kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Ðề tài: HÀNH TRÌNH ĐI TÌM MỘ CỔ

  1. #1

    Mặc định HÀNH TRÌNH ĐI TÌM MỘ CỔ

    HÀNH TRÌNH ĐI TÌM MỘ CỔ




    PHẠM TRƯỜNG GIANG

    (PL)- 600 năm sau khi Hồ Quý Ly mất, con cháu của dòng họ Hồ tại Việt Nam vẫn luôn mong mỏi tìm được mộ chí của ông nơi đất khách quê người…

    Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ. Đến năm 1406, quân Minh do Trương Phụ, Mộc Thạnh chỉ huy lấy danh nghĩa “phò Trần diệt Hồ” kéo sang xâm lược. Đến năm 1407 quân Minh đã diệt nhà Hồ, bắt Hồ Quý Ly và các con Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương cùng nhiều quần thần và thợ giỏi, sư sãi… đưa về phương Bắc. Sau này Lê Lợi khởi nghĩa thành công, lập nên nhà Hậu Lê, số phận của những người bị quân Minh bắt vẫn rất mờ mịt, hầu như không có thông tin gì. Con cháu nhà Hồ còn sống sót ở Việt Nam những năm sau này đều mong mỏi biết về số phận và mồ mả tổ tiên nhưng bặt vô âm tín. Cho đến đầu những năm 2000, họ biết được có một nhà khảo cổ người Việt đã nhiều năm nghiên cứu và có ý định đi tìm ngôi mộ của Hồ Quý Ly, đó là ông Đỗ Đình Truật.

    Một người khao khát tìm mộ vua Hồ

    Ông Đỗ Đình Truật sinh năm 1931, mất năm 2013, là người đã có hơn 50 năm làm việc trong ngành khảo cổ. Ông đã được ghi nhận là người khai quật mộ cổ nhiều nhất Việt Nam với hơn 100 ngôi mộ. Từ nhỏ ông đã rất hâm mộ Hồ Quý Ly cùng những cải cách của nhà Hồ. Năm 1955, ông được cử sang Trung Quốc làm chủ nhiệm một số lớp ở khu học xá Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tại đây, ông may mắn gặp được học giả Trần Văn Giáp, từng du học Pháp và làm việc ở Viện Viễn Đông Bác cổ. Ông Giáp được nhiều học giả Trung Quốc khâm phục, thậm chí gọi ông là “Quách Mạt Nhược thứ hai” (nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với những nghiên cứu về văn tự cổ).

    Thật bất ngờ khi ông Giáp cũng rất quan tâm đến Hồ Quý Ly và cung cấp cho ông Truật nhiều thông tin về các tài liệu quý giá liên quan đến nhà Hồ ở các thư viện Trung Quốc. Trong quá trình ở Quảng Tây tìm mộ Hồ Quý Ly thì ông Truật lại tình cờ phát hiện ra mộ của chí sĩ Nguyễn Thiện Thuật, người anh hùng của khởi nghĩa Bãi Sậy. Do điều kiện công việc lúc bấy giờ, ông Truật không có cơ hội để tiếp tục đi tìm mộ, sau này khi cách mạng văn hóa nổ ra, ông Truật phải về nước. Từ đó ông chỉ đi tìm dấu tích về nhà Hồ ở trong nước, nhất là sau khi xảy ra chiến tranh biên giới, ông càng không hy vọng có cơ hội sang Trung Quốc tìm mộ vua Hồ.

    Hơn 70 tuổi, sức khỏe giảm sút, ông Truật rất vui mừng khi con cháu họ Hồ đã tài trợ chi phí để ông sang Trung Quốc tìm mộ. Xác định đây là chuyến đi lớn cuối đời, ông nghiên cứu tư liệu, chuẩn bị cho hành trình. Năm 2004, tôi may mắn được gặp ông Đỗ Đình Truật sau khi ông đi Trung Quốc về, được ông kể cho nghe nhiều chuyện thú vị. Gần đây lại gặp được người học trò cùng đi với ông nên có thể bổ sung khá đầy đủ về hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly nơi xứ người.


    Nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật (trái) và ông Nguyễn Thiện Đức trong chuyến đi tìm mộ Hồ Quý Ly. Ảnh do gia đình cung cấp


    Tung tích của Hồ Quý Ly trên đất Minh

    Các cuốn sử của Việt Nam chỉ ghi nhận việc cha con Hồ Quý Ly bị giải về Trung Quốc là hết. Phần còn lại được ghi chép khá rõ ở các cuốn Minh sử, Minh cảo sử, Minh thực lục, Minh thông giám, Quốc triều hiến chính… của nhà Minh. Sau khi bị giải đến kinh đô, ba cha con Hồ Quý Ly chỉ bị xử rất nhẹ; Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương được phong quan làm việc cho nhà Minh. Riêng Hồ Quý Ly, một số tài liệu cho rằng bị đày làm lính thú ở Quảng Tây, rồi bị giết bí mật. Tuy nhiên, ông Truật không tin vào thuyết này vì khi quân Minh đưa quân qua xâm lược nước ta đã vu cho Hồ Quý Ly hơn 20 tội, toàn tội đại nghịch như tiếm ngôi, giết vua, chém sứ, lấn đất thiên triều… nên nếu muốn giết thì có thể chém ngay giữa điện Phụng Thiên luôn để ra uy, không cần phải dùng cách tiểu nhân. Bản thân Hồ Quý Ly khi bị bắt đã hơn 70 tuổi, già yếu, khó có khả năng trốn thoát về đất Việt và cũng không còn lực lượng, nhất là bị dân chúng căm ghét, cho là cướp ngôi nhà Trần.


    Ngoài ra, do Hồ Nguyên Trừng được trọng dụng để chế vũ khí nên nhà Minh cũng muốn giữ mạng Hồ Quý Ly để các con yên tâm phụng sự, có thể đó là lý do tại sao nhiều pho sử nhà Minh ghi lại rằng sau khi bị hài tội thì Hồ Quý Ly chỉ bị giam vào ngục chờ phán quyết, mà sau đó cũng không thấy có phán quyết gì với ông, tức là ông đã bị giam hoặc giam lỏng đến khi chết.

    Một tài liệu khác thời Minh ghi chép lại trò chuyện với con cháu Hồ Quý Ly cho biết Hồ Quý Ly chết khi hơn 80 tuổi, chôn ở kinh đô. Sau đó con cháu cải táng, chôn ở núi Chung Sơn cách đó hơn chục dặm. Ông Truật tin là tài liệu này đúng hơn cả. Và ông cho rằng nơi chôn cất Hồ Quý Ly ở núi Chung Sơn là núi Lão Tử hiện tại, thuộc TP Nam Kinh, tỉnh Giang Tô.
    Sử sách đều ghi ba cha con Hồ Quý Ly bị dẫn giải về Kim Lăng. Kim Lăng (Nam Kinh) chính là kinh đô của nhà Minh trước khi dời về Bắc Kinh. Núi Lão Tử thuộc thôn Kim Lăng, cách Nam Kinh gần 20 km vốn là nơi chôn người chết bao đời, trên núi có vô số ngôi mộ. Ngay cả hai vị vua đầu tiên của nhà Minh cũng được đặt lăng mộ ở Lão Tử Sơn, sau này dời đô mới mang về Bắc Kinh, đặt trong Thập tam lăng như hiện nay. Vấn đề còn lại là làm sao tìm được mộ Hồ Quý Ly giữa muôn vàn nấm mộ ở nơi này.


    Những chuyện ngẫu nhiên trên Lão Tử Sơn

    Xuống sân bay Bắc Kinh, nhóm ông Truật được một cô gái tên Thu Vân ra đón. Cô là người gốc Việt, qua người quen, biết ông Truật đi tìm mộ Hồ Quý Ly nên tình nguyện làm người dẫn đường. Một chuyện khá ngẫu nhiên là khi trên chuyến tàu đi Nam Kinh, tình cờ một thanh niên ngồi gần đó nghe được câu chuyện của nhóm đã tới làm quen. Anh giới thiệu là công nhân mỏ, họ Hồ, sống ở Giang Tô, biết rõ địa thế vùng này. Anh đã vẽ bản đồ chỉ dẫn cách đi đến thôn Kim Lăng trên Lão Tử Sơn.
    Khi đến Kim Lăng, đoàn đã đến đồn cảnh sát địa phương để trình báo sự việc và hỏi thăm, được cảnh sát cho biết trên Lão Tử Sơn có rất đông người họ Hồ, có cả một khu mộ nghe nói của dòng họ người Việt ở đó từ rất lâu rồi. Họ còn nhiệt tình cử một sĩ quan cảnh sát lấy ô tô dẫn đoàn đến đó. Những sự kiện ngẫu nhiên nối tiếp khiến ông Truật tin rằng ông đã gần đến đích.

    Ông Nguyễn Thiện Đức, năm nay 68 tuổi, vốn là một sĩ quan quân đội nhưng rất đam mê khảo cổ nên đã theo làm học trò ông Truật hơn 16 năm. Ông kể lại: “LãoTử Sơn là vùng rừng núi rất mênh mông rộng lớn, ít người, mộ chí rất nhiều. Chúng tôi đi tìm từ sáng tới trưa chưa thấy dấu tích mộ dòng họ Hồ, cả đoàn ai cũng hết sức mệt mỏi. Khi đang đi, bỗng nhiên tôi bị một cành gai quấn vào gấu quần kéo lại. Tôi cúi xuống gỡ cây gai và nhân tiện cột lại dây giày thì thấy có một con đường mòn nhỏ bên cạnh. Linh tính mách tôi thử tách đoàn đi theo con đường mòn nhỏ một đoạn xa thì phát hiện ra một ngôi mộ ghi tên Hồ Văn Hải, chết đã rất lâu rồi. Tôi gọi cả đoàn lại, ai cũng mừng rỡ. Cụ Truật gieo thử một quẻ Kinh dịch, hỏi xem có phải nhà vua không thì được biết chỉ là mộ một người hậu thế. Tuy nhiên, đây là cơ sở để chúng tôi vững tâm, bắt đầu đi tìm các gia đình có người họ Hồ gần đó để dò hỏi thêm”...

    Một cụ già cho biết bà cũng nghe kể lại dòng họ Hồ của bà có gốc Việt Nam rất lâu trước đây. Xưa kia trên đỉnh Lão Tử Sơn còn có ngôi mộ của tổ dòng họ Hồ ở đây. Trên đó còn có cả nhà giam cũ từ xưa. Trong khi mọi người đang mừng rỡ thì bà cụ khiến không khí chùng lại khi nói rằng theo các bô lão trong thôn, hồi Thế chiến thứ II, quân Nhật kéo đến chiếm Nam Kinh, chúng đã chọn đỉnh Lão Tử Sơn làm nơi đặt trận địa pháo. Nhà giam cùng nhiều ngôi mộ cổ trên đó, trong đó có lăng mộ tổ họ Hồ đều đã bị san ủi.

    Đứng trên đỉnh núi nay chỉ còn là bãi đất hoang cây cỏ mọc đầy, ông Truật thắp hương gieo quẻ Kinh dịch, hỏi di hài nhà vua còn ở đây không thì quẻ trả lời còn nhưng không tìm được nữa. Ông Truật bốc lấy hai nắm đất trên đỉnh, gói lại vào tấm vải mang về. Khi tới Bắc Kinh mở ra, thật kỳ lạ khi nắm đất nhìn giống như hình đầu người. Hai nắm đất đó sau này đã được đưa về đặt trên bàn thờ của dòng họ Hồ ở Việt Nam.
    ______________________
    Kỳ sau: Đi tìm dấu tích của 'Thần cơ' Hồ Nguyên Trừng


    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Dấu vết của ‘thần cơ’ Hồ Nguyên Trừng

    Chủ Nhật, ngày 23/7/2017 - 07:20







    PHẠM TRƯỜNG GIANG

    (PL)- Sau khi bị quân Minh bắt, Hồ Quý Ly bị bắt giam, còn lại hai con trai ông đều được nhà Minh tha bổng. Hồ Hán Thương được chức quan nhỏ, giao dạy Kinh Dịch cho các quan lại nhà Minh. Trong khi đó Hồ Nguyên Trừng được trọng dụng nhiều hơn do khả năng chế tạo súng và thuốc nổ…

    Một trong những lý do khiến Hồ Quý Ly tự tin sẽ chống lại được quân Minh là sở hữu được rất nhiều súng thần công do con trai Hồ Nguyên Trừng chế tạo ra. Phòng tuyến chống quân Minh do Hồ Nguyên Trừng dựng lên với rất nhiều súng thần cơ đã liên tiếp đánh bại quân Minh, nhà Hồ thua là vì không được dân chúng ủng hộ.

    Người tù Đại Việt thành quan to trong triều Minh

    Là một nhân tài nắm rõ cách chế tạo hỏa long pháo và thần cơ pháo, cùng các bí quyết về thuốc nổ đủ khiến nhà Minh tìm mọi cách lưu dụng ông. Chính vì vậy thay vì xử tội cả ba cha con, nhà Minh lại tha chết cho họ, một mặt giam giữ Hồ Quý Ly như con tin, một mặt ban chức tước cho Hồ Nguyên Trừng để dụ dỗ. Vừa thả ông ra, vua Minh đã ban cho chức chủ sự, hàm chính ngũ phẩm (tương đương giám đốc sở hiện nay) thuộc Binh trượng cục để lãnh việc chế tạo hỏa súng, hỏa tiễn và thuốc súng, cai quản số tù binh Đại Việt có khả năng chế tạo súng và thuốc súng mà quân Minh bắt sang. Quân Minh đã lập cả một binh đoàn sử dụng súng, sau này đánh nhau với Mông Cổ đã phát huy tác dụng rất cao. Vì vậy Minh sử cảo còn ghi lại là quân Minh khi tế súng đều tế Hồ Nguyên Trừng như là thần súng.

    Các tài liệu sử cũ ghi lại Hồ Nguyên Trừng làm quan đến chức tả thị lang (tương đương thứ trưởng) nhưng gần đây các bộ Minh sử được xuất bản lại ghi đầy đủ hơn thì Hồ Nguyên Trừng đã được phong đến chức thượng thư bộ Công (tương đương bộ trưởng), ngoài chế tạo vũ khí còn chuyên chế tạo đồ ngự dụng cho nhà vua sử dụng. Khó hình dung được một người không phải người Hán, là người Đại Việt mà lại là tù binh lại được nhà Minh hậu đãi đến vậy. Điều này chứng tỏ nhà Minh rất thực dụng khi sử dụng người tài không phân biệt lý lịch nhưng cũng cho thấy tài năng kiệt xuất của Hồ Nguyên Trừng không thể bàn cãi.


    Tấm bia dựng giữa chùa Tú Phong, nay đã thành khách sạn. Ảnh: Trần Quang Đức cung cấp

    Tìm mộ từ một quyển sách

    Cách đây 10 năm, một nhóm bốn sinh viên Việt Nam đang học tại ĐH Bắc Kinh và ĐH Ngôn ngữ Bắc Kinh đã lên đường để đi tìm mộ của Hồ Nguyên Trừng. Trần Quang Đức, một thành viên trong nhóm (nay đã trở thành một nhà nghiên cứu văn hóa với tác phẩm Ngàn năm áo mũ viết về trang phục cổ của người Việt), cho tôi biết sở dĩ nhóm của anh biết được thông tin về Hồ Nguyên Trừng là qua tác phẩm của giáo sư Trương Tú Dân - ĐH Thanh Hoa viết về những người Việt Nam đã phục vụ cho nhà Minh (quyển Minh đại Giao Chỉ nhân tại Trung Quốc chi cống hiến xuất bản năm 1992).

    Dựa trên nghiên cứu các bản Minh sử đầy đủ, ông Trương Tú Dân cho biết cả Hồ Nguyên Trừng và con, cháu đều được mai táng tại thôn Nam An Hà, xã Bắc An Hà, khu Hải Điện, cách Bắc Kinh khoảng 30 km. Tài liệu nhà Minh đều đổi họ Hồ thành họ Lê sau khi bị bắt sang Trung Quốc.

    Cả nhóm lên đường vào một sáng mùa đông rét buốt. Đến được thôn Nam An Hà không mấy khó khăn nhưng để dò hỏi phần mộ thì gần như bế tắc. Mấy vị bô lão trong thôn đều cho biết không nghe nói đến phần mộ cổ của người họ Lê từ thời Minh, chỉ có họ Lý thôi. Ở đây cũng không có nghĩa trang, dân ở đây bao đời toàn lên sườn núi phía Tây thấy chỗ nào đẹp thì chôn ở đó. Xin lưu ý là đơn vị hành chính ở Trung Quốc rất lớn, khác với Việt Nam, vài tỉnh của Trung Quốc đã có diện tích bằng cả nước ta.

    Đi lên núi, nhìn thấy cảnh vật mênh mông, không biết phải mất bao nhiêu thời gian để đến xem các ngôi mộ chôn ở đây. Một thiếu phụ trung niên làm cỏ trên núi cho biết núi chỉ chôn người chết gần đây, nếu là mộ cổ thì có thể được chôn ở sườn phía Đông hoặc ở Cửu Vương Phần. Thất vọng, đoàn lại đi xuống núi, tìm đến ủy ban của thôn để hỏi thăm thông tin.

    Vốn rất hy vọng chính quyền sở tại sẽ có các hồ sơ lưu trữ, hoặc ít ra cũng có người am hiểu về mộ danh nhân trong địa bàn của mình để cung cấp những thông tin hữu ích nhưng cả nhóm đều vô cùng bất ngờ khi các cán bộ ủy ban đều lắc đầu quầy quậy. Bất cứ câu hỏi nào họ cũng đều trả lời bằng những từ mang tiếng phủ định như “không”, “chưa” kèm với điệu bộ rất lấy làm tiếc. Tất cả dò hỏi ngoài lề để tìm thêm manh mối cũng không đem lại kết quả. Nhìn cả nhóm ỉu xìu như bánh đa nhúng nước, một cán bộ ủy ban bỗng à lên một tiếng, vẻ mặt cực kỳ quan trọng cho mọi người biết là ở gần trường đua ngựa trong thôn có hai bia đá cổ, hy vọng sẽ cung cấp thông tin gì đó có ích. Cảm ơn mấy ông ủy ban tốt bụng nhưng… vô dụng, mọi người đi về trường đua ngựa.

    “Khuất lấp sau những bụi cây dại héo hon, nằm trên dải đất như đã bị đào xới lên từ lâu, hai bia đá vẫn còn nguyên vẹn bên cạnh trường đua và đống đổ nát. Tôi men lên đọc được mấy chữ “chính lam kỳ” và vài dòng chữ Mãn thì chẳng còn hứng thú nữa. Thì ra đây là bia dựng từ đời Thanh, ghi chép hành trạng và sự tích của một ông thượng thư bộ Lễ. Chúng tôi quyết định đi qua Cửu Vương Phần ở vùng lân cận gần đó tìm xem có manh mối nào không” - Trần Quang Đức thuật lại.

    Cửu Vương Phần thực ra là mộ của một người con thứ chín của vua Đạo Quang. Có thể trước đây cảnh trí đẹp đẽ nhưng bây giờ phong cảnh hoang vắng, tiêu điều, gỗ đã mục nát, sơn son thiếp vàng của trăm năm trước nay đã bong tróc hết ra, xung quanh chỉ toàn những vạt cỏ dại và những lùm cây xơ xác, không có thêm dấu tích của mộ chí nào nữa.
    Ngôi chùa lưu giữ bằng chứng

    Manh mối cuối cùng để có thể lần tìm được mộ là chùa Tú Phong. Theo tài liệu cũ, chùa gần với nơi chôn cất của gia tộc Hồ Nguyên Trừng. Chùa Tú Phong là một ngôi chùa Việt Nam tại kinh đô Trung Quốc, do nhà sư Hồ Trí Thâm từ Việt Nam sang xây dựng trong khoảng năm 1428-1442, sư tăng trong chùa đa số là người Việt Nam, chùa được vua nhà Minh ban sắc chỉ liệt vào danh thắng năm 1443, ngày 8-4 âm lịch cùng năm, đích thân Hồ Nguyên Trừng đã soạn văn bia nói về việc xây chùa này.
    Khi lên xe buýt, hỏi bà soát vé trên xe, rồi cả những người trên xe, cũng không ai biết chùa Tú Phong ở đâu. Một lần nữa cả đoàn lại hết sức hoang mang bởi vì ngay cả một cái chùa to như vậy mà dân ở đây 50-60 năm còn không biết, thế thì làm sao họ biết được một ngôi mộ cổ heo hút nào đó!

    Còn nước còn tát, cả nhóm đi tìm gặp những người cao tuổi gần đó thì được chỉ đường lên Tú Phong Tự. Thì ra chùa Tú Phong ngày xưa có nhiều sư tăng Việt Nam tu hành, nay đã trở thành khách sạn. Các phòng đã được đánh số cho thuê, chỉ còn vài phòng là để nguyên như cũ nhưng đã trùng tu hầu hết. Vật duy nhất còn sót lại sau 600 năm trời hình thành ngôi chùa là bia đá ghi lại chuyện dựng chùa tự thuở xa xưa, nay vẫn còn lại trong sân chùa.

    Bia còn ghi rành rành những hàng chữ kể lại rõ ràng: “Quan Chính nghị Đại phu Tư trị doãn, Tả thị lang Bộ Công, người Giao Nam (Việt Nam) là Lê Trừng soạn… Cách kinh đô hơn 60 dặm về phía Tây có chùa tên Tú Phong, do ông thái giám Cao Nhượng và sư trụ trì Trí Thâm sáng lập. Sư Trí Thâm là vị sư nổi danh ở đất Giao Nam, họ Ngô, từ nhỏ xuất gia, khắc khổ cầu học…”.

    Như vậy đích xác chính tay Hồ Nguyên Trừng đã viết đề bia tại ngôi chùa. Qua bao nhiêu năm vật đổi sao dời, chùa đã không còn giữ được công năng như ban đầu, sớm muộn cũng sẽ bị chìm trong cơn lốc đô thị hóa và kinh doanh của Trung Quốc nhưng dấu tích của thiên tài Hồ Nguyên Trừng vẫn còn lưu dấu tại đây.

    Theo nhiều nguồn tài liệu khác, trong vùng còn di chỉ của hỏa khí doanh (doanh trại nghiên cứu chế tạo và thử nghiệm vũ khí ). Rất có thể đây chính là nơi mà Hồ Nguyên Trừng đã sống, làm việc cùng gia đình và được an táng tại đây. Để tìm được nấm mồ của ông, trong vùng đất mênh mông này, không thể chỉ dựa vào nhiệt huyết của một nhóm sinh viên được mà đòi hỏi cần có sự tham gia tìm hiểu của những chuyên gia sử học, khảo cổ học, làm việc trực tiếp với chính quyền và các cơ quan chức năng của Trung Quốc mới mong tìm thấy được hài cốt của ông và mang về an táng tại quê nhà.


    Kỳ sau
    : Tìm thấy mộ của danh tướng Đỗ Thành Nhân

    PHẠM TRƯỜNG GIANG


    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  3. #3

    Mặc định

    Tìm mộ danh tướng Đỗ Thành Nhân

    Chủ Nhật, ngày 30/7/2017 - 06:35





    PHẠM TRƯỜNG GIANG

    (PL)- Mộ của danh tướng Đỗ Thành Nhân bị thất lạc, có người nói nằm ở đất Lưỡng Long hoặc khu Tháp Hòa (Phú Lâm)… nhưng nhiều lần đi tìm không thấy dấu vết.

    Đỗ Thành Nhân (hay còn gọi là Đỗ Thanh Nhân, Đỗ Thành Nhơn) không rõ năm sinh, mất năm 1781, được xem là một trong Gia Định tam hùng (hai người kia là Châu Văn Tiếp và Võ Tánh), là ba “con hổ” của đất Sài Gòn xưa.

    “Tôi chết không nhắm mắt nhưng hậu thế sẽ không chê cười tôi”

    Đỗ Thành Nhân theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Nam, về đất Ba Giồng (Định Tường) gây dựng đồn lũy, chiêu mộ được tới 3.000 gia binh. Ông tự xưng là Đông Sơn đại tướng quân, lấy tên đối chọi với quân Tây Sơn. Khi chúa Thuần chết, ông theo phò Nguyễn Ánh, đem quân Đông Sơn đánh khắp nơi, lập được nhiều công trạng như hai lần đánh bại quân Tây Sơn, chiếm được thành Gia Định khiến Nguyễn Lữ phải rút về Quy Nhơn, dẹp các cuộc nổi loạn của người Khmer hay giúp vua Chân Lạp… Vì vậy đến năm 1780, khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, ông được phong chức Ngoại hữu phụ chính Thượng tướng quân. Có thể nói đường hoạn lộ của Đỗ Thành Nhân vô cùng rực rỡ, chỉ trong sáu năm, ông từ chức quan võ nhỏ nhất leo lên đến chức quan võ cao nhất trong triều đình.

    Tuy có tài nhưng Đỗ Thành Nhân cũng có nhiều tật, trong đó có tính ngang tàng, ăn nói bạt mạng nên làm mất lòng rất nhiều người. Khi Nguyễn Ánh bày tỏ ý định cầu viện quân Xiêm và quân Pháp để đánh Tây Sơn, Đỗ Thành Nhân đã thẳng thừng can ngăn: “Mời họ đến thì dễ, đuổi họ đi mới khó”. Do nghịch ý Nguyễn Ánh nên ông cũng bị vua ghét. Sau khi được phong quan chức cao, Đỗ Thành Nhân trở nên tự phụ, ngạo mạn… Triều thần có người đã khuyên Nguyễn Ánh là Đỗ Thành Nhân ngày càng lộng quyền, có nguy cơ phản loạn, nên trừ bỏ sớm đi để ngăn hậu họa về sau. Gia Long chuẩn y, giả vờ bệnh nặng, mời Đỗ Thành Nhân về gặp rồi cho võ sĩ mai phục ngoài tư dinh của ông để bắn tên tẩm thuốc độc hạ sát. Đỗ Thành Nhân vừa ra khỏi dinh bị trúng ba mũi tên, khi chất độc phát tác, biết không sống được, ông ngửa mặt lên trời kêu lớn: “Tôi chết không nhắm mắt nhưng hậu thế sẽ không chê cười tôi”.


    Sợ tội tru di tam tộc, con cháu ông sau khi bí mật chôn cất đã phải tản mát đi nơi khác và thay tên đổi họ để tránh họa. Mãi sau này vua Thiệu Trị mới giải oan cho ông cùng nhiều công thần khác.
    Việc Nguyễn Ánh giết Đỗ Thành Nhân là một sai lầm lớn, thủ lĩnh Tây Sơn Nguyễn Nhạc nghe tin cười nói rằng “Thành Nhơn bị giết, các tướng còn lại không đáng sợ”. Sau đó Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ đưa quân đánh vào Gia Định, đánh đâu thắng đó khiến Nguyễn Ánh phải lưu vong.

    Tìm thì không thấy, không đi tìm lại thấy

    Nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn-Gia Định, bà Trần Thị Mới (hay Đỗ Thị Mới) và Huỳnh Thị Đệ đại diện cho con cháu của Đỗ Thành Nhân đã gửi thư cho nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật đề nghị giúp hai việc: Tìm cách làm rõ công và tội cho Đỗ Thành Nhân và tìm mộ phần thất lạc của ông. Đây cũng là việc mà ông Truật tìm kiếm lâu nay nhưng chưa có kết quả. Bản thân ông Truật cũng là dòng dõi của Đỗ Thành Nhân. Mộ bị thất lạc có người nói nằm ở đất Lưỡng Long hoặc khu Tháp Hòa (Phú Lâm)… nhưng nhiều lần đi tìm không thấy dấu vết.

    Bốn năm sau, đến năm 2002, thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương) mở đường. Sát bên đường Phạm Ngũ Lão có một ngôi mộ cổ vài trăm năm, được dân ở đây gọi là mộ Ông Lớn, tháng 10 âm lịch hay tổ chức cúng giỗ như thành hoàng của làng trước đây. Chính quyền địa phương rất muốn biết đây là ngôi mộ của ai, có tầm quan trọng mức nào để có cách xử lý phù hợp khi giải tỏa mở đường. Ông Đỗ Đình Truật được mời tới nghiên cứu ngôi mộ.

    Đầu ngôi mộ có một tấm minh văn (hay bài kệ) chỉ ghi chung chung ca ngợi công đức của cha mẹ sinh thành, không có thông tin cụ thể về người trong mộ như tên họ, chức vụ và năm sinh, năm mất. Nhưng ở trên miếu thờ gần ngôi mộ có ghi ba chữ “Đỗ Hiệp Trấn” mà dân ở đây vẫn gọi người trong mộ có tên là Đỗ Hiệp Trấn (thật ra hiệp trấn là chức quan cũ, đứng sau tổng trấn). Tất nhiên nếu chỉ có tư liệu như vậy, ắt phải xem đây là ngôi mộ của một ông quan hiệp trấn họ Đỗ nào đó nhưng căn cứ để ông Truật lòng mừng khấp khởi, linh cảm đã tìm được mộ tổ ở đây chính là phần cuối tấm minh văn có ghi tên hai người lập tên là Đỗ Bản và Võ Nhàn. Họ là ai?

    Đỗ Bản và Võ Nhàn là hai tướng Đông Sơn. Đỗ Bản là con trai Đỗ Thành Nhân, còn Võ Nhàn là con trai Võ Tánh. Cả hai chơi thân với nhau từ nhỏ và sau khi Đỗ Thành Nhân bị giết cả hai đã rút quân Đông Sơn về Ba Giồng. Khả năng rất cao là họ đã viết nên bài kệ và sau này con cháu cùng tìm lại mộ của Đỗ Thành Nhân và dựng lại như hiện nay.
    Tại hội thảo về Đỗ Thành Nhân do UBND tỉnh Bình Dương tổ chức năm 2003, các đại biểu nhất trí cao về công lao di dân lập ấp tại xứ sở miền Đông (vùng Thủ Dầu Một và Trấn Biên, Biên Hòa) của Đỗ Thành Nhân nhưng chưa kết luận được di mộ nói ở trên là của Hiệp trấn Đỗ Thành Nhân. Đa số ý kiến cho rằng cần phải chờ khai quật ngôi mộ để xác định thêm chứng cứ.

    Ai nằm trong ngôi mộ cổ?

    Đến tháng 7-2005, việc khai quật ngôi mộ bắt đầu. Ông Nguyễn Thiện Đức, học trò cụ Truật, cùng tham gia khai quật kể lại: “Ngôi mộ ngày xưa đặt ở một khu đồi vắng, mộ được chôn cất theo đúng thuật phong thủy, “đầu gối thiên sơn, chân đạp vạn thủy”, địa trạng ngôi mộ nằm đúng cung Tốn, để đầu về phía Bắc là Phước đức, chân về phía Nam là Thiên y, cho thấy chủ nhân ngôi mộ được thầy phong thủy nào đó chọn đất xây mộ ắt không phải người thường mà là quan lại hoặc nhà quyền quý”.

    Ông Đức (đứng) và GS-BS Phan Bảo Khánh (ngồi) đang nghiên cứu mảnh xương quai xanh. Mảnh xương quai xanh ngả màu xanh đồng (ảnh nhỏ bên dưới). (Ảnh do ông Nguyễn Thiện Đức cung cấp)

    Mộ làm bằng hợp chất vôi mật ong, cát, than trộn với nhựa cây ô dước cứng như xi măng, phía dưới có gạch bản xây làm vách ngăn huyệt mộ, sau khi vất vả phá lớp này, hiện ra bên trong mộ có hai hố cát.

    Thật không ngờ trong ngôi mộ lại có hai quan tài của hai người, một nam, một nữ. Tất cả đều đã mục nát rất nhiều, hài cốt nữ nằm bên trái, còn 12 chiếc răng, xem độ mòn của răng ước tính có độ tuổi tầm 60. Nam giới cao tầm 1,6 m, còn năm cái răng, độ tuổi tầm 50.

    Sau khi nghiên cứu cấu trúc ngôi mộ, có thể thấy mộ dùng hợp chất chỉ có ở thời Lê đến đầu nhà Nguyễn, từ thời Minh Mạng tới Thiệu Trị mới có kết hợp thêm gạch bản. Như vậy mộ xây dựng vào thời Thiệu Trị rất phổ biến lúc đó.
    Hai bộ xương cho thấy về tuổi tác chênh lệch nhau. Có thể do người đàn ông chết trước, sau đó khoảng 10-15 năm đến lượt người phụ nữ qua đời nên chôn cùng với chồng.

    Cấu trúc ngôi mộ cho thấy mộ được xây một lúc, không phải người trước, người sau. Đặc biệt đồ táng chôn theo không có di vật nào đáng kể, cho thấy chủ nhân đã tái táng một lần. Như vậy sau khi người vợ qua đời một thời gian, con cháu mới quy tập hai hài cốt về chôn cùng nhau. Điều này cũng hợp với giả thiết về trường hợp Đỗ Thành Nhân.
    Đặc biệt, ngôi mộ nằm rất gần với tư dinh cũ của Đỗ Thành Nhân, chỉ cách khoảng 200m.

    Kỳ sau: Mang hài cốt Nguyễn Thiện Thuật về với quê hương

    Chiếc xương đòn gánh đặc biệtKhi khảo sát hài cốt nam giới, mọi người nhận thấy hai chiếc xương đòn gánh (hay còn gọi là xương quai xanh ở bả vai), xương bên trái còn nguyên nhưng xương bên phải bị gãy do một vật nhọn tác động (là kiếm hoặc mũi tên) làm gãy xương này.
    Đặc biệt đoạn xương bị gãy này có màu xanh đồng, khác biệt hoàn toàn với những mảnh xương khác đều không có màu xanh như vậy. Đoàn đã bảo quản mảnh xương này, gửi ngay về khoa Giải phẫu ĐH Y Dược TP.HCM để phân tích và đích thân GS-BS Phan Bảo Khánh là trưởng khoa đã đi xuống thực địa để nghiên cứu và ông kết luận: “… Chủ nhân có thể đã bị tử thương.

    Ở vết thương bị vỡ không bình thường và chất độc ở vết thương đã làm cho đoạn xương bị phản ứng đổi từ màu trắng của xương thành xanh đồng…”.

    Còn chất độc ngấm vào xương làm chủ nhân bị chết là chất độc gì thì ngành y sẽ nghiên cứu sau…Kết luận này rất gần giống với nội dung mà gia phả của họ Đỗ ghi lại về cái chết của Đỗ Thành Nhân khi bị trúng tên tẩm thuốc độc của tay chân Nguyễn Ánh.

    PHẠM TRƯỜNG GIANG



    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  4. #4

    Mặc định

    Mang hài cốt Nguyễn Thiện Thuật về với quê hương

    Chủ Nhật, ngày 6/8/2017 - 07:30








    PHẠM TRƯỜNG GIANG

    (PL)- Khi khai quật mộ danh tướng Nguyễn Thiện Thuật, bên dưới quan tài còn nguyên bia đá cũ. Đây là cách quy tập mộ kiểu cũ nhưng rất có giá trị, đề phòng vì bất cứ lý do gì nếu bia mộ phía trên bị hư hỏng hay mất mát, khi tìm thấy mộ người ta vẫn xác định được mộ phần của ai.

    Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh của khởi nghĩa Bãi Sậy, quê ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, Hưng Yên. Ông là hậu duệ đời thứ 30 của Nguyễn Trãi.


    “Vua Bãi Sậy”

    Năm 1874, khi đã đỗ tú tài, Nguyễn Thiện Thuật tiếp tục đỗ cử nhân rồi đình nguyên tiến sĩ. Ông được thăng chức tri phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, rồi được bổ nhiệm giữ chức tán tương quân vụ tỉnh Hải Dương (vì thế nhân dân thường gọi ông là Tán Thuật). Khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai năm 1882-1883, nhà Nguyễn đầu hàng nhưng Nguyễn Thiện Thuật đã kháng lệnh triều đình, ông rút lên Hưng Hóa, Tuyên Quang rồi thành Lạng Sơn để kháng Pháp. Khi thành thất thủ năm 1885, ông rút sang Trung Quốc (TQ).

    Tháng 7-1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương. Nguyễn Thiện Thuật trở về nước, thành lập căn cứ địa Bãi Sậy. Dưới sự lãnh đạo của ông, khởi nghĩa Bãi Sậy lan ra khắp tỉnh Hưng Yên và một số tỉnh lân cận như Hải Dương, Thái Bình.
    Căn cứ Bãi Sậy là khu rừng sậy ở giữa các huyện Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mỹ và Mỹ Hào. Căn cứ Bãi Sậy có vị trí hiểm yếu, tiện phòng thủ, thuận lợi trong tiến công; quân Pháp nhiều lần tấn công nhưng không dẹp được, còn bị tổn thất nặng nề, quân Pháp đặt cho ông biệt danh là “vua Bãi Sậy”. Từ sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (năm 1888) và lưu đày ở châu Phi, phong trào Cần Vương bắt đầu suy yếu. Sức mạnh của quân Bãi Sậy cũng suy yếu dần. Quân Pháp thiết lập được nhiều đồn quanh căn cứ Bãi Sậy để chia cắt người dân với nghĩa quân.

    Trước tình hình khó khăn, Nguyễn Thiện Thuật giao quyền lãnh đạo cho em là Nguyễn Thiện Kế, rồi sang TQ mưu tính các cuộc vận động mới để chống Pháp nhưng không thành.
    Sự nghiệp chưa thành, ông mất vì bệnh ngày 25-5-1926 tại TQ.


    Mộ và nhà bia của Nguyễn Thiện Thuật.

    Viếng mộ người anh hùng

    Năm 1956, ông Đỗ Đình Truật sang TQ phụ trách các lớp học tại Học xá Nam Ninh. Cũng tại đây ông gặp và làm quen với học giả Trần Văn Giáp. Thời điểm bấy giờ ông Giáp đến Nam Ninh để tìm dấu vết của Hồ Quý Ly, do một số tài liệu Minh sử ghi rằng Hồ Quý Ly bị đày làm lính thú rồi bị giết tại đây. Sau khi nghiên cứu các tài liệu cổ sử ở Nam Ninh, ông Giáp khẳng định thông tin Hồ Quý Ly bị đày đến Quảng Tây là không có thực. Đây là những thông tin nền móng đầu tiên giúp ông Truật sau này đi tìm mộ Hồ Quý Ly.

    Rồi một hôm ông Giáp nói với ông Truật: “Sáng mai chúng ta sẽ đi viếng mộ một người anh hùng, đấy là cụ Tán Nguyễn Thiện Thuật”.
    Ông Truật ngạc nhiên, hỏi lại: “Hóa ra mộ cụ Tán Thuật ở ngay Nam Ninh đây sao?”.
    Ông Giáp nói: “Đúng vậy! Ta nhờ con viết một bài điếu để đọc trước mộ của cụ”.

    Được giao trọng trách nhưng thay vì viết bài điếu, ông Truật lại làm một bài thơ dài, trong đó có những câu: “Rừng lau trại sậy quân một nhóm/ Chính nghĩa không mờ nghĩa quốc gia…”.

    Sáng hôm sau hai thầy trò đi đến đồi Quan Kiều, sau khi len lách qua nhiều ngôi mộ, cả hai đến trước một ngôi mộ với bia đá ghi dòng chữ “Việt Nam cách mạng. Cố tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật - Chi mộ”. Tại đây hai thầy trò đã cúi đầu thắp hương tưởng nhớ vị chủ tướng của khởi nghĩa Bãi Sậy, nay nấm mồ xanh cỏ nơi đất khách quê người.
    Ông Giáp nói với ông Truật: “Bây giờ đất nước ta tuy không còn bị Pháp đô hộ nhưng vẫn còn chưa thống nhất, tình hình chính trị-xã hội chưa yên. Khi nào đất nước yên bình, phải báo tin cho con cháu cụ Tán Thuật biết để đưa hài cốt cụ về với quê hương”.

    Ông Truật ghi nhớ lời dặn dò đó…

    Đi tìm con cháu cụ Tán Thuật

    Khi Cách mạng văn hóa xảy ra tại TQ, tình hình bất ổn, nhiều du học sinh Việt Nam, trong đó có ông Truật phải về nước. Tới khi chiến tranh biên giới nổ ra, việc qua lại giữa hai bên bị cách trở. Cho đến khi hai nước bắt đầu bình thường hóa quan hệ những năm 1990, ông Truật cùng học trò Nguyễn Thiện Đức mới liên hệ với những người thuộc dòng họ Nguyễn Thiện Thuật để thông tin. Do là dòng dõi của Nguyễn Trãi nên dòng họ khá đông (ông Nguyễn Thiện Đức cũng là bà con với Nguyễn Thiện Thuật nhưng là họ xa), trong khi cần phải tìm người là dòng dõi trực hệ để rước hài cốt về.

    Trong cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, gia đình Nguyễn Thiện Thuật là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh kháng Pháp đến cùng. Hai người cháu ruột của Nguyễn Thiện Thuật bị triều đình tay sai nhà Nguyễn xử tử. Hai người em ruột của ông là Nguyễn Thiện Dương, Nguyễn Thiện Kế đều hy sinh vì nước. Hai người con trai Nguyễn Thiện Tuyển, Nguyễn Thiện Thường hy sinh anh dũng. Sau khi Bãi Sậy tan vỡ, anh hùng Nguyễn Thiện Tuyển về chiến khu Yên Thế tiếp tục chiến đấu, sau bị giặc bắt và bị xử chém tại Bần Yên Nhân vào tháng 4-1909. Do vậy, để dò hỏi tìm được hậu duệ của cụ Thuật rất khó khăn trong điều kiện thông tin ít ỏi ngày đó.

    Rồi có người cho ông Truật biết ông Trần Trọng Tân (lúc đó đang là phó bí thư Thành ủy TP.HCM) có biết người cháu nội của Nguyễn Thiện Thuật, vậy là ông Truật tới tìm hiểu thì đúng như vậy.
    Nguyên cụ Nguyễn Thiện Thuật còn một người con trai tên Nguyễn Văn Sâm, lúc khởi nghĩa Bãi Sậy hãy còn nhỏ tuổi, sau này ông Sâm vào Huế làm nghệ nhân cung đình chuyên tu bổ, sửa chữa các công trình trong hoàng thành rồi ông vào Nam sinh sống. Ông Sâm có một người con trai tên Nguyễn Văn Long đã tham gia hoạt động cách mạng, là bí thư Biên Hòa đầu tiên. Sau năm 1954, ông Long tập kết ra Bắc, làm giám đốc Công an Hà Nội trong nhiều năm. Chính ông Long cũng là người thành lập nên đội bóng đá Công an Hà Nội vào năm 1956. Khi nghỉ hưu, ông về sống ở TP.HCM. Khi ông Truật tìm tới, ông Long lúc này đã gần 90 tuổi nhưng vẫn còn rất mạnh khỏe và minh mẫn. Được biết tin về mộ phần ông nội của mình, ông Long rất vui mừng.

    Đưa người về với quê hương

    Ông Long đã nhờ ông Vũ Hắc Bồng (lúc đó là giám đốc Sở Ngoại vụ TP.HCM) soạn một công văn gửi qua TQ, trong đó nêu rõ nguyện vọng gia đình muốn xin mang hài cốt tướng quân Nguyễn Thiện Thuật về lại cố hương. Mấy tháng sau bên TQ gửi công văn phúc đáp, họ cho biết do kinh tế phát triển nên TP Nam Ninh đã mở rộng ra, khu vực nghĩa trang ở đồi Quan Kiều vì vậy phải giải tỏa để thành khu dân cư. Ngôi mộ của cụ Nguyễn Thiện Thuật cũng như các ngôi mộ khác ở đây đã bị giải tỏa mấy năm trước đây nhưng không rõ đã quy tập về đâu. Họ sẽ kiểm tra kỹ lại rồi sẽ thông tin sau. Khi nghe tin này, cả ông Truật lẫn ông Long đều rất lo lắng…

    Rất lâu sau, bên TQ mới gửi công văn sang lần nữa, thông báo đã tìm thấy nơi quy tập hài cốt của Nguyễn Thiện Thuật. Thì ra có một ân nhân là một người Việt sống ở TQ, với tấm lòng dành cho một anh hùng đất nước, người này đã đứng ra lo liệu hết mọi việc để di dời mộ phần của Nguyễn Thiện Thuật sang đồi Đại Lĩnh nằm ở phía Nam TP Nam Ninh, cùng khu vực nghĩa trang của bộ đội, thương binh Việt Nam sang TQ điều trị và mất tại đây trước năm 1975.

    Đến năm 2005, tỉnh Hưng Yên đã phối hợp với địa phương và dòng họ của lãnh tụ khởi nghĩa Bãi Sậy Nguyễn Thiện Thuật sang Nam Ninh để bốc mộ. Tại đồi Đại Lĩnh, sau khi làm các thủ tục pháp lý và thủ tục tâm linh (xin phép long thần thổ mạch tại địa trạch cũng như kính xin linh hồn Nguyễn Thiện Thuật cho phép mang hài cốt về quê hương). Hài cốt của ông sau đó được đưa về an táng tại quê hương Xuân Dục, huyện Mỹ Hào. Khu di tích lăng mộ của ông được đặt gần với cây đề cổ thụ, vốn là vọng gác tiền tiêu của nghĩa quân Bãi Sậy năm xưa. Đây không chỉ là mang ý nghĩa lịch sử.

    Để tạ ơn đã báo tin về phần mộ tổ tiên, ông Long, lúc này đã 94 tuổi, mời hai thầy trò ông Truật tới nhà dùng cơm.
    “Đấy là một bữa tiệc thịnh soạn, chúng tôi được mời uống rượu quý nhiều năm tuổi đựng trong chén cổ. Ông Long rất vui và hài lòng vì vào những ngày tháng cuối của cuộc đời, ông đã được chứng kiến phần mộ ông nội trở về với quê hương” - ông Nguyễn Thiện Đức nhớ lại…
    _________________
    Kỳ sau: Ngôi mộ cổ ở cao tốc Long Thành - Dầu Giây

    PHẠM TRƯỜNG GIANG



    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  5. #5

    Mặc định

    Ngôi mộ bí ẩn dưới chân đường cao tốc

    Chủ Nhật, ngày 13/8/2017 - 07:20






    (PL)- Ngôi mộ cổ ở Long Thành, còn gọi là mộ cổ Cầu Xéo, chứa đựng rất nhiều điều bí ẩn mà các nhà khoa học vẫn chưa tìm được lời giải thỏa đáng.

    Trên con đường cao tốc Long Thành - Dầu Giây đã đi qua, rất nhiều ngôi nhà, mồ mả đã phải di dời giải tỏa. Ở khu vực gần trục lộ cũ số 769, hướng sông Đồng Môn, cách Biên Hòa 22 km theo đường chim bay, có hai ngôi mộ cổ bằng hợp chất không có thân nhân thừa nhận.

    Khi người xưa “không cho” hậu sinh phá mộ…

    Lẽ thường, mộ 100 năm trở lên được xem là mộ cổ và được quản lý nhưng hai mộ cổ này không hiểu vì lý do gì lại không có trong danh sách của cơ quan văn hóa địa phương. Năm 2011 đơn vị thi công đã thuê bốn thanh niên chuyên khoan cắt bê tông đến phá bỏ những ngôi mộ này để giải tỏa. Sau khi phá tanh bành ngôi mộ nhỏ, họ đến ngôi mộ lớn hơn gần bên để phá tiếp.

    Kỳ lạ thay, máy cắt, máy khoan phá… vốn dùng để phá bê tông cốt thép dễ như chẻ tre nay đều vô dụng trước ngôi mộ cũ kỹ. Sau mấy ngày cố gắng, máy móc hỏng hết còn ngôi mộ vẫn trơ trơ, chỉ sứt mẻ đôi chút. Nhóm thanh niên lúc này giật mình, cho rằng người nằm trong ngôi mộ không cho phá, họ hoảng sợ bỏ của chạy lấy người, tin tức từ đây lan ra gây hoang mang trong cộng đồng dân cư.
    Trung tâm Quản lý di tích và danh thắng tỉnh Đồng Nai biết tin tìm đến, xác định đây là mộ cổ lâu năm, vội báo cáo về tỉnh rồi liên hệ lên TP.HCM. Đoàn khảo cổ do PGS-TS Phạm Đức Mạnh xuống nghiên cứu, xác nhận ban đầu đây là ngôi mộ cổ ít nhất 200 năm, mộ rất có giá trị. Tỉnh Đồng Nai quyết định khai quật và di dời mộ về Văn miếu Trấn Biên để phục dựng.

    Lúc này thông tin về bốn thanh niên phá mộ đã có ba người đột nhiên chết bất đắc kỳ tử khiến lan truyền tin đồn ngôi mộ linh thiêng, trừng phạt người phá mộ dẫn đến rất nhiều người hiếu kỳ ùn ùn đến xem và tìm cách… xin số đề khiến tình hình an ninh tại nơi này rất phức tạp.

    Họa sĩ Đỗ Đình Chiến, chuyên gia di dời các ngôi mộ cổ, kể lại: “Bản thân tôi đã di dời rất nhiều ngôi mộ nhưng chưa có ngôi mộ nào kỳ lạ như vậy. Toàn bộ khu mộ có tổng khối lượng 50 tấn, chúng tôi bóc tách và di dời khu vực bao quanh mộ không có vấn đề gì. Cuối cùng đến phần mộ, xác định khối hợp chất này chỉ nặng khoảng 5-7 tấn, tôi cho xe cẩu 15 tấn đến, yên tâm là dư sức vậy mà không ngờ không thể cẩu lên được, cứ như chủ nhân không cho mang đi. Dù rất tiếc nhưng tôi đành cho cắt ngôi mộ ra làm đôi mới cẩu đi được, khi mang về phục dựng sẽ phục chế vết cắt để mộ liền lại như cũ”.


    Ngôi mộ bị phá nhưng chỉ mẻ một ít phần phía trên. Ảnh: PGS-TS PHẠM ĐỨC MẠNH

    Ngôi mộ có giá trị rất cao

    Có rất nhiều ngôi mộ vài trăm năm tuổi ở miền Nam nhưng không phải mộ nào cũng di dời, phục chế vì rất tốn kém, chỉ những ngôi mộ có giá trị mới được di dời, phục chế.

    Điểm đầu tiên là ngôi mộ vẫn còn nguyên thủy lớp hợp chất, chưa bị sơn phết lên như nhiều mộ cổ khác (có rất nhiều mộ cổ vô chủ nhưng do được đồn linh thiêng nên người ta đến cầu xin xong tạ ơn bằng cách quét vôi hay sơn mộ, vô tình làm mất giá trị ngôi mộ). Khu di tích mộ hợp chất nằm trên khoảnh đất rộng cỡ 40 m² với kiến trúc có tường thành bao quanh gần như nguyên vẹn và cửa mộ hướng Bắc.

    Bình phong tiền hai đầu trên chặt vát góc, khung hình chữ nhật chính giữa trang trí dạng phù điêu tạo hình các môtíp như: cặp nai dưới gốc đa ở mặt hướng ra cửa trước và “tứ linh” phối trí đối xứng theo đường chéo (long - lân - quy - phụng) ở mặt sau. Gắn hai bên bình phong hậu là cặp tượng phù điêu phối trí đối xứng thể hiện môtíp “lưỡng long triều dương” hoặc “lưỡng long chầu phúc”.

    Đáng chú ý nhất ở khu mộ hợp chất Cầu Xéo là người thợ xưa kiến tạo thêm một cặp ban thờ quy cách của “miếu thờ Thổ Địa” gắn ngay trên bờ bao đối xứng nhau ngang với ban thờ bia. Mỗi ban gồm đế đỡ chân quỳ, khán thờ rộng và cặp tượng linh thú (nghê hay lân cái) đối xứng hai bên.

    Phía trong lớp quách là quan tài bằng gỗ sao còn rất tốt, bên trong là lớp nước ướp xác màu nâu sền sệt. Thi hài còn gần như nguyên vẹn, xương cốt ngả màu nâu đen, còn đầy đủ cốt sọ nguyên búi tóc và các bộ phận xương thân hình. Chủ nhân ngôi mộ là một phụ nữ tuổi 50-60, cao xấp xỉ 1,5 m, được đặt nằm trên chiếu cói phủ một lớp tro dày khoảng 15-20 cm cuối tấm địa. Đáng chú ý là dưới đầu người đã khuất có một lớp thủy ngân màu ánh sáng và phần chân rải đầy lớp quả lạ khoảng 1,5-2 kg. Theo TS Nguyễn Văn Long và các lão nông Đồng Nai, có thể đây là quả nguyệt quế, có rất nhiều ở rừng Trường Sơn phía Nam Việt Nam.

    Ai là người nằm trong ngôi mộ?

    Việc khai quật chưa thể xác định được danh tính vì bia mộ bằng đá gan gà tuy còn nhưng đã bị đục phá, tẩy xóa hết các phần chữ ghi tên tuổi, địa vị người chết…, chỉ còn lại bốn chữ “Phu nhân chi mộ” là đọc được.
    Chưa bàn tới kết cấu mỹ thuật, chỉ riêng việc ngôi mộ được làm bằng loại hợp chất kiên cố đủ cho thấy chủ nhân là một người giàu có hoặc quyền quý. Thi hài người phụ nữ được mặc theo người hơn 10 bộ quần áo bằng gấm vóc màu hồng tía và nõn chuối, vải lụa và the màu nâu sẫm in hoa và dây lá nổi, có cả vải mắt to thưa và giống vải sô. Các trang phục gấm vóc có đính nút áo bằng vàng Tây tập trung gần cổ và bụng. Chân đi đôi hài gấm có thêu chỉ vàng rất đẹp... Đây là những trang phục của một người rất giàu có thời đó.

    Với PGS-TS Phạm Đức Mạnh, ngôi mộ này còn nhiều điểm rất khác lạ “của riêng Nam bộ” mà đến tận hôm nay ông chưa giải mã hết. Ví như, nấm mộ nữ không bé nhỏ như các mui luyện mu rùa thường thấy mà lại bề thế đồ sộ như hình voi phục của các ngôi mộ quý ông Nam bộ. Cặp tượng linh thú (nghê hay kỳ lân cái) chầu ban thờ Thổ Địa Cầu Xéo phối trí trên bờ bao hướng vào ban thờ bia mộ khác với các tượng linh thú thường thấy ở Nam bộ.

    Đặc biệt, cặp tượng phù điêu gắn bên hông bình phong hậu mang môtíp trang trí không phải hình phượng (như mộ bà chánh thất tham tri Bộ Hộ Võ Thục Nhân) mà lại là hình rồng - theo các môtíp quen thuộc “lưỡng long triều dương”, “lưỡng long triều nhật”, “lưỡng long chầu phúc” của nghệ thuật trang trí cung đình lăng tẩm Nguyễn.

    Ông Mạnh đã so sánh bộ cối giã trầu và que ngoáy có cán hình nậm rượu bằng bạc mạ vàng được chôn theo người chết có hình dáng rất gần gũi với các đồ ngoáy trầu ngự dụng của triều Nguyễn đang trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế và đặc biệt giống với cối và chìa ngoáy trầu bằng ngọc kim sa và vàng lưu giữ ở Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.
    Đặc biệt ấn tượng là ở chân bia mộ nữ quý tộc này còn khắc chữ “Hoàng” ������, bởi trong các lăng tẩm quý tộc Nguyễn ở cả Việt Nam, vật liệu kiến thiết có khắc chữ “Hoàng” chỉ xuất hiện trong gạch xây lăng ông nội và thân phụ đức Quốc công Phạm Đăng Hưng (cha đẻ “mẫu nghi thiên hạ” thái hậu Từ Dũ, ông ngoại vua Tự Đức) trong lăng Hoàng Gia (Gò Công, Tiền Giang).

    Với tất cả đặc điểm “phá cách” từ kiến trúc đến điêu khắc trang trí, đồ kiểu ngự dụng trong quan tài xác thực khả năng thân phận mộ chủ chính người hoàng tộc Nguyễn, từ đó tìm hiểu về những người trong hoàng tộc đến sống và chết ở đất Đồng Nai thời điểm đó khiến ông Mạnh suy đoán chủ nhân ngôi mộ là hoàng nữ thứ ba của vua Gia Long, tức công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh, mất ở chùa Đại Giác, đến nay vẫn chưa xác định được mộ.

    đấy vẫn chỉ là giả thiết mà ông đặt ra, những tư liệu hiện có chưa đủ sức chứng minh. Chủ nhân ngôi mộ Cầu Xéo là ai đến nay vẫn là sự bí ẩn.



    Hoa sen trong quan tài có ý nghĩa gì?

    Khi mở nắp quan tài, người ta phát hiện cả lớp lá sen dày phủ kín thi hài. Lý giải điều này, có người xem việc đắp lá sen nhằm giữ xác lâu phân hủy như gợi ý của các nhà dược liệu học về tác dụng của “hà diệp” trong y học cổ truyền Việt Nam. Lại có người giải thích theo ý nghĩa tâm linh liên quan đến tín ngưỡng coi lá sen có tác dụng an thần, vỗ về giấc ngủ ngàn thu của người
    quá cố.

    Ngoài tác dụng khoa học khả dĩ ấy, ý tưởng coi sen tượng trưng cho những trung tâm ý thức khác nhau (Chakra, luân xa) với lá sen (hà diệp) phẳng tượng trưng cho sự giải thoát khiến ông Mạnh liên tưởng đến liên hoa (hoa sen) trong tám biểu trưng giáo Phật và bát bửu có thể hàm chứa ý nghĩa giúp người quá cố hướng đến cõi tịnh độ với hạnh phúc an vui vĩnh hằng chứ không bị cái chết ngắt đoạn như cuộc đời bể khổ.
    _______________________
    Đón đọc trên Pháp Luật TP.HCM Chủ nhật 20-8


    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  6. #6

    Mặc định

    Mộ yểm và những lời đồn đại

    Chủ Nhật, ngày 20/8/2017 - 07:00







    (PL)- Không ít những lời đồn đại về các ngôi mộ yểm gây họa cho người sống. Thực hư thế nào?

    Năm 2003, TP Biên Hòa làm đường Biên Hùng. Trong quá trình thi công, khi san lấp mặt bằng để mở rộng đường tại một mảnh vườn, xe ủi đất làm đường phát hiện một ngôi mộ cổ chìm dưới mặt đất. Hỏi ông chủ vườn, ông này cho biết từ trước giờ gia đình không có ai được chôn trong khu vườn. Mộ này hẳn là mộ xưa, vô thừa nhận.


    Ngôi mộ bí ẩn

    Ban đầu đơn vị thi công định san ủi ngôi mộ để giải tỏa nhưng ông chủ vườn nói: “Đây chắc hẳn là ngôi mộ thiêng, các anh không nên động tới. Gia đình tôi trồng nhiều cây ăn trái trong vườn, trước đây ăn vào đều bị bệnh, chỉ khi không ăn mới hết bệnh nên gia đình từ đó bỏ luôn, không động tới cây trái trong vườn nữa dù không biết nguyên nhân, giờ tôi mới đoán là do có ngôi mộ này trong vườn mà ra…”.

    Đơn vị thi công cho người đi báo với cơ quan văn hóa. Sau đó nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật được mời đến nghiên cứu mộ để đánh giá, tìm giải pháp. Ông Truật cho biết những mảnh vỡ cho thấy đây là một ngôi mộ làm bằng hợp chất kiên cố nhưng không có bia mộ, người trong mộ phải rất giàu hoặc là quan chức, muốn xác định người trong mộ là ai phải khai quật ngôi mộ. Tỉnh Đồng Nai đồng ý việc khai quật.

    Ngày khai quật, ông Nguyễn Thiện Đức, học trò ông Truật, đi xe máy từ sáng sớm ra chợ Bà Quẹo mua hoa đến lễ, thắp hương trước khi đoàn đến. 8 giờ sáng, ông Truật đến. Sau khi khảo sát, đoán định, ông Truật phán: “Khả năng rất cao mộ này không có người và rất độc”.

    Sau đó 10 nhân công cùng khai quật, phải mất tám ngày mới phá xong lớp hợp chất cứng rắn. Khi mở quan tài thì bên trong không có hài cốt, chỉ có một bình gốm, bên trong có một ít tro, một nhúm tóc và một đồng tiền vàng 18 đúc hình một bàn tay đưa hai ngón chĩa lên trời cùng với ba chữ Vạn gia bảo. Sau khi nhìn những đồ vật khai quật được, ông Truật kết luận: “Chúng ta đã khai quật được một ngôi mộ yểm, tôi tin chắc ngôi mộ này nằm trong chuỗi các ngôi mộ yểm của tướng quân Trịnh Hoài Đức, vì ngôi mộ này chỉ cách khu lăng mộ của ngài có vài trăm mét. Xung quanh đây hẳn còn vài ngôi mộ yểm như thế này nữa nhưng chưa phát hiện ra hoặc bị xây lấp lên trên rồi”.

    Sau đó ông Truật nhờ mang một lò than tới, quạt than thật hồng để cân bằng âm dương, gỡ mộ yểm, còn chiếc bình gốm và đồng tiền cổ được chuyển đến bảo tàng Đồng Nai lưu trữ và trưng bày.


    Người khai quật mộ cổ nên đeo mặt nạ phòng độc để đề phòng khí độc trong quan tài. Ảnh tư liệu

    Mộ yểm là gì?

    Trong từ Hán Việt, “yểm” là giấu đi, đồng nghĩa với ếm, ém. Mộ yểm là những ngôi mộ mà khi xây có đầy đủ thành phần như một ngôi mộ bình thường, thậm chí rất hoành tráng, quy mô vì làm giống hệt theo mộ chính nhưng không có bia ký ghi họ tên, thân phận người dưới mộ. Khi khai quật thì bên dưới có quan tài mà không có hài cốt, không có đồ tùy táng mà chỉ có những vật dụng linh tinh nào đó do các thầy địa lý trước đây cho chôn theo để yểm. Những vật dụng này cũng rất đa dạng không giống nhau, có khi là tóc, tiền (như mộ yểm ở trên), có khi là dao, đinh, mảnh sành vỡ… nhưng cũng có khi là người sống được chôn theo để canh giữ mộ (đối với vua chúa).

    Cần phân biệt mộ yểm khác với mộ gió, vì mộ gió tuy không có hài cốt (vì lý do gì đó không tìm được xác) nhưng vẫn có bia ký nên còn gọi là mộ chiêu hồn, mục đích để gọi người chết về nhập vào mộ.

    Theo quan niệm của người xưa, mục đích của các ngôi mộ yểm là để tấn các phương, ngăn tà ma ác quỷ không vào quấy phá mộ chính, thậm chí mộ yểm còn có tác dụng gây họa cho người sống có ý định đào phá mộ chính (để trả thù hay trộm đồ tùy táng). Mộ yểm có thể chỉ có một nhưng cũng có thể là số nhiều để có thể vây quanh mộ chính, thậm chí có thể lên đến năm, bảy mộ, tùy theo mức độ giàu có của người chết hoặc quyết định của thầy địa lý.

    Dễ bị đồn nhảm rằng mộ yểm gây tai họa

    Từ lâu đã có không ít những câu chuyện thêu dệt về những ngôi mộ yểm gây họa cho người sống cố ý hoặc vô tình xâm phạm tới mộ. Dễ dàng đoán được những sự cường điệu, thậm chí bịa đặt trong các yếu tố rùng rợn của những câu chuyện này là nhằm gây nỗi sợ hãi cho người nghe để khiến họ không dám xâm phạm mồ mả.

    Tuy nhiên, cũng có rất nhiều câu chuyện khiến người ta đâm ra bán tín bán nghi về các truyền thuyết mộ yểm. Chẳng hạn lời đồn về khu mộ hoàng tử Cảnh là con trưởng vua Gia Long được khai quật, mộ này có bốn ngôi mộ yểm xung quanh bốn góc, chôn sống theo bốn người lính đứng để canh giữ mộ. Trong khi khai quật và di dời mộ, đơn vị thi công đã san ủi mất mộ yểm, không mang hài cốt của những người lính này đi. Chính nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật khi khai quật ngôi mộ hoàng tử Cảnh đã lăn ra ngất xỉu tại chỗ lúc mở nắp quan tài, may có GS-BS Phan Bảo Khánh cùng xe cấp cứu túc trực ngay đó cấp cứu kịp thời, nếu không đã có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Cũng ông Truật, sau khi khai quật mộ của bà Nguyễn Thị Hiệu (cô ruột của vua Gia Long), trong đó có một ngôi mộ yểm kế bên, ngày hôm sau ông đang ngồi trên lầu vịn lan can bỗng ngã xuống đất, gãy chân phải nằm viện bốn tháng trời… Những câu chuyện như vậy được lan truyền khiến nhiều người tin rằng mộ yểm có thể gây họa cho bất cứ ai động chạm đến.

    Khi tôi đặt câu hỏi cho những người từng khai quật những ngôi mộ yểm, rằng họ có tin vào sự gây họa cho người sống của các ngôi mộ yểm hay không, họ đều thận trọng trả lời: Xét về yêu tố tâm linh, có những chuyện đến nay khoa học vẫn chưa lý giải được nên nhiều người cứ tin theo mà giữ gìn. Khi khai quật mộ cổ, kể cả mộ yểm, mọi người đều phải “trấn” để những người tham gia được an lành, mạnh khỏe sau đó. Mỗi thầy một phương cách nhưng đều giữ bí mật và chỉ truyền thụ cho học trò thân thiết.

    Họa sĩ Đỗ Đình Chiến, Giám đốc Công ty Trống Đồng chuyên khai quật mộ cổ, nói: “Khai quật mộ là việc cần phải làm, tôi không làm cũng có người khác làm thôi. Nếu bị người âm quở thì với số lượng rất lớn các ngôi mộ tôi đã khai quật, giờ này tôi đâu có ngồi đây trò chuyện với anh”.

    Xét về yếu tố khoa học, có thể giải thích được nhiều câu chuyện tưởng chừng hoang đường bí ẩn, như ông Truật bị ngã là do tay vịn cầu thang bị gỡ mất ốc mà không biết. Hoàng tử Cảnh bị cho là chết do bệnh đậu mùa nên người ta đã đổ vào quan tài rất nhiều chất độc để tránh lây lan bệnh, dù trải qua hàng trăm năm nhưng chất độc vẫn còn tích tụ trong quan tài nên khi mở nắp thì bốc ra khiến ông Truật không phòng bị ngất ngay vì hít phải khí độc.

    Theo lời ông Nguyễn Thiện Đức, mộ càng lâu càng tích tụ khí độc, chôn từ 70 năm trở lên khí âm rất nhiều, có trường hợp những người tham gia khai quật hoặc chứng kiến đứng thắp hương thì không sao. đấy không chỉ là yếu tố tâm linh, mà ba nén hương chính đã tạo ra dương khí, cân bằng lại với âm khí của mộ lâu năm. Duy nhất một người lúc đó không thắp hương mà chỉ đến cúi đầu, tối hôm đó về bị bệnh rất nặng, là do bị khí âm xâm nhập vào cơ thể.

    ________________________
    Kỳ sau: Lăng mộ vua Quang Trung hiện ở đâu?

    PHẠM TRƯỜNG GIANG


    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 13-08-2013, 02:24 AM
  2. HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM MINH SƯ
    By huy_hitech85 in forum Đạo Học - Học Đạo
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 24-04-2012, 06:53 AM
  3. SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH (BẢN NÔM PHÙNG THƯỢNG THƯ KÝ)
    By maphuong in forum Dịch học ( Dịch số, Thái Ất, Kỳ Môn Ðộn Giáp, Hoa Mai, Bát tự hà lạc,…)
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 12-04-2011, 05:48 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •