kết quả từ 1 tới 2 trên 2

Ðề tài: KHÍA CẠNH HUYỀN BÍ CUẢ ÂM NHẠC

  1. #1

    Mặc định KHÍA CẠNH HUYỀN BÍ CUẢ ÂM NHẠC

    HAI LOẠI NHẠC




    Nếu vạch ra cho người Ấn thấy rằng âm nhạc của họ thiếu các dạng thức khác nhau, họ sẽ không hiểu được ta. Không phải là họ có âm nhạc vui tươi, âm nhạc nghiêm trang và âm nhạc sầu muộn hay sao, đâu cần có gì thêm ? Lại nữa, họ sẽ biện luận rằng một âm trong nhạc của họ được chia theo bốn bậc (quarter tone) còn một âm trong nhạc tây phương chỉ chia thành có hai bậc (semi tone, bán âm. Giải thích thì khoảng cách giữa hai nốt Do-Re là một âm gồm hai bán âm: Do - ♯Do là một bán âm, ♯Do - Re là một bán âm khác.)
    Để trả lời ta sẽ trưng cho họ thấy dàn nhạc vĩ đại của tây phương với đàn dương cầm, phong cầm và ban hợp ca đông đảo; liệu những nhạc cụ với âm điệu êm ái của họ so sánh được với lực lượng hùng hậu như thế chăng ?
    Như vậy, đặc tính của nhạc Ấn Độ không phải là về khối lượng mà là về mức tinh tế, vì họ có 1/4 âm, và đó là nguyên do cho cả tính chất và giới hạn của nhạc Ấn Độ.
    Khi đức Bàn Cổ lập mẫu chủng thứ năm tại Ấn Độ, để đối phó với Tà Thuật chiếm ưu thế trong mẫu chủng thứ tư Atlantis mà từ mẫu chủng này ngài bắt buộc phải chọn một số người làm nhân cho mẫu chủng mới, ngài cấm việc chơi nhạc đang có vì ảnh hưởng của nó đã được chứng tỏ tai hại ra sao, và khởi đầu một âm giai mới cùng khoa học về chú ngữ (mantram), hầu cho chi chủng mới có thể đáp ứng với làn rung động cao và học để lên tới cõi trí. Những mantramnày được các giáo sĩ Ấn Độ truyền qua bao thế kỷ sau đó, trở thành hoàn toàn liên kết với truyền thống tôn giáo, và chỉ được dùng vào những lúc được ấn định trong ngày.
    Như vậy sẽ có bài tụng được xướng lên trước buổi thiền ban sáng, bài cho đúng ngọ, bài cho buổi chiều, mỗi bài được tính để sinh ra ảnh hưởng riêng biệt cho người xướng và cử tọa. Sau bao thời đại, truyền thống tôn giáo tại Ấn Độ cho ảnh hưởng quá đỗi hùng mạnh tới mức không ai nghĩ đến việc xướng bài tụng cho sáng sớm vào giữa trưa, thí dụ vậy, lại càng không xướng bài đó vào buổi chiều.
    Vì thế các giáo sĩ xưa của Ấn, thay vì tìm cách phát triển nhạc thành một nghệ thuật, lại chỉ tìm cách làm gia tăng tính chất chú ngữ của nó. Người Ấn do bản chất đã có sẵn tính trầm mặc, nay khi ý thức là có chuỗi nhạc sinh ra tham thiền rất sâu, họ thí nghiệm với nhạc và thăng hoa nó cho tới khi đạt được kết quả mong ước. Kết quả ấy là trạng thái đại định Samadhi, hay sự chìm đắm vào tâm thức cao tột.
    Nhưng dù trong trạng thái đó nghe được ‘nhạc của viễn tượng – music of vision’, họ lại không có nỗ lực nào để diễn dịch nó thành âm thanh dưới trần; họ bằng lòng rằng chúng vẫn chỉ là phương tiện để đạt tới sự kết hợp với Thiêng Liêng nhờ khả năng trợ giúp việc tham thiền của âm.
    Khi con người đạt tới niềm Hoan Lạc thì còn gì nữa cho họ đạt hay ao ước ? Kết quả là sự tiến hóa của hệ thống cao tột về triết lý tôn giáo, là biểu tượng cho sự vĩ đại của tư tưởng Ấn Độ. Vì 1/4 âm tự nó rất thanh nhẹ, nó làm thăng hoa trí não thêm vào việc gợi nên sự xuất thần trầm tư, và hệ quả không phải chỉ là việc có được hiểu biết mà còn là Minh Triết, vì Minh Triết chỉ là hiểu biết được thăng hoa, được tinh thần hóa.
    Sao đi nữa, nói rằng nhạc Ấn Độ chỉ hoàn toàn có tính chú ngữ và làm ngất ngây hồn thì không đúng; có những nỗi khát khao và ước nguyện trong lòng con người phải tìm lối thoát bằng lời ca; rồi cũng có thuần túy đam mê của người gợi nên đau khổ, và tâm hồn không có tính triết lý sẽ tuôn tràn nó ra bằng lời hát. Nhưng ngay cả vậy, bởi không có nhạc cụ nào có thể diễn tả lòng nhiệt thành, năng lực hay uy lực đã được tạo ra, phương tiện họ có trong tay thật ít oi. Thế nên phần lớn nhạcẤn Độ vẫn có hình thức đồng điệu, giới hạn.
    Một nghệ thuật bị gò bó như thế, không có tư tưởng mới và không tiến triển sẽ có khuynh hướngphai nhạt dần thành không đáng kể.Nếu âm nhạc phương tây đứng yên một chỗ, nó cũng sẽ chịu số phận tương tự.
    Ngoài việc nhạcẤn Độ ảnh hưởng chính yếu trí năng; bởi nói chung nó thiếu những yếu tố khích động hơn của nhạc tây phương nhiều thay đổi của ta, ta thấy là người Ấn cũng thiếu những tính chất đó. Tự nhiên là khí hậu có thể có một phần trách nhiệm trong việc này, nhưng loại âm nhạc sinh động hơn có thể thay đổi lớn lao ảnh hưởng của nó. Giống như nhạc của họ thiếu sự thay đổi, thiếu năng lực, thiếu uy lực, thì người Ấn nói chung như là một sắc dân cũng chỉ phiến diện, trơ trơ và tính chất thiếu quân bình. Ngoài giai cấp chiến sĩ họ có ít người có hành động; đại đa số dân có tính mơ màng, trầm tư và quá độ về những gì thuộc tinh thần.
    Tuy vậy câu hỏi là nói rằng âm nhạc chi phối tính chất của cả một quốc gia thì có thực sự đúng không ? Nói vậy có đi xa quá ?Có, nhưng nó chỉ là vậy nếu ta không kể đến ảnh hưởngtrực tiếp lẫn gián tiếp của nó. Khi ta rời một buổi hòa nhạc mà tiết mục cuối cùng trong chương trình diễn ra thật hùng tráng, oai nghi, có phải là ta thấy đầy hứng khởi mong ước có hành động cao cả và anh hùng chăng ? Hay, nếu điều ấy không phù hợp với tính khí của mình, ít nhất ta cũng cảm thấy trong lòng có thêm uy lực và sinh khí ? Không phải là ta được khơi dậy theo cách mà khó phương tiện nào khác ngoài âm nhạc gợi được trong tâm ?
    Quả thực là ảnh hưởng sẽ phai nhạt dần sau một thời gian, nhưng kinh nghiệm được khơi lại khi lần sau ta nghe nhạc loại tương tự. Và giả dụ ta triền miên nghe nhạc, ngày này sang ngày kia, tuần này sang tuần nọ, năm nay rồi năm kế, phải chăng các tình cảm này được liên tục lập lại sẽ không để lại dấu vết nào lên tâm tình, bản chất tình cảm của ta hay sao ?Rồi phải kể tới yếu tố di truyền. Tựa như lòng yêu nhạc thường truyền từ cha mẹ sang con hay cháu, phải chăng cũng có thể là ảnh hưởng của nhạc ấy lên đặc tính người cũng được truyền như vậy ? Và nếu âm nhạc, như ở Ấn, được truyền qua bao thế hệ, có phải là ảnh hưởng của nó sẽ được củng cố tương ứng theo ?
    Nếu nhìn nhận các điều ấy, ta sẽ hiểu tính uể oải của dân Ấn. Ta cũng sẽ nhận thức là nếu họ phiến diện ấy là do những nhược điểm trong tính chất của họ, và chỉ có tính trầm tư của tiền nhân họ là đã có thể truyền lại cho thế giới hệ thống triết lý không có chi sánh bằng.
    Nhạc Cổ Ai Cập và Tính Người.
    Nay ta nói về ảnh hưởng của âm nhạc đối với người Ai Cập và vai trò nó đóng đối với nền văn minh hùng hậu ấy. Bởi nếu ta bàn trước tiên về nhạcẤn Độ ấy chẳng phải vì đó là nền văn minh xưa nhất mà vì nó tinh tế nhất; chủ ý của ta là đi từ sự tinh tế đến thô trược, từ 1/4 âm đến 1/3 âm và sau cùng là bán âm
    1/3 âm là tính chất của nhạcAi Cậpvà như vậy khiến nó kém tinh tế hơn nhạcẤn Độ một bậc, với kết quả là thay vì tác động lên trí năng, nó lại tác động lên tình cảm vì tình cảm tự nó kém tinh tế hơn trí năng. Tựa như làn rung động do tia tử ngoại sinh ra thì quá tinh tế và không được mắt ta ghi nhận, làn rung động do 1/4 âm sinh ra thì tinh tế quá và không ảnh hưởng trực tiếp lên tình cảm con người.
    Như đã nói, khi cái trí được thăng hoa, tinh thần hóa, nó trở thành dụng cụ cho Minh Triết. Nhưng chuyện không xẩy ra như vậy nếu để diễn ra theo cách thông thường vì khi ấy nó chỉ là vận cụ cho kiến thức, và chỉ được vậy khi không bị tình cảm thô kệch hơn cản trở và khuấy động. Thực vậy nếu cái sau được kích thích và thiếu kiểm soát, nó thù nghịch với hiểu biết vì nó làm nhòe cái phản chiếu của trí tuệ; mặt khác nếu tình cảm an tĩnh và được kiểm soát, nó để cho óc lý luận làm chủ hoàn toàn, và kết quả là có lương tri và tư tưởng sáng suốt.
    Người Ai Cậpđạt được kết quả như vậy với loại nhạc 1/3 âm của họ; nó có khuynh hướnglàm tĩnh lặng tình cảm và thanh tẩy những rung động thô trược hơn của tình cảm.Nhưng việc đáng nói hơn là nó có khuynh hướng dẫn dụ tới một loại tình cảm xuất hồn.
    Xem xét tôn giáo cổ xưa cho ta thấy sự kiện là mỗi nền văn minh đều có các trường Bí Giáo, luôn cả ngày nay, nơi đó học viên được dạy không những tin vào những phần thanh bai hơn của thiên nhiên mà còn thật sự biết chúng. Tại Ai Cập xưa một trong những nghi lễ chứng đạo initiation quan trọng nhất của trường về huyền học như vậy diễn ra với học viên, nhờ sự trợ lực của nhạc và các nghi lễ khác, được dẫn dụ làm cho xuất thần mà khi tỉnh lại, có hiểu biết về đời sống bên kia cửa tử.
    Lý do là trong những điều kiện nào đó, nhạc 1/3 âm làm thể tình cảm lơi ra với thể xác và đưa tới việc xuất hồn sang cõi tình cảm. Bằng cách ấy con người học từ kinh nghiệm thực sự là họ bất tử, chẳng những họ có thể lên tới những cõi cao hơn mà còn đi xuống cõi thấp nhất và tệ hại nhất; họ xuống tới ‘địa ngục’, vượt lên khỏi nơi đó và đi vào ‘thiên đàng’ như Thiên Chúa giáo mô tả, vì Thiên Chúa giáo chỉ là sự biến chế của nghi lễ Ai Cập.
    Dầu vậy ta không nên nhầm lẫn sự xuất hồn của người Ai Cập với trạng thái của các thánh nhân Ấn Độ; cái sau liên qua đến việc kinh nghiệm niềm an lạc tinh thần còn cái trước là việc thụ đắc hiểu biết huyền bí; một bên là nhà huyền học mystic còn bên kia là nhà khoa học nhiều hơn. Và chẳng những họ quan tâm đến việc có được hiểu biết, mà luôn cả việc lập ra phương tiện cần thiết để có được nó - nói ngắn gọn họ là thuật sĩ magician.
    Như khoa học gia thí nghiệm để tìm điều kiện đúng đắn cho việc khám phá một sự kiện khoa học thì thuật sĩ cũng làm y vậy, khác biệt duy nhất là khoa học gia làm việc với những lực thô sơ hơn của Thiên đoàn và thuật sĩ với những lực thanh bai hơn. Thực vậy, nhờ nền văn minh Ai Cập mà người phương tây có được tất cả huyền thuật về nghi lễ, như lễ Misa của Thiên Chúa giáo phát xuất từ Ai Cập mà không phải Jerusalem, cho dù người ta tin là nó được đưa vào tôn giáo này để ghi nhớ bữa tiệc ly.
    Trước khi ta chấm dứt đề tài Bí Giáo và Huyền thuật, có hai sự kiện đáng nói cần được nhắc tới. Đầu tiên, người Ai Cập cho rằng âm nhạc có nguồn gốc thiêng liêng; thứ hai, họ tin là sự hòa điệu và các nhạc cụ khác nhau là do thần linh khám phá và sáng tạo. Vì vậy, theo họ Hermes khám phá ra nguyên lý về các giọng và âm hòa hợp, và là người sáng tạo cây đàn lyre và hình thức guitar sớm nhất; còn Orisis được xem là người sáng tạo ra cây sáo. Những giả dụ này cũng không chỏi nghịch với phần bí truyền của tôn giáo Ai Cập, vì đã có lần những vị gọi là thần thánh đã từng là người tức các đạo sư cao cả, các Vua - Đạo đồ vĩ đại đã từng hiện diện trên trái đất và cai trị dân chúng.
    Và chính vì các ngài quá vĩ đại nên được phong làm thần thánh, tựa như đấng sáng lập Thiên Chúa giáo được thần thánh hóa và các đệ tử của ngài được phong thánh. Và cũng y như khối đông người ngày nay - xét về mặt bí truyền - có thể được xem là không có hiểu biết về sự thật của Tôn sư họ, thì khối đông ở Ai Cập cũng không biết gì về sự thật của các thần linh của họ.
    Như thế ý niệm về thần thánh của Ai Cập không phải chỉ là kết quả của mê tín thấp kém và thiếu hiểu biết, mà là kết quả hợp lý của hiểu biết có được qua cuộc chứng đạo. Sự kiện theo với thời gian hiểu biết ấy bị hư hoại và phai mờ dần thành mê tín dị đoan là đúng, nhưng nó không khởi đầu như vậy. Tôn giáo Ai Cập ở mức thanh khiết và trong sáng thì cao tột và có tính triết lý như kinh Veda; triết lý căn bản của nó là tính Duy Nhất của Thượng đế và con người sinh ra từ Thượng đế rồi chót hết ta sẽ trở về Ngài.
    Vậy thì người Ai Cập tin vào sự bất tử của linh hồn và do đó họ cũng tin rằng những ‘Đấng Cao Cả’ mà họ và tiền nhân của họ quí yêu và thờ kính, vẫn còn tiếp tục sống dù nay đã sang cõi cao. Việc họ dâng cúng và cầu nguyện với các vị này thì cũng không có gì vô lý như người Thiên Chúa giáo cầu nguyện với thánh bổn mạng của mình… Ta không cần nói thêm về tôn giáo của Ai Cậpmà chỉ cần vạch ra rằng tôn giáo ấy là kết quả của việc nghiên cứu hữu lý, có tính triết lý và có suy nghĩ, là việc đi sâu vào những lực tinh tế hơn của thiên nhiên, nói ngắn gọn là Huyền bí học ở dạng thức cao.
    Posted ImageTuy nhiên chuyện không may là một số điều mê tín dị đoan nổi lên làm hoen ố sự tinh khiết của nó; lòng ích kỷ len lỏi vào huyền bí học và chân lý chỉ tương đối huyền bí thế chỗ của chân lý tuyệt đối. Ta biết rằng thể xác có tính thu hút bí ẩn mà mạnh mẽ đối với linh hồn đã rời bỏ xác, và bao lâu mà thể xác còn nguyên vẹn thì dây nối giữa cả hai chưa bị cắt đứt. Vì người Ấn Độ nhận biết điều này, họ hỏa thiêu xác chết để hồn người có thể được giải thoát ngay lập tức.Nhưng lòng ích kỷ xui khiến người Ai Cập làm ngược hẳn lại; họ tìm cách bảo trì thể xác để hồn người có thể tiếp tục ở trên trái đất và do đó với họ. Việc ướp xác khi lan tràn là chỏi nghịch với hiểu biết bí truyền hầu có được tư lợi. Thực vậy, hiểu biết khi tách rời với Minh Triết và ý Là Một thì gần như không tránh được là nó dẫn tới lòng ích kỷ, và do lòng ích kỷ mà nền văn minh Ai Cập sụp đổ.
    Nay ta thử xem làm sao việc đó xẩy ra và âm nhạc liên kết như thế nào với sự sụp đổ ấy.
    Dù âm nhạc đóng một vai trò to tát trong đời sống Âu châu, nó lại có vai trò to tát hơn nữa tại Ai Cập; dường như không có sinh hoạt nào trong ngày mà không có liên kết với nhạc. Bất kể họ làm gì, người Ai Cập luôn luôn làm trong tiếng nhạc; họ hát khi gieo mạ, hát khi gặt hái, phụ nữ hát khi dệt vải và đoàn người ca vang khi họ di chuyển những cột đá khổng lồ từ các mỏ đá vĩ đại.
    Việc ca hát này không phải theo hứng bất tử như thấy nơi người lao động Âu châu, mà nó được tổ chức và nhất là phù hợp với công việc mà họ đang làm. Lại cũng có người đếm nhịp bằng cách vỗ tay, vì người Ai Cập ý thức là ca hát chung làm việc lao động dễ dàng hơn, như quân nhạc tăng hùng khí cho người lính khi ra trận… Ta không cần nhắc tới sự kiện nhạc đóng vai trò quan trọng trong mọi nghi thức, mọi lễ hội, tiệc , tụ họp, đám tang và lễ tôn giáo; chuyện đáng ghi là nó là loại nhạc có tính chất thay đổi nhiều hơn nhạcẤn Độ mà ta vừa xem qua ở trên. Nếu kể sơ các nhạc cụ như đàn lyre, guitar, thụ cầm nhiều cỡ, sáo, kèn ống đơn và đôi, kèn đồng, chập chõa và trống, ta nhận thấy âm thanh phát ra hẳn với lượng đáng kể và với nhiều loại âm thay đổi. Và bởi vậy, có những loại nhạc làm tĩnh lặng tình cảm hay ngược lại làm khuấy động nó.
    Thế thì tâm tình người Ai Cập được thăng bằng không giống như người Ấn Độ. Do ảnh hưởng làm êm dịu của nhạc dùng 1/3 âm đối với tình cảm của họ, họ không có lúc nào cũng ‘quay cuồng’, mà cũng không uể oải và thiếu sáng kiến; họ có sự trung dung hay cố gắng đạt tới điều ấy, cũng như âm nhạccủa họ nói chung cho ra sự trung dung. Nó lại còn chứa đựng một mức nhỏ tính thiêng liêng là sự hòa hợp.Chuyện đáng nói là đàn lyre được xem đặc biệt thích hợp cho các nghi lễ tôn giáo vì ta có thể chơi các hợp âm trên đàn này.
    Sao đi nữa, giờ ta đến câu hỏi quan trọng là nếu nhạc Ai Cập tạo ảnh hưởng tốt lành, mọi mặt như thế cho tính người, thì tại sao lòng ích kỷ và mê tín dị đoan làm nền văn minh Ai Cập bị sụp đổ ? Không phải âm nhạccủa họ - cho dù có những tính chất tốt đẹp - đã gián tiếp hay trực tiếp có trách nhiệm hay sao ? Và câu trả lời là điều đáng chú ý: không phải vì những tính chất của nhạc Ai Cập có mà vì những tính chất nhạc Ai Cập thiếu, làm đất nước ấy suy sụp.
    Tựa như Ấn Độ chót hết suy đồi vì nó có Minh Triết tinh thần mà không có hiểu biết cụ thể thì ngược lại, Ai Cập suy sụp vì nó có hiểu biết cụ thể mà không có Minh Triết tinh thần. Bởi hiểu biết cho ra quyền lực, và quyền lực rất thường khi sinh ra lòng yêu thích quyền lực, rồi tới bước cuối là lòng yêu thích quyền lực cá nhân - nói khác đi là lòng ích kỷ với hệ quả không tránh được là sự tan rã của cộng đồng. Khi mỗi cá nhân tìm cách có lợi thế hơn người bên cạnh thay vì hợp tác với họ, thì làm sao chuyện có thể khác hơn được ?Không có gì trong vũ trụ có thể còn nguyên vẹn lâu khi các lực thuộc đủ mọi loại lôi kéo nó về nhiều hướng khác nhau.
    Ngắn gọn thì bởi nhạc Ai Cập hoàn toàn thiếu sót mặt khơi dậy minh triết, và mặt hòa âm hay thiêng liêng của nó thì quá hạn hẹp tới mức không có tác động, Ai Cập sụp đổ giống như Hy Lạp và Rome về sau này. Như các nước tây phương thiếu sáng suốt tương tự đã lạm dụng hiểu biết khoa học của mình và dùng nó cho mục tiêu dữ dằn năm 1914 và 1939, người Ai Cập cũng lạm dụng hiểu biết huyền bí của họ. Hơn thế nữa, trùng hợp với việc suy đồi đạo đức, nhạc của họ cũng khởi sự tan rã và phần hòa âm nhỏ bé cũng biến mất. Thay vì được phát triển, nó lần hồi bị quên lãng; sở thích về nhạc xuống càng ngày càng thấp và tuy căn bản 1/3 âm còn đó, nó được dùng cho mục tiêu phù phiếm giống như căn bản bán âm của nhạc tây phương ngày nay. Và như vậy điều lẽ ra có thể lớn mạnh thành loại nhạc thanh cao nhất đã thui chột thành không còn chút gì đáng nói.
    Vừa rồi là các nguyên nhân chính yếu, nay ta hãy xem qua các nguyên nhân phụ.
    Sự xấu xa khởi đầu với hàng ngũ giáo sĩ. Như đã nói, nhiều giáo sĩ có lúc đã được theo học Huyền bí học, nhưng với ngày tháng càng lúc càng ít người xét ra xứng đáng với vinh dự ấy, họ thiếu các tính chất thiết yếu. Thay vì có lòng xả kỷ, thay vì làm việc vô tư lợi cho nhân loại, họ tỏ ra ích kỷ và ham muốn quyền lực. Và tự nhiên là khi điều này gia tăng, cuối cùng nó thành lòng yêu thích sâu đậm quyền lực, lòng yêu mến chân, thiện, mỹ và những tình cảm cao thượng giảm theo tỉ lệ cùng với lòng ưa thích âm nhạc của họ, cái phương tiện mà qua đó những tình cảm cao thượng được diễn tả.
    Họ trở thành thờ ơ và không để ý tới cách thánh nhạc được trình bầy, và sau chót không màng đến tiêu chuẩn để chơi nhạc.Như vậy khi ảnh hưởng cao quí của thánh nhạc mất đi, tính chất không phải chỉ riêng của giáo sĩ mà luôn cả của dân chúng từ từ suy thoái.Với huyền bí học bậc thấp chứa đựng ít hiểu biết, phần lớn ý nghĩa thực của huyền bí học bị lãng quên, các giáo sĩ ảnh hưởng tâm trí dân chúng và làm tê liệt khả năng suy luận của họ.Kết quả là người Ai Cập có những mê tín dị đoan loại tệ hại nhất. Nhưng điều không may là những gì mà sử gia cho là mê tín dị đoan thì thực ra có bản chất nguy hại hơn nữa: nó là sử dụng lực huyền bí cho mục đích xấu xa, và khi một quốc gia đi tới việc này thì sự suy tàn của nó là điều không tránh được.

    Trích
    Cyril Scott – The Influence of Music throughout the Ages


    ẢNH HƯỞNG CỦA NHẠC CỤ

    1. Nghe Nhạc.
    Mai sau, người ta sẽ tìm ra cách mà nhạc có thể sinh ra bệnh cho các phần trong cơ thể. Họ sẽ có thể truy ra nguồn của bệnh tật trong nhạc mà ai đó lắng nghe trong nhiều năm hay là trong suốt đời họ.
    Cơ thể của chúng ta được tạo ra trên nguyên tắc âm thanh biểu lộ như là nốt, là sự rung động, là tần số. Hoa, cây cỏ được tạo theo cùng nguyên tắc. Sóng âm thanh sinh ra hòa điệu hoặc rối loạn trong các thể này; thí dụ vì bạn nghe một loại nhạc nào đó, bạn có bệnh về gan, thận, tim hay da. Hoặc do loại nhạc bạn nghe, bạn có thể có sức khỏe tuyệt hảo.
    Người ta chỉ lo lắng về phóng xạ nguyên tử mà không hề nghĩ rằng âm nhạc cũng là một hình thức phóng xạ. Âm thanh oanh kích cơ thể, não bộ và các tuyến và tạo nên một số ảnh hưởng. Các nốt trong nhạc là các nguyên tố hóa học của âm thanh. Một nhạc sĩ giỏi là hóa học gia khéo léo biết khi nào dùng hóa chất nào và với tỷ lệ nào. Các hợp chất hóa học này có thể làm thay đổi các nguyên tố trong cơ thể của bạn bằng cách tăng, giảm hoặc loại bỏ chúng hoàn toàn. Những thay đổi hóa học ấy trong thân xác sinh ra thay đổi tâm lý, hành vi, cách suy nghĩ, cảm xúc v.v.
    Khi lắng nghe nhạc bạn cần biết là mình đang hấp thu nguyên tố hóa học vào các thể của bạn. Ta chưa có dụng cụ để khuyến dụ ai không tin điều tinh thần chấp nhận các sự việc này, nhưng dần dần việc quan sát và kinh nghiệm với nhạc sẽ làm người ta không còn nghi ngờ gì về hóa chất thay đổi.
    Âm thanh kiểm soát phận sự của tế bào và tế bào thần kinh, phản ứng hóa học và việc tiết ra của tuyến. Về sau khoa học gia sẽ chứng minh là người có bệnh tâm thần và người có thiên tài, đều là sản phẩm của một loại nhạc tác động trong một thời gian lâu.
    Người ta có thể hỏi nếu phải lắng nghe nhạc để có tình trạng lý tưởng cho cơ thể, tình cảm và trí não, vậy làm sao ta có thể giúp ai sống trong khung cảnh có tâm lý hung bạo như trong nhà tù ? Câu đáp là ai trong cảnh ấy phải đừng nghe nhạc, mà cần lắng nghe tiếng nhạc của thác nước rơi, sông, rừng núi và sấm sét. Tương tự vậy, nhịp của trống có thể cho ảnh hưởng chữa lành to tát cho họ, nếu có nhà soạn nhạc nhậy cảm tạo ra âm điệu nhịp nhàng.
    Có đề nghị là bạn không nên nghe nhạc trong lúc ngủ, vì nó có thể kích thích não bộ của bạn và sinh ra xáo trộn, nó cũng có thể giữ bạn ở những cõi thấp và không cho bạn làm những công việc ở cõi cao hơn. Trong tương lai, một loại nhạc được soạn có thể giúp bạn xuất ra khỏi thân xác và nâng bạn lên cõi cao. Nhạc như thế sẽ được viết ra bởi những ai có hiểu biết về nhạc cõi tình cảm, trí và không gian.
    Nhạc là sự thể hiện của tâm thần con người. Nếu quả tim và trí óc không có ước vọng và nỗ lực tới điều gì đó vượt ngoài xa, nhạc nằm ở mức ngang và không có đột phá nào ra không gian. Nhạc tương lai dần dần tách mình với các nhịp điệu xưa cũ mà ta quen thuộc trong ba cõi trần, tình cảm và trí. Âm nhạc mới không dựa trên nhịp điệu xưa, tiết tấu hay phân đoạn ngày trước. Nó có nhịp điệu và phân đoạn riêng của nó, khêu gợi đến tương lai hay không gian.
    2. Ảnh Hưởng của Nhạc Cụ.
    Nhạc đa điệu (polyphony) là loại nhạc có nhiều âm điệu diễn ra cùng lúc và độc lập với nhau, giản dị như hát đuổi, hát bè còn phức tạp hơn thì trong một bài trình tấu, ta có thể có 'giọng' vĩ cầm và 'giọng' dương cầm hỏi đáp nhau; trong ban tứ tấu (quartet) hai 'giọng' nói chuyện với nhau và hai 'giọng' còn lại tự do. Ấy là hình thức cho và nhận trong sự tương giao của người, loại nhạc ấy có tính toán học nên làm phát triển trí năng. Kết quả là nhạc càng trở nên đa điệu chừng nào, trí năng khai mở nhiều chừng ấy đưa tới thời đại lý trí (Age of Reason) hồi thế kỷ 17 và 18.
    Nhạc của nhạc sư Johannes Bach có tính này rõ nhất, và nhạc của ông được xem là cực điểm của kiểu nhạc đa điệu, đặc biệt là nhạc viết theo điệu fugue. Đề tài của nhạc khúc được một phần của ban nhạc xướng lên thí dụ đàn dây, và ban khác đào sâu thí dụ đàn gió. Chúng tạo ra ảnh hưởng rõ rệt cho trí tuệ đến mức dần dần càng lúc càng có nhiều người bắt đầu dùng khả năng suy luận theo mọi chiều hướng từ thế kỷ 16. Họ không còn bằng lòng chấp nhận giáo điều mà không thắc mắc như đã truyền lại từ bao năm, hoặc hành vi trái lẽ của người có thẩm quyền. Người ta thấy có sai sót ở biện luận này hay kia; họ phản đối thuyết lý này hay nọ, đưa tới việc cải tổ giáo hội Công giáo và phái Tin Lành ra đời cùng nhiều phong trào tôn giáo khác.
    Ba nhạc sư Orlando de Lasso, Palestrina và Monteverde trong thế kỷ 16 được xem là mở đường cho các nhà huyền học, thi sĩ và triết gia xuất hiện về sau. Nhạc của họ ngoài tính chất tinh thần còn thúc giục người ta suy nghĩ do nét đa điệu của chúng.
    Nay nói về ảnh hưởng của nhạc trong thế kỷ sau, ta cần biết qua tính chất của vài nhạc cụ, vì ảnh hưởng thay đổi theo loại nhạc cụ nào được chơi.
    Thuở ấy chưa có dương cầm (piano), nhạc được viết cho đàn harpsichord là tiền thân của dương cầm. Tên đàn diễn tả đúng cấu trúc của nó, ấy là cây đàn harp (thụ cầm) nằm ngang, chơi bằng cách khẩy dây đàn trong khi dương cầm phát ra tiếng do miếng búa nhỏ có bọc nỉ gõ lên dây. Khác biệt nhỏ bé trong cách chơi sinh ra khác biệt lớn lao về ảnh hưởng. Hành động khẩy đàn gợi nên ý châm chọc, gây bực tức, thế nên ngày nay khi nghe cùng bản nhạc trên dương cầm, những tính chất khác vẫn còn đó duy tính châm chích biến mất, và phần lớn ảnh hưởng ban đầu mất đi.
    Để hiểu rõ ảnh hưởng của đàn harpsichord, ta chỉ cần so sánh nó với phong cầm trong nhà thờ. Loại đàn sau có âm ngân dài, trang nghiêm, lập tức có khuynh hướng gợi nên lòng tôn kính và hiến dâng; còn với đàn harpsichord dây đàn kim loại được gẩy tưng cho ra cảm xúc ngược hẳn, thay vì lòng sùng kính ta có óc hài hước, hân hoan thư thái, thay vì lòng hiến dâng tôn thờ là óc châm biếm chua cay và nhạo báng. Thế nên đàn harpsichord, clavecin và spinet, những đàn tiền thân của dương cầm và nói chung bất cứ nhạc cụ nào có dây kim loại và được gẩy, có khuynh hướng làm tăng óc dí dỏm châm chọc, hào hứng chua cay, nhất là khi đàn được dùng để chơi loại nhạc tươi sáng bóng bẩy. Xin bạn đọc lại bài về thể trí trong một số PST trước, hào quang của ai ưa chỉ trích gây bực bội người khác được thấy có nhiều hình móc câu.
    Người ta cho rằng do các nhạc cụ trên hay đúng ra do ảnh hưởng của chúng đối với trí tuệ, mà ta có di sản là óc hài hước sâu sắc của thế kỷ 16, rất phong phú trong tác phẩm của Voltaire và nhiều người đồng thời với ông tuy không bằng. Như đã nói ở trên, nhạc đa điệu kích thích trí thông minh, nay thêm vào đó tác động của dây đàn gẩy tưng, nhạc khúc tươi vui hăm hở, và kết quả là óc thông minh được sử dụng để nói lời châm biếm hóm hỉnh. Thực vậy, sau khi đàn harpsichord mất dạng, tính dí dỏm chế nhạo đặc biệt ấy bắt đầu giảm đi. Khi đàn dương cầm ra đời với thanh âm êm dịu hơn, một óc hài hước bớt chua cay hơn xuất hiện, nó giữ được các tính chất nào khác và mất đi nét 'châm chích' đặc biệt của nó.
    Nhạc sư nổi tiếng của thời đại này là Scarlatti người Ý, nhạc của ông không ảnh hưởng khắp nước như là một khối, nhưng dù có ảnh hưởng giới hạn, có lẽ chúng cho tác động ngay lập tức hơn các nhạc sĩ ta đã đề cập khi trước. Sự việc tuân theo luật chung là loại nhạc càng tươi vui hớn hở, dễ nghe chừng nào, ảnh hưởng nó càng lập tức và thoảng qua chừng ấy.
    Vì lý do đó nhiều bản nhạc dễ hiểu, âm điệu dễ thuộc cho ảnh hưởng lên khối đông người, và gần như tức thì trong thời đại nó sinh ra; trong khi ấy nhạc Beethoven phải mất cả trăm năm mới có ảnh hưởng lên tới tột đỉnh. Nhạc thế kỷ 16 có tính hời hợt phù phiếm, cho ra giải thích phần nào cách sống của xã hội thời ấy, cung cách bấy giờ là mầu mè, tô điểm, nghĩa là bề ngoài, sự khoe khoang mà không phải là thực chất. Nhạc cụ dùng cần để kéo dây đàn phát ra tiếng như vĩ cầm sinh ra âm êm ái gợi cảm, làm con tim có cảm xúc trữ tình, thơ mộng hơn. Nay sang phong cầm (organ), nó tạo ra ảnh hưởng tinh thần là mang thế giới tâm linh đến gần tâm con người hơn, là cầu nối giữa thế giới vật chất và tâm linh. Ảnh hưởng dễ thấy hơn là dàn phong cầm vĩ đại tinh vi có thể sinh ra âm lượng khổng lồ, gợi nên bầu không khí trang nghiêm khắc khổ, huy hoàng cao tột. Với dàn phong cầm nhỏ hơn nó gợi lòng mộ đạo giản dị, loại tình cảm dẫn đến Thanh giáo (Puritanism).
    Với ai chỉ thích lắng nghe phong cầm và không màng đến nhạc nào khác, hệ quả là ta có mẫu người với cá tính hết sức phiến diện. Họ có thể tỏ ra trầm tĩnh và an nhiên tự tại, và tránh né bất cứ chuyện gì có nét hào hứng, hoặc trò vui chơi vô hại trong đời. Nếu họ yêu thích mỹ lệ thì đó là mỹ lệ với hình thức nghiêm nghị, vẻ uy nghi với mầu sậm nghiêm chỉnh, loại gợi nên lòng tôn thờ, sùng mộ mà không phải là lòng yêu quí hớn hở, vui vẻ ân cần.
    Nhận xét thấy là cùng một nguyên nhân không phải lúc nào cũng cho ra cùng ảnh hưởng, thí dụ như loại nhạc sinh ra óc suy nghĩ triết lý sâu xa nơi một loại tính khí nào, có thể chỉ gợi nên lòng sùng mộ và tính khắc khổ của Thanh giáo nơi người khác. Nay ta phải kể đến một nhạc sư thời Elizabeth viết nhạc có cả hai đặc tính này, là Henry Purcell. Loại nhạc của ông phối hợp sự du dương của âm điệu nhạc Ý với nét mỹ lệ khắc khổ; nó gợi nên tình cảm dịu dàng mà cùng lúc tác động lên trí não, làm cho tôn giáo hấp dẫn hơn.
    Nhạc của ông có nét làm người ta thích nghe và cũng gợi nên trong lòng họ niềm tôn kính nào đó. Mỗi khi bản 'Te Deum' (thánh nhạc) của ông được chơi ở nhà thờ thì không còn chỗ đứng, chật nghẹt người. Khi lắng nghe bài gồm phối hợp giữa ban đồng ca, dàn nhạc và phong cầm, người ta cảm thấy như bị mê mẩn vì nét huy hoàng của tôn giáo.

    Theo:
    - The Creative Sound: Sacred, Music and Song - Torkom Saraydarian.
    - The Secret Influence of Music throughout the Ages, Cyril Scott.



    LINH ĐỊA LINH ÂM

    Lần đầu tiên bước vào một hầm mộ gần Avebury tại Wiltshire, Anh quốc, tôi cảm nhận một nỗi buồn thê thiết. Hầm mộ rất xưa, từ thời đồ đá, xây theo hình dạng của nữ thần; ngày nay du khách đi ra đi vào không ngớt, chụp hình và nói chuyện to tiếng.
    – Này, anh nghĩ chỗ này bây giờ có còn xương không ?
    Tại vương cung thánh đường Chartres ở Pháp, trong lúc tôi ngồi yên lặng cầu kinh, có ai đó bật lên một vật nghe giống như máy hút bụi, âm thanh réo to trong không gian như thể có quái vật sút chuồng. Khi đến thăm vương cung thánh đường Notre Dame tại Paris, có văng vẳng tiếng ầm ì không ngớt trong thánh đường, nên nửa giờ sau tôi phải bỏ đi ra. Về sau, tôi nghe là hơn năm mươi năm qua dây điện được chăng đầy trong thánh đường để cung cấp điện (dòng điện chạy trong dây đã sinh ra tiếng rầm rì ở trên). Đường hầm bên trong kim tự tháp lớn nhất ở Giza, Cairo, có chăng đầy bóng đèn huỳnh quang, dây điện đóng chặt vào tường và điện chạy phát ra tiếng ro ro không ngớt. Tại khu Stoneheng với những cột đá cao sừng sững, người ta khó mà tham thiền vì tiếng xe cộ chạy vụt qua rào rào, có du khách phê bình:
    – Đá đẹp thật, nhưng tiếc là quá ồn.
    Trong xã hội tây phương, cho dù truyền thống hành hương vẫn còn được lưu giữ, đa số chúng được thay thế bằng kỹ nghệ du lịch. Đông đảo người đi viếng những nơi linh thiêng và chụp hình, vương cung thánh đường nay bị thu nhỏ nằm trong hình lộng lẫy kích thước 10 x 15 cm. Máy quay phim bằng tay thu gọn kim tự tháp vừa với cỡ màn ảnh truyền hình. Cho dù chiêm ngưỡng nơi thờ phượng thiêng liêng là điều quan trọng, có quan niệm nói rằng chụp hình mà không hồi đáp lại điều gì, là lấy mất đi sinh lực nơi ấy:
    Vương cung thánh đường giờ trở thành chỗ lặng thinh, và đóng kín lại. Trong quá khứ khách hành hương mang theo lễ vật cung hiến, ngày nay người ta chỉ biết tiêu thụ. Có lần tôi được nghe một bản hòa tấu tại thánh đường Chartres. Có những tiếng hợp ca vang dội, vút cao, bay lên trôi như hương trầm trong không khí. Tôi cảm thấy như thánh đường đang ngỏ lời 'Đa tạ'. Nó làm như mỗi hốc, kẹt trong đó có thể thở trở lại. Khi ấy thánh đường có thể cho phép những quà tặng tinh thần của nó vang ra bên ngoài.
    Thời xưa, nghi lễ cử hành ở một chỗ thiêng liêng làm kích động trọn ngũ quan và gồm đủ các nghệ thuật. Nào là nhẩy múa, ca hát, vỗ trống, y trang rực rỡ, trầm hương tất cả quyện vào với nhau như là một phần của nghi lễ dâng hiến lên thần thánh. Qua nhiều thế kỷ, các nghệ thuật trở thành kinh nghiệm riêng rẽ, không còn liên kết với nhau và thường khi tách rời khỏi việc thiêng liêng. Một hệ quả của việc phân chia này là sự chuyên biệt hóa, thí dụ như một số người là họa sĩ và ca sĩ còn đa số thì không phải vậy. Theo cách đó chúng ta làm ngơ óc sáng tạo của mình, để dành cho chuyên gia hơn là tự mình sử dụng khả năng ấy.
    Hơn nữa – giống như máy chụp hình của du khách là biểu tượng – con mắt đã thay thể cho cái tai như là giác quan được ưa dùng. Nay nền văn minh của chúng ta chính yếu là thị giác mà không phải thính giác hay dùng động tác. Khi dời đổi như vậy, nó làm mất đi một điều chi đó sinh tử, vì trong khi con mắt làm ta cảm nhận kinh nghiệm như là một điều gì đó bên ngoài ta, cái tai lại đem kinh nghiệm vào lòng, nhập tâm nó. Khi chúng ta chụp hình, ta chỉ giữ lại một điều gì đó trên phim; còn khi ta cất giọng hát hoặc nghe nhạc ở nơi chốn thiêng liêng, ta đem vào người một chút tinh túy của nơi ấy, và biến nó thành một phần của ta.
    Trong quyển The Spell of the Sensuous, tác giả David Abram vạch ra rằng khi con người chuyển từ văn hóa khẩu truyền sang văn hóa ngôn tự, văn nói sang văn viết, con mắt có địa vị cao hơn cái tai. Các chữ viết cổ ban sơ như Hebrew và Ai Cập vẫn còn tính thính quan theo nghĩa người ta phải ngân nga khi đọc chúng. Văn viết của hai ngôn ngữ này không có nguyên âm, vì nguyên âm được xem là thiêng liêng; khoảng cách giữa hai phụ âm là chỗ mà hơi thở của Thượng đế có thể đi vào. Nguyên âm chỉ được dùng trong lời nói phát ra, biến một chuỗi những phụ âm thành chữ nghe hiểu được. Thế nên, để hiểu được bản văn, người ta cần phải xướng nó.
    Theo với thời gian, khi nguyên âm được thêm vào văn viết, ta không còn cần ngân nga lớn tiếng để hiểu được ý nghĩa của câu. Hành động đọc nay có thể trở thành việc làm yên lặng đọc và là chuyện diễn ra trong lòng nhiều hơn. Hệ quả là ta mất đi cảm giác mà việc chú tâm vào lời nói đến với tai cho ra. Về một mặt căn bản nào đó, chúng ta cũng mất đi sự nối kết với chính địa cầu. Hành động đọc tạo nên hình ảnh trong trí, khi việc đọc và viết càng ngày càng lớn mạnh tới mức chế ngự, ta bắt đầu chuộng chúng hơn là mặt đất ngay dưới chân chúng ta. Các mẫu tự ban đầu nói tới các hình thể tự nhiên ngoài trời, thành ra khi bài viết càng trừu tượng chừng nào, mối liên hệ của nó với đất sống động chng bị quên lãng đi chừng ấy.
    Như thế, việc sáng tạo ra chữ viết đã đóng vai trò quan trọng trong việc hủy hoại tính linh thiêng của thiên nhiên. Trong mấy ngàn năm qua, Mẹ Đất của thời xa xưa bị Trời thay thế và trong tiến trình ấy, những khu vườn thiêng, giếng thánh, đền đài hùng vĩ, chất ngất và những nơi thờ phượng tự nhiên khác đã bị dùng vào việc khác hay bị phá hủy.
    Có lần tôi đi thăm một thánh địa ở thị trấn Aztec trong tiểu bang New Mexico, Hoa Kỳ, người hướng dẫn giải thích rằng nơi được xem là linh thiêng nhất trong làng, gọi là 'middens', là nơi thực phẩm được hoàn trở về trái đất. Những người da trắng đầu tiên tới định cư ở đây, với tôn giáo của họ được trọng vọng, xem khoảnh đất middens chỉ là bãi rác, và không hiểu được tại sao nơi ấy lại được xem là thiêng liêng. Nó giống như người phái Thanh giáo (Puritan, một chi phái Tin lành) của Anh không hiểu được tính cách linh thiêng của Avebury. Là nơi thờ phượng của người dân đất Anh thưở xa xưa, nó bị hủy hoại dần kể từ thế kỷ 14, thành bãi rác và chỉ mới được trùng tu từ thập niên 1940.
    Có nhiều lý do phức tạp và khác nhau dẫn tới việc tàn phá như vậy. Bộ lạc thắng trận thường phá hủy nơi thờ phượng của kẻ thua cuộc, hoặc xây cất giáo đường của chính họ bên trên tàn tích của giáo đường cũ. Hành vi ấy đi theo mẫu mực 'ta' đối với 'họ', nó nói rằng 'Tôn giáo của ta hay hơn tôn giáo của họ, ta là người tốt lành và Thượng đế ở về phe của ta'. Nó là chuyện hay thấy và đáng tiếc ngày nay, mà cũng đã lộ ra từ năm 1352 trước tây lịch tại Ai Cập, khi có việc thay đổi tôn giáo, và gần đây là việc phe Taliban đặt chất nổ làm sập tượng Phật khổng lồ tại Afghanistan.
    Ảnh hưởng của kiến trúc đối với nền văn minh được nhận xét như sau:
    – Bạn có thể biết một xã hội có khuynh hướng gì bằng cách xem xét tòa nhà cao nhất trong vùng.
    Trên đất Pháp, khi đến một thành phố thì vật mà người ta thấy đầu tiên là đỉnh của giáo đường xây trước thời tòa án pháp đình (Inquisition). Tuy nhiên, trong thế kỷ mười tám, dinh thự có tính chính trị đã thay thế giáo đường như là tòa nhà cao nhất trong vùng. Tại các nước tây phương đã kỹ nghệ hóa, ngân hàng và cơ sở thương mại nay là những nơi nổi bật nhất trong khung cảnh. Nghi lễ nhà thờ nay diễn ra trên truyền hình và trong thương xá, với tiếng hát của ban đồng ca được loa phóng thanh làm vang to. Nhạc phản chiếu thẳng góc từ các bức tường làm âm thanh bị mất sức linh động.
    Có nhận xét là kích thước và hình dạng của khoảng không gian bên trong sẽ luôn luôn kiểm soát nhịp điệu của sinh hoạt bên trong đó. Thí dụ là nhạc Gothic hoặc thời Phục Hưng thường chẫm rãi, nhạc thế kỷ 19 và 20 mau hơn nhiều, vì nó được soạn ra cho gian phòng nhỏ hơn hoặc cho trung tâm phát thanh ... Tương tự vậy, cao ốc văn phòng đương thời cũng gồm những khoảng không gian nhỏ và khô khan, thích hợp cho việc làm ăn tất bật hiện nay, và như thế đối nghịch rõ rệt với nhịp điệu chậm rãi của lễ nhà thờ hay bất cứ nghi lễ nào dành cho hầm hoặc hang sâu.
    Chuyên gia về kiểu kiến trúc linh thiêng cho rằng những tòa nhà chọc trời giống như các tủ giấy tờ, rất hữu hiệu trong việc sắp xếp con người vào ngăn vào hộc, như sắp xếp kỹ thuật và đồ vật, nhưng gần như không đóng vai trò nào trong việc làm người được phong phú hay có ý nghĩa trọn vẹn hơn. Nói tóm tắt thì trong khoảng thời gian ngắn ngủi chỉ năm trăm năm qua trong lịch sử dài của nhân loại, thánh nhạc đã nhường chỗ cho nhạc nghe trong lúc chờ điện thoại hoặc trong cửa hàng.
    Rối Nhịp
    Hơn trăm năm qua, khung cảnh sống của người đã thay đổi lạ lùng. Xe hàng và xe lửa, xe hơi và xa lộ, điện thoại, truyền hình và đĩa thu sóng, máy điện toán, điện thoại di động và tháp tiếp vận làm thay đổi mặt đất hoàn toàn. Ở đâu đâu, đường chân trời cũng bị cắt ngang với hàng rào, dây điện và đường lộ. Ngay cả khi ta có thể tìm một khoảng đất còn thiên nhiên, cũng khó mà thoát được tiếng rì rầm cơ khí của nền văn minh. Có người đã thử và ghi nhận là:
    – 15 năm về trước, trong tiểu bang Washington có 21 chỗ người ta có thể thâu các âm thanh thiên nhiên trong 15 phút mà không bị tiếng phản lực cơ bay qua ngắt ngang, hay tiếng xe hàng rầm rầm, tiếng chó sủa. Nay chỉ còn ba chỗ được như vậy.
    Hiện tượng khác về âm thanh là loại âm chết (flat line) không thay đổi, liên tục phát ra do con người tạo nên từ thời cách mạng kỹ nghệ. Thiên nhiên không sinh ra âm chết hay tiếng đều đều, mà nó chỉ có do điện lực. Mỗi dụng cụ điện trong nhà, dây điện, và ngay cả bóng đèn của ta cũng phát ra tiếng rì rầm riêng của chúng. Chúng ảnh hưởng không những tâm thức của ta, mà còn là ma túy đối với não bộ. Vì những tiếng động ấy phát ra không ngưng, thường khi ta không để ý tới chúng. Dầu vậy, cơ thể và não chúng ta ghi nhận rồi đáp ứng lại.
    Một thí nghiệm thú vị minh chứng nhận xét trên. Sau khi để sinh viên chìm sâu vào tham thiền một lúc, người ta kêu họ hát lên cung bậc mà họ nghe trong lòng, cung bậc nào có vẻ như trổi lên tự nhiên. Ở Hoa Kỳ, sinh viên thường hát cung Si tự nhiên, là âm hưởng có tần số 60 chu kỳ một giây, tức âm thanh của dòng điện nước này. Tại Âu châu, cung được hát là Sol thăng, là âm của dòng điện ở Âu châu với tần số là 50 chu kỳ một giây.
    Có những nơi cư dân tranh đấu chống lại việc không quân cho phi cơ bay ngang núi qua lại để huấn luyện. Không quân bảo cư dân là rồi họ sẽ quen với âm thanh. Quen có nghĩa là tập cho mình thích nghi, nhưng ta tự động làm đồng nhịp với âm điệu và làn rung động nào mạnh nhất ở chung quanh ta. Đó là lý do tại sao ta nhịp chân theo nhạc kích động, và cảm thấy êm dịu tâm hồn khi nghe thánh nhạc. Ta trở thành âm thanh mà ta được nghe.
    Đi vào thương xá sắm hàng thì ta hóa ra quen với tâm thức của cửa hàng. Tần số cao của điện thấm nhập vào người ta vì ta là dàn âm thanh nhậy cảm cao độ. Khi ta quen với âm chết thì ở một mức độ nào đó, tâm trí ta thay đổi và trở thành phẳng lì, tựa như nói ai 'trơ trơ' là ta hàm ý họ không biểu lộ cảm xúc. Chắc chắn có nhiều nguyên do làm ta phẳng lì, nhưng rất có thể việc ta nghe hoài âm chết là một trong các lý do ấy. Con người nhận âm thanh qua làn da, tai, xương và trả lại tiếng ồn liên tục phát ra dưới hình thức là sự căng thẳng ngày càng tăng. Căng thẳng ảnh hưởng nhịp tim của ta, chu kỳ hô hấp, sóng của não và các nhịp điệu khác của cơ thể, do vậy thay đổi hành vi của ta.
    Nghiên cứu cho rằng ảnh hưởng tai hại của tiếng ồn sẽ tích lũy, và việc hư hại thính giác do tiếng ồn gây ra sẽ thành vĩnh viễn. Trên đường phố, tiếng nhạc bình bình vang dội trong xe hơi chạy ngang phát ra, có tác động như cái máy biết chạy gây đứng tim. Mỗi tiếng bình bình đập vào mặt đường và dội vào ngực khách bộ hành. Nó đè bẹp nhịp riêng bên trong của cơ thể. Nhịp này có thể làm ta nghiện khi nghe lâu, như cơ thể nghiện những chất không tự nhiên khác. Làm như cơ thể không còn phân biệt được điều gì tốt lành và điều gì độc hại.
    Khung cảnh âm thanh của ta đã thay đổi trong lịch sử, và tiếp tục thay đổi khi càng lúc càng có nhiều người đâm đầu vào, cắm dây nghe âm điệu chỏi nhịp của thế giới kỹ thuật. Hẳn là con người biết hát ngay từ thưở ban đầu, có ý kiến là trước khi có cuộc cách mạng kỹ nghệ, công việc thường gắn liền với tiếng hát, vì nhịp điệu của lao động được làm cho đồng nhịp với hơi thở của ta, hoặc sinh ra do thói quen của tay, chân. Chuyện vừa làm vừa hát bị ngưng lại khi nhịp của người và của máy không còn ăn khớp. Tức trong khi làm cho mình quen với nhịp và âm thanh át giọng của máy móc, ta mất đi sự liên kết với nhịp điệu thiên nhiên của hơi thở của ta. Đa số người không còn hát trong lúc làm việc nữa. Ngày nay, việc làm thường đi kèm nhiều nhất với tiếng của máy điện toán, điện thoại di động và nhạc từ trần phòng vẳng ra.
    Chắc chắn câu chuyện về nhạc bắt đầu bằng việc ta lắng nghe thiên nhiên rồi cất tiếng họa lại, về sau ta nghe nhạc từ máy móc, hát theo ca sĩ mà ta ưa chuộng. Dù nhiều người vẫn còn hát, nhưng họ chỉ hát lúc ở trong phòng tắm, xe hơi là chỗ không có ai nghe được họ. Chúng ta dần dần trở thành thính giả hơn là ca sĩ, trong mấy thập niên vừa qua, các loại máy nghe như Walkman, iPod đã tạo ra môi trường âm thanh ta có thể chìm đắm vào để bỏ ngoài tai chuyện gì đang xẩy ra trước mặt.
    Âm chết lộ ra bằng một đường thẳng trên màn ảnh, nó như là phản ảnh của thế giới đương thời và là dấu hiệu chết chóc. Khi xưa con người sống trong những chỗ hình tròn như hang động, lều của người da đỏ hay du mục, chòi, nhà băng igloo. Ngày nay đó là chung cư vuông vắn hình hộp chồng lên nhau, mà một thế giới chỉ toàn hình chữ nhật làm tâm hồn chết dần mòn. Người da đỏ nói rằng người da trắng khi đặt họ (người da đỏ) vào những hộp vuông như vậy, đã khiến sức mạnh của họ mất đi và họ tàn tạ dần, vì trong người không còn sức lực nữa.
    Tôi tin rằng địa cầu được nuôi dưỡng bằng năng lực âm thanh và chủ ý trong giọng của con người, y như con người được nuôi dưỡng khi lắng nghe tiếng chim hót hay tiếng thác nước rơi. Mà các điều này đang hiếm hoi dần hoặc mất hẳn. Chim chóc không còn thể hót tự nhiên theo bản năng của chúng. Tiếng xe chạy vun vút, rào rào liên tục là âm chết và phá rối thính giác của chim; chúng lạc điệu tới mức không hót đúng để ngăn chim khác xâm nhập hay để cặp đôi. Nay chúng bắt đầu bắt chước âm điệu của điện thoại di động. Chim còn chết đi vì tháp tiếp vận sóng điện thoại di động làm chúng lạc hướng và đâm vào tháp.
    Những mất mát này làm đời sống con người nghèo nàn dần. Nền văn minh kỹ thuật làm giảm sút mức đa dạng sinh học trên địa cầu và ngôn ngữ bị suy kém. Khi càng lúc càng có ít chim trên trời do việc phá rừng và khu hoang dã, ngôn ngữ con người mất đi sức khêu gợi. Bởi khi chúng ta không còn nghe được tiếng chim hót, lời nói của ta không còn được nuôi dưỡng bằng tiếng véo von của chim. Âm chung quanh sẽ ra sao nếu tất cả chúng ta quyết định ngưng bật máy một ngày, không ai lái xe, xem truyền hình hoặc dùng máy móc ? Tôi tưởng tượng là trái đất sẽ thở một hơi dài, tựa như bà mẹ sau cùng có được một ngày rảnh rỗi, và có thể nghe được chính mình lần đầu tiên sau một khoảng thời gian thật lâu.
    Dâng Lời Ca
    Chúng ta có niềm khao khát thực sự về chuyện linh thiêng. Nhiều người muốn có trở lại những chỗ linh thiêng, âm thanh và sự tĩnh lặng, và thành một phần của âm điệu thiên nhiên. Một trong các mục đích của việc hành hương là chuyển năng lực ở nơi thánh địa mà bạn viếng thăm, sang chỗ của bạn ở bất cứ nơi nào. Thánh đường, hang động hoặc chùa trở thành một phần trong đời của bạn. Hát ca là một cách để cấy làn rung động ở một nơi vào con người của mình, và rồi gieo nó sang người khác và chỗ khác.
    Vì nhiều chỗ linh thiêng ngày nay có du khách tới thăm thường xuyên, cất tiếng hát ở những nơi này là chuyện gây rủi ro, cũng như bạn sẽ bị cho là điên khùng mới làm vậy. Tuy nhiên nhiều người ao ước được hát ca như là một cách để thành một phần của điều gì đó rộng lớn hơn chính họ. Trên thực tế thì đôi khi khó mà vào được các nơi này ngoài giờ ấn định, để có thời gian đơn độc với chính mình hầu lắng nghe và dâng hiến điều gì trong tâm ta; nên giấc mơ kể trên trở thành gần như bất khả.
    Dầu vậy, 'Hỏi thì sẽ được nhận', khi tôi hỏi xin một nhân viên canh gác người da đỏ trong nơi thờ phượng của họ ở Albuquerque, Hoa Kỳ, anh mỉm cười và ôm nhẹ lấy tôi. Người khác kể chuyện là đã được phép hát trong hầm mộ tại vương cung thánh đường Chartres v.v. Nói chung khoảng thời gian tốt nhất là lúc chạng vạng, khi các du khách khác đã ra về. Nhạc sĩ mang theo nhạc cụ khi đến thăm nơi linh thiêng và chơi tại đây. Họ kể:
    – Đôi khi tôi thấy là phải lên dây đàn theo một cách nào đó tại chỗ linh thiêng. Tôi dùng nhạc và lời ca như là một cách để hòa hợp với tinh thần của chỗ ấy. Lần kia khi viếng thăm Machu Picchu, Peru, tôi đi cùng với một Lama Tây tạng, ông có thể thấy được cõi vô hình và cho tôi hay là sinh lực của nơi này được gia tăng nhờ âm nhạc. Mỗi lần ta ca hát là thêm vào kho âm nhạc tốt lành cho ai cần tới nó. Càng có nhiều người hát thì sự kiện càng khiến người khác muốn hát và cảm nhận.
    Nhạc sĩ khác cho kinh nghiệm là ta phải luôn luôn xin phép nơi linh thiêng để được hát hay chơi nhạc. Hãy tế nhị và tỏ lòng tôn kính, vì thường khi có một màn che chở bao quanh nơi linh thiêng, có năng lực bảo vệ mà ta phải xin phép. Tiếng hát hay nhạc chơi ở những nơi này được phản chiếu, khuếch đại và trở thành tuyệt diệu hơn. Ta không biết lời ca mang lại lợi ích gì, và khi được gửi đi ra không gian như vậy thì có thể làm đời ai được thay đổi, nhưng ta có thể thấy du khách khác mà ta gặp ở đấy ngỏ lời tạ ơn, khi ta có can đảm ca hát.
    Sự thúc giục trong lòng muốn tìm một chỗ cộng hưởng để ca hát và chơi nhạc, là động lực tự nhiên nơi con người. Giống như cỏ mọc xuyên qua những khe nứt của xi măng, cái nhu cầu căn bản luôn luôn có đó là muốn nghe âm thanh của ta vang lại. Chỗ sinh ra âm hưởng nhiều nhất trong nhà chúng ta là phòng tắm lót gạch, và đa số người hát ở đó, cho dù họ ngượng ngùng ít chịu thú nhận điều này. Khi không có chỗ như vậy thì ta có thể hữu ý tạo ra chúng. Giả thử ta ca hát nhạc nhà thờ loại Gregorian hay là xướng kinh Phật trong chỗ đậu xe dưới hầm thì sao ? Có người khi đi làm đã mang theo sáo và tới giờ ăn trưa, ngồi thổi sáo trong hốc dưới chân cầu thang.
    Bạn cũng có thể ra ngoài thiên nhiên ca hát, như hẻm núi vĩ đại Grand Canyon, người đi tới đó ca hát nói rằng 'Tôi có cảm tưởng như địa cầu đáp trả lại'. Tại Ouray, Colorado, bên dưới khách sạn Weisbaden có một hang đá thiên nhiên có sức thẩm âm tuyệt vời, khoảng không trong hang làm vang vọng đến hơn bốn giây. Khi hát trong hang, cấu trúc của nó làm âm tụ lại và khuếch đại âm nhiều hơn, làm tăng thêm nét huyền bí, làm như trọn cả hang rung động. Có người đứng nghe tỏ lời khen ngợi:
    – Nghe giống như trong nhà thờ, mà lại hay hơn !
    Bạn có thể tìm thấy nơi linh thiêng ở bất cứ nơi nào bạn có mặt - ngoài thiên nhiên, bên trong nhà của bạn, hay trong thành phố mà bạn cư ngụ. Tại nơi tôi ở, từ nhà tôi có thể đi bộ tới viện bảo tàng. Trong đó, ở khu Đông phương có bức tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát đặt ở nơi vinh dự, sẵn sàng hiển linh cho ai cần đến ngài.
    Tôi theo một nghi thức khi tới đây, là ngưng lại trước khi bước qua bậc thềm, rồi yên lặng đi tới trước bức tượng tượng trưng cho lòng Từ bao la. Đôi mắt của ngài dường như nhìn xuyên thấu lòng tôi mà cũng vượt ra xa bên ngoài tôi, vào những con tim thổn thức của thế giới. Sau khi chiêm ngưỡng, tôi ngồi vào băng ở viện bảo tàng và tham thiền. Xong buổi, tôi cảm tạ ngài đã lắng nghe lời cầu kinh của tôi. Tôi mua một bức tranh đức Quan Thế Âm ở cửa hàng mỹ vật phẩm của viện bảo tàng, và lập một bàn thờ tại nhà. Ở đó tôi thắp nến, xướng tên những người tôi yêu quí, và mở rộng tâm mình.
    Tương tự như động lực muốn ca hát, động lực muốn tạo chỗ linh thiêng là một nhu cầu căn bản của ta. Nơi chốn không nhất thiết phải là chỗ cổ xưa mới có tính linh thiêng. Người ta xây những chỗ linh thiêng mới ở khắp nơi trên mặt đất, nó có thể là một nhà sinh hoạt cộng đồng trong làng, nơi là lớp học cho trẻ con mà cũng là nơi làng cử hành nghi lễ tôn giáo. Chỗ khác, vùng có đào xới tìm than đá, dầu, hoặc mỏ vàng mỏ bạc, khi việc khai thác đã xong thì hố được biến thành nơi thờ phượng với trần cao vút, có những cột ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào hang.
    Bất cứ lúc nào trong lịch sử con người, ở bất cứ nơi nào trên trái đất, cái động lực chung muốn tạo chỗ linh thiêng và âm nhạc phản ảnh lòng khao khát thiết yếu của con người, muốn có chất nuôi dưỡng tâm linh; có lẽ đó là điều cần thiết cho loài người. Nếu không phải vậy thì tại sao nó ăn sâu vào bản tánh của ta ? Điều gì khiến ta dâng lời tán thán, viết ca khúc ngợi khen Đức Mẹ ? Giống như bầy khỉ đồng kêu lên trong đêm tối, chúng ta cần biết mình không lẻ loi. Ta gửi đi một lời và cảm thấy an lòng khi nghe tiếng vang của nó dội lại.
    Tuy khoa thẩm âm cho ta hay rằng khi ca hát ở nơi linh thiêng, tiếng vọng mà ta nghe được chỉ là âm vang của chính lời chúng ta đã được làm cho to hơn, một phần sâu thẳm hơn trong tâm ta cảm thấy còn có một điều gì khác hơn nữa, như thể có một huyền thuật không giải thích nổi đã được khơi dậy trong lòng ta. Tôi tin rằng chủ ý và bản chất tinh thần độc đáo của người cộng hưởng lại và cho ta biết rằng cơ thể con người là cấu trúc linh thiêng, được tạo theo kiểu mẫu chứa đựng nhạc Trời. Ta có thể hữu ý phà hơi thở vào đền thờ là cơ thể của người và làm nó trở nên linh thánh.
    Và tôi tin rằng chủ ý đó là cũng là điều căn bản cho vai trò của ta, trong việc sinh ra cảm giác về sự linh thiêng bên ngoài ta. Bạn không cần phải đi tới những chỗ như đền Taj Mahal để được hát ở chốn linh thiêng. Chốn ấy nằm đầy quanh ta, trong mỗi nụ hoa khai mở, lá non bung ra khi xuân về. Ta có thể bầy tỏ cảm giác kinh ngạc lạ lùng và lòng biết ơn đối với nét mỹ lệ, của bất cứ phần nào trong thế giới mà ta kinh nghiệm, như buổi bình minh hay hoàng hôn.
    Khi ban hợp ca hát thánh nhạc thì lều của đoàn xiệc trở thành thánh đường, màn vũ của người da đỏ trong làng của họ miền tây nam Hoa Kỳ biến sân bụi bặm thành lời kinh cầu vĩ đại. Dù ta ở bất cứ nơi đâu, chuyện quan trọng là ta trở thành một phần của màn vũ, là ta biến chủ ý, nỗi hân hoan, tuyệt vọng và sự cảm nhận của mình thành một thực tại rộng lớn hơn. Vậy, ta hãy cất vang lên lời hoan ca của mình, dù trong vườn sau nhà hay tại hẻm núi hùng vĩ Grand Canyon.

    Trích: Sacred Space, Sacred Sound, Susan Elizabeth Hale.

  2. #2

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 23
    Bài mới gởi: 30-01-2019, 10:45 PM
  2. Khí cong đả huyệt và cách giải khi tử huyệt bị đả.
    By Ythuc in forum Khí Công, Dưỡng Sinh
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 15-03-2016, 10:16 PM
  3. Huyền thoại huyết ngải độc thần tướng
    By giaoclub in forum Thế Giới Bùa Ngải
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 20-06-2014, 02:33 PM
  4. Huyền thoại về loài huyết ngải
    By batdac in forum Thế Giới Bùa Ngải
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 15-03-2014, 03:03 PM
  5. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 09-04-2008, 12:51 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •