Nếu muốn truy tìm Thần của tám Bộ thì kết Bát Bộ Ấn, tụng Bát Bộ Chú 21 biến thì vị Thần ấy liền đến. Thế Tôn! Chỗ Kết Giới, một mặt khoảng một ngàn Do Tuần làm ranh giới thủ hộ. Trước tiên, Chú vào nước rải tán ở bốn phương. Lại Chú vào tro rải tán bốn phương. Lại Chú vào bột hương, đất sạch rồi rải tán bốn phương. Liền Chú vào hạt cải trắng (bạch giới tử) rồi rải tán bốn phương (một Bản nói rằng: đền chỗ này, hoặc Chú vào đao kiếm, hoặc Chú vào viên bùn ném ở bốn phương. Hoặc Chú vào cung tên bắn bốn phương) tận phần sức ấy thì nơi đã đến liền làm ranh giới, đều có Quỷ Thần, Trời, Rồng, a Tu La, bốn Thiên Vương đều thống lãnh Đại Dược Xoa Tướng của 28 Bộ, La Sát Quân Chúng của 42 Bộ, Long Vương, Cưu Bàn Trà Vương đồng Tâm thủ hộ, ngày đêm chẳng lìa, hộ trì người đó. Thế Tôn! Khi muốn Kết Giới thời dùng nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ, liền mặc quần áo thượng diệu, chẳng ăn thứ thuộc về ngũ tân, rượu, thịt. Vân đài, Hồ Tuy, La Bặc với Xuân Thông chẳng được đưa qua miệng, ăn chay (khiết trai) thanh tịnh. Thế Tôn! Chú này uy mãnh tự tại kỳ lạ đặc biệt không có gì sánh bằng, như thân Kim Cang Bất Hoại của con. Tất cả Trời, Người, a La Hán, bốn Thiên Vưong hộ thế đều sanh vui vẻ thủ hộ người ấy, hay ở đời ác năm trược cứu giúp chúng sanh, nhổ mũi tên ba độc, quay lại sáu nẻo kia dẫn nhiếp khiến cho ra khỏi.
41
Đức Thế Tôn biết Tâm của con chăng?!...”

_Đức phật nói: “Đúng như vậy! Đúng như vậy” _“Đức Thế Tôn sắc cho con làm Nguyên Soái hộ trì Pháp Tạng. Con từ vô thủy đến nay, oai lực thù đặc, địa vị đồng với mười Địa (Daśa-bhūmi). Nay con vì người trì Chú lại nói Hộ Thân Chú (Chú ấy sẽ nói ở lúc sau). Phàm đủ 7 biến, đốt hương, rưới vảy đất, khải thỉnh chư Phật Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên quá khứ hiện tại vị lai. Tức trước tiên, tụng Chú này 21 biến kết Hư Không Giới, sau đó liền tụng Quân Trà Lợi Chú kết Giới, tiếp theo tụng Tứ Thiên Vương Chú kết Thiên Giới, tiếp theo tụng Bạt Xà La Chú kết Không Trung Đại Giới. Thỉnh Chuyển Luân Vương trong đời làm Đàn Chủ, tiếp theo thỉnh Sa Ma Vương Tướng làm Thủ Đàn Vương, tiếp theo hô gọi Nghiệp Thiên La Sát trợ Đàn. Thỉnh Thần đều xong, liền khải thỉnh Lô Xá Na Phật (Locana-buddha), Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara-bodhisatva) làm Hòa Thuợng, thỉnh Văn Thù Sư Lợi (Maṃjuśrī) tức làm chứng biết Kiên Lao Địa Thần (Dṛḍha-pṛthiviye) rồi báo rằng: “Tất cả Đại Thiện Thần Vương! Tôi muốn ở đất này đào đục đất của Đàn, khiến như Nguyện ấy” Liền đốt hương, để thức ăn cúng dường một đêm, ngày hôm sau khi mặt trời mới xuất hiện thời lấy một đấu nước hoa dưới giếng chia vào bốn vật khí an bốn phương, trên nước an đao, cung tên rồi đào xuống đất ba Xích (1 m) sẽ thấy vật ấy. Như thấy con người thì sức Chú của người ấy hay làm cho núi sạt lở, biển khô cạn Nếu thấy trùng thú thì sức Chú của người ấy cũng như được ngọc. Người ấy tức là người của Hội đầu tiên Nếu được vàng bạc thì người ấy nhân vào Chú mà gàu có lớn Nếu được loại đao, gậy, cung, tên thì người ấy ở bên trong Đàn, nhìn thấy vị Thần của bài Chú (Chú Thần) Nếu được thuốc thì người ấy khéo hay trừ bệnh Nếu được sắt, đá thì người ấy rốt ráo chẳng thoái lùi, bền chắc, được Trí không có ngăn ngại Nếu được Tướng xong, liền thọ nhận Trai Giới (Upoṣadha), lấy đất sạch ở nơi khác. Đào xuống đất ba Xích (1 m) loại bỏ đất xấu ác, lấy riêng đất sạch có màu, rây sàng hòa với bột hương rồi lấp đắp cao hơn mặt đất ba Xích (1 m), ở dưới vuông, bên trên tròn, mở làm 12 lối đi, dài rộng bốn khuỷu tay, dùng bùn năm màu xoa tô bốn phương. Đài bên dưới, dùng đất màu trắng hòa với nước nóng thơm xoa tô, bên trên dùng phân bò hòa với hương xoa tô Trên Đàn ấy với trung ương an Xá Lợi, các thứ hương bên trong vật khí Lưu Ly trắng, bốn mặt của Xá Lợi an tòa ngồi của Bồ Tát. Nền Đàn ở trung ương an 24 cái Táo Bình đều chứa đầy nước thơm, hoa sen, cành dương liễu. Góc Đông Bắc của Đài, an tòa hoa sen xanh để tiếp đãi Ta (A Tra Bạc Câu). Phương Đông an tòa ngồi của Đề Đầu Lại Tra (Dhṛta-rāṣṭra) Góc Đông Nam an tòa ngồi của Quân Trà Lợi (Kuṇḍali) Phương Nam an tòa ngồi của Tỳ Lậu Lặc Xoa (Virūḍhaka) Phương Tây Nam an tòa ngồi của Bạt Xà La (Pañcala) Phương Tây an tòa ngồi của Tỳ Lô Bác Xoa (Virūpākṣa) Phương Tây Bắc an tòa ngồi của Đại Thanh Diện (Mahā-nīla-mukha) Phương Bắc an tòa ngồi của Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa)
42
Bên dưới nền, nhiễu quanh Đàn đều an tòa ngồi, tổng cộng có 49 tòa ngồi, 49 cái bàn. Dựng 100 cây đao bén nhọn màu trắng, một nền ở đầu bên trên dựng 42 (?40) cây đao, nền ở giữa dựng 24 cây đao, nền bên dưới dựng 36 cây đao Bên dưới nền, nhiễu quanh Đàn an 28 cây đao, 108 mũi tên, nền bên trên có 12 mũi tên, mặt phía Tây làm cửa, nên ở giữa có 20 mũi tên. Bên ngoài nền bên dưới an bốn cái chậu nước, bên trong bồn để hoa Bên ngoài nền bên trên an 12 cây gậy, tám cây Thiết Trượng, 10 cái Táo Bình an trăm cái lá, Bàn thức ăn dùng lá sen mà làm Góc Tây Nam của Đàn an Địa Hỏa Lô (?lò lửa bằng đất), trung ương cao, bốn mặt thấp, thiêu đốt Tô Hợp, Mật, sáp Nền bên trên an một lò hương Ở trên Đàn an bốn Xá Lợi của Phật Chú Sư ngồi trên cái chiếu cói, hướng mặt về phương Đông. Quỳ gối, tay bưng lò hương mà khải thỉnh xong, liền Kết Giới, tác Hoa Man Ấn ngửa nâng. Ngồi định xong, sau đó kết Giới xong, liền đốt hương, rải hoa, cúng thí thức ăn Tiếp theo, trong lò ở phương Tây Nam này thiêu đốt mè, gạo tẻ (cánh mễ), mật, lạc (váng sữa), bơ kèm với thiêu đốt mọi loại thức ăn, lại nói là: “Hân hạnh xin tất cả chúng Thánh giáng lâm đến nơi này”. liền tụng Đại Chú 108 biến, tay cầm cái chày ấn lên mặt đất tụng, hoặc cầm cung tên thì Quỷ Thần liền đến. Pháp ấy, khởi tu vào ngày 15 tháng Giêng là bậc Thượng, tháng khác là bậc Trung, Hạ. Bảy ngày vào Đàn, chí Tâm nhiếp Ý đừng sanh tán loạn, đêm ấy liền có một Đồng Tử (Kumāra) hiện ra. Đêm ngày thứ ba có 16 vị Vương Tử hiện ra. Ngày thứ năm dấy lên gió bụi lớn. Ngày thứ sáu tuôn mưa. Đêm ngày thứ bảy thì Ta (A Tra Bạc Câu) với Quán Thế Âm Bồ Tát, Tinh Mẫu, chư Phật mười phương, Quỷ Thần đều vào trong Đàn, tỏa hào quang chiếu sáng, trên Đàn: cung, đao tử phát sáng, bình nước tự di chuyển. Đêm hôm sau khi Ta hiện thân thời tất cả Quỷ Thần cũng đều hiện ra. Nếu khi kết Giới thời đừng cho con nít, người nữ đi vào bên trong. Nếu 7 ngày kết Giới thì 7 ngày mới thành. Giới (Sīmā) ấy thành xong thì không có Quỷ Thần ác vào bên trong quấy nhiễu. Hoặc hàng Trời tạo làm, hoặc Càn Đà Bà tạo làm, hoặc A Tu La tạo làm; hoặc Khẩn Na Na, Ca Lâu La tạo làm, hoặc La Sát tạo làm; hoặc Thần gió, Thần lửa tạo làm… thảy đều bị vỡ đầu, bị đập tan nát, mất niệm. Ta dùng bánh xe ngàn căm đè nghiền Quỷ Thần ấy khiến cho bị suy hại. Nếu giặc ác vào bên trong Giới thì bị Hộ Giới Quỷ Vương chẻ nát thân diệt hết. Nếu người phạm vào Đàn thì Đại Lực Sĩ Kim Cang dùng lửa thiêu đốt khiến cho sưng vũ đỏ tấy trải qua ba ngày mới ngưng dứt. Người ấy chẳng như Pháp này mà làm thì liền bị tai ương hiểm họa. Bảy ngày vào Đạo Tràng, một lần đi cầu thì một lần tắm gội, ba thời thay áo. Một ngày một đêm, sáu Thời hành Đạo, đảnh lễ 7 lạy. Một ngày, sáng sớm đều kết Giới một lần, muốn ăn thì trước tiên phải giải Giới, ban đêm khi nằm thì kết Tiểu Giới hộ Thân. Một lần ngồi thì tụng 49 biến là bậc Trung, 108 biến là bậc Thượng, 21 biến là bậc Hạ. Một ngày một đêm liền hay được hộ thân của mình, hai ngày thì hay hộ cho cả nhà, ba ngày trở đi thì hay hộ cho người khác, cột trói Quỷ Thần đều được, lời đã nói ra liền thành. Mãn 7 ngày thì tất cả Thiên Vương, A Tu La Vương, Long Vương, Tán Chi Quỷ Thần, Kim Cang Lực Sĩ luôn ở hai bên trái phải. Nếu 7 ngày chẳng thành, thì lại thêm 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày cho đến 49 ngày ắt thành. Nếu nguyện làm Đại Lực Chú Sư thì đừng sanh ganh ghét gây hại tất cả hữu tình, đừng tác Tâm kiêu mạn, bàn luận nói về thân của Chú Thần, chẳng quá 100 ngày
43
ắt thành tựu Đại Lực vô biên, Công Đức tròn đủ, địa vị thù đặc bậc nhất, thấm đẫm mười Địa. Thế Tôn! Nay con vì người trì tụng thường làm cứu hộ” Rồi nói Chú là: 湡 民誆 民誆 民誆 民誆 送扣 戌才一 民誆 亙扣戌才一 民誆 亙仗矛刡 民誆 亙扣亙仗矛刡 民誆 先朽 先朽 民誆 亙扣先朽 先朽 民誆 伏朽 伏朽 民誆 亙扣伏朽 伏朽 民誆 向向向向 份份份份 狫 几 狫 几 份 送扣 Úm, phán phán phán phán, toa ha. Tán chi ca phán, ma ha tán chi ca phán, ma ni bạt đà phán, ma ha ma ni bạt đà phán, la sát la sát phán, ma ha la sát, la sát phán, dược xoa dược xoa phán, ma ha dược xoa dược xoa phán, sắc sắc sắc sắc, phạ phạ phạ phạ, duệ duệ duệ duệ, hồng khư hồng khư, hỏa cấp duệ, toa ha *)OṂ PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ SVĀHĀ_ SAṂCIKA (?PAÑCIKA) PHAṬ_ MAHĀ-SAṂCIKA (?MAHĀ-PAÑCIKA) PHAṬ_ MAṆIBHANDRA (?MAṆI-BHADRA) PHAṬ_ MAHĀ-MAṆIBHANDRA (?MAHĀ-MAṆIBHADRA) PHAṬ_ RAKṢA RAKṢA (?RĀKṢASA RĀKṢASA) PHAṬ_ MAHĀRAKṢA (?MAHĀ-RĀKṢASA) RAKṢA (?RĀKṢASA) PHAṬ_ YAKṢA YAKṢA PHAṬ_ MAHĀ-YAKṢA YAKṢA PHAṬ_ (sắc sắc sắc sắc)_ VA VA VA VA_ YE YE YE YE_ HŪṂ KHA (?KHAṂ) HŪṂ KHA (?KHAṂ)_( hỏa cấp) YE SVĀHĀ Thế Tốn Chú này có Thần Lực cực lớn, rất có oai đức, hay khiến cho ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách, bốn biển phun trào khô cạn, đầp tan núi Tu Di như bụi nhỏ, dời núi, chận sông, mọi loại sự nghiệp thày đều sung mãn. Nếu có Quỷ Thần, Tỳ Na dạ Ca (Vināyaka) gây chướng nạn, gây suy hại cho con người. Dùng Thần Chú này ném Quỷ Thần ấy vào trong hư không thì (Quỷ Thần ấy) chẳng thể xuống được, chẳng thể não hại. Thế Tôn! Chú này vì khắp tất cả chúng sinh làm hộ giữ, làm cứu giúp. Nếu có Quỷ ác hút tinh khí của con người, hại sản nghiệp của con người, làm hao sút tài vật của con người. Như vậy, tất cả chúng sanh sợ hãi đều vì họ kết Giới, sẽ khiến cho Quỷ ác, người ác, giặc ác ấy tự tiêu tự diệt… với chim, thú, cỏ, cây, gạch, đá ở Thế Gian hay chứa chất độc hại người đều trừ diệt hết không có dư sót. Thế Tôn! Chú này rất có Oai Thần, kỳ lạ, đặc biệt, mạnh bén, cực ác không có gì so sánh nổi. Thế Tôn! Bát Tý Na La Diên Thiên Thần hay ở bên trong thân Tam Thập Tam Thiên, nhập vào trong hạt cải khiến cho Tích, Phạm Vương đều chẳng hay biết Thần Lực như vậy. Thế Tôn! Như Thiên Thần ấy tràn đầy Thế Gian như gạo, mè, tre, lau… mỗi một vị Thiên Thần đều đồng Tâm, Tính, sức mạnh… Dùng oai lực Đại Vô Biên Thần Chú của con nếm Thiên Thân ấy vào Thế Giới ở phưong khác khiến cho Thiên Thần ấy chẳng hay chẳng biết. Oai Lực của con từ Vô Biên Tự Tại Nguyên Soái Đại Tướng như vậy. Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, quốc vương, đại thần thọ trì Chú này thì con sẽ cũng với tất cả Kim Cang Lực Sĩ, Trời, Rồng, A Tu La Vương, bốn Đại Thiên Vương, Dược Xoa Đại Tướng Quân của 28 Bộ, 42 Bộ La Sát Dược Xoa Vương, La Sát Cưu Bàn Trà Vương, Càn Thát Bà Vương, Khẩn Na La Vương, Giáng Oán Điểu Vương, Mục Chân Lân Vương, Khổng Tước Vương, Kim Sí Điểu Vương, Sư Tử Hống Vương, Đại Phạm Vương, Công Đức Đại Biện Vương, Ma Hê Thủ La Vương,
44
Tam Thập Tam Thiên Vương, tất cả Thiện Thần đều thống lãnh trăm ức Quỷ Thần Vương mặc đủ giáp trụ trước sau vây quanh, tùy theo hầu người đó khiến cho chẳng gặp điều ác. Thế Tôn! Con là Nguyên Soái Đại Tướng trong Quỷ Thần Vương có oai lực tự tại vô biên, hay tồi phục Ngoại Đạo, Trời, Rồng, A Tu La Vương, Phạm Thiên Vương. Nếu có người phạm vào thì con sẽ dùng bánh xe ngàn căm đè nghiến khiến cái đầu của kẻ ấy bị vỡ nát giống như bụi nhỏ, tức khiến đoạn diệt. Thế Tôn! Hoặc Trời Rồng, hoặc tất cả Quỷ Thần Vương nge tên A Tra Bà Câu của con còn chạy đến nghênh tiếp, huống chi là lại hay y theo Pháp thọ trì. Thế Tôn! Nếu có người nghe tên của Thần Chú này, liền nên cung kính, lễ bái. Hoặc lại chắp tai khen ngợi, Tại sao? Vì người ấy trước kia cùng với Đức Phật có nhân duyên lớn sâu nặng, nên ngày nay sanh tôn trọng nghe Chú này. Thế Tôn! Nếu người hay tụng thì chẳng bị Quỷ Thần xâm nhiễu, cũng chẳng bị bệnh bất ngờ, chẳng chết oan uổng, được sống trăm năm, được thấy trăm mùa Thu, chẳng khiến cho gặp điều ác. Thế Tôn! Nếu người hành Chú Đạo này, tuy chẳng được thành Đại Chú Sư, cũng hay hoàn thành mọi loại Công Đức, quan vị tốt đẹp, biện luận không có ai so sánh được, giải thoát sự trói buộc, chiếu sáng nơi u ám, đều diệt tất cả sự cột trói độc ác. Voi điên, giặc ngông cuồng, cọp, sói, sư tử… miệng bị đóng khép, cổ họng bị tắc chẳng thể hại người. Cho nên tên là Vô Tận Ý Bồ Tát Hóa Thân Nguyên Soái Đại Tạng Vương Cam Lộ Đà La Ni. Thế Tôn! Chú này đối với chúng sanh mà không có Công Đức thì Lô Xá Na Phật ắt chẳng hợp làm Ấn của con, hiệu là Vô Biên Cam Lộ Đà La Ni Nguyên Soái Thần Chú. Thế Tôn! Người trì Chú này có mười Công Đức thắng lợi lớn tùy theo thân: 1_Khéo trì Chú Đạo ắt được Vô Thượng Thiện Đạo 2_Chuyển nơi sanh ra, tùy theo ý mà đi 3_ Ngay trong đời chẳng kinh hoàng chẳng sợ hãi, chẳng bị đao binh gây hại 4_Chẳng lo ngại trùng độc, thú ác 5_Chẳng lo ngại phép vua cột trói, giam cầm 6_Chẳng bị Oan Gia gây hại 7_Nơi đi đến, không có chướng ngại 8_Nói ra lời răn dạy thì mọi người đều tin nhận 9_Chẳng bị đói, chẳng bị khát 10_Khi lâm chung chẳng trải qua tám nạb, mặt nhìn thấy Quán Thế Âm Bồ Tát vì mình trao cho Bồ Đề Đạo Ký Thế Tôn! Người tụng Chú này được vô lượng Công Đức, lợi ích thù thắng” _Khi ấy, trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Định Tự Tại Vương (Samādhīśvara-rāja) chỉnh sửa quần áo, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay, rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con thấy Nguyên Soái Đại Tướng A Tra Bà Câu ở trong Hội, thống lãnh Quỷ Thần của tám Bộ Trời Rồng, mặc áo giáp, cầm cây Mâu tỏa hào quang chiếu sáng, Oai Thần kỳ lạc đặc biệt. Nếu vị ấy giận dữ khiến các Quỷ Thần tự tiêu tự diệt, khắp Trời đất chấn động theo sáu cách Thế Tôn! Vị Đại Tướng này, thân trước kia hành Tam Muội Công Đức gì? Lại tác Nguyện gì mà nay được thân kỳ lạ đặc biệt có sức oai thần lớn, nay nói Chú như bên trên? Bốn Chúng kinh ngạc nghi ngờ có điều gì quái lạ! Nguyện xin Đức Phật Từ Bi vì con giải nói. Con muốn được nghe”.
45
_Bấy giờ, Đức Phật bảo Định Tự Tại Vương Bồ Tát Ma Ha Tát: “Nay ông hãy nghe cho kỹ! Nay Ta nói Hạnh xưa kia của vị Đại Tướng ấy. Này Thiện Nam Tử! Vị Đại Tướng kia ở chỗ của Đức Không Vương Như Lai tu Bồ Tát Hạnh (Bodhisatva-caryā). Sau khi Đức Phật ấy nhập diệt, ở thời Mạt Pháp chúng sanh Phước mỏng, ba năm bị hạn hán, đất màu đỏ cả ngàn dặm, sông nước khô cạn, tất cả chúng sanh mê mờ đánh mất Bản Tánh, đót khát đầy đường. Lúc đó, vị Đại Tướng ấy là Hành Giả áo trắng (tức Cư Sĩ) nhà rất giàu có, nhìn thấy chúng sanh kia chịu khổ như vậy, liền buông bỏ vợ con, quyến thuộc, thân mặc áo rách cũ, tự mình gánh nước cho thức ăn, đi quanh mọi nơi cứu người đói khát. Làm Hạnh như vậy trong 60 năm mà chẳng ngưng nghỉ, siêng năng thực hành. Giữa năm mất mùa đời loạn lại gặp giặc ngông cuồng vây quanh bắt trói, la mắng. Thời Hành Giả ấy tự biết không có tội, liền tự nói rằng: “Nay tôi ngưỡng nguyện nhóm giặc (quần tặc) chặt tay chân của tôi. Đảnh lễ mười phương, quy mạng Tam Bảo, năm nay con đã già cả mục nát, chẳng lâu sẽ chết”. Đám giặc nghe xong, liền chặt tay chân của vị ấy. Hành Giả Bồ Tát vui mừng hớn hở, liền cáo với Trời rằng: “Mười phương Hiền Thánh chứng biết, (con) không có tội bị bắt trói ngang ngược” Phát lời nói này xong thì Trời đất chấn động lớn, mười phương chư Phật vân tập. Giặc ngang ngược kia tự mê hoảng, đánh mất Tánh, mê man té xuống đất. Lúc đó, Hành Giả chẳng buông xả Từ Bi. (Đám giặc kia) liền dùng đao giết chết Hành Giả. Ở ngày lâm chung, Hành Giả phát ra lời thề to lớn là: “Tất cả Hiền Thánh nên chứng biết, ngày nay con không có tội chết đột ngột. Nguyện con buông xả thân thể này, sẽ làm vị Thần dũng mãnh có đại lực, vô lượng vô biên oai, giáng phục giặc ác người ác, đập nát Thiên Ma, Quỷ Thần cực ác. Nếu chúng sanh trong mười phương Thế Giới bị oan uổng ngang trái thì con đều cứu giúp khiến cho an ổn” Này Thiện Nam Tử! Do sức nguyện cho nên nay làm Vô Biên Tự Tại Nguyên Soái Đại Tướng ở trong chư Thần là thân tối tôn tối thượng bậc nhất, cho nên tên là Nguyên Soái Quỷ Thần Đại Tướng A Tra Bà Câu” _Khi ấy, Định Tự Tại Vương Bồ Tát nghe việc này xong thì nói Kệ khen ngợi rằng: “Ta nghe tên Nguyên Soái Cứu khổ ách Thế Gian Trong tất cả Đại Thần Kỳ đặc không gì sánh Mọi loại Thân biến hóa Cứu giúp chúng sinh khổ Nay ta nghe tích xưa Thật chẳng thể nghĩ bàn” Bấy giờ, Định Tự Tại Vương Bồ Tát nói Kệ xong thì ngồi xuống để nghe Pháp. _Thời A Tra Bà Câu bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nguyện Chú đã nói giao phó cho người có Trí Tuệ thì mới có thể tụng. Nếu người chẳng thể tụng, tức đừng cho thực hành, khiến cho chúng sanh ấy trở ngược chịu tai ương hiểm họa” _Khi ấy, Đức Phật bảo A Nan (Ānanda): “Chú này của A Tra Bạc Câu Nguyên Soái Đại Tướng rất có Thần Lực, hay tiêu trừ các ác, ủng hộ chúng sanh được nhiều lợi ích. Ông thọ trì cho tốt, rộng tuyên lưu bày. Nếu đấy nước bị suy họa, mưa thấm chẳng đều, dùng Chú này an trên bốn cửa thành, liền được gió mưa thuận thời. Nếu đem Chú này trấn đất nước thì tất cả quân địc lân cận ở bốn phương với đại thần chẳng khở Tâm
46
trái nghịch. Nếu có người gây trái nghịch thì xưng tên Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần, tức Đại Nguyên Soái triệu tất cả Quỷ Thần kéo mây tuôn mưa, đi xuống dùng đao kiếm tiêu diệt bày tôi phản nghịch. Nếu có quốc vương, đại thần tụng trì Chú này thì cõi nước của vị vua ấy không có người ác, giặc ác với các Quỷ Thần. Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân trì Chú này thì nơi cư ngụ sẽ được tốt đẹp, ngày yên đêm yên. Người làm Pháp thông cả Pháp Quân Trà Lợi với Quán Tự Tại Bồ Tát, Bát Nhã đều được. Này A Nan! Chú này rất có oai lực, nên khiến cho bốn Chúng khéo tụng trì”

_Bấy giờ, Đại Chúng nghe điều Đức Phật đã nói, đều vui vẻ phụng hành. A TRA BẠC CÂU NGUYÊN SOÁI ĐẠI TƯỚNG THƯỢNG PHẬT ĐÀ LA NI KINH TU HÀNH NGHI QUỸ _QUYỂN THƯỢNG (Hết)_ Trinh Hưởng năm thứ tư_ Giữa mùa xuân, đêm ngày 11_ Một lần xem xét
xong
Bật Sô Tịnh Nghiêm (49 tuổi)
47
Mật Tạng Bộ 4_ No.1239 (Tr.193_ Tr.199) A TRA BẠC CÂU NGUYÊN SOÁI ĐẠI TƯỚNG THƯỢNG PHẬT ĐÀ LA NI KINH TU HÀNH NGHI QUỸ _QUYỂN TRUNG_ Phạn Hán: Đời Đường_ THIỆN VÔ UÝ dịch kín đáo trong Nội Đạo Tràng Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ Dịch âm Phạn Chú: HUYỀN THANH Bản Chú này được nói trong rừng Ca Lan Đà Trưởng Giả tại thành Vương Xá ở Trung Thiên Trúc

_Bấy giờ, Đức Phật cùng với vô ương số Trời, Rồng, Quỷ Thần, A Tu La nói Chú của A tra Bạc Câu Nguyên Soái Đại Tướng. Trong Đệ Tử của Đức Phật có một vị Tỳ Kheo đi trên đường, đột nhiên hoảng hốt bị giặc cướp áo, lương thực. Lại bị hai vạn năm ngàn quyến thuộc của Quỷ Thần đi đến quấy nhiễu chẳng thể tiến về phía trước được. Lại bị rắn lớn quấn quanh chân mổ cắn… nên hôn mê té xuống đất, miệng xùi bọt chẳng thể cử động. Lúc đó, Đại Tướng cùng với các quyến thuộc, Trời, Rồng, Quỷ Thần, Người, Phi Nhân, 28 Bộ Dược Xoa La Sát, trăm ngàn Chú Vương vây quanh đi đến chỗ của Đức Phật, trên đường đi thấy vị Tỳ Kheo bị khỗ não lớn, liền đến trong rừng tre Ca La Đà, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đảnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi lui ra đứng một bên, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Để giáng phục Quỷ Thần cực ác, người đời… Con có Đại Thần Chú có sức mạnh hay giáng phục tất cả Quỷ Thần. Nguyện xin Đức Thế Tôn nhận lấy” Thời Đức Thế Tôn yên lặng nhận lời . (Đại Tướng) thống lãnh các Trời, Rồng, Quỷ Thần, bốn Thiên Vương, trăm ngàn Quỷ Thần Vương, trăm ngàn Trí Chú Tiên Nhân, trăm vạn hằng sa Quỷ Thần, Dược Xoa, La Sát binh chúng, trăm ngàn A Tu La Vương, trăm ngàn Long Vương, trăm ngàn Quỷ Vương… trước sau vây quanh cầm phan, hoa, binh khí rồi nói Thần Chú. Ngay lúc nói Chú thời nước của bốn biển lớn phun trào, núi Đại Thiết Vi sụp đổ, chư Thiên xoay vần chấn động, mặt trời mặt trăng đang sợ rơi xuống, Tinh Thần (các ngôi sao) tán lạc, trong miệng của trăm vạn Quỷ ác tuôn ra máu, điên cuồng chạy khắp Đông Tạy, kêu la té xuống đất, bốn phương cùng một lúc tuôn mưa, Quỷ Thần quấy nhiễu vị Tỳ Kheo kia đều bị kéo rút lưỡi, máu tuôn đầy đất như hoa Ba La Xa (Palāśa: cây có hoa màu đỏ) Nếu có Thiện Nam Tử trì Chú này thì tất cả Quỷ Thần không có ai chẳng đi theo hầu cận thủ hộ. Nếu có Quỷ Thần chẳng đi theo hầu cận thì con (A Tra Bạc Câu) sẽ đem các Quỷ Thần dùng bánh xe ngàn căm nghiền nát cái đầu kẻ ấy, khiến các Quỷ Thần làm ủng hộ. Con là Quỷ Thần Đại Tướng có sức mạnh hay giáng phục tất cả các Quỷ Thần. Nếu đệ Tử của Con đã đến nơi nào thì tất cả Kim Cang Mật Tích, hoặc Quỷ Thần, các Quỷ Thần của 28 Bộ đều đến trợ giúp”. A Tra Bạc Câu (Aṭavaka) có 72 vị Đại Tướng thủ lãnh trông coi Quỷ Thần ác, có 32 vị Đại Thần Vương, 28 vị Quỷ Vương, mỗi một vị vua đều thống lãnh hai vạn năm ngàn quyến thuộc theo hầu Nguyên Soái Đại Tướng.

48
Nếu người hành Pháp này. Trước tiên vẽ bày một vị Đại Lực Thần Tướng. Hoặc trên hai bức, ba bức, bốn bức trên lụa tốt… vào ngày mồng 1 tháng 8 thì bắt đầu vẽ, hoặc tự mình vẽ hoặc nhờ người vẽ đều được. Trước tiên giữ Trai (Upoṣadha, hay Upavāsa: thanh tịnh, sám hối tội chướng) 7 ngày, mặc áo thượng diệu, tắm gội sạch sẽ, liền thọ nhận Trai Giới. Ở trong một Tịnh Thất treo phan, hoa… làm một Hỏa Đàn lớn cao một xích (1/3 m). Trên Đàn đốt than cứng nhúm lửa. Liền lấy 1008 đoạn cây có nhựa màu trắng (bạch trấp mộc). Lấy mè (hồ ma), gạo tẻ (cánh mễ), Mật, váng sữa (lạc) với hương hoa… tụng Chú một lần thì một lần thiêu đốt… Khi hết vật này xong liền dùng màu sắc đẹp tốt an trên đàn, Chú vào 108 biến, đừng dùng keo nấu bằng da thú hòa màu sắc, nên dùng nước cốt của Bạch Đàn, nước cốt của Huân Lục Hương để hòa màu sắc. Một lần đi nhà xí thì một lần tắm gội. Vẽ A Tra Bạc Câu Nguyên Soái: thân màu xanh đen, thân dài Trượng (10/3 m) Xích (1/3 m) có bốn mặt: Mặt ngay phía trước là mặt Phật. Mặt bên trái là tướng nhe nanh cọp có ba con mắt đỏ như máu. Mặt bên phải là mặt vị Thần với tướng giận dữ cũng nhe nanh cọp, có ba con mắt, hai bên có răng nanh, râu, tóc. Một mặt trên đầu là tướng ác cũng có ba con mắt, nhe nanh cọp, mắt đỏ như màu máu, dùng con Rồng đỏ quấn quanh búi tóc trên đầu, trên đỉnh đầu bốc lửa cao vót. Thân có tám tay với Rắn quấn: Bên trái: tay bên trên cầm bánh xe, tay thứ hai cầm cây giáo, tay thứ ba cùng với tay thứ ba bên phải để ngay phía trước chắp lại làm Ấn cúng dường, tay thứ tư bên dưới cầm sợi dây. Bên phải: tay bên trên cầm Bạt Chiết La (Vajra: chày Kim Cang), tay thứ hai cầm cây gậy, tay thứ ba tác Ấn (Ấn cúng dường), tay thứ tư bên dưới cầm cây đao. Tức trên cổ tay, cánh tay đều có Rắn quấn. Mặc áo giáp có bảy báu giao chéo nhau. Trên bắp tay đều có Rồng quấn rũ xuống trước ngực lộ đầu Rồng có ba mặt màu đỏ vàng, hai mắt, ngậm miệng…. hai mặt trái phải bên trên đều có màu xanh đậm. Mặt bên trên màu trắng vàng, mặt bên trái màu trắng, mặt bên phải màu đen đỏ, mặt phía trước màu trắng xanh. Tay đều màu xanh dùng da đầu con voi quấn bám xéo cẳng chân, chân đạp lên hai Dạ Xoa màu đen. Vị Thần ấy làm tướng cực ác, dạng mạnh bạo đáng sợ. Làm như hình phấn tấn lúc trước Hai bên trái phải làm bốn vị Thị Giả (Ante-vāsin) Bên trái vẽ Đề Đầu Lại Tra (Dhṛta-rāsṭra), Tỳ Lâu Lặc Xoa (Virūḍhāka). Bên phải vẽ Tỳ Lâu Bác Xoa (Virūpākṣa), Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa) đều là tướng Đại Sân, đội mão hoa bảy báu, thân khoác áo giáp vàng tinh tế, đầu Rồng làm vòng xuyến đeo ở cánh tay, áo Trời, bảy báu quấn ràng bắp đùi với giày, chân đạp lên Dược Xoa (yakṣa). Đề Đầu Lại Tra cầm cây đao đè xuống, Tỳ Lâu Lặc Xoa cầm cây đinh ba, Tỳ Lâu Bác Xoa đè lên cây Kiếm. Tỳ Sa Môn cầm cái chày. Bốn Thiên Vương đều thống lãnh quyến thuộc. Thiên Vương ở phương Đông thống lãnh Càn Thát Bà Tướng Quân cầm cái chuông lắc tay (đạc linh). Thiên Vương ở phương Nam thống lãnh Cưu Bàn Trà Vương cầm cung tên. Thiên Vương ở phương Tây thống lãnh Long Vương cầm cây kiếm. Thiên Vương ở phương Bắc thống lãnh Dược Xoa Vương cầm cây gậy (phục đột). Trên đầu vị Thần ấy có mây màu đen đỏ nổi lên Bên dưới bàn chân của Thiên Vương ở bốn phương, làm hai Đồng Tử áo xanh, bên phải cầm giấy bút, bên trái cầm nghiên mực. Trước mặt Thần làm một vị Trời đầu đội lò hương cúng dường. Cần phải thật sạch sẽ mà làm thì điều mong cầu được như ý. Nếu muốn cầu Thần (Devatā) hiện ra. Vào ngày mồng bảy tháng bảy, ngày mồng ba tháng ba… gom tất cả cỏ cây, hoa phơi khô trong bóng râm, hoa lúa đậu, hoa
49
gạo, bơ, Lạc, Mật… thiêu đốt thời tất cả Thiên Thần, tám Bộ Quỷ Thần đều vui vẻ hiện thân. Phàm Đàn Tràng cao thấp, lớn nhỏ tùy theo phần sức mà làm. Nếu chẳng thể làm Đàn cao thì Đàn bằng phẳng cũng được. Đào xuống đất ba Xích (1 m) loại bỏ đất xấu ác, ngói, đá, rễ cây… lấy riêng đất sạch lấp đầy rồi nện cho chắc. Trước tiên dùng hương xoa tô ba lần, liền dùng phân bò chưng nấu loại bỏ khí của đất xấu ác. Lấy nước cốt hòa với bùn hương xoa chà Đàn, dùng năm màu sắc vẽ an xong. Phía trước tòa ngồi của Thần mỗi mỗi đều để mâm thức ăn cúng dường. Bốn cửa đều đốt một lò hương, đao, tên, cung, gậy đều y như Đàn Pháp của Khổng Tước Vương, giăng dây, nhiễu quanh Đàn. Đào xuống đất một Thốn (1/3 dm) chôn hạt cải trắng (bạch giới tử). Bốn góc để bình nước thơm, bốn góc cửa để cái gương. Mùa Xuân, mùa Hạ thì rải tán cây cối, cỏ hoa. Mùa Thu, mùa Đông thì rải tán hoa đủ màu. Một ngày một đêm thay đổi thức ăn, ra vào đều mặc áo sạch, đến nhà xí thì tẩy rửa sạch sẽ, ra khỏi nhà xí thì tắm gội một lần. Một ngày một lần sáu Thời vào Đàn, tụng Chú một lần vào Đàn nhiễu bảy vòng hành Đạo, lễ bảy lạy, cầm hương hoa hướng bốn phương khải cáo chư Phật, Bồ Tát, chư Thiên, Thiện Thần tám Bộ. Tay cầm hương hoa hướng bốn phương khải thỉnh là: “Đệ Tử (họ tên là…) phụng thỉnh mười phương chư Phật, chư Đại Bồ Tát, tất cả Hiền Thánh, bậc có Thiên Nhãn nhìn thấy con, nguyện xin bậc có Thiên Nhĩ lắng nghe. Nay tại nước (tên là…), Đệ Tử (tên là…) vào Đạo Tràng. Nguyện xin chư Phật Bồ Tát, tất cả Hiền Thánh chứng biết cho Đệ Tử” Đảnh lễ 7 lần, khải cáo từ tư tưởng của mình: “Tín hiệu của âm thanh ấy vòng khắp nười phương, trước mặt chư Phật, trước mặt tám Bộ Trời Rồng”. Liền đốt hương, rải hoa, buồn khóc, Sám Hối, cúng dường. Xưng tên của Ta (A Tra Bạc Câu) 3 lần “Nam mô A Tra Bạc Câu Quỷ Thần Đại Tưóng. Nguyện hưng Đại Từ Bi thống lãnh quyến thuộc đi vào Đạo Tràng của con” Liền đốt hương, chuyên Tâm cúng dường. Lúc đó, Ta (A Tra Bạc Câu) triệu tập tám Bộ Trời Rồng, tất cả Quỷ Thần đi vào Đạo Tràng. Khi đi vào bên trong Đạo Trường thời trăm vật tự kêu vang, Thiên Hạ dấy lên gió bụi lớn, có một tiếng kêu lớn dạng như tiếng Trời long đất lở (thiên băng). Hành Giả đừng sợ, Lúc phát ra tiếng thời bốn biển phun trào, núi Tu Di chấn động, tất cả trùng thú đều sợ hãi bỏ chạy. Hoặc thấy Ta hiện hình Bồ Tát, hoặc thấy Ta hiện hình Đại Tướng, hoặc thấy Ta hiện hình Kim Cang Đại Nộ, hoặc thấy Ta hiện hình Đế Thích… đều chẳng sợ hãi, chỉ tụng Chú cúng dường. Hoặc nói, hoặc chẳng nói, đều lễ bái cầu nguyện. Khi Ta ban cho Nguyện ấy thời lại ban cho khí lực khiến được vui vẻ. Hoặc thấy hư không trong Thiên Hạ có Quỷ Thần cầm binh khí, gậy gộc thì đừng sợ hãi. Vào Đạo Tràng đều nên hô gọi Bộ Lục, Quan Thuộc của Ta. Tay cầm lò hương, quỳ gối, Tâm cung kính Nam mô Phật Đà Da Nam mô Đạt Ma Da Nam mô Tăng Già Da Nam mô tất cả chư Phật ở mười phương Nam mô hai mươi tám Bộ Quỷ Thần Đại Tướng Quân Con đều quy y các Ngài. Nay con muốn nói Chương Cú, khiến cho ước nguyện của con được như ý, thành cát tường. Tất cả hàng Quỷ Thần trụ ở phương trên, phương dưới, phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn góc (Đông Bắc, Đông Nam, Tây nam, Tây Bắc). Nay con lưu giữ Ngài, Ngài nên tập hội, tùy theo chỗ của con, khiến thống lãnh Kim Cang Mật Tích, Thiện Thần hộ giữ Tháp, Ma Hê Thủ La, Tam
50
Thập Tam Thiên Vương, Đại Tự Tại, Na La Diên với Tỳ Nữu Thiên Vương, Đại Biện Vương Thần, Quỷ Tử Mẫu Thần, Ngũ La Quan Thuộc Đại Quỷ Thần Vương cùng với Quyến Thuộc, Thiên Ma Ba Tuần, Tán Chi Đại Tướng, Ma Ni Bạt Đà, Ma Ha Ca La, Chiên Đà La Ma Ni với Ma Đăng Già, Kiên Lao Địa Thần, Đàm Ma Kiệt Sa La, Tỳ Ma Chất Đa La, A Nậu Đạt Vương, Mục Chân Lân Vương, Y Bát Đạt Tra Vương, các Trì Chú Vương, Đại Biện Thiên Vương, Thiện Nữ Công Đức Thiên Vương, mười bốn La Sát, Hắc ám Thiên Vương, Khổng Tước Vương, Đại Kim Sí Điểu Vương, Giáng Oán Điểu Vương, Diệu Âm Phong Vương, Sư Tử Hống Vương, Đại Thiện Kiến Vương, Càn Thát Bà Vương, Khẩn Na La Vương, Tỳ Xá Xà Quỷ Vương, Dược Xoa Đại Tướng, Bố Đan Na Vương, Tần Bà Tố Lô cưu Bàn Trà Vương, Tích Trừ Tinh Mỵ Đạm Quỷ Thần Vương, tất cả Thần Vương của hai mươi tám Bộ, Tham Thần, Nhật, Nguyệt, Chư Thiên, Thiện Thần, Nam Đẩu ghi chép việc sống (chú Sanh), Bắc Đẩu ghi chép việc chết (chú Tử), Thiên Tào, Thiên Phủ, Thái Sơn Phủ Quân, Ngũ Đạo Đại Thần, Diêm La Đại Vương, Thiện Ác Đồng Tử, Tư Mạng, Tư Lục, Quỷ Thần trong sáu đường, Sơn Thần Vương, Hải Thần Vương, Phong Thần Vương, Thụ Thần Vương, Thủy Thần Vương, Kim Thần Vương Nay đều nghe rõ. Các Ngài thọ nhận hương hoa, thức ăn uống cúng dường của con. Ủng hộ cho Đệ Tử (họ tên…) với các quyến thuộc, khiến cho làm Pháp cầu nguyện được như ý, thanh cát tường” _Muốn vào Đạo Tràng thì đốt An Tức Hương, xưng tên của Thần 3 lần. Liền nhắm mắt, dùng Tâm suy nghĩ như cầm cây gậy vào Đàn xong, Chú vào nước sạch 21 biến rưới vảy bốn phương, sau đó đốt hương ở bốn cửa Đàn. Bên ngoài Đàn để mâm thức ăn thí cho các Quỷ Thần ăn. Bên trong Đàn để một vật khí. Nước Thạch Mật, nước Thạch Lưu, nước Bồ Đào, nước Mật, nước Miến, nước uống ngũ cốc, nước Lê đều để trong một vật khí an bên trong Đàn Bốn cửa để nước nóng thơm Bên ngoài của bốn góc để 41 cành Liễu Trên Đàn vẽ làm Bạt Chiết La (Vajra: chày Kim Cang), bánh xe lửa (hỏa luân), cây đinh ba, cây giáo, cái chày, một vật khí chứa nước uống Ngũ Cốc, một vật khí chứa váng sữa (lạc), 49 cái bánh tráng mỏng Sau đó kết Giới. Tay cầm lò hương, miệng nói rằng: “Chư Phật ba đời đã nói Thần Chú Cứu Chúng Sanh Đà La Ni”, như vậy xưng 3 lần. Pháp Đại Kết Giới y như Pháp của Khổng Tước Vương đều 3 biến xong, sau đó Tiểu Kết Giới Chú vào cây đao 108 biến, dùng tay cầm vạch trên đất làm giới hạn. Lại Chú vào tro rải ba lớp làm Đàn. Lại Chú vào hạt cải trắng (bạch giới tử) rải tán bốn phương. Làm xong, nghiến răng 3 lần, cầm cây đao lớn hạ xuống dưới xác định kết Giới Từ góc Đông Bắc đến góc Đông Nam. Đây là nơi mà Đông Phương Càn Thát Bà Vương cư trú, Đế Đầu Lại Tra thống lãnh Quan Thuộc Quỷ Thần Đại Tướng Quân thủ hộ phương Đông. Từ góc Đông Nam đến góc Tây Nam. Đây là nơi mà Nam Phương Cưu Bàn Trà Vương cư trú, Tỳ Lâu Lặc Xoa thống lãnh Quan Thuộc Quỷ Thần Đại Tướng Quân thủ hộ phương Nam. Từ góc Tây Nam đến góc Tây Bắc. Đây là nơi mà Tây Phương Long Vương cư trú, Tỳ Lâu Bác Xoa thống lãnh Quan Thuộc Quỷ Thần Đại Tướng Quân thủ hộ phương Tây.
51
Từ góc Tây Bắc đến góc Đông Bắc. Đây là nơi mà Bắc Phương Dạ Xoa Vương cư trú, Tỳ Sa Môn thống lãnh Quan Thuộc Quỷ Thần Đại Tướng Quân thủ hộ phương Bắc. Kết Tứ Thiên Giới này. Chú là: 伏向 句凸伏圳 凸卉 凸卉 先丁 泌 泌 亦 送扣 “Da bà, đàn để da bàn, để tha để tha, lạc dĩ, đẩu lâu đẩu lâu, nhĩ, toa ha” *)YABA DAṂTI-YABAṂ TITHA TITHA RAKI TRŪ TRŪ MI SVĀHĀ Chú 21 biến Giải Giới nói là: “Quỷ Thần bị cột trói trong chốn này. Nay Ta giải Giới, nghe xong thì ngươi tùy ý đi” Phàm ngay bên trong Giới. Trước tiên dùng nước sạch súc miệng, khiến cho miệng thanh tịnh, chẳng như thế thì khiến cho người bị mất sự hiệu nghiệm.

_Lại nữa, tiếp có Pháp vẽ Tượng. Phàm muốn cứu chúng sanh bị bệnh, ban cho tất cả mong cầu. Trước tiên vẽ một tượng Thần Tướng trên lục tốt, cao tám xích (8/3 m), làm hình rất giận dữ, có bốn cánh tay. Bên trái: tay bên trên cầm bánh xe lớn có ngàn cây căm (thiên phước đại luân). Bên phải: tay bên dưới tác Đại Nộ Ấn đem ngón cái đè trên lóng giữa của ngón giữa, ngón vô hanh, dựng thắng ngón trỏ, ngón út… ở đấu gối. Bên trái: tay bên dưới chống háng, bên phải: tay bên trên cầm Bạt Chiết La. Đội mão bảy báu, kết tóc đen mượt, mắt màu trắng nhìn giận dữ như treo cái chuông, môi trên cắn môi dưới, thân màu xanh đen đậm, dùng con trùng lớn làm cây côn, chân mang giày đạp lên hai Dược Xoa. Chỉ nên làm hình Đại Hùng nhanh chóng giết hại mạng rất đáng sợ. Hai bên trái phải vẽ hai Thiên Nữ đội mão bảy báu, đeo Anh Lạc, mặc áo Kiêu Xa Da (Kauśeya: áo tơ tằm), một vị cầm cây bút, một vị cầm cái nghiên mực. Dưới bàn chân, vẽ hai Đồng Tử áo xanh bưng cái bàn. Hai bên trái phải có 16 Thị Giả Hai bên trái phải của 16 Thị Giả đều làm một con sư tử, đứng theo thế dựng đuôi. Hai bên trái phải vẽ bốn vị Kim Cang: Đại Thanh Diện, Hỏa Đầu, Tồi Toái, Tô Tất Địa đều có bốn cánh tay cầm bánh xe, cái chày, cây gậy, cái mâu. Tiếp theo, vẽ Thiên Ma Ba Tuần với áo mão màu trắng, mặt màu đen xanh làm theo tướng giận dữ, tay trái cầm bánh xe, tay phải nhổ bứt cây A Lê quấn quanh cánh tay ba lớp. Tiếp theo, vẽ Tán Chi Đại Tướng Quân mặt áo giáp Đầu Bát (?) tay phải cầm sợi dây, tay trái cầm cây kiếm chống đứng. Tiếp theo, vẽ Tỳ Ma Chất Đa La A Tu La Vương có sáu cánh tay, trong hai lòng bàn tay có mặt trời, mặt trăng, bốn tay còn lại cầm cây búa, cây thương, cái chày, sợi dây. Tiếp theo, vẽ La Sát có 16 cánh tay, 8 mặt, mặt phía trước có 3 con mắt, mặt còn lại có 2 con mắt. Bên trái làm đầu heo, bên phải làm đầu ngựa, còn lại là đầu La Sát, há miệng lớn phun lửa mây. Tay đều cầm binh khí, gậy, đao, kiếm, bánh xe, cây giáo, cây gật sắt. Tiếp theo vẽ bốn vị Long Vương đều đội mão Rồng, mặc giáp, cầm đao. Tiếp theo, nên làm 4 vị Quỷ Thần, Dược Xoa, La Sát mặc áo lông, răng như cây đao, mắt đỏ như máu, móng vuốt bén nhọn, hình đáng sợ.
52
Bên phải làm bốn vị Kim Cang Mật Tích, Quân Trà Lợi Kim Cang có sáu cánh tay, đầu đều bốc lửa rực hướng lên trên, hai tay tác Ấn, cầm cái chày, cầm cây côn, cầm Bạt Chiết La, cầm gậy. Tiếp theo, làm Ô Xu Sa Ma Tướng Quân mặc áo giáp, tay gác chéo nhau, há miệng, trợn mắt nhìn xuống dưới. Tiếp theo, nên làm bốn vị Thiên Vương mặc áo giáp tỏa ánh sáng vàng, cầm cái chày, cầm cờ phan Tiếp theo, làm Ma Ni Bạt Đà (Maṇi-bhadra) mặc áo giáp, cầm cung tên Tiếp theo, làm bốn vị Dược Xoa Vương khoác da Đại Trùng, tóc rối bung như cỏ bồng, năm con mắt, ló răng nanh đến cái mũi, mắt màu trắng, móng vuốt như vuốt cọp dài bén, bốn tay cầm cây thương, đám lửa, cây đinh ba, cây đao. Tiếp theo, làm Ma Ha Ca La (Mahā-kāla: Đại Hắc Thiên) hai tay, hai con mắt, cầm cây đao ngắn, chân đạp lên Tỳ Na Dạ Ca, thảy đều hùng tráng đáng sợ. Làm cái lọng hoa bảy báu. Hai bên trái phải của cái lọng làm Đại Biện Thiên (Sarvasvatī), Công Đức Thiên (Śrī-devī) nương theo mây. Bên trong cái bàn của Công Đức Thiên an Anh Đào, bên trong cái bàn của Đại Biện Thiên rải hoa bảy báu. Hai vị Đồng Tử áo xanh Trung ương làm lò hương bảy báu. Dùng màu vẽ cực cực tốt. Người vẽ trì Giới, đừng ăn ngũ tân. Nếu muốn ăn thì Ta dùng Bạt Chiết La đâm lên trái tim kẻ ấy, khiến cho người vẽ hộc máu, tám Đại Kim Cang nghiền vỡ cái đầu thành bảy phần. Nếu thanh tịnh dụng Tâm vẽ thì Ta khiến cho người ấy hoảng hốt chẳng biết tự được Thần Tướng ấy, liền khiến cho người vẽ đắc được tài bảo.

_Nếu muốn làm hình Đại Nộ, tức hình tướng rất giận dữ, mặc áo giáp vảy rồnfg, đầu đội mão dát vàng, bảy báu, chân mang giày rách đạp lên hai La Sát, đều mặc áo lông, đeo Anh Lạc, bảy báu. Thị Giả y như Thân phẫn nộ có ba mặt: mặt bên trái có khuôn mặt Đại Nộ, mắt đỏ, miệng há lớn. Mặt bên phải có mắt màu tràng tròn lớn, môi trên cắn môi dưới. Mặt phía trước màu xanh, làm hình Đại Bi, ngậm miệng. Tay trái chống háng, tay phải tác Ấn tức là hình hướng thẳng ngón trỏ về phía trước, trên đầu trong hư không rải hoa như mưa. Phía sau mỗi một vị Thần đều có Dược Xoa cầm cờ phan. Một bức vẽ gom chung một trăm người vậy. _Nếu muốn được tất cả sự mong cầu đều tốt lành, liền vẽ hình Bồ Tát. Làm hình Hư Không Tạng Bồ Tát, đầu đội mão hoa bảy báu, hai tay: một tay cầm hoa sen, một tay tác Thí Vô Úy, mặt mắt dài, chỉ nên làm tướng Đại Từ Bi. Thị Giả có bốn người, Sứ Giả có tám người. Lại làm Kim Cang lúc trước, bốn Thị Giả là Tán Chi, A Tu La, hai vị Long Vương. Long Vương cầm cây đao, Tu La y như lúc trước, Tán Chi cầm cung tên. Phía sau mỗi một vị Thần có một con Quỷ cầm cờ phan. Chẳng dùng Thiên Nữ, làm hai người có dạng như Phi Thiên, hình vị Tiên nâng mâm hoa, đứng cúng dường. Trung ương của Đàn ấy an vật khí đựng thức ăn ở hai bên, đừng cùng với thực vật sanh dưới nước… dùng cúng dường, một trăm cây hoa có cọng cao hai xích (2/3m). Bên trong Đàn, an 28 cây Thần Phan. Tượng gồm có 28 Bộ Tướng Quân hộ Giới
53
Bên trong Tiểu Giới an phan tạp sắc ở năm phương. 12 lá Phan năm màu treo trên cây tre. Vào Đàn một đêm, tức có thể cột trói người, khiến cột trói liền cột trói, khiến thả thì chẳng che chắn bảo hộ. Người Thượng Lợi: 3 ngày thì vị Thần hiện trước mặt, người Trung Lợi: 7ngày, người Hạ Lợi: 21 ngày. Nếu chẳng nhìn thấy Thần, tức thân mình có chướng bên trong, liền tỏ bày sám hối. Đừng giận dữ mắng chửi người, số tụng tuy nhiều nhưng chẳng được khí lực, sau khi chết bị chìm hẳn nơi Địa Ngục, riêng tăng thêm sự đau đớn, khi gặp Đức Phật ra đời mới bắt đầu được thoát khỏi, thọ nhận thân súc sanh: do được làm vua nên hùng mãnh không gì sánh nổi, luôn chẳng thể ngậm miệng lại được, phát ra nhiều tiếng kêu la từ xa, con người chẳng muốn nhìn thấy. Người chẳng thể Trai Giới thì thứ nhất chẳng được ăn rượu, thịt, ngũ tân. Tất cả người bệnh cũng chẳng được ăn. Nếu người ăn ngũ tân thì Kim Cang kéo lưỡi, chẻ đầu vỡ thành bảy phần. Nếu chợt ăn lầm thì lấy một chén nước cốt của phân bò, uống vào rồi sám hối, niệm tên Quán Thế Âm Bồ Tát 108 biến. Lại tụng Chú của Ta 21 biến, chú vào nước tắm gội. _Nếu muốn trị bệnh. Trước tiên chọn lấy một phòng thất thanh tịnh, bốn vách trét bùn thơm một lần, đất bên trong phòng đều dùng bùn phân bò tô đắp, làm cái Đàn dài 6 khuỷu tay, cao ba thốn (1 dm), mở bốn cửa, treo lục, phan, lọng, dựng hai cây đao, 10 mũi tên, 7 vật khí chứa nước uống. Sớm tối thay áo, thức ăn uống, quả trái như Pháp cúng dường, 21 cây hoa Đàn an tòa ngồi màu tím thích ứng với Chú Sư, mặt Tây an tòa ngồi của bốn Thiên Vương, bốn góc bốn cửa an lò hương, lòa lá sen, tòa ngồi của Long Vương, an tòa ngồi của Kim Cang, an tòa ngồi của 28 Bộ Tướng Quân, chính giữa an tòa ngồi của Đại Tướng, an tòa ngối của Phật, Bồ Tát. Sớm tối lễ bái “Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật Nam mô tất cả chư Phật ba đời ở mười phương Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Nam mô các Thiên vương Đế ở phương trên Nam mô tất cả Hiền Thánh Nam mô Quỷ Thần Đại Tướng A Tra Bạc Câu Nam mô Đại Phạm Thiên Vương Nam mô tất cả Kim Cang Lực Sĩ Nam mô Tứ Thiên Đại Vương Nam mô Nhị Thập Bát Bộ Dược Xoa Tướng Quân Nam mô Tứ Thập Nhị Bộ La Sát Sa Chúng Nay đều quy y các Ngài. Nay tôi muốn nói như Chương Cú của Chú này, khiến cho Chú Pháp của tôi như Pháp thành cát tường. Tất cả các hàng Quỷ Vương ở phương trên, phương dưới, bốn góc, hư không, hàng cư trú trên mặt đất với dưới nước, Đại Lực Dược Xoa Vương thảy đều nghe rõ. Nay tôi triệu mỗi mỗi vị nên tập hội, tùy theo tôi sai khiến. Ấy là: Côn Đệ Dược Xoa Đại Tướng, Câu Tra Xỉ Dược Xoa Đại Tướng, Chiên Trà Dược Xoa Đại Tướng, Ế La Diệp Dược Xoa Đại Tướng, Chất Đa La Dược Xoa Đại Tướng, Khổ Bạt La Dược Xoa Đại Tướng, Phệ Suất Nộ Dược Xoa Đại Tướng, Đại lực Dược Xoa Đại Tướng, Tô Bạt Tra Noa Dược Xoa Vương, Đại Thần Dược Xoa Đại Tướng, Tướng Quân Càn Thát Bà Dược Xoa Đại Tướng, Bột Lợi Sa Dược Xoa Đại Tướng,
54
Tự Tại, Na La Diên, Khoáng Dã Kim Tỳ La, Tăng Thận Nhĩ Da Dược Xoa Đại Tướng, Chánh Liễu Tri Trấn Quân Dược Xoa Đại Tướng, Ma Ni Bạt Đà Dược Xoa Đại Tướng, A Lợi Đà Dược Xoa Đại Tướng, Hàn Diệp Dược Xoa Đại Tướng…Các Ngài thọ nhận hương hoa, thức ăn uống cúng dường của tôi với các Quyến Thuộc, nhận lấy điều mà tôi đã sai khiến, khiến làm thành tựu”

_Chỉ muốn trị bệnh. Sáng sớm đốt Bách Hòa Hương, tụng tên của vị Thần 7 biến, tên của 28 Bộ Dược Xoa Đại Tướng 21 biến, nhiễu quanh nhà rải hạt cải trắng (bạch giới tử) làm giới hạn. _Nếu có người bị bệnh Quỷ, chẳng hỏi nhiều ít, vị Thần tự cột trói tự đánh, chẳng cần người nói. Hành Giả chỉ nói rằng: “Cấp cấp, La Pháp, Miêu Quỷ, Hồ Mỵ, Tinh Mỵ” nên Chú 21 biến liền khỏi bệnh.

_Nếu có phụ nữ trị bệnh chẳng nhất định, nên khiến người chồng cùng đi theo cùng chữa trị, chẳng như thế thì đừng chữa trị. Nếu chữa trị thì đừng cười, cùng hướng vào nhau xong, tức khiến đi.

1_Nếu trị bệnh tinh quỷ thì nên sai khiến Quyến Thuộc của Thanh Diện Ni Lam Bà 2_Nếu trị bệnh Mỵ thì nên sai khiến Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương 3_Nếu trị bệnh Thần thì nên sai khiến Đại Tồi Toái Kim Cang Lực Sĩ 4_Nếu trị bệnh Võng Lượng thì nên sai khiến Tây Phương Thiên Vương 5_Nếu trị bệnh Quỷ thì nên sai khiến Ma Ha Ca La Đại Thần Vương 6_Nếu trị bệnh Mãnh Quỷ thì nên sai khiến Nam Phương Thiên Vương 7_Nếu trị bệnh gầy ốm thì nên sai khiến Ma Đăng Già Đại Thần Lực Thiên Vương 8_Nếu trị bệnh Cốt Chưng (một dạng bệnh do Âm hư lao nhọc) thì nên sai khiến Cưu Bàn Trà Vương 9_Nếu trị bệnh Bạch Hổ thì nên sai khiến Ma Hê Thủ La Thiên Vương 10_Nếu trị Oan Gia thì nên sai khiến Tỳ Xá Già Quỷ Vương 11_Nếu khiến cho Quỷ chạy tan thì nên sai khiến Kim Cang Mật Tích 12_Giáng phục tất cả thú ác thì hô gọi Sư Tử Hống Vương 13_Trị Thiên Hành Bệnh Khí thì hô gọi Bạch Hắc Long Vương 14_Trị tất cả trùng độc thì hô gọi Giáng Oán Đồng Lực Điểu Vương 15_Nếu đánh Quỷ thì hô gọi Hắc ám Thiên Vương 16_Trị phục các Rồng thì hô gọi Kim Sí Điểu Vương 17_Nếu trị rắn độc thì hô gọi Đại Mẫu Cưu Bàn Trà 18_Giáng phục Ma Quỷ thì hô gọi Thiên Ma Ba Tuần 19_Giáng phục tinh của cây (thụ tinh) thì sai khiến Hỏa Đầu Kim Cang 20_Giáng phục bệnh bên trong thì sai khiến Quân Trà Lợi 21_Nếu tịch trừ trộm cướp thì hô gọi Ma Ni Tán Chi Bạt Đà 22_Giáng phục Thần núi thì hô gọi Mục Chân Lân Vương 23_Muốn hưng sanh cầu lợi thì hô gọi Công Đức Thiên Vương 24_Muốn tùy theo thân ra vào thì hô gọi Thập Tứ La Sát sa Vương 25_Nếu tất cả việc chẳng quyết đoán được thì nên hô gọi Ta, A Tra Bạc Câu Đại Tưóng.
55
_Phàm muốn sai khiến Thần đều nên chí Tâm đảnh lễ, đừng khinh mạn Thần Vương. Sai khiến xong, lại lễ rằng: “Thật xấu hổ vì không có cúng dường. Xin cúi đầu cầu mong thương xót” Phàm muốn tụng Chú thì nên tắm gội sạch sẽ, súc miệng 7 lần. Sáng sớm cấm người, lấy nước hoa dưới giếng chứa đầy trong vật khí bằng đồng, hướng mặt về phương Đông, uống chín lần. Phàm trị bệnh, trước bữa ăn, hợp tất cả xong, rồi đưa Thần đi. Phàm cấm người tức khiến cho sáu đường được thanh tịnh, nên biết vậy. Phàm người trì niệm, được sức Chú xong, tùy theo Tâm dùng. Dùng một trị cả vạn, có thế biết điều này vậy. _Pháp 1: Nếu người bị đau buốt răng, răng nanh chẳng thể nhẫn chịu được. Dùng cây đao chỉ 3 lần liền khỏi. _Pháp 2: Nếu người bị đau tim. Dùng cây đao chỉ vào, liền khỏi _Pháp 3: Nếu người bị đau đầu, bệnh về con mắt. Dùng cây đao chỉ vào, liền khỏi _Pháp 4: Nếu người bị bệnh Đới Hạ (bệnh tật của phụ nữ). Chú vào cây đao 100 biến rồi chỉ vào, liền khỏi _Pháp 5: Nếu người bị bệnh trĩ. Chú vào cây đao xong, hô gọi Giáng Oán Điểu Vương mổ ăn, 3 ngày liền khỏi _Pháp 6: Nếu người bị bệnh Lỵ. Chú vào nước hoa dưới giếng 3 lần rồi cho uống vào, lại dùng cây đao đâm chích dưới rốn, liền khỏi Lại tay của Chú Sư chẳng được chạm vào người nữ, lại chẳng phạm vào ngũ tân, chẳng nên dùng đao chỉ thẳng. Dùng tay nắm quyền, duỗi ngón trỏ chỉ vào thì tất cả bệnh dưới bàn tay liền khỏi. _Pháp 7: Nếu thấy tất cả cọp, sói, sư tử, dã can...ḍùng ngón tay chỉ vào thì miệng bị bế tắc, chẳng thể hại người. _Pháp 8: Nếu cọp, sói bạo loạn người dân trăm họ. Dùng tay Ấn chỉ, miệnh nói rằng: “Trăm thú hãy nghe cho kỹ! Phụng Sắc Chỉ của Thượng Đế”. Cọp, sói nghe xong tức nằm ép xuống chẳng dám đứng dậy. _Pháp 9: Nếu chim muốn chộp bắt. Dùng bàn tay chỉ vào, tức chẳng thể gây hại. _Pháp 10: Nếu chó cắn người. Dùng tay chỉ vào, tức ở trên đất vẽ Sư Tử Hống Vương chộp bắt cọp thì con chó liền đánh mất Tánh, bỏ đi. _Pháp 11: Nếu muốn đi xa. Chú vào bàn chân 21 biến rồi đi thì bàn chân chẳng đau nhức, cũng chẳng bị mỏi mệt. _Pháp 12: Nếu người trì Pháp tụng Chú đi vào trong nước thì Thủy Thần nâng đỡ đưa đi qua _Pháp 13: Chú vào lửa 3 biến, nghiến răng 3 lần, miệng nói: “Hỏa Thần Vô Kỵ Quang cấp cấp” rồi đi vào thì chẳng bị lửa thiêu đốt. _Pháp 14: Muốn khiến cho người kính nhớ. Lấy tất cả hoa, lá với hạt của cây Hợp Hoan (Śiriṣa) nghiền giã thành bột. Lấy nước cốt Huân Lục Hương hòa làm một viên tròn lớn như viên bi, dùng dao cắt phá thành hai mảnh vuông vức, một mảnh viết họ tên của người, một mảnh tự viết tên của mình, rồi gắn hai miếng lại sao cho hai miếng cùng hướng hợp mặt với nhau, Chú vào 3 biến, miệng nói rằng: “Tôi tên là… mau trục gấp tên đó…”. Ở phần đầu của đêm sai khiến Tham Thần truy đuổi, lại bái 3 lạy thì người lúc trước ấy liền đánh mất Tánh, đi đến không có nghi ngờ. _Pháp 15: Nếu tất cả người ác, muốn khiến họ khuất phục, khiến cho hòa giải. Trước tiên làm một Mộc Nhân (người bằng cây) dài một thốn (1/3 dm), khiến người
56
cây hướng mặt về bức vách ở phương Bắc, Chú Sư hướng mặt về phương Đông, tụng Chú 120 biến, một ngày bỏ một vốc đất, khi người cây kia bị lấp hết thì người ấy liền đi đến. _Pháp 16: Muốn chặt đứt tất cả người miệng lưỡi. Tinh tâm dụng ý thì không có gì chẳng hiệu nghiệm. Viết tên người ác trên mảnh giấy, bỏ Phù vào gói lại, để trong chéo áo thì người thấy đều vui vẻ _Pháp 17: Lấy máu của người bị chết bởi binh đao, viết tên gọi của người ác, lại vẽ hình người ác, dùng Phù an trong miệng, ngậm trong miệng thì tất cả người ác liền nương theo cái lưỡi tự đưa vào dạ dày, kết dính dưới cùng bị đâm giã, tùy ý đâm giã trong 3 ngày thì người ác tự cột trói chẳng ngừng. _Pháp 18: Dùng Chu Sa hòa với rượu đắng, viết tên người ác, để dưới bàn chân dẫm đạp lên, (thì người ác) chẳng nói được, môi xanh nhợt, người nhìn thấy mặt liền mắng chửi… (lấy Phù) bỏ đi thì mới ngưng dứt. _Pháp 19: Nếu truy bắt Quỷ Thần. Để Phù trước chỗ ngồi, dùng vật hợp lại thì Quỷ liền đến. Nếu sai khiến đi liền đi. _Pháp 20: Truy bắt 28 Bộ Chúng Lạc Quỷ. Viết Phù hợp lại, Chú 3 lần, nghiến răng 9 lần, liền đi đến. _Pháp 21: nếu truy bắt Khởi Phương Quỷ. Viết Phù an bên dưới vật, Chú 3 lần liền đi đến. _Pháp 22: Nếu truy bắt Phù Du Quỷ. Viết Phù hợp lại, liền đi đến. _Pháp 23: Nếu triệu tất cả Quỷ Thần Vương trong Diêm Phù Đề. Dùng 3 chén chứa đầy sữa, hai chén cơm, hai chén bánh, đốt Huân Lục Hương rồi chỉ hô gọi tên, cúng tế… một lúc thì có người mặc áo xanh đi đến, phút chốc (thì Quỷ Thần Vương) đều đến. _Pháp 24: Tập hợp tất cả cọp, sói, trăm thú. An Phù hợp lại thì tất cả cọp, sói, trùng thú tự đến tụ tập. Lấy Phù ra bỏ đi (thì muông thú) liền đi. _Pháp 25: Kết Phù ấn trến cây thì tất cả chim bay đều đến tụ tập. Bỏ Phù đi thì (chin chóc) bay đi. _Pháp 26: An Phù Chú vào nước uống, khiến cho người chẳng quyên, được thông minh. _Pháp 27: Cầm Phù gặp mặt thì Quan, Trưởng Giả đều ưa thích. _Pháp 28: Muốn khiến ngời bên ngoài, từ xa đi đến. sai khiến Ma Ha Ca La đến bắt, sau đó làm Pháp an Phù hợp lại thì người ấy chẳng hay biết, liền đi đến. _Pháp 29: Chú vào ngón trỏ của tay phải rồi chỉ, thì người nữ được chỉ vào, chẳng nhớ người nam nữa. _Pháp 30: Chú vào cây đao rồi chỉ vào cái thuyền, phân bố con người như thân bên ngoài, tức thuyền liền dừng lại. _Pháp 31: dùng cây đao chỉ vào cây cối, Chú vào một ngàn biến thì cái cây tự nhổ bứt ra _Pháp 32: Chú vào cây đao 21 biến, chỉ vào nhọt ác ngay bên dưới liền khỏi. Hoặc 49 biến, 108 biến ắt diệt ngay _Pháp 33: Chú vào cây đao 21 biến, chỉ chim bay thì lông rụng xuống như mưa _Pháp 34: Chú vào cây đao 21 biến. Muốn đi xa bốn phương, cầm cây đao theo tức không có chướng ngại _Pháp 35: Muốn vào rừng, núi. Chú vào cây đao 21 biến rồi đi vào thì không có nạn thú ác _Pháp 36: Nếu có bệnh sốt rét ác, bệnbh Quỷ hoặc hai ngày phát bệnh một lần, hoặc ba ngày phát bệnh một lần. Đều giận dữ Chú liền khỏi. Nếu chẳng ngưng dứt, Chú 3 biến tức Quỷ tự nói rồi đi, liền được trừ khỏi.
57
_Pháp 37: Nếu bị bò cạp cắn. Chú vào gừng tươi một biến, đâm giã rồi bôi vào liền khỏi. _Pháp 38: Nếu bị ong chích, Chú vào cây đao 3 biến, nghĩ định liền khỏi _Pháp 39: Nếu bị rắn cắn, Chú vào nước nóng pha muối rồi tắm gội liền khỏi. _Pháp 40: Nếu bị Yểm Cổ (một loại vu thuật gây tai học cho con người). Chú 21 biến, dùng cỏ tranh phất phủi, vãi tung ra liền khỏi. _Pháp 41: Nếu Quỷ Thần khó giáng phục. Lấy lớp da trên đầu gối của con lừa bỏ vào trong lờ hương thiêu đốt, xông dưới lỗ mũi, tức (Quỷ Thần) chịu phục tự ngã xuống, tự nói. Hoặc chửi mắng chẳng ngừng. Chú vào hạt cải trắng thiêu đốt kèm đánh lên trên mặt tức Quỷ Thần cúi xuống hộc máu. _Pháp 42: Nếu Rồng làm mưa gió ác. Chú vào cây đao 21 biến, chỉ trong mây tức máu tuôn xuống, hoặc ánh sáng tỏa ra. _Pháp 43: Nếu người nói năng chậm chạp. Mỗi ngày mồng một, chỉ dùng cây đao đâm chích vào miệng, không quá ba lần liền khỏi. _Pháp 44: Nếu bị nhện cắn. Hô gọi Giáng Oán Vương mổ, liền khỏi _Pháp 45: Nếu bị bệnh thời khí. Chú vào cây đao đâm chích trên miệng, kèm Chú vào nước phun lên liền khỏi. _Pháp 46: Nếu Chú vào người bị bệnh Quỷ. Biết tên họ, cầm cây đao đi đến, tức độtg ngột đánh 3 lần, liền khỏi. Thu bắt giao cho ngục của Nam Đẩu, sau 7 ngày thì thả ra. _Pháp 47: Nếu người tranh giành lẫn nhau. Chú vào liền hòa giải _Pháp 48: Chú vào con rắn ba biến tức chẳng gây hại cho người, lấy bỏ trong Nội y (áo lót bên trong) cũng được, thả ra liền đi. _Pháp 49: Hoặc gặp thú ác. Giận dữ quát tháo tức (thú ác) bị mất Tánh mà ngã xuống. Người chỉ tụng Chú được Thần Lực thì vào nước chẳng bị cuốn chìm, vào lửa chẳng bị thiêu đốt, vào cửa Quan chẳng bị giận dữ, vào hang cọp chẳng bị thương tích. _Pháp 50: Nếu Chú trong tháng mùa Hạ thì hay khiến cho tuyết rơi xuống _Pháp 51: Nếu Chú trong tháng mùa Đông thì hay khiến cho mưa tuôn xuống _Pháp 52: Chú, thì Tinh Thần (các ngôi sao) đều bị diệt tan _Pháp 53: Chú, thì mặt trời, mặt trăng đều không có ánh sáng _Pháp 54: Chú, thì trộm cướp xa gần tự cột trói đi đến _Pháp 55: Chú vào con bò, khiến nó chẳng đi được, cũng chẳng ăn cỏ uống nước được, một tháng nhưng chẳng chết _Pháp 56: Chú vào nước được thành sữa nóng _Pháp 57: Hoặc ở trên đảnh núi cao, tụng 108 biến tức có Quỷ ác, Dược Xoa đi đến. Người trì Chú đừng nhìn xem, trong phút chốc có hằng hà sa Quỷ vây quanh thì người trì Chú đừng nói chuyện, phút chốc không có một ai. Sau đó, Hành Giả chú vào cây đao thì hay dời núi ngăn sông, tồi phục Ngoại Đạo, tất cả Thần không thể chống đối được. Quỷ nhìn thấy Hành Giả như Ta (A Tra Bạc Câu) không có khác _Pháp 59: Chú vào cây Thạch Lựu một biến, dùng bàn tay đè lên thgi2 Quỷ nhín thấy là cây đao. _Pháp 59: Chú vào Tà Tư, chẳng kể nhiều ít, dùng cây đao vạch lên đất vây quanh, ắt bị cột trói, khóc lóc nói. _Pháp 60: Chú vào người có bệnh khó khỏi. Do nghiệp nặng của thân đời trước, liền thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát cứu độ. Vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát xong, dùng Diệt Tội ấn mà ấn _Pháp 61: Muốn trị bệnh Ma, nên xưng Bất Không Quyến Sách Bồ Tát ba tiếng, thì bệnh được trừ khỏi
58
_Pháp 61: Muốn ở nhà của người khác trị bệnh. Nên truy hỏi Táo Quân tức biết tốt xấu. Nếu chẳng thật thì sai khiến Nam Đẩu Quân đánh cấm thì người nữ kia liền báo Thiện, ác. Phàm người bệnh có niềm tin thì chữa trị, nếu là Nhất Xiển Đề (Icchantika: kẻ chặt đứt căn lành, chẳng đủ niềm tin) chẳng tin thì chẳng nên chữa trị, rất khó khỏi bệnh. _Pháp 63: Chỉ Chú vào nước, phun thì tất cả người bệnh cũng được trừ khỏi _Pháp 64: Nếu đàn bà không có con. Khiến tắm gội sạch sẽ, chí Tâm quy mạng Tam Bảo, dùng một hạt Bạch Giới Tử (hạt cải trắng) Chú vào 1008 biến rồi cho nuốt vào tức có con. Lại nếu Đệ Tử của Ta thì Ta tự hộ trì, không có Phi Nhân nào được dịp thuận tiện gây hại, ở trong tất cả Quỷ Thần tác Tâm cung kính, trong tất cả Chú Sư tác Tâm anh em, luôn hành bình đẳng, đừng khởi Tâm cao ngạo, ngã mạn. Lại ở trong tất cả Quỷ Thần tác tưởng là Thiện Tri Thức _Pháp 65: Nếu người nữ sanh khó, sắp bị chết. Chú vào sợi dây, đội trên đảnh đầu liền sanh được. _Pháp 66: Nếu bò ngựa bị bệnh dịch. Chú vào đất 108 biến, rải tán trên thân liền khỏi _Pháp 67: Nếu bị bệnh Lậu. Chú vào đồng, sắt 108 biến, chưng nấu lấy nước cốt cho uống, liền khỏi. _Pháp 68: Nếu muốn cột trói người. chẳng cần dùng Ấn, chỉ chí Tâm tụng Chú liền được. Khiến cột trói liền cột trói, khiến đánh liền đánh, thuận theo Tâm người vậy.

_Lại nữa, nay Ta vì Đức Phật hoằng dương giáo hóa, cho nên biến thân của Bồ Tát, làm thân sân nộ giáng phục. Ta đích thân ở trước mặt Đức Phật tự nói công năng. Đức Phật nhận Hành Dụng Thần Ấn của Ta. Ngay ngày ấy, đồng thời có Đại Nộ Kim Cang nói Tồi Toái Quỷ Chú, Quán Thế Âm Bồ Tát nói Quyến Sách Chú, bốn Đại Thiên Vương nói Tứ Phương diệt Quỷ Chú Ngũ Đạo Lại nữa, Ta ở trong tất cả Quỷ Thần, Dược Xoa, La Sát, Trời, Rồng, a Tu La, Kim Cang làm Nguyên Soái, là Tổng Quản của chư Thần. Sau khi Phật Pháp chia ngọn (mạt) thời hộ niệm chúng sanh đều khiến cho an ổn. Ta xem chúng sanh trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới giống như con một, chẳng khiến cho quỷ Thần ác bạo loạn chúng sanh. Nếu có Quỷ Thần gây não loạn Chú sư thì Ta chỉ huy trăm vạn Quỷ Vương, La Sát Quân Chúng, trăm ức Dược Xoa, Trời, Rồng, A Tu La, tám Bộ Chúng Quỷ Thần Tướng Quân, khiến bốn Đại Vương Thiên đều thống lãnh trăm ức Quỷ Thần trước sau vây quanh, đi qua chỗ nào thì núi sông chấn động, trăm Quỷ tự chạy trốn. Lúc đó, Ta bảo Trời, Rồng, tám Bộ Quỷ Thần tuôn mưa lớn, dấy mây gió lớn tràn đầy Trời Đất. Ngay lúc Ta giận dữ thời mặt trời, mặt trăng không có sắc sáng. Sấm chớp, sét đánh, trăm loài cỏ tự chết, tất cả chúng sanh chạy trốn vào hang hốc. Sau đó khiến chày Kim Cang đập vỡ đầu của Quỷ Thần ác nát như bụi nhỏ, làm cho các Quỷ gây suy hại đều sợ hãi. Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) gây não hại ấy, Ta khiến Kim Cang Tạng Vương thu lục, cũng chẳng sai sử, chẳng nên sợ Tỳ Na dạ Ca, Quỷ Thần Vương, La Sát, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, Bố Đan Na, Tỳ Xá Xà, Ma Đăng Già, với quyến thược của Ma khác. Vua ấy đều là doanh tòng của Ta, cuối cùng cũng chẳng đến gây sợ hãi.

_Lại nếu muốn trừ Tà. Trước tiên hội một tòa, thức ăn uống rồi bảo rằng: “Các ngươi hãy đi gấp như gió đến ở cảnh bên ngoài”. Nếu chẳng đi ắt có thể trừ khử.
59
_Lại nếu cầu thuốc Tiên. Vào núi sâu, nơi không có người, ngồi ở dưới cái cây lớn, chẳng đứng dậy, ba ngày chẳng ăn tức có Tiên Nhân đến dâng thuốc. Uống vào thì sống ngang bằng với Trời đất vậy. _Lại nếu gặp nước biển lớn chẳng vượt qua được. Chú 7 biến, búng ngón tay 3 lần tức Long Vương đến nghênh đón đưa qua. _Lại nếu người chẳng trị bệnh, chỉ tụng Chú, chẳng biết nhiều ít, ngàn vạn biến chỉ phát Tâm tốt lành. Ở trong tất cả Quỷ Thần tác tưởng là Đại Thiện Tri Thức, đối với hữu tình tác tưởng Từ Bi Bình Đẳng. người ấy khi mạng chung thì chẳng trải qua Địa ngục, có các Bồ Tát, người Trời cầm tay dắt đi. A TRA BẠC CÂU NGUYÊN SOÁI ĐẠI TƯỚNG THƯỢNG PHẬT ĐÀ LA NI KINH TU HÀNH NGHI QUỸ _QUYỂN TRUNG (Hết)_ Trinh Hưởng năm thứ tư_ Tháng 2, ngày 13_ Xem xét, chỉnh sửa xong Bật Sô Tịnh Nghiêm (49 tuổi ghi chép)


60
Mật Tạng Bộ 4_ No.1239 (Tr.199_ Tr.202) A TRA BẠC CÂU NGUYÊN SOÁI ĐẠI TƯỚNG THƯỢNG PHẬT ĐÀ LA NI KINH TU HÀNH NGHI QUỸ _QUYỂN HẠ_ Phạn Hán: Đời Đường_ THIỆN VÔ UÝ dịch kín đáo trong Nội Đạo Tràng Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ Dịch âm Phạn Chú: HUYỀN THANH “Quy mạng mười phương Đẳng Chánh Giác Diệu Pháp tối thắng, Chúng Bồ đề Tịnh Nghiệp thân miệng ý của con Chí Tâm chân thành chắp tay lễ Nguyện xin chư Phật, Pháp, Tăng Chúng Từ Bi thương xót nhiếp hộ con Kính lễ Nguyên Soái Đại Tướng Quân Đây là thân Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) Cùng với Thích Ca, chư Phật biến Quán Âm hóa vô tận vô biên Hoặc hiện hình Bồ Tát vui vẻ Hai tay với các tướng Nguyện Ấn _Hoặc bày thân Kim Cang Phẫn Nộ Bốn tay cầm khí trượng giáng Ma Bản Thể Nguyên Soái là Như Lai Vì cứu Thế Gian hiện mọi loại Bốn mặt tám tay, răng bén nhọn Cầm nắm khí trượng tùy loại hộ Nếu quốc vương quy y Nguyên Soái Liền lãnh tất cả tướng, quân chúng Thủ hộ bên trong vương quốc ấy Tiêu phục Lân Vương (vua láng giềng) việc oán địch Tồi diệt Nghịch Thần (bề tôi phản nghịch) tự điều phục Trong nước không có khổ bệnh dịch _Tất cả Thế Gian, loài hữu tình Niệm trì Thần Chú xưng danh hiệu Tịnh trừ chướng ngại sanh trong ngoài Ắt cho Nguyện Thế Gian Xuất Thế _Người muốn Tức Tai, liền tức tai (ngưng dứt tai nạn) Người cầu Vinh ái, cho vinh ái Giáng phục tất cả nghiệp nhóm ác Mỗi mỗi không gì chẳng thành tựu _Nếu nghe tên A Tra Bạc Câu Trong miệng, một lần tụng, khen ngợi Thường sẽ ủng hộ, không các nạn Của báu Thế Gian đều tròn đủ _A Tra Bạc Câu lãnh quyến thuộc Tồi Toái Thanh Diện Kim Cang Vương
61
Tô Tất Địa Vương, Quân Trà Lợi Mật Tích Lực Sĩ, Ma Đăng Già Phạm, Thích, bốn Vương, Tự Tại Thiên Hai mươi tám Bộ Dược Xoa Vương Bốn mươi hai Bộ La Sát Sa Càn Thát, Long Vương, Cưu Bàn Trà Thiên Ma, Quỷ Thần cùng sai khiến Chúng sanh Diêm Phù cũng như vậy Người hay quy y được thắng lợi Kẻ sanh chê, nghịch bị họa nặng Thế nên tất cả người Thế Gian Đều nên quy y Đại Nguyên Soái” _Tiếp theo, kết Thỉnh Thập Phương Chư Phật Ấn: Hai tay cài ngược hai ngón vô danh ở trong lòng bàn tay, dựng thẳng hai ngón giữa sao cho đầu ngón dựa nhau, co hai trón trỏ đè lưng lóng trên của ngón giữa, kèm dựng hai ngón cái đè vịn bên cạnh lóng giữa, đưa ngón trỏ qua lại bảy lần, tức tất cả Phật đi đến. Chú là: 湡 介伏 向旨 送扣 “Úm (1) xà da (2) bà hề (3) toa ha (4)” *) OṂ_ JAYA VAHE SVĀHĀ

_Tiếp kết Quán Thế Âm Đẳng Chư Đại Bồ Tát Ấn: Hai cổ tay dính nhau, kèm dính hai ngón cái, hai ngón út cũng vậy, các ngón còn lại hơi mở co như khều lấy hoa sen, đưa ngón trỏ lên xuống qua lại. Chú là: 湡 合圬凸 合丫吋 伊包 冰一 合介份 送扣 “Úm (1) tỳ thị để (2) tỳ già lam (3) mê đế, lô ca (4) tỳ xà duệ (5) toa ha (6)” *)OṂ_ VIŚITI VIGALAṂ MAITE RUKA VIJAYE SVĀHĀ

_Tiếp kết Thập Tứ Bộ Kim Cang Ấn: Dựng nghiêng hai cổ tay, kèm dựng hai ngón cái đều vịn trên móng hai ngón út, dựng cạnh hai ngón vô danh cùng dựa đầu nhau, hai ngón giữa đều dựng thẳng hướng đầu ngón về phía trước không dính nhau, đưa hai ngón trỏ qua lại Chú là: 湡 向忝 弋汌 旨 送扣 “Úm (1) bạt chiết la (2) chiên nê hề (3) toa ha” *)OṂ_ VAJRA CAṆḌI HE SVĀHĀ _Tiếp kết Tam Thập Tam Thiên Thần Ấn: Hai ngón trỏ hơi cách lóng thứ hai của ngón giữa khoảng nửa phân, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 在泌 盲亙叻市份 送扣 “Úm (1) thước đổ lỗ (2) bả la ma đà nễ duệ (3) toa ha” *)OṂ_ ŚATRŪ PRAMADHANIYE SVĀHĀ

_Tiếp kết Nhị Thập Bát Bộ Tinh Tú Thiên Ấn: Tay trái kèm ngửa ngón giữa ngón vô danh, ngón giữa phải để ngay trên vạch dưới của ngón vô danh trái, ngón vô
62
danh phải cũng che úp bên trên vạch dưới của ngón giữa trái, tướng chung xếp bày như sợi dây. Ngón út, ngón trỏ, ngón cái đều dựng đứng cùng dựa nhau, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 巧朽氛 只向凹份 送扣 “Úm (1) nẵng khất xoa đa la (2) đề bà đa duệ (3) toa ha” *)OṂ_ NAKṢATRA-DEVATAYE SVĀHĀ

_Tiếp kết Đông Phương Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương Lãnh Càn Thát Bà Quân Chúng Ấn: Nghiêng tay trái, từ ngón giữa trở xuống, ba ngón nắm quyền. Lại co ngón trỏ hơi cong ở vạch lóng dưới của ngón giữa, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 呤凸先沰 伏朽 珌誂 囚扔凹份 送扣 “Úm (1) địa lợi để (2) hạt la sắt tra (3) dược xoa (4) nhân đà la (5) đế bà đa duệ (6) toa ha” *)OṂ_ DHṚTI-RAṢṬA (?DHṚTA-RĀṢṬRA) INDRA DHIPATAYE (?ADHIPATAYE) SVĀHĀ

_Tiếp kết Nam Phương Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương Lãnh Cưu Bàn Trà Chúng Ấn: Nghiêng cổ tay trái, để cạnh cổ tay phải dính trên gốc cổ tay trái, hai lòng bàn tay chung lưng, hai ngón vô danh hai ngón giữa cùng móc duỗi nhau như sợi dây, hai ngón út hai ngón trỏ hai ngón cái đều hơi cong, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là: 湡 囚冰民一伏 扔凹份 送扣 “Úm (1) tỳ lỗ đà ca da (2) ba đa duệ (3) toa ha” *)OṂ_ DHIRUḌHAKAYA (?VIRŪḌHAKĀYA) PATAYE SVĀHĀ _Tiếp kết Tây Phương Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương Lãnh Long Quân Chúng Ấn: Nghiêng cổ tay trái, để cạnh cổ tay phải dính trên gốc cổ tay trái,. Hai tay từ ngón giữa trở xuống, ba ngón đều co ngay trong lòng bàn tay rồi nắm quyền, co hai ngón cái đều đè lên trên, hai ngón trỏ giao nhau như sợi dây duỗi ra, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 合列扒朽 乃扔汔 狣囚扔凹份 送扣 “Úm (1) tỳ lô bác xoa (2) cưu bàn trà (3) a địa ba đa duệ (4) toa ha (5)” *)OṂ_ VIRŪPĀKṢA KUPAṆḌA (?KUMBHAṆḌA) ADHIPATAYE SVĀHĀ _Tiếp kết Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương Lãnh Dược Xoa Quân Chúng Ấn: Nghiêng cổ tay trái cũng co bốn ngón từ ngón trỏ trở xuống ngay lòng bàn tay rồi nắm quyền, co ngón cái đè trên ngón trỏ. Tay phải: cổ tay cũng vậy để nghiêng rồi nắm quyền, duỗi thẳng ngón cái hướng lên trên. Quyền phải để dính trên quyền trái, đưa ngón trỏ phải qua lại. Chú là: 湡 因在鈺伏 狣囚扔凹份 送扣 “Úm (1) tỳ sa môn da (2) a địa ba đa duệ (3) toa ha (4)” *)OṂ_ VAIŚASUṂYA (?VAIŚRAVAṆĀYA) ADHIPATAYE SVĀHĀ
63
_Tiếp kết Tứ Thiên Vương Sở Lãnh Tứ Phương Quỷ Thần Dược Xoa La Sát Bát Bộ quỷ Binh Ấn: Cài ngược ngón trỏ ngón giữa vào lòng bàn tay, dựng thẳng ngón vô danh, hai ngón út cũng cài chéo nhau vào lòng bàn tay, hợp cổ tay, đưa ngón cái qua lại. Chú là : 湡 介帎先 介同誂伏 送扣 “Úm (1) chiêm bà la (2) tạ liên đạt la da (3) toa ha (4)” *)OṂ_ JAMBHARA ( ?JAMBHALA) JALENDRAYA SVĀHĀ _Tiếp kết Bát Bộ Long Vương Quân Chúng Ấn: Để đầu khuỷu tay phải ngay bên trong khuỷu tay trái, lại đem bốn ngón của tay phải hơi co lại, để ngón cái ở chỗ hơi cong của ngón trỏ. Tay trái co ngược hướng về tay phải cũng như thế sao cho hình dạng giống như miệng con rắn. Hai tay đều đưa bốn ngón qua lại. Chú là: 湡 栥扔巧誂 送扣 “Úm (1) ẩu ba nan đà (2) toa ha” *)OṂ_ UPANADRA (?UPANANDA) SVĀHĀ

_Tiếp kết Bách Thiên Thiên Long Hưng Vân Trí vũ Long Vương Ấn: Hai tay: cánh tay, cổ tay như trước chẳng sửa, chỉ đem hai ngón út ngón vô danh cài ngược nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, dựng thẳng hai ngón giữa trụ đầu nhau, hai ngón trỏ trụ lóng trên ở lưng ngón giữa, hơi co hai ngón cái, đều vịn lóng giữa bên trong hai ngón trỏ, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là: 湡 穴凡先 送扣 “Úm (1) bộ kỳ la (2) toa ha (3)” *)OṂ_ BHŪGIRA SVĀHĀ _Tiếp kết Nhật Thiên Tử Quân Chúng Ấn: Trước tiên, đem lưng hai ngón giữa ngón vô danh ngón út cùng dựa nhau trong lòng bàn tay khiến ngang bằng nhau, dựng thẳng hai ngón trỏ cùng dựa nhau, hai ngón cái vịn lóng thứ nhất ở gốc ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 先祥 亙印市 送扣 “Úm (1) hát la thấp mê (2) ma lợi nễ (3) toa ha (4)” *)OṂ_ RAŚME MALINI (?RAŚMI MĀLINI) SVĀHĀ _Tiếp kết Nguyệt Thiên Tử Quyến Thuộc Ấn: Đem hai ngón út, hai ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái trong lòng bàn tay, dựng ngón giữa cùng hợp với ngón trỏ, co lóng thứ ba của ngón giữa, gồng cứng ngón cái đều vịn đầu ngón vô danh, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 弋誂伏 鉏亙凸 送扣 “Úm (1) chiên đà la dạ (2) tô ma để (3) toa ha (4)” *)OṂ_ CANDRAYA SUMATI SVĀHĀ

64
_Tiếp kết Nhất Thiết Hỏa Thiên Ma Binh Lệnh Phục Ấn: Dựng ba ngón của tay trái, co ngón cái vịn vạch bên dưới ngón vô danh, hơi co đầu ngón trỏ cùng ngang bằng với lóng thứ nhất của ngón giữa, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là: 湡 司汽 揨 狣蛆份 狣丫猌 送扣 “Úm (1) địa tệ, địa tệ (2) a già na duệ (3) a yết xa (4) toa ha (5)” *)OṂ_ DIPYE DIPYE (?DĪPYE DĪPYE) AGNAYE AGACCHA SVĀHĀ _Tiếp kết Diêm La Ngũ Đạo Đại Tướng Quân Ngưu Đầu Binh Chúng Ấn: Nghiêng cổ tay trái, nắm bốn ngón rồi hơi co ngón trỏ khoảng ba phân, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 兇亙先介 栥奇 合搏 狣丫猌 送扣 “Úm (1) diêm ma la xà (2) ô yết la, tỵ lợi da (3) a yết xa (4) toa ha (5)” *)OṂ_ YAṂMA-RAJA (?YAMA-RĀJA) UGRA VIRYA (?VĪRYA) AGACCHA SVĀHĀ _Tiếp kết A Tu La Vương Đấu Chiến Quân Chúng Ấn: Tay trái: co ba ngón từ ngón giữa trở xuống sao cho đầu ngón cách lòng bàn tay khoảng một phân, cũng hơi co đầu ngón cái cộng với Đông Phương Thiên Vương Ấn đồng khiến tương ứng. Chú là : 湡 合亙才氛 狣觜全囚扔凹份 送扣 “Úm (1) tỳ ma chất đa la (2) a tô la (3) địa ba đa duệ (4) toa ha (5)” *)OṂ_ VIMACITRA AMURĀDHIPATAYE (?ASURA ADHIPATAYE)_ SVĀHĀ

_Tiếp kết La sát sa Vương Quân Binh Đấu Chiến Giả Cấp Lai Ấn: Tay phải đem ngón cái vịn trên móng ngón út ngón vô danh, duỗi ngón giữa với ngón trỏ, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là: 湡 几絞 狣囚扔凹份 送扣 “Úm (1) yết già (2) a địa ba đa duệ (3) toa ha (4)” *)OṂ_ KHARGA (?KHAḌGA) ADHIPATAYE SVĀHĀ

_Tiếp kết Ngũ Phương Đại Lực Dược Xoa Vương Quân Chúng Ấn: Tay trái đem bốn ngón hướng xuống dưới móc tay phải, duỗi thẳng cứng hai ngón cái, đưa hai ngón cái qua lại. Chú là: 湡 乃合先 送扣 “Úm (1) câu tỵ la (2) toa ha (3)” *)OṂ_ KUVIRA (?KUMBHĪRA) SVĀHĀ

_Tiếp kết A Lợi Đà Già Văn Trà Ấn: Hai ngón giữa ngón vô danh cùng quấn nhau, hai ngón út cùng cài chéo nhau, đem ngón cái hướng lên trên cài chéo nhau, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 鄋冰 揨 弋彃因 送扣 “Úm (1) hồ lô, hồ lô (2) già văn trà (3) toa ha (4)”
65
*)OṂ_ HURU HURU CAMUṂVAI (?CAMUṆḌA) SVĀHĀ _Tiếp kết Tỳ Na Dạ Ca Quỷ Thần Vương Ấn: Trước tiên dựng ba ngón, hai ngón vô danh cùng cài chéo nhau rũ xuống dưới hướng về lưng bàn tay, dựng thẳng hai ngón cái phụ bên cạnh ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại. Chú là: 湡 扔一先 圩汔 狣囚扔凹份 送扣 “Úm (1) bạc ca la chuẩn đồ (2) a địa ba đa duệ (3) toa ha (4)” *)OṂ_ PAKARA ŚUṆḌA ADHIPATAYE SVĀHĀ

_Tiếp kết Ma Hê Thủ La Thiên Vương Nhị thập Bát Bộ ấn: Hướng ngón út ngón vô danh vào bên trong cùng móc nhau, liền dựng ngón giữa cùng cài chéo nhau, lại đem hai ngón trỏ đều dựng đứng phụ dưới móng bên cạnh ngón giữa, hai ngón cái cũng dựng đứng phụ sát bên, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là: 湡 亙旨圩先伏 送扣 “Úm (1) ma hê thủ la da (2) toa ha” *)OṂ_ MAHEŚURAYA (?MAHEŚVARĀYA) SVĀHĀ

_Tiếp kết A Tra Bạc Câu Nguyên Soái Đại Nộ Sử Kim Cang Nhị Thập Bát Bộ Thần Giáng Phục Ác Quỷ Ấn: Ngồi nghênh đón (nghênh toạ), hai tay nắm quyền, trợn mắt, ba lần cắn răng bặm môi dưới, đem hai Quyền ấn mạnh trên hai bắp đùi. Đại Tướng Thân Ấn này, Quỷ Thần ác liền tự đánh, tự cột trói, cầu xin tha mạng _Tiếp kết A Tra Bạc Câu Đại Tướng Đại Duyệt Hội Thiên Long Quỷ Thần Tự Hộ Thân Ấn: Hai tay đem hai ngón cái vịn bên trong lóng giữa của hai ngón vô danh. Tră, việc chẳng sợ, chẳng bị đao binh, Quỷ Thần gây thương tích.

_Tiếp kết A Tra Bà Câu Trước Y Giáp Ấn: Tay trái cầm cây đao chống đứng, tay phải nhiễu quanh đầu ba vòng, nắm áo làm như thế treo răng nanh. Quỷ nhìn thấy đang mặc áo giáp. Tụng Đại Chú 21 biến. _Tiếp kết A Tra Bà Câu Thiên Phước Luân Giáng Quỷ Ấn: Tay phải đem ngón cái đè trên lưng lóng giữa của ngón giữa ngón vô danh, dạng như hình Bạt Chiết La Ấn. _Tiếp kết A Tra Bà Câu Lập Thân Ấn: Đứng thẳng, giơ bàn chân phải. Tay trái đem bốn ngón từ ngón trỏ trở xuống hướng về phía trước chống háng. Tay phải đem ngón cái đè lóng giữa trên lưng của ba ngón từ ngón giữa trở xuống, duỗi ngón trỏ hướng về phía trước, chỉ tất cả bệnh liền khỏi, chỉ tất cả Quỷ Mỵ đều phục, chỉ vào mặt sông biển liền tự khô cạn. _Tiếp kết A Tra Bà Câu Đao Ấn: Lấy cành Thạch Lựu dài ba thước hai tấc (32/3 dm) rồi Chú vào ba biến. Tay phải cầm một đầu, tay trái chà xát ba lần. Quỷ nhìn thấy đó là cây đao, đưa tay trái chống háng, tay phải như hình Bạt Chiết La có gai nhọn Kim Cương (Kim Cương Thích Bạt Chiết La)

66
_Tiếp kết A Tra Bà Câu Cung Tiễn Ấn: Tay trái đem ngón cái đè trên móng ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út. Tay phải co ngón vô danh, ngón út trong lòng bàn tay, ngón cái đè móng ngón trỏ, ngón giữa. Ở trong bàn tay trái nghiêng duỗi phóng ngón cái phải rồi búng ngón tay

Bảy loại Pháp Khế bên trên, dùng Tiểu Tâm Chú mà chú. Tức Tiểu Tâm Chú là: 巧伕 凹雺 凹后雺 矛先 后雺 在池 伙 在池 伙 氛屹鈰 珈兇合 送扣 “Nam mô (1) đa luật (2) đa bột luật (3) bà la bột luật (4) chá hiệt mê, chá hiệt mê (5) đát la tán đạm (6) ô diêm tỳ (7) toa ha (8)” *)NAMO TARIḤ TABURIḤ BHARA-BURIḤ _ ŚAKYAME ŚAKYAME_ TRASAṄDHAṂ UYAṂVI SVĀHĀ _Tiếp kết A Tra Bà Câu Giáng Phục Đại Ma Quỷ Thần Ấn: Ngồi theo kiểu Giáng Phục (Huyền Cước Tọa) hai tay nắm quyền, đè trên hai bắp đùi, dùng môi trên cắn môi dưới, trợn mắt nhìn. Tức là Đại Giáng Phục Ấn.

_Tiếp kết Phược Nhất Thiết Quỷ Thần Ấn: Hai tay đem hai ngón út cài ngược nhau, đem hai ngón cái đè trên móng hai ngón út; dựng thẳng ngón giữa, ngón vô danh; ngón trỏ cũng như thế. _Tiếp kết Sắc Quỷ Thần Ấn: Liền ngồi nghiêng, tay trái chống háng, tay phải đem ngón cái đè trên móng ngón út, ngón vô danh; dựng thẳng ngón trỏ, ngón giữa. _Tiếp kết Hỏa Luân Ấn: Nếu giáng phục Đại Lực Ác Quỷ thì tác Hỏa Luân Ấn. Hai tay co hai ngón vô danh trong lòng bàn tay sao cho đầu ngón bằng nhau, đầu các ngón còn lại đều vịn nhau, hơi trống lòng bàn tay, tức thành Ấn. _Tiếp kết Đầu Mỵ Quỷ Ấn: Ba ngón từ ngón giữa trở xuống đều cài chéo nhau ở sau lưng lòng bàn tay, hai ngón trỏ vịn dính nhau khiến cho bằng, hai ngón cái nằm ngang vịn vạch lóng giữa của hai ngón trỏ, ba lần thở ra, ba lần hít vào tức cột trói đem đến (Năm loại Pháp Khế trên dùng Đại Chú)

_Tiếp Tứ Thiên Kết Giới Chú: 湡 矛包伏 向神 向神 曳 狫 民誆 “Úm, bà đế da, bàn đà bàn đà, ham, hồng, pháṅ *)OṂ_ BHATEYA BANDHA BANDHA HAṂ HŪṂ PHAṬ _Bát Bộ Đô Chú: 巧伕 后盍伏 巧伕 叻滫伏 巧伕 鈺叉伏 巧伕 后共伏朽 包后共伏朽 丫吋 伏朽 狣巴向乃 送扣 “Nẵng mô bột đà da. Nẵng mô đạt ma da. Nẵng mô tăng già da. Nẵng mô phật lợi dược xoa, đế phật lợi dược xoa, yết lam dược xoa, a toa bạc câu, toa ha” *)NAMO BUDDHĀYA NAMO DHARMMĀYA (?DHARMĀYA) NAMO SUṂGHĀYA (?SAṂGHĀYA)
67
NAMO BURI-YAKṢA TEBURI-YAKṢA GALAṂ-YAKṢA AṬAVAKU (?AṬAVAKA) SVĀHĀ Nếu muốn truy tìm Thần của tám Bộ thì dùng bát Bộ Ấn lúc trước, liền tụng Chú lúc trước 21 biến thì vị Thần ấy liền đến. Bạch Đức Thế Tôn! Nguyện truyền, lưu bày khắp cõi Diêm Phù khiến cho tất cả chúng sanh thọ trì, vì họ làm Đại Cứu Hộ” Bấy giờ, Đức Phật bảo tất cả Đại Hội: “Tụng Chú này: vào nơi quan quyền chẳng bị giận ghét, vào nước chẳng bị cuốn chìm, vào lửa chẳng bị thiêu đốt, vào quân trận chẳng sợ đao binh. Quốc vương, Quý Nhân nhìn thấy đều nghênh đón.

_Truy Bát Nhã Bất Không Quyến Sách Sứ Giả Thần Quỷ Ấn: Chắp hai tay lại để ngang trái tim, trống tám ngón làm Ấn cúng dường. Sau đó đem ngón cái đè ngón trỏ ngón giữa co trong hai lòng bàn tay; ngón vô danh, ngón út chắp lại như hình Phật Đảnh _Tiếp theo, tác Bát Nhã Giáng Phục Thiên Quỷ Thần Ấn: Hai tay trái phải cùng hợp cổ tay, để hai ngón cái sát cạnh ngón trỏ, duỗi thẳng hai ngón giữa; co hai ngón trỏ ngón vô danh ngón út hơi cong cùng vịn đầu nhau, chính giữa lòng bàn tay để trống rỗng. Đại Tướng Sử Thần Tán Cấm Pháp Trước tiên trì Chú cho có hiệu nghiệm rồi sau đó mới làm, nếu chẳng như thế thì chẳng thành. Sáng sớm, ở trước mặt Thần an một một chậu, nước hoa trong giếng (tỉnh hoa thuỷ), một lò hương. Chú Sư chỉnh sửa quần áo, ngồi nghênh đón (nghênh toạ) ngay trong giường, không được cười, tay tác Đại Nộ Ấn, chỉ có người bị bệnh Quỷ mới được vào, không được nói nhiều. Miệng nói rằng: “Hãy mau mau”, dùng lời giận dữ quát mắng. Nếu tự biết sợ thì mới bảo rằng: “Thần Chúng còn đợi đến lúc nào, hãy mau chóng cột trói đem lại”. Nói lớn tiếng như Quan sai người, nghe tiếng liền cột trói. Muốn đánh, muốn cấm… chỉ tuỳ theo thời, nói một lời đừng có nói nhiều. Pháp Đại Tướng Xứ này chẳng tụng Chú. Nếu có người trì Chú của Ta, là người bình đẳng có hiền đức thì mới có thể trì, nếu chẳng như thế chỉ tự tổn hại thân. Lược nói xong chút ít hành dụng, nếu rộng nói thì cùng kiếp cũng chẳng hết A TRA BẠC CÂU NGUYÊN SOÁI ĐẠI TƯỚNG THƯỢNG PHẬT ĐÀ LA NI KINH TU HÀNH NGHI QUỸ _QUYỂN HẠ (Hết)_

_Trinh Hưởng năm thứ tư_ Giữa mùa xuân, ngày 13. Một lần xem xét phân định xong_ Tịnh Nghiêm (49 tuổi ghi chép) _Nguyên Lộc năm thứ 16_ Tháng giêng, ngày 23 Dùng bản của Hòa Thượng Tịnh Nghiêm ghi chép, hiệu đính xong_ Tôn Giáo _Bảo Vĩnh năm thứ năm_ Tháng 11, ngày 15 Một lần xem xét xong_ Tánh Tịch

_Hiệu chỉnh xong một Bộ gồm 3 quyển vào ngày 15/11/2014
68
Mật Tạng Bộ 4 _ No.1240 (Tr.202) A TRA BẠC CÂU PHÓ CHÚC CHÚ

Hán dịch: Không rõ tên người dịch Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH

Nam mô a tra bạc câu, ma câu tra gia, ma ha dược xoa na gia, ma hề thủ la phán , tỳ ma chất đa la gia phán, na tra cưu phạt la phán, ha ha ha ha, phán phán phán phán, ham , duệ tra duệ tra duệ tra duệ tra, ni lam bà gia, kiền đà bà gia, tỳ xá xà gia, toa ha 巧伕 狣巴向乃伏 亙扣向乃巴伏 亙扣伏朽 巧伏 亙旨湤全伏 民誆 合亙 才氛伏 民誆 巧巴乃向先伏 民誆 成成成成 民誆民誆民誆民誆 嫟 份巴 份巴 份巴 份巴 布吋矛伏 丫神先向伏 扑圭弋伏 送扣 NAMO AṬAVAKUYA MAHĀ-VAKUṬAYA MAHĀ-YAKṢA NAYA MAHEŚVARĀYA PHAṬ _ VIMACITRA PHAṬ _ NAṬA-KUVARAYA PHAṬ _ HA HA HA HA _ PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ _ HŪṂ _ YEṬA YEṬA YEṬA YEṬA _ NĪLAṂBHAYA GANDHARA-VAYA PIŚĀCAYA SVĀHĀ

Nam mô bạc già phạm bạt chiết la quân trà lợi gia phán, bạt chiết lợi bạc tất đà gia phán, bạc già bạt đế, a tra bà câu gia phán, tỳ sa môn na phán, ba ba tra tra gia gia phán phán, nhân đà la dược xoa lại gia phán, tỳ lô thích ca gia phán, tỳ lô bác sô dược xoa na phán, bà la ma phán, tốc tốc, khứ khứ, cấp bà ha. 巧伕 矛丫嶍 向忝 乃汔印伏 民誆 向忝 鉏帆盎伏 民誆 矛丫向凸 狣巴向乃伏 民誆 疋侷皊他娭 民誆 矛巴伏 矛巴伏 民誆民誆 珌誂伏 民誆 伏朽 先巴伏 民誆 合列浢一伏 民誆 合列扒朽伏 朽伏 民誆 向先亙伏 民誆 鉏几 鉏几 送扣 NAMO BHAGAVAṂ-VAJRA-KUṆḌALIYA PHAṬ _ VAJRASUSIDDHIYA PHAṬ _ BHAGAVATI AṬAVAKUYA PHAṬ_ VAIŚRAVAṆĀYA PHAṬ _ BHAṬAYA BHAṬAYA PHAṬ PHAṬ _ INDRĀYA YAKṢA-RAṬAYA PHAṬ _ VIRŪḌHAKAYA PHAṬ _ VIRŪPĀKṢAYAYAKṢA PHAT _ VARAMAYA PHAṬ _ SUKHA SUKHA SVĀHĀ

Ma ha dược xoa, cấp bà ha 亙扣伏朽 送扣 MAHĀ-YAKṢA SVĀHĀ

Già già già già, la la, phán phán phán phán, ma ni bạt đà la phán, na la diên đô phán, ma ha ca la phán, a nậu đà gia phán, âu bà nan đà phán, tô kỳ la gia phán, nam đan đa phán, hắc bố đan na phán, xà ma la xà la phán, mục chân lân gia phán, tô lô cưu bàn trà ham phán, thiện nữ công đức gia phán, giáng oán phán phán phán phán, dược xoa dược xoa, tốc tốc tốc tốc, cấp bà ha. 丫丫先 丫丫先 民誆民誆民誆民誆 亙仗矛治伏 民誆 左先兇袀 民誆 亙扣乙匠伏 民誆 狣平叨伏 民誆 栥扔巧刡伏 民誆 禾丁先伏 民誆 朮凹巧伏 民誆 烿盄朮凹巧伏 民誆 兇亙全介伏 民誆 觜才印刡娭
69
民誆 鉏冰 麀矛汔伏 狫 民誆 冑市伏 民誆 GIÁNG OÁN 民誆民誆 民誆民誆 伏朽 伏朽 民誆 民誆民誆民誆 送扣 GAGARA GAGARA PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ _ MAṆI-BHADRA PHAṬ _ NĀRAYAṂTU PHAṬ _ MAHĀ-KĀLĀYA PHAṬ _ ANUDAYA PHAṬ _ UPANANDAYA PHAṬ _ BHUKIRAYA PHAṬ _ PŪTANA PHAṬ _ KAṬAPŪTANAYA PHAṬ _ YAṂMA-RĀJAYA PHAṬ _ MUCILINDAYA PHAṬ _ SURU-KUṂBHAṆḌAYA HŪṂ PHAṬ _ ŚRĪNIYA PHAṬ _ Giáng oán PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ_ YAKṢA YAKṢA PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ _ SVĀHĀ

Ma ha dược xoa dược xoa, tốc tốc tốc tốc, cấp bà ha. 亙扣伏朽 伏朽 民誆民誆民誆民誆 送扣 MAHĀ-YAKṢA YAKṢA _ PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ_ SVĀHĀ

A a a a a a, bát bát, già già, sắc sắc sắc sắc, bạt bạt, la la, bạt chiết la hà tra tra tra, tra duệ phán tra, cấp bà ha. 唒唒唒唒唒 扔弋扔弋 SẮC SẮC SẮC SẮC 向匡揨 向忝成巴 巴巴 巴份 民誆 送扣 A A A A A _ PACA PACA _ Sắc sắc sắc sắc _ BALA BALA _ VAJRAHAṬA ṬAṬA ṬAYE PHAṬ _ SVĀHĀ

Thôn nhiếp, cấp bà ha THÔN NHIẾP 送扣 Thôn nhiếp SVĀHĀ

A tra a tra, a ha a ha, ha ha ham phán, chước ca la hộ đế, bạc chiết la, lực lực lực lực, bạt bạt bạt bạt, cấp cấp cấp cấp, tần đà nhiếp trì sư tử vương, hống hống hống hống, ha ha ha ha, phán tra, a tra bạc câu duệ, toa ha. 宭巴宭巴 狣成狣成 成成 嫟 民誆 弋咒 鄋包 向忝 LỰC LỰC LỰC LỰC 向向向向CẤP CẤP CẤP CẤP 石刡石刡 NHIẾP TRÌ 勩成全介 HỐNG HỐNG HỐNG HỐNG 成成成成 民誆 狣巴向乃份 送扣 AṬA AṬA _ AHA AHA _ HA HA _ HŪṂ PHAṬ _ CAKRA-HUTE VAJRA _ Lực lực lực lực _ VA VA VA VA _ Cấp cấp cấp cấp _ BHINDA BHINDA _ Nhiếp trì SIṂHA-RĀJA _ Hống hống hống hống _ HA HA HA HA PHAṬ_ AṬAVAKUYE SVĀHĀ

Chú này rất nóng ác. Nếu chẳng thanh tịnh, Thỉnh chẳng thường thường tụng. Người có tâm Dục thì Ta sai Quỷ Vương cầm bánh xe vàng (Kim Luân) phá vỡ đầu kẻ đó Pháp tụng Xá Lợi: Các Pháp theo Duyên khởi Như Lai nói là Nhân Pháp ấy, Nhân Duyên hết Là Đại Sa Môn nói _Hết_ 23/09/2008

70
MỤC LỤC

1_ Đại Nguyên Soái Minh Vương .................................................. ............. Tr.01 2_ Kinh A Tra Bà Câu Quỷ Thần Đại Tưóng Thượng Phật Đà La Ni Thần Chú (No.1237) .................................................. .................................................. .......... Tr.7 3_ Kinh A Tra Bà Câu Quỷ Thần Đại Tưóng Thượng Phật Đà La Ni Thần Chú (No.1238) .................................................. .................................................. ........ Tr.11 4_ A Tra Bạc Câu Nguyên Soái Đại tướng Thượng Phật Đà La Ni Kinh Tu Hành Nghi Quỹ (No.1239) .................................................. .......................................... Tr.29 .) Quyển Thượng .................................................. ...................................... Tr.29 . ) Quyển Trung .................................................. ......................................... Tr.46 .) Quyển Hạ .................................................. .............................................. Tr.59 5_ A Tra Bạc Câu Phó Chúc Chú (No.1240) ............................................... Tr.67 6_ Mục lục .................................................. ................................................. Tr.69