PHẬN LÀM CHA


Cha mẹ rủi sanh con hung bạo,
Tội dưỡng nhi bất giáo đã đành.
Với hình hài mình đã sanh thành,
Thì chữ đạo chữ tình cân đúng giá.
Cơ chuyển thế nơi tay đả quả,
Thay mặt cho Tạo Hóa dựng đời.
Vật tối linh thiên hạ là người,
Cha mẹ vốn là Trời phần xác thịt.
Phận nuôi dưỡng tuy vân cần ích,
Phải dạy răn kẻo nghịch lòng Trời.
Đã lập đời ắt phải dạy đời,
Đừng dưỡng ác hại người mang nghiệp chướng.
Khá nhớ đạo nhơn luân là trượng,
Phép gia đình có ảnh hưởng đến nhơn quần.
Hễ biết mình trọng trách thần dân,
Thì phải biết ân cần bề giáo dục.
Đời ví gọi phương nhà hạnh phúc,
Là con nhà nêu đặng chút danh thơm.
Đừng sanh con đời thấy bắt nhờm,
Tránh nòi dữ bằng hơn tránh rắn.
May đạo đức nghiệp nhà có sẵn,
Phương tề gia khá gắng giữ gìn.
Hằng bữa trau tánh đức minh minh,
Lúc chồng vợ giao tình tua để dạ.
Luyện trí thức thông minh hòa nhã,
Tứ đổ tường chẳng khá nên gần.
Hễ thân mình thiểu khí loạn thần,
Thọ khí bẩm nhâm thần con dại dột.
Cữ hoa nguyệt bớt đi thì tốt,
Tinh khí đầy hài cốt trẻ tráng cường.
Khi giao hoan có độ có lường,
Vợ bịnh yếu chớ thường lân cận.
Đừng nhè lúc vợ chồng đương giận,
Mới vừa vui vầy trận tam bành.
Cũng đừng quen theo phép dỗ dành,
Ép buộc vợ thỏa tình hoa nguyệt.
Khi thấy dạng nhụy hoa đã kết,
Thì phải toan dứt tuyệt đường ong.
Nghén ba trăng phải gắng gia công,
Dạy con trẻ còn trong bụng mẹ.
Phải tiếp dưỡng vợ thường mạnh khỏe,
Kiếm phương làm vui vẻ hằng ngày.
Lựa chuyện xưa tích cũ cho hay,
Điều mở trí thường hay luận biện.
Coi chừng lựa sách, thơ, tuồng, truyện,
Những phong tình đừng khiến cho coi.
Sự uống ăn xem sóc hẳn hòi,
Trong đi đứng chơi bời cho phải cách.
Thân thể dạy giữ gìn tinh sạch,
Thường thuốc men cho huyết mạch điều hòa.
Tập quen vui nhắm nguyệt xem hoa,
Ghẹo tính toán cho ra cách trí.
Chọc cho có dịp suy, dịp nghĩ,
Đừng cho gần mấy chị đàn bà.
Hay bày điều nói quỷ nói ma,
Dùng những tiếng rủa gà mắng vịt.
Phép dạy trẻ dạy điều cần ích,
Từ khi còn con nít tới nên người.
Chừng coi mòi đã đến gần nơi,
Thường chọc vợ vui cười hằng bữa.
Sắp đặt trước đừng lòng dụ dựa,
Lo sẵn sàng bếp lửa nồi xông.
Khi sản sanh phải có mặt chồng,
Cơn đau đớn giải lòng người đẻ chửa.
Bút Bần Đạo ngưng khoan viết nữa,
Đặng phân tường có chửa dạy con.
Đừng ngờ con trong bụng còn non,
Hiểu chi đặng phòng toan dường ấy.
Tưởng dạy vợ họa may phải vậy,
Nói dạy con lẽ quấy khó tin lời.
Bần Đạo đâu vọng ngữ nói chơi,
Dạy vợ chửa tức thời dạy trẻ.
Những trí thức tinh thần có lẽ,
Nhiễm vào tâm chửa đẻ trọn tinh thần.
Có tinh thần mới có xác thân,
Biến thân đủ tinh thần quán chúng.
Trí cao thượng nhiễm từ trong bụng,
Con đẻ ra chắc đúng bực thông minh.
Tỷ khác nào tấm kiếng chụp hình,
Có bóng chói đã in mọi vật.
Đầu mới tượng óc còn thiếu chất,
Phân thông minh lật đật bỏ vào.
Cây hưởng phân quý sẽ dường bao,
Thì óc trẻ lại nào có khác.
Tính cha đã thông minh mẫn đạt,
Con chắc là bác lãm quần thi.
Thần mẹ thêm cách vật trí tri,
Con ắt đặng quảng tri thế sự.
Dầu vợ dốt hay là hay chữ,
Nghe điều hay cư xử gia đình.
Phép truyền thần dầu chẳng đặng linh,
Việc dạy dỗ vợ mình còn chế sửa.
Để ý thấy trẻ thơ nhiều đứa,
Tánh thông minh từ thuở mới lên ba.
Ấy là nhờ tánh chất mẹ cha,
Gặp phải phép hiệp hòa sanh đặng vậy.
Một điều nữa đời hằng khó thấy,
Trai gái nhau đẻ quấy giống như khuôn.
Vì nhiều thương ít gặp nên buồn,
Khi gặp mặt khó buông nhau đặng.
Khi chửa nghén tình thương đeo đắn,
Nhớ hình đi tướng đứng bộ ngồi.
Trông dạng hình lòng nhớ không nguôi,
Hình dường rọi vào nơi tử phủ.
Hễ trẻ mới tượng hình vừa đủ,
Thì mẹ đà bảo phủ ngoài khuôn.
Sanh đẻ con ưa thảm ưa buồn,
Ít có đứa ra tuồng vui vẻ.
Lại cũng thấy người ta mà đẻ,
Đứa con đầu giống nghé giống bò.
Tại mẹ thường hay sợ hay lo,
Gặp trâu chém bò xô, nên đẻ giống.
Vợ thầy pháp quỷ ma thường lộng,
Đẻ ra hình như giống ếch bà.
Bởi vẽ hình tướng tá cùng nhà,
Vợ ghê sợ đẻ ra in dạng.
Nếu để ý xét suy cho cạn,
Cả sự thương, sự sợ, giảm tinh thần.
Tinh thần hay liên tiếp nhâm thần,
Trí hóa nhập vào thân đứa chửa.