Trang 4 trong 5 Đầu tiênĐầu tiên 12345 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 61 tới 80 trên 100

Ðề tài: Nghi vấn về nguồn gốc kinh Vô lượng thọ

  1. #61

    Mặc định



    Tham gia pháp hội giảng kinh, bất cứ nghe hiểu, hoặc nghe không hiểu, đều có sự lợi ích không thể nghĩ bàn. Tôi nhớ lúc tôi giảng kinh tại Tây Lạc Viên ở Hương Cảng, thì có một bà cư sĩ đã hơn sáu mươi tuổi, vì bà ta bị điếc, cho nên mọi người đều gọi bà ta là « bà điếc ». Bà ta họ Trần, pháp danh là Quả Quyên, ở dưới núi Tây Lạc Viên. Mỗi lần tôi giảng kinh, thì dù mưa gió, bà ta cũng từ chân núi đi đến Tây Lạc Viên, hơn ba trăm thềm cấp mới đến được Tây Lạc Viên để nghe kinh. Người điếc mà nghe kinh, thật là đáng quý sự thành tâm của bà ta.

    - Có người hỏi bà ta : Bà đến nghe cái gì?

    - Bà ta nói: Tôi cũng chẳng biết nghe cái gì ?

    Sự tình thì rất là nhiệm mầu như vầy : Một ngày nọ, khi giảng kinh xong, thì mọi người đang niệm: ‘’Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.’’ Bà ta hốt nhiên nghe rất rõ ràng. Từ đó về sau, bà ta nghe được lại bình thường. Bà ta rất dụng công tu hành, đó là tâm thành sở cảm, do đó có câu:

    Tinh thành sở chí,
    Kim thạch vi khai.

    Nghĩa là:

    Thành tâm đến cực điểm,
    Thì vàng đá cũng tan.

    Kiên thành tin Phật sẽ có cảm ứng không thể nghĩ bàn.

    Bà cư sĩ điếc đó, ngoài sự điếc ra, còn có một chứng bệnh kỳ quái, mỗi ngày phải ăn rất nhiều đồ ăn. Nếu không ăn thì khó mà chịu đựng được. Mỗi lần đến nghe kinh, nghe được nửa giờ thì muốn xuống nhà bếp tìm đồ ăn, bằng không thì chẳng chịu đựng được. Bà ta đi khám rất nhiều bác sĩ, nhưng đều bó tay.

    Vào ngày mồng bảy tháng hai, tôi từ núi Ðại Tự trở về Tây Lạc Viên, bà ta bèn nói với tôi:

    - ’’Sư phụ ! Trong bụng của con có người nói chuyện.’’

    - Tôi nói: Trong bụng của con có người nói chuyện, có phải là con nít chăng ? Con đã hơn sáu mươi tuổi, vẫn còn sinh con cái chăng ?

    - Bà ta nói : Con cũng không biết !

    - Tôi lại hỏi : Trong bụng của con nói cái gì ?

    - Bà ta nói : Sáng sớm con dùng bột làm bánh ăn, thì lúc đó ở trong bụng có người nói rằng: ‘’Tôi không thích ăn vật đó » !

    - Con nói : Ngươi không thích ăn thứ nầy, chứ thích ăn cái gì ? Ăn no thì được rồi, còn muốn gì nữa ?

    - Lúc đó trong bụng chẳng nói gì nữa, con nghe rất rõ ràng, trong bụng có người nói như thế.

    - Tôi nói với bà ta : ‘’Trong bụng của con có con nít biết nói, thì phải sinh nó ra. Tối nay con hãy đi về nhà, vào lúc nửa đêm, con lên trước bàn Phật thắp hương, sau đó nhìn xem có phản ứng gì không »?

    Bà ta xuống núi trở về nhà, vào lúc nửa đêm, lên trước bàn Phật đốt hương ngồi yên. Trong lúc tựa như ngủ mà chẳng phải ngủ, tựa như mộng mà chẳng phải mộng, thì nhìn thấy từ trong bụng của bà ta, sinh ra ba đứa con nít mập mạp, rất là lanh lợi khỏe mạnh. Lúc đó, lại thấy Bồ Tát Vi Ðà tay cầm một tô mì nóng, mùi vị thơm phức, ba đứa con nít tranh nhau đến ăn mì. Bồ Tát Vi Ðà bèn xách tai ba đứa con nít, dắt đi mà chẳng biết đi đâu ! Sau đó, bà ta cảm thấy trong bụng trống không, rất là thoải mái. Từ đó về sau, bệnh đói chẳng uống thuốc mà hết, tất cả đều trở lại bình thường.

    Bệnh kỳ quái của bà ta do đâu mà có ? Một đêm nọ, lúc đang ngủ, bà ta nhìn thấy ba đứa con nít, đầu mập tai to rất là dễ thương, bèn sinh tâm tham ái. Từ đó ba tiểu quỷ đó vào trong bụng của bà ta. Trải qua ba năm chịu đựng khổ sở, chứng bệnh mới hết. Thứ quái bệnh đó, chẳng có ai tin. Song, không thể không tin, cho nên mới nói là diệu.

    Tại sao bà ta mắc chứng bệnh đó ? Vì đời trước, có người cũng mắc chứng bệnh đó. Người đó nói với bà ta, nhưng bà ta không tin, (ở đây cho ta rút bài học rằng điều gì mà ta không biết thì không nên nói bậy kẽo bị mắc tội vọng ngữ và vu oan quả báo rất nguy hiểm) cho nên đời nầy phải thọ quả báo đó. Nhân quả tơ hào không sai.

    Chúng ta người tu đạo, thứ nhất là phải có tâm từ bi, bất cứ gặp người nào mắc bệnh đều phải sinh tâm thương xót, phải hết mình giúp đỡ người bệnh để giải trừ bệnh khổ. Bệnh hoạn là một sự khổ trong tám khổ. Lúc đó, nếu gặp người có tâm từ bi an ủi về mặc tinh thần, thì người bệnh sẽ cảm thấy ấm áp vô hạn, tâm trạng khai sáng, bệnh nặng sẽ hóa thành nhẹ, nhẹ thì sẽ hóa không. Ðó là trị liệu về tâm lý, cho nên Phật giáo đồ, đều phải có tư tưởng từ bi thương người. Tuy là người thù địch của chúng ta mắc bệnh, thì cũng phải cứu họ ra khỏi dầu sôi lửa bỏng. Do đó có câu:

    Oán nên mở không nên kết.

    Ðừng lấy oán báo oán, mà hãy lấy ân báo oán. Có người mưốn biết ba đứa con nít đó là ai ? Nay nói cho các vị biết : Hai đứa là rắn bốn chân ở vùng nhiệt đới, còn gọi là diêm xà, vì nó bò động ở dưới mái nhà, còn đứa kia là ếch. Ðến lúc chúng muốn tác quái, đi khắp nơi hại ngưới. Sau đó, ba đứa con nít đó bị Bồ Tát Vi Ðà bắt đi, thả ở nơi hẻo lánh, không còn tác quái nữa.

    Còn có chuyện niệm Chú Đại Bi cứu được chứng bệnh bất trị. Vì hiện tại có người cần niệm Chú Ðại Bi, cho nên hôm nay kể lại chuyện linh nghiệm không thể nghĩ bàn.

    Vào mùa Xuân năm trước, Quả Quy và cha của anh ta đi du lịch ở nước Anh, đến nước Anh rồi, cha của anh ta cảm thấy thân thể chẳng được khỏe, bèn vào bệnh viện để khám, thì phát hiện bệnh ung thư, bất đắc dĩ mới về nước để chữa trị. Trải qua một thời gian uống thuốc ở nhà thương cũng chẳng có hiệu quả. Chứng bệnh đó cho đến bây giờ, cũng chẳng có thuốc gì chữa được.

    Lúc Quả Quy ở tại Phật Giáo Giảng Đường, thì tham gia đoàn thể của chúng tôi, cũng rất dụng công tu hành. Anh ta thấy bệnh tình của cha càng ngày càng nặng, thì rất nôn nóng. Anh ta tại Trường Ðê (Longbeach) điện thoại hỏi tôi làm thế nào ? (Lúc đó tôi đang ở Hương Cảng), để cha của anh ta không vì bệnh ung thư mà chết, cứu kính có phương pháp gì giải cứu chăng ? Lúc đó, tôi nói với anh ta chỉ có một biện pháp giải cứu, đó là mỗi ngày niệm 108 biến Chú Ðại Bi. Do đó, anh ta chuyên tâm nhất ý niệm Chú Ðại Bi. Sau đó cha của anh ta đi khám lại thì chứng minh bệnh ung thư đã tiêu trừ. Năm nay 1975 bất hạnh vì bệnh khác mà qua đời, nhưng chẳng phải vì bệnh ung thư mà chết.

    Quả Quy thành tâm niệm Chú Ðại Bi, cảm ứng bệnh ung thư của cha anh tiêu trừ. Bổn lai có thể sống lâu dài thêm mấy năm, song, cha của anh ta chẳng bỏ hút thuốc, rượu được, cho nên dẫn đến phát bệnh khác mà chết. Tuy cha của anh ta đã chết, nhưng anh ta chẳng sinh tâm thối chuyển, vẫn nỗ lực niệm Chú Ðại Bi như xưa. Các vị hãy tinh tấn như Ðức Phật Thích Ca, đời đời kiếp kiếp đều tinh tấn, chẳng sinh tâm thối chuyển.

    Chú Ðại Bi trị được nan y tật chứng, đều hiệu nghiệm không thể nghĩ bàn. Bồ Tát Quán Thế Âm nói với Ðức Phật rằng: ’’Nếu chúng sinh tụng trì Chú Ðại Bi mà không sinh về nước các Ðức Phật, chẳng được vô lượng tam muội biện tài, tất cả sở cầu trong đời hiện tại chẳng toại nguyện, thì thề không thành Chánh Giác, chỉ trừ người đó chẳng thành tâm.’’

    Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  2. #62

    Mặc định



    Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch

    Bây giờ nói đến vị Pháp sư phiên dịch bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”—Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, người nước Diêu Tần.

    “Diêu Tần”: “Diêu Tần” khác với “Phù Tần, Doanh Tần”, là tên gọi của một triều đại, do Diêu Hưng xưng vương lập ra 當政的時代. Nước Diêu Tần, xét theo hệ thống triều chánh Trung Hoa là triều đình của nước “Tần”, dựng tại Trường An vào thời Đông Tấn; Tần nầy không phải là triều Tần của Tần Thủy Hoàng. Lúc đầu, nước Tần nầy do Phù Kiên cai trị, vì trong lịch sử trước đó đã có triều Tần, nên để phân biệt gọi là “Phù Tần”.

    Trước triều Tần là thời đại Chiến Quốc Thất Hùng, trong cục diện bảy nước tranh hùng tranh bá. Đến đời Doanh Chính, ông diệt sáu nước kia, lập ra nhà Tần, nên lịch sử gọi triều Tần của Tần Thủy Hoàng lúc đó là “Doanh Tần”. Về sau Hán Cao Tổ Lưu Bang tiêu diệt nhà Tần. Đến những năm cuối triều đại Đông Hán, nước Hán phân làm ba nước (Tam Quốc). Sau Tam Quốc thì đến triều Tấn; lòng người lúc bấy giờ có một số còn luyến tiếc triều Tần, thế là Phù Kiên tổ chức một đảng phái tại Trường An, lập ra một nước, cũng gọi là “Tần”, tự cho mình là hậu duệ của Tần Thủy Hoàng, nước nầy chính là nước “Phù Tần”.

    Bấy giờ, có một vị quan Khâm Thiên Giám, chuyên coi về thiên văn nhìn thấy trên vùng trời Ấn Độ xuất hiện một vì sao trí—ngôi sao nầy chỉ cho người có trí tuệ, liền thưa với Phù Kiên: “Hiện nay ở Ấn Độ có một bậc đại trí tuệ, sau nầy sẽ đến Trung Hoa, đến để ủng hộ Trung Hoa.” Phù Kiên vui mừng: “Ồ! Ta biết người nầy là ai rồi, người nầy chắc chắn là Pháp sư Cưu Ma La Thập. Chúng ta mau phát binh đi cướp Ngài về!” Thế là Phù Kiên phái đại tướng quân Lữ Quang, dẫn theo bảy vạn người ngựa, đi chinh phạt nước Quy Tư, cướp Pháp sư Cưu Ma La Thập. Nước Quy Tư (thuộc huyện Khố Hiệt, tỉnh Tân Cương (vùng Kucha) Trung Hoa ngày nay), là một nước nhỏ đương thời. Hai chữ “Quy Tư” (龜茲), vốn đọc đúng âm là “Quy Tư” (歸資), nhưng trong kinh văn có vẽ một khoen tròn, nên phải đọc là “Thu Từ” (秋慈).

    Trước khi Lữ Quang chưa đến nước Quy Tư, Pháp sư Cưu Ma La Thập có nói với quốc vương nước Quy Tư rằng: “Hiện nay Trung Hoa đang xuất binh chinh phạt nước Quy Tư chúng ta, quốc vương không nên đối địch với họ, vì mục đích của họ không phải muốn tranh dành lãnh thổ, muốn chiếm lĩnh đất nước chúng ta. Nếu họ có yêu cầu gì, quốc vương nên thể theo đó giảng hòa với họ; họ cần điều gì, quốc vương nên đáp ứng điều đó!” Tiếc là quốc vương Quy Tư không nghe lời khuyên của Pháp sư Cưu Ma La Thập, đợi Lữ Quang đến, liền khởi binh nghinh chiến.

    Lúc bấy giờ, quân đội Trung Hoa rất mạnh, Quy Tư chỉ là một nước nhỏ, vừa giáp chiến đã bại trận, quốc vương Quy Tư bị quân sĩ Lữ Quang giết chết, họ bắt Pháp sư Cưu Ma La Thập mang đi. Quốc vương Quy Tư vốn là người rất tin Phật, cớ sao lại bị quân đội Trung Hoa thảm sát? Vì nghiệp sát kiếp trước của quốc vương quá nặng, định nghiệp khó chuyển, nên không có cách nào tránh khỏi nghiệp báo.

    Lữ Quang diệt nước Quy Tư, bắt Pháp sư Cưu Ma La Thập mang đi đến Tây Lương Trung Hoa, thuộc vùng đất ở huyện Đôn Hoàng - tỉnh Cam Túc ngày nay thì nghe tin trong nước có loạn đảo chính, Diêu Trường giết chết Phù Kiên, đoạt lấy ngai vàng, lên ngôi làm hoàng đế nước Tần. Vì vị vua mới họ Diêu, nên mọi người đổi “Phù Tần”, gọi là “Diêu Tần”, nước Diêu Tần ra đời từ đó.

    Lữ Quang nghe tin trong nước có loạn đảo chánh, Diêu Trường lên làm hoàng đế, nên bấy giờ ông không quay về trường An nữa. Lữ Quang ở lại Lương Châu, lập dinh hạ trại—đó là một vùng trũng trong núi, địa thế vô cùng trũng thấp. Pháp sư Cưu Ma La Thập khuyên Lữ Quang: “Nơi nầy vô cùng nguy hiểm, không nên lập dinh ở đây! Lập dinh ở đây “rất bất lợi”. Nếu có nước lớn dâng lên, rất có thể sẽ dìm chết tất cả binh sĩ chúng ta!” Lữ Quang vốn không có niềm tin với Pháp sư La Thập, ông tỏ vẻ bất cần nói: “Pháp sư biết gì? Pháp sư là người xuất gia, hiểu gì về việc bày binh bố trận? Pháp sư không cần lo! Dìm chết ư? Làm sao có thể dìm chết được chứ?”, và không nghe theo lời khuyên của Ngài.

    - Đến nửa đêm hôm nay, tướng quân sẽ thấy lời tôi nói có ứng nghiệm hay không?

    Quả nhiên nửa đêm hôm ấy, trong núi phát ra tiếng hú gào! Núi hú gào là sắp có nước lũ. Nước lũ tràn dâng mãnh liệt, nước trong núi tuôn trào cuồn cuộn, không biết nước lớn đến cỡ nào mà đã nhận chết năm- sáu ngàn người trong quân đội của Lữ Quang. Lữ Quang dẫn bảy vạn người ngựa đến gây chiến với nước Quy Tư, chết trận khoảng vài ngàn; trên đường về đến đây bị nước nhấn chìm chết thêm một số nữa. Từ đấy, Lữ Quang mới biết được đôi chút về lai lịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập, Ngài có thần thông, là một người phi thường; từ đấy Lữ Quang không dám khinh mạn nữa, và rất tin tưởng vào Pháp sư Cưu Ma La Thập.

    Lữ Quang nghe nói trong nước có loạn đảo chính, Diêu Trường giết chết Phù Kiên, thế là ông liền án binh bất động tại Lương Châu, cho đến khi Diêu Trường làm hoàng đế được vài năm, chết đi, con trai Diêu Hưng lên kế vị.

    Diêu Hưng biết được việc trước kia Phù Kiên sai Lữ Quang đi bắt Pháp sư Cưu Ma La Thập, nên đòi Lữ Quang giao trả Cưu Ma La Thập, Lữ Quang không chịu; Diêu Hưng lại phát binh đi đánh Lữ Quang. Bấy giờ Lữ Quang đã chết, con trai Lữ Long thay cha làm vua ở đó. Vừa ra nghinh chiến, Lữ Long đã bại trận; Diêu Hưng thỉnh Pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trường An, bắt đầu công việc phiên dịch kinh điển. Công việc nầy vô cùng vất vả.

    Vì sao Lữ Quang đi bắt Pháp sư Cưu Ma La Thập? Vì sao Diêu Hưng lại phái binh đi đón Ngài? Vì Pháp sư Cưu Ma La Thập là một bậc đức cao vọng trọng đương thời, mọi người đều sùng bái, tín ngưỡng. Từ khi Diêu Hưng đón Ngài về Trung Hoa, kinh điển mới được phiên dịch rất nhiều. Đây là nhân duyên Pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trung Hoa.

    Đón Pháp sư Cưu Ma La Thập về đến Trung Hoa, Diêu Hưng nghĩ: “Trí tuệ của vị Pháp sư nầy rất lớn, không ai có thể sánh kịp. Người có trí tuệ lớn như thế, mà không lưu lại hậu duệ, thật là đáng tiếc!”, thế là bức ép Pháp sư kết hôn, ban cho hai mỹ nhân trong cung, làm phu nhân của Ngài. Mục đích của vua là muốn Pháp sư Cưu Ma La Thập sinh ra một người con trai trí tuệ, tiếp nối học vấn của Ngài.

    Lúc bấy giờ, do bị áp bức bởi thế lực của hoàng đế, Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập không có cách gì khước từ, đành phải chấp nhận điều kiện này. Thế nhưng, chấp nhận điều kiện này rồi thì sau đó thế nào?

    Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập không được thông thạo Trung văn cho lắm, song về Phạn văn lại rất tinh thông, cho nên đương thời có hơn tám trăm người xuất gia tụ hội lại và cùng làm trợ thủ cho Ngài, giúp đỡ Ngài trong công việc phiên dịch kinh điển.

    Pháp sư Cưu Ma La Thập chủ trương người xuất gia không có vợ, nhưng bây giờ chính Ngài lại có vợ, hơn tám trăm người phụ tá lúc bấy giờ đều không phục, lên tiếng: “Pháp sư xem! Pháp sư bảo chúng tôi không nên tiếp cận người nữ, bảo chúng tôi không được có vợ!”. Pháp sư Cưu Ma La Thập chủ trương người xuất gia không có vợ, nhưng bản thân Ngài lại có vợ, nên số người phụ tá nầy rất không phục, vô cùng bất mãn nói: “Hừm! Pháp sư chỉ việc nói, Pháp sư lừa dối chúng tôi! Trong khi hiện tại bản thân Ngài lại như thế!”. những người này không biết do hoàn cảnh bức bách, bất đắc dĩ Pháp sư Cưu Ma La Thập mới làm như thế.

    Một hôm, vào giờ quá đường buổi sáng—khi người xuất gia thọ trai gọi là “quá đường”. Khi các Pháp Sư vào trai đường ngồi xuống ăn thì trước mặt chẳng thấy gì để ăn cả, trừ một bao bằng giấy trong có các cây kim may (kim khâu quần áo), mỗi người một bao như vậy. Để làm gì vậy? Pháp sư Cưu Ma La Thập bảo với mọi người: “Hôm nay chúng ta không dùng cơm, chỉ dùng bọc kim nầy thôi!”, ăn kim thay thế cơm, Pháp sư nói như thế, quý vị thấy như thế nào? Quý thầy, người nầy nhìn người kia, người kia nhìn người nọ; người nầy trông người kia, người kia trông người nọ, không một ai dám ăn. “Làm sao mà ăn kim được? Pháp sư thật biết giở trò! Thật điên mất rồi! Tại sao lại bảo chúng ta ăn kim?” Có thầy bực tức: “Kim nầy làm sao có thể ăn được mà Ngài bảo chúng tôi ăn? A! Hay là Ngài dùng trước thử xem!”

    Pháp sư Cưu Ma La Thập thản nhiên: “Ồ! Quý vị không thể ăn được à? Được, đem đến đây tôi ăn!” Mọi người nhanh chóng mang đến trước mặt Ngài hơn tám trăm bọc kim của hơn tám trăm người; Ngài mở bao giấy ra, ăn ngon lành hết tất cả kim trong bọc giống như ăn mì. Mọi người đều trố mắt: “Ái chà! Pháp sư đang làm gì vậy? Có phải đang chơi trò ảo thuật? Những bọc kim nầy thật có thể ăn được sao?”

    Ăn kim xong, Pháp sư hỏi họ: “Không một ai trong các vị có thể ăn kim được à? Bây giờ tôi tuyên bố với quý vị: ‘Ai có khả năng ăn được kim, thì có thể kết hôn; ai không có khả năng, không được kết hôn.’ Ai muốn kết hôn, trước tiên phải ăn một bọc kim!” Hơn tám trăm vị trợ lý nhìn nhau: Ây! Bản thân chúng ta không có đạo lực lớn như thế, không thể ăn được. Từ đó, những vị nầy không còn xem thường Cưu Ma La Thập, cũng như không dám phản đối Ngài nữa.

    Cưu Ma La Thập rời khỏi trai đường, trở về đến phòng mình; có hai thị giả đi theo. Pháp sư bảo với hai thị giả: “Hai vị giúp tôi một việc!” Hai thị giả hỏi: “Việc gì thưa Pháp sư?” “Hai vị giúp tôi nhổ tất cả số kim nầy ra dùm!” Kim từ các lỗ chân lông phún ào ào ra bên ngoài, giống như đang chơi trò ảo thuật vậy.

    Trong lịch sử Trung Hoa, Pháp sư Cưu Ma La Thập có hai người con trai; nhưng thần thông diệu dụng của Ngài thì không thể nghĩ bàn. Chúng ta không vì chuyện Pháp sư Cưu Ma La Thập có con và có vợ mà khinh thường Ngài. Pháp sư Cưu Ma La Thập quả thật là Bồ tát thị hiện.

    Đề cập đến thân thế của Pháp sư Cưu Ma La Thập cũng rất dài. Cha Ngài tên Cưu Ma La Viêm, là con trai của Thừa Tướng của một nước thuộc miền trung Thiên Trúc Ấn Độ. Theo chế độ đương thời, Cưu Ma La Viêm được quyền thừa kế chức vụ thừa tướng của cha, nhưng ông lại không muốn làm quan. Vậy muốn làm gì? Muốn học đạo, muốn xuất gia tu hành; thế là ông vân du khắp nơi, tìm kiếm minh sư học đạo.

    Vì phụ thân của Cưu Ma La Viêm là một quan lớn, nên Cưu Ma La Viêm đến đâu cũng được mọi người nghinh đón; khi Cưu Ma La Viêm đi đến nước Quy Tư. Quốc vương Quy Tư ra ngoài thành nghinh tiếp, mời ngài về cung dự yến tiệc . Quốc vương có một người em gái tên Kỳ Bà, khi dùng cơm, vừa nhìn thấy Cưu Ma La Viêm, quận chúa liền đem lòng thương yêu. Quận chúa là người rất thông minh, bao nhiêu nam nhân trong nước đều không lọt được vào mắt xanh của nàng, nàng không chấm được ai. Lần nầy nhìn thấy Cưu Ma La Viêm, vừa thấy tâm liền xao động, đem lòng yêu mến. Tuy quận chúa không nói gì với anh mình, nhưng quốc vương Quy Tư là người thông minh, nhìn qua đã biết em gái có cảm tình với Cưu Ma La Viêm, muốn được cùng Cưu Ma La Viêm nên duyên cầm sắt; thế là quốc vương liền đem em gái mình gả cho Cưu Ma La Viêm.

    Quận chúa gả cho Cưu Ma La Viêm không bao lâu thì mang thai. Quý vị đoán xem việc gì xảy ra? A! Đã phát sanh chuyện lạ rồi đây! Chuyện lạ gì vậy? Kỳ Bà vốn không biết tiếng Ấn Độ, nhưng từ sau khi mang thai Pháp sư Cưu Ma La Thập, quận chúa tự nhiên có thể nói và nghe hiểu được tiếng Ấn Độ, biết được tất cả tiếng Phạn; không chỉ thế, quận chúa còn được biện tài vô ngại, trí tuệ ngày một sắc bén thêm lên.

    Đương thời có một vị La hán, vị ấy bảo với mọi người: “Đứa bé trong bụng của quận chúa không phải là người bình thường, chắc chắn là một bậc đại trí…” Vị La hán nầy nhắc lại câu chuyện của tôn giả Xá Lợi Phất, đệ tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài nói: “Ngài Xá Lợi Phất trước kia, khi đang còn ở trong bụng mẹ, cũng đã khiến cho người mẹ có được trí tuệ sắc bén; nói chung, đứa trẻ nầy cũng giống như Ngài Xá Lợi Phất.” Pháp sư Cưu Ma La Thập ở trong bụng của mẹ mình, đã giúp cho người mẹ có được trí tuệ vượt bậc.

    Kỳ Bà sinh ra Cưu Ma La Thập, ba năm sau cô lại cho ra đời đứa con trai thứ hai. Lúc nầy, quận chúa thường đến chùa Xảo Lê Đại Tự nghe giảng kinh thuyết pháp. Vì có căn tánh rất linh lợi, nên khi nghe pháp của pháp sư giảng, quận chúa liền ngộ ra rằng con người sống trên đời đều là “khổ, không, vô thường, vô ngã”, và liền phát tâm muốn xuất gia; lúc nầy, Pháp sư Cưu Ma La Thập mới được bảy tuổi.

    Cưu Ma La Viêm trước kia vốn muốn xuất gia, nhưng sau khi kết hôn với quận chúa Quy Tư thì không còn muốn xuất gia nữa; ông lưu luyến người vợ rất mực xinh đẹp, tham tiếc tiền tài, địa vị, cái gọi là vinh hoa phú quý tột đỉnh. Trong “Kinh Tứ Thập Nhị Chương” nói: “Bần cùng bố thí nan, phú quý học đạo nan” (nghèo cùng khó bố thí, giàu sang khó học đạo). Cưu Ma La Viêm vì bị phú quý mê hoặc, nên không chỉ ông không muốn xuất gia, mà ngay cả vợ muốn xuất gia, ông cũng không đồng ý.

    Kỳ Bà đã hạ quyết tâm. Quyết tâm gì? Cô phát lời nguyện: “Nếu như không được xuất gia, tôi thà chết cũng không muốn ở trong cung, chỉ muốn chết mà thôi.”

    Ban đầu quận chúa không ăn cơm, Cưu Ma La Viêm cũng không lấy làm lạ, một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, đến ngày thứ sáu cũng nhất định không ăn; không chỉ không ăn, đến nước cũng không uống, không đưa bất kỳ thứ gì vào miệng. Cưu Ma La Viêm thấy thế, biết không ổn! Nếu như không cho vợ xuất gia, cô ấy sẽ đói chết; tuy không muốn cho vợ đi, nhưng giờ cũng đành phải cho, bèn nhượng bộ bảo vợ rằng: “Được rồi! Bà muốn xuất gia, tôi cho bà xuất gia! Nhưng trước hết phải ăn chút gì đã!”

    Kỳ Bà khôn ngoan: “Ông cho tôi xuất gia thật sao? Vậy trước tiên ông mời Pháp sư đến xuống tóc cho tôi, sau đó tôi mới ăn; nếu như không xuống tóc, đợi tôi ăn xong, ông lại không cho, thì tôi biết phải làm sao?” Trong tình thế bắt buộc, Cưu Ma La Viêm không còn cách nào khác, không còn lựa chọn nào khác, đành phải đến chùa Xảo Lê, thỉnh hòa thượng trụ trì đến xuống tóc cho vợ. Xuống tóc xong, quận chúa mới chịu ăn uống trở lại.

    Kỳ Bà ăn xong, vì đã xuống tóc, trở thành người xuất gia rồi! Nên từ đó chuyên tâm tu học Phật pháp. Sau khi xuất gia không bao lâu, quận chúa liền chứng quả. Tại sao chưa bao lâu lại được chứng quả? Vì quận chúa học Phật pháp với tâm thành khẩn tha thiết! Chúng ta nhất định phải thật sự có tâm thành khẩn đối với Phật pháp, nếu như không có, dầu tu học bao lâu cũng không có sở đắc. Vì tâm thành của quận chúa đã đạt đến cực điểm: “Nếu không cho phép xuất gia, tôi thà chết!” Chỉ có chết! Vì quận chúa đã xem thường sống chết, nên nói: “Tịnh cực quang thông đạt”, sự thanh tịnh đạt đến cực điểm, buông bỏ tất cả; ngay lúc nầy, linh quang (giác tánh) hiển hiện, chứng đắc được Sơ quả.

    Sau khi chứng Sơ quả, có một hôm, Kỳ Bà dẫn Cưu Ma La Thập vào chùa lễ Phật. Pháp sư Cưu Ma La Thập lúc đó chỉ là một đứa trẻ mới lên bảy, đến chùa, nhìn thấy người ta lạy Phật, Ngài cũng lạy theo; nhìn thấy người ta đốt hương, Ngài cũng đốt theo. La Thập lại nhìn thấy trước tượng Phật có đặt một cái đỉnh rất lớn, cái đỉnh nhẹ lắm cũng nặng khoảng một trăm pounds (50kg); đứa trẻ mới bảy tuổi nầy nhìn thấy cái đỉnh, rất muốn chơi đùa. Cái đỉnh lớn quá, Cưu Ma La Thập không thèm suy nghĩ gì, nhẹ nhàng nhấc đỉnh lên, đội trên đầu. Sau khi đội lên đầu, Ngài nghĩ: “Ủa! Mình là đứa trẻ bảy tuổi, làm sao có thể đội nổi một cái đỉnh nặng như thế? Trong lòng Ngài vừa nghĩ như thế, tức vừa sanh ra tâm suy lường phân biệt, lạ thay! Cái đỉnh liền nặng trở lại, Ngài hoảng hốt thốt thành tiếng: “Ây da!” không nhấc nổi nữa, cái đỉnh liền rơi xuống đất.

    Cái đỉnh rơi xuống đất, Cưu Ma La Thập lập tức liễu ngộ. Liễu ngộ cái gì? Ngộ rằng tất cả sự vật trên thế gian vốn là như thế! Đều do tâm tạo (nhất thiết duy tâm tạo). Thì ra, lúc Ngài chưa khởi tâm suy lường (tư lượng) phân biệt thì “nặng mà không nặng”, vốn là vật nặng, Ngài cũng nhắc nổi; vừa khởi ra tâm tư lượng phân biệt, vốn không nặng cũng trở thành nặng. Do đây mà Ngài ngộ được rằng: Tất cả sự vật đều do tâm tạo, vạn pháp đều do tâm! Khi Ngài khởi sanh lên tâm (suy lường phân biệt) như thế thì đó không phải là chân tâm.

    Sau khi Cưu Ma La Thập liễu ngộ “tất cả do tâm tạo”, liền phát tâm muốn xuất gia theo mẹ. Quý vị nghĩ xem, lúc đó Ngài muốn xuất gia, cha của Ngài như thế nào? Trong lòng cha Ngài nhất định không nỡ; đã lưu luyến vợ, nay lại không nỡ rời con. Vợ đã xuất gia, con trai cũng muốn xuất gia, tình cảnh lúc nầy thật là dứt không nỡ, bỏ không rời; nhất định có xảy ra cảnh nầy, hay không chừng cha Ngài sẽ đau lòng rơi nước mắt. Nhưng lòng mẹ Ngài rất cứng rắn, “Dù ông có khóc, tôi vẫn muốn xuất gia!” Tuy tuổi đời còn nhỏ, nhưng Ngài thấy rõ được đạo lý của việc xuất gia, Ngài muốn xuất gia theo mẹ.

    Vì cha không nỡ để Cưu Ma La Thập xuất gia; tuy tuổi Ngài còn nhỏ, nhưng đã làm theo cách của mẹ, cũng không ăn cơm, không uống nước, nhất định đòi xuất gia: “Con muốn xuất gia theo mẹ, nếu không được, con quyết nhịn đói đến chết!” Cứ thế, nhịn đói được khoảng bốn năm ngày, cha nhìn thấy cũng đành bó tay, bèn cho phép Ngài xuất gia. Đây là nhân duyên xuất gia của Pháp sư Cưu Ma La Thập và mẹ của Ngài.

    Sau khi xuất gia, Cưu Ma La Thập học theo giáo pháp Tiểu thừa; Ngài bái một vị sư phụ làm thầy, người đó là ai? Chính là Bàn Đà Đạt Đa (Bandhudatta), còn gọi là Bàn Đà Bồ Đạt Đa. Mỗi ngày Pháp sư Cưu Ma La Thập đọc tụng một ngàn bài kệ; mỗi một bài kệ có ba mươi sáu chữ, một ngàn bài kệ có tổng cộng là ba vạn sáu ngàn chữ. Quý vị xem, một ngày Cưu Ma La Thập La Thập học thuộc nhiều chữ như thế đấy. A! Ba vạn sáu ngàn chữ, nhiều gấp ba mươi mấy lần “Chú Lăng Nghiêm”, “Chú Lăng Nghiêm” có một ngàn hai trăm ba mươi mấy chữ. Pháp sư Cưu Ma La Thập mới bảy tuổi mà một ngày học thuộc tụng ba vạn sáu ngàn chữ; quý vị nghĩ xem, với tài trí nầy, nếu đem mỗi người chúng ta ra so sánh thì như thế nào? Bây giờ mỗi ngày chúng ta đọc, học hai mươi bốn chữ Hán; hôm sau hỏi đến lại không nhớ đó là chữ gì. Pháp sư Cưu Ma La Thập một ngày học thuộc ba vạn sáu ngàn chữ, quý vị nói xem, nếu so với Ngài, làm sao chúng ta có thể bì được?

    Với sức học mỗi ngày ba vạn sáu ngàn chữ như thế, Pháp sư Cưu Ma La Thập nhanh chóng học hết tất cả Phật nói kinh điển Tiểu thừa. Sau đó Ngài lại học tất cả các kiến thức thế gian như y thuật, bói toán, chiêm tinh, tướng số (y, bói, tinh, tướng). Y, chính là sách y dược, y học. Bói, là bói quẻ. Tinh, là y theo phương vị vì sao người đó sanh ra để xem vận mệnh của người đó thế nào? Cuộc đời của người đó ra sao? Tướng, chính là “tướng mạo”, xem xem phần tướng nào của diện mạo là tướng sang quý? phần tướng nào là tướng không sang quý? Tướng mạo người giàu sang ra sao? Tướng mạo người nghèo hèn như thế nào? Đó là xem tướng. Cưu Ma La Thập học hết y, bói, tinh, tướng và tất cả học vấn thế gian.

    Sau khi học xong kinh giáo Tiểu thừa và tất cả tri thức thế gian, Cưu Ma La Thập theo mẹ đến Ấn Độ học tập kinh điển Đại thừa. Vì mẹ Ngài hiểu rằng vốn là em gái của quốc vương, nên sau khi xuất gia, quận chúa sẽ được cúng dường vô số, chỗ nầy cúng dường tiền, chỗ kia cúng dường thực phẩm. Suốt ngày được cung phụng đầy đủ, bản thân quận chúa không muốn được hưởng thụ như thế, nên phát nguyện đến Ấn Độ--nơi Phật ra đời để học tập Phật pháp và chiêm bái các nơi, thế là quận chúa dẫn Cưu Ma La Thập cùng đi Ấn Độ.

    Sau khi Pháp sư Cưu Ma La Thập đến Ấn Độ, liền theo Phật giáo Đại thừa học tập Phật pháp Đại thừa. Trước kia Ngài học Tiểu thừa, cảm thấy kinh điển Tiểu thừa rất vi diệu; về sau tiếp xúc với pháp môn Đại thừa, mới biết đây là vi diệu trong vi diệu, cảnh giới trong Phật giáo Đại thừa là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

    Do sau khi mới vừa xuất gia, Pháp sư Cưu Ma La Thập đã thông minh, lại không lười biếng—vì thông minh nên học tập kinh điển rất nhanh; vì không lười biếng nên học vấn rất rộng. Nếu như chỉ thông minh mà lười biếng thì không thể học rộng như thế; nếu như chỉ siêng năng mà không thông minh, cũng không học được nhiều. Vì Ngài đã thông minh lại thêm cần mẫn, nên học tập kinh điển rất nhanh, nhanh vô cùng. Đây là quá trình học Phật pháp của Pháp sư Cưu Ma La Thập.

    Khi học xong kinh giáo Đại thừa, La Thập bèn trở về nước Quy Tư hoằng pháp, giáo hóa chúng sanh. Vì Pháp sư thông minh như vậy, cần mẫn như vậy, nên mọi người đều biết tiếng. Số là ở một nước kia có một vị luận sư—là một người chuyên môn dùng lời nói, lý lẽ tranh luận đạo lý với người khác; vị luận sư nầy tự cho rằng trên thế gian nầy không ai có thể thắng nổi mình, liền gióng trống lệnh; khi ông đánh trống lệnh (vương cổ) nầy, rất nhiều người biết rằng chắc chắn có việc, đều đến nghe ngóng. Vị luận sư tuyên bố với mọi người rằng: “Bất kể người nào, luận sư nào, pháp sư biện luận nào, ở nước nào tới, nếu như có thể biện thắng được tôi, tôi sẽ tự chặt đầu mình dâng lên, tôi sẽ dùng đầu mình dâng làm lễ vật cảm tạ người đó.” Quý vị xem, trường hợp nầy cũng giống như tôn giả Ma Ha Câu Hy La, cậu của tôn giả Xá Lợi Phất, đã cam kết với Đức Phật—bất luận ai nói đạo lý gì, nếu có thể làm cho ông không còn gì để nói, ông sẽ tự cắt đầu mình.

    Bấy giờ, nhằm lúc Cưu Ma La Thập đi qua đất nước nầy, liền hỏi vị luận sư kia hai điều; luận sư cứng họng không nói được lời nào. Không còn gì để nói, mà chặt đầu thì không dám, nên luận sư bái Pháp sư Cưu Ma La Thập làm thầy, theo Ngài học đạo.

    La Thập về đến nước Quy Tư, quốc vương Quy Tư cậu của Ngài cũng tin Phật pháp, rất mực cung kính Pháp sư, dùng vàng ròng làm tòa sư tử, thỉnh Pháp sư Cưu Ma La Thập đăng đàn thuyết pháp. Nhưng bấy giờ Pháp sư có một mục đích khác, Ngài muốn đi độ vị thầy Tiểu thừa của mình, vì có rất nhiều người tin theo vị thầy nầy. Nếu như độ được thầy mình, cũng đồng với việc độ được rất nhiều người học tập Phật giáo Đại thừa.

    Cho nên khi quốc vương xây tòa cho pháp sư, ngài đã có hoạch định sẽ đi đến các quốc gia khác; nhưng nếu đi như thế sẽ khiến cho quốc vương có ấn tượng không tốt. Ấn tượng không tốt như thế nào? “Cậu đối xử với cháu tốt như thế, tạo tòa sư tử cho cháu, cũng không thể giữ được cháu ở lại đất nước nầy. À! thì ra cháu không có chút cảm tình nào đối với cậu cả!”

    Vừa đúng lúc Cưu Ma La Thập muốn đi gặp vị thầy Tiểu thừa của mình thì thầy của Ngài lại đến nước Quy Tư. Giống như hải quan bây giờ, có người đến báo: “Có vị Pháp sư Ấn Độ tên Bồ Đạt Đa, là thầy của Pháp sư Cưu Ma La Thập, Ngài hiện đang đến nước của chúng ta.” Thế là quốc vương Quy Tư và Pháp sư Cưu Ma La Thập ra ngoài thành nghinh tiếp vị thầy Tiểu thừa nầy.

    Khi nghinh tiếp, quốc vương hỏi tôn giả Bồ Đạt Đa: “Ngài có việc gì mà từ xa đến đất nước chúng tôi?” Tôn giả Bồ Đạt Đa trả lời: “Thứ nhất, tôi nghe nói quốc vương tin tưởng Phật pháp, cung kính Tam Bảo, cho nên tôi đến để gặp mặt quốc vương. Thứ hai, tôi nghe nói Pháp sư Cưu Ma La Thập bây giờ Phật pháp cao thâm, nên tôi đến thăm.” Quốc vương thỉnh tôn giả vào nội thành nước Quy Tư, ở chung với Pháp sư Cưu Ma La Thập.

    Pháp sư Cưu Ma La Thập vốn muốn đi độ sư phụ, bây giờ sư phụ đến rồi, Ngài liền giảng cho sư phụ nghe “Kinh Đức Nữ Sở Vấn”, “Kinh Đức Nữ Sở Vấn” là giáo lý của Phật giáo Đại thừa.

    Giảng xong, sư phụ liền hỏi Ngài: “Con cảm thấy giáo pháp Đại thừa có lợi ích gì? Có chỗ nào đặc biệt? Con bỏ Tiểu thừa, học theo Đại thừa, giáo pháp Đại thừa chỉ giảng về “không”, không là không có gì cả, vậy con học giáo pháp đó có lợi ích gì? “Không”, vốn tất cả đều không, hà cớ gì phải học?

    Pháp sư Cưu Ma La Thập nói: “Nhờ trong cái “không” nầy mới có cái “hữu”, bên trong chân không mới có diệu hữu, diệu hữu cũng chính là chân không. Giáo pháp Đại thừa mới là giáo pháp rốt ráo triệt để, không nhiều danh tướng như Tiểu thừa, không câu nệ, kềm kẹp, làm cho không được giải thoát, quá cứng nhắc!”

    Sư phụ Ngài liền bảo: “Con nói đạo lý nầy, sư phụ cũng có một thí dụ. Thí như có một người điên, mời người thợ dệt lụa đến bảo anh ta dệt lụa. Tấm vải dệt xong, đưa cho người điên xem, người điên chê vải dệt quá thô, lại gọi thợ dệt đến, bảo dệt mịn hơn. Người thợ dệt mịn hơn, dệt rất nhiều lần, dệt đến sợi tơ tinh nhuyễn vô cùng; nhưng người điên nầy cũng không vừa ý, luôn miệng nói còn thô, chê thợ dệt tay nghề không điêu luyện. Bác thợ dệt liền nghĩ cách gạt người điên, bác chỉ tay lên trời bảo người điên rằng: “Chẳng phải anh nói tôi dệt thô sao? Sợi bông mịn nhất của tôi đang ở trên không kia kìa.”

    Người điên nhìn lên trời cãi lại: “Đâu có đâu! Trên trời chẳng có sợi tơ nào cả!” Bác thợ dệt giải thích: “Sợi tơ trên trời rất nhuyễn, vì nó quá nhuyễn, ngay cả tôi là thợ dệt còn không thể nhận ra, anh không trong nghề, đương nhiên là không nhìn thấy rồi!” Người điên nghe xong, cho là có lý, liền thưởng cho bác rất nhiều tiền để đáp tạ. Từ đó trở đi, những người thợ dệt khác cũng dùng chiêu thức nầy gạt người điên kia: “Sợi bông nầy của tôi đang ở trên trời kìa! Nó mịn nhất đấy!” Người điên lại thưởng cho rất nhiều tiền; người nầy rồi đến người kia đều làm như thế. Con giảng pháp Đại thừa nầy cũng giống như vậy; nói là “không”, lại nói trong “không” có “diệu hữu”, chỉ là không nhìn thấy mà thôi! Cách nói nầy cũng giống như bác thợ dệt kia.”

    Pháp sư Cưu Ma La Thập thưa: “Không phải vậy đâu ạ!” Và lại nói rất nhiều diệu lý Đại thừa cho sư phụ nghe; thầy trò biện luận qua lại suốt một tháng trời, Cưu Ma La Thập mới thuyết phục được vị thầy Tiểu thừa của mình.

    Lúc nầy Tôn giả Bàn Đà Bồ Đạt Đa đã hiểu rõ được lý “chân không diệu hữu” của Đại thừa. Sau khi hiểu rõ rồi, tôn giả như thế nào? Tôn giả nói: “Bây giờ sư phụ phải bái con làm thầy!” Cưu Ma La Thập không chịu: “Không thể thế được! Lúc trước con đã bái thầy làm sư phụ, giờ làm sao thầy có thể bái con làm sư phụ chứ?”

    Tôn giả Bàn Đà Bồ Đạt Đa nói: “Thầy là sư phụ Tiểu thừa của con, con là sư phụ Đại thừa của thầy; mỗi người đều có thầy, mỗi người đều có thừa của mình, không hề chi!” Sư phụ đã đưa ra giải pháp như thế, Pháp sư Cưu Ma La Thập không còn gì để nói, bèn đồng ý thâu nhận sư phụ làm đồ đệ.

    Quý vị thấy không, người xưa vốn không chấp ngã! Không chấp ngã, chứng tỏ tôn giả đã thông suốt được; nếu như tôn giả không thông suốt thì sao? “Ồ! Anh giảng cao thật, nhưng vẫn là đệ tử của tôi!” Tôn giả sẽ không bái ngược lại đệ tử, tôn làm sư phụ mình. Điều nầy đủ để chứng minh người xưa không có chấp ngã, chỉ lấy đạo làm thầy; nếu đạo đức của anh cao hơn tôi, tôi sẽ bái anh làm sư phụ. Người xưa là thế, không có quan niệm giai cấp, không phân biệt ta - người. Có thể nói là “không có tướng ngã, không có tướng nhân”, chỉ người hoàn toàn không có chút chấp ngã, mới có thể làm được việc như thế.

    Khi Pháp sư Cưu Ma La Thập ở tại nước Quy Tư, có một lần thời tiết vô cùng khô hạn; rất lâu, rất lâu trời không mưa, Pháp sư liền hiển lộ thần thông, lập đàn cầu mưa, và dự đoán rằng: “Trong vòng ba ngày, nhất định sẽ có mưa”. Quả nhiên chưa đến ba ngày, trời đã đổ mưa; điều đó làm cho mọi người càng thêm tín ngưỡng Pháp sư. Đương thời, quốc vương các nước đều rất mực cung kính Cưu Ma La Thập, họ muốn thỉnh Ngài đến nước mình thuyết giảng kinh pháp. Mỗi quốc vương thể hiện lòng cung kính đối với Pháp sư như thế nào? Bấy giờ có Sa Lặc vương thỉnh Cưu Ma La Thập thăng tòa giảng kinh; để biểu hiện thành tâm của mình, quốc vương đợi đến giờ thuyết pháp, liền nằm dài tại pháp đường, dùng thân mình làm tòa, thỉnh Pháp sư ngồi lên. Quốc vương Sa Lặc đã thể hiện lòng cung kính cúng dường như thế đó. Một vì vua dùng thân mình làm tòa, thể hiện lòng cung kính Pháp sư tột bực, đã cảm hóa được mọi người ai nấy đều năm vóc sát đất, đảnh lễ cúng dường Pháp sư Cưu Ma La Thập.

    Vì quốc vương cung kính Pháp sư như thế, nên nói: “Thượng hữu hảo giả, hạ tất hữu thậm yên giả”. Trên có vua tin yêu Phật pháp, dưới nhất định bá tánh càng tin tưởng Phật pháp hơn cả vua. Có một câu nói: “Quân tử chi đức, phong; tiểu nhân chi đức, thảo; thảo thượng chi phong, tất yển”. Nghĩa là đức hạnh của vua giống như gió; đức tính của bá tánh giống như cỏ; một trận gió lùa qua, cỏ đều rạp xuống. Rạp xuống ở đây, không phải là ngã rạp xuống đất, mà ý muốn nói bá tánh càng phục tùng hơn.

    Cho nên đương thời Pháp sư Cưu Ma La Thập không chỉ hoằng dương Phật pháp trong phạm vi nước Quy Tư, mà còn đến các nơi trên toàn nước Ấn Độ; mỗi nước đi qua, Ngài đều nhận được sự cung kính cúng dường của mọi người.

    Khi Pháp sư Cưu Ma La Thập còn nhỏ, đi tham học khắp nơi với mẹ, hai mẹ con đã từng gặp được một vị La hán ngộ đạo. Vị La hán nầy vừa nhìn thấy La Thập đã bảo với mẹ của Ngài: “Cô hãy chăm sóc tốt cho vị sa di nhỏ nầy của cô! Cậu bé không phải là một tiểu sa di bình thường. Nếu như qua ba mươi sáu tuổi không hề phạm giới, thì cậu bé sẽ hóa độ được rất nhiều người giống như Tổ thứ tư Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta) tại Ấn Độ”. Đương thời khi hành đạo, Tổ Ưu Ba Cúc Đa ở trong một hang đá; mỗi khi độ được một người, Tổ đều bỏ một thẻ tre vào trong hang, đến nỗi đầy cả hang đá đựng toàn thẻ tre. Điều nầy có thể thấy, Tổ đã hóa độ được rất nhiều người!

    Vị La hán nói với mẹ của Cưu Ma La Thập như thế, mẹ Ngài cũng bảo lại với Ngài như vậy, bản thân Ngài cũng rất tin tưởng vào điều nầy. Về sau Ngài cùng mẹ đi tham học khắp nơi, mẹ Ngài chứng được tam quả A Na Hàm, liền quán sát nhân duyên của con, biết rằng nhân duyên của Ngài ở tại Trung Hoa, bèn bảo với Ngài rằng: “Chúng sanh con độ đều ở tại Đông Chấn Đán (Đông Chấn Đán chỉ Trung Hoa), nhưng đối với bản thân con thì quả là bất lợi”.

    Pháp sư Cưu Ma La Thập tỏ rõ quyết tâm của mình với mẹ: “chỉ cần có thể truyền bá Phật pháp đến Đông Chấn Đán, cho dầu con có tan xương nát thịt, hoặc nguy hiểm đến bản thân như thế nào, con cũng cam tâm tình nguyện. Phát tâm Bồ tát là vì chúng sanh chứ không phải vì mình, con chỉ muốn cống hiến cho Phật pháp, nếu có thể làm được điều gì đó có lợi cho đạo Phật, thì mạng sống nầy không đáng kể, dù có hy sinh bản thân, con cũng vui lòng! Dầu gặp phải muôn vàn gian khó, con cũng quyết không thay đổi ý định!” Quả nhiên về sau, Lữ Quang phụng mệnh đi rước Pháp sư Cưu Ma La Thập về Trung Hoa.

    Khi Pháp sư Cưu Ma La Thập ở Lương Châu, Lữ Quang có một quần thần thân tín nhất là Trương Tri. Trương Tri bệnh, có một kẻ lừa bịp thuộc Bà La Môn giáo đến xin trị bệnh. Tại sao gọi là lừa bịp? Vì y nói có thể trị được bệnh cho Trương Tri. Thế là Lữ Quang bỏ ra rất nhiều tiền mời y trị bệnh.

    Pháp sư Cưu Ma La Thập biết người nầy là kẻ lừa gạt, nên nói với Lữ Quang: “Tướng quân có bỏ ra bao nhiêu tiền, cũng không thể trị được bệnh của Trương Tri. Tôi có thể dùng một phương thức giải trí để chứng minh bệnh của Trương Tri sẽ không hết. Bây giờ tôi dùng sợi dây ngũ sắc, đốt thành tro, thả vào trong nước, nếu tro đó có thể phục hồi lại nguyên trạng sợi dây ngũ sắc, thì bệnh của Trương Tri sẽ không hết. Nếu tro thả vào nước không thể phục hồi lại nguyên trạng, thì bệnh của Trương Tri sẽ hết. Nếu tướng quân không tin, tôi sẽ thử nghiệm cho Ngài xem!” Pháp sư liền đốt sợi dây ngũ sắc, thả tro vào trong một bát nước, quả nhiên tro nổi lên, kết lại thành sợi dây ngũ sắc như cũ. Tuy thế, Lữ Quang vẫn tiếp tục trị bệnh cho Trương Tri, nhưng cuối cùng bệnh cũng không hết; chẳng bao lâu sau, Trương Tri chết. Lữ Quang đã tiêu hao rất nhiều tiền, mà không thâu về được chút kết quả nào. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn của Pháp sư Cưu Ma La Thập, thần thông diệu dụng nầy không phải người thường có thể biết được. Sự trãi nghiệm và thần thông diệu dụng của Pháp sư Cưu Ma La Thập, nói ra rất nhiều. Trước hết chúng ta chỉ biết đại khái như thế, khi dần dần nghiên cứu chuyên sâu vào Phật pháp, sẽ biết hết mọi chuyện một cách toàn diện, rõ ràng hơn.

    Đây là nhân duyên phiên dịch bộ “Kinh Pháp Hoa” của Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần.

    Pháp sư Cưu Ma La Thập lúc sinh thời phiên dịch Kinh điển được ba trăm quyển. Trước khi viên tịch, Pháp sư đã nói với mọi người: “Một đời tôi phiên dịch rất nhiều kinh điển, bản thân tôi cũng không biết có chính xác hay không? có sai sót gì không? Nếu như tôi dịch kinh điển đều đúng, không có sai sót, thì sau khi tôi chết, dùng lửa hỏa táng, thân nầy sẽ biến thành tro, duy chỉ cái lưỡi vẫn còn nguyên vẹn. Như thế sẽ chứng minh được tôi dịch những kinh điển hoàn toàn đúng, không có sai sót; còn như cái lưỡi bị thiêu thành tro, cũng đồng nghĩa tôi dịch những kinh điển đều là sai trái”.

    Đợi sau khi Pháp sư Cưu Ma La Thập viên tịch, cử hành lễ trà tỳ--dùng lửa hỏa táng, cái lưỡi quả nhiên vẫn còn nguyên vẹn, không chút xây xát. Điều nầy chứng minh Pháp sư Cưu Ma La Thập phiên dịch tất cả kinh điển hoàn toàn chính xác, hoàn toàn không có chỗ sai sót.

    Lại còn một minh chứng nữa là vào thời Đường Trung Hoa, ở núi Chung Nam có vị Luật sư tên Đạo Tuyên, chuyên tu trì về giới luật. Núi Chung Nam là một núi danh tiếng của Trung Hoa, trong núi có rất nhiều người ở đó tu đạo, lão hòa thượng Hư Vân cũng từng ở lều cỏ tại đây. Vị luật sư Đạo Tuyên nầy tinh tấn trì giới, cảm đến chư thiên xuống cúng dường thực phẩm; cơm Ngài dùng là do chư thiên cúng dường.

    Có một hôm, Luật sư Đạo Tuyên vì tuổi già, một hôm đi đường bị té ngã, con trai của Đa Văn Thiên Vương ở phương Bắc đến đỡ Ngài đứng dậy. Luật sư vừa nhìn biết ngay là chư thiên đến giúp mình, bèn hỏi rằng: “Tại sao người đời đều thích đọc tụng kinh điển do Pháp sư Cưu Ma La Thập phiên dịch, đây là vì lẽ gì?” Con trai Thiên Vương trả lời: “Pháp sư Cưu Ma La Thập là vị thầy dịch kinh cho bảy đời chư Phật trong quá khứ, kinh điển bảy đời chư Phật trong quá khứ nói đều do Ngài phiên dịch. Vì Ngài đời đời kiếp kiếp đều phát nguyện: ‘Chỗ nào có Phật ra đời, tôi liền đến đó phiên dịch kinh điển!’ Kinh điển từ bảy đời chư Phật trong quá khứ cho đến ngày nay đều do Ngài phiên dịch. Cũng vì lẽ nầy mà kinh điển do Pháp sư phiên dịch không hề có chút sai sót!”

    “Bảy đời chư Phật trong quá khứ” là bảy vị nào? Một là Phật Tỳ Bà Thi, hai là Phật Thi Khí, ba là Phật Tỳ Xá Phù, bốn là Phật Câu Lưu Tôn, năm là Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, sáu là Phật Ca Diếp, bảy là đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta. Từ điểm nầy đủ để chứng minh kinh điển do Pháp sư Cưu Ma La Thập phiên dịch hoàn toàn chính xác.


    Vì vậy ngày nay chúng ta có thể hiểu được “Kinh Pháp Hoa”, giảng “Kinh Pháp Hoa”, nghe “Kinh Pháp Hoa” đều nhờ vào công đức của Pháp sư Cưu Ma La Thập. Nếu như không có Ngài phiên dịch, chúng ta không dễ gì nghe được Phật pháp. Cho nên bây giờ chúng ta, trước khi bắt đầu thời kinh đều phải khởi tâm cảm ân báo đức đối với Pháp sư Cưu Ma La Thập. Thế nào là cảm ân? Thế nào là báo đức? Chúng ta phải phát nguyện muốn hoằng dương Phật pháp, muốn tìm cách phiên dịch nhiều kinh điển, dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Anh. Phiên dịch nhiều kinh điển, chính là nối tiếp theo chí nguyện của Pháp sư Cưu Ma La Thập vậy.

    “Tam tạng” chính là ba tạng “Kinh, Luật, Luận”. Kinh là kinh tạng; Luật là Luật tạng; Luận là Luận tạng. Kinh, tiếng Phạn là “Tu đa la”, dịch ra tiếng Trung Hoa là “khế kinh”. Khế là khế hợp; Kinh là pháp thường hằng. Khế hợp là “trên khế hợp với chân lý của chư Phật, dưới khế hợp với căn cơ chúng sanh”, khế hợp với tất cả cơ duyên của chúng sanh, nên gọi là “khế kinh”. Có nghĩa là, kinh điển y như diệu lý của chư Phật, nên rất thích hợp với căn cơ của chúng sanh, có thể dùng kinh điển để giáo hóa chúng sanh. Trong kinh bao hàm cả tam học “Giới, Định, Tuệ”. Định chính là định lực; Luật là giới luật. Giới luật có năm giới; tám giới; mười giới Sa Di; mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh của Bồ Tát; hai trăm năm mươi giới của Tỳ Kheo; ba trăm bốn mươi tám giới của Tỳ Kheo Ni.

    “Pháp sư”: pháp là Phật pháp; sư là sư biểu. “Sư biểu” là người có thể làm gương mẫu, mô phạm, pháp tắc tốt cho người, còn gọi là “sư phạm”. “Pháp sư”, có khi nói là “dĩ pháp thí nhân”, đem Phật pháp bố thí cho tất cả chúng sanh, nên gọi là “Pháp sư”. Lại có một cách nói khác “dĩ pháp vi sư”, lấy Phật pháp làm thầy của mình, cũng gọi là “Pháp sư”. Pháp sư có rất nhiều loại, hiện tại chúng ta chỉ biết đại khái ý nghĩa như thế là được rồi.

    “Cưu Ma La Thập”: Vị Pháp sư nầy là ai? Là Pháp sư Cưu Ma La Thập. “Cưu Ma La Thập” là tiếng Phạn, dịch ra tiếng Trung Hoa là “đồng thọ”. Đồng là đồng tử, tức là một đứa bé, một đứa bé trai, young boy. Thọ là thọ mạng. Thọ có trường thọ, đoản thọ và yểu thọ; “thọ” ở đây chính là “trường thọ, long life”, “người già”. Ý nói Cưu Ma La Thập tuy là một đứa bé trai, nhưng lại có phong độ, đức hạnh, tư tưởng của một bật trưởng giả , nên gọi là “đồng thọ”. Có phải dịch như vầy: “Young boy has a long life" không? Không phải! Vậy dịch như thế nào? Đứa trẻ nầy không phải là thọ mạng của nó dài, mà là có đức hạnh của một bật trưởng giả , nên mới gọi là “đồng thọ”. Đây là tên chữ của Pháp sư Cưu Ma La Thập.

    “Dịch” là “phiên dịch”, “biện dịch”. Kinh sách bằng tiếng Ấn Độ phiên dịch ra tiếng Trung Hoa, ý nghĩa của kinh được dịch ra tiếng Hán cũng giống như ý nghĩa của kinh bằng tiếng Phạn. Cho nên ý nghĩa kinh Phật tiếng Trung Hoa và ý nghĩa kinh Phật của tiếng Phạn Ấn Độ đều giống nhau.

    Tại sao lại để tên người dịch phía trước kinh? Vì đương thời nếu như không phải Pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trung Hoa, đề xướng việc phiên dịch kinh điển, thì kinh điển sẽ không truyền đến Trung Hoa nhanh như thế; vì để lưu lại công đức của Pháp sư Cưu Ma La Thập cho mọi người ghi nhớ, tưởng niệm, nên mới để tên Ngài phía trước kinh. Việc làm nầy có nhiều ý nghĩa, một mặt để tưởng niệm công đức của Pháp sư, mặt khác muốn Pháp sư Cưu Ma La Thập lãnh lấy trách nhiệm, nếu có chỗ nào sai sót, phiên dịch không đúng thì tự Ngài nhận lấy quả báo của việc mình làm. Vì thế nên mới đề tên của Pháp sư Cưu Ma La Thập phía trước kinh để người đời sau luôn ghi nhớ, không bao giờ quên công đức phiên dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập.

    Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải
    Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)
    [/QUOTE]
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  3. #63

    Mặc định



    TRUYỆN NGƯỜI NIỆM PHẬT VÃNG SANH CỰC LẠC

    1. Thiên chúng đến đón chẳng đi

    Ðại sư Tăng Tạng đời Ðường, người xứ Tây Hà. Tuổi nhỏ xuất gia, nép mình thờ người, hết thảy cung kính, chẳng từ lao khổ. Thấy tăng y của người khác liền giặt giũ giùm, rồi lại vá chằm. Ngày nắng gắt, sư cởi áo ngồi trong đám cỏ để thí máu thịt cho các loài muỗi, ve.

    Hằng ngày, ngài niệm Phật hiệu chẳng cần ghi số, chỉ nhớ rõ trong tâm, chưa hề thiếu sót. Ðến khi báo tận, thấy chư thiên theo thứ tự đến đón, ngài đều chẳng theo. Ngài chợt bảo mọi người:

    – Vừa về Tịnh Ðộ, thấy các thượng thiện nhân rải hoa trên không.

    Rồi chắp tay niệm Phật mà hóa.

    (theo Cao Tăng Truyện, tập 3)

    * Ðại sư Thiện Ngang đời Ðường, người Ngụy Quận. Chí kết Tây Phương, nguyện sanh An Dưỡng. Sau ngài ngụ tại chùa Báo Ứng, biết đã đến lúc bèn bảo trước những người hữu duyên: đầu tháng Tám sẽ chia tay. Ðến kỳ, ngài lên tòa cao, lư tỏa mùi hương lạ, dẫn tứ chúng thọ Bồ Tát giới, dạy dỗ những điều thiết yếu. Chợt thấy thiên chúng rộn ràng, đàn sáo véo von. Ngài bảo đại chúng:

    – Trời Ðâu Suất Ðà đến đón ta; nhưng Thiên đạo chính là căn bản sanh tử, chẳng phải chỗ ta ước mong. Lòng thường mong sanh về Tịnh Ðộ, nguyện này chẳng được thỏa hay sao?

    Nhạc trời bỗng bặt tiếng. Từ trời Tây, hương, hoa, âm nhạc vùn vụt kéo đến, xoay quanh trên đỉnh đầu, toàn thể mọi người đều thấy. Sư bảo:

    – Nay tướng lành Tây Phương đến đón. Ta đi đây.

    Nói xong liền tịch, thọ sáu mươi chín tuổi.

    (theo Cao Tăng Truyện, tập hai)

    Nhận định:

    Lúc lâm chung, tứ đại chia lìa là lúc nào vậy? Chư Thiên lần lượt đến đón là cảnh nào đây? Nếu chẳng phải là bậc tín nguyện kiên cố thì ngay trong lúc đó, đối trước cảnh ấy làm sao cưỡng làm chủ tể nổi? Ðây đúng thật là gương sáng thiên cổ cho những kẻ tu Tịnh nghiệp vậy. Nếu không, một phen sanh lên trời sẽ lại đọa trong luân hồi. Xin đừng lầm tin ngoại đạo cầu sanh Thiên Quốc.

    2. Lấy việc lợi lạc chúng sanh làm đầu

    Ðại sư Tự Giác đời Ðường, người xứ Bác Lăng. Xuất gia từ nhỏ, học Kinh, Luật, Luận siêng năng suốt cả chín năm, kinh luận nào cũng đều hiểu sâu sắc. Sau ngài trụ tại Trùng Lâm Sơn Viện trong núi Bình, nhặt quả, hái rau, ngày chỉ ăn một bữa, phát tâm đúc tượng đức Ðại Bi Quán Âm và dựng chùa Phật.

    Gặp lúc đại hạn, tiết độ sứ xứ Hằng Dương là ông Trương thỉnh ngài cầu mưa. Ngài kiền thành khẩn cáo long thần, mưa to liền đổ xuống. Do đó, thí chủ chen nhau tụ về, đúc được tượng cao bốn mươi sáu thước, chùa cũng dựng xong.

    Ngài liền đối trước đàn, thệ nguyện nương nhờ Thánh lực sớm sanh Tịnh Ðộ. Chợt thấy hai đạo kim quang: A Di Ðà Phật và hai vị Ðại Sĩ từ trong quang minh giáng xuống, xòe tay sắc vàng xoa đầu sư, bảo:

    – Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu. Sanh chốn ao báu mặc tình thỏa nguyện.

    Về sau, chợt thấy thần nhân đứng trong mây hiện nửa thân, bảo:

    – Thời kỳ sư quy Tây đã đến rồi!

    Ngài liền ngồi xếp bằng trước tượng Quán Âm mà hóa.

    (theo Cao Tăng Truyện, quyển 3)

    Nhận định:

    Phàm những việc như: tạo tượng, lập chùa, cầu mưa lợi người v.v… đều là những trợ duyên cho Tịnh nghiệp. Ðem những việc ấy hồi hướng Tây Phương. Do làm được như vậy nên Phật dạy: “Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu”. Nếu như ngài chẳng có mật hạnh niệm Phật, làm sao cảm được đức Phật đến xoa đầu?

    3. Kết xã khích lệ lẫn nhau

    Ðại sư Tạo Vi Tỉnh Thường đời Tống là Tổ thứ bảy của Liên Tông. Ngài họ Nhan, người huyện Tiền Ðường. Bảy tuổi xuất gia, mười bảy tuổi thọ Cụ Túc Giới. Ngài lấy việc kiên trì giới luật, chuyên xưng danh hiệu, phát Bồ Ðề tâm, kết xã để khích lệ lẫn nhau làm chánh nhân Tịnh Ðộ.

    Ngài trụ tại chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu, hâm mộ di phong Lô Sơn của Tổ Huệ Viễn nên thành lập Tịnh Hạnh Xã. Trong nhóm sĩ phu dự hội có quan Tướng Quốc Văn Chánh Vương Công Ðán v.v… một trăm hai mươi người đều xưng là Tịnh Hạnh Ðệ Tử, còn Tăng thì có đến một ngàn vị đồng tu Tịnh nghiệp.

    Ngài cắt máu chép kinh phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày chép một chữ, ba lạy, nhiễu ba vòng, ba lượt xưng danh hiệu Phật. Chép được ngàn quyển, thí cho ngàn người. Ngài dùng chiên đàn hương khắc tượng Phật Vô Lượng Thọ, quỳ trước tượng, phát nguyện:

    – Con cùng đại chúng bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi phát Bồ Ðề tâm. Cho đến cùng tột đời vị lai, hành hạnh Bồ Tát. Nguyện hết một báo thân này sẽ sanh An Dưỡng

    Một hôm, trong lúc ngồi nghiêm trang niệm Phật, ngài chợt kêu to: “Phật đến rồi!”, tự nhiên hóa. Ðại chúng thấy đất đều có màu vàng ròng. Sư thọ sáu mươi hai tuổi.

    (Theo Phật Tổ Thống Ký)

    Nhận định:

    Kết xã khích lệ lẫn nhau đúng là tự lợi, lợi tha. Nhưng để thực hành được điều này trong hiện tại, phải có bậc hữu đức thống suất đại chúng cộng tu, rất kỵ nam nữ hỗn tạp. Nếu không có được cơ duyên như vậy thì chẳng bằng đóng cửa tiềm tu, so ra còn dễ tinh tấn hơn!

    4.Chuyên tâm niệm Phật

    Ðại sư Hám Sơn Trừng Ấn Ðức Thanh đời Minh, là con nhà họ Thái ở Kim Lăng. Năm mười chín tuổi xuất gia, chuyên tâm niệm Phật, mộng thấy Phật A Di Ðà hiện thân trên không, quang tướng phân minh.

    Từ đấy, thánh tượng sáng rực rỡ luôn hiện diện trước mắt ngài. Sau ngài đến Ngũ Ðài tu Ðịnh, phát minh được bổn tâm sẵn có. Ngài cắt máu chép kinh Hoa Nghiêm, mỗi một nét bút hạ xuống là một câu niệm Phật. Lâu dần, động tịnh hệt như nhau.

    Sau ngài ẩn cư trong Lao Sơn là chỗ bọn ngoại đạo sanh sống. Thoạt đầu, chẳng có ai nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng lâu sau, ai nấy đều biết niệm Phật. Lý Thái Hậu hạ lệnh chở vàng đến dựng chùa, ban tấm biển đề tên chùa là Hải Ấn. Vua giận dữ, sai đầy ngài đi Lôi Châu. Nhân đấy, ngài trùng hưng tổ đình Tào Khê.

    Về sau, ngài được vua hạ chiếu tha cho về, bèn kết am trong Lô Sơn, tu Tịnh Nghiệp càng thêm chuyên gắng. Ngài đột ngột đi về Tào Khê, thị hiện bịnh nhẹ, tắm gội, thắp hương, bảo đồ chúng rằng:

    – Hãy nghĩ tới việc lớn sanh tử, vô thường mau chóng.

    Ðoan tọa mà tịch, có quang minh chiếu rực tận trời, thọ bảy mươi tám tuổi, nhục thân hiện vẫn còn.

    (theo Mộng Du Tập)

    Nhận định:

    Thánh tượng thường hiện, động tịnh nhất như thì đúng là tu hành Tịnh Nghiệp thật tinh cần. Vì chẳng chứng đắc chút ít đã cho là đủ nên nhục thân của ngài tồn tại vĩnh viễn. Xét ra, ắt ngài phải sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh nơi Thật Báo Tịnh Ðộ hoặc Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ trong thế giới Cực Lạc.

    5. Bỏ Thiền tu Tịnh

    Ðại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh là Tổ thứ chín của Liên Tông. Ngài họ Chung, người Ngô Huyện. Lúc tuổi trẻ, tự lấy việc học Nho làm trách nhiệm, viết sách bác Phật. Ðến khi ngài đọc được tác phẩm Trúc Song Tùy Bút của tổ Vân Thê bèn đốt những sách mình đã viết.

    Năm hai mươi tuổi, nhân đọc kinh Ðịa Tạng bèn phát chí xuất thế, hằng ngày tụng danh hiệu Phật. Năm hai mươi bốn tuổi, nghe pháp sư Cổ Ðức giảng kinh, nghi tình chợt phát, dụng tâm tham cứu, chứng ngộ rỗng rang. Ngài liền bế quan ẩn tu ở Ngô Giang. Bị bịnh gần chết, ngài mới nhất ý cầu sanh Tịnh Ðộ.

    Lúc bịnh giảm chút ít, ngài bèn kết đàn trì chú Vãng Sanh bảy ngày. Sau đấy, ngài ẩn tu tại Linh Phong, trước thuật những tác phẩm xiển dương Tịnh Ðộ được lưu truyền rộng rãi.

    Ngài chợt thị hiện có bịnh, dặn dò sau khi trà tỳ hãy đem tro ngài hòa với bột đem thí cho các loài chim, cá để chúng được kết duyên Tây Phương. Sau đó, khi bịnh đã khỏi hẳn, ngài bèn ngồi xếp bằng, hướng về Tây, giơ tay lên mà tịch, thọ năm mươi bảy tuổi.

    Ba năm sau, mở khám đựng nhục thân của ngài ra, tóc đã mọc dài phủ tai, vẻ mặt vẫn như lúc sống; môn nhân chẳng nỡ tuân theo di mạng nên lập tháp thờ ở Linh Phong.

    (theo Linh Phong Tông Luận)

    Nhận định:

    Gặp lúc bịnh gần chết mới bỏ Thiền tu Tịnh. Sách Niệm Phật Trực Chỉ viết:

    “Tinh tấn là chẳng vì chút bịnh duyên nhỏ hay lớn mà biếng nhác cái hạnh. Nếu như bị túc nghiệp sai sử thì nên tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Ðà Ra Ni. Trì một lần, diệt được tất cả các tội: ngũ nghịch, thập ác nơi thân. Trì được ba mươi vạn biến, quyết sẽ sanh về Tịnh Ðộ”.

    Kinh Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú có nói:

    “Nếu tụng được chú này thì A Di Ðà Phật thường ngự trên đảnh người ấy, ngày đêm ủng hộ chẳng để cho oán gia có dịp hãm hại. Hiện đời thường được an ổn; lúc mạng sắp hết, tùy ý vãng sanh”.

    Vì thế, lúc ngài vừa bớt bịnh liền kết thất trì chú bảy ngày. Những người ham Thiền Tịnh Song Tu hãy bắt chước ngài lấy việc chuyên tu làm trọng.

    6. Làm việc nặng vẫn niệm Phật không gián đoạn

    Ðại sư Cụ Hạnh Nhật Biện thời Dân Quốc, người huyện Hội Lý ở Vân Nam. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải đi ở rể nhà họ Tăng ở Diêm Nguyên, sanh được hai con trai. Nhà nghèo, ngài phải làm thuê cho Chúc Thánh ở núi Kê Túc. Năm hai mươi mốt tuổi, ngài dẫn cả nhà tám người xin đi xuất gia, thọ Cụ Túc.

    Hòa Thượng Hư Vân dạy ngài tu pháp môn Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Ðộ. Ngài bèn dứt bỏ các duyên, nhất tâm hệ niệm. Ngài tai điếc, mặt mũi xấu xí, không biết chữ, ngày trồng rau, đêm lễ bái, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát.

    Rảnh rỗi thì tập tịnh tọa, học khóa tụng và các kinh điển, tự siêng gắng hết sức. Sư vừa đi tham bái tứ đại danh sơn trở về đất Ðiền (Vân Nam), gặp lúc ngài Hư Vân trùng hưng chùa Vân Thê, hỏi:

    – Thầy đã đi thăm quyến thuộc chưa?

    Sư thưa:

    – Con chẳng bận tâm đến họ.

    Hòa Thượng lại hỏi:

    – Thầy tính làm gì?

    Thưa:

    – Những việc nặng nhọc nhất không ai chịu nổi, con sẽ gánh vác.

    Phàm là những việc nặng như đắp tường, lợp nhà, trồng rau, trồng cây, vác đá, đào đất, quét tước, nấu nướng, ngài đều làm không lúc nào ngơi tay, nhưng không một khắc nào để câu niệm Phật bị gián đoạn.

    Khi đêm xuống, vào lúc chỉ tịnh, ngài bèn lễ các kinh Kim Cang, Dược Sư, các kinh Tịnh Ðộ; cứ một chữ là một lạy. Tảng sáng, hồng chung vừa gióng, đã lên điện tham dự khóa tụng như thường, chưa hề ngủ nghỉ. Ngài tự vá áo, hoặc chằm vá áo giùm bạn đồng tham, mỗi một mũi kim là một câu Phật hiệu.

    Trong kỳ hạn kết giới, được thỉnh làm Tôn Chứng, ngài bèn bán y, đem hết tiền mua sắm vật dụng để thiết trai cúng dường đại chúng. Hỏi ngài sẽ đi đâu, chỉ cười không nói. Giới đàn hoàn tất, ngài ngầm lên điện sau cùng, ngồi xếp bằng, hướng về Tây niệm Phật, dùng lửa tự thiêu, thọ ba mươi sáu tuổi. Hình trạng vẫn như lúc sống, mùi hương lạ lan tận ra xa.

    Ðại chúng tranh nhau đến xem, vừa đánh khánh, di thể ngài chợt sụp xuống, hóa thành tro.

    (theo Hư Vân Hòa Thượng Niên Phổ)

    Nhận định:

    Một chữ chẳng biết, nhưng lúc làm công việc nặng nhọc chưa hề gián đoạn niệm Phật. Chúng ta là những kẻ biết chữ đọc được sách, nếu cứ lơi là để uổng phí ngày tháng trôi qua há chẳng biết thẹn chăng?

    Nhưng tự thiêu là chưa đắc tam muội. Chớ nên manh nha vọng niệm như vậy để khỏi bị ma dựa phát cuồng, vĩnh viễn đọa trong ác đạo!

    7. Xả Quán niệm Phật

    Ðại sư Huệ Tam Tư Nguyên thời Dân Quốc, người huyện Uyển Bình tỉnh Hà Bắc. Năm mười bảy tuổi xuất gia. Ít lâu sau, thọ Cụ Túc, vào học trường Phật Giáo Học Hiệu tại tỉnh An Huy, nghiên cứu tinh tường nội điển.

    Ngài nhận trách nhiệm trụ trì chùa Sùng Thọ và Quảng Thiện ở Bắc Kinh. Ngài kiến lập, hưng khởi đạo tràng Hoa Nghiêm. Trước giờ Ngọ mỗi ngày, ngài tụng kinh Hoa Nghiêm. Cuối năm, ngài kết Hoa Nghiêm Phật Thất, lãnh đạo đại chúng huân tu pháp Chơn Không Pháp Giới Quán; từng đốn nhập Pháp Giới Ðịnh. Sau khi khai tịnh, mới ngộ được hư không pháp giới lý sự vô ngại, pháp hỷ tràn đầy, khen là chưa từng có.

    Từ đấy, ngài càng thêm tinh tấn, tu Quán chẳng lùi. Tháng Mười Một năm Dân Quốc thứ ba mươi bảy (1948), ngài đến Ðài Loan lúc bốn mươi tám tuổi, lãnh trọng trách giảng dạy tại Phật Học Viện chùa Viên Quang ở Trung Lịch. Năm sau, ngài đến Sở Giảng Dạy Học Tập Phật Học ở Tân Trúc giảng dạy Phật giáo, đồng thời giảng kinh ở chùa Nhất Ðồng suốt bảy năm.

    Sư thường sống tại các chùa ở Ðài Bắc, Nội Hồ, Nam Ðầu… để giảng kinh, độ chúng không đếm nổi. Năm năm mươi lăm tuổi, ngài sáng lập chùa Phước Huệ trên núi Linh Sơn ở xã Thọ Lâm, Ðài Bắc. Mỗi năm, vào tháng Bảy, ngài lập pháp hội Ðịa Tạng kéo dài bảy ngày, truyền U Minh Giới một lần. Mỗi năm, tại Ðài Loan, khi truyền tam đàn đại giới và giới tại gia, sư thường được suy cử vào một trong tam sư. Cả cõi âm lẫn dương gian đều được lợi, pháp hóa lợi ích vô cùng!

    Năm sáu mươi sáu tuổi, sư lại càng thêm thường tinh tấn, hằng khóa niệm Phật mỗi ngày là ba vạn câu. Năm tám mươi tuổi liền bắt đầu niệm Phật, tọa thiền cộng tu, và khởi xướng nghĩa chẩn cứu dân nghèo và thí thuốc trong khuôn viên nhà chùa; sáng lập thư viện để mọi người đến đọc sách; đề xướng, lo liệu việc giảng giải, học hỏi Phật học. Hạnh lẫn giải càng thêm sâu, phước huệ song tu.

    Sư từng đáp ứng lời thỉnh sang Mỹ hoằng pháp, qua Ðại Hàn truyền giới, người thọ giới lên đến hơn năm ngàn người. Giữa trưa ngày mồng Tám tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), sau khi dùng cơm, sư chợt nói:

    – Ta muốn đi đây!

    Liền triệu tập tất cả đệ tử trong chùa, dặn dò:

    – Sau khi ta mất, các con nên hợp tác với nhau.

    Sau bữa cơm chiều, ngài không bịnh gì, đang đứng mà hóa, thọ tám mươi sáu tuổi.

    (theo tạp chí Từ Vân số 126)

    Nhận định:

    Ðại Sư mỗi ngày tụng kinh Hoa Nghiêm, tu Chơn Không Quán, từng nhập Pháp Giới Ðịnh, từ đấy tu Quán chẳng lui sụt. Ðến năm sáu mươi tuổi, bắt đầu mỗi ngày hằng khóa niệm Phật ba vạn tiếng; đấy là bỏ Quán niệm Phật.

    Từ năm tám mươi tuổi trở đi, chợt lại tọa Thiền, niệm Phật cộng tu. Ðấy là tuổi già tịnh tọa niệm Phật, chứ chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu. Không bịnh, đang đứng mà hóa, nhất định phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.

    8. Chuyên cầu thoát khổ

    Thời Dân Quốc, một người phụ nữ nghèo ở huyện Từ Khê tỉnh Triết Giang, không biết họ, nhà nghèo, con ngỗ nghịch. Một ngày nọ bị con mắng nhiếc, tâm đau đớn, khó nhẫn, đến than thở với vị Tăng ở gần nhà. Vị Tăng bảo:

    – Bà đã biết khổ; sao chẳng đem cái khổ ấy bán đi?

    Hỏi:

    – Làm sao bán được đây?

    Tăng bảo:

    – Bà chuyên niệm A Di Ðà Phật cầu sanh Tây Phương. Lâm chung Phật đến tiếp dẫn đi thì vĩnh viễn thoát khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. Ðấy là bán khổ đi đó!

    Bà nói:

    – Mẹ con tôi sống chung một phòng. Giường và bếp kê chung một chỗ. Dưới gầm giường có chuồng heo. Bẩn thỉu như vậy làm sao niệm Phật được?

    Tăng bảo:

    – Không hề chi, bà sống tại gia thì chỉ cốt sao thường niệm, lúc rảnh có thể đến chùa lễ Phật.

    Bà liền phụng hành đúng như lời dạy, chuyên cầu thoát khổ, niệm Phật không gián đoạn. Ba năm sau, trước lúc sắp lâm chung vài tháng, bà nói trước với con:

    – Ngày tháng đó ta sẽ sanh Tây Phương. Ngươi đừng có đi ra ngoài, vì ta lo liệu hậu sự để trọn đạo làm con.
    Người con chẳng tin; ít lâu sau, bà nhắc lại cũng chẳng tin. Vài ngày trước khi mất, chợt ngửi thấy mùi hương lạ, tìm khắp nơi chẳng biết từ đâu ra, mới tin lời mẹ là thật. Ðến kỳ, cả nhà trông chừng, thấy mẹ tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời.

    (theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

    Nhận định:

    Dùng cái tâm sợ khổ để niệm Phật là pháp mầu nhiệm bậc nhất để thoát khổ. Nếu chẳng phải là nhà nghèo, con ngỗ nghịch, tâm đau buồn khó chịu đựng nổi thì làm sao cam tâm chuyên cầu thoát khổ niệm Phật sanh Tây? Thuận, nghịch đều là phương tiện; nghịch cảnh còn thù thắng hơn thuận!

    9. Dụng công mãnh liệt

    Cư sĩ Tiền Dực Sơn tự Vạn Dật đời Thanh, người huyện Thường Thục, làm nghề nấu rượu, thích chè chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu thịt, khuyên mẹ ăn chay trường niệm Phật.
    Một người con của ông bịnh lao, niệm Phật qua đời, mọi người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên, cự tuyệt người khuyên tục huyền:

    – Có con nhưng nó đã mất rồi, tôi cưới vợ nữa để làm gì? Chí tôi xuất thế, lẽ nào còn thèm thuồng có người nối dõi ư?

    Nhà cửa bị lửa cháy, ông hướng lên không, nguyện:

    – Nghiệp của tôi đáng bị lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại đến nhà hàng xóm.

    Lửa tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô hại. Ông chợt mắc bịnh thổ huyết, tâm sanh tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ. Ðến lúc bịnh nguy kịch, ăn vào là ói ra ngay. Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện cổ đức nhịn ăn để thấy Phật, ông vui vẻ bảo:

    – Có phương cách tiện lợi lớn như vậy, tôi phải dũng mãnh làm theo!

    Ông liền tắm gội, đến trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ: giữ trai giới bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðêm ngày niệm Phật chẳng sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi: “Cả đêm chẳng ngủ, chẳng mệt mỏi hay sao?” Ông nói:

    – Chẳng ngủ có lợi là niệm Phật được nhiều. Lúc tôi chưa bịnh chẳng được an nhàn; nay do bịnh mới được nhàn, đúng là lúc phải dốc sức, làm sao còn mệt nhọc được?

    Hết kỳ hạn, thần thức hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:

    – Lúc này, ngươi phát nguyện ấy thì cũng giống như đã đốt ngón tay rồi, chẳng bằng nhất ý cầu về Tây Phương thì hơn.

    Ông liền nhắm mắt niệm Phật, lúc đầu còn miễn cưỡng, sau do dụng công mạnh mẽ, dần dần thần chí an định. Lại được mười mấy người trợ duyên, tiếng niệm Phật liên tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh hiện tiền, quang minh, tướng hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe trên không có tiếng nói:

    – Thân ông chưa sạch!

    Ông liền sai lấy nước thơm tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền bảo người nhà rằng:

    – Tôi đã đến được Tịnh Ðộ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, sướng chẳng thể nói nổi!

    Ông chỉ vào thân mình bảo:

    – Ðây chẳng phải là thân ta!

    Một lát, lại bảo:

    – Phật đông nghẹt cả nhà!

    Ngồi hướng về Tây, qua đời, thọ ba mươi tám tuổi.

    (theo Tục Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

    Nhận định:

    Ðoạn được rượu thịt là tham độc đã hết. Bị cười chê chẳng đoái hoài là sân độc đã hết. Con chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn đã đoạn. Cự tuyệt lời khuyên lấy vợ lần nữa, chẳng mong có người nối dõi là si độc đã hết.

    Vì vậy, gặp phải nghịch cảnh, ông vẫn có thể chẳng thối thất cái tâm ban đầu; dù bịnh tật khổ sở vẫn giữ vững chánh niệm. Dù vì nghiệp chướng hiện tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có thể dụng công mạnh mẽ, lại được trợ duyên nên nhanh chóng cảm được tướng tốt lành là đài vàng, thần hồn ngao du cõi Sen, thật đáng làm gương vậy!

    10. Trợ niệm đắc lực

    Cư sĩ Dương Liên Hàng thời Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông Ðồng Giác Hàng tu Tịnh nghiệp, lâu ngày đối với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.
    Ông tham dự Liên Xã niệm Phật. Vì bị bịnh nên lại sát sanh, dần dần xa lìa các liên hữu. Sau bịnh nguy kịch, liên hữu bảo ông ắt phải chết. Tự xét mình không thể nào qua nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng sức đến trước Phật, tận tình bày tỏ, dốc lòng thành sám hối, lại giữ Ngũ Giới, thề chẳng tái phạm.

    Từ đấy trở đi, ông buông bỏ vạn duyên, quét sạch ái dục, nhất tâm thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên hữu biết công năng trì danh của ông nông cạn nên trước hết vì ông thỉnh người trợ niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông chợt thấy thần khí thanh sảng, mộng thấy quang minh. Ðến canh hai, liên hữu sắp ra về, chẳng biết rằng đến lúc đó, việc trợ niệm đã có hiệu lực. Ông liền bảo:

    – Tôi chưa đến được Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm Phật trợ niệm suốt đêm, đừng để lỡ!
    Mọi người lại cao giọng niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông mỉm cười bảo:

    – Tôi nay đã đến Tây Phương rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh đẹp quá!

    Mắt ông nhìn chăm chú vào tượng Phật mà qua đời. Mọi người vẫn trợ niệm đến khi thân ông đã lạnh mới thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Ðến trưa hôm sau, đảnh đầu ông vẫn còn ấm, thọ ba mươi tuổi!

    (theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)

    Nhận định:

    Công phu trì danh nông cạn mà được vãng sanh là do sức liên hữu trợ niệm. Trợ niệm khẩn yếu như thế đó. Xin hãy đề xướng rộng rãi. Nếu như không có liên hữu thì xin hãy dùng băng niệm Phật để trợ niệm, tạm dùng làm phương tiện cũng có thể được hưởng đại lợi vãng sanh vậy!

    11. Giác chiếu niệm Phật

    Cư sĩ Phạm Dụng Hòa tự Nguyên Lễ đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Lúc nhỏ học Nho, thờ cha mẹ rất có hiếu. Lúc cha mẹ bịnh, trước sau, ông đã cắt thịt bắp tay hòa với thuốc trị lành bịnh cho cha.

    Bước vào tuổi tráng niên, cha mẹ mất, vợ chết, ông từ bỏ trần duyên, tu tập huyền công (cách tu hành của Ðạo giáo) hơn mười năm, đạt chút linh nghiệm. Về sau, ông đọc những tác phẩm của ngài Vân Thê có phần tỉnh ngộ, bèn thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhất chí kiên trì, thậm chí những thứ làm bằng lông thú, dệt bằng tơ tằm, ông chẳng hề khoác vào thân. Bỏ hết những điều mình đã tu tập, chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông ham làm lành, thí thuốc, phóng sanh, giúp đỡ người nghèo, chẳng nề nhọc mỏi. Gặp Tăng chúng nghèo bịnh, ông liền cúng dường chẳng thiếu gì.

    Về sau, ông bế quan niệm Phật suốt trăm ngày. Lúc hơi thở ông vừa trở nên yên tịnh thì cách tu huyền thuật trước kia chợt hiện ra, nhận thấy khí Thiên Ðịa cuồn cuộn, mù mịt trong không trung xông thẳng vào miệng, mũi, chạy thẳng vào huyệt Ðan Ðiền, hòa hợp với nguyên khí của chính mình, [cảm thấy] khinh an chẳng thể diễn tả nổi. Giây lát, có một đứa bé cao mấy tấc từ đảnh đầu vọt ra, lãng đãng trước mặt; được một chốc, nó lại theo đảnh đầu trở vào.

    Từ đấy trở đi, mỗi khi đến lúc hết sức tịch tịnh, vong niệm thì liền có đứa bé bước ra, trở vào như trên. Thoạt đầu, ông rất vui; lúc sau, ông chợt nghĩ:

    – Ðây há chẳng phải là năm mươi thứ Ấm Ma như đã nói trong kinh Lăng Nghiêm đó ư? Nếu cho là kỳ đặc thì sẽ bị lạc vào quần ma! Niệm Phật chí tại Tây Phương, thánh cảnh chẳng hiện, sự này ích chi?

    Ngay khi đó, ông liền giác chiếu, chánh niệm hiện tiền, đứa bé chẳng xuất hiện nữa. Ðối với yếu chỉ Duy Tâm, ông khế ngộ sâu xa; Tín – Hạnh – Nguyện lực càng thêm thuần thục. Thường bảo với mọi người rằng:

    – Ðối với cửa ải hiểm yếu bậc nhất trong cuộc đời này nếu có chút phần chẳng rõ thì sẽ lạc vào bàng môn. Vì vậy, tu hành chẳng thể không thận trọng vậy!

    Chợt ông kết liễu mọi việc, dặn dò, từ biệt bè bạn, ngồi niệm Phật qua đời. Lúc liệm, đảnh đầu vẫn còn nóng, thọ sáu mươi ba tuổi.

    (theo Nhiễm Hương Tục Tập)

    Nhận định:

    Từng tu tập huyền công của ngoại đạo, nguyện thường giác chiếu nên khỏi bị đọa vào bàng môn. Chánh niệm hiện tiền, quần tà tự diệt.

    12. Mật hạnh tinh tấn

    Cư sĩ họ Trần đời Thanh, không rõ tên là gì, là chú họ của các ông Thế Anh, Mậu Tài ở huyện Thường Thục. Mỗi sáng dậy, ông thắp hương yên lặng tụng kinh, niệm Phật. Dù gió, mưa, lạnh, nóng đều chẳng gián đoạn. Suốt mấy năm như thế người nhà chẳng hay vì ông hành mật hạnh.

    Trước khi mất ba tháng, ông tự bảo đã đến lúc sắp mất, người nhà thấy ông không bịnh tật gì nên không tin. Ba ngày trước khi mất, ông thị hiện bịnh nhẹ, vẫn đi đứng như thường. Ðến ngày, ông tọa hóa, người nhà kêu khóc; ông bèn mở mắt, dạy sơ lược vài lời, rồi nói: “Ta đi đây!” Lại yên lặng, thân bốc ra mùi hương lạ ba ngày mới hết.

    (theo Vãng Sanh Cận Nghiệm Lục)

    Nhận định:

    Cổ nhân mật hạnh, dù nóng hay lạnh chẳng gián đoạn, dù là người nhà cũng chẳng hay biết. Nay thì hành nhân rêu rao khoe mẽ nhưng một ngày nóng mười ngày lạnh, cho nên người niệm Phật thì nhiều mà kẻ vãng sanh lại ít. Hãy dè dặt, hãy thận trọng

    Trích trong Niệm Phật Thập Yếu của Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  4. #64

    Mặc định



    LỊCH SỬ NHỮNG GƯƠNG VÃNG SANH HIỆN ĐIỀM LÀNH TRONG VIỆC TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

    Tựa: Chư Phật khởi lòng từ bi, mở bày nhiều phương tiện, nhưng chỉ một đường vãng sinh dễ dàng khế hợp cơ duyên. Xét lòng chí thành và chuyện cảm ứng của các bậc tiền bối trong các sách về điềm lành thì có sa-môn Văn Thẩm, tì-kheo Thiếu Khang ghi trong Cao tăng truyện[1], Luận vãng sinh[2].

    Tất cả đều trình bày các việc thật, ghi chép theo thứ tự những điều hiếm thấy, minh chứng cho duyên chí thành cảm hóa, hiển bày Phật lực khó nghĩ bàn, khiến cho xưa nay không đoạn dứt, tăng tục đều hướng về, tiếp nối đạo phong, trùng hưng đại sự. Vì muốn khiến cho những người phát tâm vững chắc không nghi ngại, những người chưa phát tâm có con đường để bước, nên tôi ghi lời tựa này.

    1. PHÁP SƯ HUỆ VIỄN ĐỜI ĐÔNG TẤN (317-420)

    Sư người Nhạn Môn, chọn Lô sơn[3] để ẩn cư hơn ba mươi năm, thân không hề rời núi, chân không bước vào thế tục, khi tiễn khách thì lấy suối Hổ[4] làm ranh giới. Tuy kinh sách học thông uyên bác, nhưng sư chuyên tâm hoằng dương Tịnh độ tây phương. Sư lập Tịnh độ đường ở chân núi, sớm tối lễ sám. Có quan Tạ Linh Vận[5], cao nhân Lưu Di Dân[6]… đều bỏ vinh hoa của thế tục, cùng tu Tịnh độ. Tất cả gồm có một trăm hai mươi ba người khởi lòng tin, ở trước tượng Phật Vô Lượng Thọ, lập đàn thệ nguyện, Di Dân viết văn khen ngợi pháp môn Tịnh độ, cảm được tiên nhân cỡi mây đến nghe, hoặc cất tiếng tụng kinh, âm thanh vang theo gió. Vào ngày 6 tháng 8 năm Nghĩa Hi thứ 12, ngài thấy Đức Phật A-di-đà và Thánh chúng nghinh tiếp từ xa, liền phó chúc mọi việc rồi, nằm nghiêng hông phải mà hóa, hưởng thọ tám mươi ba tuổi.

    2. PHÁP SƯ ĐÀM LOAN ĐỜI TỀ

    Sư sống gần núi Ngũ Đài, thông hiểu các kinh sách. Nhân tìm được mười quyển kinh Tiên của Trung Quốc mà muốn tìm Đào Ẩn[7] để học thuật tiên. Sau đó gặp được tam tạng Bồ-đề, ông hỏi:

    -Trong Phật pháp có phép trường sinh bất tử hơn kinh tiên của Trung Quốc không

    Tam tạng khạc nhổ xuống đất, ngạc nhiên hỏi:

    – Nơi nào trong nước này có phép trường sinh bất tử? Tu theo kinh Tiên dẫu được sống lâu, khi hết tuổi thọ cũng phải đọa lạc.

    Ngài Tam Tạng liền trao cho một quyển kinh Quán vô lượng thọ và nói:

    -Đây mới là phương pháp của bậc Đại tiên, hãy theo đây mà thực hành, sẽ thường được giải thoát, mãi mãi lìa xa sinh tử. Loan liền lấy lửa đốt kinh tiên. Bỗng nhiên vào giữa đêm, Loan thấy một Phạm tăng đi vào phòng bảo rằng:

    -Ta là bồ-tát Long Thụ.

    Rồi bồ-tát nói kệ:

    Lá rụng không thể bám lại cành
    Thóc chưa thu, không thấy trong kho
    Bóng câu qua cửa, chẳng tạm dừng
    Việc qua rồi đâu thể trở lại
    Việc chưa đến làm sao tìm được?
    Hiện tại đang ở đâu?
    Bóng câu khó trở lại.

    Pháp sư biết đã đến lúc qua đời, liền tập hợp hơn ba trăm đệ tử, Ngài tự bưng lư hương xoay mặt hướng tây, răn dạy môn đồ, khuyên mọi người tin Tịnh độ tây phương. Sáng sớm mọi người đồng cất tiếng niệm Phật, sư liền viên tịch. Cách năm dặm về phía tây của chùa có một chùa ni, mọi người ở đó nghe có âm nhạc trên không từ phía tây đi về phía đông. Trong chốc lát lại nghe từ phía đông đi về phía tây.

    3. THIỀN SƯ ĐẠO TRÂN ĐỜI LƯƠNG

    Sư trụ ở Lô sơn, chuyên tu niệm Phật. Nhân thực hành pháp thủy quán[8], sư mộng thấy hàng trăm người lên thuyền chuẩn bị đi về tây phương, liền xin đi theo, nhưng người trên thuyền không cho, Trân nói:

    -Bần đạo một đời chuyên tu tịnh nghiệp Tây phương, vì sao không cho đi?

    Người trên thuyền trả lời:

    -Nghiệp của thầy chưa viên mãn, chưa tụng kinh A-di-đà và chưa dựng nhà tắm cho tăng.
    Thế rồi mọi người trên thuyền đều xuất phát. Trân khóc lóc đến mệt mỏi mà ngủ thiếp đi. Sau đó, tỉnh giấc sư liền tụng kinh, cúng dường việc tắm rửa cho tăng. Một thời gian sau, sư lại nằm mộng, thấy có một người đứng trên lâu đài bạc, đưa tay nói rằng:

    -Thiền sư Đạo Trân! Nghiệp của sư đã viên mãn, sự dụng tâm tu rất tốt, cho nên chúng tôi đến báo cho biết, sư nhất định sẽ được vãng sinh.

    Đêm đó sư viên tịch, trên đỉnh núi sáng rực như có mấy nghìn ngọn đuốc, mùi hương thơm lạ tỏa khắp chùa. Về sau người ta tìm được trong hòm kinh một bản tồn sinh di kí mà lúc còn sống sư không nói cho mọi người biết.

    4. TĂNG NHAI ĐỜI HẬU CHU (557-581)

    Sư ở chùa Đa Bảo thuộc Ích châu. Bản tính sư thường ít nói, không thích vui đùa. Mỗi khi dạo chơi núi rừng thì ở đó suốt cả ngày. Có người hỏi lí do, sư trả lời:

    -Vì tôi nghĩ con người cần phải nhẫn.

    Về sau sư đến phía tây thành, đốt năm ngón tay trái. Tăng tục nghìn vạn người theo khóc lóc, sư nói:

    – Ta giữ tâm bồ-tát, nên không khóc.

    Có người hỏi đau không?

    Sư trả lời:

    -Tâm đã không đau thì ngón tay làm sao đau?
    Khi lửa cháy đến lòng bàn tay thì tủy chảy ra. Có người hỏi sao sư chịu đựng được, sư bảo:

    -Vì chúng sinh không nhẫn được, nên nay ta muốn khuyên mọi người nhẫn điều không thể nhẫn, đốt vật không thể đốt.

    Sư lại bảo mọi người rằng:

    – Trong đời mạt pháp, mọi người khinh mạn, bạo ngược ngu dốt, xem tượng Phật như thân khúc cây, nghe kinh điển như gió thoảng qua tai ngựa. Ta đốt tay, hủy thân, vì muốn khiến cho họ tin sâu Phật pháp.

    Sư dạy đệ tử rằng:

    -Sau khi ta diệt độ, các con nên cung cấp cho những người bịnh, những người xấu xí và súc sinh. Những vị ấy phần nhiều là chư Phật và Bồ-tát phương tiện hóa hiện. Nếu không phải bậc có đại tâm bình đẳng thì đâu thể cung kính tất cả chúng sinh. Có người thấy hoa trời rải xuống Tăng Nhai, bấy giờ sư mặc y bá nạp cầm tích trượng cùng sáu trăm vị tăng cỡi hư không đi về phương tây.

    5. THIỀN SƯ HUỆ MẠNG ĐỜI HẬU CHU (557-581)

    Sư người Thái Nguyên kết bạn tu với thiền sư Nam Nhạc, thực hành Phương đẳng sám[9]. Một hôm, hai sư ở dưới gốc cây nhìn nhau cười, nói: “Hai ta có thể chết ngay ở đây!” Không đầy mười ngày, sau hai sư bị bệnh nhẹ cùng ngồi kết-già, xoay mặt về hướng tây,và nói: “Phật đã đến”, rồi chắp tay mà thị tịch. Hai sư đều thọ tám mươi ba tuổi. Bấy giờ có người mộng thấy chư thiên cầm tràng phan đến nói: “Lành thay!” rồi rước hai sư đi.

    6. THIỀN SƯ TĨNH ÁI ĐỜI HẬU CHU (557-581)

    Lúc chưa xuất gia, sư vào chùa thấy biến tướng địa ngục[10], bảo với đồng bạn rằng:

    “Xét biết nghiệp như thế, ai có thể tránh được khổ này.”

    Sau đó, Tĩnh Ái liền xin mẹ xuất gia, thường ở nơi rừng vắng. Tăng chúng hỏi sư:

    -Sư nên ra giáo hóa người đời, chớ chôn vùi tài đức nơi núi rừng?

    Sư trả lời:

    – Đạo quí ở tự tu không phải ở nơi người. Xem thời để hành động hay ẩn cư. Nay Chu Võ[11] hủy diệt Phật pháp, ta hận là không đủ sức bảo vệ pháp.

    Sư bảo đệ tử rằng:

    -Ta sống ở đời không có ích gì, nên muốn xả thân!

    Nói xong, ngồi kết-già trên tảng đá lớn nắm nạp y, tự tay cắt y để ở trên đá, mổ bụng, rút ruột, dạ dày treo lên cành cây rồi dùng dao khoét lấy tim, bưng đưa lên mà chết. Sư để lại thư rằng: “Những người có duyên ở trong Phật pháp, đừng sinh tâm lui sụt, nhất định làm việc thiện lợi. Tôi có ba lí do để bỏ thân này: một là tự thấy có nhiều lỗi lầm, hai là không thể hộ pháp, ba là muốn nhanh chóng được gặp Phật.”

    Rồi nói bài kệ:

    Nguyện cho các chúng sinh
    Khi nghe tôi bỏ thân
    Thành tựu được thiên nhĩ
    Rốt ráo đạt bồ-đề
    Thân này chứa bất tịnh
    Phần dưới toàn phân dơ
    Từ chín lỗ chảy ra
    Bỏ thân ô uế này
    Nguyện sinh về Tịnh độ
    Một niệm hoa sen nở
    Gặp Phật A-di-đà.

    7. THIỀN SƯ KHẢI

    Vào triều nhà Tùy có thiền sư Khải, ở núi Thiên Thai, người Dĩnh Châu, họ Trần. Trong thời gian giảng kinh Tịnh Danh, một đêm nọ, sư nằm mộng thấy ba bậc thềm báu từ trên không hạ xuống, có mấy mươi phạm tăng cầm hương vào phòng nhiễu quanh sư ba vòng.

    Sư nói:

    Ta từ khi sinh ra đến nay, thường ngồi hướng về phía Tây, niệm danh hiệu Phật A-di-đà, kinh đại Bát-nhã, Bồ-tát Quán Âm và Thế Chí. Sức oai thần đạt được chẳng thể hơn như thế.
    Ta cũng thường thỉnh Quán Âm để sám hối. Từ khi mắc bịnh, ta càng tha thiết nhớ đến Tây phương. Ta nên đi theo Phật về Tây phương.
    Có người đưa thuốc uống đến, sư bảo: “Bịnh không hiệp với thân, tuổi không hiệp với tâm, thuốc há có thể chữa khỏi bịnh sao! Ta sống vất vả vì than mang các khổ, chết vui mừng vì được về nghỉ ngơi. Nay Quán Âm, Thế Chí đến đón ta”. Sư bảo mọi người tụng đề kinh Pháp hoa, rồi đọc kệ khen rằng:

    Đây pháp môn cha mẹ
    Nhờ đó sinh tuệ giải
    Vi diệu khó suy lường
    Ngừng giảng từ hôm nay.

    Sư lại sai tụng kinh Vô lượng thọ, rồi khen rằng:

    Bốn mươi tám lời nguyện
    Cõi tịnh độ trang nghiêm
    Ao sen cùng cây báu
    Dễ đến nhưng không người.

    Sư lại bảo vị duy-na rằng: Bây giờ là lúc ta lâm chung. Hãy đánh chuông lên. Bảo mọi người tăng them chính niệm và giữ yên lặng. Ta sắp đi rồi.

    Nói xong, sư liền qua đời, hưởng thọ sáu mươi tuổi. Hôm đó nhằm ngày 24 tháng 11 năm Khai Hoàng thứ 17 (597). Sư đã lập bốn mươi lăm cảnh chùa, độ bốn nghìn vị tăng, chép mười lăm tạng kinh, tạo hơn mười vạn tượng bằng vàng, bạc và gỗ chiên đàn. Sư còn được gọi là Trí Giả Pháp Không Đại Sư.

    8. TĂNG ĐẠO DỤ

    Vào triều Tùy có sư Đạo Dụ ở chùa Khai Giác chuyên niệm Phật A-di-đà. Sư có tạo tượng Phật A-di-đà bằng gỗ chiên đàn cao ba tấc. Sau đó, Đạo Dụ bỗng nhiên chết qua bảy ngày thì sống lại và kể rằng: “Lúc đầu thấy một hiền giả vãng sinh bên ao báu. Hiền giả ấy nhiễu quanh hoa ba vòng, hoa liền nở ra, vị ấy bước vào ngồi. Tôi cũng nhiễu ba vòng quanh hoa, nhưng hoa không nở. Tôi đưa tay vạch hoa ra, nó liền héo và rụng xuống. Phật A-di-đà bảo: “Ngươi hãy trở về nước kia, sám hối các tội lỗi, tắm gội bằng nước thơm. Khi sao Mai mọc, ta sẽ đến đón ngươi. Vì sao ngươi tạo tượng ta quá nhỏ vậy?” Tôi trả lời: “Tâm lớn thì thấy tượng lớn, tâm nhỏ thì thấy tượng nhỏ”. Tôi vừa nói xong, tượng liền trùm khắp hư không.
    Sau đó, sư liền y theo lời dạy mà tắm gội bằng nước thơm, nhất tâm sám hối, thưa với đại chúng rằng: “Xin hãy niệm Phật cho tôi”.
    Khi sao mọc thì hóa Phật đến đón sư. Ánh sáng chiếu khắp nhà, mọi người đều nghe thấy. Khi ấy, sư qua đời, nhằm năm Khai Hoàng thứ 8 (588).

    9. PHÁP SƯ ĐĂNG

    Vào triều nhà Tùy có pháp sư Đăng ở chùa Hưng Quốc thuộc Tinh Châu giảng kinh Niết-bàn. Tăng tục đến nghe, dù lớn hay nhỏ, đều được sư dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà, và khuyên vãng sinh. Đến năm Khai Hoàng thứ 12 (592), sư qua đời có mùi hương lạ đến nghinh tiếp. Ngày tiễn đưa sư, có mây hương bao phủ khắp làng xóm.

    10. PHÁP SƯ HỒNG

    Vào triều nhà Tùy có pháp sư Hồng, người Tinh Châu, cả đời tinh tấn tu tập, không cầm đến tiền bạc, thường niệm cầu Tịnh độ Tây phương, được thấy Phật A-di-đà. Khi lâm chung, sư thấy đồng tử nam và nữ từ cõi trời Đâu-suất đến đón. Pháp sư nói: “Ta muốn về tây phương, không muốn sinh lên trời”. Nói xong, sư bảo các đệ tử niệm Phật, rồi nói: “Phật ở Tây phương đến đón ta rồi”. Nói xong, sư liền qua đời nhằm năm Nhân Thọ thứ tư (604).

    11. THIỀN SƯ ĐẠO XƯỚC

    Vào triều Đường có thiền sư Đạo Xước, người Tinh Châu, ở chùa Huyền Trung. Sư giảng Quán Kinh đến hai trăm lần, tu tập tam-muội bảy năm và lĩnh hội pháp niệm Phật, tự xỏ tràng hạt, khuyên người niệm Phật, nói thường mỉm cười, chưa từng xoay lưng về hướng tây. Sư nói với Thiện Đạo rằng: “Đạo Xước sợ không được vãng sinh, xin sư nhập định hỏi Phật được không?”

    Thiện Đạo nhập định thấy Phật cao hơn một trăm thước, thưa: “Đạo Xước đang tu niệm Phật tam-muội, không biết khi xả báo thân có được vãng sinh không? Năm tháng nào được vãng sinh?”

    Phật trả lời: “Đốn cây phải luôn tay búa, không duyên đừng cùng nói chuyện, trở về nhà chớ nề hà lao khổ”. Lại dạy Xước sám hối các tội: “Một là đặt kinh và tượng Phật nơi bụi ẩm; phải tự ở yên trong phòng đối trước tượng Phật sám hối. Hai là sai khiến người xuất gia làm việc nặng; phải đối trước mười phương tăng để sám hối. Ba là xây dựng làm tổn thương các loài chúng sinh; phải đối trước chúng sinh mà sám hối.”

    Thiện Đạo hỏi: “Khi Đạo Xước chết có tướng lành gì khiến cho mọi người nghe hoặc thấy không?”

    Phật trả lời:

    -Ngày Đạo Xước chết, ta phóng bạch hào, từ xa chiếu đến phương đông. Khi ánh sáng đó xuất hiện, Đạo Xước sẽ đến nước của ta.
    Quả đúng đến ngày sư chết, có ba luồng bạch hào chiếu sáng trong phòng. Thiện Đạo lại thấy pháp sư Đàm Loan trong ao thất bảo nói: “Tịnh độ đã thành, dư báo chưa hết”.

    Mây tía ba lần hiện trên tháp của sư.

    12. THIỀN SƯ THIỆN ĐẠO

    Vào triều Đường có thiền sư Thiện Đạo họ Chu, người Tứ Châu, xuất gia từ thuở nhỏ. Khi thấy biến tướng Tây phương, sư than rằng: “Bao giờ thân gởi đài sen, tâm trụ nơi Tịnh độ?” Sau khi thụ giới cụ túc, cùng xem Quán Kinh với luật sư Diệu Khai, sư xúc động mà than rằng: “Tu các hạnh nghiệp khác đều là đi đường vòng nên khó thành. Chỉ có tu pháp quán này mới nhất định vượt thoát sinh tử.” Sau đó, hai sư đến gặp thiền sư Xước hỏi: “Có thật là niệm Phật được vãng sinh không?” Đại sư trả lời: “Mỗi người cắm một hoa sen vào bình, tu hành trong bảy ngày nếu hoa sen không héo thì được vãng sinh.”

    Lại có pháp sư Anh ở Đông Đô giảng kinh Hoa nghiêm bốn mươi lần, vào đạo tràng của thiền sư Xước dạo chơi trong tam-muội rồi than rằng: “ Tôi tự hận nhiều năm tìm tòi suông trong văn sớ, chỉ uổng công lao nhọc thân tâm thôi. Đâu ngờ pháp môn niệm Phật là không thể nghĩ bàn!” Thiền sư trả lời: “Kinh chứa toàn những lời thành thật, Phật há nói dối sao!” Thiền sư cả đời thích khất thực, thường tự trách rằng: “Đức Thích-ca còn khất thực, Thiện Đạo là hạng người gì mà ở yên một chỗ mong cúng dường”. Sư không nhận lễ, chép mười vạn quyển kinh A-di-đà, vẽ hai trăm bức biến tướng tịnh độ, thấy tháp miếu sư cũng đều tu bổ. Đạo Phật thịnh hành ở Trung Quốc, lúc ấy chưa có nhiều thiền sư.

    13. PHÁP SƯ HUYỄN

    Vào triều Đường có pháp sư Huyễn, người Tinh Châu. Gặp thiền sư Xước giảng Quán Kinh, sư mới bắt đầu hồi tâm, suốt năm năm chuyên niệm Phật, một ngày một đêm lễ nghìn lạy, niệm Phật bảy muôn lần. Sợ chết nên sư càng thêm tinh tấn. Sư từng mộng thấy Phật Thích-ca cùng bồ-tát Văn-thù khen ngợi kinh Pháp hoa. Sư lại mộng thấy ba con đường đi về phía tây. Đường thứ nhất dành chung cho người thế tục, đường thứ hai có cả tăng và tục cùng đi, đường thứ ba chỉ có tăng. Sư nói đó là những người vãng sinh.

    14. THIỀN SƯ NGẠN

    Vào triều Đường có thiền sư Ngạn, người Kinh Châu, tu nghiệp vãng sinh, thường thực hành Phương đẳng sám. Lúc sư lâm chung, có hai vị bồ-tát Quán Âm và Thế Chí hiện trên hư không. Sư liền mời thợ vẽ nhưng không ai vẽ được. Bỗng nhiên sư cảm được hai người bảo từ Tây Kinh đến muốn viếng Đài Sơn, liền đưa sư một bức tranh vẽ hai vị bồ-tát, rồi đi không để lại dấu tích. Sư bảo đệ tử rằng: “Ai có thể theo ta vãng sinh Tây phương”. Lúc đó, có đồng tử nhỏ nhất thưa: “Con xin đi theo”. Sư liền vào trong đạo tràng ngồi ngay ngắn mà qua đời, hưởng thọ tám mươi tuổi. Hôm ấy là ngày mồng 7 tháng giêng năm Thùy Củng đầu tiên.

    15. THIỀN SƯ ĐẠI HẠNH

    Thiền sư Đại Hạnh người Tề Châu, vào ở trong Thái Sơn, mặc áo cỏ, ăn lá cây, mong đắc Pháp Hoa tam-muội, cảm được bồ-tát Phổ Hiền hiện thân dạy sư niệm Phật A-di-đà. Sư niêm Phật trải qua hai mươi mốt ngày đến đêm nọ bỗng thấy đất bằng lưu ly, mắt tâm thấy suốt Phật khắp mười phương. Sau đó, sư có chút bịnh nằm nghiêng bên hông phải mà qua đời. Sau khi an táng xong, từ quan tài có mùi hương lạ tỏa ra mấy ngày không hết, diện mạo sư giống như lúc còn sống.

    16. THIỀN SƯ TẠNG Ở PHẦN CHÂU

    Thường ngày, mỗi khi sư ra khỏi chùa là đi lễ bái khắp các chùa tháp và không nhận sự lễ bái của tăng tục. Sư lấy việc điều phục tâm để ngăn sáu trần, mỗi niệm đều tỉnh giác không để mất. Sư thường làm việc của tăng thay cho nô bộc, thấy y của tăng dơ rách, sư âm thầm lấy giặt sạch rồi vá. Vào mùa Hạ nóng bức sư cởi áo nằm trên cỏ cho các loài côn trùng như mòng muỗi hút máu. Ngày sư lâm chung, chư thiên tuần tự đến mời đi, nhưng sư không chịu, đợi khi Hóa Phật ở Tịnh độ đến đón, sư mới chịu vãng sanh.

    17. PHÁP SƯ CẢM Ở TRƯỜNG AN

    Sư trú chùa Thiên Phước, thông suốt kinh điển, nhưng lại chưa tin pháp môn Niệm Phật, bèn đến hỏi hòa thượng Thiện Đạo rằng:

    – Việc niệm Phật thuộc pháp môn nào?

    Hòa thượng đáp:

    – Ông cứ chuyên niệm Phật, sẽ tự chứng nghiệm.

    Sư lại hỏi:

    – Thấy được Phật không?

    Đáp:

    – Lời Phật dạy sao còn nghi?

    Sư bèn nhập đạo tràng niệm Phật, tu tập hai mươi mốt ngày mà chưa có ứng nghiệm gì, sư hận mình tội sâu nặng, nên muốn tuyệt thực để bỏ mạng. Hòa thượng ngăn không cho. Sau đó, suốt ba năm sư chuyên tâm niệm Phật, liền được thấy được tướng lông trắng của Phật, chứng được tam-muội. Khi lâm chung được Phật đến đón, sư chắp tay hướng về phía tây mà qua đời. Sư soạn “Vãng sinh quyết nghi luận” 7 quyển để lại đời.

    18. THIỀN SƯ HOÀI NGỌC Ở THAI CHÂU

    Sư họ Cao, sống ở chùa Dũng Tuyền, chỉ dùng thức ăn tự mọc, không do người trồng, không mặc y phục dệt bằng tơ tằm, sám hối hơn vạn vạn lần, tụng kinh A-di-đà và Quán vô lượng thọ ba mươi vạn biến. Sư giữ thời khóa hàng ngày niệm danh hiệu Phật năm vạn lần, phóng sinh rận, bọ chét, thường ngồi không nằm.

    Vào ngày 9 tháng 6 năm Thiên Bảo thứ 6 (*), sư thấy hằng sa thánh chúng tây phương đến, có một vị cầm đài bạc trắng vào từ cửa sổ. Sư nói rằng:

    – Theo lẽ công phu của tôi phải được đài vàng.

    Sư liền tăng thêm niệm Phật thì nghe trên không có tiếng bảo rằng:

    – Viên quang trên đỉnh đầu chiếu sáng khắp hư không.

    Sư bảo các đệ tử rằng:

    – Hãy lui lại, chớ chạm vào ánh sáng ấy

    Đến khi sư lâm chung, ánh sáng ấy càng rực rỡ. Sư bèn nói kệ:

    Thanh tịnh sáng trong không trần cấu
    Hoa sen hóa sinh là cha mẹ
    Ta đã tu hành qua mười kiếp
    Sinh ở Diêm-phù chịu nhiều tội
    Một đời khổ hạnh đã vượt qua
    Mãi thoát ta-bà, về Tịnh độ.

    Nói kệ xong, thấy đài vàng hiện đến, sư mỉm cười mà thị tịch, nhục thân hiện còn ở chùa Dũng Tuyền tại Thai Châu.

    19. SƯ PHÁP TRÍ Ở THIÊN THAI

    Sư chuyên tu pháp môn Niệm Phật, nhưng tính rất thô tháo, không giữ luật nghi. Mọi người thường nói: “Sư sẽ phạm tội Đột-kết-la[12], bị đọa chín trăm năm ở địa ngục”, sư liền tin ngay. Do đó khi nghe kinh nói: “Một lần xưng niệm danh hiệu A-di-đà Phật, sẽ diệt được tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp”, sư vào đài Đâu-suất ở chùa Quốc Thanh[13], ngày đêm chuyên niệm Phật. Mọi người bấy giờ không tin. Bỗng nhiên sư từ biệt khắp tăng tục, nói ta sắp vãng sinh, nhờ người thân quen thiết trai một ngày. Đến nửa đêm hôm ấy, sư không bệnh mà chết, có ánh sáng sắc vàng chiếu mấy trăm dặm, gà rừng cất tiếng gáy kinh động, người đi thuyền trên sông bảo là trời đã sáng.

    20. SƯ ĐẠO NGANG Ở TƯƠNG CHÂU

    Sư chuyên giảng dạy kinh Pháp Hoa. Một hôm, sư bỗng thấy các trời trỗi âm nhạc từ không trung đến bảo rằng:

    – Chúng tôi ở cõi trời Đâu-suất xuống để cùng đón ngài.

    Ngang nói rằng:

    – Cõi trời là cội rễ của sinh tử, xưa nay ta không mong cầu. Ta chỉ nhớ nghĩ đến Tây phương thôi.

    Sau đó, sư nghe tiếng nhạc từ Tây phương nghinh đón. Sư lại nói:

    – Có tin đến rồi, không được nán lại lâu.
    Nói xong lư hương rời tay, sư an nhiên thị tịch trên tòa cao.

    21. SƯ HÙNG TUẤN Ở THÀNH ĐÔ

    Sư họ Chu, giỏi giảng kinh thuyết pháp, nhưng không có giới hạnh, sử dụng của cải cúng dường không đúng pháp. Sau đó sư hoàn tục, gia nhập quân đội chém giết, rồi vào trong tăng lánh nạn. Vào niên hiệu Đại Lịch (776), sư thấy Diêm-la vương phán mình vào địa ngục, liền nói lớn rằng:

    – Hùng Tuấn nếu vào địa ngục thì ba đời chư Phật đều nói dối.

    Diêm vương nói:

    – Phật chưa từng nói dối.

    Tuấn bảo:

    – Mục Hạ phẩm hạ sinh kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Nếu người tạo tội ngũ nghịch, lúc lâm chung niệm danh hiệu Phật mười lần còn được vãng sinh.” Tuấn tuy tạo tội, nhưng không phạm tội ngũ nghịch. Nếu nói niệm Phật, tôi đã niệm không thể tính cho hết được.

    Nói xong, sư nương đài vãng sinh Tây phương.

    22. ĐỜI TỐNG, NI SƯ PHÁP TẠNG

    Ni sư ở chùa Kiến Phúc tại Kim Lăng, tu thiền đạt đến chỗ sâu xa, sư thường nói với bạn học là Vân Kính rằng: “Tôi lập thân hành đạo, chí hướng về Tây phương”.

    Một hôm, bỗng ni sư bị bệnh. Lúc đầu, ni sư thấy Phật A-di-đà và các thánh chúng đến thăm. Sau đó, mọi người đều thấy ánh sáng chiếu khắp chùa, hôm ấy ni sư qua đời.

    23. NI TỊNH CHÂN Ở TRƯỜNG AN

    Ni sư trụ ở chùa Tích Thiện, Trường An, suốt đời mặc y bá nạp đi khất thực, không hề sân hận. Ni sư tinh chuyên niệm Phật và tụng kinh Kim Cương đến mười tám ngàn lần.

    Tháng bảy năm Hiển Khánh thứ 5 (660), ni sư bị bệnh, bèn gọi đệ tử đến dạy rằng:

    – Trong 5 ngày ta được thấy Phật A-di-đà mười lần. Ta còn thấy đồng tử dạo chơi trên hoa sen báu ở thế giới Cực Lạc hai lần; lại có thánh tăng năm lần thụ kí ta sẽ làm Phật, và được vãng sinh phẩm thượng.

    Sư ngồi kiết già mà tịch. Đến sáng sư tỉnh lại bảo đệ tử rằng:

    -Ta được quả vị Bồ-tát, đi khắp mười phương để cúng dường chư Phật.

    Ni sư nói xong liền thị tịch, ánh sáng chiếu khắp chùa.

    24. NI PHÁP THẮNG Ở HUYỆN NGÔ

    Ni sư tinh tấn tu tập thiền định và niệm Phật. Ni sư khuyên kẻ đạo người tục đều nên tu Tịnh độ. Khi bị bệnh, ni sư tự biết không thể qua khỏi, lại mộng thấy một vị tăng đến bảo rằng:

    – Bệnh ngươi không qua khỏi, phải chuyên niệm Phật!

    Ni sư lại còn thấy có hai vị tăng mặc áo bày vai, cầm hoa đứng trước giường. Ni sư nói:

    – Có ánh sáng chiếu khắp thân ta.

    Nói xong ni sư liền thị tịch.

    25. NI NGỘ TÍNH Ở LẠC DƯƠNG

    Ni sư ở trước A-xà-lê Chiếu ở Hành Châu phát nguyện niệm Phật muôn lần. Vào năm Đại Lịch thứ 6 (772), ni sư vào Đài Sơn tu tập bỗng bị bệnh. Nghe tiếng nhạc từ trên hư không, ni sư liền bảo:

    – Ta đắc được trung phẩm thượng sinh, thấy những người cùng niệm Phật đều ở trên hoa sen trong cõi Tây phương, thân vàng sáng chói.

    Bấy giờ, vào năm Đại Lịch thứ 24 (890).

    26. NI ĐẠI MINH Ở DUYÊN CHÂU

    Ni sư nghe thiền sư Đạo Xước giảng kinh Vô Lượng Thọ và được dạy cho pháp môn Niệm Phật. Trước khi niệm Phật, ni sư thay y phục sạch sẽ, và súc miệng bằng nước trầm hương. Ni sư giữ thời khóa niệm Phật trong tịnh thất suốt ba, bốn năm không gián đoạn. Khi ni sư lâm chung, mọi người đều thấy trong thất có ánh sáng và mùi hương trầm thủy đến rước.

    27. HAI SA-DI CHÙA KHAI HÓA TINH CHÂU

    Một hôm vị sa-di nhỏ hỏi vị sa-di lớn rằng:

    – Thế nào! Huynh tu Tịnh độ nhé!

    Vị sa-di lớn tuổi hơn vui vẻ đồng ý.

    Thế rồi, hai vị sa-di cùng nhau tu tập trải qua năm năm, thì vị sa-di lớn qua đời, được vãng sinh, đến Tây phương gặp Đức Phật A-di-đà. Sa-di lớn bạch rằng:

    – Con còn một sư đệ đồng tu, chẳng biết có được sinh về đây không?

    Phật dạy

    – Ông nhờ vị sa-di nhỏ khuyên phát tâm niệm Phật mà còn được vãng sinh. Sao lại còn nghi ngờ vị kia? Nay ông trở về Diêm-phù, gắng niệm thêm danh hiệu ta. Ba năm sau, hai người sẽ đồng được đến nơi đây gặp ta.
    Vị sa-di lớn liền được sống lại, thuật rõ lại việc gặp Phật với vị sa-di nhỏ và mọi người. Từ đó hai ông càng chuyên cần tu niệm. Ba năm sau, cả hai vị sa-di đều được tâm khai, nhãn tịnh, đồng thấy Bồ-tát đến đón. Bấy giờ khắp mặt đất rung động, hoa trời rưới khắp hư không. Hai vị sa-di theo nguyện mà đồng thời vãng sinh.

    28. ĐỜI TỐNG, ĐỒNG TỬ A ĐÀM VIỄN

    Đồng tử thọ giới Bồ-tát năm mười tám tuổi, thờ thiền sư Hàm làm thầy, chuyên tu tịnh nghiệp, luôn hướng về Đức Phật A-di-đà để sám hối. Một đêm vào canh tư, bỗng nhiên Đàm Viễn tự niệm tụng, thầy giật mình hỏi. Ngài đáp:

    – Con thấy thân Phật sắc vàng, hương hoa và tràng phan đầy cả hư không, từ phía tây đến.
    Chỉ trong chốc lát Viễn qua đời, có mùi hương lạ trong phòng đến mấy ngày chưa hết.

    29. ĐỒNG TỬ NGỤY SƯ TÁN Ở UNG CHÂU

    Năm đồng tử mười bốn tuổi thờ thiền sư Tĩnh làm thầy, phát tâm niệm Phật ngày đêm không gián đoạn. Vào năm Vĩnh Huy thứ 3 (653), đồng tử bị bệnh mà qua đời. Sau đó bỗng sống lại bảo mẹ rằng:

    – Con thấy Đức Phật A-di-đà ở đây. Con sẽ vãng sinh theo ngài.

    Nói xong, đồng tử qua đời, hàng xóm thấy trên nóc nhà đồng tử có ánh sáng năm màu và ông vọt lên mây, bay về phía tây.

    30. QUỐC VƯƠNG NƯỚC Ô TRÀNH[14]

    Quốc vương nước Ô-tràng khi rỗi việc triều chính, bèn bảo các quan:

    – Trẫm tuy là vua một nước, nhưng không thoát khỏi sự vô thường. Trẫm nghe kinh nói cõi Tây phương Cực Lạc là nơi nên an trụ.
    Từ đó, nhà vua bèn dốc lòng ngày đêm sáu thời tu tập theo pháp môn Niệm Phật. Mỗi ngày đều trỗi nhạc, thiết trai cúng dường một trăm vị tì-kheo. Đích thân nhà vua và hoàng hậu dâng cơm cúng dường chư tăng. Hơn ba mươi năm nhà vua một lòng tinh tấn như thế, không sút giảm. Khi nhà vua lâm chung, sắc mặt vui tươi, thánh chúng từ Tây Phương đến rước và có nhiều điềm tốt hiện ra.

    31. HOÀNG HẬU CỦA TÙY VĂN ĐẾ (581)

    Tuy ở trong cung quyền quý, nhưng bà nhàm chán thân nữ, hàng ngày niệm Phật cầu về Tây phương, đến khi lâm chung có mùi hương lạ từ không tỏa khắp trong cung. Văn Đế ngạc nhiên nên hỏi Xà-đề-tư-na:

    – Đây là điềm lành gì?

    Xà-đề-tư-na đáp:
    – Ở Tây phương có đức Phật hiệu là A-di-đà, phúc nghiệp của hoàng hậu cao dày, được sinh về cõi ấy, nên mới hiện điềm lành này.

    32. ĐỜI TỐNG, LƯU DI DÂN

    Lưu Di Dân làm huyện lệnh Sài Tang và Nghi Xương. Về sau ông nương đại sư Tuệ Viễn ở Lô sơn để tu tập pháp môn Niệm Phật tam-muội. Được nửa năm, ông vào tam-muội thấy Phật phóng hào quang, duỗi tay tiếp dẫn. Từ đó, ông thỉnh Phật cầu tăng chú nguyện cho ông mau xả báo thân sinh về Tịnh độ. Mười lăm năm ông ẩn cư trong Lô sơn, tự biết trước ngày mất, từ biệt mọi người rồi ngồi ngay thẳng mà qua đời, thọ 57 tuổi. Bấy giờ nhằm năm Nghĩa Hy thứ 15 (419).

    33. ĐỜI ĐƯỜNG, QUÁN SÁT SỨ VI CHI TẤN

    Ông lập hạnh từ bi sâu rộng: xây dựng đạo tràng Tịnh độ, niệm Phật A-di-đà, sám hối cầu nguyện vãng sinh, hành bồ-tát đạo, hộ trì Phật pháp, hoằng dương chánh pháp, độ thoát chúng sinh. Vào tháng 6, ông xoay mặt về phía Tây, ngồi kiết-già chắp tay niệm Phật A-di-đà sáu mươi biến, bỗng nhiên qua đời, có mùi hương lạ tỏa khắp nhà, mọi người đều ngửi thấy, và nhiều điềm lành khác.

    34. ĐỜI ĐƯỜNG, NGUYÊN TỬ BÌNH

    Năm Đại Lịch thứ 9 (774) đời Đường, ông ở chùa Quán Âm, Nhuận Châu phát tâm niệm Phật A-di-đà mười ngàn biến. Sau ba tháng, ông bỗng nhiên bị bệnh. Một đêm nghe trong không trung có mùi hương lạ, và tiếng âm nhạc, ông rất vui mừng. Trên hư không lại có người bảo:

    – Nhạc ồn ào vừa dứt, thì nhạc êm dịu trỗi dậy.
    Hôm ấy, ông niệm Phật cả ngày rồi qua đời, được sinh về Tịnh độ, mùi hương lạ lan tỏa suốt mấy ngày mới hết.

    35. ĐỜI TỐNG, NGỤY THẾ TỬ

    Ba cha con Ngụy thế tử đều tu theo pháp Tịnh Độ, chỉ có người mẹ là không tin. Người con gái của thế tử mười bốn tuổi thì qua đời, sau bảy ngày thì trở về báo mộng với mẹ:

    – Con đã thấy cảnh Tây phương, cha cùng anh và con đều đã có đài sen, về sau sẽ được vãng sinh, chỉ riêng mẹ là không có. Nay con tạm trở về báo cho mẹ biết.

    Sau đó người mẹ nghe lời con, hàng ngày niệm Phật, cuối cùng bốn người đều được vãng sinh.

    36. ĐỜI ĐƯỜNG, TRƯƠNG NGUYÊN

    Ông là người ở kinh đô, bẩm tính chính trực, mỗi ngày đều niệm Phật. Vào giờ thìn, ngày 3 tháng 6 năm Khai Hoàng thứ 2 (589), ông bảo người nhà làm một bữa cơm chay để đãi các vị thánh hiền. Thọ trai xong ông, đốt hương hướng về Tây phương nhất tâm niệm Phật mà mất. Khi đưa ông đến huyệt mọi người ngửi thấy mùi hương lạ và thấy ánh sáng rực trên mộ.

    37. NGƯỜI HẰNG CHÂU ĐỜI TÙY

    Hàng ngày ông dùng hạt đậu để đếm số lần niệm Phật. Sau khi đủ ba mươi sáu, ông cúng dường trai phạn, đầy ba mươi thạch. Sau khi thọ trai, vui mừng khen việc dùng đậu niệm Phật và đem số đậu ấy chia cho mọi người thụ trai. Bấy giờ, hai vị bồ-tát Quan Âm, Thế Chí hóa làm hai vị sư thân hình tiều tụy đến khất thực. Ông trả lời: “Đệ tử mong vãng sinh Tây phương, không gì làm trở ngại được. Hai sư đến khất thực khiến tâm nguyện con thêm sâu chặt”. Sau khi ăn xong, hai vị sư biến mất, chỉ ngửi mùi hương lạ. Cùng lúc ấy, ông bay trên hư không ra đi. Bấy giờ nhằm tháng 9 năm Khai Hoàng thứ 8 (589).

    38. TRƯƠNG CHUNG QUỲ

    Ông làm nghề buôn bán gà. Năm Vĩnh Huy thứ 9, lúc lâm chung, ông thấy phía nam nhà mình có bầy gà đang chen chúc, bỗng nhiên thấy một người mặc áo đỏ đen xua gà và hô to rằng: “Mổ mắt!” Bầy gà đó bốn lần bay lên mổ vào hai mắt ông ta chảy máu đầy giường. Đến giờ dậu có sư Hoằng Đạo ở chùa Thiện Quang chuyên niệm Phật đến bảo đặt tượng Phật trước mặt và niệm Phật A-di-đà. Bỗng nhiên có mùi hương lạ, ông bình thản qua đời.

    39. NGƯỜI MỔ TRÂU BÒ Ở PHẦN CHÂU

    Khi lâm bệnh nặng, ông thấy nhiều trâu bò đến vây sát thân mình. Ông bảo vợ: “Hãy mời chư tăng đến cứu ta!” Khi chư tăng đến, ông ấy nói: “Thầy tụng kinh thấy tội nặng như đệ tử có cứu được không?” Vị sư trả lời: “Trong Quán kinh nói: Khi lâm chung niệm mười tiếng còn được vãng sinh. Phật đâu có nói dối!” Ông vui mừng, liền niệm Phật. Chốc lát sau, bỗng nhiên có mùi hương lạ tỏa khắp nhà, ông liền qua đời. Mọi người đều ngửi thấy mùi hương lạ và nhìn thấy mây lành phủ kín trên nhà ông ấy.

    40. PHÒNG TRỨ Ở ĐẠI CHÂU

    Ông từng khuyên một người già niệm Phật, và người ấy được sinh Tây phương. Về sau, Phòng Trứ vào cõi U minh gặp vua Diêm-la và được thả về dương thế. Vua Diêm-la nói: “Ngươi sẽ sinh về Tịnh độ”. Trứ nói: “Tôi nguyện tụng kinh Kim Cương một vạn lần và kính lễ Ngũ Đài Sơn. Tâm này chưa toại nên chưa muốn vãng sinh”.

    41. VỢ CỦA ÔN VĂN TĨNH

    Bà người Tinh Châu, bệnh nằm liệt giường. Chồng bảo cô: “Em hãy niệm Phật A-di-đà”. Cô bèn niệm Phật không ngừng, liền thấy cõi Phật. Sau đó, cô bảo chồng: “Hãy giúp em thiết trai cúng dường. Em sắp vãng sinh Tây phương”. Thiết trai xong, cô dặn chồng nỗ lực niệm Phật rồi qua đời.

    42. ÔNG BÀ HAI NGƯỜI THÔN ƯỚC SƠN, TÙY CHÂU

    Hiểu rõ lí khổ không, vào ngày 29 mỗi tháng hai ông bà thỉnh hai thầy đến nhà hướng dẫn niệm Phật. Khi thiết trai, bà tự dâng cơm, ông hỏi: “Sao không sai người làm?” Bà trả lời: “Mấy khi có thể được tự làm, nếu bảo người khác làm thì họ hưởng hết phúc”. Đến khi hai ông bà lâm chung, ánh sáng chiếu khắp nhà, nửa đêm mà sáng như ban ngày.

    43. ĐỆ TỬ NỮ HỌ LƯƠNG Ở HẠO CHÂU

    Cô Lương mù cả hai mắt. Từ khi được một vị tăng dạy khuyên niệm Phật A-di-đà, cô niệm Phật suốt ba năm không ngừng thì hai mắt mở ra được, mọi người trong thôn đều biết việc này. Khi lâm chung cô thấy Phật và Bồ-tát đều đến rước. Sau khi cô qua đời, mọi người cùng nhau xây tháp thờ. Người qua lại đều cung kính, nam nữ cả quận ấy đều hồi tâm niệm Phật.

    44. ĐỆ TỬ NỮ HỌ BÙI

    Giữa năm Trinh Quán (627), được vị tăng dạy niệm Phật, cô Bùi dùng hạt đậu để đếm số. Khi niệm đủ mười ba thạch, cô tự biết nơi sẽ sinh. Cô liền từ biệt hết thảy những người thân, mặc đồ đúng như pháp, niệm Phật mà qua đời, được vãng sinh Cực Lạc.

    45. BÀ PHẬT TỬ HỌ DIÊU NGƯỜI THƯỢNG ĐÔ

    Giữa năm Trinh Quán (627) nhờ bà Phạm khuyên, bà bèn niệm Phật A-di-đà. Khi lâm chung thấy Phật, Bồ-tát đến đón, bà thưa: “Con chưa từ biệt bà Phạm. Thỉnh Phật tạm trụ trên không trung chờ con”. Lát sau, bà Phạm đến, bà liền bưng lư hương thản nhiên qua đời.

    46. VỢ CỦA TRƯƠNG VĂN XÍ

    Bà họ Tuân, phát tâm niệm Phật, vừa tròn hai năm. Một hôm, bà mộng thấy có vị tăng ở trước ao sen bảy báu liền bạch Phật: “Con bẻ một cành sen cho một người nữ thì có tội không?”. Câu nói vừa dứt, cảnh tượng liền tan biến. Ngày bà ấy xả báo thân, có mùi hương lạ tỏa khắp nhà, bà liền được vãng sinh Tây phương.

    47. ÔNG GIÀ HUYỆN PHẦN DƯƠNG, TINH CHÂU

    Ông thường tụng kinh A-di-đà. Năm Trinh Quán thứ 5 (632), ông mang theo lúa đến mượn một phòng trống ở chùa Pháp Nhẫn để nghỉ ngơi và niệm Phật. Lúc ông lâm chung có luồng ánh sáng rực rỡ chiếu khắp phòng, hướng mặt về phía tây mà qua đời, dáng như bước lên đài sen mà đi.

    48. THIỆU NGUYỆN BẢO Ở UNG CHÂU
    Ông phát tâm niệm Phật âm thanh không dứt, tự tu sám hối. Một đêm nằm mộng thấy bò kéo đài sen báu đến. Ông mắng con bò và nói: “Không phải đài này”. Ông liền niệm ba quyển kinh A-di-đà, niệm Phật một trăm tiếng. Con bò mới hoan hỷ kéo đài vàng đến. Bấy giờ, ông bay lên hư không mà vãng sinh.

    Trích Vãng Sanh Tịnh Độ Cảm Hiện Điềm Lành
    Nguyên tác Hán văn: Đời Đường, sa-môn Văn Thẩm, Thiếu Khương soạn
    Việt dịch: Tì-kheo Vạn Thiện, Đồng Hội, Vạn Ngộ
    Hiệu đính: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn
    Biên tập: Chúc Đức

    [1] Cao tăng truyện 高僧傳: còn gọi là Lương cao tăng truyện, mười bốn quyển, Thích Tuệ Kiểu dịch vào đời Lương.

    [2] Vãng sinh luận 往 生 論: tên khác của vô lượng thụ kinh Ưu-bà-đề-xá nguyện sinh kệ. Còn gọi là Tịnh độ luận.

    [3] Lô sơn 廬山: tên núi, ở Cửu Giang Hà Nam, tỉnh Giang Tây, đứng cao sừng sững ở Bà Dương Hồ, bờ sông Tràng Giang.

    [4] Hổ khê 虎溪: tên suối, ở trước chùa Đông Lâm, Lô sơn , Cửu Giang Hà Nam, tỉnh Giang Tây. Tương truyền pháp sư Tuệ Viễn ở đây, khi tiễn khách không qua khỏi suối, nếu qua khỏi thì liền kêu lên, cho nên gọi là Hổ khê.

    [5] Tạ Linh Vận 謝 靈 運 (358~433): nhà văn học nổi tiếng thời Lưu Tống. Ông họ Trần, người Quận Dương Gia (tỉnh Hà Nam), tự Tuyên Minh. Cháu của Xa kị tướng quân Tạ Huyền. Đời gọi là Tạ Khương Nhạc, thuở nhỏ hiếu học, hiểu biết sâu rộng, giỏi thư pháp và hội họa, văn chương trác tuyệt, làm quan ở Giang Tả.

    [6] Lưu Di Dân 劉遺民 (352~410): là hành giả tu pháp môn Tịnh độ đời Đông Tấn, người Bành Thành (Giang Tô Đồng Sơn), tên Trình Chi, tự Trọng Ân.

    [7] Đào Ẩn 陶隱, tức Đào Hoằng Cảnh. Khi Đào Ẩn ở Cú Khúc sơn, có trồng cây tùng trước sân, mỗi khi nghe gió thổi đến cây tùng, ông rất vui. Gặp ở Đào Hoằng Cảnh, Truyện Ẩn Dật quyển hạ, Nam sử.

    [8]Thủy quán 水觀: một trong mười sáu phép quán, rút ra trong kinh Quán vô lượng thọ. Còn gọi là Thủy tưởng quán, Thủy tướng quán.

    [9] Phương đẳng sám 方等懺: thực hành phương đẳng tam-muội mà sám hối tội chướng của sáu căn. Còn gọi Phương đẳng tam-muội, Phương đẳng sám hối.

    [10] Biến tướng địa ngục 地獄變相: biến là biến hiện, tùy theo căn cơ mà biến hiện ở địa hay Cực lạc, gọi là biến tướng.

    [11] Chu Võ 周武: tức Chu Võ vương “Chiêu công năm thứ tư, Tả Truyện”: “ Chu Võ có lời thề cấp phát lương thực ở Mạnh Tân”.

    [12] Cát-la tội 吉羅罪: gọi đủ là Đột-cát-la tội, tội nói lời xấu, làm việc xấu.

    [13]Quốc Thanh Tự 國清寺: còn gọi là Thiên đài sơn cổ sát, ở phía nam của đỉnh Phật lũng, núi Thiên đài, tỉnh Chiết Giang.

    [14] Ô-Tràng 烏場: Ô-trường: cũng gọi là Ô-trà, Ô-trượng-na (S: Udyàna). Trung quốc dịch là vườn, tức vườn của vua A-thâu-ca. Dịch âm Ô-tràng, Ô-trà đều sai. Đây là một nước thuộc Bắc Ấn (Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 2)
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  5. #65

    Mặc định

    kinh nao ma dan den tri kien phat la phat thuyet
    ko noi den tri kien phat la ngoai dao.niem phat
    la tri kien phat nen la phat thuyet

  6. #66

    Mặc định



    KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM

    17. PHẨM CÔNG ĐỨC BAN ĐẦU PHÁT TÂM THỨ MƯỜI BẢY

    Hán Dịch Từ Tiếng Phạn: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
    Giảng Giải Kinh Văn: Hoa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Giác Ngộ Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)
    Việt Dịch Từ Tiếng Hán: Tỳ Kheo Thích Minh Định


    Giảng giải: (Chữ thường là giảng giải)

    Lúc ban đầu phát tâm liền thành chánh giác. Ðây là pháp môn đốn ngộ. Ðốn ngộ tức là chẳng tu trì mà liền chứng được chánh giác. Tại sao lại như vậy ? Vì trong quá khứ đã từng phát tâm tu hành Bồ Tát đạo, hiện tại công đức viên mãn, căn lành chín mùi cho nên khai ngộ.
    Ban đầu phát tâm tức là hiện tại bắt đầu phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng. Trong quá khứ chẳng có phát tâm bồ đề, tức cũng là một niệm tin Phật ban đầu, một niệm học Phật pháp ban đầu, một niệm nghĩ xuất gia ban đầu. Bồ Tát ban đầu phát tâm rất nhiều, nhưng Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn thì rất ít. Thành tựu quả vị Bồ Tát lại càng ít.
    Bồ đề dịch là giác đạo. Chúng ta người tu đạo, nhất định phải phát tâm giác đạo, tức cũng là tâm bồ đề. Tâm bồ đề là gì ? Nói đơn giản tức là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Nói rộng ra là giữ năm giới, siêng tu lục độ vạn hạnh, đây đều là phát tâm bồ đề. Quy y Tam Bảo, gần gũi Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, đây cũng là phát tâm bồ đề. Không làm các điều ác, làm các việc lành. Siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si, đây đều là phát tâm bồ đề. Thậm chí không giữ tiền bạc, phiên dịch kinh điển, đây cũng là phát tâm bồ đề. Tóm lại, lợi ích kẻ khác, mà mình chẳng có ích kỷ lợi mình, đây tức là bồ đề tâm. Do đó:

    ‘’Phát tâm bồ đề lớn
    Thì thành tựu quả lớn;
    Phát tâm bồ đề nhỏ
    Thì thành tựu quả nhỏ.’’

    Phát tâm bồ đề lớn, thì tức thân thành Phật, phát tâm bồ đề nhỏ, thì phải trải qua số kiếp mới thành đạo.
    Công đức tức là làm việc lợi ích cho chúng sinh. Ví như làm cầu, làm đường, xây chùa, xây tháp, đều là công đức. Làm việc thiện viên mãn thì có công đức. Do đó: ‘’Công đức vô lượng.’’ Song, Bồ Tát đem hết tất cả công đức hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Công đức ban đầu phát tâm không thể nghĩ bàn, tức là suốt thuở vị lai cũng nói không hết. Vì một khi phát tâm thì liền có thể thành Phật. Tức nhiên thành Phật, cho nên công đức vô cùng vô tận. Phẩm này là phẩm thứ mười bảy trong Kinh Hoa Nghiêm.

    Kinh văn: (Chữ in đậm là Kinh văn)

    Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Phật tử ! Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, đắc được bao nhiêu công đức ?

    Lúc đó, vị trời Ðế Thích đối với Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Xin hỏi Ngài, lúc Bồ Tát mới phát tâm bồ đề, thì cứu kính đắc được công đức, số lượng bao nhiêu ? Xin Ngài từ bi khai thị.
    Trời Ðế Thích gọi là Nhân Ðà La, còn gọi là Thích Ðề Hoàn Nhân. Sao ông ta lại được làm chủ trời Ðao Lợi ? Trong quá khứ, ông ta là một phụ nữ rất nghèo, nhưng có tâm lành lớn. Một ngày nọ, đi ngang qua một ngôi chùa, thấy chánh điện dột nát sập xệ, mái chùa chẳng còn nữa. Tượng Phật bị mưa gió, màu vàng trên thân chẳng còn nữa, mất đi sự trang nghiêm. Do đó, cô ta phát tâm muốn tu sửa lại, nhưng chẳng có tiền, biết làm sao ? Người có chí việc tất thành. Cô ta đi các nơi hóa duyên, cảm động ba mươi hai người nữ, đến trợ giúp cô ta hoàn thành tâm nguyện, chẳng bao lâu công đức viên mãn, thân Phật vàng óng ánh chói mắt, chánh điện tu sửa lại rất trang nghiêm. Sau khi cô ta chết đi, vì nhờ công đức đó, cho nên được sinh về cõi trời Ðạo Lợi làm Thiên tử. Còn ba mươi hai người nữ kia, cũng làm Thiên chủ ba mươi hai trời. Do đó có thể biết, phàm là phát tâm làm công đức, thì nhất định sẽ được quả báo thiện. Do đó:

    ‘’Trồng nhân lành được quả lành.’’

    Bồ Tát Pháp Huệ nói: Nghĩa này rất thâm sâu, khó nói, khó biết, khó phân biệt, khó tin hiểu, khó chứng, khó hành, khó thông đạt, khó suy gẫm, khó độ lượng, khó hướng vào.

    Vị Bồ Tát Pháp Huệ đối với trời Ðế Thích nói: Nghĩa lý của công đức này rất thâm áo, chẳng dễ gì nói ra, cũng chẳng dễ gì biết được, càng chẳng dễ gì phân biệt được. Số lượng công đức này, nói ra bạn cũng không thể tin, cũng không thể hiểu đặng. Công đức này cũng chẳng dễ gì chứng thật, cũng chẳng dễ gì tu hành. Khó thông đạt vô ngại, khó suy gẫm trắc lường. Không thể dùng thước để độ lượng, cũng không thể dùng cân để cân lường. Công đức này chẳng dễ gì hướng vào, số lượng rốt ráo có bao nhiêu ? Chẳng cách chi biết được.

    Tuy nhiên tôi sẽ nương sức oai thần của Phật để vì ông mà nói.

    Bồ Tát Pháp Huệ lại nói: Tuy nhiên công đức ban đầu phát tâm bồ đề rất thâm sâu, chẳng dễ gì biết được. Song, tôi (Bồ Tát Pháp Huệ) sẽ nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật để vì các ông đại chúng nói ra, công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm có bao nhiêu ?
    Tâm lý của chúng sinh đều có hiện tượng biến thái. Tin tà chẳng tin chánh, tin ác chẳng tin thiện. Giảng Phật pháp chân chánh cho họ nghe, thì họ chẳng muốn nghe. Giảng tà pháp cho họ nghe, thì họ thích nghe. Tại sao ? Vì tâm của chúng sinh có ô nhiễm dơ bẩn, cho nên hoan hỷ nghe pháp ô nhiễm, do đó:

    ‘’Căn lành sâu thì nghe lời thiện
    Tội nghiệt nặng thì nghe lời ác.’’

    Người có căn lành đến chùa Kim Sơn, thì giống như đến được nhà của mình. Song, người chẳng có căn lành, đến được chùa Kim Sơn, thì cảm thấy ở trong hầm băng, toàn thân chẳng thoải mái. Cho nên người đến chùa Kim Sơn để nghe kinh, đều là người có căn lành lớn. Song, có người tuy đến chùa Kim Sơn, nhưng chẳng hiểu quy cụ của chùa Kim Sơn, vẫn tùy tiện. Tập khí ở nhà cũng chẳng bỏ, mao bệnh cũng chẳng thay đổi. Mọi người phải biết, nếu tập khí mao bệnh chẳng trừ khử sạch, thì trí huệ không thể hiện tiền.

    Phật tử ! Nếu như có người dùng tất cả nhạc cụ, cúng dường hết thảy chúng sinh ở phương đông A tăng kỳ thế giới, trải qua một kiếp. Sau đó dạy khiến cho họ giữ năm giới thanh tịnh. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.

    Bồ Tát Pháp Huệ đưa ra một ví dụ để nói rõ công đức ban đầu phát tâm có bao nhiêu ? Là mười một cái ?
    1). Dụ lợi lạc chúng sinh.
    2). Dụ mau chóng bộ sát.
    3). Dụ biết kiếp thành hoại.
    4). Dụ khéo biết thắng giải.
    5). Dụ khéo biết các căn.
    6). Dụ khéo biết dục lạc.
    7). Dụ khéo biết phương tiện.
    8). Dụ khéo biết tâm kẻ khác.
    9). Dụ khéo biết tướng nghiệp.
    10). Dụ khéo biết phiền não.
    11). Dụ cúng Phật và Tăng.

    Bồ Tát Pháp Huệ gọi một tiếng Phật tử ! Nếu như có người dùng đủ thứ nhạc cụ, để cúng dường hết thảy chúng sinh ở phương đông A tăng kỳ thế giới (vô lượng số thế giới), trải qua thời gian một kiếp. Sau đó dạy khiến cho vô lượng vô số vô biên chúng sinh, giữ gìn năm giới thanh tịnh. Ở phương nam, phương tây, phương bắc, bốn hướng (đông bắc, đông nam, tây nam, tây bắc, bốn phương), phương trên, phương dưới, chín phương này cũng đều như vậy.
    Một kiếp là gì ? Lấy tuổi thọ con người tám vạn bốn ngàn tuổi làm tiêu chuẩn, mỗi một trăm năm giảm xuống một tuổi, thân cao giảm đi một tấc, giảm đến tuổi thọ con người mười tuổi là ngừng. Sau đo mỗi một trăm năm, tuổi thọ lại tăng lên một tuổi, thân cao tăng lên một tấc. Tăng cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi là ngừng, một lần tăng một lần giảm như vậy gọi là một kiếp.

    Phật tử ! Ý của ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ?

    Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ý nghĩ cảm giác của ông như thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ? Ông hãy nói cứu kính có bao nhiêu ?

    Đế Thích nói: Phật tử ! Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được. Ngoài ra, tất cả chẳng có ai lường được.

    Trời Ðế Thích đối với Bồ Tát Pháp Huệ nói rằng: Phật tử ! Công đức của người đó, cứu kính có bao nhiêu ? Chúng tôi chẳng biết được, ngoài ra, tất cả chúng sinh đều không thể nào lường được công đức đó có bao nhiêu ?

    Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Công đức người đó, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Như vậy một phần ức, một phần trăm ức, một phần ngàn ức, một phần trăm ngàn ức, một phần Na do tha ức, một phần trăm Na do tha ức, một phần ngàn Na do tha ức, một phần trăm ngàn Na do tha ức, một phần số, một phần ca la, một phần toán, một phần dụ, một phần ưu ba ni sa đà.

    Bồ Tát Pháp Huệ lại nói: Phật tử ! Công đức của người đó, tuy nhiều không thể nói, nhưng nếu so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ức, một phần ngàn ức, một phần trăm ngàn ức, một phần Na do tha, một phần trăm Na do tha, một phần ngàn Na do tha, một phần trăm ngàn Na do tha, một phần số, một phần ca la, một phần toán, một phần dụ, một phần ưu ba ni sa đà, có công đức nhiều như vậy cũng chẳng bằng một phần công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm.

    Phật tử ! Đừng nói đến ví dụ này. Nếu như có người, đem tất cả nhạc cụ, cúng dường cho hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua trăm kiếp. Sau đó dạy khiến cho họ tu mười điều lành.

    Phật tử ! Hãy tạm ngừng ví dụ ở trên. Bây giờ đưa ra một ví dụ khác nữa. Nếu như có người dùng đủ thứ nhạc cụ, để cúng dường hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua thời gian một trăm kiếp. Sau đó dạy khiến cho họ tu học mười điều lành. Mười điều lành là gì ? Tức là pháp ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, thân nghiệp chẳng phạm sát sinh, trộm cắp, tà dâm; khẩu nghiệp chẳng phạm nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói chửi mắng; ý nghiệp chẳng phạm tham, sân, si. Ðây là mười điều lành.

    Cúng dường như vậy, trải qua ngàn kiếp, sau đó dạy họ trụ ở tứ thiền. Trải qua trăm ngàn kiếp, dạy họ trụ ở bốn tâm vô lượng. Trải qua ức kiếp, dạy họ trụ ở bốn định vô sắc. Trải qua trăm ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Tu đà hoàn. Trải qua ngàn ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Tư đà hàm. Trải qua trăm ngàn ức kiếp, dạy họ trụ ở quả A na hàm. Trải qua Na do tha ức kiếp, dạy họ trụ ở quả A la hán. Trải qua trăm ngàn Na do tha ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Bích Chi Phật.

    Như vậy, cúng dường nhạc cụ cho hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua thời gian một ngàn kiếp. Sau đó giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở bốn thiền định (Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền), tu tập pháp bốn thiền định. Trải qua trăm ngàn kiếp thời gian, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở bốn tâm vô lượng.
    Trải qua thời gian ức kiếp để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở bốn định vô sắc (không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ), tu tập pháp bốn không định. Công đức này có thể nói là rất lớn. Song, cũng chẳng bằng một phần công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm. Trải qua trăm ức kiếp thời gian để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở quả Tu Ðà Hoàn (sơ quả A la hán), dịch là dự lưu hoặc nghịch lưu. Dự vào dòng Thánh nhân pháp tánh, nghịch dòng phàm phu lục trần, còn có bảy lần sinh tử. Khi chứng được sơ quả thì mắt chẳng tham sắc, tai chẳng tham tiếng, mũi chẳng tham hương, lưỡi chẳng tham vị, thân chẳng tham xúc, ý chẳng tham pháp. Chẳng bị cảnh giới sáu trần lay chuyển, tâm định như núi. Lúc đó, ngày ngày mưu đạo chẳng mưu thực. Chẳng mưu tức là chẳng nghĩ, chỉ nghĩ tu đạo, chẳng nghĩ ăn vật ngon, nếu bạn muốn trắc lượng mình có chứng quả hay không ? Thì hỏi chính tâm của mình: Có muốn ăn vật ngon chăng ? Nếu có tâm tham này, thì đó là chứng minh chẳng chứng quả, vẫn còn ở trong giai đoạn phàm phu tục tử. Sơ quả A la hán đi đường, thì chân chẳng dính đất, giống như đi trong hư không. Tại sao phải như vậy ? Vì có tâm từ bi; rất sợ đạp chết kiến và trùng nhỏ. Ai có thể đi được như vậy, thì người đó chứng được sơ quả A la hán. Chẳng có cảnh giới này mà nói chứng quả, là phạm tội đại vọng ngữ, tương lai chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
    Trải qua thời gian dài ngàn ức kiếp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở quả Tư Ðà Hàm (nhị quả A la hán), dịch là nhất lai, một lần sinh về trời, một lần sinh xuống nhân gian, thọ hai phen sinh tử, mới vào được Hữu dư Niết Bàn.
    Trải qua thời gian lâu dài trăm ngàn ức kiếp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở quả A na hàm (tam quả A la hán), dịch là bất lai, hoặc bất hoàn. Tức là chẳng đến dục giới thọ sinh tử, ở sắc giới, hoặc vô sắc giới, thọ một lần sinh tử, mới vào được Hữu dư Niết Bàn.
    Trải qua thời gian lâu dài Na do tha ức kiếp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở quả A la Hán, dịch là vô sinh. Tức là chẳng sinh chẳng diệt, đã chấm dứt phần đoạn sinh tử, chứng được Hữu dư Niết Bàn. Lúc này chứng được bậc vô học, học đạo đã viên mãn, chẳng cần tu học nữa.
    Trải qua thời gian lâu dài trăm ngàn Na do tha ức kiếp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở Bích Chi Phật. Thế gian chẳng có Phật mà khai ngộ thì gọi là Độc Giác, có Phật mà khai ngộ thì gọi là Duyên Giác. Công đức của người đó tuy rất rộng lớn, nhưng chẳng bằng một phần công đức ban đầu phát tâm.

    Phật tử ! Ý ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ?
    Đế Thích nói: Phật tử ! Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được.

    Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Theo ý của ông như thế nào ? Người đó trải qua vô lượng kiếp, cúng dường các thứ nhạc cụ cho tất cả chúng sinh và dạy khiến cho họ trụ ở tứ thiền, tứ vô lượng tâm, cho đến Bích Chi Phật .v.v... Công đức của người đó có nhiều chăng ? Ðế Thích nói: Phật tử ! Công đức của người đó được bao nhiêu ? Chúng ta chẳng cách chi biết được, chỉ có Phật mới biết được.

    Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Công đức của người đó, so với Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

    Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Công đức của người đó, so với Bồ Tát ban đầu phát tâm chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

    Tại sao ? Phật tử ! Vì tất cả chư Phật ban đầu phát tâm, thì chẳng những đem tất cả nhạc cụ cúng dường hết thảy chúng sinh trong mười phương A tăng kỳ thế giới. Trải qua trăm kiếp, cho đến trăm ngàn Na do tha ức kiếp, mà phát bồ đề tâm. Chẳng những vì dạy những chúng sinh đó tu năm giới, mười điều lành. Giáo hóa họ trụ ở bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, cho đến chứng quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán, quả Bích Chi Phật, mà phát tâm bồ đề.

    Ở trước đưa ra đủ thứ ví dụ, để hình dung công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, song chẳng có công đức nào sánh bằng. Là nhân duyên gì ? Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Mười phương ba đời tất cả chư Phật, lúc ban đầu phát tâm bồ đề, thì chẳng những đem tất cả nhạc cụ để cúng dường hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua trăm kiếp cho đến trăm ngàn Na do tha ức kiếp thời gian, vì đây để phát tâm bồ đề. Chẳng những vì giáo hóa hết thảy những chúng sinh đó, khiến cho họ tu năm giới mười điều lành. Hoặc vì dạy họ trụ ở bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc giáo hóa họ chứng được quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A na hàm, quả A la hán, quả Bích Chi Phật mà phát tâm bồ đề.

    Mà vì khiến cho chủng tánh của Như Lai chẳng dứt. Vì đầy khắp tất cả thế giới. Vì độ thoát tất cả thế giới chúng sinh. Vì biết hết tất cả thế giới thành hoại. Vì biết hết chúng sinh cấu tịnh trong tất cả thế giới. Vì biết hết tất cả thế giới tự tánh thanh tịnh. Vì biết hết tất cả tâm chúng sinh sở thích phiền não tập khí. Vì biết hết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia. Vì biết hết các căn phương tiện của tất cả chúng sinh. Vì biết hết tâm hành của tất cả chúng sinh. Vì biết hết trí ba đời của tất cả chúng sinh. Vì biết hết cảnh giới bình đẳng của tất cả chư Phật, mà phát tâm vô thượng bồ đề.

    Tại sao Bồ Tát phải phát tâm bồ đề ?
    1). Vì muốn tiếp nối huệ mạng của Phật, khiến cho chủng tánh của Phật chẳng dứt. Nghĩa là khiến cho huệ mạng của Phật tiếp tục tồn tại vĩnh viễn, khiến cho đèn trí huệ của Phật chiếu sáng mãi mãi, chiếu soi tất cả thế giới, vì khiến cho hạt giống Phật vĩnh viễn trụ thế.
    2). Vì khiến cho Phật pháp đầy khắp hết thảy tất cả thế giới. Phật thấy tất cả chúng sinh ở thế giới Ta Bà và thế giới khác đều khổ nhiều vui ít, trầm mê chẳng ngộ, cho nên khiến cho chúng sinh quay lưng trần lao hợp với giác ngộ, mới có thể lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.
    3). Vì độ thoát hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, cho nên Phật mới phát tâm bồ đề.
    4). Vì hết tất cả thế giới thành trụ hoại không bốn tướng. Trái đất có thành trụ hoại không, con người có sinh già bệnh chết, vật có sinh trụ dị diệt, nhất định là có lý do.
    5). Vì biết hết tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới, nhiễm như thế nào ? Ðược thanh tịnh như thế nào ? Nếu nhiễm pháp thế gian tức là nhiễm ô. Nếu xả bỏ pháp thế gian, bỏ mê về giác, trở về nguồn cội, tức là thanh tịnh.
    6). Vì biết hết tất cả thế giới tự tánh là thanh tịnh.
    7). Vì muốn biết sự ưa thích, sự phiền não, hết thảy tập khí ở trong tâm của tất cả chúng sinh.
    8). Vì muốn biết hết thảy chúng sinh, nguyên nhân gì, ở nơi này chết ? Lại sinh ra ở nơi khác.
    9). Vì biết hết đủ thứ căn tánh của tất cả chúng sinh, dùng pháp môn phương tiện gì có thể giáo hóa chúng sinh.
    10). Vì biết hết tâm nghĩ, biểu hiện hành động ở trong tâm của tất cả chúng sinh. Vì chúng sinh mê hoặc quá sâu, chẳng biết trở về nguồn cội, cho nên Bồ Tát mới phát tâm bồ đề.
    11). Vì biết hết trí huệ ba đời của tất cả chúng sinh. Ba đời là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Cũng có thể nói hôm qua, ngày nay, ngày mai. Và cũng có thể nói năm qua, năm nay, năm tới. Tóm lại, bất cứ nói như thế nào cũng đều có thể thành lập ba đời. Do đó ‘’pháp vô định pháp,’’ pháp chẳng có nhất định, đừng chấp trước. Nhất là cảnh giới Hoa Nghiêm, là viên dung vô ngại, nói ngang nói dọc cũng đều có lý.
    12). Vì muốn biết cảnh giới của tất cả chư Phật, cảnh giới của chúng sinh, cảnh giới của tâm, đều là bình đẳng. Do đó: ‘’Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba chẳng khác biệt.’’ Vì muốn biết đủ thứ nhân duyên, cho nên mới phát tâm vô thượng bồ đề, đây là ví dụ thứ nhất, dụ lợi lạc chúng sinh.
    Người phát tâm bồ đề, chẳng phải Phật, cũng chẳng phải Bồ Tát mà là chúng ta người tu đạo. Vì Phật, Bồ Tát đã phát tâm bồ đề. Tức đã biết đủ thứ cảnh giới vừa nói ở trên, đủ thứ đạo lý, thì phải dũng mãnh tinh tấn, đừng giải đãi, hoặc phóng dật.

    Phật tử ! Hãy miễn ví dụ này. Nếu như có người, trong một niệm, có thể đi qua phương đông A tăng kỳ thế giới. Niệm niệm như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ. Các thế giới đó không có ai hiểu được.

    Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Ví dụ vừa nói ở trên hãy tạm gát lại. Bây giờ đưa ra một ví dụ khác nữa: Nếu như có người, ở trong một niệm thời gian rất ngắn, trải qua các thế giới nhiều như số A tăng kỳ ở phương đông. Ở trong mỗi niệm đều trải qua các thế giới nhiều như vậy, trải qua suốt A tăng kỳ kiếp thời gian. Những thế giới đó, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ? Vì trong một niệm, trải qua vô lượng thế giới, trong một niệm, trải qua vô lượng vô biên vô số thế giới, hà huống là trải qua vô lượng số kiếp thời gian ? Thật chẳng có ai biết được cứu kính có bao nhiêu ? Chẳng cách chi tính được.

    Và người thứ hai, ở trong một niệm trải qua các thế giới, mà người ở trước đã trải qua A tăng kỳ kiếp. Như vậy cũng hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

    Và người thứ hai, cũng ở trong một niệm, trải qua các thế giới mà người thứ nhất đã trải qua A tăng kỳ. Cứ lần lượt như vậy, cho đến người thứ mười. Ở phương đông tình hình như vậy, ở phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới chín phương này cũng đều như vậy.

    Phật tử ! Trong mười phương này, phàm là có một trăm người, mỗi người cũng đều như vậy, trải qua các thế giới. Các thế giới đó, có thể biết được bờ mé, còn Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đắc được căn lành, chẳng có ai biết được bờ mé.

    Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Trong mười phương này, dù có một trăm người. Mỗi người đều trải qua các thế giới như vậy. Các thế giới đó sẽ tính biết được bờ mé của nó. Nhưng Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô thượng chánh đẳng chánh giác), công đức và căn lành đắc được, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

    Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì biết rõ các thế giới đã trải qua, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết rõ mười phương thế giới, mà phát tâm bồ đề.

    Tại sao không thể biết bờ mé công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề ? Phật tử ! Vì Bồ Tát tu pháp vô sở định. Nhưng Bồ Tát tĩnh cực tư động, muốn qua các thế giới nhiều như vậy để tìm chúng sinh có thể độ được, vì thấu rõ thế giới như thế nào ? Vì Bồ Tát có cầu biết dục, cho nên muốn đến nhiều thế giới để quán sát nhân duyên, mà phát tâm bồ đề. Tức cũng là tu đạo, y theo Phật pháp tu hành, mới đắc được giác đạo. Bồ Tát không việc tìm việc làm, việc không nên biết, Ngài muốn biết. Muốn thấu rõ mười phương thế giới mà phát tâm bồ đề. Tức cũng là muốn tu hành. Tu hành là chức nghiệp của Bồ Tát, Bồ Tát chẳng tu hành thì thất nghiệp.
    Phật pháp là gì ? Chỉ tóm tắt một lời đó là chìa khóa. Hiện tại giảng kinh, tức là giảng chìa khóa. Hiện tại thuyết pháp, tức là nói chìa khóa. Vốn chẳng mất đi, nhưng không biết dùng nó. Khi nào tìm được chìa khóa trí huệ này, thì lúc đó sẽ khai mở được cửa vô minh. Ðó tức là lúc khai ngộ. Mong các vị chuyên nhất để tìm chìa khóa trí huệ này.

    Đó là: Muốn biết rõ diệu thế giới, tức là thế giới thô, thế giới thô tức là diệu thế giới. Thế giới ngửa tức là thế giới úp, thế giới nhỏ tức là thế giới lớn. Thế giới lớn tức là thế giới nhỏ. Thế giới rộng tức là thế giới hẹp, thế giới hẹp tức là thế giới rộng. Một thế giới tức là bất khả thuyết thế giới, bất khả thuyết thế giới tức là một thế giới. Bất khả thuyết thế giới vào một thế giới, một thế giới vào bất khả thuyết thế giới. Thế giới dơ tức là thế giới sạch, thế giới sạch tức là thế giới dơ.

    Ðó là muốn biết rõ, diệu thế giới tức là thế giới thô; thế giới thô tức là thế giới diệu, mà phát tâm bồ đề. Gì là diệu thế giới ? Tức là thế giới trang nghiêm thanh tịnh, giống như thế giới Cực Lạc. Gì là thế giới thô ? Tức là thế giới năm trược (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược), như thế giới Ta Bà. Muốn kiến lập thế giới thanh tịnh trang nghiêm, thì phải ở trong thế giới năm trược mà kiến lập. Muốn chuyển biến thế giới năm trược thành thế giới tốt đẹp, thì phải ở tại đây dụng công phu, cho nên thế giới thanh tịnh trang nghiêm có thể biến thành thế giới thô xấu, thế giới năm trược có thể biến thành thế giới tốt đẹp. Có thể tốt đẹp như thế nào ? Có thể thô xấu như thế nào ? Thì quyết định ở tại tư tưởng của mình. Trong tâm chẳng có tư tưởng nhiễm ô, tức là thế giới diệu (tốt đẹp); nếu trong tâm có rất nhiều vọng tưởng, dục niệm, tham sân si .v.v... tức là thế giới thô xấu. Tóm lại, thế giới diệu và thế giới thô, chẳng lìa khỏi tâm thế giới của bạn. Tâm thế giới chẳng lìa khỏi một tâm niệm. Một tâm niệm có thể trở thành thế giới thanh tịnh trang nghiêm; một tâm niệm có thể trở thành thế giới thô năm trược.
    Thế giới ngửa tức là thế giới úp; thế giới úp tức là thế giới ngửa. Gì là thế giới ngửa ? Tức là thế giới cao. Gì là thế giới úp ? Tức là thế giới thấp. Thế giới cao thấp là một thể. Tại sao thành tựu thế giới ngửa ? Tại sao thành tựu thế giới úp ? Cơ sở của thế giới úp tức là thế giới ngửa, căn bản của thế giới ngửa tức là thế giới úp.
    Thế giới nhỏ tức là thế giới lớn; thế giới lớn tức là thế giới nhỏ. Thế giới nhỏ tụ tập nhỏ mà thành lớn, có thể trở thành thế giới lớn. Thế giới lớn phân ra, tức cũng là một bộ phận của thế giới nhỏ, cho nên lớn nhỏ vô ngại.
    Thế giới rộng tức là thế giới hẹp; thế giới hẹp tức là thế giới rộng. Thế giới hẹp mà mở rộng ra, tức là thế giới rộng. Thế giới rộng mà thu hẹp lại thì trở thành thế giới hẹp.
    Một thế giới tức là bất khả thuyết thế giới; bất khả thuyết thế giới tức là một thế giới. Tại sao nói như vậy ? Vì thế giới với thế giới có mối quan hệ với nhau. Mỗi hạt bụi và mỗi thế giới, đều thông đạt với nhau. Giống như sóng điện radar, tâm điện của chúng ta chúng sinh thông đạt với nhau. Tại sao đắc được tha tâm thông ? Vì có sóng điện tâm linh tác dụng cảm ứng. Trong mỗi lỗ chân lông, đều có thiết bị máy radar (máy ra đa), tu hành thành công thì máy ra đa của lỗ chân lông đều phát sinh tác dụng, máy ra đa và máy ra đa cùng nhau thông đạt vô ngại, sóng điện và sóng điện cùng nhau thông đạt vô ngại. Cho nên nói tha tâm thông là việc rất bình thường, chẳng có gì lạ lùng. Giống như bây giờ có người chẳng biết xử dụng máy vi tính và máy ra đa. Nếu học qua cách thức xử dụng thì mới xử dụng được. Hiện tại chúng ta tu hành, tức là học kỹ thuật máy vi tính và máy ra đa trong tâm linh.
    Không thể nói thế giới vào được trong một thế giới, một thế giới cũng có thể vào trong bất khả thuyết thế giới. Tại sao ? Vì nó cùng nhau thông đạt vô ngại.
    Thế giới dơ tức là thế giới sạch; thế giới sạch tức là thế giới dơ. Thế giới dơ bẩn có thể biến thành thế giới sạch sẽ. Biến như thế nào ? Do đó ‘’Tất cả do tâm tạo.’’ Tâm thanh tịnh rồi, thì thế giới sẽ thanh tịnh, thấy gì cũng đều thanh tịnh, giống như người thấy nước là nước, Phật Bồ Tát thấy nước là lưu ly, quỷ đói thấy nước là lửa ngọn. Cùng tình hình như vậy, thế giới thanh tịnh cũng có thể biến thành dơ bẩn. Biến như thế nào ? Tâm có tư tưởng nhiễm dơ bẩn, thì thấy gì cũng đều chẳng thanh tịnh. Dù đến được thế giới thanh tịnh trang nghiêm, cũng cảm thấy là thế giới năm trược. Vì trong tâm chẳng sạch sẽ. Do đó: ‘’Mười pháp giới chẳng lìa một tâm niệm.’’

    Vì muốn biết trong một đầu sợi lông, tất cả thế giới tánh khác biệt, trong tất cả thế giới một đầu sợi lông một thể tánh. Muốn biết trong một thế giới sinh ra tất cả thế giới. Muốn biết tất cả thế giới không thể tánh. Muốn dùng một tâm niệm biết hết tất cả thế giới rộng lớn, chẳng chướng ngại, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Bồ Tát muốn biết tánh khác biệt của tất cả thế giới trong một đầu sợi lông, đều có quan hệ với nhau. Một thể tánh một đầu sợi lông trong tất cả thế giới. Bồ Tát muốn biết trong một thế giới sinh ra tất cả thế giới, cho nên hay sinh ra vô lượng thế giới. Mỗi hạt bụi trong mỗi thế giới, có thể thành tựu vô lượng vô biên thế giới. Bồ Tát muốn biết tất cả thế giới chẳng có một thể tánh. Ðều là nhân duyên mà sinh ra, nhân duyên mà diệt. Thành trụ hoại không chẳng phải là một thể tánh cứu kính bất hoại. Bồ Tát muốn dùng một tâm niệm, biết hết thế giới rộng lớn vô biên, mà chẳng có chướng ngại, cho nên phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ hai, dụ mau chóng bộ sát.

    Phật tử ! Hãy miễn ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được kiếp số thành hoại A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Niệm niệm như vậy hết A tăng kỳ kiếp. Các số kiếp đó, chẳng có ai biết được bờ mé.

    Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ ở trước vừa nói. Hiện tại lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, ở trong một niệm, biết được kiếp số thành trụ hoại không A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Trong mỗi niệm đều như thế, hết số kiếp A tăng kỳ, trải qua thời gian dài như vậy. Kiếp số nhiều như vậy, cứu kính có bao nhiêu ? Chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

    Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được kiếp số của người thứ nhất biết trong A tăng kỳ kiếp. Nói rộng như vậy, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

    Lại có người thứ hai, cũng trong một tâm niệm, biết được kiếp số của người thứ nhất biết trong A tăng kỳ kiếp thời gian. Tức cũng là trong khoảng một niệm, liền trải qua thời gian dài nhất của người ở trước. Nói rộng như vậy, cho đến người thứ mười. Chín phương kia còn lại cũng đều như vậy.

    Phật tử ! Kiếp số thành hoại trong mười phương A tăng kỳ thế giới đó, có thể biết được bờ mé, còn công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.

    Phật tử ! Kiếp số thành trụ hoại không trong mười phương A tăng kỳ thế giới, còn có thể biết được bờ mé của nó, song Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đắc được công đức và căn lành, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

    Tại sao ? Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết kiếp số thành hoại của các thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết kiếp số thành hoại, của hết thảy tất cả thế giới không còn sót, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Tại sao vậy ? Bồ Tát chẳng có bờ mé nhất định, chẳng có pháp độ nhất định. Nhưng vì muốn biết các thế giới đó thành, trụ, hoại, không, như thế nào ? Vì bốn tướng kiếp số này, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết kiếp số thành trụ hoại không của tất cả thế giới, không còn sót thừa, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Đó là: Biết kiếp dài và kiếp ngắn bình đẳng, kiếp ngắn và kiếp dài bình đẳng. Một kiếp và vô số kiếp bình đẳng, vô số kiếp và một kiếp bình đẳng. Kiếp có Phật và kiếp không có Phật bình đẳng, kiếp không có Phật và kiếp có Phật bình đẳng. Trong kiếp một vị Phật có bất khả thuyết vị Phật bình đẳng, trong kiếp bất khả thuyết vị Phật có một vị Phật bình đẳng. Kiếp hữu lượng và kiếp vô lượng bình đẳng, kiếp vô lượng và kiếp hữu lượng bình đẳng. Kiếp bất khả thuyết và một niệm bình đẳng, một niệm và kiếp bất khả thuyết bình đẳng. Tất cả kiếp vào phi kiếp, phi kiếp vào tất cả kiếp.

    Ðó là Bồ Tát muốn biết kiếp dài và kiếp ngắn là bình đẳng; kiếp ngắn và kiếp dài cũng là bình đẳng. Kiếp dài chẳng lìa một niệm, kiếp ngắn cũng chẳng lìa một niệm. Trong một niệm dài ngắn bình đẳng vô ngại. Giống như não tức là nước, nước tức là băng. Lại giống như phiền não tức bồ đề, bồ đề tức phiền não, đều bình đẳng.
    Một kiếp và nhiều kiếp là bình đẳng; nhiều kiếp và một kiếp cũng là bình đẳng. Một kiếp cũng là kiếp, nhiều kiếp cũng là kiếp. Trong đó vốn chẳng có quan hệ thời gian, cho nên nói là bình đẳng.
    Kiếp có Phật và kiếp không có Phật là bình đẳng; kiếp không có Phật và kiếp có Phật cũng là bình đẳng. Kiếp có Phật ra đời và kiếp chẳng có Phật ra đời đều là bình đẳng, chẳng có phân biệt.
    Trong kiếp một vị Phật có bất khả thuyết vị Phật ra đời; trong kiếp bất khả thuyết vị Phật có một vị Phật ra đời đều là bình đẳng, chẳng có phân biệt.
    Kiếp hữu lượng và kiếp vô lượng là bình đẳng; kiếp vô lượng và kiếp hữu lượng cũng là bình đẳng. Kiếp hữu tận và kiếp vô tận là bình đẳng; kiếp vô tận và kiếp hữu tận là bình đẳng. Ðây tức là chẳng có tâm phân biệt. Nếu có tâm phân biệt, thì tất cả đều chẳng bình đẳng.
    Kiếp bất khả thuyết thời gian và kiếp một niệm thời gian bình đẳng; kiếp thời gian một niệm và kiếp bất khả thuyết thời gian cũng bình đẳng. Tất cả kiếp vào được trong phi kiếp; phi kiếp vào được trong tất cả kiếp, đều là bình đẳng, chẳng có chướng ngại.

    Muốn ở trong một niệm, biết hết tiền tế hậu tế và kiếp thành hoại tất cả thế giới hiện tại, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đây gọi là ban đầu phát tâm đại thệ trang nghiêm, biết rõ tất cả kiếp thần thông trí.

    Bồ Tát muốn ở trong một niệm, biết hết kiếp số thành trụ hoại không, của tất cả thế giới quá khứ vị lai hiện tại, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây gọi là ban đầu phát tâm đại thệ nguyện trang nghiêm. Trí huệ thấu rõ biết tất cả kiếp thần thông diệu dụng. Ðây là ví dụ thứ ba, dụ biết kiếp thành hoại.

    Phật tử ! Hãy thôi ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Niệm niệm như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ.

    Phật tử ! Hãy tạm ngừng lại ví dụ vừa nói ở trên. Hiện tại đưa ra một ví dụ khác nữa. Nếu như có người, trong một tâm niệm, biết được đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Trong niệm niệm đều biết được, đủ thứ kiến giải khác nhau của hết thảy chúng sinh trong A tăng kỳ thế giới, mà trải qua thời gian số kiếp A tăng kỳ.

    Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được người ở trước biết các kiến giải của chúng sinh trong A tăng kỳ kiếp. Như vậy cũng hết A tăng kỳ kiếp. Lần lượt cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

    Lại có người thứ hai, có thể ở trong một niệm, biết được người ở trước biết các kiến giải khác nhau của chúng sinh trong A tăng kỳ kiếp. Cũng như vậy hết A tăng kỳ kiếp thời gian, lần lượt đến người thứ mười ở chín phương kia cũng lại như thế.

    Phật tử ! Đủ thứ kiến giải khác nhau của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng có ai biết được bờ mé.

    Các vị Phật tử ! Ðủ thứ các kiến giải của tất cả chúng sinh trong mười phương, đều có thể biết được cứu kính có bao nhiêu ? Nhưng công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

    Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết kiến giải của chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì biết hết đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Tại sao vậy ? Phật tử ! Bồ Tát tu pháp bất định, nhưng vì muốn biết các kiến giải khác nhau của nhiều chúng sinh đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Đó là: Vì muốn biết vô biên kiến giải khác nhau. Vì một chúng sinh kiến giải và vô số chúng sinh kiến giải bình đẳng. Vì muốn được bất khả thuyết kiến giải khác biệt phương tiện trí quang minh. Vì muốn biết hết mỗi mỗi kiến giải khác nhau của biển chúng sinh không thừa sót. Vì muốn biết đủ thứ vô lượng kiến giải thiện bất thiện của quá khứ hiện tại vị lai. Vì muốn biết kiến giải tương tợ chẳng tương tợ. Vì muốn biết tất cả kiến giải tức là một kiến giải, một kiến giải tức là tất cả kiến giải. Vì muốn được sức kiến giải của Như Lai.

    Bồ Tát vì muốn biết biết tất cả kiến giải khác nhau, chẳng có bờ mé. Vì một chúng sinh kiến giải và nhiều chúng sinh kiến giải là bình đẳng. Bồ Tát vì muốn đắc được bất khả thuyết kiến giải khác nhau, phương tiện trí huệ quang minh. Bồ Tát vì muốn biết hết biển chúng sinh mỗi mỗi kiến giải khác biệt, không thừa sót. Bồ Tát vì muốn biết đủ thứ vô lượng kiến giải, thiện, bất thiện của đời quá khứ hiện tại vị lai. Bồ Tát vì muốn biết kiến giải tương tợ (kiến giải thế gian) và kiến giải chẳng tương tợ (kiến giải xuất thế). Bồ Tát vì muốn biết tất cả kiến giải tức là một kiến giải; một kiến giải tức là tất cả kiến giải. Bồ Tát vì muốn đắc được giải thoát thập lực của Như Lai, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Vì muốn biết hữu thượng kiến giải, vô thượng kiến giải, hữu dư kiến giải, vô dư kiến giải, đẳng kiến giải, bất đẳng kiến giải khác nhau.

    Bồ Tát vì muốn biết hữu thượng kiến giải, tức là trí huệ kiến giải của Bồ Tát. Vô thượng kiến giải, tức là trí huệ kiến giải của Phật. Hữu dư kiến giải, tức là kiến giải của chín pháp giới chúng sinh. Vô dư kiến giải, tức là kiến giải của Phật pháp giới. Ðẳng kiến giải, tức là tất cả đẳng đẳng kiến giải. Bất đẳng kiến giải, tức là kiến giải bất tương đồng. Vì có đủ thứ kiến giải khác nhau, cho nên Bồ Tát phát tâm vô thượng bồ đề.

    Vì muốn biết hữu y kiến giải, vô y kiến giải, cộng kiến giải, bất cộng kiến giải, hữu biên kiến giải, vô biên kiến giải, sai biệt kiến giải, vô sai biệt kiến giải, thiện kiến giải, bất thiện kiến giải, thế gian kiến giải, xuất thế gian kiến giải khác nhau.

    Bồ Tát vì muốn biết kiến giải có sở y, kiến giải vô sở y; kiến giải cộng đồng, kiến giải chẳng cộng đồng; kiến giải hữu biên, kiến giải vô biên; kiến giải có khác biệt, kiến giải chẳng khác biệt; kiến giải thiện, kiến giải chẳng thiện; kiến giải thế gian, tức là sự hiểu biết của phàm phu. Kiến giải xuất thế gian, tức là sự hiểu biết của Thánh nhân. Có đủ sự khác biệt, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Vì muốn ở nơi tất cả diệu kiến giải, đại kiến giải, vô lượng kiến giải, chánh lập kiến giải trung, đắc được trí không chướng ngại giải thoát của Như Lai.

    Bồ Tát vì muốn ở trong tất cả diệu kiến giải, đại kiến giải, vô lượng kiến giải, chánh lập kiến giải trung, đắc được trí không chướng ngại giải thoát của Như Lai, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Vì muốn dùng vô lượng phương tiện, thảy đều biết tất cả cõi chúng sinh trong mười phương. Mỗi mỗi chúng sinh hiểu thanh tịnh, hiểu ô nhiễm, hiểu rộng lớn, hiểu giản lược, hiểu vi tế, hiểu thô, không thừa sót.

    Bồ Tát vì muốn dùng vô lượng phương tiện, thảy đều biết hết tất cả cõi chúng sinh trong mười phương, mỗi một chúng sinh hiểu thanh tịnh, hiểu nhiễm ô, hiểu rộng lớn, hiểu hạn hẹp, hiểu vi tế, hiểu thô, mà triệt để minh bạch, chẳng thừa sót mà phát tâm Vô thượng chánh chẳng chánh giác.

    Vì đều muốn biết giải thâm mật, giải phương tiện, giải phân biệt, giải tự nhiên, giải theo nhân mà khởi lên, giải theo duyên mà khởi lên. Tất cả lưới giải, đều không thừa sót. Mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Bồ Tát vì muốn biết hoàn toàn về kiến giải thâm mật, tức là kiến giải chân thật. Kiến giải phương tiện, tức là phương tiện khéo léo, tức là nhân sự chế nghi, nhân địa chế nghi, nhân nhơn chế nghi. Kiến giải phân biệt, tức là phân tích tử tế tất cả đạo lý. Kiến giải tự nhiên, tức là rất tự nhiên mà minh bạch. Kiến giải theo nhân khởi lên, tức là tùy theo đủ thứ nhân mà khởi lên đủ thứ kiến giải. Kiến giải theo duyên khởi lên, tức là tùy theo đủ thứ duyên khởi lên đủ thứ kiến giải. Tất cả kiến giải, giống như tấm lưới. Nếu minh bạch thì đắc được giải thoát. Nếu chẳng minh bạch thì vĩnh viễn bị khốn ở trong lưới. Vì minh bạch hết hoàn toàn, chẳng thừa sót mà phát tâm vô thượng chánh đảng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ thư, dụ khéo biết thắng giải.

    Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người nơi một tâm niệm, biết được các căn khác nhau của tất cả chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, trải qua số kiếp A tăng kỳ.

    Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ ở trên. Hiện tại lại đưa ra một ví dụ khác nữa. Ví như có người ở trong một tâm niệm, biết được các căn (sáu căn) khác nhau của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Trong niệm niệm đều như vậy, trải qua thời gian dài A tăng kỳ kiếp.

    Có người thứ hai, nơi một tâm niệm biết được người ở trước biết các căn lành khác nhau trong niệm niệm trải qua số kiếp A tăng kỳ. Nói rộng ra như vậy, cho đến người thứ mười, phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như vậy.

    Lại có người thứ hai, trong một tâm niệm, biết được người thứ nhất mỗi mỗi tâm niệm biết các căn khác nhau của hết thảy tất cả chúng sinh thời gian dài A tăng kỳ kiếp. Nói rộng ra như vậy, cho đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy.

    Phật tử ! Các căn khác nhau của hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới đó, có thể biết được bờ mé. Còn công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.

    Các vị Phật tử ! các căn khác nhau của hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới đó, có thể biết được bờ mé của nó. Song, công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đắc được, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

    Tại sao ? Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, chỉ vì muốn biết căn tánh của chúng sinh ở trong các thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ căn tánh khác nhau của tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến muốn biết hết tất cả lưới các căn tánh, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Tại vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng có pháp độ nhất định, cho nên chẳng có giới hạn. Nhưng vì muốn biết các căn tánh của hết thảy tất cả chúng sinh trong vô số thế giới đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ các căn tánh khác nhau của hết thảy tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới. Có người lợi căn, thì có trí huệ. Có người độn căn, thì ngu si. Có người có căn lành, có người có căn ác. Có đủ thứ sự khác nhau. Nói rộng ra, cho đến muốn biết hết tất cả lưới các căn, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ năm, dụ khéo biết các căn.

    Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ sự ưa thích của hết thảy chúng sinh, trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt nói rộng ra, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

    Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ vừa nói ở trên. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, trong một tâm niệm, biết được đủ thứ sự ưa thích của hết thảy tất cả chúng sinh, trong vô số thế giới ở phương đông. Nghĩa là một loại chúng sinh đó ưa thích thứ đó, đều hoàn toàn biết hết. Trong mỗi tâm niệm cũng đều như vậy, hết thời gian A tăng kỳ kiếp. Từng người từng người, cho đến người thứ mười. Chín phương kia cũng tình hình như vậy.

    Hết thảy sự ưa thích của chúng sinh trong mười phương, có thể biết được. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.

    Hết thảy sự ưa thích của chúng sinh trong mười phương, có thể biết được bờ mé của nó. Song, công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đắc được, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

    Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn. Nhưng Bồ Tát vì muốn biết sự ưa thích của chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ sự ưa thích của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến vì muốn biết lưới tất cả sự ưa thích, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Tại vì sao ? Phật tử ! Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, chẳng có phạm vi nhất định. Nhưng Bồ Tát vì muốn biết sự ưa thích của hết thảy chúng sinh trong nhiều thế giới đó, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ sự ưa thích của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới. Nếu nói rộng ra thì cho đến muốn biết tất cả lưới sự ưa thích mà phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ sáu, dụ khéo biết sự ưa thích.

    Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng ra như vậy, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như vậy.

    Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ vừa nói ở trước. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, trong một niệm, biết được đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Tình hình như vậy nói rộng ra cho đến người thứ mười. Chín phương kia còn lại cũng giống như vậy.

    Đủ thứ phương tiện của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng ai biết được bờ mé.

    Ðủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới đó, có thể biết được bờ mé của nó. Song, công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chẳng ai biết được bờ mé của nó.

    Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn. Nhưng vì muốn biết đủ thứ phương tiện của chúng sinh trong những thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến vì muốn biết tất cả lưới phương tiện, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Tại sao vậy ? Phật tử ! Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, chẳng có giới hạn nhất định. Nhưng vì muốn biết đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong nhiều thế giới đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ phương tiện, của hết thảy chúng sinh trong nhiều thế giới, nói rộng ra cho đến vì muốn biết hết tất cả lưới phương tiện, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ mười, dụ khéo biết phương tiện.

    Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ tâm khác biệt, của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng cho đến mười phương thế giới, đủ thứ tâm niệm của hết thảy chúng sinh, đều biết được bờ mé.

    Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ vừa nói ở trước. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, trong một tâm niệm, biết được đủ thứ tâm khác nhau của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng ra cho đến mười phương thế giới, đủ thứ tâm khác nhau của hết thảy chúng sinh, cũng biết được bờ mé.

    Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?

    Công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chẳng có ai biết được bờ mé của nó. Tại sao không thể biết được bờ mé của nó?

    Phật tử ! Bồ Tát không giới hạn, nhưng vì muốn biết tâm của những chúng sinh đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì muốn biết hết đủ thứ tâm khác biệt của vô biên chúng sinh trong pháp giới, cho đến muốn biết tất cả lưới tâm, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Phật tử ! Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, chẳng có pháp độ nhất định. Nhưng vì muốn biết tâm của nhiều chúng sinh đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ tâm niệm của vô biên vô số chúng sinh, trong tận cùng pháp giới hư không giới, cho đến muốn biết tất cả lưới tâm, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ tám, dụ khéo biết tâm của kẻ khác.

    Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ nghiệp khác biệt của hết thảy chúng sinh, trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng cho đến mười phương chúng sinh đủ thứ nghiệp khác biệt, đều có thể biết được bờ mé.

    Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ vừa nói ở trên. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, nơi một niệm, biết được đủ thứ nghiệp khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng ra, cho đến trong mười phương thế giới, đủ thứ nghiệp khác nhau của hết thảy chúng sinh. Bồ Tát có thể biết được bờ mé của nó.

    Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?

    Công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đắc được là bao nhiêu ? Chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao không thể biết được ?

    Phật tử ! Bồ Tát không giới hạn, nhưng vì muốn biết nghiệp của các chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết nghiệp của tất cả chúng sinh trong ba đời, cho đến muốn biết tất cả lưới nghiệp, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, chẳng có giới hạn nhất định. Nhưng vì muốn biết nghiệp báo của bao nhiêu chúng sinh đó, cho nên phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết nghiệp báo của tất cả chúng sinh ba đời, cho đến muốn biết tất cả lưới nghiệp, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ chín, dụ khéo biết tướng nghiệp.

    Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ phiền não, của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, cho đến hết số kiếp A tăng kỳ. Đủ thứ các phiền não khác biệt đó, chẳng có ai biết được bờ mé.

    Phật tử ! Hãy tạm ngưng ví dụ vừa nói ở trên. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, trong một tâm niệm, biết được đủ thứ phiền não của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Trong niệm niệm đều như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ thời gian. Ðủ thứ các phiền não khác biệt đó, chẳng có người nào biết được bờ mé của nó.

    Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được người thứ nhất biết các phiền não khác biệt của chúng sinh trong A tăng kỳ kiếp. Như vậy lại hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt nói rộng ra cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.

    Lại có người thứ hai, trong một tâm niệm, biết được người thứ nhất biết phiền não của chúng sinh trải qua thời gian số kiếp A tăng kỳ. Cứ như vậy, lại hết số kiếp A tăng kỳ. Nói rộng ra cho đến người thứ mười. Chín phương kia còn lại, cũng đều như vậy.

    Phật tử ! Phiền não khác biệt của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?

    Phật tử ! Trong vô số thế giới ở mười phương, hết thảy chúng sinh, đều có phiền não khác nhau. Chúng sinh có vô lượng vô biên, phiền não cũng có vô lượng vô biên, cho nên có đủ thứ khác nhau. Tuy có nhiều phiền não như vậy, nhưng cũng có thể biết được bờ mé của nó. Song, công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đắc được, cứu kính có bao nhiêu ? Bờ mé của nó đến đâu ? Chẳng có người nào biết được. Tại sao không biết được bờ mé của căn lành?

    Phật tử ! Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết phiền não của chúng sinh trong những thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết phiền não khác biệt của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Phật tử ! Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, cho nên chẳng giới hạn. Nhưng vì muốn biết phiền não của hết thảy chúng sinh trong những thế giới đó, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ phiền não khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Phiền não là gì ? Tức là phiền tâm não thân. Nói rộng ra thì có đến tám vạn bốn ngàn, quy về tức là tham sân si. Phiền não của tham, tham chẳng biết chán, tham mà chẳng được, đều có phiền não. Vật chẳng có thì tìm đủ ngàn phương vạn kế để cho được. Ðã có rồi thì lại sợ mất đi, đây đều là phiền não. Phiền não của sân, tham được thì vui mừng, tham chẳng được thì sinh tâm sân hận, tức cũng là nóng giận. Một khi nổi nóng thì sẽ thiêu sạch tất cả công đức. Do đó:

    ‘’Ngàn ngày nhặt củi
    Một đốm lửa nhỏ thiêu sạch.’’

    Phiền não của ngu si, tức là vô minh tác quái. Có vô minh thì sanh ra tâm ái. Ái gì ? Thích hưởng thụ, thích vui năm dục. Vì muốn hưởng thụ, nên bất cứ những gì, cũng đều muốn lấy làm của riêng mình. Như vậy thì sẽ làm việc điên đảo, chẳng phân trắng đen, chẳng rõ thiện ác. Ðây tức là biểu hiện của ngu si.

    Đó là vì muốn biết phiền não nhẹ, phiền não nặng, phiền não ẩn tàng, phiền não sinh khởi, mỗi mỗi chúng sinh có vô lượng phiền não, đủ thứ khác biệt, đủ thứ giác quán, tịnh trị tất cả các tạp nhiễm.

    Bồ Tát muốn biết nguyên lai của tất cả phiền não, phiền não nhẹ, tức là phiền não chẳng trọng yếu, tức cũng là phiền não nhỏ của mười hoặc. Phiền não nặng, tức là phiền não rất trọng yếu, tức cũng là đại phiền não của tám hoặc. Phiền não ẩn tàng ở bên trong. Phiền não sinh khởi, tức là phiền não sinh ra tất cả. Mỗi chúng sinh, đều có vô lượng vô biên phiền não, có đủ thứ khác nhau; có đủ thứ giác quán khác nhau. Thanh tịnh tu trị tất cả phiền não biến thành bồ đề, biến tất cả tư tưởng nhiễm ô thành tư tưởng thanh tịnh. Vì nguyên nhân đó, cho nên Bồ Tát phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Vì muốn biết hết vô minh phiền não nương tựa, phiền não ái tương ưng. Dứt trừ tất cả phiền não kết trong các loài.

    Bồ Tát muốn biết vô minh phiền não nương tựa, trong đo có hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái .v.v... phiền não tương ưng. Phải chặt đứt tất cả phiền não kết trong các cõi, cho nên Bồ Tát phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Phiền não kết có ba thứ: Một là dục kết, tức là tất cả ái của dục giới. Hai là hữu kết, tức là tất cả ái sở hợp thành của sắc giới và vô sắc giới. Ba là vô minh kết, tức là vô minh ba cõi. Tam kết tức là ba lậu, nếu si ái chặt đứt, thì vĩnh viễn đoạn trừ dòng sinh tử.

    Vì muốn biết phần phiền não tham, phần phiền não sân, phần phiền não si, phiền não đẳng phần. Đoạn trừ tất cả gốc rễ phiền não.

    Tại sao Bồ Tát phát tâm bồ đề ? Vì muốn giáo hóa chúng sinh, cho nên phát tâm tu hành. Tu hành thành tựu thì mới giáo hóa được chúng sinh. Nếu muốn giáo hóa chúng sinh, thì trước hết phải biết căn tánh của chúng sinh. Nếu muốn biết căn tánh của chúng sinh, thì trước hết phải biết dục (lòng ưa muốn) của chúng sinh. Tức cũng là chúng sinh hoan hỷ gì ? Dục tức là tham dục, tham dục nhiều thì phiền não nhiều, tham dục ít thì phiền não ít. Bồ Tát muốn biết mỗi chúng sinh có bao nhiêu tham dục ? Cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
    Phần phiền não tham: Ai ai cũng đều có phần, không tham danh thì tham lợi. Tham danh thì chết vì lửa, tham lợi thì chết vì nước. Danh là thứ hại người, lợi cũng là thứ hại người, song ai ai cũng chẳng nhận thức nó, cho nên đều tham. Có người tham tài, có người tham sắc, có người tham ăn, có người tham ngủ. Do đó:

    ‘’Tài sắc danh thực thùy
    Địa ngục năm căn dành sẵn.’’

    Khi tham thì cho rằng là điều tốt, chẳng biết tham tới tham lui, cuối cùng sẽ đọa vào địa ngục. Trên thế giới chỉ có hai hạng người, một hạng người là vì danh, một hạng người là vì lợi. Lấy người xuất gia mà nói, thì muốn làm đại hòa thượng, đại pháp sư, tham đến già thì muốn làm lão hòa thượng, lão pháp sư. Tham đồ muốn làm pháp sư có danh vọng nhất thế giới, làm hòa thượng có thế lực nhất, song mình vẫn chẳng biết, tham làm lão pháp sư thì lìa tham tử pháp sư chẳng bao xa; tham làm lão hòa thượng thì tham tử hòa thượng chẳng bao xa. Tham tới tham lui tham chết rồi thì hai tay hoàn không, tùy theo nghiệp mà đi. Phải biết, tham tiền tài thì có thể chết về tiền tài; tham sắc đẹp thì sẽ chết vì sắc đẹp; tham danh lợi thì sẽ chết vì danh lợi, tham ăn thì sẽ chết vì ăn; tham ngủ thì sẽ chết vì ngủ. Người tham ngủ thì càng ngủ càng hồ đồ, càng hồ đồ thì càng muốn ngủ, ngủ tới ngủ lui thì ngủ chết luôn, thật là đáng thương xót !
    Phần phiền não sân: Tức là nóng giận. Vì tâm tham không thể mãn nguyện thì sinh ra tâm sân hận. Nếu nhẹ thì ôm hận trong tâm, nếu nặng thì phát sinh chiến tranh. Bạn tham tôi đoạt, thậm chí bạn chết tôi sống. Ví như nước này với nước kia đánh nhau, đều do tâm sân của vị lãnh tụ nguyên thủ mà ra. Nếu chẳng có tâm sân thì hai nước chẳng có chiến tranh, nhân dân được bình an vô sự. Tại sao thế giới có chiến tranh ? Vì do nguyên thủ quốc gia khởi tâm tham, muốn xâm lược đất đai của nước khác, chiếm lợi ích của nước khác. Nguyên thủ của nước khác, vì giữ gìn quốc gia, chẳng muốn lợi ích bị đoạt lấy đi, bèn phát sinh xung đột với nước khác, hoặc là chiến tranh. Dẫn đến dân của hai nước gặp nạn, chết vô số, lầm than khổ cực. Nghiên cứu tỉ mỉ sự phát sinh chiến tranh, đều vì nguyên thủ của hai nước giận dữ mà đưa đến chiến tranh, người dân chết vô số, tổn thất vô số của cải tài sản. Ðây là phần phiền não sân.
    Phần phiền não si: Tức là ngu si, chẳng rõ sự lý. Người ngu si chẳng có lý tánh, chẳng cứ tất cả, thậm chí giết người phóng lửa cũng dám làm, chẳng suy nghĩ, chẳng lường hậu quả.
    Phiền não đẳng phần: Tức là tham sân si ba phần đều nhiều. Ví như phiền não tham có bao nhiêu ? Phiền não sân có bao nhiêu ? Phiền não si có bao nhiêu ? Lại phân chia nó ra thì biến thành ngàn vạn phiền não, không thể đếm được. Ở trên là lược nói về tham sân si các phiền não.

    Vì muốn biết hết phiền não của ngã, phiền não của ngã sở, phiền não ngã mạn. Giác ngộ tất cả phiền não hết không thừa.

    Vì Bồ Tát muốn biết phiền não của ngã. Vì có ngã (cái ta), mới có phiền não. Nếu chẳng có cái ta thì chẳng có phiền não. Ðạo lý này ai ai cũng biết, song ai ai cũng buông xả chẳng đặng cái ta, cho nên sinh ra quá nhiều phiền não. Bồ Tát muốn biết phiền não của ngã sở. Vì có ngã, đây là sở hữu của ta, kia là sở hữu của ta, con cái sở hữu của tôi, tài sản sở hữu của tôi. Tóm lại, tất cả tất cả đều là sở hữu của tôi, đây đều là phiền não. Bồ Tát muốn biết phiền não ngã mạn. Mạn tức là kiêu mạn, xem ai cũng chẳng ra gì. Ðều cảm thấy mình đều giỏi hơn người. Có tâm lý ngã mạn thì sẽ sinh ra đủ thứ phiền não. Ba thứ phiền não này hại người không ít, vì nó mà có sinh tử.
    Có phiền não thì có chấp trước, có chấp trước thì có tạo nghiệp, tạo nghiệp thì thọ quả báo. Nếu phiền não không, thì nghiệp cũng không, quả báo cũng không, tất cả đều không, thì chẳng còn sinh tử. Bồ Tát muốn giác ngộ tất cả phiền não hết không thừa sót, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Vì muốn biết hết từ điên đảo phân biệt mà sinh ra gốc rễ phiền não. Tùy phiền não. Vì thấy thân mà sinh ra sáu mươi hai kiến, điều phục tất cả phiền não.

    Bồ Tát vì muốn biết tất cả phiền não, là từ điên đảo phân biệt mà sinh ra gốc rễ phiền não. Có gốc rễ phiền não thì có tùy phiền não. Gốc rễ phiền não tức là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ kiến. Tùy phiền não phân làm (đại trung tiểu) lớn, vừa, nhỏ, ba thứ. Ðại phiền não là hôn trầm, trạo cử, chẳng tin, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất tri, tám thứ. Trung phiền não là không hổ, không thẹn, hai thứ. Tiểu phiền não là phẫn, hận, phú, não, kỵ, xan, xiểm, cuống, hại, kiêu, mười thứ. Vì thấy thân mà sinh ra sáu mươi hai kiến. Sáu mươi hai kiến này vốn chẳng có, là vọng chấp mà có sáu mươi hai kiến. Phàm là hư vọng chấp trước, đều chẳng phải chánh quyết. Chỉ có tên mà chẳng có nghĩa. Gì là sáu mươi hai kiến ? Trong mỗi năm uẩn có bốn kiến. Ví như ‘’Cho rằng sắc là tôi, tôi ở trong sắc.’’ Thọ tưởng hành thức bốn uẩn cũng như thế. Ðây là hai mươi. Trải qua ba đời, thành là sáu mươi. Lại thêm đoạn kiến và thường kiến là sáu mươi hai kiến. Do thân thấy phân biệt mà sinh ra sáu mươi hai kiến, cho nên Phật thuận theo chúng để phá phiền não của chúng. Bồ Tát vì điều phục tất cả phiền não, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Vì muốn biết hết phiền não che đậy, phiền não chướng, phát tâm đại bi cứu hộ, dứt trừ tất cả lưới phiền não, khiến cho tất cả trí tánh thanh tịnh, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Bồ Tát vì muốn biết hết phiền não che đậy. Giống như mây che mặt trời, tức cũng là vô minh che đậy trí huệ quang minh. Che đậy có năm thứ:
    1). Tham dục che đậy (cái): Chẳng biết tại sao ? Người nam muốn tìm người nữ, người nữ muốn tìm người nam, đi tìm khắp nơi, tìm chẳng đặng thì sinh phiền não. Ðây tức là tham dục đang tác quái, khiến cho bạn sinh phiền não.
    2). Sân hận che đậy: Vì tham dục chẳng đắc được, thì sinh ra phiền não sân hận. Sân là hình dáng lộ trên mặt, hận là tâm hận ẩn trong tâm. Hai thứ hiện trượng này, khiến cho người cảm tình hành động, thậm chí không có lý trí thì phát sinh chuyện điên đảo, cho đến giết người phóng lửa, chẳng có gì mà không làm.
    3). Ngủ che đậy: Vì có sân hận bực tức, thì đi ngủ để giải cơn sầu. Nhưng càng ngủ thì càng hồ đồ, tâm cũng hôn mê, thân cũng nặng nề, thì che lấp tâm tánh.
    4). Trạo hối che đậy: Sau khi ngủ mê thì trạo hối, chẳng biết đâu là đúng, đâu là không đúng, bèn mê hoặc.
    5). Nghi pháp che đậy: Trạo hối rồi thì gì cũng chẳng tin, đối với tất cả pháp đều sinh ra tâm hoài nghi, do dự chẳng quyết định mà che lấp tâm tánh. Vì chẳng mãn túc mà sinh ra năm thứ che đậy, che đến nỗi trời đất u ám, chẳng biết đông tây nam bắc. Hoặc lấy tài sắc danh thực thùy làm năm thứ che đậy, tham tài thì che lấp trí huệ, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ, đều che lấp trí huệ.
    Bồ Tát muốn biết phiền não chướng. Chướng tức là chướng ngại. Chướng có hai thứ:
    1). Phiền não chướng: Do ngã chấp mà sinh, hay chướng ngại chân lý Niết Bàn tịch tĩnh.
    2). Sở tri chướng: Do pháp chấp mà sinh, hay chướng ngại các pháp thật tướng trí bồ đề. Lại có ba thứ:
    2a) Phiền não chướng: Tức là tham sân si mạn nghi các hoặc.
    2b). Nghiệp chướng: Tức là ngũ nghịch thập ác các hoặc.
    2c). Báo chướng: Tức là địa ngụ, ngạ quỷ, súc sinh khổ báo. Còn có rất nhiều thứ chướng, tạm ngừng không bàn.
    Vì phiền não che đậy và phiền não chướng là phiền não nặng, cho nên Bồ Tát phải phát tâm đại bi cứu hộ. Ðại bi tức là tâm đại từ bi, tức cũng là tâm đồng tình, tâm thương xót. Tâm đại bi tức là Bồ Tát chẳng thấy chúng sinh lỗi lầm. Chúng sinh dù có khó điều khó phục như thế nào, Bồ Tát vẫn không ngừng nghỉ để giáo hóa. Ðây tức là biểu hiện của tâm đại bi. Tâm cứu hộ tất cả chúng sinh, khiến cho đoạn tuyệt tất cả lưới phiền não. Phiền não của người với người, giao kết với nhau mà thành lưới. Bất quá, nhục nhãn phàm phu chúng ta nhìn chẳng thấy mà thôi. Lưới phiền não này rất là lợi hại, bạn giăng bủa tôi, tôi giăng bủa bạn, bạn chẳng dạy tôi thoát khỏi ba cõi, tôi cũng chẳng nhường bạn thoát khỏi ba cõi, mọi người giăng bủa với nhau, đều không thể thoát khỏi sáu nẻo luân hồi. Nếu chặt đứt lưới phiền não, thì thoát khỏi ba cõi, được giải thoát. Vậy dùng gì để chặt đứt lưới phiền não ? Dùng kiếm báu giới định huệ, nhẹ mà dễ cầm thì sẽ chặt đứt được. Bồ Tát vì khiến cho tất cả gốc rễ trí huệ tánh thanh tịnh khôi phục lại diệu minh chân tâm, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ mười, dụ khéo biết phiền não.

    Phật tử ! Hãy tạm ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, dùng đủ thứ thức ăn uống thượng hạng, hương hoa y phục, tràng phan dù lọng và Tăng già lam, cung điện tốt đẹp, màn lưới báu võng, đủ thứ tòa báu sư tử, và các báu đẹp, cúng dường vô số chư Phật ở phương đông, và vô số thế giới hết thảy chúng sinh. Cung kính tôn trọng, lễ lạy khen ngợi, cúi mình chiêm ngưỡng, liên tục không ngừng, trải qua vô số kiếp. Lại khuyên những chúng sinh đó, đều khiến như vậy, cúng dường chư Phật.

    Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ ở trước. Hiện tại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, dùng đủ thứ thức ăn thơm ngon thượng hạng, hoặc dùng đủ thứ hương hoa, y phục, tràng phan, dù lọng và vườn rừng nơi ở của chư Tăng. Và cung điện trang nghiêm tốt đẹp, dùng màn làm bằng bảy báu, võng báu, lưới báu đủ thứ, để trang nghiêm tòa sư tử. Lại dùng đủ thứ báu đẹp, để cúng dường vô số chư Phật ở phương đông, và hết thảy chúng sinh vô số thế giới ở phương đông. Sau đó cung kính chư Phật, tôn trọng chư Phật, lễ kính Tam Bảo, khen ngợi Tam Bảo, trải qua thời gian dài vô số kiếp. Lại phát tâm khuyên dạy hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, cũng cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật.

    Cho đến sau khi Phật diệt độ, mỗi vị Phật đều xây tháp cho rộng. Vô số thế giới đều có tạo thành các bảo tháp bảy báu, có đủ thứ sự trang nghiêm. Trong mỗi tháp đều có vô số hình tượng Như Lai. Quang minh chiếu khắp vô số thế giới, trải qua vô số kiếp. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.

    Cho đến sau khi Phật diệt độ, vì mỗi vị Phật đều tạo một ngôi tháp báu, cúng dường xá lợi Phật. Tòa tháp báu đó, cao lớn vĩ đại. Trong vô số thế giới, đều có tạo thành tháp báu làm bằng bảy báu, có đủ thứ sự trang nghiêm, rất là mỹ lệ. Trong mỗi tháp lại có vô số hình tượng Phật, tượng Phật dùng bảy báu trang nghiêm, cho nên phóng ra đại quang minh, chiếu soi khắp vô số thế giới, trải qua thời gian dài vô số kiếp, quang minh đó cũng chẳng giảm đi. Ở phương nam tây bắc, bốn hướng, trên dưới chín phương cũng lại như thế.

    Phật tử ! Ý ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ? Đế Thích nói: Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được, ngoài ra chẳng có ai lường được.

    Bồ Tát Pháp Huệ nói với Ðế Thích rằng: Phật Tử ! Ý của ông thế nào ? Cảm tưởng như thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ? Ðế Thích trả lời: Công đức của người đó, tôi chẳng biết được cứu kính là bao nhiêu ? Chỉ có đức Phật mới biết được. Ngoài ra hết thảy Bồ Tát e rằng cũng không thể dò lường được.

    Phật tử ! Công đức của người đó, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

    Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! công đức của người đó, tuy rất nhiều, nhưng so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm thì thua xa lắm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Bất cứ ví dụ như thế nào, cũng đều chẳng bằng một phần công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm.

    Phât tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như lại có người thứ hai, nơi một tâm niệm, làm được như người ở trước và cúng dường hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới trải qua vô số kiếp. Niệm niệm như vậy. Dùng vô lượng các thứ đồ cúng dường, cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, và hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, trải qua vô lượng kiếp.

    Phât tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ ở trên. Hiện tại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người thứ hai. Trong một tâm niệm, làm được như người ở trước và cúng dường hết thảy chúng sinh vô số thế giới, trong vô số kiếp. Một niệm là như vậy, niệm niệm cũng đều như vậy. Dùng vô lượng vô biên đồ cúng dường, để cúng dường vô lượng chư Phật và vô lượng thế giới hết thảy chúng sinh, cũng trải qua thời gian dài vô lượng kiếp.

    Người thứ ba, cho đến người thứ mười cũng đều như vậy. Nơi một tâm niệm, đều đem các đồ cúng dường như người thứ nhất. Niệm niệm cũng đều như vậy. Dùng vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đồ cúng dường. Cúng dường vô biên cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật, và hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, trải qua vô biên cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.

    Người thứ ba, cũng cúng dường vô số chư Phật và vô số chúng sinh như vậy, cho đến người thứ mười cũng như vậy. Trong một niệm, đem các đồ cúng dường như người thứ nhất. Một niệm như vậy, niệm niệm cũng như vậy. Chẳng có bờ mé, chẳng có tương đồng, không thể dùng số mục để đếm nó, không thể dùng thước để đo lường nó, không thể dùng lời để hình dung nó, nói thẳng là bất khả thuyết bất khả thuyết, nói không ra các thứ đồ cúng dường, để cúng dường vô biên các Ðức Phật. Cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết các đức Phật, và hết thảy chúng sinh trong vô lượng vô số thế giới. Trải qua vô biên kiếp, cho đến số kiếp nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết.

    Sau khi Phật diệt độ, đều xây tháp báu. Tháp báu đó cao rộng, cho đến kiếp trụ, cũng lại như thế.

    Ðợi sau khi Phật diệt độ, đều xây dựng tháp báu. Tháp báu đó chẳng những cao đến tận mây mà còn rộng lớn vô cùng. Cho đến trải qua kiếp trụ, cũng vì chư Phật tạo dựng tháp báu như vậy, cúng dường xá lợi và hình tượng của chư Phật.

    Phật tử ! Công đức của những người cúng dường ở trên, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Tại sao ?

    Phật tử ! công đức của những người cúng dường chư Phật ở trên, so với công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Tóm lại, Bồ Tát phát một chút tâm bồ đề cũng vượt qua công đức của những người cúng dường vô số chư Phật. Tại sao vậy ?

    Phật tử ! Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì cúng dường bao nhiêu chư Phật đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì cúng dường hết pháp giới hư không giới, bất khả thuyết bất khả thuyết mười phương vô lượng quá khứ vị lai hiện tại, hết thảy các đức Phật, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

    Phật tử ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát phát tâm bồ đề chẳng giới hạn. Cảnh giới của Bồ Tát, chẳng có bờ mé nhất định. Nhưng vì cúng đường hết thảy bao nhiêu các đức Phật, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì cúng dường tận hư không khắp pháp giới, bất khả thuyết bất khả thuyết, mười phương vô lượng số quá khứ vị lai hiện tại ba đời hết thảy các đức Phật, mà phát tâm Vô thượng chánh chẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ mười một, dụ cúng Phật và chúng sinh.

    Phát tâm bồ đề rồi, sẽ biết được quá khứ tất cả chư Phật ban đầu thành Chánh giác và vào Niết Bàn. Sẽ tin hết thảy căn lành của tất cả chư Phật vị lai. Biết được hết thảy trí huệ của tất cả chư Phật hiện tại.

    Ðại Bồ Tát phát tâm bồ đề rồi, sẽ biết được quá khứ tất cả chư Phật do ban đầu phát tâm, cho đến thành Chánh giác và vào Niết Bàn. Lại biết được hết thảy căn lành của tất cả chư Phật thuở vị lai. Lại biết được hết thảy trí huệ của tất cả chư Phật đời hiện tại.

    Hết thảy công đức của chư Phật đó, Bồ Tát này hay tin, hay thọ trì, hay tu tập, hay đắc được, hay biết được, chứng được, thành tựu được, bình đẳng một tánh với chư Phật.

    Hết thảy công đức của tất cả chư Phật ba đời, Bồ Tát ban đầu phát tâm hay tin nói, hay thọ trì, hay tu tập, thành tựu được. Hay tu hành pháp môn này thì bình đẳng một tánh với chư Phật.

    Tại sao ? Vì Bồ Tát này, chẳng dứt tất cả chủng tánh Như Lai mà phát tâm. Vì sung mãn tất cả thế giới mà phát tâm. Vì độ thoát tất cả thế giới chúng sinh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả thế giới thành hoại mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh cấu tịnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả thế giới ba cõi thanh tịnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh tâm ưa thích phiền não tập khí mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh các căn phương tiện mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh tâm hạnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh trí ba đời mà phát tâm.

    Vì sao ? Bồ Tát ban đầu phát tâm, hay phát tâm bồ đề mà tu đạo ? Vì muốn tiếp nối huệ mạng Phật. Vì chẳng dứt chủng tánh Như Lai mà phát tâm bồ đề. Vì sung mãn tất cả thế giới mà phát tâm bồ đề. Vì độ thoát tất cả thế giới hết thảy chúng sinh mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết thành trụ hoại không của tất cả thế giới mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết tất cả chúng sinh nhiễm cấu bẩn như thế nào, mà chuyển biến thành thanh tịnh, mà phát tâm bồ đề. Vì biết tất cả thế giới ba cõi, làm thế nào mới được thành thanh tịnh, mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết tất cả chúng sinh tâm ưa thích và phiền não tập khí, mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết tất cả chúng sinh chết ở thế giới này, lại sinh về ở thế giới kia, mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết các căn phương tiện của tất cả chúng sinh mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết tâm hành của tất cả chúng sinh mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết trí huệ ba đời của tất cả chúng sinh mà phát tâm bồ đề.

    Vì phát tâm bồ đề, nên thường được tất cả chư Phật ba đời nghĩ nhớ. Sẽ đắc được vô thượng bồ đề của tất cả chư Phật ba đời. Liền được tất cả chư Phật ba đời ban cho diệu pháp. Liền bình đẳng thể tánh với tất cả chư Phật ba đời. Đã tu pháp trợ đạo của tất cả chư Phật ba đời, thì thành tựu sức vô sở úy của tất cả chư Phật ba đời. Trang nghiêm bất cộng Phật pháp của tất cả chư Phật ba đời. Đắc được pháp giới tất cả chư Phật nói pháp trí huệ.

    Vì phát tâm bồ đề, nên thường được tất cả chư Phật ba đời tưởng niệm, sẽ đắc được vô thượng bồ đề của tất cả chư Phật ba đời. Lập tức thọ các thứ diệu pháp của chư Phật ba đời nói. Lập tức bình đẳng thể tánh của tất cả chư Phật ba đời. Tức cũng là đã tu hành pháp trợ đạo của tất cả chư Phật ba đời. Cũng thành tựu mười lực và bốn vô sở úy của tất cả chư Phật ba đời. Cũng trang nghiêm mười tám bất cộng Phật pháp của tất cả chư Phật ba đời. Bồ Tát ban đầu phát tâm sẽ đắc được trí huệ pháp giới tất cả chư Phật nói pháp. Dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh.

    Tại sao ? Vì nhờ phát tâm này mà sẽ được thành Phật. Nên biết người đó liền đồng với chư Phật ba đời. Liền bình đẳng cảnh giới với chư Phật Như Lai ba đời. Liền bình đẳng công đức với chư Phật Như Lai ba đời, đắc được một thân vô lượng thân của Như Lai, cứu kính bình đẳng trí huệ chân thật.

    Tại sao vậy ? Vì nhờ sự phát tâm này, nên sẽ được thành quả vị Phật. Nên biết vị Bồ Tát ban đầu phát tâm đó, lập tức đồng với chư Phật ba đời. Lập tức bình đẳng cảnh giới với chư Phật Như Lai ba đời. Lập tức bình đẳng công đức với chư Phật Như Lai ba đời. Ðắc được một thân Phật, thì cũng đắc được vô lượng thân Phật. Bài kệ trong phẩm Quang Minh Giác của kinh này có nói:

    ‘’Một thân làm vô lượng thân
    Vô lượng lại làm một
    Biết rõ các thế gian
    Hiện hình klhắp tất cả
    Thân này chẳng từ đâu
    Cũng chẳng chỗ tích tụ
    Vì chúng sinh phân biệt
    Thấy Phật đủ thứ thân.’’

    Một thân có thể làm vô lượng thân, vô lượng thân là từ một thân mà thành tựu. Thấu rõ biết tất cả thế gian, hiện ra đủ thứ thân, đầy khắp mọi nơi. Thân này chẳng từ đâu đến, cũng chẳng phải tích tụ mà thành. Vì chúng sinh phân biệt, nên Phật mới hiện đủ thứ thân, khiến cho chúng sinh tùy duyên mà thấy thân Phật. Bồ Tát ban đầu phát tâm, đắc được đại trí huệ bình đẳng cứu kính của Phật, đại trí huệ chân thật.

    Lúc vừa phát tâm, liền được tất cả chư Phật mười phương cùng khen ngợi. Liền có thể nói pháp, giáo hóa điều phục hết thảy chúng sinh tất cả thế giới. Liền chấn động tất cả thế giới. Liền phóng quang minh chiếu tất cả thế giới. Liền tiêu diệt các đường ác khổ của tất cả thế giới. Liền trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước. Liền có thể thị hiện thành Phật trong tất cả thế giới. Liền có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được hoan hỷ. Liền nhập vào tất cả tánh pháp giới. Liền giữ gìn tất cả chủng tánh Phật. Liền đắc được nhất thiết trí huệ quang minh của Phật.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm, mới hành đạo Bồ Tát, thì lập tức được tất cả chư Phật trong mười phương cùng tán thán khen ngợi: ‘’A ! Trên thế giới, lại có một người phát tâm bồ đề, tương lai nhất định sẽ thành Phật quả. Lành thay ! Lành thay ! Vị nam tử này rất có chí khí, phát tâm hành Bồ Tát đạo, đáng mừng, đáng mừng.’’ Bồ Tát ban đầu phát tâm, lập tức được chư Phật mười phương gia bị, mà khai mở đại trí huệ, được biện tài vô ngại, vì chúng sinh nói pháp, giáo hóa điều phục hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới. Lúc đó, tất cả thế giới đều phát sinh sáu thứ chấn động, tức là: Chấn, hống, kích, động, dũng, khởi, sáu hiện tượng. Lập tức trí huệ quang minh chiếu sáng tất cả thế giới. Lập tức tiêu diệt đủ thứ khổ trong các đường ác của tất cả thế giới. Lập tức trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Lập tức có thể thị hiện thành Phật trong tất cả thế giới. Lập tức khiến cho tất cả chúng sinh đều được hoan hỷ vui mừng. Lập tức nhập vào tất cả tánh pháp giới, đầy khắp mười phương. Lập tức giữ gìn tất cả chủng tánh Phật không đoạn diệt. Lập tức đắc được nhất thiết trí huệ quang minh của Phật.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm đó, chẳng có chút sở đắc nơi ba đời, như là: Chư Phật, hoặc pháp chư Phật. Hoặc Bồ Tát, hoặc pháp Bồ Tát. Hoặc Độc Giác, hoặc pháp Độc Giác. Hoặc Thanh Văn, hoặc pháp Thanh Văn. Hoặc thế gian, hoặc pháp thế gian. Hoặc xuất thế gian, hoặc pháp xuất thế gian. Hoặc chúng sinh, hoặc pháp chúng sinh. Chỉ cầu nhất thiết trí. Nơi các pháp giới, tâm chẳng chấp trước.

    Vị Bồ Tát ban đầu phát tâm đó, sở đắc của Ngài với mười phương ba đời chư Phật như nhau. Tức là tất cả chư Phật nói, pháp của chư Phật nói. Tất cả Bồ Tát, pháp của Bồ Tát nói. Tất cả Ðộc Giác, pháp của Ðộc Giác nói. Tất cả Thanh Văn, pháp của Thanh Văn nói. Tất cả thế gian, pháp hữu vi của thế gian. Tất cả xuất thế gian, pháp vô vi của xuất thế gian. Tất cả chúng sinh, pháp của chúng sinh. Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, chỉ cầu nhất thiết trí huệ, ở trong tất cả pháp giới, tất cả hết thảy tâm chẳng dính mắc.

    Bấy giờ, do thần lực của Phật, mỗi phương trong mười phương, đều có các thế giới, nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật, đều sáu thứ chấn động. Đó là: Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích. Mưa xuống các hoa trời, hương trời, hương bột trời, tràng hoa trời, y trời, báu trời, đồ trang nghiêm cõi trời, tấu âm nhạc trời, phóng quang minh trời, và âm thanh trời.

    Lúc bấy giờ, nhờ thần thông oai lực của Phật. Mỗi phương trong mười phương, có các thế giới nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật, đều có sáu thứ chấn động phát sinh. Tức là động: Tại một nơi động; biến động: Tại một thế giới biến động khắp; đẳng biến động: Tại hết thảy thế giới đều đồng thời chấn động. Khởi, dũng, chấn, hống, kích, cũng như vậy. Nơi nơi đều có tình hình như vậy phát sinh, trở thành mười tám thứ chấn động.
    Cùng lúc đó, từ trên trời mưa xuống tất cả hoa trời, hương trời, hương bột trời, tràng hoa trời, y trời, báu trời, đồ trang nghiêm trời .v.v... lại diễn tấu âm nhạc trời, lại phóng ánh sáng trời, lại vang âm thanh trên trời.

    Lúc đó, mỗi phương trong mười phương, qua các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, đều đồng danh hiệu là Pháp Huệ, thảy đều hiện thân, ở trước Bồ Tát Pháp Huệ, nói như vầy: Lành thay ! Lành thay ! Pháp Huệ ! Ông hôm nay nói pháp này. Chúng ta trong mười phương, mỗi phương có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, cũng nói pháp này, tất cả chư Phật đều nói pháp này.

    Lúc bấy giờ, mỗi phương trong mười phương, trải qua các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, lại có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật. Danh hiệu của những vị Phật đó, đều là Pháp Huệ Phật. Mỗi vị Phật Pháp Huệ, đều hiện thân ở trước Bồ Tát Pháp Huệ, khác miệng cùng lời nói: Lành thay ! Lành thay ! Pháp Huệ ! Hiện tại ông ở đây nói pháp công đức ban đầu phát tâm bồ đề. Chúng ta trong mười phương, mỗi phương có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, cũng đều nói pháp này. Tất cả chư Phật cũng đều nói pháp công đức ban đầu phát tâm bồ đề.

    Khi ông nói pháp này, thì có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, phát tâm bồ đề. Hôm nay chúng ta đều thọ ký cho họ, trong đời vị lai, trải qua ngàn bất khả thuyết vô biên kiếp, cùng ở trong một kiếp mà được thành Phật, xuất hiện ra đời, đều hiệu là Thanh Tịnh Tâm Như Lai. Ở các thế giới, đều khác nhau. Chúng ta đều đang hộ trì pháp này, khiến cho đời vị lai, tất cả Bồ Tát, chưa từng được nghe, thảy đều được nghe.

    Phật Pháp Huệ nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật lại nói: Pháp Huệ ! Hiện tại ông nói pháp công đức ban đầu phát tâm bồ đề thì các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, đồng thời phát tâm bồ đề. Hiện tại chúng ta thọ ký cho họ, tương lai sẽ thành Phật, trải qua ngàn bất khả thuyết vô biên kiếp, đồng ở trong một kiếp, thảy đều thành Phật, xuất hiện ra đời. Phật hiệu đều là Thanh Tịnh Tâm Như Lai. Ở các thế giới đều khác nhau. Chúng ta đều hộ trì pháp này, khiến cho đời vị lai Bồ Tát phát tâm bồ đề, chưa từng được nghe qua pháp này thì hoàn toàn được nghe pháp này.

    Như trên đỉnh núi Tu Di tứ thiên hạ thế giới Ta Bà này, nói pháp như vậy. Khiến cho các chúng sinh được nghe rồi, thọ sự giáo hóa của Phật. Như vậy mười phương trăm ngàn ức, Na do tha, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, tận pháp giới hư không giới, trong các thế giới cũng nói pháp này, giáo hóa chúng sinh.

    Giống như tại điện Diệu Thắng của trời Ðế Thích, trên đỉnh núi Tu Di, ở tứ thiên hạ thế giới Ta Bà này, diễn nói pháp công đức ban đầu phát tâm. Khiến cho tất cả chúng sinh nghe rồi, được thọ Phật giáo hóa. Như vầy trong mười phương trăm ngàn ức, Na do tha, vô số lượng, vô đẳng biên, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết bất khả thuyết, tận hư không biến pháp giới. Trong tất cả thế giới cũng đều nói pháp này, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ bỏ mê về giác ngộ, phát tâm bồ đề thành vô thượng đạo.

    Những người nói pháp đều đồng danh hiệu là Pháp Huệ. Vì đều nhờ thần lực của Phật. Vì sức bổn nguyện của Thế Tôn. Vì muốn hiển bày Phật pháp. Vì dùng trí huệ quang minh chiếu khắp. Vì muốn khai xiển thật nghĩa. Vì khiến cho chứng được pháp tánh. Vì khiến cho chúng hội đều hoan hỷ. Vì muốn khai thị Phật pháp nhân. Vì được tất cả Phật bình đẳng. Vì thấu rõ pháp giới chẳng hai, mà nói pháp như vậy.

    Bồ Tát diễn nói pháp công đức ban đầu phát tâm bồ đề, đều đồng một danh hiệu là Bồ Tát Pháp Huệ. Vì các Ngài đều nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật. Vì bổn nguyện của mười phương chư Phật trong quá khứ đã phát. Vì muốn hiển bày Phật pháp để khai thị cho chúng sinh. Vì dùng trí huệ quang minh để chiếu khắp tất cả thế giới. Nghĩa là đem hết thảy trí huệ nói cho chúng sinh, khiến cho họ khai ngộ. Vì muốn khai xiển diễn nói chân lý đạo lý. Vì khiến cho tất cả chúng sinh chứng được pháp tánh mà thành Phật. Ví khiến cho đại chúng trong pháp hội thảy đều hoan hỷ vui mừng. Vì muốn mở bày cho tất cả chúng sinh minh bạch Phật pháp nhân. Phật pháp nhân là gì ? Tức là nhân lành. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đắc được quả vị chư Phật bình đẳng, tức cũng là Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thấu rõ mười phương pháp giới đều là một. Vì có mười nhân duyên này, mà nói pháp công đức ban đầu phát tâm.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  7. #67

    Mặc định

    Tiếp Theo PHẨM CÔNG ĐỨC BAN ĐẦU PHÁT TÂM THỨ MƯỜI BẢY

    Kinh văn: (Chữ in đậm là Kinh văn)

    Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ, quán sát khắp tận hư không giới, mười phương cõi nước tất cả chúng hội. Vì muốn thành tựu các chúng sinh. Vì muốn tịnh trị các nghiệp quả báo. Vì muốn khai thị hiển bày pháp giới thanh tịnh. Vì muốn dứt trừ gốc rễ tạp nhiễm. Vì muốn tăng trưởng tin hiểu rộng lớn. Vì muốn khiến cho biết vô lượng căn tánh chúng sinh. Vì muốn khiến cho biết pháp ba đời bình đẳng. Vì muốn khiến cho quán sát Niết Bàn giới. Vì muốn tăng trưởng căn lành thanh tịnh của mình, bèn nương oai lực của đức Phật mà nói kệ rằng.

    Giảng giải: (Chữ thường là giảng giải)

    Lúc đó, vị đại Bồ Tát Pháp Huệ, quán sát khắp tận hư không giới, mười phương hết thảy chúng hội trong cõi nước Phật. Ðây là vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều thành tựu quả vị Phật. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh tịnh trị tất cả nghiệp ác tạp nhiễm, đắc được nghiệp lành thanh tịnh, minh bạch đạo lý trồng nhân kết quả. Vì muốn hoàn toàn khiến cho pháp giới hiện ra nguồn gốc thanh tịnh. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, dứt trừ vô minh phiền não tất cả gốc rễ tạp nhiễm. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng sự tin hiểu rộng lớn. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, biết vô lượng căn tánh của chúng sinh. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, biết pháp ba đời là bình đẳng. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, quán sát Niết Bàn giới là thường, lạc, ngã, tịnh. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, tăng trưởng căn lành thanh tịnh của mình. Vì những nhân duyên đó, Bồ Tát Pháp Huệ nương đại oai thần lực gia trì của Phật Thích Ca Mâu Ni, mà nói ra một trăm hai mươi mốt bài kệ.

    Vì lợi thế gian phát tâm lớn
    Tâm đó khắp cùng nơi mười phương
    Chúng sinh cõi nước pháp ba đời
    Phật và Bồ Tát biển tối thắng.


    Tại sao Bồ Tát phát tâm bồ đề ? Vì muốn lợi ích hết thảy chúng sinh thế gian, cho nên mới phát tâm lớn. Tâm lớn lượng khắp cùng mười phương thế giới. Hết thảy chúng sinh, cõi nước, pháp ba đời, Phật, Bồ Tát và tối thắng hải hội đại chúng nghe pháp.

    Cứu kính hư không khắp pháp giới
    Hết thảy tất cả các thế gian
    Như các Phật pháp đều qua đến
    Như vậy phát tâm chẳng thối chuyển.

    Cứu kính hư không khắp pháp giới, hết thảy mười phương tất cả thế gian. Dù ở thế giới nào ? Dù ở cõi nước nào ? Phàm là chỗ có Phật, có pháp, thì Bồ Tát đều đi đến đó, rộng tu cúng dường mười phương chư Phật, phát tâm đại bồ đề như vậy, thì vĩnh viễn chẳng thối chuyển.

    Từ niệm chúng sinh chẳng tạm rời
    Lìa các não hại lợi ích khắp
    Quang minh chiếu đời làm chỗ tựa
    Thập Lực hộ niệm khó nghĩ bàn.

    Bồ Tát phát tâm đại bồ đề, thường thường từ niệm tất cả chúng sinh, chẳng tạm thời quên chúng sinh. Muốn làm cho lìa khỏi não hại chúng sinh, khắp lợi ích cho tất cả chúng sinh. Bồ Tát phóng quang minh chiếu tất cả thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh đến quy y Tam Bảo. Dùng thập lực của Phật để hộ niệm tất cả chúng sinh, tu hạnh môn không thể nghĩ bàn.

    Mười phương cõi nước đều hướng vào
    Tất cả sắc hình đều thị hiện
    Như Phật phước trí rộng vô biên
    Tùy thuận tu nhân chẳng chấp trước.

    Bồ Tát đến hết thảy cõi nước trong mười phương, để cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh, đều thị hiện tất cả hình sắc. Ngài có phước đức và trí huệ giống như Phật, rộng lớn vô biên, lại hay tùy thuận tất cả Phật pháp mà tu hành, luôn luôn thuận chúng sinh, hành Bồ Tát đạo. Tại nhân địa tu đủ thứ hạnh môn, lại phải đừng chấp trước. Chỗ diệu của Phật pháp là phá chấp trước của chúng sinh.
    Tại sao chúng sinh ích kỷ ? Nhìn chẳng thấu ? Buông chẳng đặng ? Là vì có sự chấp trước, chấp trước đất nước, chấp trước nhà, chấp trước thân, chấp trước tất cả của cải sở hữu của mình, do đó mà có vô lượng phiền não.

    Có cõi hình ngửa hoặc nghiêng úp
    Thô tốt rộng lớn vô lượng thứ
    Bồ Tát khi phát tâm tối thượng
    Đều hay qua đến chẳng chướng ngại.

    Có thế giới là hình trạng ngửa; hoặc hình trạng nghiêng úp. Có thế giới thô, tức là đời ác năm trược, có thế giới tốt, tức là thế giới Cực Lạc. Có thế giới rộng lớn, có thế giới nhỏ bé. Thế giới vô lượng vô biên loại. Bồ Tát một khi phát tâm bồ đề, thì hay qua đến hết thảy thế giới, rộng tu cúng dường, giáo hóa chúng sinh, mà chẳng có mọi chướng ngại.

    Bồ Tát thắng hạnh không thể nói
    Đều siêng tu tập chẳng chấp trước
    Thấy tất cả Phật thường vui mừng
    Khắp vào trong biển pháp thâm sâu.

    Bồ Tát tu hạnh môn thù thắng, là không thể nói. Ngài đều siêng tu tập đủ thứ hạnh môn, mà chẳng có sự chấp trước. Thấy được tất cả Phật thì tâm luôn vui mừng, khắp vào trong biển trí huệ thâm sâu của Phật.

    Thương xót năm nẻo các quần sinh
    Khiến trừ dơ bẩn được thanh tịnh
    Tiếp tục giống Phật không đoạn tuyệt
    Phá tan cung ma chẳng còn sót.

    Bồ Tát từ bi thương xót địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Tu la, loài người, năm nẻo chúng sinh khổ não nhất. Tại sao chúng ta đọa vào trong năm nẻo ? Vì tâm tham sân si quá nặng, dơ bẩn quá sâu dày, cho nên phải quét sạch dơ bẩn, khôi phục lại sự thanh tịnh vốn có. Phải tiếp tục giống Phật, khiến cho đừng đoạn tuyệt, phải phá tan cung điện của ma vương, khiến chẳng còn sót thừa.

    Đã trụ Như Lai tánh bình đẳng
    Khéo tu đạo phương tiện vi diệu
    Nơi cảnh giới Phật khởi tâm tin
    Được Phật quán đảnh tâm chẳng chấp.

    Bồ Tát phát tâm bồ đề, đã trụ ở trong biển tánh bình đẳng của Phật, khéo tu hành đủ thứ pháp môn phương tiện vi diệu. Ðối với hết thảy cảnh giới của Phật và pháp nói ra, tin sâu chẳng nghi, cho nên được chư Phật quán đảnh thì tâm chẳng chấp trước. Tại sao ? Vì đã là một thể với pháp giới hư không giới, cho nên chẳng dính mắc.

    Nghĩ nhớ báo ân đấng Lưỡng Túc
    Tâm như kim cang không thể hoại
    Nơi Phật tu hành chiếu thấu được
    Tự nhiên tu tập hạnh bồ đề.

    Ðấng Lưỡng Túc tức là Phật. Vì phước huệ đều đầy đủ, thọ trời người tôn kính. Trong niệm niệm báo ân Phật, ân chúng sinh. Tâm tu đạo Bồ Tát kiên cố như kim cang, có sức kiên cố quang minh sắc bén, bất cứ sức lực gì cũng chẳng hoại được, tức có nghĩa là không thể thay đổi tư tưởng tu đạo. Người tu đạo Bồ Tát, thì ban đầu phát tâm đến niệm cuối cùng đều phải như kim cang, tức chẳng thối chuyển tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tu đạo phải có tinh thần quán triệt thủy chung, không thể lúc nóng lúc lạnh. Ðối với pháp của Phật tu hành thì dùng trí huệ quang chiếu thấu, tự nhiên sẽ thường tu tập pháp môn hạnh bồ đề.
    Người tu đạo phải càng ngày càng tinh tấn, càng ngày càng nhẫn nại. Tu đạo giống như thuyền đi ngược dòng, chẳng nỗ lực tinh tấn, thì bị cảnh giới ngược giòng làm lay chuyển mà thối lùi. Nhẫn nại là pháp môn tu đạo bậc nhất, không thể nhẫn cũng phải nhẫn, không thể thọ cũng phải thọ, làm được như thế thì mới thành tựu hạnh bồ đề.

    Các cõi khác nhau nghĩ vô lượng
    Nghiệp quả và tâm cũng chẳng một
    Cho đến căn tánh đủ thứ thù
    Khi phát tâm lớn đều thấy rõ.

    Các cõi có đủ thứ sự khác nhau, mỗi loại chúng sinh, nghĩ tưởng vô lượng vô biên. Chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, cũng chẳng giống nhau, tâm niệm cũng khác nhau, cũng chẳng phải một. Cho đến căn tánh của chúng sinh cũng có đủ thứ khác nhau. Khi Bồ Tát phát tâm bồ đề, thì nghiệp báo, tâm niệm, căn tánh đều thấy rõ.

    Tâm đó rộng lớn đồng pháp giới
    Không nương không đổi như hư không
    Hướng về Phật trí chẳng chấp lấy
    Thấu rõ thật tế lìa phân biệt.

    Bồ Tát phát tâm bồ đề, tâm của các Ngài rộng lớn vô biên, đồng với pháp giới. Chẳng chỗ nương tựa, chẳng chỗ thay đổi, như hư không. Ngài hướng về trí huệ của Phật, nhưng chẳng thủ lấy. Do đó: ‘’Vô trí diệc vô đắc‘’ Ngài thấu rõ lý thể chân thật, lìa khỏi tất cả sự phân biệt.

    Biết tâm chúng sinh không sinh tưởng
    Thấu đạt các pháp không pháp tưởng
    Tuy khắp phân biệt chẳng phân biệt
    Ức Na Do cõi đều qua đến.

    Bồ Tát phát tâm bồ đề, biết tâm của chúng sinh, nhưng không vọng tưởng chúng sinh. Vì Bồ Tát là lìa tướng, Bồ Tát là thâm nhập kinh tạng, cho nên trí huệ như biển. Thấu đạt đạo lý các pháp thật tướng, nhưng chẳng có chấp trước, chẳng có chúng sinh tưởng, chẳng có ngã tưởng, cũng chẳng có pháp tưởng. Tuy nhiên vào khắp tất cả thế giới, giáo hóa tất cả chúng sinh, nhưng chẳng có phân biệt. Nếu có một ức Na do tha cõi Phật, thì Bồ Tát đều đi đến gần gũi chư Phật, lễ bái chư Phật, cúng dường chư Phật.

    Vô lượng chư Phật diệu pháp tạng
    Tùy thuận quán sát đều vào được
    Chúng sinh căn hạnh thảy đều biết
    Đến nơi như vậy như Thế Tôn.

    Vô lượng diệu pháp tạng của chư Phật, Bồ Tát đều tùy thuận quán sát mà thâm nhập trong pháp tánh Như Lai. Hết thảy căn tánh và hành vi của chúng sinh, Bồ Tát đều biết hết. Bồ Tát hay sinh vào nhà Pháp vương, đến được địa vị tôn quý nhất.

    Thanh tịnh đại nguyện luôn tương ưng
    Ưa cúng Như Lai chẳng thối chuyển
    Trời người thấy được chẳng nhàm đủ
    Thường được chư Phật luôn hộ niệm.

    Bồ Tát phát đại nguyện đại hạnh thanh tịnh, luôn luôn tương ưng. Nghĩa là tu hành theo nguyện mà mình đã phát, ưa tu pháp môn cúng dường. Cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật, vĩnh viễn chẳng thối tâm cúng dường. Trời và người thấy được vị Bồ Tát đó phát tâm bồ đề, thì luôn sinh tâm hoan hỷ, mà chẳng có tâm nhàm mỏi biết đủ, cho nên thường được mười phương chư Phật hộ niệm.

    Tâm đó thanh tịnh chẳng chỗ nương
    Tuy quán pháp sâu mà chẳng chấp
    Suy gẫm như vậy vô lượng kiếp
    Ở trong ba đời chẳng chấp trước.

    Trong tâm Bồ Tát thường thanh tịnh, chẳng có chút tư tưởng nhiễm ô nào. Tuy nhiên hay quán sát pháp vi diệu thâm sâu, nhưng chẳng thủ trước, minh bạch tất cả pháp mà chẳng chấp trước tất cả pháp, suy gẫm nghĩa sâu tất cả pháp như vậy, trải qua vô lượng kiếp thời gian. Ðối với pháp chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại, chư Phật vị lai nói, đều chẳng chấp trước.

    Tâm đó kiên cố khó phá hoại
    Hướng Phật bồ đề chẳng chướng ngại
    Chí cầu diệu đạo trừ mê hoặc
    Đi khắp pháp giới chẳng mệt nhọc.

    Bồ Tát phát tâm bồ đề, tâm đó rất kiên cố, như kim cang, chẳng cách chi phá hoại được. Ngài thú hướng về chư Phật bồ đề đại đạo, chẳng có chướng ngại. Lập chí truy cầu đạo quả vi diệu, trừ khử đủ thứ ngu tối mê hoặc. Ði khắp pháp giới, đến hết thảy thế giới để giáo hóa chúng sinh, chịu khổ chịu nhọc, tuyệt đối chẳng nhàm khổ nhọc.

    Biết pháp lời lẽ đều vắng lặng
    Nhưng vào chân như dứt hiểu khác
    Cảnh giới chư Phật đều thuận quán
    Thông đạt ba đời tâm chẳng ngại.

    Bồ Tát biết pháp lời lẽ đều vắng lặng, nhưng Ngài vào lý thể chân như, lìa bặt tri kiến chẳng chánh quyết, hết thảy cảnh giới của mười phương chư Phật, Ngài đều tùy thuận quán sát, thông đạt pháp của chư Phật ba đời, trong tâm chẳng có quái ngại.

    Bồ Tát mới phát tâm rộng lớn
    Liền qua đến được mười phương cõi
    Pháp môn vô lượng không thể nói
    Trí quang chiếu khắp đều thấy rõ.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, khi mới bắt đầu phát tâm rộng lớn, thì hóa thân của Bồ Tát, liền qua đến được mười phương cõi Phật để cúng dường chư Phật. Tuy pháp môn nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết, nhưng đại trí huệ quang minh của Bồ Tát chiếu khắp tất cả các pháp thật tướng, thảy đều thấu suốt.

    Đại bi rộng độ chẳng gì bằng
    Tâm từ khắp cùng đồng hư không
    Mà nơi chúng sinh chẳng phân biệt
    Thanh tịnh như vậy du thế gian.

    Bồ Tát có tâm đại bi. Bi hay diệt trừ tất cả khổ chúng sinh và hay rộng độ tất cả chúng sinh thoát ba cõi. Tâm đại bi đó cao thượng nhất, chẳng gì sánh bằng. Từ hay ban cho tất cả chúng sinh an vui, dùng tâm từ để cứu hộ khắp tất cả chúng sinh, đồng như hư không. Ðối với chúng sinh một luật bình đẳng chẳng có phân biệt. Bất luận chúng sinh có căn lành, hoặc chẳng có căn lành, đều xem bình đẳng, giáo hóa khắp. Bồ Tát dùng hành vi thanh tịnh như vậy, du hóa tất cả thế giới.

    Mười phương chúng sinh đều an ủi
    Tất cả việc làm đều chân thật
    Luôn dùng tâm tịnh lời chẳng khác
    Thường được chư Phật cùng gia hộ.

    Mười phương chúng sinh đều được an ủi, chẳng có khó khăn, chẳng có chướng ngại. Tất cả việc làm đều chân thật, chẳng có hư vọng. Tâm của Bồ Tát luôn luôn thanh tịnh, chẳng nói hai lời, cho nên thường được mười phương chư Phật cùng đến để gia bị và bảo hộ.

    Trong kinh Phương Ðẳng, có một đoạn kinh văn rằng: Phật Thích Ca nói với Bồ Tát Lôi Âm: Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Ðàn Hoa Phật, vị Phật đó vào Niết Bàn rất lâu. Thời đó, ta và ngươi như nhau, đều là Bồ Tát. Ðương thời lại có một vị Bồ Tát hiệu là Thượng Thủ Bồ Tát, hóa làm khất sĩ (Tỳ Kheo), vào trong thành ôm bát khất thực, lại có một vị Tỳ Kheo khác, hiệu là Hằng Già Tỳ Kheo. Ông ta hỏi vị khất sĩ:
    - ‘’Xin hỏi Ngài từ đâu đến‘’?
    - Vị khất sĩ đáp: ‘’Tôi từ trong chân thật đến.’’
    - Tỳ Kheo Hằng Già lại hỏi: ‘’Gì là chân thật‘’?
    - Vị khất sĩ đáp: ‘’Tướng vắng lặng gọi là chân thật.’’
    - Tỳ Kheo Hằng Già lại hỏi: ‘’Trong tướng vắng lặng, có chỗ cầu ? Không chỗ cầu‘’?
    - Vị khất sĩ đáp: ‘’Không chỗ cầu.’’
    - Tỳ Kheo Hằng Già lại hỏi: ‘’Không chỗ cầu, tại sao phải cầu‘’?
    - Vị khất sĩ đáp: ‘’Có sở cầu, tất cả đều không. Ðược cũng không, trước cũng không, thật cũng không, cầu cũng không, lời cũng không, hỏi cũng không. Vắng lặng Niết Bàn, tất cả hư không, tất cả thế giới, cũng đều là không. Ta vì pháp không thứ lớp như vậy mà cầu chân thật.’’
    - Tỳ Kheo Hằng Già lại hỏi: ‘’Bồ Tát cầu nơi nào‘’?
    - Vị khất sĩ đáp: ‘’Cầu trong cầu lục độ Ba La Mật.’’
    Tỳ Kheo Hằng Già nghe vị khất sĩ đáp như vậy rồi, bèn sinh tâm đại hoan hỷ, mới đem thân mình đi bán, được số tiền mang đến cúng dường vị khất sĩ (hóa thân của Bồ Tát Thượng Thủ). Có thể thấy người thời xưa, vì pháp mà quên mình, nghe pháp bán thân, phát tâm rộng lớn, để cúng dường Tam Bảo. Tinh thần như vậy thật là đáng quý !

    Quá khứ hết thảy đều nghĩ nhớ
    Vị lai tất cả đều phân biệt
    Khắp vào trong mười phương thế giới
    Vì độ chúng sinh khiến thoát khỏi.

    Quá khứ chư Phật, thường nghĩ nhớ Bồ Tát ban đầu phát tâm. Vị lai chư Phật cũng thường phân biệt để gia hộ Bồ Tát ban đầu phát tâm. Khắp vào trong mười phương tất cả thế giới. Vì độ chúng sinh thoát khỏi biển khổ, đắc được an vui.

    Bồ Tát đầy đủ diệu trí quang
    Khéo rõ nhân duyên chẳng hoài nghi
    Tất cả mê hoặc đều dứt trừ
    Như vậy du hành nơi pháp giới.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm, đầy đủ trí huệ quang minh vi diệu, khéo thấu rõ tất cả nhân duyên quả báo, đối với nhân quả báo ứng chẳng có hoài nghi. Vì thấy sự việc gì thì thấu hiểu sự việc đó, cho nên dứt trừ tất cả sự mê hoặc. Bồ Tát có đại trí huệ như thế, nên du hóa nơi pháp giới.

    Cung điện ma vương đều phá tan
    Chúng sinh màn lòa đều trừ diệt
    Lìa các phân biệt tâm chẳng động
    Khéo rõ cảnh giới của Như Lai.

    Hay khiến cho cung điện của ma vương hoàn toàn phá tan. Vô minh của chúng sinh, giống như màn mắt bị lòa, cho nhên nhìn chẳng thấy rõ. Phải trừ diệt nó thì mới khôi phục được quang minh. Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, chẳng có tâm phân biệt. Vì lìa khỏi chấp trước, cho nên tâm chẳng động. Ngài khéo thấu rõ tất cả cảnh giới của Như Lai đắc được.

    Lưới nghi ba đời đều đã trừ
    Ở chỗ Như Lai khởi tin tịnh
    Nhờ tin được thành trí bất động
    Vì trí thanh tịnh hiểu chân thật.

    Lưới nghi hoặc ba đời, đã hoàn toàn tiêu trừ. Ở trong đạo tràng của Phật, sinh ra tâm tin thanh tịnh, nhờ tâm tin thanh tịnh mà đắc được thành tựu trí huệ bất động. Vì có trí huệ thanh tịnh bất động, cho nên mới thấu hiểu đạo lý chân thật.

    Vì khiến chúng sinh được thoát khỏi
    Tận thuở vị lai khắp lợi ích
    Mãi mãi cần khổ tâm chẳng mỏi.
    Cho đến địa ngục cũng an thọ.

    Vì khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi ba cõi, đắc được khoái lạc. Tận thuở vị lai, khắp lợi ích tất cả chúng sinh, bất cứ trải qua thời gian dài bao lâu ? Chẳng màng thọ khổ bao nhiêu ? Tâm cũng chẳng nhàm mỏi, cho đến vào địa ngục thọ khổ, tâm cũng an nhiên tiếp thọ. Như Bồ Tát Ðịa Tạng hiện tại vẫn ở trong địa ngục, cứu thoát chúng sinh thọ khổ. Tại sao phải như vậy ? Vì Bồ Tát Ðịa Tạng phát đại nguyện:

    ‘’Ðịa ngục chẳng trống không,
    Thề không thành Phật.’’

    Tinh thần như vậy thật là vĩ đại !

    Phước huệ vô lượng đều đầy đủ
    Căn dục chúng sinh đều biết rõ
    Và các nghiệp hành đều thấy hết
    Như chỗ họ thích vì nói pháp.

    Bồ Tát tu vô lượng vô biên phước huệ, cho nên phước huệ đều đầy đủ. Căn tánh và dục vọng của chúng sinh, Bồ Tát đều hoàn toàn biết rõ. Hết thảy nghiệp báo và hành vi của chúng sinh đều nhìn thấy hết. Như có chỗ chúng sinh hoan hỷ, thì vì họ bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bồ Tát dùng bốn pháp nhiếp này, để giáo hóa chúng sinh.

    Biết rõ tất cả không vô ngã
    Từ niệm chúng sinh luôn chẳng bỏ
    Dùng một âm đại bi vi diệu
    Vào khắp thế gian để diễn nói.

    Bồ Tát biết rõ tất cả đều là không, chẳng có cái ta tồn tại, cho nên chẳng có mọi sự chấp trước. Ngài từ bi nghĩ nhớ tất cả chúng sinh, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh. Dùng một âm thanh đại bi vi diệu, vào khắp tất cả thế gian, để vì chúng sinh diễn nói tất cả diệu pháp.

    Phóng đại quang minh đủ thứ màu
    Chiếu khắp chúng sinh trừ đen tối
    Trong quang Bồ Tát ngồi hoa sen
    Vì chúng xiển dương pháp thanh tịnh.

    Phóng ra đủ thứ đại quang minh, trong đại quang minh lại có đủ thứ màu. Quang minh màu đó chiếu khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ tiêu trừ đen tối. Trong quang minh có Bồ Tát ngồi trên hoa sen báu lớn, vì chúng sinh khai xiển tuyên dương diệu pháp thanh tịnh.

    Nơi đầu sợi lông hiện các cõi
    Các đại Bồ Tát đều đầy dẫy
    Chúng hội trí huệ đều khác nhau
    Thảy đều thấu rõ tâm chúng sinh.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, nương đại oai thần lực của chư Phật, có thể ở đầu một sợi lông, hiện ra cõi nước chư Phật mười phương. Ở trong các cõi Phật có các đại Bồ Tát đầy dẫy pháp giới. Trong chúng hội chư Phật, có biển chúng Bồ Tát thanh tịnh, trí huệ của mỗi vị Bồ Tát đều khác nhau. Hết thảy Bồ Tát hoàn toàn hiểu rõ tâm niệm của tất cả chúng sinh hoan hỷ gì ?

    Mười phương thế giới không thể nói
    Một niệm đi khắp hết tất cả
    Lợi ích chúng sinh cúng dường Phật
    Nơi chỗ chư Phật hỏi nghĩa sâu.

    Mười phương thế giới, tuy nhiều không thể nói hết được, nhưng Bồ Tát trong một niệm, đều có thể du hành khắp hết thảy thế giới, chẳng có nơi nào mà không đến. Tại sao ? Vì Ngài muốn lợi ích chúng sinh và cúng dường chư Phật. Do đó:

    ‘’Trên cầu Phật đạo
    Dưới độ chúng sinh.’’

    Nên đến mười phương chỗ các Ðức Phật, để thưa hỏi diệu nghĩa thâm sâu.

    Nơi các Như Lai nghĩ cha lành
    Vì lợi chúng sinh tu giác hạnh
    Trí huệ khéo léo thông pháp tạng
    Vào chỗ trí sâu chẳng chấp trước.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm, đối với mười phương chư Phật nghĩ là cha lành. Vì lợi ích chúng sinh, mới tu hành tất cả giác hạnh. Còn gọi là giác quán, tức là do giác ngộ để quán sát. Trí huệ nhiều rồi thì sẽ dùng phương tiện khéo léo, thông đạt tất cả các pháp thật tướng, vào môn Bát Nhã thâm sâu của Bồ Tát mà chẳng chấp trước.
    Giác có tám thứ.
    1). Dục giác: Tức là thường nghĩ muốn đắc được cảnh giới hoan hỷ trong tâm.
    2). Sân giác: Tức là lửa vô minh quá lớn, tự mình khống chế chẳng đặng, đến lúc chẳng giữ được nữa thì nổi giận với người.
    3). Não giác: Tức là não hại kẻ khác, xúc phạm đến tự do của kẻ khác, phỉ báng danh dự của kẻ khác.
    4). Thân lý giác: Tức là thường nghĩ nhớ thân nhân bà con bạn bè.
    5). Quốc độ giác: Tức là thường nghĩ thế giới bình an, hoặc chẳng bình an.
    6). Bất tử giác: Không thể giác ngộ mình sẽ chết, cho nên liều mạng tích của cải đồ ăn.
    7). Tộc tánh giác: Thường phân biệt sang hèn trong tộc tánh.
    8). Khinh mạn giác: Tức là cống cao ngã mạn, đều cảm thấy mình cao minh hơn người khác.
    Tám thứ giác này chẳng tương ưng với đạo, nên chuyển biến nó lại thì mới tương ưng với đạo.

    Tùy thuận suy gẫm nói pháp giới
    Trải vô lượng kiếp không thể lường
    Tuy trí khéo vào chẳng xứ sở
    Chẳng có mỏi nhàm chẳng chấp trước.

    Tùy thuận sự suy gẫm của chúng sinh để nói đạo lý pháp giới, trải qua thời gian vô lượng kiếp, cũng chẳng thể nói hết được. Trí huệ tuy khéo vào tạng pháp, nhưng cũng chẳng có xứ sở. Tuy chẳng có xứ sở, nhưng cũng chẳng mỏi nhàm, cũng chẳng chấp trước. Tại sao ? Vì có sở đắc vô sở đắc, đều chẳng chấp trước.

    Sinh trong nhà chư Phật ba đời
    Chứng được diệu pháp thân Như Lai
    Khắp vì quần sinh hiện các màu
    Ví như huyễn sư biến hết thảy.

    Bồ Tát làm con của đấng Pháp Vương trong nhà chư Phật ba đời, chứng được diệu pháp thân của Như Lai. Khắp vì tất cả chúng sinh hiện ra đủ thứ sắc thân, giống như nhà huyễn thuật ngàn biến vạn hóa, chẳng có gì mà chẳng biến hóa được.

    Hoặc hiện ban đầu tu thắng hạnh
    Hoặc hiện sơ sinh và xuất gia
    Hoặc hiện dưới cây thành Chánh Giác
    Hoặc vì chúng sinh hiện Niết Bàn.

    Bồ Tát hoặc hiện ra ban đầu tu hành hạnh môn thù thắng, hoặc hiện ra ban đầu sinh ra đời, hoặc hiện ra xuất gia tu đạo, hoặc hiện ra ở dưới cội bồ đề thành tựu quả Phật chánh đẳng chánh giác, hoặc thị hiện vào Niết Bàn .v.v... tám tướng thành đạo.

    Bồ Tát trụ chỗ pháp hi hữu
    Chỉ cảnh giới Phật chẳng nhị thừa
    Thân lời ý tưởng đều đã trừ
    Đủ thứ tùy nghi đều hiện được.

    Sở trụ của Bồ Tát đều là pháp ít có, làm gì cũng đều là cảnh giới của Phật, chứ chẳng phải là cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác nhị thừa. Thân, khẩu, ý ba nghiệp đều thanh tịnh, đều đã đoạn trừ ba nghiệp ác. Ngài dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, tùy nghi nói pháp, thị hiện tất cả thứ thân hình.

    Bồ Tát đắc được các Phật pháp
    Chúng sinh suy gẫm phát cuồng loạn
    Trí vào thật tế tâm vô ngại
    Khắp hiện Như Lai tự tại lực.

    Bồ Tát đắc được tất cả Phật pháp, chúng sinh suy gẫm cảnh giới đó, thì tâm sẽ phát cuồng loạn. Trí huệ của Bồ Tát hay vào lý thể Bát Nhã chân thật, tâm chẳng quái ngại. Khắp thị hiện tự tại thần lực của Phật.

    Đây nơi thế gian chẳng gì bằng
    Hà huống lại thêm hạnh thù thắng
    Tuy chưa đầy đủ nhất thiết trí
    Đã được sức tự tại Như Lai.

    Cảnh giới đó, ở tại thế gian chẳng có gì sánh bằng, hà huống càng ngày càng tăng thêm hạnh thù thắng. Tuy Bồ Tát chưa đầy đủ tất cả trí huệ của Phật, nhưng đã đắc được thần lực tự tại của Phật.

    Đã trụ một thừa đạo cứu kính
    Vào sâu pháp tối thượng vi diệu
    Khéo biết chúng sinh thời phi thời
    Vì lợi ích mà hiện thần thông.

    Ðã trụ nơi một thừa Phật đạo cứu kính, vào sâu pháp môn tối thượng vi diệu không thể nghĩ bàn, khéo biết tâm chúng sinh, lúc nào cơ duyên thành thục độ được ? Lúc nào cơ duyên chẳng thành thục, không thể độ được ? Hoàn toàn biết rõ. Vì lợi ích chúng sinh, cho nên thị hiện đủ thứ thần thông.

    Phân thân đầy khắp tất cả cõi
    Phóng tịnh quang minh diệt đời tối
    Ví như Long Vương nổi mây lớn
    Mưa khắp pháp vũ đều thấm nhuần.

    Bồ Tát hay phân thân vô lượng, đầy khắp tất cả cõi Phật. Phóng đại trí huệ quang minh, phá trừ tất cả đen tối của thế gian. Ví như Long vương ở trong hư không nổi vầng mây lớn, khắp mưa xuống pháp vũ vi diệu, khiến cho chúng sinh đều được thấm nhuần pháp vũ.

    Quán sát chúng sinh như huyễn mộng
    Vì nghiệp lực nên thường lưu chuyển
    Đại bi thương xót đều cứu vớt
    Vì nói pháp tánh tịnh vô vi.

    Bồ Tát quán sát tất cả chúng sinh như huyễn mộng. Vì chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, cho nên chuyển đi chuyển lại trong sáu nẻo luân hồi, chẳng được giải thoát. Bồ Tát có tâm đại bi thương xót tất cả chúng sinh, cho nên cứu vớt tất cả chúng sinh thoát khổ được vui. Vì chúng sinh mà nói pháp tánh thanh tịnh vô vi.

    Phật lực vô lượng đây cũng thế
    Ví như hư không chẳng bờ mé
    Vì khiến chúng sinh được giải thoát
    Ức kiếp siêng tu chẳng nhàm mỏi.

    Sức lực của Phật vô lượng vô biên, sức lực của Bồ Tát giáo hóa chúng sinh cũng vô lượng vô biên. Ví như hư không chẳng có bờ mé. Vì khiến cho tất cả chúng sinh được giải thoát, cho nên trong ức kiếp, siêng tu Phật pháp chẳng nhàm mỏi.

    Đủ thứ suy gẫm diệu công đức
    Khéo tu nghiệp bậc nhất vô thượng
    Nơi các thắng hạnh luôn không bỏ
    Chuyên niệm họ thành nhất thiết trí.

    Dùng đủ thứ thiền định tam muội để tu hành tất cả diệu công đức, đắc được cảnh giới thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Khéo tu hành nghiệp bậc nhất vô thượng, nghĩa là phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo. Tu tất cả pháp môn thù thắng, luôn luôn chẳng xả bỏ hành Bồ Tát đạo, chuyên nghĩ tất cả chúng sinh, chuyển hóa tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả trí huệ.

    Một thân thị hiện vô lượng thân
    Tất cả thế giới đều đến khắp
    Tâm Ngài thanh tịnh chẳng phân biệt
    Một niệm sức tư nghì như vậy.

    Một thân hay thị hiện vô lượng thân, vô lượng thân lại thị hiện ra một thân. Thần thông này hay dùng đầy khắp tất cả thế giới. Tâm của Bồ Tát thanh tịnh, cho nên lúc hành Bồ Tát đạo, hoặc lúc giáo hóa chúng sinh, chẳng có phân biệt. Chẳng màng chúng sinh thiện hay ác, Ngài là một luật bình đẳng, chẳng phân chia đó đây, xem như nhau. Mà trong một niệm đi khắp mười phương thế giới. Hết thảy các cõi nước chư Phật, sức không thể nghĩ bàn, tức là như vậy.

    Nơi các thế gian chẳng phân biệt
    Nơi tất cả pháp chẳng vọng tưởng
    Tuy quán các pháp chẳng thủ lấy
    Luôn cứu chúng sinh chẳng chỗ độ.

    Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, trong tất cả thế gian, dùng trí quang để chiếu soi căn tánh của tất cả chúng sinh, mà chẳng phân biệt chúng sinh thiện ác. Ðối với tất cả pháp, đều chẳng sinh ra vọng tưởng: Tôi dùng pháp gì để giáo hóa chúng sinh ? Tuy dùng trí huệ để quán sát các pháp, nhưng chẳng thủ lấy các pháp. Luôn luôn cứu độ chúng sinh mà chẳng chấp trước tướng độ chúng sinh.
    Chúng ta người tu đạo, đừng có tư tưởng tuyên truyền cái ngã của mình: ‘’Ề ! Anh biết không ! Tôi đang hành Bồ Tát đạo, tôi đang giáo hóa chúng sinh, tôi đang cứu độ chúng sinh .v.v...’’ Do đó:

    ‘’Suốt ngày độ chúng sinh, mà chẳng độ.’’

    Phải có tinh thần như vầy. Trong thiền tông có nói:

    ‘’Suốt ngày ăn cơm,
    Chưa ăn một hạt gạo.
    Suốt ngày mặc áo,
    Chưa mặc một sợi tơ.’’

    Tại sao phải nói như vậy ? Là vì dạy người đừng chấp trước, đừng giữ lấy tướng.

    Tất cả thế gian chỉ là tưởng
    Trong đó đủ thứ đều khác nhau
    Biết cảnh giới tưởng hiểm lại sâu
    Vì họ hiện thần thông cứu thoát.

    Do vọng tưởng của chúng sinh mà tạo thành thế gian hư vọng, cho nên nói tất cả thế gian chỉ là tưởng. Trong thế gian có đủ thứ vọng tưởng, mỗi loại chúng sinh có mỗi loại vọng tưởng, đều khác nhau. Bồ Tát biết cảnh giới vọng tưởng là nguy hiểm, lại vừa sâu vừa rộng, cho nên thị hiện thần thông để cứu thoát tất cả chúng sinh thoát khỏi ba cõi.
    Mục đích của chúng ta tu đạo là đối trị vọng tưởng, phải tu dứt trừ vọng tưởng. Làm thế nào để dứt trừ vọng tưởng? Như là đả thất đói (không ăn cơm), tức là đánh chết vọng tưởng. Tôi thường hỏi các vị đã chết chưa? Chẳng phải nói là người chết chưa? Mà là hỏi vọng tưởng đã chết chưa? Có còn lòng tham không? Có biết đã mấy ngày tâm không ăn cơm chăng? Nếu còn cái tâm nầy, thì đó là vọng tưởng. Đó là chứng minh tâm tham vẫn chưa dừng lại. Đả thất đói là phương phápp đối trị tâm tham. Bạn (vọng tưởng) muốn ăn vật gì chăng? Thì không cho nó ăn. Bạn muốn uống sữa chăng? Thì không cho nó uống. Đó là đấu tranh với vọng tưởng. Đó là một thứ sức lực không gì so sánh của người tu đạo, để chinh phục vọng tưởng, điều phục vọng tưởng, để không thể nhiễu loạn tâm thanh tịnh của người tu đạo.

    Ví như huyễn sư sức tự tại
    Thần biến Bồ Tát cũng như vậy
    Thân khắp pháp giới và hư không
    Tuỳ tâm chúng sinh đều thấy được.

    Thần thông chẳng phải là chân thật. Giống như nhà huyễn thuật, có thể từ không hoá có, từ có hoá không. Lại có thể lúc lớn lúc nhỏ, lúc ẩn lúc hiện, có một thứ sức tự tại, do đó: “Biến hoá khó dò”, tức cũng là biến hoá vô cùng. Bồ Tát dùng thần thông biến hoá, cũng như thế, một thân có thể sung mãn khắp cùng hết thảy pháp giới và hư không giới, tuỳ tâm niệm của chúng sinh mà thị hiện, thảy đều nhìn thấy Bồ Tát thị hiện thân.

    Năng sở phân biệt hai đều lìa
    Tạp nhiễm thanh tịnh chẳng thủ lấy
    Hoặc trói hoặc mở trí đều mất
    Nhưng nguyện ban vui khắp chúng sinh.

    Chẳng có cái năng phân biệt, cũng chẳng có cái sở phân biệt. Năng sở phân biệt đều lìa. Tâm của Bồ Tát chẳng có tạp nhiễm, cũng chẳng có thanh tịnh, cho nên gọi bất cấu bất tịnh, đều chẳng thủ lấy. Chẳng chấp trước dơ, cũng chẳng chấp trước sạch. Hoặc bị nghiệp ràng buộc, hoặc đắc được giải thoát. Bất luận là trói buộc, hoặc giải thoát, cả hai trí huệ này đều hoàn toàn mất đi. Nhưng nguyện ban vui cho chúng sinh, lợi ích khắp chúng sinh. Tại sao thế giới có chiến tranh ? Vì mọi người tranh giành lợi ích. Bạn tranh tôi giành thì phát sinh chiến tranh. Người ngu si thì bị người thông minh gạt gẫm. Người thông minh chẳng những gạt người, mà còn gạt chính mình. Do đó: ‘’Thông minh ngược lại bị thông minh lừa.’’ Chiến tranh trên thế gian, hoặc chiến tranh là vì danh, hoặc vì lợi. Nếu buông xả danh lợi thì chẳng có tranh, cũng chẳng có giành, nhân loại hòa bình với nhau, thì biến thành thế giới thanh tịnh. Cho nên Bồ Tát đem tất cả lợi ích hồi hướng cho tất cả chúng sinh, chính mình một chút cũng chẳng cần. Chỉ cần có lợi ích đối với chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh hoan hỷ thì Bồ Tát mãn nguyện. Do đó: ‘’Quên người không ta.’’ Bồ Tát có tư tưởng này, thì còn có ai đến chiến tranh với Bồ Tát chăng ? Dù ma vương thấy Bồ Tát cũng sinh tâm hoan hỷ mà chẳng chiến tranh. Người người đều học tinh thần của Bồ Tát, tất cả vì người chẳng vì mình, thì trên thế giới tuyệt đối chẳng có chiến tranh, vĩnh viễn hòa bình.

    Tất cả thế gian do sức tưởng
    Dùng trí mà vào tâm chẳng sợ
    Suy gẫm các pháp cũng như thế
    Ba đời thôi cầu chẳng thể được.

    Tất cả thế gian hư vọng, là do sức vọng tưởng mà thành tựu. Bồ Tát dùng trí huệ để minh bạch thế gian tất cả hư vọng, thì tâm chẳng sợ hãi, sẽ nhìn xuyên thấu, buông xả đặng. Suy gẫm tất cả pháp đều như vậy. Tu thiền định tư duy tu, tu trí huệ văn tư tu, cũng như thế. Ðời quá khứ không thể được, đời hiện tại không thể được, đời vị lai không thể được. Tại sao ? Vì thời gian quá khứ đã qua rồi; thời gian hiện tại cũng chẳng ngừng; thời gian vị lai thì chưa đến, cho nên ba đời thôi cầu, tất cả không thể được, tất cả chẳng có thật thể. Thôi cầu thế nào cũng tìm chẳng được, vì rõ là không thể được !

    Hay vào quá khứ xong thuở trước
    Hay vào vị lai xong thuở sau
    Hay vào hiện tại tất cả nơi
    Thường siêng quán sát chẳng chỗ có.

    Suy gẫm các pháp ba đời không thể được, hay vào quá khứ thì thuở trước cũng chẳng có. Hay vào vị lai thì thuở sau cũng chẳng có. Hay vào hiện tại thì tất cả thời gian và không gian, tất cả mọi nơi cũng chẳng có. Thường thường quán sát tất cả các pháp, đều rõ là không thể được.

    Tùy thuận Niết Bàn pháp vắng lặng
    Trụ nơi vô tránh chẳng chỗ nương
    Tâm như thật tế chẳng gì bằng
    Chuyên hướng bồ đề vĩnh bất thối.

    Tại sao tất cả các pháp chẳng thể được ? Vì tùy thuận pháp Niết Bàn vắng lặng, cho nên rõ không thể được. Trụ ở trong tam muội vô tránh và chẳng có tranh luận với ai, cũng chẳng nương tựa hết thảy pháp. Tâm tức là thật tướng, thật tướng tức là tâm. Thật tướng này chẳng gì sánh bằng, chỉ là hướng về đạo bồ đề mà đi, vĩnh viễn chẳng quay đầu lại, tức cũng là chẳng sinh tâm thối chuyển. Người tu hành, nhất định tiến về trước, đừng lùi về sau, bằng không sẽ cách rất xa đạo bồ đề.

    Tu các thắng hạnh chẳng thối sợ
    An trụ bồ đề chẳng lay động
    Phật và Bồ Tát hiện ra đời
    Tận nơi pháp giới đều thấu rõ.

    Bồ Tát tu hành tất cả hạnh thù thắng, thì chẳng sợ tất cả gian nan khốn khổ. An trụ ở đạo bồ đề, thì chẳng bị tư tưởng khác làm giao động. Nghĩa là vĩnh viễn có đạo tâm kiên cố, chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển, chẳng bị ma khảo nghiệm mà sinh tâm thối lùi. Chư Phật Bồ Tát ở tại thế gian, hết thảy đạo lý pháp giới đều hoàn toàn thấu rõ minh bạch.

    Muốn được đạo đệ nhất tối thắng
    Được nhất thiết trí vua giải thoát
    Hãy mau chóng phát tâm bồ đề
    Vĩnh sạch các lậu lợi quần sinh.

    Bồ Tát tu hành, muốn đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho nên đắc được nhất thiết trí huệ, trở thành vua giải thoát trong sự giải thoát. Làm thế nào để đắc được cảnh giới này ? Hãy mau cấp tốc phát tâm đại bồ đề, vĩnh viễn dứt sạch tập khí mao bệnh, vô minh phiền não của mình. Nếu được như vậy thì chẳng còn lậu. Lậu tức là có tâm dục. Tâm dục tức là gốc rễ của sinh tử. Nói cho dễ hiểu là ai có lậu, thì người đó không thể thoát khỏi ba cõi. Tu đạo tức là phải vĩnh viễn sạch các lậu. Nhất là tâm dâm dục, rất là quan trọng. Nếu tâm niệm dấy lên thì có lậu, lậu đi vào trong ba cõi thọ sinh tử. Nếu như vĩnh viễn dứt sạch các lậu, thì sẽ lợi ích quần sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích diệu dụng.

    Hướng về bồ đề tâm thanh tịnh
    Công đức rộng lớn không thể nói
    Vì lợi chúng sinh nên khen thuật
    Các ông hiền nhân khéo lắng nghe.

    Thường thường hướng về đạo bồ đề, thì trong tâm sẽ thanh tịnh. Công đức phát tâm bồ đề rộng lớn vô biên không thể nói hết được. Tức nhiên không thể nói ra, vậy tại sao lại phải nói ? Vì muốn khiến cho chúng sinh đồng phát tâm bồ đề, đồng thành đạo vô thượng, cho nên trong sự không thể nói lại nói công đức này. Các ông (chỉ chúng đại hội Hoa Nghiêm) các vị hiền nhân, nên chú ý nghe đạo lý tôi nói.

    Vô lượng thế giới làm bụi hết
    Trong mỗi hạt bụi vô lượng cõi
    Trong đó chư Phật đều vô lượng
    Thảy đều thấy rõ chẳng thủ lấy.

    Ví như đem vô lượng vô biên thế giới, đều nghiền nát thành từng hạt bụi. Trong mỗi hạt bụi, lại hiện ra vô lượng vô biên chư Phật đang ở trong đó giáo hóa chúng sinh. Song, Bồ Tát ban đầu phát tâm, đối với số mục rộng lớn, phân tích được rất rõ ràng, mà chẳng chấp trước số mục, cho nên nói thảy đều thấy rõ chẳng thủ lấy.

    Khéo biết chúng sinh không sinh tưởng
    Khéo biết lời lẽ chẳng lời tưởng
    Nơi các thế giới tâm vô ngại
    Đều khéo biết rõ chẳng chấp trước.

    Vì Bồ Tát có tha tâm thông, cho nên khéo biết sự nghĩ tưởng trong tâm chúng sinh. Ngài dùng phương tiện khéo léo để giáo hóa chúng sinh, song chẳng chấp trước có giáo hóa chúng sinh. Bồ Tát đối với tất cả lời lẽ, hoàn toàn thấu rõ, chẳng những nói được mà còn viết được, bất cứ loại ngôn ngữ nào, Ngài đều có thể không thầy mà tự biết. Cho nên dùng đủ thứ lời lẽ để giáo hóa đủ loài chúng sinh, song chẳng chấp trước lời lẽ. Ðối với hết thảy tất cả trong tất cả thế giới, đều minh bạch, tâm chẳng quái ngại. Bất cứ pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian đều thấu triệt mà chẳng chấp trước.

    Tâm lượng rộng lớn như hư không
    Sự việc ba đời đều thông đạt
    Tất cả nghi hoặc đều trừ diệt
    Chánh quán Phật pháp chẳng thủ lấy.

    Tư tưởng và hành vi của Bồ Tát, rộng lớn vô biên như hư không. Ðối với sự việc ba đời đều hoàn toàn thấu rõ, thông đạt vô ngại. Hết thảy tất cả vô minh và mê hoặc đều trừ sạch, tuy tu trì tất cả Phật pháp, chưng chẳng chấp trước tất cả pháp.

    Mười phương vô lượng các cõi nước
    Một niệm qua đến tâm chẳng chấp
    Thông đạt thế gian các pháp khổ
    Đều trụ vô sinh chân thật tế.

    Mười phưong vô lượng vô biên các cõi Phật, Bồ Tát có thể trong một niệm, đều qua đến mười phương các cõi Phật để cúng dường chư Phật, giáo hóa tất cả chúng sinh. Bất cứ đến nước nào, tâm đều chẳng chấp trước. Thấu rõ thông đạt tất cả vui của thế gian, đều là nhân của các khổ. Do đó: ‘’Các khổ đốt nhau, các ma đầy dẫy.’’ Ngài thường trụ ở thật tướng lý thể, pháp chân thật vắng lặng.

    Vô lượng nan tư chỗ chư Phật
    Đều đến hội đó chiêm lễ Phật
    Thường làm thượng thủ hỏi Như Lai
    Các hạnh nguyện tu của Bồ Tát.

    Chỗ các đức Phật nhiều không thể suy lường được, không thể nói được. Bồ Tát thảy đều qua đến pháp hội đạo tràng của chư Phật, lễ bái chư Phật, chiêm ngưỡng chư Phật, làm thượng thủ, đại biểu đại chúng hướng Phật thỉnh pháp, đây là tất cả nguyện, tất cả hạnh của Bồ Tát tu hành.

    Tâm thường nghĩ nhớ mười phương Phật
    Mà chẳng chỗ nương chẳng thủ lấy
    Luôn khuyên chúng sinh trồng căn lành
    Trang nghiêm cõi nước khiến thanh tịnh.

    Bồ Tát phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Cho nên trong tâm thường nghĩ nhớ mười phương chư Phật. Tuy nhiên nghĩ nhớ, nhưng chẳng ỷ lại, cũng chẳng thủ lấy. Tại sao ? Vì Bồ Tát biết Phật là Phật đã thành, chúng sinh là Phật chưa thành, mình sẽ thành Phật, cho nên chẳng chấp trước. Bồ Tát thường dùng phương tiện pháp môn, đủ thứ lời lẽ để khuyên tất cả chúng sinh trồng nhiều căn lành, vun bồi căn lành, khiến cho tăng trưởng, khiến cho chín mùi, đắc được giải thoát. Ngài lại trang nghiêm mười phương cõi nước chư Phật, khiến cho thanh tịnh.

    Tất cả hướng sinh nơi ba cõi
    Dùng mắt vô ngại để quán sát
    Hết thảy tập tánh các căn hiểu
    Vô lượng vô biên đều thấy rõ.

    Tất cả chúng sinh, hướng về chỗ sinh, nơi ba cõi, Bồ Tát dùng mắt trí huệ vô ngại để quán sát nhân duyên của tất cả chúng sinh. Hết thảy đủ thứ tập khí, căn tánh, tri giải của chúng sinh nhiều vô lượng vô biên, song Bồ Tát đều hoàn toàn thấy rõ.

    Chúng sinh tâm thích đều biết rõ
    Như vậy tùy nghi vì nói pháp
    Nơi các nhiễm tịnh đều thông đạt
    Khiến họ tu trị vào trong đạo.

    Chúng sinh có đủ thứ tâm ưa thích, Bồ Tát thảy đề biết rõ. Vì Bồ Tát minh bạch căn tánh và ưa muốn của chúng sinh mà nói pháp phương tiện khéo léo. Bồ Tát đối với pháp nhiễm ô và pháp thanh tịnh đều thông đạt vô ngại, minh bạch thấu rõ. Khiến cho tất cả chúng sinh y pháp tu hành, đối trị tất cả tập khí mao bệnh, khiến cho vào đạo vô thượng.

    Vô lượng vô biên các tam muội
    Bồ Tát một niệm đều vào được
    Trong đó tưởng trí và sở duyên
    Đều khéo biết rõ được tự tại.

    Vô lượng vô số tam muội giải thoát, Bồ Tát có thể trong một niệm, đều vào được vọng tưởng, trí huệ, phan duyên .v.v... tất cả ở trong tam muội, đều thấu triệt rất rõ ràng, biết tỷ mỉ, đắc được chân chánh tự tại thanh tịnh.

    Bồ Tát được trí rộng lớn này
    Mau hướng bồ đề chẳng chướng ngại
    Vì muốn lợi ích các quần sinh
    Nơi nơi tuyên dương pháp đại nhân.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, đắc được trí huệ rộng lớn này, thấu rõ tất cả cảnh giới, mau hướng về đạo bồ đề, chẳng có gì chướng ngại. Bồ Tát vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên khắp nơi đều tuyên dương pháp đại nhân, pháp đại nhân là tám pháp giác nói ở trong kinh Bát Ðại Nhân Giác.
    1). Giác thế gian vô thường.
    2). Giác nhiều tham dục là khổ.
    3). Giác tâm chẳng nhàm đủ.
    4). Giác giải đãi đọa lạc.
    5). Giác ngu si sinh tử.
    6). Giác nghèo khổ nhiều oán.
    7). Giác năm dục họa hoạn.
    8). Giác sinh tử thiêu đốt, khổ não vô lượng.
    Tám việc này là pháp giác ngộ của Phật Bồ Tát đại nhân.

    Trong kinh Di Giáo (kinh Niết Bàn) cũng nói tám thứ pháp.
    1). Thiểu dục: Tức là chẳng có háo danh, cũng chẳng có háo lợi, chẳng có ham muốm làm lãnh tụ, cũng chẳng có ham tranh luận. Tóm lại, chẳng có tham dục gì.
    2). Tri túc: Tức là tâm không tham. Do đó:

    ‘’Tri túc thường lạc, năng nhẫn tự an.’’

    Người biết đủ thì luôn luôn an lạc. Người chẳng biết đủ thì luôn luôn khổ đau. Do đó: ‘’Tham tâm bất túc xà thôn tượng.’’ mọi thời mọi nơi, luôn luôn biết đủ thì chẳng có phiền não.
    3). Tịch tĩnh: Lìa khỏi phiền não là tịch, đoạn tuyệt khổ hoạn là tĩnh. tức là chẳng có tiếng ồn ào. Pháp của bậc đại nhân giác là ưa thích vắng lặng, không tiếng động.
    4). Tinh tấn: Tức là siêng học dũng mãnh tinh tấn, do đó ‘’nghiệp tinh ư siêng,’’ nghề nghiệp giỏi nhờ siêng năng. Người tu đạo, dụng một phần công thì có một phần giá trị. Thời gian của người tu đạo rất quý báu, có thể nói một tấc thời gian là một tấc vàng. Phải thân tâm đều tinh tấn, ngày đêm sáu thời luôn tinh tấn, phải vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.
    5). Chánh niệm: Tức là niệm chánh đáng thanh tịnh, chứ chẳng phải là tà niệm. Chánh niệm tức là tâm thanh tịnh, tà niệm tức là tâm nhiễm ô.
    6). Chánh định: Chẳng lệch chẳng tà là chánh, chẳng suy chẳng nghĩ là định. Tức cũng là biểu hiện chẳng động tâm. Người tu đạo phải có mắt chọn pháp, tu chánh định chẳng tu tà định.
    7). Chánh huệ: Tức là trí huệ chân chánh, biện rõ thị phi, rõ thiện ác, phân tích sự lý, mười phần chánh quyết. Không thể có tiểu thông minh thế trí biện thông, đó là trí huệ tà.
    8). Chẳng hý luận: Phật Bồ Tát thì chẳng nói tiếu, đều là nói lời chân thật, chẳng có pháp hý luận. Tám pháp này là pháp của bậc đại nhân tu.

    Khéo biết thế gian kiếp dài ngắn
    Một tháng nửa tháng và ngày đêm
    Cõi nước khác nhau tánh bình đẳng
    Thường siêng quán sát chẳng phóng dật.

    Bồ Tát có thể quán sát nhân duyên ngoài tám vạn đại kiếp, A la hán chỉ có thể quán sát nhân duyên trong vòng tám vạn đại kiếp. Vị Bồ Tát này chẳng những quán sát được sự vật tám vạn đại kiếp, mà dù kiếp dài nhất và kiếp ngắn nhất, cũng đều có thể biết rất rõ ràng. Mỗi thế giới có thành trụ hoại không bốn kiếp làm một đại kiếp. Trong một đại kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Tóm lại, trong kiếp dài, có vô số kiếp thành trụ hoại không. Trong kiếp ngắn, có một tháng, hoặc nửa tháng, thậm chí thời gian ngắn một ngày đêm. Cõi nước tuy khác nhau, nhưng tánh cõi nước đều bình đẳng. Bồ Tát thường siêng tu học đủ thứ trí huệ, quán sát nhân duyên thành trụ hoại không, lúc nào cũng tinh tấn, chẳng phóng dật, cũng chẳng giải đãi.

    Đến khắp mười phương các thế giới
    Mà các nơi đến chẳng thủ lấy
    Nghiêm tịnh cõi nước đều không thừa
    Cũng chẳng sinh phân biệt thanh tịnh.

    Bồ Tát đến khắp mười phương các thế giới, đi lễ kính chư Phật, khen ngợi Như Lai, rộng tu cúng dường. Ðến các thế giới mà chẳng chấp trước, cũng chẳng có tâm phân biệt. Ngài chỉ biết đến mười phương để gần gũi chư Phật, đi trang nghiêm thanh tịnh hết thảy cõi nước chư Phật. Tuy nghiêm tịnh cõi nước, mà chẳng sinh tưởng phân biệt thanh tịnh trang nghiêm cõi nước.

    Chúng sinh thị xứ hoặc phi xứ
    Cùng với các nghiệp cảm báo khác
    Tùy thuận tu đi vào Phật lực
    Nơi đó tất cả đều biết rõ.

    Bồ Tát chẳng màng chúng sinh ở thiên đường cũng tốt, tại địa ngục cũng tốt, và ba nghiệp cảm báo khác biệt. Ngài đều tùy cơ nói pháp, tức cũng là quán cơ thí pháp. Tóm lại, vì người nói pháp, theo bệnh cho thuốc. Tùy thuận tư duy mà dùng đủ thứ sức phương tiện của chư Phật, đối với chúng sinh nên dùng pháp gì để giáo hóa được, thì Bồ Tát đều thấy rõ.

    Tất cả thế gian đủ thứ tánh
    Đủ thứ chỗ làm trụ ba cõi
    Lợi căn cùng với trung hạ căn
    Như vậy tất cả đều quán sát.

    Tất cả thế gian hết thảy chúng sinh, có đủ thứ căn tánh, vì chúng sinh có đủ thứ nghiệp tạo tác, cho nên trụ ở trong ba cõi, luân chuyển không ngừng, bất luận là lợi căn, hoặc trung căn, hay hạ căn. Căn tánh như vậy, Bồ Tát đều quán sát được rất rõ ràng.

    Tịnh và bất tịnh đủ thứ hiểu
    Thắng liệt và trung đều thấy rõ
    Tất cả chúng sinh chỗ đi đến
    Ba cõi liên tục đều nói được.

    Căn tánh của chúng sinh hoặc là thanh tịnh ? Hoặc chẳng thanh tịnh, tình hình như vậy, Bồ Tát đều thấu rõ, hoặc là thắng căn, hay liệt căn, hoặc trung căn, hay trung căn ? Bồ Tát đều thấy rõ hết. Tất cả chúng sinh trồng nhân gì ? Kết quả gì ? Tu pháp môn gì ? Thành tựu quả vị gì ? Tất cả đều tự mình tu hành. Tại sao chúng sinh lưu chuyển trong sinh tử luân hồi ? Lại liên tục chẳng đoạn tuyệt ? Bồ Tát lại có tâm từ bi, vì chúng sinh giải thích tỉ mỉ, khiến cho họ biết nguồn gốc sinh tử.

    Thiền định giải thoát các tam muội
    Nhiễm tịnh nhân khởi đều khác nhau
    Cùng với khổ vui thù đời trước
    Tịnh tu Phật lực đều thấy được.

    Thiền định có chín thứ đệ định. Tức là tứ thiền, tứ không xứ và diệt thọ tưởng định, đây là định chỉ tức tất cả tâm thức. Giải thoát có tám giải thoát, tức là :
    1). Trong có sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
    2). Trong không sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
    3). Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
    4). Không vô biên xứ giải thoát.
    5). Thức vô biên xứ giải thoát.
    6). Vô sở hữu xứ giải thoát.
    7). Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
    8). Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.

    Tam muội dịch là định. Tâm dừng nơi một cảnh, chẳng khiến cho tán động, đây gọi là định. Tam muội có nhiều thứ, ví như niệm Phật tam muội, Pháp Hoa tam muội, Hải ấn tam muội, Duy tâm tam muội, An thuyền tam muội, Du hí tam muội .v.v... tức cũng là tất cả định. Nếu trồng nhân nhiễm ô, thì chẳng dễ gì được định. Nếu trồng nhân thanh tịnh, thì dễ dàng được định, cũng dễ dàng được giải thoát. Cho nên nói nhiễm tịnh nhân khởi đều khác nhau. Hoặc đời trước thọ nhiều khổ, hoặc hưởng nhiều vui, đều do nhân trồng khác nhau, cho nên Bồ Tát thanh tịnh tu tập thập lực của Phật, đối với tất cả nhân duyên đều thấy được rất rõ ràng.

    Chúng sinh nghiệp hoặc tục các cõi
    Dứt các cõi này được vắng lặng
    Đủ thứ pháp lậu vĩnh chẳng sinh
    Và tập chúng đó đều biết rõ.

    Tại sao chúng sinh luân hồi trong sáu nẻo ? Vì nghiệp hoặc liên tục. Do đó: ‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo,’’ cho nên liên tục không ngừng. Nếu dứt trừ được sáu nẻo luân hồi thì đắc được vắng lặng, thoát khỏi ba cõi. Nếu dứt trừ được tập khí mao bệnh, vô minh phiền não .v.v... thì vĩnh viễn chẳng sinh nữa, và tập tánh chủng tử đó, Bồ Tát cũng đều biết rõ.

    Như Lai phiền não đều trừ sạch
    Đại trí quang minh chiếu thế gian
    Bồ Tát ở trong Phật thập lực
    Tuy chưa chứng được cũng chẳng nghi.

    Phật đã dứt trừ sạch tất cả phiền não, cho nên trí huệ vốn có hiện tiền. Ðại trí huệ quang minh đó, chiếu khắp nơi thế gian. Bồ Tát ở trong mười thứ trí huệ lực của Phật, tuy chưa chứng được mười lực của Phật, nhưng tơ hào chẳng có hoài nghi.

    Bồ Tát ở trong một lỗ lông
    Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
    Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
    Đủ thứ nghiệp làm đều rõ được.

    Bồ Tát có thần thông diệu dụng, có thể ở trong một lỗ chân lông, khắp hiện ra mười phương vô lượng các cõi nước chư Phật. Hoặc có cõi nước tạp nhiễm, hoặc có cõi nước thanh tịnh. Chúng sinh khởi đủ thứ nghiệp, thọ đủ thứ quả báo, Bồ Tát đều thấu rõ được.

    Trong một hạt bụi vô lượng cõi
    Vô lượng chư Phật và Phật tử
    Các cõi khác nhau chẳng tạp loạn
    Như một tất cả đều thấy rõ.

    Ở trong một hạt bụi, hiện ra được vô lượng cõi nước chư Phật. Ở trong vô lượng cõi nước chư Phật, lại có vô lượng chư Phật ở trong đó diễn nói diệu pháp. Ở trong đạo tràng của mỗi vị Phật, lại có vô lượng đại Bồ Tát đang ở trong đó, nghe Phật diễn nói diệu pháp. Ở trong một hạt bụi, hoặc ở một lỗ chân lông, hiện ra vô lượng cõi Phật có hàng lối chẳng tạp loạn. Bồ Tát thấy được mỗi cõi Phật, cho đến hết thảy cõi Phật đều thấy rõ ràng.

    Nơi một lỗ lông thấy mười phương
    Tận cõi hư không các thế gian
    Chẳng có nơi nào không có Phật
    Như vậy cõi Phật đều thanh tịnh.

    Bồ Tát có thể trong một lỗ chân lông, nhìn thấy mười phương hết thảy thế giới. Tận hư không biến pháp giới, các thế gian đều hoàn toàn nhìn thấy được, chẳng có một nơi nào mà chẳng thấy Phật ở đó chuyển đại pháp luân, giáo hóa tất cả chúng sinh. Trong mỗi lỗ lông đều hiện ra mười phương thế giới, trong mỗi thế giới, có vô lượng chư Phật đang diễn nói diệu pháp, những cõi Phật đó đều thanh tịnh trang nghiêm.

    Ở trong lỗ lông thấy cõi Phật
    Lại thấy tất cả các chúng sinh
    Ba đời sáu nẻo đều khác nhau
    Ngày đêm tháng giờ có buộc giải.

    Bồ Tát có thể ở trong một lỗ chân lông, thấy được mười phương các cõi nước Phật. Chẳng những thấy được các cõi Phật mà còn thấy được tất cả chúng sinh. Trong ba đời sáu nẻo đều có nghiệp báo khác nhau. Ngày đêm tháng giờ đều khác nhau, hoặc bị nghiệp ràng buộc hoặc được giải thoát.

    Như vậy các Bồ Tát đại trí
    Chuyên tâm hướng về bậc Pháp Vương
    Chỗ của Phật trụ thuận tư duy
    Mà được vô biên đại hoan hỷ.

    Như vậy có các Bồ Tát đại trí huệ, chuyên tâm hướng về quả vị Pháp Vương. Tức là tu pháp lục độ vạn hạnh, mới có thể trụ ở chỗ Ðức Phật, tùy thuận tư duy của Phật, mà đắc được vô biên đại hoan hỷ.

    Bồ Tát phân thân vô lượng ức
    Cúng dường tất cả các Như Lai
    Thần thông biến hiện thắng vô tỉ
    Chỗ hành của Phật đều trụ được.

    Bồ Tát phát tâm bồ đề, hay phân thân thành vô lượng ức, đến khắp mười phương chư Phật, để cúng dường tất cả chư Phật. Thần thông biến hiện của Bồ Tát rất thù thắng, chẳng gì sánh bằng. Phàm là nơi có Phật giáo hóa chúng sinh, Bồ Tát đều đến cúng dường. Vì Bồ Tát rộng tu pháp môn cúng dường.

    Chỗ vô lượng Phật đều suy ngưỡng
    Hết thảy tạng pháp đều nếm vị
    Thấy Phật nghe pháp siêng tu hành
    Như uống cam lồ tâm hoan hỷ.

    Bồ Tát ở chỗ của vô lượng chư Phật, suy xét nghiên cứu nghĩa lý pháp của chư Phật nói, kính ngưỡng Phật pháp, dụng công tu tập. Hết thảy tạng pháp của Phật, Bồ Tát đều tìm pháp vị ở trong đó. Thấy được Phật, nghe được pháp bèn siêng năng tu hành, nghiên cứu pháp lý. Giống như uống nước cam lồ ngon ngọt, giải trừ đi sự khô khát, tiêu trừ hết tham sân si, cho nên tâm sinh đại hoan hỷ.

    Đã được Như Lai thắng tam muội
    Khéo vào các pháp trí tăng trưởng
    Tâm tin chẳng động như Tu Di
    Khắp làm quần sinh công đức tạng.

    Bồ Tát ban đầu phát bồ đề tâm, thì đã đắc được định thù thắng của chư Phật. Khéo vào các pháp, diễn nói các pháp, thì trí huệ càng ngày càng tăng trưởng, tâm tin càng ngày càng vững chắc, tuyệt đối chẳng giao động, như núi Tu Di. Khắp vì chúng sinh mà làm công đức tạng.

    Tâm từ rộng lớn khắp chúng sinh
    Đều nguyện sớm thành nhất thiết trí
    Mà luôn chẳng chấp chẳng chỗ nương
    Lìa các phiền não được tự tại.

    Tâm từ bi của Bồ Tát rộng lớn vô bờ, khắp cứu hộ tất cả chúng sinh, nguyện chúng sinh sớm được thành tựu tất cả trí huệ. Tuy đắc được trí huệ, nhưng chẳng chấp trước, cũng chẳng chỗ nương tựa, lìa khỏi tất cả phiền não mà đắc được tự tại.
    Tại sao chúng sinh làm chúng sinh ? Vì chẳng có lìa khỏi tất cả phiền não. Nếu lìa khỏi phiền não thì sẽ được giải thoát, đắc được tự tại. Tại sao Bồ Tát làm Bồ Tát ? Vì chẳng có phiền não. Bất luận việc gì ? Ðều nghĩ đến chúng sinh, chẳng có chút tâm ích kỷ lợi mình nào, chỉ muốn lợi ích cho chúng sinh, Ngài cam tâm tình nguyện hy sinh tánh mạng của mình để phục vụ cho chúng sinh, tinh thần này thật là vĩ đại.

    Thưong xót chúng sinh trí rộng lớn
    Khắp nhiếp tất cả đồng như mình
    Biết không vô tướng chẳng chân thật
    Mà hành tâm nguyện chẳng giải thối.

    Bồ Tát có trí huệ rộng lớn, thương xót tất cả chúng sinh, cho nên khắp nhiếp thọ tất cả chúng sinh, như đồng nhiếp thọ chính mình. Bồ Tát biết các pháp đều không, chẳng có thật tánh. Nhưng hành tâm nguyện của Bồ Tát đạo, vĩnh viễn chẳng giải đãi, chẳng thối lùi.

    Bồ Tát phát tâm công đức lượng
    Ức kiếp khen ngợi không hết được
    Vì sinh tất cả các Như Lai
    Độc Giác Thanh Văn đều an lạc.

    Lượng công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm, dùng ức kiếp thời gian dài để khen ngợi tán thán, cũng nói không hết được. Mười phương chư Phật thuở xưa đều hành Bồ Tát đạo, đây là khiến cho hàng Thanh Văn và Ðộc giác đều đắc được an lạc.

    Mười phương cõi nước các chúng sinh
    Thảy đều thí an vô lượng kiếp
    Khuyên giữ năm giới và thập thiện
    Tứ thiền tứ đẳng các định xứ.

    Bồ Tát trong mười phương các cõi nước, thường hành bố thí, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được an lạc, trải qua thời gian vô lượng kiếp. Lại khuyên nói hướng dẫn tất cả chúng sinh giữ năm giới, tu mười điều lành, và tu tứ thiền định và tứ đẳng định. Tứ đẳng tức là tứ không định, diệt thọ tưởng định, đây là các định xứ.

    Lại trong nhiều kiếp thí an lạc
    Khiến dứt các hoặc thành La Hán
    Các phước đức đó tuy vô lượng
    Chẳng bằng công đức phát tâm này.

    Bồ Tát lại ở trong nhiều đời nhiều kiếp, bố thí tất cả an lạc cho chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh dứt hoặc, chứng chân, trở thành quả vị A la hán. Phước đức đó tuy vô lượng vô biên, nhưng chẳng bằng so với công đức phát bồ đề tâm.

    Lại dạy ức chúng thành Duyên Giác
    Được vô tánh hành đạo vi diệu
    Dùng đó mà sánh tâm bồ đề
    Tính đếm ví dụ chẳng bằng được.

    Bồ Tát lại dạy trăm ngàn vạn ức chúng sinh, thành tựu quả vị Duyên Giác. Ðắc được tam muội vô tránh, hành đạo vi diệu không thể nghĩ bàn. Công đức đó vô lượng vô biên. Song, so sánh với công đức ban đầu phát tâm bồ đề, dùng sự tính đếm ví dụ để hình dung, cũng chẳng bằng được.

    Một niệm qua được cõi số bụi
    Như vậy trải qua vô lượng kiếp
    Các cõi đó đếm còn lường được
    Công đức phát tâm chẳng biết được.

    Trong một niệm, có thể đi qua các cõi Phật nhiều như số hạt bụi. Cảnh giới như vậy, trải qua vô lượng kiếp thời gian, cõi Phật đó đếm cũng chẳng cách chi biết được. Song, tính đếm còn có thể biết được số lượng, nhưng công đức ban đầu phát tâm, chẳng có ai biết được là bao nhiêu ?

    Quá khứ vị lai và hiện tại
    Hết thảy kiếp số vô biên lượng
    Các kiếp đó đếm có thể biết
    Công đức phát tâm không dò được.

    Kiếp quá khứ, kiếp vị lai, kiếp hiện tại, hết thảy kiếp số vô lượng vô biên, chẳng biết được có bao nhiêu ? Những kiếp số đó còn có thể biết được, song công đức ban đầu phát tâm bồ đề, chẳng có ai có thể dò lường được cứu kính là bao nhiêu ?

    Dùng tâm bồ đề khắp mười phương
    Hết thảy phân biệt đâu chẳng biết
    Một niệm ba đời đều thông đạt
    Vì lợi ích vô lượng chúng sinh.

    Dùng tâm bồ đề rộng lớn, đầy khắp mười phương thế giới. Hết thảy căn tánh và tri giải của chúng sinh đâu mà chẳng biết. Trong một niệm, thời gian ba đời đều thông đạt vô ngại. Bồ Tát phát tâm bồ đề, vì lợi ích vô lượng chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.

    Mười phương thế giới các chúng sinh
    Muốn hiểu phương tiện ý hành vi
    Với bờ mé hư không dò được
    Công đức phát tâm khó biết được.

    Mười phương thế giới hết thảy chúng sinh, Bồ Tát đều muốn minh bạch phương tiện trí huệ và ý niệm hành vi của họ, cùng với bờ mé của hư không có thể dò lường được, nhưng công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề khó dò lường biết được.

    Bồ Tát chí nguyện đồng mười phương
    Tâm từ nhuần khắp các quần sinh
    Khiến họ tu thành công đức Phật
    Cho nên lực đó chẳng bờ mé.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm, chí nguyện đầy khắp mười phương. Dùng tâm từ bi độ khắp chúng sinh, khiến cho họ bỏ mê về giác, tu thành công đức của Phật. Vì nhân duyên đó, cho nên sức lực công đức ban đầu phát tâm chẳng có bờ mé.

    Chúng sinh muốn hiểu tâm ưa thích
    Các căn phương tiện hành khác nhau
    Ở trong một niệm đều thấu rõ
    Nhất thiết trí trí tâm đồng nhau.

    Sự ưa muốn của chúng sinh, sự hiểu biết của chúng sinh, tâm ưa thích của chúng sinh, các căn và sở hành phương tiện pháp môn của chúng sinh đều khác nhau, mà chẳng giống nhau. Tuy rất phức tạp, nhưng Bồ Tát có thể trong một niệm đều biết được. Vì nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí tâm đều đồng nhau, chẳng có khác biệt.

    Phát tâm hay lìa nghiệp phiền não
    Cúng dường tất cả các Như Lai
    Nghiệp hoặc sẽ lìa dứt liên tục
    Khắp nơi ba đời được giải thoát.

    Phát tâm bồ đề hay lìa khỏi tất cả nghiệp phiền não, mà hay rộng tu cúng dường tất cả chư Phật. Nghiệp và mê hoặc mà chúng sinh đã tạo ra đều đã dứt tuyệt. Quả sinh tử cũng đoạn tuyệt, chẳng còn liên tục nữa. Khắp nơi ba đời đều đắc được giải thoát.

    Một niệm cúng dường vô biên Phật
    Cũng cúng vô số các chúng sinh
    Cũng cúng hương hoa và màn đẹp
    Tràng phan lọng báu y phục tốt.

    Bồ Tát dùng sức thần thông, ở trong một niệm, cúng dường mười phương vô số chư Phật. Cũng cúng dường vô số các chúng sinh. Dùng gì để cúng dường ? Dùng đủ thứ hương thơm, hoa đẹp, màn quý và tràng báu, phan báu, lọng báu, y phục tốt đẹp để cúng dường.

    Thức ngon tòa quý nơi kinh hành
    Đủ thứ cung điện đều nghiêm đẹp
    Tỳ Lô Giá Na châu báu đẹp
    Như ý ma ni phát quang chiếu.

    Bồ Tát dùng thức ăn uống thơm ngon, tòa sư tử trân quý để cúng dường Phật, và chỗ đi kinh hành đều dùng bảy báu để trang nghiêm. Lại dùng đủ thứ cung điện để cúng dường chư Phật và tất cả chúng sinh, đều là trang nghiêm tốt đẹp. Châu báu đẹp Tỳ Lô Giá Na Phật, châu như ý, châu ma ni, đều phát ra ánh sáng chiếu soi mười phương thế giới.

    Niệm niệm như vậy đem cúng dường
    Trải vô lượng kiếp không thể nói
    Phước đức người đó tuy rất nhiều
    Chẳng bằng đại công đức phát tâm.

    Trong niệm niệm, dùng đủ thứ bảy báu để cúng dường chư Phật và tất cả chúng sinh, trải qua vô lượng kiếp thời gian không thể nói. Phước báo của người đó tuy rất nhiều, nhưng chẳng bằng đại công đức ban đầu phát tâm bồ đề.

    Đủ thứ các ví dụ nói ra
    Đều không bằng phát tâm bồ đề
    Bởi các Nhân Trung Tôn ba đời
    Đều từ phát tâm mà sinh ra.

    Bất cứ ví dụ nào, cũng đều không bằng công đức ban đầu phát tâm bồ đề. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều từ phát tâm bồ đề mà sinh ra. Ai phát tâm bồ đề thì người đó là Phật.

    Phát tâm vô ngại chẳng bờ mé
    Muốn biết lượng đó không thể được
    Nhất thiết trí trí thệ tất thành
    Hết thảy chúng sinh vĩnh viễn độ.

    Công đức phát tâm bồ đề, chẳng có bờ mé nhất định, là viên dung vô ngại. Muốn biết công đức ban đầu phát tâm là bao nhiêu ? Không thể biết được, chẳng cách chi dò lường được. Nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí, Bồ Tát cũng phải phát thệ, tất sẽ được thành tựu. Bồ Tát phát tâm là vĩnh viễn độ thoát hết thảy chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi ba cõi, đắc được Niết Bàn khoái lạc.

    Phát tâm rộng lớn đồng hư không
    Sinh các công đức đồng pháp giới
    Sở hành phổ khắp như chẳng khác
    Vĩnh lìa chấp trước Phật bình đẳng.

    Bồ Tát là tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới. Phát tâm bồ đề rộng lớn đồng vời hư không. Phát tâm bồ đề này, sinh ra công đức bình đẳng đồng với pháp giới. Bồ Tát sở hành, tuy nhiên phổ khắp pháp giới, nhưng vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sự chấp trước, và bình đẳng với sự giải thoát của chư Phật, chẳng có gì khác biệt.

    Tất cả pháp môn thảy đều vào
    Tất cả cõi nước đều qua đến
    Tất cả trí cảnh đều thông đạt
    Tất cả công đức đều thành tựu.

    Hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn, Bồ Tát thảy đều nhập vào, mười phương tất cả chư Phật cõi nước, Bồ Tát thảy đều nhập vào mười phương tất cả chư Phật cõi nước, Bồ Tát đều đi đến cúng dường chư Phật. Tất cả cảnh giới trí huệ của chư Phật, Bồ Tát đều thông đạt vô ngại. Hết thảy tất cả công đức của chư Phật, Bồ Tát đều thành tựu.

    Tất cả xả được luôn liên tục
    Tịnh các giới phẩm chẳng chấp trước
    Đầy đủ đại công đức vô thượng
    Thường siêng tinh tấn chẳng thối lùi.

    Bồ Tát có tâm trạng từ bi khó xả bỏ mà xả bỏ được, cho nên luôn luôn bố thí liên tục không ngừng. Bồ Tát chẳng những tu pháp môn bố thí, mà còn tu pháp môn trì giới. Tu giữ tất cả giới phẩm thanh tịnh, mà chẳng chấp trước. Do đó, đầy đủ đại công đức vô thượng, Bồ Tát siêng tu pháp môn nhẫn nhục và pháp môn tinh tấn, vĩnh viễn chẳng thối chuyển.

    Vào sâu thiền định luôn suy gẫm
    Trí huệ rộng lớn cùng tương ưng
    Đây là bậc Bồ Tát tối thắng
    Sinh ra tất cả đạo Phổ Hiền.

    Bồ Tát siêng tu thiền định thâm sâu, tức cũng là tư duy tu. Luôn luôn tư duy tu, thì sẽ tương ưng với đại trí huệ. Tóm lại, trí huệ là từ trong thiền định sinh ra, ngồi thiền ngồi đến lúc một niệm không sinh, thì đại trí huệ tự nhiên sẽ hiện tiền, tức cũng là trí huệ hơn người. Nói nông cạn cho dễ hiểu tức là thần thông, biết việc người chẳng biết, thấy việc người chẳng thấy. Lục độ này là hạnh môn tối thắng của Bồ Tát, do sự quan hệ phát tâm bồ đề, mà sinh ra tất cả đạo tu hành của Bồ Tát Phổ Hiền.

    Ba đời tất cả các Như Lai
    Thảy đều hộ niệm sơ phát tâm
    Đều dùng tam muội đà la ni
    Thần thông biến hóa cùng trang nghiêm.

    Mười phương ba đời tất cả chư Phật, chẳng có vị Phật nào mà chẳng hộ niệm Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề. Mười phương chư Phật dùng đủ thứ sức tam muội để gia trì Bồ Tát ban đầu phát tâm, lại dùng đủ thứ đà la ni và thần thông biến hóa cùng để trang nghiêm.

    Mười phương chúng sinh vô số lượng
    Thế giới hư không cũng như vậy
    Phát tâm vô lượng quá hơn đó
    Cho nên hay sinh tất cả Phật.

    Mười phương thế giới chúng sinh, nhiều vô lượng vô biên. Thế giới cũng vô lượng, hư không cũng vô lượng. Phát tâm bồ đề cũng vô lượng, song vượt qua chúng sinh, thế giới, hư không, đủ thứ vô lượng. Tại sao ? Vì phát tâm bồ đề hay sinh ra tất cả chư Phật.

    Tâm bồ đề là gốc mười lực
    Cũng là gốc bốn biện vô úy
    Mười tám bất cộng cũng từ đó
    Thảy đều từ phát tâm mà được.

    Tâm bồ đề là mẹ của tất cả chư Phật, cho nên sinh ra tất cả chư Phật. Lại là gốc mười lực của Phật, lại là gốc của bốn biện tài vô ngại. Lại là gốc của bốn vô sở úy, lại là gốc của mười tám pháp bất cộng. Tóm lại, tất cả pháp đều từ ban đầu phát tâm bồ đề mà chứng được.

    Thân sắc tướng trang nghiêm chư Phật
    Cùng với diệu pháp thân bình đẳng
    Trí huệ vô trước sở ứng cúng
    Đều nhờ phát tâm mà đắc được.

    Thân sắc tướng trang nghiêm của mười phương chư Phật, tức cũng là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Thân bình đẳng, thân trí huệ, thân diệu pháp, thân vô trước, thân ứng cúng, đều từ sự phát tâm bồ đề mà đắc được đủ thứ thân đó.

    Tất cả Độc Giác Thanh Văn thừa
    Các thiền tam muội vui cõi sắc
    Và các tam muội cõi vô sắc
    Đều nhờ phát tâm làm cơ bản.

    Tất cả Ðộc Giác thừa và Thanh Văn thừa, ở cõi sắc đắc được khoái lạc tam muội tứ thiền. Do đó: ‘’Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.’’ Ở cõi vô sắc đắc được khoái lạc tam muội tứ không. Sự khoái lạc đó, chẳng cách chi hình dung được, đều là từ ban đầu phát tâm mà chứng được, cho nên ban đầu phát tâm làm cơ sở của các thiền tam muội.

    Tất cả trời người tự tại vui
    Cùng với các cõi đủ thứ vui
    Tấn định căn lực thảy các vui
    Hết thảy đều do sơ phát tâm.

    Hết thảy người ở trên trời và người ở thế gian, đắc được sự an vui tự tại, cùng với đủ thứ sự an vui trong các cõi. Sự an vui của tín, tấn, niệm, định, huệ, năm căn và sự an vui của tín, tấn, niệm, định, huệ, năm lực (năm căn hay sinh ra năm lực). Ðủ thứ sự an vui đó, đều từ ban đầu phát tâm mà đắc được.

    Nhờ nhân phát sinh tâm rộng lớn
    Tất hay tu hành hạnh lục độ
    Khuyên các chúng sinh hành chánh hạnh
    Ở trong ba cõi thọ an vui.

    Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, lúc ở tại nhân địa thì phát tâm nguyện rộng lớn. Nguyện tất cả chúng sinh đoạn trừ tất cả phiền não, nguyện tất cả chúng sinh học tất cả Phật pháp, nguyện tất cả chúng sinh thành Phật đạo vô thượng. Vì phát thệ rộng lớn, cho nên mới tu hành hạnh lục độ. Công việc của Bồ Tát là khuyên nói tất cả chúng sinh tu hành bồ đề chánh hạnh, ở trong ba cõi luôn thọ sự an lạc.

    Trụ Phật vô ngại trí thật nghĩa
    Hết thảy diệu nghiệp đều khai xiển
    Hay khiến vô lượng các chúng sinh
    Đều dứt hoặc nghiệp hướng Niết Bàn.

    Bồ Tát hay trụ ở trí huệ viên dung vô ngại chân thật nghĩa lý của chư Phật, hết thảy nghiệp vi diệu đều vì chúng sinh khai diễn xiển dương diệu pháp, hay khến cho vô lượng chúng sinh đều dứt trừ sạch hoặc thô, hoặc tế, hoặc thấy, hoặc suy nghĩ, cùng với hoặc trần sa và hoặc vô minh, để hướng về Niết Bàn.

    Khắp phát vô biên nguyện công đức
    Đều ban vui tất cả chúng sinh
    Suốt thuở vị lai nương nguyện hành
    Thường siêng tu tập độ chúng sinh.

    Bồ Tát khắp phát nguyện công đức rộng lớn vô biên, nguyện ban cho tất cả chúng sinh an vui, nguyện đời đời kiếp suốt thuở vị lai, y chiếu nguyện của mình đã phát mà tu hành, thường siêng học tập pháp môn rộng độ chúng sinh.

    Vô lượng đại nguyện khó nghĩ bàn
    Nguyện khiến chúng sinh đều thanh tịnh
    Không vô tướng nguyện chẳng chỗ nương
    Nhờ nguyện lực nên đều hiểu rõ.

    Bồ Tát phát vô lượng đại nguyện đều không thể nghĩ bàn, Ngài nguyện khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được pháp thanh tịnh, mà chẳng có tư tưởng nhiễm ô. Bồ Tát tu hành hạnh môn chẳng có chấp trước. Tại sao ? Vì tất cả pháp đều là không, chẳng có thật tướng. Tuy nhiên phát nguyện độ chúng sinh, nhưng chẳng chấp trước nguyện, cũng chẳng nương tựa vào nơi nào. Do nhờ phát nguyện lực, cho nên tất cả đều hiển hiện ra rõ ràng.

    Rõ pháp tự tại như hư không
    Tất cả vắng lặng đều bình đẳng
    Pháp môn vô số không thể nói
    Vì chúng sinh nói chẳng chấp trước.

    Bồ Tát thấu rõ tất cả tự tánh của tất cả các pháp như hư không. Bổn thể của pháp là vắng lặng, pháp vắng lặng này là bình đẳng. Pháp môn có rất nhiều vô lượng không thể nói. Vì giáo hóa chúng sinh, ở trong sự không thể nói, vẫn phải nói pháp này. Tuy vì chúng sinh nói pháp, nhưng chẳng có sự chấp trước.

    Như số chúng sinh bao kiếp số
    Nói công đức đó không hết được
    Nhờ ở nhà Như Lai rộng lớn
    Ba cõi các pháp không thể dụ.

    Dù có dùng thời gian nhiều đại kiếp như số lượng chúng sinh, để nói công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, cũng không thể nói hết được. Ðã ở trong nhà rộng lớn của Như Lai, thì dùng tất cả các pháp trong ba cõi, để ví dụ công đức ban đầu phát tâm, cũng không thể ví dụ được.

    Muốn biết tất cả các Phật pháp
    Hãy nên mau phát tâm bồ đề
    Công đức tâm này tối thắng nhất
    Sẽ được trí Như Lai vô ngại.

    Muốn biết hết thảy các pháp của mười phương chư Phật, thì hãy mau phát tâm bồ đề. Công đức của tâm bồ đề là tối thù thắng trong công đức, tất sẽ đắc được trí huệ chẳng chướng ngại của chư Phật.

    Tâm hành chúng sinh đếm biết được
    Hạt bụi cõi nước cũng như thế
    Bờ mé hư không có thể lường
    Công đức phát tâm không dò được.

    Tâm niệm và hành vi của chúng sinh, có thể đếm biết được có bao nhiêu. Hết thảy hạt bụi trong mỗi cõi nước cũng có thể đếm biết được có bao nhiêu. Bờ mé của hư không cũng có thể độ lượng lớn bao nhiêu. Song, công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng cách chi dò lường được.

    Sinh ra ba đời tất cả Phật
    Thành tựu thế gian tất cả vui
    Tăng trưởng tất cả thắng công đức
    Vĩnh dứt tất cả các nghi hoặc.

    Tâm bồ đề hay sinh ra ba đời tất cả chư Phật, tâm bồ đề hay thành tựu tất cả khoái lạc an vui của thế gian. Tâm bồ đề hay tăng trưởng tất cả công đức thù thắng. Tâm bồ đề hay vĩnh viễn dứt trừ tất cả nghiệp chướng nghi hoặc, nói chung, phát tâm bồ đề, mới có thể thành Phật đạo.

    Mở bày tất cả diệu cảnh giới
    Trừ sạch tất cả các chuớng ngại
    Thành tựu tất cả cõi thanh tịnh
    Sinh ra tất cả trí Như Lai.

    Công đức của tâm bồ đề, hay mở bày tất cả diệu cảnh giới, hay trừ sạch tất cả các chướng ngại, hay thành tựu tất cả các cõi nước, hay thanh tịnh tất cả các cõi nước, hay sinh ra nhất thiết trí huệ của Phật.

    Muốn thấy mười phương tất cả Phật
    Muốn thí vô tận tạng công đức
    Muốn diệt phiền não của chúng sinh
    Hãy nên mau phát tâm bồ đề.

    Muốn thấy được mười phương ba đời tất cả chư Phật chăng ? Vậy thì phải phát tâm bồ đề. Muốn thành tựu tạng công đức vô cùng tận chăng ? Vậy thì phải phát tâm bồ đề. Muốn diệt trừ tất cả phiền não của chúng sinh chăng ? Vậy thì phải phát tâm bồ đề. Hãy nên mau phát tâm bồ đề, mới đạt được mục đích hy vọng là cứu kính Niết Bàn.

    (HẾT PHẨM CÔNG ĐỨC BAN ĐẦU PHÁT TÂM THỨ MƯỜI BẢY)
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  8. #68

    Mặc định





    Kinh văn: (Chữ đậm là Kinh văn)

    Bồ Tát phát tâm cầu bồ đề
    Chẳng phải không nhân không có duyên
    Nơi Phật Pháp Tăng sinh tịnh tín
    Nhờ đó mà sinh tâm rộng lớn.


    Giảng giải: (Chữ thường là giảng giải)

    Bồ Tát phát tâm là vì cầu đạo bồ đề, đều có nhân duyên, chẳng phải không nhân không duyên mà phát sinh. Mà là gặp bậc thiện tri thức khai thị mà phát sinh tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Ðối với Phật Pháp Tăng đều sinh niềm tin thanh tịnh. Phật là bậc Thánh nhân ba giác tròn, vạn đức đầy. Pháp là phương pháp chấm dứt sanh tử. Tăng là tụ tập bốn vị Tỳ Kheo trở lên mới gọi là Tăng. Nhờ tin Phật tin Pháp tin Tăng, mà sinh ra tâm hân hoan rộng lớn, đây chẳng phải là sự vui củ thế gian, mà là sự an vui của xuất thế gian.
    Gì là sự an vui xuất thế gian ? Tức là bốn đức Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh. Do đó có câu :

    ‘’Nhị tử vĩnh quên là Thường.
    Giải thoát thọ dụng là Lạc.
    Chứng chân pháp thân là Ngã.
    Tuyệt chẳng nhiễm tướng là Tịnh.’’

    Ðó là giải thích Thường Lạc Ngã Tịnh.

    Chẳng cầu năm dục và ngôi vua
    Giàu có sung sướng danh đồn khắp
    Chỉ vì vĩnh diệt khổ chúng sinh
    Lợi ích thế gian mà phát tâm.

    Bồ Tát phát tâm bồ đề chẳng phải vì cầu tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, hưởng thụ năm dục. Vì tham tài, sắc, danh, thực, thùy, đều là thú hướng về địa ngục năm căn. Tuy nhiên làm hoàng đế có quyền thế, giàu có bốn biển, hưởng thụ sung sướng, tiếng đồn thiên hạ, bốn biển đều biết, nhưng là vô thường, cho nên Bồ Tát cũng không cầu.
    Tại sao Bồ Tát muốn phát tâm bồ đề ? Vì muốn cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ, vĩnh viễn diệt trừ khổ não. Vì lợi ích tất cả chúng sinh thế gian lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, cho nên mới phát tâm bồ đề.

    Thường muốn lợi lạc các chúng sinh
    Trang nghiêm cõi nước cúng dường Phật
    Thọ trì các pháp tu các trí
    Vì chứng bồ đề mà phát tâm.


    Bồ Tát thường thường phải phát nguyện, lợi lạc tất cả chúng sinh, dùng máu mồ hôi của mình, để lợi ích tất cả chúng sinh, thậm chí xả thân tâm tánh mạng để lợi ích tất cả chúng sinh, đó mới là biểu hiện hành Bồ Tát đạo. Những công đức tu hành phải hồi hướng trang nghiêm chư Phật. Kệ hồi hướng là :

    ‘’Nguyệm đem công đức này.
    Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh.
    Trên đền bốn ơn nặng.
    Dưới cứu ba đường khổ.
    Nếu có ai thấy nghe.
    Ðều phát tâm bồ đề.
    Khi xả báo thân này.
    Đồng sinh về Cực Lạc.’’

    Bốn ân nặng là :
    1). Trời đất : Có ân che chở.
    2). Cha mẹ : Cha mẹ có ân dưỡng dục.
    3). Sư Trưởng : Sư trưởng có ân giáo dục.
    4). Vua : Vua có ân bảo hộ.

    Còn phải cứu độ ba đường khổ : Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, khiến cho họ thoát khỏi biển khổ. Nếu như thấy được pháp hội giảng Kinh thuyết pháp, hoặc nghe được tiếng thuyết pháp, thì đều phát tâm bồ đề. Khi hết báo thân này (sắc thân), sau đó mọi người cùng vãng sinh về cõi Cực Lạc. Ở đó là hoa sen hóa sinh, hoa nở thấy Phật, chỉ có vui chứ chẳng có khổ, do đó gọi là thế giới Cực Lạc.
    Chẳng những phải trang nghiêm cõi Phật, mà còn phải cúng dường chư Phật. Có một phần sức lực, thì tận hết một phần sức lực; có mười phần sức lực, thì tận hết mười phần, còn phải thọ trì chánh pháp. Chánh pháp là gì ? Tức là Phật nói pháp bốn diệu đế, pháp mười hai nhân duyên, pháp sáu độ .v.v… Phải y pháp tu hành, tu nhất thiết trí huệ. Vì muốn chứng được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho nên phải phát tâm bồ đề, phải hành đạo Bồ Tát.

    Tâm tin hiểu sâu thường thanh tịnh
    Cung kính tôn trọng tất cả Phật
    Nơi pháp và Tăng cũng như vậy
    Chí thành cúng dường mà phát tâm.


    Tu đạo phải có tâm kiên, thành, hằng, thâm sâu và tâm tin hiểu. Có tâm tin rồi, thì mới thấu hiểu nghĩa chân thật của Phật pháp. Muốn thanh tịnh thì phải tin pháp của Phật nói, lại phải cung kính chư Phật, tôn trọng chư Phật, cúng dường chư Phật, gần gũi chư Phật. Chẳng những cung kính tất cả chư Phật, mà còn phải cung kính tất cả Pháp, càng phải cung kính tất cả Tăng. Tam Bảo là bình đẳng, cung kính Phật tức là cung kính Pháp, cung kính pháp cũng phải cung kính Tăng. Tại sao ? Nghĩ muốn thành Phật thì nhất định phải minh bạch Phật pháp. Chẳng minh bạch Phật pháp thì sẽ chẳng thành Phật. Nghĩ muốn minh bạch Phật pháp, thì nhất định phải theo Tăng để học Phật pháp. Do đó: ‘’Pháp do Tăng truyền,’’ bất cứ lúc nào Phật pháp cũng đều do Tăng truyền, chứ chẳng phải người học vấn nào truyền. Muốn học Phật pháp, thì nhất định phải cung kính Tam Bảo, tôn trọng Tam Bảo. Do đó, phải dùng tâm chí thành khẩn thiết cúng dường Tam Bảo, đừng có tướng ta, chấp ta, thấy ta, phải làm cho ‘’ba cái ta‘’ này không. Bồ Tát phát tâm tức là phát tâm chí thành chân thật này.

    Tin sâu nơi Phật và Phật pháp
    Cũng tin Phật tử sở hành đạo
    Và tin vô thượng đại bồ đề
    Bồ Tát nhờ đó mới phát tâm.


    Học Phật pháp thì nhất định phải tin sâu, thệ nguyện, thực hành. Ðây là tin, nguyện, hành, ba tư lương, tức cũng là tiêu chuẩn đi đến cõi Phật. Người học Phật pháp chẳng có tâm tin, thì không thể thành Phật. Có tâm tin rồi mà không phát nguyện, cũng không thể thành Phật. Phát nguyện mà không thực hành, cũng không thể thành Phật. Tin, hành, nguyện, ba tư tưởng này vốn liếng thành Phật.
    Tức nhiên tin sâu Phật và Phật pháp, còn phải tin đạo của Bồ Tát hành, còn phải tin pháp vô thượng đại bồ đề, tức cũng là phương pháp thành Phật. Bồ Tát mới phát tâm là nhờ đủ thứ công đức và đủ thứ nhân duyên đã nói ở trước mà phát tâm bồ đề.
    Tu hành là pháp môn bình đẳng nhất, ai nhìn xuyên thủng, buông xả đặng, chân chánh y pháp tu hành thì người đó sẽ thành tựu. Ngược lại thì chẳng thành tựu. Ðây là bình đẳng tuyệt đối, chẳng có cầu may. Tu một phần thì được một phần, tu mười phần thì được mười phần. Do đó: ‘’Một thật tất cả thật, một rõ tất cả rõ, một ngộ tất cả ngộ, ’’ tức là đạo lý này.

    Tin là nguồn đạo mẹ công đức
    Nuôi lớn tất cả các pháp lành
    Dứt trừ lưới nghi thoát biển ái
    Mở bày Niết Bàn đạo vô thượng.


    Phật pháp như biển cả, chỉ tin mới vào được. Có tâm tin rồi, mới vào được trong biển Phật pháp. Chẳng có tâm tin, thì giống như đèn điện chẳng mở, thì chẳng có ánh sáng. Chẳng có tâm tin Phật pháp, thì chẳng đắc được trí huệ quang minh, cho nên tâm tin rất là quan trọng.
    Tin là nguồn đạo, nguồn đạo tức là tu đạo phương pháp đệ nhất. Có tâm tin mới có thể tu đạo; chẳng có tâm tin, thì không thể tu đạo, đây là gốc của sự tu đạo. Chữ nguồn (nguyên) này phát xuất từ Kinh Dịch. Kinh Dịch một khi bắt đầu nói : ‘’Càn, nguyên hanh lợi trinh.’’ Quẻ Càn thuộc dương, là dương trong dương, dương đến cực điểm. Nguyên (nguồn) tức là pháp thứ nhất trong pháp lành, tức cũng là bắt đầu tu đạo. Hanh tức là vạn sự hanh thông, tức cũng là tập hội tốt. Lợi là lợi ích tất cả sự vật, phải hợp với tất cả nghĩa lý. Trinh tức là đi làm việc chân chánh, chẳng phải cẩu thả. Nguyên hanh lợi trinh đây là bốn đức. Quân tử có bốn đức hạnh, cho nên mới có thể lợi vật, xử sự, cát tường .v.v…
    Công đức là gì ? Công là lập công, đức là làm đức. Lập công như thế nào ? Ví như có người xây chùa, trợ giúp chùa làm cả mọi việc, đây là lập công. Làm đức như thế nào ? Bất cứ việc thiện lớn nhỏ, đều phải đi lập công. Công viên mãn thì đức thành tựu, tức cũng là đạo nghiệp thành công, đó là làm đức. Nếu chẳng lập công, chẳng làm việc có lợi cho chúng sinh, thì chẳng có đức hạnh. Người chẳng có đức hạnh, thì tu đạo chẳng dễ gì thành tựu. Cho nên người tu đạo, phải có đại đức hạnh. Ðại đức hạnh là gì ? Tức là chẳng có tham sân si ba độc, chẳng có tâm đố kỵ chướng ngại, chẳng có tâm cống cao ngã mạn.
    Tin là việc hàng đầu về tu đạo, cũng là mẹ của sự tu đạo. Mẹ hay sinh ra và nuôi dưỡng, cho nên nói :

    ‘’Tin là nguồn đạo mẹ công đức.
    Nuôi dưỡng tất cả các pháp lành.’’

    Tức cũng là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám chánh đạo, mười hai nhân duyên và sáu độ .v.v… Có tâm tin rồi, thì mới nuôi dưỡng tất cả pháp lành; chẳng có tâm tin, thì đương nhiên không thể nuôi dưỡng tất cả pháp lành. Giống như mùa xuân gieo hạt giống ngũ cốc, nếu chẳng có nước, ánh sáng mặt trời .v.v… các nhân khác, thì không thể nẩy mầm lớn lên. Tin đối với Phật pháp cũng như vậy. Có trợ duyên thì mới sinh căn lành.
    Người tu đạo việc quan trọng nhất, là chẳng sinh tâm hoài nghi. Ðối với Phật pháp phải tin sâu đừng nghi ngờ, đoạn trừ tất cả hoài nghi. Do đó:

    ‘’Người tu đạo chớ sinh tâm nghi
    Tâm nghi sinh ra đạo mê mờ.’’

    Nếu sinh tâm hoài nghi thì có mê hoặc, lầm vào đường tà thì chẳng hợp với trí huệ của Phật mà làm một, trí huệ vốn có chẳng thể hiện ra, cho nên phải đoạn trừ lưới nghi hoặc thì mới thoát khỏi biển ái tình.
    Tất cả chúng sinh đều lìa chẳng khỏi hai chữ ‘’ái tình‘’ này. Có tình thì có ái, có ái thì có tình, tình ái chẳng phân lìa. Nếu đoạn tình khử ái, thì sẽ có biện pháp. Song, trận ái tình này chẳng dễ gì công phá, giống như bức tường đồng cốt sắt vững chắc kiên cố. Do đó có câu :

    ‘’Tửu sắc tài khí bốn bức tường
    Biết bao người mê đắm trong đó
    Có người thoát khỏi ra ngoài tường
    Tức là trường sinh bất lão ông.’’

    Có không biết bao nhiêu người, đều mê luyến uống rượu, háo sắc, tham tiền, đấu khí. Bốn thứ này như bốn vách tường cao, lại giống như ngục tù vô hình, trói buộc người, chẳng được tự tại. Nếu có người thoát ra khỏi bốn vách tường bao bọc này, tức cũng là nhìn xuyên thủng, buông xả tất cả rượu sắc tiền khí, lúc đó sẽ chấm dứt sinh tử, tức cũng là trường sinh bất lão ông.
    Chúng ta người tu đạo, không sợ có ái dục, chỉ sợ chẳng nhận thức ái dục. Nếu nhận thức rõ ràng ái dục ở trước mắt, thì chẳng bị nó làm mê. Tất cả chúng sinh đều do ái dục mà sinh, do ái dục mà chết. Muốn chấm dứt sinh tử thì nhất định phải nhìn thủng buông xả, chẳng bị tình ái làm mê, thì tự nhiên sẽ đắc được tự tại.
    Phật mở bày cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi, thành tựu quả vị Niết Bàn vô thượng, Thường Lạc Ngã Tịnh bốn đức hạnh. Phật nói với chúng ta chúng sinh, muốn vào biển Phật Pháp, trước hết phải có niềm tin, thứ hai phải có tâm nguyện, thứ ba phải có tâm hành, tức là ba điều kiện thành Phật.

    Tin không dơ đục tâm thanh tịnh
    Diệt trừ kiêu mạn cung kính gốc
    Cũng là pháp tạng đệ nhất tài
    Làm tay thanh tịnh thọ các hạnh.


    Phải tin pháp chân chánh, tức là pháp chánh tri chánh kiến. Ðừng tin pháp thiên ma ngoại đạo, tức cũng là pháp tà tri tà kiến. Thứ pháp ngoại đạo này, càng tin càng mê, càng tin càng chẳng thanh tịnh. Tại sao ? Vì chúng là pháp nhiễm ô, vốn chẳng biết gì là pháp thanh tịnh. Nếu có tâm tin chân chánh, thì sẽ hiện ra tự tánh thanh tịnh vốn có. Tại sao tự tánh quang minh của chúng ta chẳng hiện ra ? Là vì có tâm dơ đục. Dơ đục tức là tư tưởng chẳng sạch sẽ, tức cũng là tư tưởng ô nhiễm. Có ô nhiễm thì tâm chẳng thanh tịnh. Chẳng thanh tịnh thì tự tánh quang minh chẳng hiện ra.
    Có tâm tin rồi, tâm thanh tịnh rồi, trí huệ hiện tiền thì chẳng có tâm kiêu mạn. Chẳng có tâm kiêu mạn thì sinh tâm cung kính. Cung kính Tam Bảo, cung kính cha mẹ, cung kính sư trưởng, cho nên nói tin là gốc rễ của sự cung kính. Tin hay tiêu diệt tất cả kiêu ngạo và khinh mạn.
    Tin là tài thứ nhất trong pháp tạng, tức cũng là tạng thứ nhất trong mười tạng. Mười tạng là :
    1). Tín tạng.
    2). Giới tạng.
    3). Tàm tạng.
    4). Quý tạng.
    5). Văn tạng.
    6). Thí tạng.
    7). Huệ tạng.
    8). Niệm tạng.
    9). Trì tạng.
    10). Biện tạng.

    Tin còn là một tài trong bảy Thánh tài. Bảy Thánh tài là :
    1). Tín tài.
    2). Tinh tấn tài.
    3). Giới tài.
    4). Văn xả tài.
    5). Tàm quý tài.
    6). Nhẫn nhục tài.
    7). Ðịnh huệ tài.

    Vì thân tâm thanh tịnh, cho nên tay cũng thanh tịnh, hay tu trì tất cả Phật pháp.
    Pháp đại bi mà chúng ta tu, pháp môn bốn mươi hai tay mắt (thủ nhãn), mỗi tay đều là tay thanh tịnh. Có bốn mươi hai tay thanh tịnh rồi, thì mới có thể lợi ích chúng sinh, giáo hóa chúng sinh, dùng để thọ trì tất cả các pháp. Pháp môn này là không thể nghĩ bàn.

    Tin hay huệ thí tâm không sẻn
    Tin hay hoan hỷ vào Phật pháp
    Tin hay tăng trưởng trí công đức
    Tin mới đến được bậc Như Lai.


    Phải có tâm tin mới có thể bố thí, trong thì thân tâm, ngoài thì thế giới, đều hay huệ thí cho tất cả chúng sinh, chẳng có tâm tham sẻn. Phải có tâm tin thì mới hoan hỷ học Phật pháp, chẳng vì Phật pháp thâm sâu quá vi diệu mà sinh tâm thối chuyển. Có tâm tin rồi thì chỉ có tinh tấn, chẳng có thối lùi mà vào biển Phật pháp.
    Phải có tâm tin mới tăng trưởng trí huệ và công đức. Nếu chẳng có tâm tin, thì trí huệ và công đức chẳng những chẳng tăng trưởng, ngược lại giảm bớt. Tại sao ? Vì chẳng có tâm tin để bồi dưỡng, để đượm nhuần, cho nên dần dần bớt đi.
    Phải tin mình, tin người, tin sự, tin lý, tin mình tương lai nhất định sẽ chứng quả vị Phật. Thành Phật rồi, có thể độ người khác cũng thành Phật. Nhất định có pháp đó hiện ra, nhất định có đạo lý đó, cho nên tin là quan trọng hơn hết. Có sức tin mới đạt đến bậc Như Lai.

    Tin khiến các căn tịnh sáng suốt
    Sức tin kiên cố không thể hoại
    Tin hay vĩnh diệt gốc phiền não
    Tin sẽ hướng về công đức Phật.


    Tin hay thành tựu tất cả công đức, cho nên trong sáu thành tựu, thành tựu thứ nhất là tin thành tựu. Sáu thành tựu là :
    1). Tin thành tựu.
    2). Văn thành tựu.
    3). Thời thành tựu.
    4). Chủ thành tựu.
    5). Xứ thành tựu.
    6). Chúng thành tựu.

    Chẳng có tâm tin thì chẳng cách chi minh bạch Phật pháp.
    Tin hay khiến cho các căn thanh tịnh mà sáng suốt. Làm nhiều việc thiện, tài bồi căn lành, thì sáu căn tự nhiên thanh tịnh sáng suốt. Sức tâm tin phải kiên cố, thì mới phát sinh tác dụng. Chẳng phải tin năm phút thì không tin nữa. Không tin lại tin, tin rồi không tin, đó là tâm tin chẳng có kiên cố. Người sức tin kiên cố, làm việc gì đều từ đầu đến cuối, chiếu theo tông chỉ mà làm. Ví như người tu đạo muốn thành Phật, tông chỉ này phải kiên cố, tức cũng là sức tin kiên cố. Bất cứ cảnh nghịch nào đến đều khắc phục, chẳng sinh tâm thối chuyển, cho nên nói không thể hoại. Bất cứ ma đến như thế nào, cũng chẳng bị cảnh giới lay chuyển, mà giao động tâm. Trước sau vẫn giữ tông chỉ, do đó:
    ‘’Tuỳ duyên chẳng đổi
    Chẳng đổi tùy duyên.’’

    Có tâm tin rồi, thì mới tiệu diệt được gốc phiền não. Tại sao hay sinh phiền não ? Vì chẳng có tâm tin, tham sân si ba độc thừa đó mà vào, nổi sóng làm gió, khiến cho bạn khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, cho nên tin là vĩnh viễn tiêu diệt gốc phiền não.
    Có tâm tin rồi, thì mới đem hết thảy tất cả công đức hồi hướng cho chư Phật. Nhờ Phật trang nghiêm mà tự trang nghiêm, nhờ công đức Phật để thành tựu công đức của mình, cho nên phải chuyên nhất hồi hướng chư Phật.

    Tin nơi cảnh giới chẳng chấp trước
    Xa lìa các nạn được vô nạn
    Tin hay thoát khỏi các đường ma
    Thị hiện đạo giải thoát vô thượng.


    Cảnh giới có cảnh giới thiện, có cảnh giới ác, có cảnh giới thuận, có cảnh giới nghịch, có cảnh giới hoan hỷ, có cảnh giới phiền não. Nếu có tâm tin thì chẳng chấp trước vào tất cả cảnh giới, do đó:

    ‘’Thấy việc tỉnh việc lìa thế gian
    Thấy việc mê việc đọa trầm luân.’’

    Ðối với cảnh giới nhận thức rõ ràng, thì sẽ thoát khỏi ba cõi; đối với cảnh giới nhận thức chẳng rõ ràng, thì sẽ đọa ba đường ác. Tâm tin vững chắc, thì đối với cảnh giới thuận nghịch thiện ác, đều vẫn an nhiên, chẳng có chấp trước, nhậm vận tự tại, chẳng có tơ hào phiền não, đó là sức tin.
    Có tâm tin thì gặp dữ hóa lành, gặp nạn hóa cát tường. Xa lìa các nạn tức cũng là xa lìa nạn lửa, nạn nước, nạn La sát, nạn vua, nạn quỷ, nạn gông cùm, nạn oán tặc .v.v… hoặc xa lìa thiên tai, đao binh đủ thứ tai nạn, cho nên nói đắc được cảnh giới vô tai nạn.
    Sức tin thắng hơn sức ma, hay thoát khỏi tất cả đường ma, chẳng bị lầm vào đường tà. Có tâm tin thì chư Phật sẽ thị hiện đạo giải thoát vô thượng, khiến cho bạn đắc được tự tại, chẳng bị ma mê hoặc não loạn.

    Tin là công đức giống bất hoại
    Tin hay sinh trưởng cây bồ đề
    Tin hay tăng ích trí tối thắng
    Tin hay thị hiện tất cả Phật.


    Thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đây là năm mươi vị của Bồ Tát. Mỗi một vị đều dùng tâm tin để làm cơ sở. Người xưa nói :

    ‘’Người vô tín bất lập.’’

    Nếu dân chẳng tin vua, chẳng ủng hộ vua, thì đất nước chẳng vững được. Chúng ta học Phật pháp phải sinh tâm tin, làm cho gốc tin sinh trưởng tựa như Kim Cang, vĩnh viễn chẳng giao động, là cơ sở tốt cho định. Làm những công đức chẳng hoại. Muốn ảnh hưởng cho người khác sinh tâm tin, thì phải y pháp tu hành, biết bao nhiêu thì hành bấy nhiêu. Biết giết hại là phạm giới, thì đừng giết hại, cho đến chẳng uống rượu .v.v… nơi nơi lấy thân làm khuôn phép. Do đó có câu:

    ‘’Kỳ thân chánh bất khiến nhi hành’’.

    Bản thân mình làm việc chân chánh, làm mô phạm, chẳng khuyên người làm, họ cũng vẫn đi thực hành. Nếu mình chẳng y pháp tu hành, mà dạy người y pháp tu hành, thì chẳng có ai tin bạn. Tại sao ? Vì bạn chẳng có đức hạnh chân thật, chỉ dùng khẩu đầu thiền giáo hóa người, khiến cho người chẳng kính phục, cho nên nói tin là hạt giống công đức chẳng hoại.
    Có sức tâm tin thì khiến cho cây bồ đề (tâm) lớn lên, càng ngày càng cao lớn. Cơ sở của niềm tin vững chắc, thì trí huệ càng ngày càng tăng trưởng. Tâm tin chẳng đủ không thể tăng ích trí huệ thù thắng. Có tâm tin thì cõi nước của tất cả chư Phật, sẽ thị hiện ra ở trước mặt bạn.

    Do đó nương hành nói thứ lớp
    Tin ưa tối thắng rất khó được
    Ví như trong tất cả thế gian
    Mà có diệu bảo châu như ý.


    Bài kệ ở trước nói, nếu thật có tâm tin, thì sẽ sinh ra tin sâu, thệ nguyện, thực hành. Như vậy thì bạn cũng có thể thị hiện ở trước chư Phật, chư Phật cũng có thể thị hiện ở trước bạn, cùng nhau thị hiện, đó là sức tâm tin cảm ứng đạo giao. Vì vậy cho nên y chiếu tu hành thứ lớp để nói pháp môn tu hành.
    Tin ưa vững chắc này là thù thắng nhất, là khó được nhất. Ví như trong hết thảy thế gian mà có diệu bảo châu như ý. Từ trong diệu bảo châu như ý này, mà chảy ra tất cả châu báu. Từ trong bảo châu tin này, mà chảy ra tất cả diệu pháp môn, cho nên nói tin là pháp môn tu hành căn bản nhất.
    Chúng ta học Phật pháp, thì nhất định phải có tâm tin chân chánh. Gì là tâm tin chân chánh ? Tức là chẳng ích kỷ, chẳng tư lợi, chẳng có tham sân si, siêng tu giới định huệ, đó là điều kiện căn bản đầy đủ thật tin.

    Nếu thường tin phụng các đức Phật
    Thì hay giữ giới tu học xứ
    Nếu thường giữ giới tu học xứ
    Thì hay đầy đủ các công đức.


    Người học Phật phải luôn luôn sinh tâm tin đối với Phật, không thể nửa tin nửa ngờ, nhất định phải luôn luôn tin phụng mười phương ba đời tất cả các Ðức Phật. Như thế thì hay giữ giới tinh nghiêm, y giáo phụng hành, tu hành tất cả pháp môn.
    Nếu như thường giữ giới chẳng gián đoạn, y theo pháp của Phật nói tu hành, thì lâu dần sẽ đầy đủ tất cả công đức, có hy vọng sớm sẽ thành Phật. Cho nên phải có tâm tin không thối lùi, tinh tấn tiến về trước, giữ giới tu hành.

    Giới hay khai phát gốc bồ đề
    Học là siêng tu các công đức
    Nơi giới và học luôn thuận hành
    Tất cả Như Lai đều khen ngợi.


    Giới tức là ngừa ác lánh dữ, tức cũng là đừng làm các điều ác, hãy làm các điều lành. Nếu đừng làm các điều ác, thì sẽ tiêu diệt tham sân si; hãy làm các điều lành, tức là siêng tu giới định huệ. Siêng tu giới định huệ, tức là khai phát gốc bồ đề. Nếu muốn khai ngộ thì nhất định phải giữ giới. Nếu muốn giữ giới thì nhất định phải có tâm tin. Tin mới có thể giữ giới, giữ giới mới có thể khai phát pháp căn bản của con đường bồ đề.
    Học là học tập, học tập tất cả pháp. Muốn minh bạch tất cả pháp, thì phải siêng năng học tập. Trong Luận Ngữ có nói : ‘’Học nhi thời tập chi.’’ Học rồi phải luôn luôn ôn lại, như vậy mới ‘’Ôn cố nhi tri tân.’’ Ôn lại những điều đã học, thì sau đó sẽ biết những điều học mới. Chúng ta học Phật pháp, phải cần khổ tài bồi công đức, đượm nhuần công đức. Giống như vun bồi cội bồ đề, tăng trưởng quả bồ đề.
    Phải tôn trọng giới luật, y chiếu giới luật mà tu hành. Phải học luôn thuận hành, đừng phạm giới, đừng phá giới. Hay giữ giới tu học như thế, thì mười phương chư Phật ba đời đều đến khen ngợi tán thán bạn, thường đến hộ trì cho bạn.

    Nếu thường tin phụng các đức Phật
    Thì hay hưng tập cúng dường lớn
    Nếu hay hưng tập cúng dường lớn
    Người đó tin Phật không nghĩ bàn.


    Người tin Phật thì phải luôn luôn tin ngưỡng các đức Phật, phụng sự các đức Phật, không thể gián đoạn. Nếu lúc tiến lúc lùi, thì chẳng có công đức, cũng chẳng thành tựu. Hoặc dùng đủ thứ hương đốt để cúng dường, hoặc dùng đủ thứ hoa quả để cúng dường các đức Phật, ngày dài tháng rộng sẽ thành cúng dường lớn.
    Nếu như có người phát tâm nguyện rộng tu cúng dường, cúng dường mười phương các đức Phật, thì tương lai lúc thành Phật, cũng có chúng sinh đến cúng dường. Nếu phát tâm rộng lớn tu vô lượng hạnh, hưng tập cúng dường lớn, thì công đức vô lượng vô biên. Cho nên tại các nước Phật giáo, có người cúng dường trai Tăng cho ngàn vị Tăng. Cúng dường một ngàn vị Tăng, thì trong đó chắc chắn có một vị A La Hán đến ứng cúng. Nếu cúng dường một vị A La Hán, thì thù thắng hơn cúng dường cho trăm ngàn vạn người xuất gia. Vì A La Hán là bậc Thánh xuất thế, cho nên có vô lượng công đức.
    Người đó công đức tin phụng các đức Phật không thể nghĩ bàn, nhiều vô tận nói không hết được.

    Nếu thường tin phụng nơi tôn pháp
    Tất nghe Phật pháp chẳng nhàm đủ
    Nếu nghe Phật pháp chẳng nhàm đủ
    Người đó tin pháp không nghĩ bàn.


    Bài kệ ở trước là tin phụng Phật bảo. Bài kệ này là nói tin phụng Pháp bảo. Hễ tin Phật thì cũng phải tin Pháp. Tại sao ? Vì Pháp là Phật nói. Chỉ tin Phật không tin pháp, thì không vào trong biển Phật pháp được.
    Nếu như có người luôn luôn tin phụng Tam Tạng mười hai bộ tất cả Kinh điển của Phật nói, vì có sức tin, cho nên nghe Phật pháp chẳng có lúc nào nhàm chán vì biết đủ.
    Nghe Kinh nghe pháp, chẳng phải ngày ngày đắc được lợi ích gì, có thể khai mở trí huệ gì, chẳng phải như thế. Người thật sự tin Phật pháp, thì chẳng mong cầu đắc được lợi ích gì, diệu dụng gì. Tâm nghĩ đắc được lợi ích, đắc được diệu dụng thì còn có tâm tham. Phải đừng có tâm tham mà thường nghe pháp, nghe pháp được xem như điều cần thiết trong đời sống, quan trọng giống như ăn cơm, mặc đồ, ngủ nghỉ, đừng có tâm xí đồ mong cầu. Nếu có tâm mong cầu thì là vọng tưởng. Vọng tưởng sinh ra thì chẳng tương ưng với đạo. Nếu tương ưng thì hợp với đạo mà làm một. Như vậy thì tất cả vọng tưởng đều chẳng còn. Lúc đó ngưng bặt tất cả vọng niệm, chẳng động tất cả vọng niệm, đó tức là thanh tịnh.
    Nghe Kinh nghe pháp đừng khởi tâm phân biệt, bộ Kinh này tôi đã giảng qua, chẳng cần nghe nữa. Bộ Kinh kia tôi chưa nghe qua, tôi phải nghe, tư tưởng như thế là sai. Phải biết người giảng Kinh, mỗi người có trí huệ khác nhau, có kiến giải khác nhau. Nghe nhiều lần sẽ có ích lợi, đừng sinh tâm nhàm chán.
    Nếu như nghe Kinh, nghe pháp, chẳng có lúc nào nhàm chán, thì người đó tin phụng tất cả tôn pháp, sẽ đắc được cảnh giới không thể nghĩ bàn. Trước khi chưa đắc được, đừng có tâm mong cầu, chẳng có tâm tham cầu, thì trí huệ vốn có sẽ hiện tiền.

    Nếu thường tin phụng thanh tịnh Tăng
    Thì được tâm tin chẳng thối chuyển
    Nếu được tâm tin chẳng thối chuyển
    Người đó sức tin không thể động.


    Thanh tịnh Tăng thì chẳng có vọng tưởng, dục niệm, ba độc, mà có giới định huệ ba học. Chẳng bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được cảnh giới, song, chuyển cảnh giới không thanh tịnh, thành thanh tịnh, chuyển cảnh giới nhiễm ô, thành thanh tịnh. Lại có thể chuyển đời ác năm trược, thành đời lành năm thứ thanh tịnh. Thanh tịnh Tăng mười phương thế giới, bao quát Bồ Tát, A La Hán, Duyên Giác. Tóm lại, phàm là chẳng có tư tưởng nhiễm ô, tức là thanh tịnh Tăng.
    Nếu như thường thường tin phụng gần gũi thanh tịnh Tăng, đem tánh mạng của mình cúng dường Tam Bảo, đem thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh để cúng dường Tam Bảo, có tâm tin như thế rồi, thì chẳng thối lùi về sau. Ðắc được cảnh giới ba bất thối :
    1). Niệm không thối : Chẳng sinh tâm niệm thối chuyển.
    2). Hạnh không thối : Chỉ tu hành tiến về phía trước, chứ chẳng thối lùi về sau.
    3). Vị không thối : Vào vị Bồ Tát, chẳng lùi về vị nhị thừa.
    Nếu như khi đắc được tâm tin không thối chuyển, thì người phát tâm bồ đề đó, có sức tin chẳng cách chi làm lay động. Người tu đạo bất cứ gặp cảnh giới gì, mà tâm chẳng động, đó là chứng minh sức tin vững chắc.

    Nếu được sức tin không lay động
    Thì được các căn tịnh sáng suốt
    Nếu được các căn tịnh sáng suốt
    Thì sẽ xa lìa ác trí thức.


    Sức tin là một trong năm lực. Có sức tin thì không thấy lạ nghĩ đổi khác. Có sức tinh tấn thì chẳng phế bỏ giữa đường. Có sức niệm thì niệm niệm chẳng quên tâm bồ đề. Có sức định thì như như chẳng động, liễu liễu thường minh, chẳng bị cảnh giới làm giao động. Có sức huệ thì sẽ nhận thức được cảnh giới. Năm lực tức là năm sức lực, trợ giúp cho năm căn sinh trưởng.
    Nếu như đắc được sức tin không lay động, thì sẽ đắc được đủ thứ căn lành thanh tịnh sáng suốt, mắt tai mũi lưỡi thân ý chẳng có mao bệnh.
    Nếu đắc được các căn thanh tịnh sáng suốt, thì lúc đó mắt thấy sắc, chẳng bị sắc trần làm mê. Tai nghe tiếng chẳng bị tiếng đời làm mê. Mũi ngửi hương thơm chẳng bị hương trần làm mê. Lưỡi nếm vị chẳng bị vị trần làm mê. Thân xúc giác chẳng bị xúc trần làm mê. Ý biết pháp chẳng bị pháp trần làm mê. Như vậy sẽ đắc được đại trí huệ, sẽ xa lìa bàng môn tả đạo, thiên ma ngoại đạo và tất cả ác tri thức.
    Ác tri thức là gì ? Tức là tà tri tà kiến, ích kỷ tư lợi, tất cả đều nghĩ về lợi ích của mình.
    Thiện tri thức là gì ? Tức là chánh tri chánh kiến, đại công vô tư, hay xả thân cứu chúng sinh, chẳng tính toán vì lợi ích cho cá nhân mình. Khắp giáo hóa chúng sinh, lấy khổ của chúng sinh làm khổ của mình, đại biểu chúng sinh để thọ khổ. Do đó:

    ‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật
    Quyết không thủ chứng quả vị Nê Hoàn.’’

    Nguyện tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, sớm chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác, đó là tác phong của thiện tri thức.

    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Giảng Giải
    Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Giác Ngộ Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)




    LÒNG TIN LÀ GỐC RỄ ĐIỀU LÀNH SANH RA CÁC CÔNG ĐỨC

    * Kinh Hoa Nghiêm: "Như người có tay, vào trong núi báu, tự do lấy ngọc; người có lòng tin cũng vậy, vào trong Phật pháp, tự do lấy của báu vô lậu."

    * Kinh Tâm Địa Quán: "Như người không tay tuy đến núi báu, không lấy được gì. Người không lòng tin, dầu gặp Tam bảo cũng không ích gì."

    * Luận Đại Trí Độ: "Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được."

    * Kinh Tiểu Địa Quán: "Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền."

    * Kinh Đại Bát Niết Bàn: "Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ mới làm cội gốc tu hành."

    * Kinh Lăng Nghiêm: "Tin chơn lý thường trú gọi là lòng tin."

    * Kinh Đại Bát Niết Bàn: "Lòng tin làm nhân cho nghe pháp, nghe pháp làm nhân cho lòng tin."

    * Kinh Đại Bát Niết Bàn: "Nhân duyên được nghe chánh pháp, là gần gũi bạn lành; nhân duyên gần gũi bạn lành đó là lòng tin vậy. Phát được lòng tin có hai nhân duyên là: nghe pháp và suy nghĩ nghĩa lý của pháp."

    * Luận Khởi Tín: "Nói lòng tin có 4 món:

    - Một là lòng tin cội gốc, nghĩa là ưa nghĩ pháp chơn như.
    - Hai là tin đức Phật có vô lượng công đức, thường nhớ gần gũi, cúng dường, cung kính phát khởi căn lành để cầu xin nhất thế trí.
    - Ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành cho rốt ráo.
    - Bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình và người, thường ưa gần gũi các vị Bồ tát cầu học hạnh như thật."

    * Kinh Niết Bàn:

    "- Lòng tin lại có 2 món: một là từ nghe mà sanh, hai là từ nghĩ mà sanh. Những người từ nghe sanh mà chẳng từ nghĩ sanh, thì gọi là lòng tin chẳng đầy đủ.

    - Còn có 2 món nữa: một là tin có Đạo, hai là tin có chứng Đạo. Lòng tin người nào chỉ tin có Đạo mà chẳng tin có các người chứng Đạo, ấy gọi là lòng tin chẳng đầy đủ."

    * Kinh Đại Bảo Tích:"Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin."

    * Kinh Đại Bát Niết Bàn:" Đại tín tâm tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai."

    * Kinh Phạm Võng: "Đứng đầu tất cả hạnh là đức tin, vì cội gốc các đức vậy."

    * Kinh Đại Trang Nghiêm: "Tất cả các công đức, đức tin là sứ mạng; trong các của báu, của đức tin đứng đầu."

    * Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa:" Nếu người trồng căn lành, nghi thời hoa chẳng nở; lòng tin được trong sạch, hoa nở liền thấy Phật."

    * Kinh Hoa Nghiêm: "Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới."

    * Kinh Hoa Nghiêm: "Tin là nguồn Đạo, mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, thoát dòng ái, mở chỉ Niết Bàn, đạo Vô thượng; tin lòng trong sạch không dơ bẩn, dứt trừ kiêu mạn gốc cung kính, là của thứ nhất trong kho Pháp, là tay trong sạch lãnh các hạnh; tin hay huệ thí tâm không tham; tin hay vui mừng vào Phật pháp; tin hay thêm lớn trí công đức; tin hay quyết đến cõi Như Lai; tin khiến các căn lành sáng suốt; tin sức bền chắc không thể hư; tin hay dứt hẳn gốc phiền não; tin hay hướng về Phật công đức; tin đối cảnh giới không tham lam, xa lìa các nạn, được không nạn; tin hay vượt khỏi các đường ma, thị hiện đạo Vô thượng giải thoát; tin chẳng phá hư giống công đức; tin hay nuôi lớn cây Bồ đề; tin hay thêm ích trí tối thượng; tin hay thị hiện tất cả Phật."

    * Kinh Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Sumana nói "Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này cho thiện nam tử có lòng tin. Thế nào là năm?

    1. Các Thiện nhân, các Chân nhân, trước hết có lòng thương tưởng đến vị có lòng tin, không có như vậy đối với vị không có lòng tin;

    2. Khi đến thăm, trước hết họ đến thăm vị có lòng tin, không có như vậy đối với vị không có lòng tin;

    3. Khi chấp nhận, họ chấp nhận (các món ăn) trước hết từ những người có lòng tin, không từ những người không có lòng tin;

    4. Họ thuyết pháp trước hết cho những người có lòng tin, không cho những người không có lòng tin;

    5. Người có lòng tin, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi lành, cõi Trời.

    Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm lợi ích cho thiện nam tử có lòng tin. Ví như, này các Tỷ-kheo, trên khoảnh đất tốt, tại ngã tư đường, có cây bàng to lớn là chỗ nương tựa cho các loài chim chung quanh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thiện nam tử có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, cho nam cư sĩ và cho nữ cư sĩ.

    Như cây bàng to lớn,
    Với cành, lá, trái cây,
    Với thân, rễ, đầy trái,
    Làm chỗ trú loài chim.
    Tại trú xứ thoải mái,
    Các con chim làm tổ,
    Cần bóng mát, hứng mát,
    Cần trái cây, ăn trái.
    Cũng vậy, vị trì giới,
    Người có lòng tịnh tín,
    Khiêm nhường và nhu thuận,
    Hiền hòa, lời từ tốn,
    Tánh tình thật dịu hiền,
    Vị đoạn tham, đoạn sân,
    Ðoạn si, không lậu hoặc,
    Là ruộng phước ở đời.
    Họ đến người như vậy,
    Họ thuyết pháp, người ấy
    Ðoạn trừ mọi khổ đau,
    Vị ấy ở tại đây,
    Hiểu biết Chánh pháp ấy,
    Viên bản nhập Niết-bàn,
    Hoàn toàn không lậu hoặc.

    * Trong Tương Ưng Bộ tập 1, chương 10, phần Alavaka cũng nói:
    "Lòng tin đối người đời,
    Là tài sản tối thượng.
    Chánh pháp khéo hành trì,
    Ðem lại chơn an lạc.
    Chân lý giữa các vị,
    Là vị ngọt tối thượng.
    Phải sống với trí tuệ,
    Ðược gọi sống tối thượng."

    * Kinh Kìtàgiri, Trung Bộ nói: “Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ.

    Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một vị có lòng tin đi đến gần; sau khi đến gần, vị ấy tỏ sự kính lễ; sau khi tỏ sự kính lễ, vị ấy lóng tai; sau khi lóng tai, vị ấy nghe pháp; sau khi nghe pháp, vị ấy thọ trì pháp; sau khi thọ trì, vị ấy suy tư ý nghĩa các pháp được thọ trì; sau khi suy tư ý nghĩa, các pháp được chấp thuận; sau khi các pháp được chấp thuận, ước muốn sanh khởi; sau khi ước muốn sanh khởi, vị ấy nỗ lực; sau khi nỗ lực, vị ấy cân nhắc; sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần. Do tinh cần, vị ấy tự thân chứng được sự thật tối thượng, và với trí tuệ thể nhập sự thật ấy, vị ấy thấy.

    Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu không có lòng tin ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự đến gần ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có tỏ sự kính lễ ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự lóng tai ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự nghe pháp ấy, thời này Tỷ-kheo, không có sự thọ trì pháp ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự suy tư ý nghĩa ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự chấp thuận pháp ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự ước muốn ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự nỗ lực ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự cân nhắc ấy, thời này các Tỷ-kheo không có sự tinh cần ấy. Này các Tỷ kheo, ở đây, các Ông đã đi vào phi đạo. Này các Tỷ-kheo, ở đây, các Ông đã đi vào tà đạo. Thật là quá xa, này các Tỷ-kheo, các kẻ ngu này đã đi ra ngoài Pháp và Luật này."
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  9. #69

    Mặc định











































    NHƯ LAI XUẤT THẾ, THUYẾT PHÁP ĐỘ SANH

    Như Lai xuất thế, thuyết pháp độ sanh, vốn muốn cho hết thảy chúng sanh ngay đây được liễu sanh thoát tử, tự chứng vô thượng giác đạo mà thôi. Nhưng do căn cơ không bình đẳng, chẳng thể rốt ráo diễn giảng thông suốt bản hoài của Phật, chỉ đành tùy thuận cơ nghi, khéo dẫn dụ dần dần. Với kẻ đại căn bàn thẳng lẽ xứng tánh, giảng cho Phật thừa khiến họ ngay trong đời này viên chứng Phật quả, như Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm, như Long Nữ trong kinh Pháp Hoa v.v…

    Hạng kém hơn thì giảng Bồ Tát thừa, Thanh Văn thừa khiến họ dần dần tu tập, dần dần chứng quả. Thấp hơn nữa thì giảng Ngũ Giới, Thập Thiện, khiến cho họ chẳng đọa ác đạo, được thân trời, người, dần dần gieo thiện căn, tùy thiện căn đã gieo lớn hay nhỏ, trong tương lai sẽ nơi pháp tam thừa, tùy thiện lực đời trước phát hiện mà hoặc là nương vào Bồ Tát thừa, tu lục độ vạn hạnh, tự chứng được Pháp Thân, hoặc nương theo Duyên Giác - Thanh Văn thừa, ngộ Thập Nhị Nhân Duyên và pháp Tứ Đế để đoạn Hoặc chứng chân hòng có thể siêu xuất luân hồi, liễu sanh thoát tử.

    Những pháp môn này tuy lớn - nhỏ bất đồng, tiệm - đốn đều khác, nhưng mỗi một pháp đều phải do sức chính mình tu tập sâu xa mới hòng đoạn Hoặc chứng chân, mới có thể vượt thoát luân hồi, liễu sanh thoát tử. Nếu trong tam giới, hai thứ Kiến Hoặc, Tư Hoặc dẫu còn sót lại mảy may chẳng đoạn thì căn bản sanh tử chưa thể cắt đứt, dẫu có sức Định Huệ sâu, vẫn cứ y như cũ không nhờ đâu được giải thoát. Ngay như Tam Quả thánh nhân còn phải sanh trong Ngũ Bất Hoàn thiên[1], phải qua nhiều kiếp mới chứng Tứ Quả. Nếu chứng Tứ Quả thì căn bản sanh tử đoạn sạch không sót; nhưng chỉ là Tiểu Quả Thanh Văn, vẫn phải đem Tiểu Quả mình đã chứng hướng về đại đạo của Như Lai, thừa nguyện thọ sanh trong mười phương thế giới, rộng hành lục độ vạn hạnh. Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh, tùy theo công hạnh của chính mình sâu hay cạn, là Tiệm hay Đốn sẽ dần dần dự vào các địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Đẳng Giác. Đến Đẳng Giác lại phá một phẩm vô minh, chứng một phần tam đức[2], liền nhập địa vị Diệu Giác thành Phật.

    Trong giáo pháp cả một đời Như Lai, những pháp môn đã nói tuy vô lượng vô biên, nhưng địa vị chứng nhập rốt ráo chẳng thể vượt ngoài những địa vị như vậy. Tuy Thiền Tông chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật, thật là viên đốn thẳng chóng, nhưng kiến tánh thành Phật là ước trên Pháp Thân vốn có, chứ chẳng luận trên nhân quả tu chứng của phàm thánh. Nếu luận theo địa vị tu chứng thì cũng trọn chẳng khác gì đường lối của bên Giáo. Nhưng trong đời mạt, căn tánh con người hèn kém, tri thức hiếm hoi, còn khó tìm được người ngộ, huống hồ bậc thật chứng!
    Như Lai biết các chúng sanh chỉ cậy vào tự lực khó thể liễu thoát, nên ngoài hết thảy các pháp môn, riêng mở một môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ: Chỉ cần chân tín, nguyện thiết tha, dẫu kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác tội lỗi cực nặng, lúc mạng sắp dứt, tướng địa ngục hiện, có thiện tri thức dạy cho niệm Phật. Nếu niệm Phật được mười tiếng, hoặc chỉ mấy tiếng, hoặc chỉ một tiếng, cũng được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Huống hồ những ai tu hành sự thiện thế gian, chẳng tạo các điều ác? Nếu là người tinh tu phạm hạnh, sức thiền định sâu thì phẩm vị vãng sanh càng cao, thấy Phật nghe pháp thật chóng. Dẫu là người đại triệt đại ngộ, đoạn Hoặc chứng chân cũng cần hồi hướng vãng sanh để mong viên chứng Pháp Thân, mau thành Phật quả.

    Các pháp môn khác pháp nhỏ thì đại căn chẳng cần tu, pháp lớn thì tiểu căn chẳng thể tu nổi! Chỉ có một môn Tịnh Độ này, độ khắp ba căn, lợi - độn gồm thâu. Trên thì như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền chẳng thể vượt ra ngoài pháp này, dưới thì Ngũ Nghịch, Thập Ác, chủng tánh A Tỳ địa ngục cũng có thể dự vào. Nếu Như Lai chẳng mở ra pháp này thì chúng sanh đời mạt muốn trong đời này liễu sanh thoát tử trọn chẳng có hy vọng gì! Tuy pháp môn này rộng lớn như thế, nhưng cách tu lại cực giản dị. Do vậy, nếu không phải là kẻ đời trước có thiện căn Tịnh Độ sẽ khó thể tin chắc không nghi. Chẳng những phàm phu không tin, Nhị Thừa còn đa nghi. Chẳng những Nhị Thừa không tin, quyền vị Bồ Tát rất có thể còn ngờ. Chỉ có Đại Thừa Bồ Tát thuộc những địa vị sâu xa mới có thể triệt để thỏa đáng tin tưởng không nghi.

    Có thể sanh lòng tin sâu xa đối với pháp này, dẫu là phàm phu đầy dẫy triền phược thì chủng tánh ấy đã trội vượt bậc Nhị Thừa. Ví như thái tử rớt xuống đất, vẫn cao quý hơn quần thần. Tuy tài đức chưa lập, nhưng cậy vào sức vua, cảm được báo như thế. Người tu Tịnh Độ cũng giống như vậy. Do dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật, bèn có thể đem cái tâm phàm phu gieo vào biển giác của Phật, cho nên ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu. Muốn nói pháp tu Tịnh Độ mà không nêu đại lược sự khó khăn của các pháp cậy vào tự lực để liễu thoát, và sự dễ dàng của pháp cậy vào Phật lực vãng sanh này thì nếu không nghi pháp cũng sẽ nghi chính mình. Nếu có mảy may tâm nghi sẽ do nghi mà thành chướng. Đừng nói gì không tu, dẫu có tu cũng chẳng thể được lợi ích thật sự rốt ráo. Do vậy phải nói: Một pháp Tín phải gấp gáp suy cầu, ngõ hầu tạo lòng tin sâu xa đến cùng cực vậy!

    Nói đến Tín thì phải tin Sa Bà quả thật là khổ, Cực Lạc quả thật là vui. Sa Bà khổ vô lượng vô biên, nói tóm lại chẳng ngoài tám khổ, tức là: sanh, già, bệnh, chết, thương yêu phải xa lìa, oán ghét phải gặp gỡ, cầu không được, Ngũ Ấm hừng hực. Tám nỗi khổ này dù sang đến cực phẩm hay hèn như ăn mày, ai nấy đều có. Bảy nỗi khổ đầu là quả do đời quá khứ cảm thành. Suy nghĩ kỹ ắt tự biết, không cần phải viết tường tận, nói nhiều quá tốn bút mực. Cái khổ thứ tám là Ngũ Ấm hừng hực chính là hiện tại khởi tâm động niệm và những hành động, nói năng, chính là nhân của cái khổ trong vị lai. Nhân quả kéo dắt nhau, nối tiếp không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, không thể giải thoát!

    Ngũ Ấm chính là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc chính là cái thân do nghiệp báo cảm thành. Thọ, Tưởng, Hành, Thức chính là cái tâm khởi huyễn vọng khi tiếp xúc cảnh. Do những pháp “thân tâm huyễn vọng” này bèn khởi Hoặc tạo nghiệp nơi sáu trần cảnh như lửa cháy hừng hực chẳng thể ngưng tắt nên gọi là “xí thạnh” (cháy hừng hực) vậy. Ngoài ra, Ấm 陰(bộ Phụ) có nghĩa là che kín, đồng nghĩa với chữ Ấm 蔭 (cũng có nghĩa là che lấp, bộ Thảo), do năm pháp này che lấp chân tánh chẳng thể hiển hiện, như mây dầy che khuất mặt trời. Tuy mặt trời tỏa sáng rực rỡ, trọn chẳng bị tổn giảm, nhưng vì mây che, nên chẳng chiếu sáng được. Phàm phu chưa đoạn Hoặc nghiệp, bị năm Ấm này chướng ngăn, mặt trời trí huệ nơi bầu trời chân tánh chẳng thể hiển hiện, cũng giống như thế. Sự khổ thứ tám này là gốc của hết thảy các khổ.

    Người tu đạo sức Thiền Định sâu, đối với cảnh giới sáu trần, trọn chẳng chấp trước, chẳng khởi yêu - ghét. Từ đây gia công dụng hạnh, tiến lên chứng Vô Sanh, Hoặc nghiệp sạch hết, cắt đứt gốc rễ sanh tử. Nhưng công phu này thật chẳng dễ dàng, trong đời Mạt đạt được thật khó. Vì thế nên chuyên tu Tịnh nghiệp, cầu sanh Cực Lạc, nương Phật từ lực, vãng sanh Tây Phương. Đã được vãng sanh thì liên hoa hóa sanh, không có các khổ. Thuần là tướng đồng nam (bé trai), thọ như hư không, thân không tai biến. Những cái tên như già, bệnh, chết v.v… chẳng còn nghe đến, huống gì thật có. Theo chân thánh chúng, thân cận Di Đà, nước, chim, cây cối đều diễn pháp âm, tùy căn tánh mình do nghe pháp bèn chứng. Thân còn trọn chẳng thể được, huống gì có oán! Nghĩ đến áo bèn có áo, nghĩ ăn bèn có ăn; lầu, gác, nhà, viện đều do bảy báu hợp thành, chẳng nhọc sức người, chỉ là hóa ra. Biến bảy sự khổ nơi Sa Bà thành bảy niềm vui. Lại thêm thân có đại thần thông, có đại oai lực, chẳng lìa chỗ mình liền có thể trong một niệm ở khắp trong mười phương thế giới chư Phật làm các Phật sự, thượng cầu hạ hóa. Tâm có đại trí huệ, có đại biện tài, từ một pháp biết Thật Tướng của các pháp. Tùy cơ thuyết pháp không lầm lạc, dẫu nói bằng ngôn ngữ Thế Đế nhưng đều khế hợp diệu lý Thật Tướng, không có nỗi khổ Ngũ Ấm hừng hực, hưởng niềm vui thân tâm tịch diệt. Vì thế kinh nói: “Không có các khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi là Cực Lạc”.

    Sa Bà khổ, khổ không nói nổi; Cực Lạc vui, vui chẳng ví tầy. Tin sâu lời Phật, trọn chẳng nghi hoặc mới gọi là chân tín. Chớ nên dùng tri kiến phàm phu ngoại đạo lầm sanh suy lường, bảo các thứ thù thắng trang nghiêm mầu nhiệm trong Tịnh Độ đều là ngụ ngôn, tỷ dụ tâm pháp, chẳng phải là cảnh thật! Nếu có sự thấy biết tà vạy, sai lầm như thế sẽ mất lợi ích thật sự được vãng sanh Tịnh Độ, tai hại quá lớn! Không thể không biết!

    Đã biết Sa Bà là khổ, Cực Lạc là vui, hãy nên phát tín nguyện thiết thực, nguyện lìa Sa Bà khổ, nguyện được Cực Lạc vui. Nguyện khẩn thiết như đang té trong hầm xí mong gấp được thoát ra. Lại như đang bị trói buộc trong lao ngục, tha thiết nhớ đến quê nhà. Sức mình chẳng thể tự ra, ắt phải cầu người có đại thế lực kéo ra. Hết thảy chúng sanh trong thế giới Sa Bà đối với cảnh thuận hay nghịch, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, ô uế diệu giác minh tâm sẵn có, khác nào hầm xí không đáy. Đã tạo ác nghiệp phải chịu ác báo, trải kiếp dài lâu, luân hồi lục đạo, không được tha khỏi lao ngục.

    A Di Đà Phật trong kiếp xưa, phát ra bốn mươi tám nguyện độ thoát chúng sanh, có một nguyện là: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu ta, cầu sanh nước ta, dẫu chỉ mười niệm, nếu như chẳng sanh, chẳng lấy Chánh Giác”. A Di Đà Phật thệ nguyện độ sanh. Nếu chúng sanh chẳng cầu tiếp dẫn, Phật cũng chẳng làm gì được! Nếu chí tâm xưng danh, thệ cầu xuất ly Sa Bà, không ai chẳng được Phật rủ lòng từ nhiếp thọ. A Di Đà Phật có đại thế lực, cứu được người trong hầm xí không đáy, trong lao ngục không tha, ngay đó được xuất ly, đều được đặt yên nơi quê nhà Cực Lạc vốn có, khiến được nhập Phật cảnh giới, thọ dụng giống như Phật.

    Muốn sanh Tây Phương, trước hết phải có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha. Nếu không có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu có tu hành, chẳng thể cảm ứng đạo giao cùng Phật, chỉ được phước báo nhân thiên và thành cái nhân đắc độ trong tương lai mà thôi. Nếu tín nguyện đầy đủ thì vạn người tu vạn người về, không sót một ai. Tổ Vĩnh Minh nói: “Vạn người tu, vạn người về” là chỉ những người có đủ tín nguyện. Đã có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, nên lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh. Dùng Tín - Nguyện để dẫn đường, Niệm Phật là Chánh Hạnh. Ba thứ Tín - Nguyện - Hạnh là tông yếu của pháp môn Niệm Phật. Có Hạnh nhưng không Tín -Nguyện, chẳng thể vãng sanh. Có Tín - Nguyện không Hạnh cũng chẳng thể vãng sanh. Ba thứ Tín - Nguyện - Hạnh đầy đủ không khuyết, quyết định vãng sanh. Được vãng sanh hay không hoàn toàn do Tín - Nguyện có hay không; phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do trì danh sâu hay cạn.

    Nói đến Chánh Hạnh Niệm Phật thì tùy theo sức mình mà lập, chẳng được chấp cố định một pháp. Nếu như thân không bận việc, cố nhiên phải từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, động, tịnh, mặc áo, ăn cơm, đại tiện, tiểu tiện, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, giữ cho một câu hồng danh thánh hiệu này chẳng lìa tâm - miệng. Nếu khi tắm táp, súc miệng thanh tịnh xong, mũ áo tề chỉnh, và ở nơi thanh khiết thì niệm ra tiếng hoặc niệm thầm đều được. Nếu lúc ngủ nghỉ, lõa lồ, tắm rửa, đại tiểu tiện và lúc đến những nơi ô uế không sạch, chỉ nên thầm niệm, chớ nên niệm ra tiếng. Công đức niệm thầm cũng giống vậy. Niệm ra tiếng là không cung kính, chứ không phải là ở những nơi, những lúc ấy, không được niệm Phật! Phải biết: Trong những nơi, những lúc ấy, không được niệm ra tiếng. Thêm nữa, lúc nằm nếu niệm ra tiếng, chẳng những không cung kính mà còn đến nỗi bị tổn khí, không thể không biết!

    Tuy là trường thời niệm Phật không gián đoạn, nhưng cần phải vào lúc sáng sớm hướng về Phật lễ bái xong, trước hết niệm kinh A Di Đà một biến, niệm chú Vãng Sanh ba biến, liền niệm bài kệ tán Phật: “A Di Đà Phật thân kim sắc...” Niệm xong, niệm Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, tiếp đó chỉ niệm sáu chữ nam mô A Di Đà Phật, hoặc là một ngàn tiếng, hoặc năm trăm tiếng. Nên vừa đi nhiễu vừa niệm. Nếu không tiện nhiễu thì quỳ hoặc ngồi, hoặc đứng niệm đều được. Lúc niệm sắp xong, trở về chỗ quỳ, niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát mỗi danh hiệu ba lần. Rồi mới niệm bài Tịnh Độ Văn để phát nguyện hồi hướng vãng sanh. Niệm bài Tịnh Độ văn thì phải theo văn nghĩa mà phát tâm. Nếu chẳng y theo văn nghĩa mà phát sẽ trở thành uổng công đọc văn xuông, chẳng được lợi ích thật sự. Đọc Tịnh Độ Văn xong, niệm Tam Quy Y, lễ bái lui ra. Đấy là công khóa buổi sáng; buổi tối cũng giống như vậy.

    Nếu muốn lễ bái nhiều hơn thì trong lúc niệm Phật, lúc trở về chỗ thì ngoài việc lễ Phật bao nhiêu đó, lúc xưng danh hiệu Bồ Tát chín lần, bèn lễ chín lạy. Lễ xong bèn phát nguyện hồi hướng, hoặc sau khi niệm xong công khóa bèn lễ bái, miễn sao thuận tiện cho mình đều được. Nhưng phải khẩn thiết chí thành, chẳng được láo nháo qua loa. Bồ đoàn không được quá cao, nếu cao sẽ thành ra không cung kính.

    Nếu công việc đa đoan, hầu như không rảnh rỗi, nên vào lúc sáng sớm, súc miệng xong, nếu có tượng Phật bèn lạy ba lạy, đứng ngay ngắn chắp tay, niệm nam mô A Di Đà Phật, hết một hơi là một niệm. Niệm đến mười hơi, bèn niệm bài Tiểu Tịnh Độ Văn, hoặc chỉ niệm bốn câu kệ “nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung…” Niệm xong lễ Phật ba lạy, rồi lui. Nếu không có tượng Phật thì hướng về Tây xá bái, chiếu theo cách trên để niệm. Đây gọi là pháp môn Thập Niệm do ngài Từ Vân Sám Chủ đời Tống vì hàng vua quan quá bận rộn chánh sự không rảnh rỗi tu trì mà lập ra.
    Vì sao phải niệm hết một hơi? Do chúng sanh tâm tán, lại không rảnh rỗi để chuyên niệm. Lúc niệm như thế, mượn hơi thở nhiếp tâm, tâm tự chẳng tán. Nhưng phải tùy theo hơi thở dài - ngắn, chẳng được cưỡng niệm cho nhiều, hễ cưỡng niệm sẽ bị tổn khí. Lại chỉ được niệm mười niệm, chẳng được niệm hai mươi, ba mươi hơi. Niệm nhiều cũng tổn khí. Do tán tâm niệm Phật khó được vãng sanh nên pháp này có thể làm cho tâm quy một chỗ, nhất tâm niệm Phật quyết định vãng sanh. Số câu niệm tuy ít, nhưng công đức khá sâu. Kẻ cực nhàn hay cực bận đều có pháp riêng, còn kẻ nửa nhàn nửa bận hãy tự châm chước thời gian để định pháp tắc tu trì.

    Lại nữa, người niệm Phật đối với mỗi sự phải giữ lòng trung hậu, khoan thứ, tâm luôn đề phòng lỗi hại. Biết lỗi liền sửa, thấy điều nghĩa ắt làm, mới hợp với Phật. Người như thế quyết định vãng sanh. Nếu không như thế là trái nghịch Phật, quyết khó cảm thông. Lại phàm lễ bái đọc tụng kinh điển Đại Thừa, và làm hết thảy những chuyện có ích cho đời cho người, đều đem chuyện đó hồi hướng Tây Phương, chẳng nên chỉ đem việc niệm Phật hồi hướng Tây Phương, còn những công đức khác hồi hướng cho phước báo thế gian. Làm vậy, niệm chẳng quy nhất sẽ khó vãng sanh. Phải biết người thật sự niệm Phật chẳng cầu phước báo thế gian, mà tự được phước báo thế gian (như trường thọ, không bệnh, gia đình yên vui, con cháu phát đạt, các duyên như ý, vạn sự cát tường v.v…) Nếu cầu phước báo thế gian, chẳng chịu hồi hướng vãng sanh thì phước báo thế gian đạt được lại thành hèn kém, do tâm không chuyên nhất, vãng sanh lại càng khó quyết định! Pháp môn Niệm Phật này kinh điển Đại Thừa trong cả một đời giáo hóa [của đức Phật] thảy đều tán dương. Trong kinh Tiểu Thừa tuyệt chẳng nhắc đến. Có kẻ không thông giáo lý, chê pháp này là Tiểu Thừa, thật là vô tri tà thuyết, chớ nên nghe theo!

    Lại những lời nói trong những đàn cầu cơ, đa phần là những linh quỷ dựa theo kiến thức của người cầu cơ mà nói ra. Nếu nói về đạo lý thế gian may ra chúng còn biết nhiều, chứ bàn về Phật pháp thì không phải là điều chúng tự biết, bèn đặt ra lời đồn đãi xằng bậy. Như cuối sách Kim Cang Trực Giải, in kèm bảo hiệu của tiên thiên cổ Phật, chính là diệt huệ mạng, làm mù con mắt chánh pháp của người khác, là lời tồi tệ cực ác khôn sánh. Đem sách ấy thí cho người thì tội lỗi vô lượng!

    Ấn Quang Đại Sư (Tổ Sư Đời Thứ 13 Của Tịnh Độ Tông Và Cũng Là Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát)

    Chú Thích:

    [1] Ngũ Bất Hoàn thiên: Năm tầng trời phía trên của Sắc Giới (tức Vô Tưởng, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến và Sắc Cứu Cánh), do không còn dục tưởng, không đọa trong nhân gian và Dục Giới nên gọi là Ngũ Bất Hoàn. Do chư thiên cõi này toàn là thánh nhân Tam Quả, không có phàm phu thiên nên còn gọi là Tịnh Cư Thiên.

    [2] Tam đức: Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  10. #70

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Bkav Xem Bài Gởi
    Khi được nói vậy, du sĩ Vacchagotta bạch Thế Tôn:

    -- Tôn giả Gotama, có thể có vị tại gia nào không đoạn trừ kiết sử tại gia mà khi thân hoại mạng chung lại có thể đoạn tận khổ đau?

    -- Này Vaccha, không có người tại gia nào không đoạn trừ kiết sử tại gia mà khi thân hoại mạng chung lại có thể đoạn tận khổ đau.

    (https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung71.htm)

    ----------------------------

    Với đoạn kinh trên, xin hỏi quý bạn, một người lúc sống cứ việc làm ác (đồ tể, giết người ...), lúc chết chỉ cần niệm A Di Đà Phật hoặc được người khác trợ niệm sẽ sanh cõi tịnh độ hoàn toàn sung sướng- có đáng tin không ạ?
    Một pho tượng Phật để trong chùa có hai lối vào Đông và Tây. Người đứng ở cửa Đông thấy nửa mặt bên phải bức tượng và thấy Phật đúng với những gì mình thấy, người đứng ở cửa Tây cũng vậy. Nhưng chẳng ai thấy được pho tượng Phật một cách trọn vẹn cả. Chỉ có người "đứng giữa" mới có cái thấy toàn vẹn.
    Một căn nhà tối ko hề có ánh sáng nhưng chỉ một tia lửa thì bóng tối bị đẩy lùi. Hãy khéo suy tư! Hãy khéo suy tư, đạo hữu!
    Namo Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là một điều tốt, namo Phật A Di Đà là một điều tốt. Nhưng có lẽ điều tốt nhất đó là bản tâm mình vắng lặng, vượt qua sinh tử, khí đó chẳng phải Phật nào cũng chả cần nữa sao???
    Vẫn biết các pháp chỉ là phương tiện vậy hà cớ gì cứ bắt người ko có răng phải ăn cơm như mình? Họ ko có răng hãy để họ ăn cháo vì nó phù hợp với họ. Cái cốt tủy là "no" đó mới là điều quan trọng chứ chẳng phải cơm hay cháo.
    Chớ nói nhiều. Niệm Phật đi

  11. #71

    Mặc định

    Đến thầy Thích Chân Tính chùa Hoằng Pháp trong một buổi giảng còn cầm 1 bản kinh Vô Lượng Thọ trên tay và nói Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ có nhiều bản khác nhau nên tôi thấy ngán ngẩm pháp môn tịnh độ . Mà thấy kì kì thế nào ấy khi mà đọc kinh luận nguyên thủy dễ hiểu dễ hành dễ an lạc như vậy mà ít người theo lại đi theo pháp môn tịnh độ đầy nghi vấn như vậy . Chẳng phải đức Phật đã dạy tự thắp đuốc lên mà đi , đuốc ở đây là đuốc trí tuệ , tức là phải thấy biết rõ ràng chứ không phải cái gì nghe có vẻ hay hay cũng tin .


  12. #72

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Cơn gió nhỏ Xem Bài Gởi
    Đến thầy Thích Chân Tính chùa Hoằng Pháp trong một buổi giảng còn cầm 1 bản kinh Vô Lượng Thọ trên tay và nói Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ có nhiều bản khác nhau nên tôi thấy ngán ngẩm pháp môn tịnh độ . Mà thấy kì kì thế nào ấy khi mà đọc kinh luận nguyên thủy dễ hiểu dễ hành dễ an lạc như vậy mà ít người theo lại đi theo pháp môn tịnh độ đầy nghi vấn như vậy . Chẳng phải đức Phật đã dạy tự thắp đuốc lên mà đi , đuốc ở đây là đuốc trí tuệ , tức là phải thấy biết rõ ràng chứ không phải cái gì nghe có vẻ hay hay cũng tin .

    Vụ này thì tôi có nghe smc nói rồi. Pháp môn Tịnh Độ rất phổ biến ngoài xã hội, tôi đi ngoài đường còn thấy người ta dán hình A Di Đà Phật ở bản tin khu phố mà. Không lẽ bạn nói tất cả quần chúng nhân dân mê muội, còn mình bạn sáng suốt thôi sao. Cái này phải xem lại.

  13. #73

    Mặc định

    Tự thấp đuốc mà đi thôi. Chuyện đơn giản như vậy mà cứ nhây nhây hoài.
    Cư trần lạc đạo

  14. #74

    Mặc định

    Đề nghi 123456 không post nội dung khác gây loãng chủ đề vừa kéo chuột mỏi tay

  15. #75
    Đai Nâu Avatar của bebong
    Gia nhập
    Apr 2011
    Nơi cư ngụ
    Không rõ
    Bài gởi
    294

    Mặc định

    Bác 123456789, post nhiều nhiều cho con xem với. Mấy bài bác post đều đúng với nội dụng topic.

  16. #76

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi bebong Xem Bài Gởi
    Bác 123456789, post nhiều nhiều cho con xem với. Mấy bài bác post đều đúng với nội dụng topic.
    Muốn đọc thì bảo họ chỉ cho đường link. Chủ đề nào cũng thấy ông này copy rồi paste tùm lum hết cả. Tốt hơn chỉ nên chia sẻ bằng cái biết, cái thấy, cái hiểu của chính mình chứ không phải post tràng giang đại hải như vậy.

  17. #77
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,223

    Mặc định

    Nói chung, đạo Phật thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà Thấy. Đạo Phật KHÔNG CÓ CHUYỆN tu mà kết quả sau khi chết mới biết!

    Thế nào là "thiết thực hiện tại" ?

    1. Nhận thức rõ như thế nào là sống với hiện tại. Một người nếu còn tham ái trói buộc thì họ sẽ sống hướng về quá khứ, thể hiện bằng Sự Chấp Thủ, Bám Víu, Níu Kéo hoặc họ sẽ sống hướng tới tương lai thể hiện bằng Sự Đắm Trước, Ảo Tưởng, Tham Vọng. Như vậy một người nếu sống trong hiện tại là sống không tham không sân không si. Tham sân si đoạn diệt là hiện tại Niết Bàn. Như vậy, hiện tại chính là Niết Bàn, ái diệt là hiện tại. Nếu có một định nghĩa nào đó về "sống với hiện tại" thì chỉ có thể nói ái diệt mới sống với hiện tại; tham ái còn là chỉ sống chấp thủ với quá khứ và vọng tưởng đến tương lai.

    2. Tu tập phương pháp để sống an trú trong hiện tại. Người đó phải tu tập Con Đường Trung Đạo chính là Thánh Đạo Tám Ngành, được thâu nhiếp trong Tam Vô Lậu Học gồm: Giới Hạnh Định Tâm và Trí Tuệ. Con đường tám ngành đó sẽ đưa đến đoạn diệt 12 nguyên nhân sanh khổ, khổ đau từng thời trong quá khứ kéo đến, khổ đau chờ đợi ở tương lai lôi tới, hiện tại niết bàn sẽ cách xa với người sống ngoài vòng tám chánh đạo (ngoại đạo). Trong quá trình tu tập thánh đạo tám ngành cũng đồng nghĩa với việc mình tập an trú vào lối sống không tham không sân không si, an trú vào hiện tại, an trú vào Niết Bàn.

    3. Chứng ngộ thể nhập toàn vẹn với hiện tại. Người chứng ngộ Niết Bàn là người đã thể nhập hoàn toàn Thánh Đạo Tám Ngành, là hiện thân viên mãn của Giới hạnh - Định tâm - trí Tuệ, là người có đời sống Phạm Hạnh tinh khiết toàn bích đã hoàn tất, là người đã đặt toàn bộ gánh nặng từ quá khứ mang tới, là người đã diệt tận gánh nặng của tương lai đau khổ, do đó họ chứng ngộ và an trú với hiện tại Niết Bàn.

    Thánh Ngôn Bậc Vô Lậu:

    "Thiết thực hiện tại là Niết bàn, thưa Tôn giả Gotama, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu?

    - Bị tham ái làm say đắm, Bị sân làm uế nhiễm, Bị si làm cho mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, làm ác hạnh về thân, làm ác hạnh về lời nói, làm ác hạnh về ý, không như thật rõ biết lợi ích của mình, không như thật rõ biết lợi ích của người, không như thật rõ biết lợi ích của cả hai nên cảm thọ tâm khổ tâm ưu.

    - Tham ái, Sân, Si được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, thời không làm ác hạnh về thân, không làm ác hạnh về lời nói, không làm ác hạnh về ý, thời như thật rõ biết lợi ích của mình, như thật rõ biết lợi ích của người, như thật rõ biết lợi ích của cả hai nên không cảm thọ tâm khổ tâm ưu.

    - Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu."


    Trích Kinh Tăng Chi Bộ Chương Ba Pháp
    Phẩm Nhỏ 53 - 54


  18. #78

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi smc Xem Bài Gởi
    Nói chung, đạo Phật thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà Thấy. Đạo Phật KHÔNG CÓ CHUYỆN tu mà kết quả sau khi chết mới biết!

    Thế nào là "thiết thực hiện tại" ?

    1. Nhận thức rõ như thế nào là sống với hiện tại. Một người nếu còn tham ái trói buộc thì họ sẽ sống hướng về quá khứ, thể hiện bằng Sự Chấp Thủ, Bám Víu, Níu Kéo hoặc họ sẽ sống hướng tới tương lai thể hiện bằng Sự Đắm Trước, Ảo Tưởng, Tham Vọng. Như vậy một người nếu sống trong hiện tại là sống không tham không sân không si. Tham sân si đoạn diệt là hiện tại Niết Bàn. Như vậy, hiện tại chính là Niết Bàn, ái diệt là hiện tại. Nếu có một định nghĩa nào đó về "sống với hiện tại" thì chỉ có thể nói ái diệt mới sống với hiện tại; tham ái còn là chỉ sống chấp thủ với quá khứ và vọng tưởng đến tương lai.

    2. Tu tập phương pháp để sống an trú trong hiện tại. Người đó phải tu tập Con Đường Trung Đạo chính là Thánh Đạo Tám Ngành, được thâu nhiếp trong Tam Vô Lậu Học gồm: Giới Hạnh Định Tâm và Trí Tuệ. Con đường tám ngành đó sẽ đưa đến đoạn diệt 12 nguyên nhân sanh khổ, khổ đau từng thời trong quá khứ kéo đến, khổ đau chờ đợi ở tương lai lôi tới, hiện tại niết bàn sẽ cách xa với người sống ngoài vòng tám chánh đạo (ngoại đạo). Trong quá trình tu tập thánh đạo tám ngành cũng đồng nghĩa với việc mình tập an trú vào lối sống không tham không sân không si, an trú vào hiện tại, an trú vào Niết Bàn.

    3. Chứng ngộ thể nhập toàn vẹn với hiện tại. Người chứng ngộ Niết Bàn là người đã thể nhập hoàn toàn Thánh Đạo Tám Ngành, là hiện thân viên mãn của Giới hạnh - Định tâm - trí Tuệ, là người có đời sống Phạm Hạnh tinh khiết toàn bích đã hoàn tất, là người đã đặt toàn bộ gánh nặng từ quá khứ mang tới, là người đã diệt tận gánh nặng của tương lai đau khổ, do đó họ chứng ngộ và an trú với hiện tại Niết Bàn.

    Thánh Ngôn Bậc Vô Lậu:

    "Thiết thực hiện tại là Niết bàn, thưa Tôn giả Gotama, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu?

    - Bị tham ái làm say đắm, Bị sân làm uế nhiễm, Bị si làm cho mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, làm ác hạnh về thân, làm ác hạnh về lời nói, làm ác hạnh về ý, không như thật rõ biết lợi ích của mình, không như thật rõ biết lợi ích của người, không như thật rõ biết lợi ích của cả hai nên cảm thọ tâm khổ tâm ưu.

    - Tham ái, Sân, Si được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, thời không làm ác hạnh về thân, không làm ác hạnh về lời nói, không làm ác hạnh về ý, thời như thật rõ biết lợi ích của mình, như thật rõ biết lợi ích của người, như thật rõ biết lợi ích của cả hai nên không cảm thọ tâm khổ tâm ưu.

    - Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu."


    Trích Kinh Tăng Chi Bộ Chương Ba Pháp
    Phẩm Nhỏ 53 - 54

    haaaaaaaaaa, smc đọc đâu ra mà nói "Đạo Phật KHÔNG CÓ CHUYỆN tu mà kết quả sau khi chết mới biết!". Vậy có đạo Phật nào nói ko có Bồ Tát, không có chư thiên, không có ma quỷ, linh hồn thần thức ko? Tất cả những cái này ở đâu ra vậy? A di đà Phật!
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  19. #79

    Mặc định

    Nói chung, đạo Phật thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà Thấy. Đạo Phật KHÔNG CÓ CHUYỆN tu mà kết quả sau khi chết mới biết!
    Phàm, người tu Phật đều có ấn chứng, không ít cũng nhiều. Trừ phi, trừ phi chẳng có chút thành tựu.

    Một người nếu còn tham ái trói buộc thì họ sẽ sống hướng về quá khứ
    Vậy, đạo hữu từng yêu ai chưa? Từng tan vỡ chưa? Từng chia ly chưa? Chắc là trai tân rồi, kiểu như mấy người tu tiên ấy nhỉ, từ bé đã thanh tâm quả dục rồi he. Ngưỡn mộ. Vậy đó, 1 miếng thịt nói tới cũng không được.

    Ây da, nói thể cũng không phải. Phải nói smc chẳng phải rất tôn sùng Đức Phật. Vậy có khi nào smc tự hỏi, bản thân có thể buôn bỏ chấp niệm này không? Chắc là không biết "ma" đi, vậy cũng tốt, điếc sẽ không sợ súng nhe.
    Ây da, hình như có câu "tự mình thấp đuốc mà đi", chứ không phải ôm Phật mà đi nhé. À, sai rồi, phải là "để Phật trên đầu mà đi". Cách này thì cần gì tứ đế, thập nhị nhân duyên, hay trợ đạo đúng không? Cách này chẳng phải hay hơn niệm phật đi. Thật hay nhe.

    Ây da, chẳng phải so cái giàu người ta dùng tiền sao. Còn so tông phái nào cao hơn thì chẳng phải xem tông phái đó có cao đồ hay không sao. Chẳng phải sao?
    Cư trần lạc đạo

  20. #80

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phapchieumt Xem Bài Gởi
    haaaaaaaaaa, smc đọc đâu ra mà nói "Đạo Phật KHÔNG CÓ CHUYỆN tu mà kết quả sau khi chết mới biết!". Vậy có đạo Phật nào nói ko có Bồ Tát, không có chư thiên, không có ma quỷ, linh hồn thần thức ko? Tất cả những cái này ở đâu ra vậy? A di đà Phật!
    Hời, đạo hữu hà tất chấp niệm. Chấp niệm lớn rồi thành tập khí, tập khí lớn lại thành tâm ma. Hà tất để ý lời người khác, bản thân không hổ thẹn với lòng, với Phật là được rồi.
    Có câu tu cho bản thân mà. Đâu cần phải đánh trống khua chiên, ồn ào vậy còn chổ nào thanh tịnh?

    Thấy không, đạo hữu không nói nhiều, tôi đây cũng biết đấy thôi.

    Đạo hữu lên Youtube kiếm, cũng có vị gì gì đó hay quy y vong ma gì gì đó. Vị này cũng an nhiên tự tại, đâu khư khư chấp niệm như đạo hữu. Môn đồ chẳng phải tự nhiên đến sao? Thanh tự thanh. Hà tất phiền não.

    Với lại, nếu đạo học không cao, chứng ngộ không nhiều, lên tiếng nói nhiều cũng chẳng được gì. Tôi biết đạo hữu thực chứng nhiều. Vậy hỏi xem, mỗi lần tế độ bao nhiêu chúng sinh, mỗi lần phải mất bao nhiêu thời gian, mất bao nhiêu công sức, mất bao nhiêu chi phí. Có được an nhiên như vị gì gì đó trên Youtube không?

    Vậy người đó khác ta ở chổ nào? Phật dạy văn tư tu. Nếu không thể tư duy, suy luận tìm ra gúc mắc, thì thật uổng phí kiếp người. Chổ này chính là tự đạo hữu làm thôi. Tự thấp đuốc mà đi vậy. À quên, chư Phật luôn ở bên. Có câu thành tâm thì linh ứng. Nhưng rốt cuộc thế nào là thành tâm, là tiền tài, là lễ bái, là thần tượng,... Ây da, vẫn là tự mình thấp đuốc mà đi thôi.

    Lời ít ý nhiều.

    À, đạo hữu smc, có hiểu chút nào chổ thấp đuốc mà đi không?
    Cư trần lạc đạo

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Đạo Đức Kinh Chân Nghia (Nguồn daogiakhicong.org)
    By VoDanhKhach in forum Khí Công, Dưỡng Sinh
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 17-11-2011, 04:40 PM
  2. Đi vào các bản kinh cổ Pali để tìm hiểu nguồn gốc con người
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 30-04-2010, 02:19 PM
  3. Giao lưu:Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam
    By RPe in forum Hỏi Đáp, Tư Vấn
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 30-04-2010, 01:37 PM
  4. Thế Nào Là Kinh điển Nguỵ Tạo Trong Phật Giáo
    By vothuong dao in forum Đạo Phật
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 03-01-2009, 04:58 PM
  5. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 01-07-2008, 12:51 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •