảo Rồng chúa rằng:

    - Này Nandopananda, có Ðức Thế Tôn đang ngự ở kia, con hãy đi theo thầy đến hầu đảnh lễ Ngài.

    Rồng chúa Nandopananda ngoan ngoãn vâng lời thầy đi theo sau đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn rồi bạch rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn:

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Phật.

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Pháp.

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Tăng.

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Phật, lần thứ nhì.

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Pháp, lần thứ nhì.

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Tăng, lần thứ nhì.

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Phật, lần thứ ba.

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Pháp, lần thứ ba.

    Con đem hết lòng thành kính xin qui y Tăng, lần thứ ba, kể từ nay cho đến trọn đời.

    Ðức Thế Tôn truyền dạy rằng: "Này Rồng chúa Nandopananda, cầu chúc cho con được sự an lạc lâu dài".

    Rồng chúa Nandopananda có duyên lành đã quy y Tam bảo trở thành Rồng chúa có chánh kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam bảo.

    Sáng hôm ấy, công việc hoá độ Rồng chúa Nandopananda đã hoàn thành, Ðức Phật cùng 500 vị Tỳ khưu Tăng vân hành trở lại kinh thành Sàvatthi ngự đến tư thất phú hộ Anàthapindika để thọ thực cũng vừa đúng ngọ.

    Vị trưởng giả đại thí chủ hoan hỷ đón rước Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng xong bèn bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, do vì nhân duyên nào mà Ðức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng ngự đến trễ như thế này?

    - Này Anàthapindika, sáng nay Như Lai cùng chư Tỳ khưu Tăng trên đường đến Tam thập tam thiên, ngang qua cung điện của Rồng chúa Nandopananda, Như Lai đã cho phép Moggallàna dùng thần thông để thu phục Rồng chúa có tà kiến, nhiều thần thông ấy.

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn kết quả như thế nào? Bạch Ngài?

    - Này Anàthapindika, Moggallàna đã thu phục được Rồng chúa Nandopananda, nó đã cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, trở thành Rồng chúa có chánh kiến, có đức tin trong sạch và đã quy y Tam bảo.

    Nghe vậy, vị đại phú hộ vô cùng hoan hỷ bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, thật là hạnh phúc biết dường nào! Vậy, con kính thỉnh Ðức Phật cùng 500 vị Ðại đức Tăng ngự đến thọ thực nhà con suốt 7 ngày, để mừng Ngài Ðại đức Mahàmoggallàna đã thâu phục được Rồng chúa Nandopananda có đức tin quy y Tam bảo.

    -ooOoo-
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:39 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  9. #9

    Mặc định

    SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ TÁM

    ÐỨC PHẬT CẢM THẮNG PHẠM THIÊN BAKA


    -ooOoo-

    Ðức Phật cảm thắng Phạm thiên Baka chấp thủ thường kiến mê lầm, do nhờ trí tuệ.

    (Bộ Samyuttanikàya, phần Sagàthavagga, kinh Bakabrahmasutta. Bộ Chú giải Jàtaka...)

    Tóm lược bài kinh Bakabrahmasutta và Chú giải Jàtaka.

    Thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana của ông trưởng giả Anàthapindika gần thành Sàvatthi; lúc ấy, ở cõi trời sắc giới Abhassarà (Quang âm thiên), Phạm thiên Baka phát sanh thường kiến mê lầm rằng: "Chư thiên ở cõi trời sắc giới Phạm thiên này là thường tồn, vĩnh hằng, thường hữu, bền vững mãi mãi, không có sự hủy hoại, không sanh, không già, không chết, không chuyển kiếp, bất sanh, bất diệt.... Ngoài cõi sắc giới Phạm thiên này ra, không có một cảnh giới nào khác có được những tính chất thù thắng như thế này".

    Khi ấy, Ðức Thế Tôn dùng tha tâm thông, biết rõ thường kiến mê lầm của Phạm thiên Baka, biết rõ ông có duyên lành có thể hoá độ được, với thời gian ngắn, như lực sĩ duỗi cánh tay ra, Ngài biến kim thân từ chùa Jetavana, hiện ra ở cõi trời sắc giới phạm thiên Abhassanà ấy.

    Phạm thiên Baka nhìn thấy Ðức Thế Tôn ngự lên đến đây, tỏ vẽ vô cùng hoan hỷ bạch Ngài rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, tôi rất hân hạnh đón tiếp Ngài, chiêm ngưỡng Ngài.

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, "chư thiên ở cõi trời sắc giới phạm thiên này là thường tồn, vĩnh hằng, thường hữu, bền vững mãi mãi, không có sự hủy hoại, không sanh, không già, không chết, không chuyển kiếp, bất sanh, bất diệt.... Ngoài cõi sắc giới Phạm thiên này ra, không có một cảnh giới nào khác có được những tính chất thù thắng như thế này".

    Nghe xong, Ðức Thế Tôn liền thông báo rằng:

    - Này chư Phạm thiên! Phạm thiên Baka này đã sa vào thường kiến mê lầm rồi! Thường kiến mê lầm như thế nào: "Chư thiên ở cõi trời sắc giới phạm thiên này là vô thường mà Phạm thiên Baka cho là thường tồn; không vĩnh hằng cho là vĩnh hằng; không thường hữu cho là thường hữu; không bền vững cho là bền vững; bị hủy hoại cho là không bị hủy hoại; có sự sanh, sự già, sự chết, chuyển kiếp hoá kiếp, sanh diệt là thường, thế mà Phạm thiên Baka cho là không sanh, không già, không chết, không chuyển kiếp, không hoá kiếp, bất sanh, bất diệt...", và còn dám nói rằng: "Ngoài cõi sắc giới phạm thiên này ra, không có một cảnh giới nào khác có được những tính chất thù thắng như thế này".

    Phạm thiên Baka bị Ðức Phật quở trách nặng nề cảm thấy khó chịu, kinh ngạc, bèn tìm cách chạy tội, nên y đem nhóm 72 bạn hữu cùng sanh ở cõi trời sắc giới Phạm thiên này bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng tôi có 72 vị đã từng tạo sắc giới thiện nghiệp, cho quả tái sanh lên cõi sắc giới Phạm thiên này.

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng tôi tái sanh lên cõi sắc giới Phạm thiên này là kiếp chót, không còn sanh, già nữa, chúng tôi đã chứng đắc đến tột đỉnh, đến cứu cánh cuối cùng của phạm hạnh. Trên thế gian, có nhiều chúng sinh khác, họ ngưỡng mộ chúng tôi, mong ước ở địa vị chúng tôi, họ tán dương rằng: "Chư Phạm thiên ở cõi trời sắc giới này là Ðại Phạm thiên, không một ai có thể khống chế được, chư Ðại Phạm thiên là những bậc có đại quyền lực, là Ðấng Tạo Hoá vạn vật, là Tối Thượng Tôn, là Tổ Phụ của muôn loài đã sanh và đang sanh".

    Phạm thiên Baka có tà kiến mê lầm, lại còn được một số chúng sinh khác tán dương, do đó, y càng thêm ngã mạn và tự phụ vì si mê, không còn biết mình là ai nữa.

    ĐỨC PHẬT NHẮC LẠI TIỀN KIẾP CỦA PHẠM THIÊN BAKA

    Với tâm đại bi, Ðức Phật chỉ cho Phạm thiên Baka nhớ rõ lại tiền kiếp của mình rằng:

    - Này Phạm thiên Baka, sở dĩ con phát sanh tà kiến mê lầm như vậy, là vì con không còn nhớ đến tiền kiếp của mình.

    Khi Ðức Phật nói như vậy, Phạm thiên Baka muốn biết những tiền kiếp của mình nên kính thỉnh Ðức Phật:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài nhắc lại những tiền kiếp của con.

    - Này Phạm thiên Baka, những tiền kiếp của con đã sanh làm người vào thời đại không có Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, con từ bỏ nhà xuất gia làm đạo sĩ, tiến hành thiền định đã chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc, sau khi chết, được hoá sanh lên cõi trời sắc giới Vehapphala (Quảng quả thiên) có tuổi thọ 500 đại kiếp trái đất[*]. Trong thời gian ở cõi trời sắc giới này, tiền kiếp con đã tiến hành thiền định, đã chứng đắc đệ tam thiền hữu sắc, khi hết tuổi thọ ở cõi trời sắc giới Vehapphala, sau khi chết, được hoá sanh xuống cõi trời sắc giới Subhakinha (Biến tịnh thiên) có tuổi thọ 64 đại kiếp trái đất. Trong thời gian ở cõi trời sắc giới này, tiền kiếp con đã tiến hành thiền định, đã chứng đắc đệ nhị thiền hữu sắc, khi hết tuổi thọ ở cõi trời sắc giới Subhakinha, sau khi chết, được hoá sanh xuống cõi trời sắc giới Abhassarà (Quang âm thiên) có tuổi thọ 8 đại kiếp trái đất. Kiếp hiện tại này con là Phạm thiên Baka đang ở cõi trời sắc giới Abhassarà này, đã trải qua thời gian quá lâu, nên con phát sanh thường kiến mê lầm, bởi do vô minh, làm quên mất hẳn những tiền kiếp của mình.
    [*] Đại kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ: thành-trụ-hoại-không, mỗi thời kỳ khoảng 1 a-tăng kỳ. Như vậy 1 đại kiếp gồm 4 a-tăng kỳ.

    Ðức Thế Tôn nhắc nhở Phạm thiên Baka:

    - Này Baka, con quan niệm tuổi thọ nào nhiều, tuổi thọ nào ít? Con chẳng còn sống được bao lâu nữa đâu! Như Lai biết rõ tuổi thọ của con chỉ còn trăm ngàn nirabbuda mà thôi (1 nirabbhuda là số 1 theo sau là 63 số không = 10 lũy thừa 63 năm).

    Lắng nghe Ðức Phật tường thuật lại những tiền kiếp của mình, Phạm thiên Baka vô cùng kính phục và tri ân Ðức Thế Tôn, đối với mình cảm thấy bàng hoàng sửng sốt, như vừa tỉnh lại, sau khi trải qua một cơn mê triền miên.

    Bây giờ, Phạm thiên Baka có đức tin hoàn toàn nơi Ðức Thế Tôn, muốn biết thêm pháp hành của mình ở tiền kiếp, nên thỉnh cầu Ðức Thế Tôn:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, "Ngài thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự tử của tất cả chúng sinh không cùng tận, những căn duyên phiền não ngấm ngầm của mỗi chúng sinh...".

    Kính bạch Ðức Thế Tôn, con kính xin Ngài chỉ dạy rõ những pháp hành thiện của con ở tiền kiếp như thế nào? Bạch Ngài.

    Ðức Thế Tôn nhắc lại cho Phạm thiên Baka biết rõ những pháp hành thiện của y ở tiền kiếp như sau:

    - Này Phạm thiên Baka, tiền kiếp của con đã sanh làm người trong gia đình giàu có, thọ hưởng đầy đủ ngũ trần, nhưng con đã sớm thấy rõ tội lỗi của ngũ trần, muốn xa lánh ngũ trần, nên từ bỏ nhà xuất gia làm đạo sĩ trong rừng núi, tiến hành thiền định, đã chứng đắc đệ tứ thi?n hữu sắc và chứng đắc thần thông. Sau đó, con làm một cốc lá ở bên bờ sông Gangà, sống và thọ hưởng sự an lạc trong thiền định.

    Lúc ấy, có một đoàn thương buôn với 500 cỗ xe bò đang vượt qua một bãi sa mạc vào ban đêm, vì ban ngày trời nắng nóng như thiêu như đốt không thể đi được, họ phải nghĩ. Ðoàn xe bò cứ đi mãi trong đêm tối, tất cả chỉ trông cậy vào con bò đầu đàn. Người trưởng đoàn nghĩ rằng chỉ còn một đêm nay, đoàn xe bò sẽ vượt qua khỏi bãi sa mạc đầy nguy hiểm, họ sắp đến làng mạc dân cư đông đúc, cho nên ông ra lệnh bỏ hết củi, nước cho xe nhẹ.

    Trời hừng sáng, người trưởng đoàn chợt phát hiện ra đoàn xe đang quay lùi trở lại lối cũ, không phải tiến về phía trước. Như vậy, họ vẫn còn ở giữa xa mạc mênh mông. Mọi người đều kinh hoàng thất sắc. Gần trưa, trời nắng nóng như thiêu như đốt, cả đoàn thương buôn người và vật, vừa khát nước, vừa đói, ai cũng mệt lả, nằm núp dưới lườn xe để chờ đợi thần chết đến dần dần, chẳng có phương nào cứu nguy được nữa.

    Sáng sớm hôm ấy, đạo sĩ ra khỏi cốc lá, ngồi nhìn giòng sông Gangà nước cuồn cuộn chảy dài, một ý nghĩ chợt phát sanh trong tâm đạo sĩ: "có chúng sinh nào đang đau khổ vì khát hay không?". Ðạo sĩ dùng thiên nhãn thông thấy rõ đoàn thương buôn với 500 cỗ xe bò đang nằm chờ chết khát, chết đói ở bãi sa mạc. Khởi tâm bi mẫn, đạo sĩ nghĩ là phải cứu họ thoát chết. Ðạo sĩ nhập định, luyện thần thông rồi phát nguyện rằng: "Xin cho đường nước chảy qua bãi sa mạc đến chỗ đoàn người thương buôn cùng 500 con bò để có nước uống, nước dùng khỏi chết khát".

    Ðạo sĩ vừa phát nguyện xong, những người lái buôn nghe tiếng nước và nhìn thấy dòng nước trong trẻo đang cuồn cuộn chảy đến. Quả là một phép lạ nhiệm mầu, họ chấp tay tạ ơn trời đất, vô cùng mừng rỡ reo cười, uống no, tắm mát cả người lẫn thú. Ðoàn thương buôn thế là thoát chết, cùng 500 cổ xe vượt sa mạc an toàn, chở hàng đến kinh thành như ý.

    Ðức Thế Tôn nhắc lại việc hành thiện của tiền kiếp Phạm thiên Baka xong, tóm tắt bằng bài kệ:

    "Này Phạm thiên Baka,
    Tiền kiếp con, đạo sĩ,
    Dùng năng lực thần thông,
    Dẫn dòng nước mát mẽ,
    Cứu sống đoàn thương buôn,
    Cùng đoàn bò đang khát,
    Giữa sa mạc mênh mông,
    Trong mùa hạ nóng bỏng,
    Ðó là pháp hành thiện,
    Của con trong tiền kiếp.

    Trường hợp khác, vị đạo sĩ ấy đang ở cốc lá bên bờ sông Gangà, gần xóm làng. Một hôm có một bọn cướp kéo vào xóm làng, chúng cướp đoạt tất cả tài sản, lùa bắt đi những đoàn gia súc trâu, bò, dê, lợn... còn bắt người làm nô lệ để khuân vác, tập trung nghỉ ở bên bờ sông Gangà. Dân làng bị hành hạ, kêu la than khóc. Với thiên nhĩ thông, đạo sĩ nghe rõ được tiếng than khóc kêu la ấy, đạo sĩ quán xét biết rõ,những dân làng và đàn súc vật bị bọn cướp chiếm đoạt và bị hành hạ, nên phát sanh tâm bi mẫn cứu dân làng thoát nạn.

    Ðạo sĩ nhập định rồi luyện thần thông hoá ra một đội quân tinh nhuệ rầm rộ kéo đến. Bọn cướp vừa thoáng thấy tưởng rằng quân triều đình, chúng kinh hoàng khiếp đảm bỏ chạy thoát thân, không kịp mang theo cả binh khí. Ðạo sĩ thu hồi lại thần thông, dân làng vô cùng ngạc nhiên, khi vừa chứng kiến một phép lạ chưa từng có bao giờ. Mọi sự việc đều trở lại bình thường, họ vô cùng vui mừng khôn xiết, tất cả của cải súc vật... của người nào hoàn trả lại cho người ấy, họ được an toàn, an vui và hạnh phúc.

    Ðức Phật nhắc lại việc hành thiện của tiền kiếp Phạm thiên Baka xong, tóm tắt bằng bài kệ:

    "Này Phạm thiên Baka,
    Tiền kiếp con, đạo sĩ,
    Dùng năng lực thần thông,
    Ðã giải phóng dân làng,
    Thoát khỏi tay bọn cướp,
    Hung ác và dã man,
    Ðó là pháp hành thiện,
    Của con trong tiền kiếp".

    Một trường hợp khác, hai gia đình sống bằng thuyền trên dòng sông Gangà, một chiếc ở mé sông phía bắc và một chiếc ở mé sông phía nam, cả hai gia đình kết bạn thân thiết với nhau. Một hôm, hai gia đình kết hai chiếc thuyền lại với nhau để mở tiệc ăn mừng thả thuyền trôi trên dòng sông Gangà, mọi người ăn mặc điểm trang đẹp đẽ, đờn ca múa hát, ăn uống linh đình thâu đêm.

    Long vương Gangeyyaka nổi giận nghĩ rằng: "nhóm người này không vì nể ta, ta sẽ nhận chìm chúng xuống dòng sông Gangà này". Nghĩ xong, Long vương hung ác bèn hóa thân hình to lớn tạo nên những cơn sóng thần làm cho hai chiếc thuyền mỏng manh tròng trành trên sóng dữ, đồng thời lại còn phồng mang phì hơi để nhận chìm hai chiếc thuyền. Mọi người trên thuyền hốt hoảng kêu la cầu cứu.

    Ðạo sĩ ở cốc lá nghe tiếng kêu cứu nghĩ rằng: "nhóm người trên thuyền vừa mới đờn ca múa hát vui chơi, nay lại kêu la cầu cứu, do nguyên nhân nào vậy?". Ðạo sĩ nhìn thấy Long vương Gangeyyaka có ác tâm muốn hại những người này. Với tâm bi mẫn, cứu người trong hoạn nạn, đạo sĩ nhập định rồi luyện thần thông biến hoá thành Ðiểu vương Garuda to lớn, hiện ra tại chỗ hai chiếc thuyền bị nạn. Long vương Gangeyyaka vừa nhìn thấy Ðiểu vương liền kinh hoàng bạt vía lặn trốn xuống nước sâu.

    Thế là mọi người trên hai chiếc thuyền đột nhiên thấy sóng lặng, dòng sông trở lại bình thường, tất cả mọi người được an toàn tính mạng, họ vui mừng khôn xiết.

    Ðức Phật nhắc lại việc hành thiện trên của Phạm thiên Baka xong, tóm tắt bằng bài kệ:

    Này Phạm thiên Baka,
    Tiền kiếp con, đạo sĩ,
    Dùng oai lực thần thông,
    Biến hoá thành Ðiểu vương,
    Khống chế được Long vương,
    Cứu mọi người trên thuyền,
    Trên dòng sông Gangà,
    Thoát khỏi bị đắm thuyền.
    Ðó là pháp hành thiện,
    Của con trong tiền kiếp.

    Một trường hợp khác, tiền kiếp của con xuất gia làm đạo sĩ tên là Kesava, tu hành rất chơn chánh và tiền kiếp của Như Lai thuở ấy, là học trò của đạo sĩ, tên là Kappa. Cậu học trò không những hộ độ thầy rất chu đáo và tín cẩn, mà còn rất thông minh, có trí tuệ sắc bén, có tài năng xuất chúng, đặc biệt có tài đức vẹn toàn, cho nên được thầy yêu mến, thật sự, vị thầy nương nhờ ở người học trò, thầy và trò luôn luôn sống bên nhau an lạc.

    Ðức Phật nhắc lại tiền kiếp của Phạm thiên Baka xong, tóm tắt bằng bài kệ:

    "Này Phạm thiên Ba-ka,
    Tiền kiếp của Như Lai,
    Từng là đệ tử ngươi,
    Tên gọi là Kap-pa,
    Ðược ngươi yêu thương nhất,
    Tín cẩn và nương nhờ.
    Như Lai hiểu rõ ngươi,
    Vốn là người chánh kiến,
    Có nhiều pháp hành thiện,
    Tiền kiếp ngươi như vậy".

    Khi Ðức Thế Tôn nhắc lại những tiền kiếp và pháp hành thiện của Phạm thiên Baka một cách rõ ràng minh bạch. Phạm thiên Baka vô cùng hoan hỷ, tán dương ca tụng Ðức Thế Tôn rằng:

    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài không những biết rõ tuổi thọ còn lại của con, mà còn biết rõ những tiền kiếp và mọi pháp hành thiện của con một cách rõ ràng minh bạch. Bởi vì Ngài là Bậc Chánh Ðẳng Giác, bậc Toàn Tri Diệu Giác, là Ðức Phật....

    Ðức Thế Tôn ngự đến cõi sắc giới Phạm thiên này để tế độ con và chư Phạm thiên và làm cho cõi phạm thiên này thêm xán lạn.

    -ooOoo-
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:39 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

  10. #10

    Mặc định

    PHẦN PHỤ LỤC

    QUẢ CỦA NGHIỆP (KAMMAPHALA)


    -ooOoo-

    Nghiệp có hai loại: thiện nghiệp và bất thiện nghiệp.

    Thiện nghiệp thì cho quả tốt: thân an lạc, tâm an lạc, bất thiện nghiệp thì cho quả xấu: khổ thân, khổ tâm.

    Ðối với Ðức Bồ Tát Siddhattha đã tạo đầy đủ thiện nghiệp: ba mươi pháp hạnh ba la mật, nên cho quả tốt là chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Và những tiền kiếp của Ðức Phật khi còn là phàm nhân cũng đã tạo nhiều bất thiện nghiệp nên cũng cho quả xấu, chịu khổ trong cõi địa ngục, súc sanh... cho đến khi đã chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác cũng không tránh khỏi quả của bất thiện nghiệp đã tạo ở tiền kiếp.

    Trong bộ Chú giải Apàdàna, Ðức Phật đã thuyết dạy những quả của bất thiện nghiệp mà Ngài phải thọ lãnh kiếp hiện tại này:

    - Ðức Bồ Tát phải hành khổ hạnh suốt 6 năm.

    - Ðức Phật bị nàng kỹ nữ Cincàmanavikà vu khống.

    - Cái chết của nàng kỹ nữ Sundarì đổ tội cho Ngài.

    - Cái chết của nàng kỹ nữ Sundarì làm cho Ðức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng chịu tiếng xấu bị mắng chửi.

    - Tỳ khưu Devadatta xô đá xuống có ý để hại Ngài, nhưng không hại được, chỉ bị một mảnh đá vở ra đụng phải đầu ngón chân của Ngài bị bầm máu.

    - Thái y Jivaka dùng dao mổ chỗ máu bầm của Ngài.

    - Voi Nàlàgiri chạy đến để sát hại Ngài.

    - Ngài thường bị bệnh đau đầu.

    - Ngài thường bị bệnh đau lưng.

    - Ngài bị bệnh đại tiểu tiện ra máu....

    Ðó là những quả bất thiện nghiệp mà tiền kiếp của Ngài đã tạo, đến kiếp hiện tại này, bất thiện nghiệp ấy còn dư sót, nên Ngài phải chịu quả xấu.

    Trong tập "Tám Sự Tích Phật Lực" này, chỉ trích dịch những bất thiện nghiệp nào có liên quan cho quả xấu mà Ðức Phật đã thọ lãnh.

    Nguyên nhân đầu tiên Tỳ khưu Devadatta kết oan trái với Ðức Phật.

    Tỳ khưu Devadatta kết oan trái với Ðức Phật không chỉ ở trong kiếp hiện tại, mà đã từng có oan trái nhiều kiếp trong quá khứ, ở bất cứ địa vị nào, dầu là cha với con... sự oan trái lúc nào cũng phát sanh từ phía Devadatta để làm khổ Ðức Bồ Tát. Sự oan trái ấy bắt nguồn đầu tiên từ câu chuyện tiền thân "Hai người buôn bán nữ trang" (Bộ Chú giải Jàtaka, câu chuyện Serivavànija-jàtaka) , tóm lược như sau:

    Thuở quá khứ, Ðức Bồ Tát, tiền kiếp của Ðức Phật, là nhà lái buôn lương thiện, và tiền thân của Devadatta cũng là nhà lái buôn nhưng có tánh tham lam và gian ác. Có một gia đình trước kia là phú hộ, nhưng sau tất cả tài sản khánh kiệt, chỉ còn cái mâm bằng vàng ròng đóng đầy bụi. Thừa kế gia đình ấy chỉ còn một bà ngoại già và đứa cháu gái, họ không hề biết gì về giá trị của chiếc mâm vàng ấy.

    Một hôm, có người buôn nữ trang từ xa đến, đi ngang nhà, cô cháu gái thấy liền năn nỉ xin bà ngoại mua cho mình một món nữ trang.

    Bà ngoại già âu yếm bảo cháu: "Này cháu yêu quý, ngoại không tiếc gì cho cháu cưng đâu. Hiềm một nỗi gia đình mình hiện nay nghèo quá, cơm áo không đủ dùng, thì lấy đâu có tiền bạc mà mua nữ trang cho cháu. Chỉ còn cái mâm cũ kỹ kia để ngoại hỏi người lái buôn xem thử có đổi được món nữ trang nhỏ nào cho cháu không".

    Bà liền gọi người lái buôn vào, đưa cái mâm cũ kỹ cho y xem. Sau khi săm soi kỹ, với con mắt nhà nghề, người lái buôn biết rõ là cái mâm bằng vàng ròng quý giá, mà hai bà cháu không hề biết được giá trị của nó. Tánh vốn tham lam và gian ác, y tự nghĩ "ta phải chiếm đoạt cái mâm vàng này, mà chỉ cần đổi một món nữ trang nho nhỏ không đáng giá". Nghĩ xong, y giả vờ bực dọc ném cái mâm xuống đất rồi nói:

    - Cái mâm cũ kỹ này chẳng có giá trị gì cả, lấy đâu để đổi lấy một món nữ trang? Nó chưa đáng giá 12 xu rưỡi!

    Nói xong, người lái buôn tham lam và gian ác kia liền bỏ đi nơi khác.

    Ngày hôm sau, người lái buôn lương thiện (Ðức Bồ Tát) đi ngang nhà, cô cháu gái khóc lóc năn nỉ đòi mua. Vì rất thương yêu và muốn vừa lòng cháu, bà gọi người lái buôn vào nhà, lại đem cái mâm cũ kỹ kia đưa cho người lái buôn này xem. Lần này, thì bà kể lể về hoàn cảnh khốn khổ của mình cho người lái buôn nghe, với hy vọng đổi được món nữ trang nhỏ nào đó cho cháu.

    Nhà lái buôn lương thiện cầm cái mâm, lau chùi lớp bụi, phát hiện ra cái mâm này không chỉ là một cái mâm bằng vàng ròng tinh chất quý giá, mà còn chạm trổ những phù điêu, hoa văn tinh tế, công phu, thật là một nghệ thuật tuyệt vời.

    Ðức Bồ Tát hai tay nâng niu cái mâm và từ tốn thưa rằng:

    - Thưa mẹ, cái mâm này không những bằng vàng ròng tinh chất, mà còn là một cổ vật quý giá, ít nhất khoảng trên 100 ngàn Kahàpana (đồng tiền vàng Ấn Ðộ thời xưa). Tất cả giá trị nữ trang và tiền bạc của con mang theo bên người chưa bằng được một phần trăm, thì con đâu dám đụng đến cổ vật vô giá ấy.

    Bà ngoại già vô cùng cảm kích trước tấm lòng chân thật của người lái buôn lương thiện, chân thành nói:

    - Này con, chính tấm lòng chân thật của con quý hơn cả cổ vật này. Hôm trước có người lái buôn nữ trang như con đã chê cái mâm này. Y nói cái mâm này chưa đáng giá 12 xu rưỡi. Khi đi, y còn ném cái mâm xuống đất và thốt lên lời hằn học nữa. Nếu quả thật, nó bằng vàng quý giá như con nói, thì đó chính là quả phước của con. Vậy, con hãy lấy đi rồi cho cháu một món nữ trang nào cũng được, con đừng ái ngại.

    Sau nhiều lần từ chối không được, Ðức Bồ Tát đành trao lại tất cả số nữ trang và trọn số tiền của mình, tổng cộng giá trị khoảng một ngàn (1000) đồng tiền vàng cho hai bà cháu, chỉ xin lại tám đồng để chi phí dọc đường.

    Ðức Bồ Tát vừa đem cái mâm vàng đi thì người lái buôn tham lam gian ác trở lại tìm bà cụ, y bảo:

    - Này bà già, hãy đem cái mâm cũ kỹ kia ra đây, tôi sẽ làm bố thí cho cháu bà một món nữ trang nho nhỏ!

    Bà cụ nhìn thấy y, con người gian giảo đáng khinh bỉ, bà bảo:

    - Này anh kia, cái mâm vàng của tôi đáng giá 100 ngàn đồng, sao trước đây ông chê chưa đáng giá 12 xu rưỡi? Tôi đã bán cho một người lái buôn nữ trang lương thiện, ông ấy đã trao cho tôi trọn số tiền 500 đồng của mình và tất cả số nữ trang còn lại. Tôi đã trao cái mâm vàng cho người ấy mang đi rồi.

    Nghe nói vậy, người lái buôn tham lam và gian ác cảm thấy vô cùng tiếc rẻ gào lên:

    - Ôi! Ta đã thất bại quá lớn rồi! Tên lái buôn kia đã cướp cái mâm bằng vàng đáng giá 100 ngàn đồng của ta rồi!

    Gào thét đến khô hơi tắt tiếng, tâm uất hận đến cực độ, tên lái buôn nằm lăn xuống đất ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, như người điên, y xả bỏ quần áo, đồ nữ trang vung vãi, với đầu bù tóc rối, y chạy đuổi theo Ðức Bồ Tát. Lúc ấy, Ngài đã qua quá nửa dòng sông, vẫn nghe văng vẳng tiếng gào thét của y: "Hãy trở lại! Hãy trở lại!". Ngài bảo người lái đò chèo thẳng qua bên kia sông.

    Bên bờ sông này, quá thất vọng và tiếc của, quá uất hận, cơn nóng giận cực độ làm cho người lái buôn máu trào ra miệng, lăn ra chết ngay tại chỗ. Trước khi tắt thở, với tâm sân hận y thốt ra lời nguyền độc địa kết oan trái với Ðức Bồ Tát: "Ta sẽ kết oan trái với ngươi dù bất cứ ở địa vị nào".

    Bởi vậy, trong suốt khoảng thời gian tử sanh luân hồi, hễ mỗi khi hai người gặp lại nhau, ở hoàn cảnh nào, địa vị nào hậu kiếp của người lái buôn tham lam gian ác kia cũng tìm cách giết hại hoặc làm khổ Ðức Bồ Tát; dầu ở địa vị làm cha, Ðức Bồ Tát làm con, thì người cha ấy cũng tìm đủ lý do để giết hại Ðức Bồ Tát. Thậm chí cho đến kiếp cuối cùng, hậu kiếp của người lái buôn nữ trang lương thiện là Thái tử Siddhattha, đã chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác và hậu kiếp của người lái buôn tánh tham lam gian ác kia là Hoàng tử Devadatta dòng Sakya (thân quyến của Thái tử Siddhattha) xuất gia trở thành Tỳ khưu Devadatta, đệ tử của Ðức Phật, y tìm đủ mọi mưu mô thâm độc để giết hại Ðức Phật. Nhưng do oai lực của Ðức Phật, do đó không có một ai trên thế gian có khả năng giết hại được, chỉ có thể làm cho kim thân của Ðức Phật bầm máu mà thôi.

    Nguyên nhân từ bất thiện nghiệp quá khứ nào khiến Tỳ khưu Devadatta lăn đá làm bầm bàn chân của Ðức Phật?

    Cũng theo bộ Chú giải Apàdàna, phần Buddha-pàdàna.

    Trong tiền kiếp của Ðức Phật có một người em trai cùng cha khác mẹ, khi cha mẹ qua đời, để lại cho hai anh em kế thừa một gia sản lớn. Vì si mê nghe theo lời xúi dục của bọn gia nhân ác tâm, Ðức Bồ Tát đã giết hại đứa em của mình bằng cách xô xuống núi lăn đá đè chết để chiếm đoạt toàn bộ tài sản.

    Ðức Bồ Tát sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào cảnh địa ngục chịu khổ suốt nhiều ngàn năm, đến khi mãn nghiệp ở địa ngục, mỗi khi được tái sanh làm người, phải chịu quả yểu thọ.

    Ðến kiếp hiện tại này, tuy Ngài đã chứng đắc thành Bậc Chánh Ðẳng Giác rồi, do năng lực của bất thiện nghiệp ấy còn dư sót, khiến Tỳ khưu Devadatta cố ý lăn đá đè chết Ngài, nhưng nhờ Ngài đã trở thành Ðức Phật, nên không một ai có thể sát hại được, chỉ bị một mảnh đá vỡ văng đụng đầu ngón chân cái của Ngài làm bầm máu mà thôi.

    Nguyên nhân từ bất thiện nghiệp quá khứ nào khiến nàng Cincàmànavikà vu khống Ðức Phật?

    Theo bộ Chú giải Apàdàna, phần Buddha-pàdàna dạy:

    Trong thời quá khứ, có một Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, Ngài có một vị Thánh Thanh Văn đệ tử tên là Nanda, vị Thánh Tăng có giới đức hoàn toàn trong sạch. Thế mà tiền kiếp của Ðức Phật đã vu khống cho bậc Thánh Tăng ấy phạm giới hành dâm.

    Ðức Bồ Tát sau khi chết kiếp ấy, do khẩu ác nghiệp này cho quả tái sanh vào địa ngục chịu khổ suốt 10 ngàn năm. Ðến khi mãn nghiệp, mỗi khi được tái sanh làm người, dầu ở địa vị nào Ðức Bồ Tát cũng thường bị vu khống, bị mắng nhiếc về tội hành dâm như vậy.

    Ðến kiếp cuối cùng, ở địa vị Ðức Chánh Ðẳng Giác, khẩu ác nghiệp còn dư sót khiến cho nàng Cincàmànavikà vu khống Ngài đã hành dâm với nàng có thai.

    Nguyên nhân từ bất thiện nghiệp quá khứ nào, mảnh đá vỡ văng đụng đầu ngón chân của Ðức Phật?

    Cũng trong bộ Chú giải Apàdàna, phần Buddha-pàdàna, tóm tắt câu chuyện tiền kiếp như sau:

    Trong quá khứ xa xưa, tiền kiếp của Ðức Phật sanh làm một cậu bé tinh nghịch, rắn mắt. Một hôm, cậu đang đùa với bọn trẻ trên đường, nhìn thấy Ðức Phật Ðộc Giác đang đi trì bình khất thực. Cậu bé phát sanh ác tâm, nghĩ rằng: "Tên Sa môn đầu trọc này từ đâu đến đây?" rồi cậu cúi xuống, lấy mảnh đá ném đụng chân của Ngài, làm trầy da chảy máu.

    Cậu bé sau khi chết, do bất thiện nghiệp này cho quả tái sanh vào địa ngục chịu khổ nhiều ngàn năm, đến khi mãn nghiệp ở địa ngục, mỗi khi được tái sanh làm người cũng thường chịu quả khổ do bởi ác nghiệp ấy.

    Ðến kiếp hiện tại này, tuy Ngài đã trở thành Ðức Phật, do năng lực ác nghiệp ấy còn dư sót nên Ngài vẫn bị mảnh đá vỡ văng đụng đầu ngón chân của Ngài làm cho bầm máu, và cũng do năng lực ấy, khiến Tỳ khưu Devadatta sai nhóm xạ tiễn đi bắn Ngài.

    Nguyên nhân từ bất thiện nghiệp quá khứ nào khiến cho thái y Jivaka dùng dao mổ chỗ máu bầm ở bàn chân của Ðức Phật?

    Cũng trong bộ Chú giải Apàdàna, phần Buddha-pàdàna dạy:

    Trong quá khứ xa xưa, tiền thân của Ðức Phật là một vị vua cai trị một nước nhỏ ở biên địa. Ðức vua có tính ham chơi và thường hay thân cận với bọn nịnh thần hung ác. Một hôm, bỗng dưng vua phát cơn điên cuồng, loạn trí xã bỏ áo mão, đi chân đất vào thành dùng gươm giết chết nhiều người vô tội. Ðức vua sau khi chết, do ác nghiệp đâm chém ấy cho quả tái sanh vào điạ ngục, khi mãn nghiệp ở đó, mỗi khi tái sanh lại làm người phải chịu khổ đâm chém.

    Ðến kiếp hiện tại, tuy Ngài đã chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, nhưng do năng lực ác nghiệp ấy còn dư sót, nên Ngài phải bị thái y Jivaka dùng dao mổ xẻ chỗ máu bầm ở chân của Ngài.

    Nguyên nhân từ bất thiện nghiệp quá khứ nào khiến voi Nàlàgiri định xông đến chà Ðức Phật?

    Cũng trong bộ chú giải Apàdàna, phần Buddha-pàdàna dạy:

    Trong quá khứ xa xưa, tiền thân của Ðức Phật làm nghề giữ voi. Một hôm, lúc đang cỡi voi vào thành, trông thấy một Ðức Phật Ðộc Giác đang đi trì bình khất thực, y phát sanh ác tâm nghĩ: "Sa môn đầu trọc này từ đâu đến?" rồi lấy búa khiến voi xông đến để làm hại Ngài. Người giữ voi sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào ác đạo chịu khổ nhiều ngàn năm, đến kiếp hiện tại này, dầu đã trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, do năng lực của ác nghiệp ấy còn dư sót, khiến Tỳ khưu Devadatta, âm mưu dùng voi Nàlàgiri uống rượu say chạy xông đến để hại Ngài.

    Trên đây sơ lược một số bất thiện nghiệp trong những tiền kiếp của Ðức Phật. Mặc dầu, bất thiện nghiệp ấy đã cho quả khổ suốt nhiều ngàn năm, nhiều kiếp thế mà đến kiếp cuối cùng Ngài đã trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, năng lực của ác nghiệp ấy vẫn còn có thể cho quả. Ðến khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn, khi ấy tất cả bất thiện nghiệp cũng như mọi thiện nghiệp đều trở thành vô hiệu nghiệp, vì không còn tái sanh kiếp sau, chấm dứt sự tử sanh luân hồi trong tam giới.

    Theo quan niệm Phật giáo, tất cả quả tốt: quả thân an lạc, tâm an lạc đều phát sanh từ thiện nghiệp; và ngược lại, tất cả quả xấu: quả khổ thân, khổ tâm đều phát sanh từ bất thiện nghiệp. Nhưng tất cả mọi bất thiện nghiệp và mọi thiện nghiệp không nhất thiết đều phải cho quả. Nghiệp nào cho quả, nghiệp ấy phải hội đủ nhân duyên, nếu thiếu nhân duyên, nghiệp không thể cho quả được. Cho nên, có những bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, không còn tái sanh kiếp sau, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới, thì tất cả thiện, ác nghiệp đã tạo đều trở thành vô hiệu nghiệp.

    JAYAMAN GALAGÀTHÀ

    1)* Bàhum sahassamabhinimmitasàvudhantam
    Girimekhalam uditaghoram sasenamàram,
    Dànàdidhammàvidhinà jitavà Munindo
    Tam tejasà bhavatu me (te) jayamangalaggam.

    2)* Màratirekamabhiyujjhita sabbarattim,
    Ghoram panàlavaka makkhamathaddhayakkham,
    Khantì sudantavidhinà jitavà Munindo,
    Tam tejasà bhavatu me (te) jayamangalaggam.

    3)* Nàlàgirim gajavaram atimattabhùtam,
    Dàvaggicakkamasaniva sudàrunantam
    Mettambusekavidhinà jitavà munindo,
    Tam tejasà bhavatu me (te) jayamangalaggam.

    4)* Ukkhittakhaggamabhihatthasudàrunantam.
    Dhàvam tiyojanapathangulimàlavantam
    Iddhibhisaíkhatamano jitavà Munindo,
    Tam tejasà bhavatu me (te) jayamangalaggam.

    5)* Katvàna katthamudaram iva gabbhaniyam,
    Cincàya dutthuvacanam janakàyamajjhe,
    Santena somavidhinà jitvà Munindo,
    Tam tejasà bhavatu me (te) jayamangalaggam.

    6)* Saccam vihàya atisaccakavàdaketum
    Vàdàbhiropitamanam ati andhabhùtam
    Pannàpadìpajalito jitavà Munindo,
    Tam tejasà bhavatu me (te) jayamangalaggam.

    7)* Nandopananda bhujagam vividham mahiddhim,
    Puttena therabhujagena dhunàpayanto.
    Iddhùpadesavidhinà jitavà Munindo,
    Tam tejasà bhavatu me (te) jayamangalaggam.

    8)* Duggàhaditthibhujagena sudatthahattham,
    Brahmam sutam jutimahiddhim Bakàbhidhànam.
    Nànàgadena vidhinà jitavà Munindo,
    Tam tejasà bhavatu me (te) jayamangalaggam.

    ** Etàpi Buddhajayamangala atthagàthà,
    Yo vàcano dinadine sarate mantadì.
    Hitvànanekavividhàni cupaddavàni,
    Mokkham sukham adhigameyya naro sapanno.

    Dịch nghĩa:

    Bài Kệ An Lành Thù Thắng

    1) Ðức Bồ Tát toàn thắng, Ác Ma Thiên,
    Hóa ngàn cánh tay đều cầm vũ khí,
    Cỡi voi trời Gi-ri-me-kha-la,
    Cùng vô số thiên ma binh, ma tướng,
    Tiếng hét la vang dậy cả không gian,
    Nhờ ba mươi pháp hạnh ba la mật:
    Bố thí, giữ giới, xuất gia, trí tuệ....
    Ác Ma Thiên bị thảm bại hoàn toàn.
    Nhờ Phật lực toàn thắng Ác Ma Thiên,
    Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

    2) Ðức Phật cảm thắng dạ xoa Àlavaka,
    Là dạ xoa tự cao và tàn nhẫn,
    Hung bạo, dũng mãnh hơn Ác Ma Thiên,
    Hoá phép tấn công Ðức Phật trọn đêm,
    Ðức Phật cảm thắng nhờ pháp nhẫn nại,
    Do nhờ Phật lực tế độ dạ xoa,
    Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

    3) Ðức Phật cảm thắng voi Nàlàgiri,
    Là voi dữ trong cơn say điên cuồng,
    Hung ác như lửa rừng, như sấm sét,
    Nhờ pháp rải tâm từ làm mát dịu,
    Ðức Phật đã tế độ được voi ấy,
    Do nhờ Phật lực cảm thắng voi dữ,
    Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

    4) Ðức Phật cảm hóa Angulimàla,
    Là kẻ cướp sát nhân rất hung ác,
    Cắt ngón tay người làm vòng đeo cổ,
    Là kẻ tàn nhẫn và rất tinh nhuệ,
    Cầm gươm đuổi theo cố giết Ðức Phật,
    Suốt ba do tuần mà vẫn không kịp,
    Nhờ Ðức Phật ứng hoá phép thần thông,
    Tế độ được An-gu-li-mà-la,
    Do nhờ Phật lực cảm hóa kẻ ác,
    Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

    5) Ðức Phật thắng nàng kỹ nữ Cin-cà,
    Nàng dùng gỗ đẽo tròn mang vào bụng,
    Giả như người đàn bà mang thai thật,
    Rồi vu khống Ðức Phật giữa tứ chúng,
    Nhờ pháp an tịnh, Ðức Phật thắng nàng,
    Do nhờ Phật lực thắng nàng Cin-cà,
    Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

    6) Ðức Phật cảm thắng ngoại đạo Saccaka,
    Kẽ si mê tối tăm như người mù,
    Tự cho mình có trí tuệ hơn cả,
    Dùng lý lẽ mình đè bẹp người khác,
    Dương danh sự thật không phải là thật,
    Phủ nhận sự thật chân lý mọi người.
    Ðức Phật đã cảm thắng Sac-ca-ka,
    Nhờ trí tuệ như ngọn đèn chiếu sáng.
    Do Phật lực cảm thắng Sac-ca-ka,
    Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

    7) Rồng chúa Nan-do-pa-nan-da,
    Là Rồng tà kiến có nhiều thần thông
    Ðức Phật dạy trưởng tử Moggallàna,
    Dùng phép thần thông hoá thành Rồng lớn,
    Phun khói để thu phục Rồng chúa ấy,
    Do nhờ Phật lực thu phục Rồng chúa,
    Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

    8) Phạm thiên Ba-ka có đại thần lực
    Và hào quang nổi danh khắp mọi cõi,
    Có thường kiến chấp thủ quá mê lầm,
    Như bị rắn độc cắn phải ở tay,
    Nhờ trí tuệ, như linh dược giải độc,
    Ðức Phật đã cảm thắng Phạm thiên ấy
    Do nhờ Phật lực tế độ Phạm thiên,
    Mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

    Bậc Thiện trí hằng ngày thường tụng đọc,
    Tám bài kệ "Hạnh phúc thù thắng" này,
    Tán dương sự cảm thắng của Ðức Phật,
    Thì tránh khỏi vô số điều tai hại.
    Ðược thành tựu mọi hạnh phúc an lạc,
    Tạo duyên Niết Bàn, giải thoát khổ sanh.

    -ooOoo-
    Last edited by Người học Phật; 22-03-2018 at 08:40 AM.
    Facebook: https://www.facebook.com/namo.bhaisajyaguru
    Skype: hung.tranvan2209

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •