Nhìn lại sử liệu viết về Quang Trung Nguyễn Huệ và Gia Long Nguyễn Ánh

[​IMG]

Nguyễn Văn Lục​

Lịch sử bao giờ cũng ở số nhiều.

Vì thế có thứ lịch sử của kẻ cai trị , kẻ cầm quyền và nhất là thứ sử của kẻ cầm bút mà đôi khi họ chỉ là thứ cung văn . Trong các chế độ tài đảng trị bây gìờ thì nhà sử học bị liệt vào hạng văn nô . Trong khi đó , lịch sử lại chỉ có thể xảy ra duy nhất một lần .

Phần còn lại của lịch sử được viết đi , viết lại nhiều lần tùy theo mỗi người và tuy theo mỗi thời kỳ .

Trong lịch sử Việt Nam có hai nhân vật lịch sử cách đây hơn 200 năm , người này người kia đã làm nên vận mệnh lịch sử Đại Việt là Tây Sơn Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh Gia Long . Vóc dáng và sự nghiệp của họ đã được huyền thoại hóa , được vinh danh hoặc đã bị bôi nhọ và bị người đời nguyền rủa tùy theo ngòi bút của các người viết sử .

Vấn đề ở đây là có một thứ lịch sử của những nhân vật lịch sử hay là thứ lịch sử của những người viết sử ? Muốn nhìn lại chân diện những nhận vật lịch sử này quả thực không dễ . Một phần phải xóa đi những lớp bụi thời gian đã đóng rêu , đóng mốc đến mọc rễ trên họ . Một phần phải bỏ đi những định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người như một thứ chân lý, sự thật hiển nhiên .

Đó là hai công việc đồng thời phải làm . Chẳng những phải xóa bỏ thần tượng trong sách vở , xóa bỏ những đám mây mù tài liệu và hơn tất cả , xóa bỏ thần tượng trong đầu mỗi người mà công việc ấy gần như thể là một công việc tẩy não .

Và nhiệm vụ của sử học không thể câu nệ chỉ căn cứ vào sự đồng tình ít hay nhiều của người đời rồi cứ thế trôi theo . Bài viết này mong trả lại được công đạo cho sự thật và một cách gián tiếp giải trừ một số huyền thoại về Tây Sơn Nguyễn Huệ và trả lại công đạo cho Nguyễn Ánh dựa trên một số công trình của các nhà nghiên cứu chuyên ngành về sử .

Người viết cùng lắm chỉ làm công việc thông tin qua những kiến thức sử của các vị chuyên ngành viết sử .

1. Có sự chênh lệnh quá đáng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn

Người viết nhận thấy có một sự thuận lợi rõ ràng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn và sự bất lợi vì quá ít tài liệu viết về phía Nguyễn Ánh . Số lượng chênh lệch về tài liệu có một ý nghĩa gì ? Phải chăng những người viết sử chạy theo số đông như về hùa ? Hay viết với nhiều cảm tính ?

Động cơ nào đã thúc đẩy họ viết như thế ?

Hiểu được những động cơ thúc đẩy họ viết là hiểu được một phần sự thật . Chẳng hạn cộng sản Hà Nội trước đây đã hết lời ca tụng Tây Sơn nhằm lợi dụng Tây Sơn . Nhưng phía các nhà viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 thì do động cơ nào ?

Phía tài liệu sử nhà Nguyễn, ngoại trừ một số sách sử của triều Nguyễn viết một cách chính thức như ” Đại Nam chính biên liệt truyện “ , ” Đại Nam Thực lục tiền biên “ và ” Chính Biên “ viết theo lối biên niên . Đây là số lượng tài liệu đồ sộ , nhưng lại không dễ được tiếp cận và nay dù đã dịch từ Hán ra Việt cũng không mấy người có để đọc . Người viết đọc các tập tài liệu này , măc dầu có những khuyết điểm không tránh được như sự rườm rà , quá chi ly từng sự việc , nhưng rõ nét tính chính thống .

Không thể phủ nhận tinh thần công tâm , nhân cách các nhà viết sử biên niên triều Nguyễn .

Nhiều sự kiện lịch sử nay vẫn có giá trị sử học vô giá .

Ngoài thứ chính sử đó ra thì hầu như không có mấy ai “ ở ngoài luồng ” sau này để công sức viết đến nơi đến chốn về 100 năm nhà Nguyễn Gia Long .

Hai mươi Lăm năm Nguyễn Ánh nằm gai nếm mật lao đao . Ông vào sinh ra tử . Và gần 100 năm dòng họ Nguyễn ngồi ở ngôi báu .

Biết bao điều để phải nói , phải viết .

Không lẽ chúng ta lại phải ngồi đợi một nhà sử học ngoại quốc nào đó lò mò để cả đời ra viết hộ chúng ta ?

Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi mà đều là những năm bận rộn với chinh chiến . Liệu Tây Sơn đã thực sự làm được gì ? Vậy mà người ta có thể ngồi “ vẽ ra ” nào là về chính tri , ngoại giao , chính sách về tôn giáo , tiền tệ , v…v…. và v…v…. , và ngay cả văn học thời Tây Sơn nữa .

Trong khi nhà Nguyễn phải mất 88 năm mới biên soạn xong bộ Đại Nam Thực Lục mà số người đọc được đếm trên đầu ngón tay ! Vì những sách này lại rất khó đến tay người đọc vì phần đông dân chúng không biết chữ Hán .

Cho nên đối với phần đông dân chúng vì không được đọc chính sử nhà Nguyễn nên chỉ nghe nói về sử hơn là đọc sử . Biết về Nguyễn Ánh phần đông chỉ là nghe lời đồn hơn là đọc sử . Đây là điều bất lợi không nhỏ cho Nguyễn Ánh Gia Long bị bao vây bởi một thứ sử dân gian , truyền miệng . Làm thế nào bịt miệng dân gian ?

Tư liệu viết về Quang Trung đã nhiều lại viết một cách thiên lệch

Hiện tượng tài liệu sử viết về Quang Trung lấn lướt tài liệu viết về Nguyễn Ánh là điều có thực . Có thể nó bắt đầu kể từ khi Trần Trọng Kim , một sử gia Việt Nam dưới thời chính phủ Bảo Đại viết bộ sử Việt Nam Sử lược với một cái nhìn mới về vua Quang Trung .

Nó đã mở đầu cho một trào lưu viết sử về Quang Trung với nhiều hào quang , với nhiều danh xưng tán tụng như ” anh hùng áo vải , anh hùng dân tộc dựng cờ đào , v…v…. ” .

Nói không quá đáng là có sự hình thành một dòng Văn sử học viết về Tây Sơn .

Đồng ý phải nhìn nhận ở một mặt nào đó , đôi khi một dân tộc cũng cần được nuôi dưỡng bằng một số hào quang lịch sử như thế chấp cho sự tầm thường và kém cỏi của đời sống .

Sức quyến rũ về hình ảnh một Quang Trung anh hùng làm nức lòng mọi người , khơi dậy tình tự dân tộc phải chăng cũng là một điều cần và đủ .

Nhưng liệu nó có thể thay thế cho sự trung thực của sử học ?

Nhà văn Duyên Anh đã có lần viết truyện ” Mơ được làm Người Quang Trung “ .

Tài liệu sử viết về Quang Trung nhiều đã đành . Cạnh đó , thơ văn , kịch nghê , sân khấu , tiểu thuyết , sách giáo khoa , tên các địa danh , ngay cả các lễ hội đã dành một chỗ cao cho “ người anh hùng áo vải ”.

Phải chăng có một thứ sử học , văn học và văn hóa Quang Trung thấm đẫm tình tự dân tộc , đất nước , con người theo cái tinh thần chúng ta sống với thời đại của những người anh hùng ?

Và cứ thế tiếp nối sau đó có cả hơn một ngàn tài liệu sách vở viết về Quang Trung . Cuốn sách viết về Tây Sơn được một số nhà viết sử tham khảo rộng rãi là cuốn của Hoa Bằng : ” Quang Trung – Nguyễn Huệ , anh hùng dân tộc 1788-1792 “ , Sàigòn , 1958 .

Tựa đề sách coi Tây Sơn là anh hùng như một khẳng định vị thế của Quang Trung trong lịch sử và nhất là trong lòng người .

Nguyễn Phương với cuốn ” Việt Nam thời bành trướng : Tây Sơn “ , Sài Gòn , Khai Trí , 1967 .

Người ta có thể đồng ý với nhau là tài liệu viết về Quang Trung thì nhiều . Nhưng phải chăng viết giống nhau cũng nhiều .

Trong đó có nên nhìn nhận tính chất viết nhái và thời thượng có phần trổi bật không ?

Người trước viết thế nào thì người sau viết lại như thế . Nó chẳng khác gì khi có phong trào “ thời thượng triết hiện sinh ” sau này .Phải chăng có một phong trào , một sùng bái Tây Sơn ?

Ở miền Nam , tập san Sử Địa là “ ấn tượng và biểu tượng ” nhất của phong trào này cũng đã trôi theo một dòng chảy “ thời thượng ” Tây Sơn . Trong đó Tập san Sử Địa đã dành ba số chủ đề bàn về Tây Sơn .

Ý hướng thiện chí thì có . Nhưng nay đọc lại thấy một số bài tham khảo viết dựa trên những kiến thức “ định sẵn ” , phần biện luận một chiều được chú trọng nhiều hơn phần tài liệu sử .

Đây là tính chất đặc biệt của các cây viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 và có thể cả sau 1975 viết trong tình trạng thiếu tài liệu . Càng thiếu tài liệu thì càng biện giải thay vì trưng dẫn tài liệu .

Đã thế, cách viết , cách chọn tài liệu , nhất là phong cách , ngôn ngữ xử dụng cho người đọc bây giờ có cảm tưởng một số vị ấy tránh những tài liệu xem ra bất lợi về Tây Sơn .

Đó là lối viết sử viết một chiều. Đó cũng là tính chất đặc biệt của một số người viết sử mà đôi vị dù viết rất cảm tình , rất thiên lệch , phong cách viết , ngôn ngữ xử dụng đọc thấy “ tự cao ” ngoài khuôn khổ mà vẫn tự khoác cho mình vai trò sử gia viết trung thực .

Tôi muốn đặc biệt dành những nhận xét ở trên để nói đến trường hợp Vũ Ngự Chiêu , Nguyên Vũ . Đây là cái bệnh “ ngụy tín ” mà J.P. Sartre đã vạch trần trong những luận cứ triết học của ông .

Vì thế nói chung trong các bài tham khảo ấy , hầu như không có mấy bài chú trọng đến tài liệu sử Trung Hoa đời Càn Long . Cũng ít chú trọng đến các tài liệu do phía người Pháp qua những phúc trình và thư từ của các giáo sĩ thừa sai gửi về cho gia đình hoặc tu hội của họ . Những tài liệu này ngoài tính chất quý báu là cái nhìn tại chỗ và không bị chi phối nhiều về phe phái chính trị hẳn là có ưu điểm nói lên một phần sự việc đã xảy ra .

Bà Đăng Phương Nghi người đầu tiên dịch các tài liệu sang tiếng Việt như hai tài liệu : ” Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ “ , Sử Địa số 9-10 , 1968 , tr94-243 và ” Triều đại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương “ , Sử địa số 13, Sàigòn 1969, tr.143-180 .

Tài liệu đã hiếm hoi . Nhưng có một số tài liệu “ đầu tay ” cùng thời với sự kiện lịch sử như thế này thì lại úy kỵ không dùng . Riêng người viết bài này thì ngược lại không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi đọc sấp tài liệu này .

Vậy mà phần đông người viết sử miền Nam hình như tránh né , ít xử dụng các loại sử liệu của các thừa sai Pháp . Phải chăng vì nó trình bày những “ bất lợi ” cho Tây Sơn .

Xem ra nhiều nhà viết sử dị ứng với kho tài liệu này ? Phải chăng vì nội dung của chúng đi ngược với những kiến thức sử quen thuộc , hay nội dung đụng chạm đến thần tượng Quang Trung mà họ đã trót tô vẽ ?

Có người như Vũ Ngư Chiêu không ngần ngại xếp chúng vào loại tài liệu “ lời đồn ” hay “ nghe kể ” .

Hoặc cho rằng các nhà truyền giáo này không có ý định viết sử . Hoặc họ có lập trường chính thống ngả theo ủng hộ Nguyễn Ánh thay vì “ tiếm vương ” Quang Trung .

Nhưng , theo người viết , chính vì họ không có ý định viết sử, mà điều họ viết chỉ kể lại nên về mặt sử liệu không thể coi nhẹ được .

Vì thế , đấy vẫn là thứ tài liệu đầu nguồn , trực tiếp bằng sự có mặt của họ như một nhân chứng sử .

Sự kiện họ là nhân chứng là điều quan trọng nhất . Cùng lắm , ta dùng chúng với sự thận trọng như bất cứ tài liệu sử nào .

Xin nêu ra ở đây như một bằng chứng là những vấn đề như chiến dịch Tây Sơn đánh ra Bắc cũng như lịch sử nhà Tây Sơn trong hơn 40 số Tập San Sử Địa với rất nhiều giới hạn tài liệu .

• Chủ đề thứ nhất : ” Đặc Khảo về Quang Trung “ . Trong đó có đến 4 bài viết của Tạ Chí Đại Trường như : ” Vai trò của Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn – Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn “ v…v…. Hoàng Xuân Hãn đóng góp với bài : ” Việt Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên “ , một sử gia Trung Quốc đời Thanh . Tạ Quang Phát với bài : ” Vua Quang Trung qua chính sử triều Nguyễn “ . Nhưng một tài liệu không thể bỏ qua được của bà Đặng Phương Nghi trích và dịch ra từ Văn khố Âu Châu bao gồm các thư : ” Lettres Édifiantes et Curieuse “ của Gia Tô Hội .

• Chủ đề thứ hai được thực hiện ngay năm sau , tháng 1-3 , năm 1969 để kỷ niệm : ” Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu , Đống Đa “ . Tạ Chí Đại Trường như thường lệ có bài : ” Đống Đa , mâu thuẫn văn hóa vượt biên giới “ . Hoàng Xuân Hãn với ” Bắc Hành Tùng Kí “ . Nguyễn Nhã với : ” Tài dùng binh của Nguyễn Huệ “ . Đăng Phương Nghi dịch : ” Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương “ .

• Chủ đề thứ ba số tháng 1 – 3 năm 1971 : ” 200 năm Phong Trào Tây Sơn “ với các bài của Hoàng Xuân Hãn : Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “ Cử Trung Ngân ” . Việc mất đất 6 châu Hưng Hóa của Nguyễn Toại . Những ngày tàn của Tây Sơn dưới mắt giáo sĩ Phương Tây , bản dịch của Nguyễn Ngọc Cư ( tài liệu Nha Văn Khố Pháp do bà Đặng Phương Nghi để lại trước khi bà sang Pháp dạy học ở Đại học Sorbonne ).

Trong cả ba số chủ đề trên , sự đóng góp của Tạ Chí Đại Trường là nhiều và trổi bật . Nhưng sự đóng góp của ông Hoàng Xuân Hãn và bà Đặng Phương Nghi trong cách nhìn mới , tìm tòi nhiều tư liệu là đáng kể hơn cả .

Ít ra hai người đã mở ra một hướng nghiên cứu sử học như mở một cái lối đi trong khu rừng rậm .

Phía các người viết sử miền Bắc

Phần các nhà viết sử miền Bắc xem ra “ đi trước ” các nhà viết sử trong Nam . Họ gán cho Tây Sơn những vai trò “ cách mạng ” đi trước cả Mác-Lênin . Và phải chăng Tây Sơn là ông tổ của cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ? Người ta đọc được các bài viết sau đây về Tây Sơn , Nguyễn Huệ :

- Xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVIII và những phong trào nông dân khởi nghĩa.
- Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ.
- Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn.
- Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn qua một ít bức thư của người ngoại quốc đã ở Việt Nam đương thời.
- Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn
- Một số tài liệu về vấn đề ruộng đất thời Quang Trung

Người ta cũng thừa hiểu rằng tất cả những người viết sử miền Bắc, dựa trên Sử quan duy vật biện chứng đã biến sử học trở thành công cụ cho chế độ ấy. Mặc dầu miền Bắc có một số trí thức đáng nể . Nhưng những vị này cũng tự khuôn mình vào lối viết theo “ lề phải ” như Nguyễn Đổng Chi , Trần Văn Giáp , Đào Duy Anh , Trần Thanh Mại , Trần Văn Giàu , Vũ Ngọc Phan , Trần Đức Thảo .

Có thể gọi chung đó là thứ sử phi sử . Đó cũng là là thứ sử nay phải viết lại hết , viết lại từ đầu vì những điều gì họ viết về nhà Tây Sơn thì đều chỉ có mục đích tuyên truyền .

Họ càng “ tụng ” Tây Sơn , Tây Sơn càng không phải Tây Sơn .

Sự ca tụng Tây Sơn có khác gì bây giờ họ đang “ đánh bóng ” Lý Công Uẩn ?

Với những dụng ý như thế , Tây Sơn Nguyễn Huệ đã được bôi vẽ bằng rất nhiều hình ảnh không thật .

Sau 1975 , Quách Tấn-Quách Giao có cho in Nhà Tây Sơn , xnb Trẻ , TP.HCM , 2000 .

Đặc biệt có cuốn sách của Trần Quỳnh Cư-Trần Viết Quỳnh nhan đề : Mười ba đời nhà Nguyễn đã không thiếu những lời khiếm nhã đối với các vua nhà Nguyễn . Nhưng đặc biệt ở trang 172 có ghi : Hành động cách mạng “ số một ” của vua Bảo Đại , trích hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe cho thấy sự kính trọng của Bảo Đại đối với “ thánh ” Nguyễn Ái Quốc !

Những tài liệu ít ỏi viết về Nguyễn Ánh và khảo hướng viết sử diện mở rộng

Nhưng viết về Nguyễn Ánh , khó khăn và hiếm hoi lắm mới gom được vài bài như : “ Một vài ý kiến về sự nghiệp Gia Long ” , Phạm Việt Tuyền , Đại Học Huế , số 8 tháng 3/1958 . Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Anh : ” La Monarchie des Nguyên de la mort de Tu Đuc à 1925 “ . Bài viết gần đây như : ” Đánh giá lại một số tài liệu về thời kỳ Tây Sơn “ , số 3, tháng 4-6, 2007, Dòng Sử Việt .

Mới đây nhất, có bài viết khá lý thú của Võ Hương An : ” Bàn về Tây Sơn , Nguyễn Ánh “ . Chuyện đời vay trả giải lý một phần nào những nỗi oan đổ trên đầu Nguyễn Ánh .

Có thể còn có một số bài viết khác mà người viết không thu tập được . Nhưng nói chung nó quá ít ỏi so với số lượng tài liệu viết về Tây Sơn .

Nhưng người viết tin rằng sẽ có những loạt bài khảo cứu nghiêm túc nhìn lại Tây Sơn trong tương lai . Riêng các nhà viết sử có tiếng tăm ở miền Nam trước 1975 , chắc hẳn phải điều chỉnh lại tầm nhìn lịch sử về các chiến thắng cũng như con người Tây Sơn cho thích hợp .

Như nhận xét ở trên, ông Hoàng Xuân Hãn là một trong những người sớm nhận ra tính cách “ một chiều ” trong các bài khảo luận về Quang Trung . Vì thế, ông đã dịch Việt Thanh Chiến , theo Ngụy Nguyên , một sử gia Trung Quốc đời Thanh trong Càn Long chính vũ An-Nam ký , năm Đạo Quang thứ 22 – 1842 , nhằm cân bằng kiến thức lệnh lạc một chiều của một số người viết . Bài viết này về mặt sử liệu nên được coi là một đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu chiến dịch đánh ra Bắc của Tây Sơn Nguyễn Huệ .

Ông Hãn còn viết thêm bài : Phe chống Đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “ Cử Trung Ngân ” .

Ông cũng đã chú trọng và giới thiệu đến các bộ sách sử khổng lồ Đại Thanh Thật Lục được xuất bản bên Nhật để độc giả có thêm một cái nhìn “ theo lề trái ” về Quang Trung .

Cái ưu điểm của ông Hoàng Xuân Hãn mà một số sử gia thời đệ nhất và đệ nhị không có được là ông rành chữ Hán , tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của Trung Hoa cũng giống như các ông Phan Khoang , Chen Ching Ho ( Trần Kình Hòa ) .

Viết sử Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Hoa mà không rành Hán Văn , lại không chú trọng đến các tài liệu phía Trung Quốc phải chăng là một thiếu sót mang danh nghĩa một nhà sử học ?

Cái ưu điểm của học giả Hoàng Xuân Hãn là cái nhìn cao và vượt trên tài liệu chỉ từ một phía . Và theo ông , cần tham khảo sử liệu từ nhiều phía .

Vì thế , viết sử ta mà không đọc được sử Tầu thì mất đi ít nhất một nửa sự thật .

Sau này , các người biên khảo sử như Nguyễn Duy Chính cũng đi theo hướng khảo cứu đó khi tìm hiểu – điều mà ông gọi là Đi tìm một mảnh khuyết sử – thông qua cuốn Khâm Đinh An Nam Kỷ lược . Cuốn sách của triều đình nhà Thanh tổng hợp tất cả những thư từ , chiếu biểu của vua Càn Long liên lạc trao đổi với nước ta .

Cũng theo ông Nguyễn Duy Chính , đó là một văn bản hiếm quý để trong thư viện của vua Gia Khánh ( 1798-1820 ), đóng dấu Ngự Thư Phòng Bảo , được in lại do Cố Cung Bác Vật Viện biên tuyển , ấn hành lần thứ nhất vào tháng 6 năm 2000 .

Vì thế khẳng định rằng viết về sử Việt mà thiếu sự tham khảo tài liệu sử Tàu thì dễ có nguy cơ rơi vào khiếm khuyết sử .

Sử một lần nữa phải viết lại và nhiều bài viết sử thập niên 1960 chỉ có giá trị thư tịch , tồn trữ đối chiếu mà không hé mở cánh cửa vào sự thật .

Cho nên phần đông các tham luận về sử , đặc biệt viết về Quang Trung Nguyễn Huệ đăng trong hơn 40 Tập San sử địa thì hiện nay chỉ có chút ít giá trị tham chiếu . Nếu không nói là phải viết lại toàn bộ .

2. Những ngộ nhận và đánh giá sai lầm về Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ

Từ những thiếu sót về tài liệu cộng với “ trào lưu văn sử học Tây Sơn ” đã đưa tới tình trạng nhiều tác giả viết sử đã có định kiến về Nguyễn Ánh . Người ta có cảm tưởng giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh có một cái trục về điều xấu và một trục về điều tốt. Sự phân biệt chính tà hầu như rõ rệt và phân minh lắm, Cái gì về phía Nguyễn Ánh là phản phúc , tàn độc , là dã man , là phong kiến . Cái gì về phía Quang Trung là anh hùng , hào kiệt , là cách mạng nông dân , là chiến thắng thần thánh, là “ hết lời , hết ý ” .

Tinh thần phân biệt thị phi giữa thiện ác , giữa xấu tốt là một “ bước lầm ” dẫm chân giữa các lãnh vực . Không phân biệt rõ ràng ranh giới và trách nhiệm giữa lãnh vực sử học , lãnh vực chính trị và lãnh vực đạo lý .

Nhiều nhà sử học thay vì trình bày khách quan sự việc đã nhảy chổm sang lãnh vực đạo lý , đưa ra những lời phê phán đáng nhẽ thuộc thẩm quyền đạo lý .

Việc phê phán sự “ tàn ác ” của Nguyễn Ánh mà bỏ quên bối cảnh lịch sử của thời đại ấy với khung pháp lý , chính trị của thời đại ông ta phải chăng là một thiếu sót ? Chẳng hạn , việc phê phán hình phạt cho voi giầy thật đáng phê phán ở thời đại này , nhưng lại là việc “ thông thường ” trong khuôn khổ chính trị , pháp lý thời trước .

“ Phong trào thần tượng Tây Sơn ” còn lan tỏa ra chung quanh hào quang của ông ấy . Chẳng những Tây Sơn được coi như anh hùng hào kiệt đã đành mà đến tất cả các bộ tướng, các cận thần đến vợ con , đến những quan hệ “ hôn nhân chính trị ” chung quanh ông cũng tắm gội trong cái hào quang ấy .

Hầu như có một thế giới Tây Sơn , một thời đại Tây Sơn – một thời đại vàng son – không ai có thể nói khác đi được .

Các cận thần như La Sơn Phu Tử , Nguyễn Thiếp là những bậc trí giả , đạo đức cao vời . Họ vừa khôn ngoan , vừa đạo hạnh , vừa chính nhân quân tử , vừa nho phong đạo cốt , vừa ứng xử tuyệt vời ban ra những lời nói vàng ngọc đáng ghi khắc .

Cái hay của Huệ là chỗ biết nghe , biết dùng người tài .

Về các tướng tá chung quanh ông như Trần Quang Diệu , Bùi Thị Xuân là những mãnh tướng can trường có đảm lược ngoài trận địa . Chẳng những thế còn có khí tiết cho đến lúc bị voi giầy . Ai ai không xúc động khi được nghe những lời đối đáp can trường giữa mẹ và con gái bà Bùi Thị Xuân .

Chỉ không ai ngạc nhiên hỏi xem ai là người đã được chứng kiến cái cảnh đau lòng đó và có đủ thẩm quyền ghi lại từng câu , từng chữ một cách trung thực ? Để đến nỗi ngày có người đã viết lại cảnh đó trong dịp ngày lễ Vu Lan ?

Tuyệt vời cái scénario này .

Ngọc Hân công Chúa với Ai Tư Vãn đi vào huyền thoại dân gian và sau này thể hiện qua Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác như một bản Tình Ca bất hủ .

Nay thì từ lịch sử đã chuyển sang một công đoạn khác , Văn Học .

Từ lịch sử chuyển sang văn học dĩ nhiên có một đứt đoạn được bù khuyết bằng cái gọi là “ hư cấu ” . Nếu người viết sử ít nhiều còn dè dặt trách nhiệm , băn khoăn về sự đúng sai của sử liệu thì nhà văn tự vịn vai hai chữ “ sáng tác ” để viết gì thì viết .

Nhưng câu hỏi đặt ra là nhà văn có quyền viết tên thật các nhân vật lịch sử đồng thời ” hư cấu ” tùy tiện ? Đó là câu hỏi quan trọng được đặt ra , nhưng không thuộc lãnh vực của bài này .

Đó là chỗ khúc mắc chưa được giải đáp nên mới có câu chuyện nhà văn Trần Vũ nhân đọc Sông Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác thấy các nhân vật Nguyễn Huệ – Ngọc Hân , cô An , ông thày giáo “ tròn quá , toàn bích quá ” . Trần Vũ thấy “ ngứa ngáy , khó chịu ” mới viết truyện Mùa mưa gai sắc như một “ viết ngược ” lại tác giả ” Sông Côn mùa lũ “ ?

Trong ” Mùa mưa gai sắc ” của Trần Vũ , ông đã “ biến tướng ” Ngọc Hân công chúa “ lá ngọc cành vàng ” thành một thiếu phụ “ sẵn sàng tự cởi xiêm y cho mục đích nhằm ” – một kẻ đối đầu với kẻ thù đã ám hại dòng họ nhà Lê – bằng một bút pháp sắc bén như dao, lạnh lùng và tàn bạo . Dưới ngọn bút của Trần Vũ , Huệ không hơn không kém chỉ là một kẻ bạo dâm .

Trần Vũ cũng có cái lý của nhà văn . Lẽ thường tình cho thấy có lý nào Ngọc Hân lại dễ dàng “ dâng hiến ” cái tiết trinh tuổi 16 và quên nỗi nhục cho kẻ đã chiếm đoạt và hạ nhục cả dòng họ Lê ? Có thể nào có một mối tình “ đẹp như tiểu thuyết ” giữa hai kẻ đáng nhẽ phải coi nhau như kẻ thù ?

Ngọc Hân chẳng lẽ không nhớ cái cảnh gia đình tan nát vì “ tiếm quân ” Tây Sơn

Một số nhà phê bình miền Bắc gọi Nguyễn Huy Thiệp “ xuyên tạc lịch sử ” hay là một thứ “ lịch sử giả ” ?

Nguyễn Huy Thiệp đã trả lời một cách đích đáng : “ Không ai đánh nhau với cái xác chết , người ta chỉ khai thác các xác chết sao có lợi mà thôi ” .

Phải chăng cái xác chết mà nhà văn muốn nói ở đây là sự thật lịch sử về Nguyễn Huệ ?

Giữa Ngọc Hân – Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác và Ngọc Hân – Nguyễn Huệ của Trần Vũ , của Nam Dao có một chặng đường sa mạc không bao giờ tưởng có thể đi tới .

Đó là một sự đánh tráo con người và số phận Ngọc Hân – Nguyễn Huệ mà chỉ có tiểu thuyết mới có quyền năng làm như vậy . Như thế , phải chăng sẽ không có điểm hẹn lịch sử nào giữa một nhà viết sử và một nhà văn ? Thế giới của nhà viết sử và của nhà văn thì không phải là một ?

Cho nên rõ ràng nó không có chỗ cho một sự đối đầu cần thiết giữa các quan điểm lịch sử với quan điểm văn học mà chúng ta mong đợi .

Và vì thế chuyện viết sử và chuyện viết của nhà văn có những đối tượng và mục đích khác nhau . Cùng lắm nhà viết sử đi tìm sự thật còn nhà văn trên cả sự thật đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật .

Trở về lại với khung cảnh sử học Việt Nam , đặc biệt phía những người Quốc Gia người ta nhận thấy từ Trần Trọng Kim tiếp nối Hoa Bằng , Phạm Văn Sơn , Tạ Chí Đại Trường , Vũ Ngự Chiêu và đến người viết mới đây nhất về Tây Sơn , tác giả Trần Gia Phụng thì ít nhiều đều đi theo một một đường thẳng của hình học phẳng mà không bắt gặp bất cứ con đường nào khác .

[​IMG]
Tạ Chí Đại Trường

Riêng Tạ Chí Đại Trường – ông có thế giá sử học – ông có những cố gắng khám phá , những biện luận thông minh sắc bén và trí thức , nhưng đôi khi cũng lùi bước trước những “ gánh nặng lịch sử ” .

Có thể ông đã không viết khác được .

Tạ Chí Đại Trường càng tỏ ra cái tài tuấn biện luận sử học thì một mặt khác cho thấy sự biện luận ấy là do thiếu tài liệu sử , thiếu thông tin sử học . Giả dụ rằng , ông có trong tay đầy đủ chứng liệu sử học từ nhiều nguồn thì chỉ việc khệ nệ bê ra và khỏi cần đến biện luận ?

Ngày nay đọc lại bài khảo cứu của ông về cuộc hành quân ra Bắc trong chiến dịch Việt – Thanh cho thấy sự khan hiếm tài liệu thật rõ rệt . Các biện luận của ông về chiến dịch này không còn đứng vững nữa vì thiếu cơ sở .

Lấy một tỉ dụ , người ta đọc thấy những câu chuyện hư cấu, những huyền thoại về Tây Sơn được viết lại trong “ ngoại thư ” Hoàng Lê Nhất Thống Chí ( HLNTC ) – một tập sách mà thật ra chỉ là sự pha trộn khéo léo giữa một số sự kiện có thể “ giả định là thực ” cộng với hư cấu ! Linh Mục Nguyễn Phương , giáo sư sử học đại học Huế có viết một bài : ” Giá trị Hoàng Lê Nhất Thống Chí “ đăng trên báo Bách Khoa , ngày 14-5-1963 , trang 15-22 Trong đó linh mục Nguyễn Phương đánh giá thấp giá trị lịch sử của tập sách và cuối cùng ông xếp vào loại sách truyện , thứ ngoại thư .

Tạ Chí Đại Trường trong tác phẩm Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771 – 1802 cũng thừa nhận Hoàng Lê Nhất Thống Chí là không dùng được vì tính cách truyện của nội dung tập tài liệu .

Vậy mà cũng chính Tạ Chí Đại Trường trong phần viết về : Chiến tranh tiêu diệt họ Trịnh , vì không có tài liệu nào khác về phía nhà Nguyễn cũng như về phía sử Trung Hoa . Ông đã đành lòng ghi nhận : Phần viết này thì đều lấy lại ở Hoàng Lê Nhất Thống Chí !

Sự trung thực đáng quý . Nhưng nó lại thật là mâu thuẫn với tư cách một người viết sử .

Những “ kiến thức có sẵn ” ấy do sự lập đi lập lại bởi nhiều người, bởi nhiều “ sách vở viết theo ” do những nguyên do khác nhau đã dần trở thành những “ gánh nặng lịch sử ” khó phá vỡ được ?

Đã đến lúc phải can đảm trút đi cái “ Gánh nặng lịch sử này ” .

Cũng vậy , đọc một vài cuốn sách sử như : Nhà Tây Sơn của Trần Gia Phụng mới đây , năm 2005 , mà tính cách bảo hoàng trong tầm nhìn cũng như tài liệu sử toát ra ngay trong phần thư mục liệt kê sách đọc . Thiếu vắng các tài liệu về phía người Pháp hoặc xử dụng không đúng mức , thiếu vắng các tài liệu về phía người Anh và quan trọng hơn cả thiếu vắng các sử liệu Tàu được trích dẫn như một phản biện .

Và nhất là thiếu vắng một cái nhìn lịch sử , một chọn lựa “ đúng ” trong chiều kích nhìn một sự kiện lịch sử . Đây là một trong cái thiếu sót lớn nhất của tác giả Trần Gia Phụng .

Cho nên có lẽ có thể kết luận khi đọc sách của Trần Gia Phụng là đọc cái gì , đọc tài liệu như thế nào thì viết như thế nấy .

Xin đưa ra một bằng chứng để làm bằng cớ về số quân nhà Thanh trong cuộc chiến Việt Thanh . Số quân nhà Thanh sang đánh nước ta được sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí phóng lên đến 500.000 , chỗ tài liệu khác xuống 300.000 quân . Riêng sử gia Tạ Chí Đại Trường thì đành “ khiên cưỡng ” chấp nhận con số 200.000 quân được coi là chấp nhận được bằng vào các sử liệu của Việt Nam .

Nhưng ngay từ thập niên 1960 thì một ông sử gia Trung Quốc , ông Tưởng Quân Chương , dựa theo Thanh sử , châu bản cũng như Tấu chương của Tôn Sĩ Nghĩ đã đưa ra một con số “ sửng sốt ” . Tưởng Quân Chương cho rằng Tôn Sĩ Nghị chỉ mang ” 8.000 quân ” sang Việt Nam , trong khi đó Nguyễn Văn Nhạc đã tụ tập mười vạn binh mã để đánh quân Thanh , vì vậy quân Thanh đại bại .

[​IMG]
Nguyễn Hiến Lê

Để đáp lễ tức khắc Tưởng Quân Chương , các tác giả Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Hữu Ngư viết bài trên Bách Khoa , số 77 , ngày 15-3-1960 , trang 23 : “ Bàn về đính chính sử liệu Việt Nam nhân một bài viết của học giả Trung Quốc Tưởng Quân Chương ” .

Trích lại trong Sự thực sử học : một con đường ngắn nhấn dẫn tới đoàn kết dân tộc, tác giả Vũ Ngự Chiêu , Phần tài liệu đọc thêm II : Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn . Đăng trên Báo Đi Tới số 84 , Bộ mới , Tôn giáo và Dân tộc , trang 159 .

Vấn đề ở đây là để phản bác học giả Trung Quốc , ông Nguyễn Hiến Lê đã dựa trên tài liệu chính sử nào ? Tài liệu của các thừa sai Pháp , tài liệu Thanh sử hay tài liệu của các học giả viết bằng tiếng Anh ?

Ai là nhà sử học trên có thẩm quyền tinh thần để đưa ra một con số “ gần đúng ” với sự thật lịch sử ?

Tác giả Nguyễn Duy Chính , trong tập biên khảo Việt Thanh chiến dịch . Quân Thanh tiến vào Thăng Long đã đưa ra một con số khá tương cận với con số của học giả Trung Quốc khi ông viết :

” Việc dựng lại các trận đụng độ giữa quân Thanh và quân Nam trong vòng một tháng tiến binh của họ cần phải được cân nhắc để không quá sơ sài như sử nước ta mà cũng không huyênh hoang như sử Trung Hoa .

Vấn đề quân số nhà Thanh đem sang nước ta là bao nhiêu cũng cần được đánh giá lại . Việc khẳng định 20 , 30, 50 vạn như nhiều sách vở khó có thể coi là chính xác, phần lớn do nhận định chủ quan và dựa trên ước đoán tổng quát .

Riêng sách vở của Trung Hoa thì họ luôn luôn nhắc lại con số trong Đại Thanh thực lục là một vạn quân mặt đông và tám ngàn quân mặt tây đưa đến con số 18.000 quân cho cả hai mặt ” .

Và tác giả Nguyễn Duy Chính giải thích thêm là ” vua Càn Long chỉ sử dụng quân của bốn tỉnh phía Nam và tây nam như một cuộc chiến ủy nhiệm khác hẳn các chiến dịch khác thường điều động nhiều cánh quân từ nhiều vùng, nhất là Bát kỳ Binh ở miền Bắc ” . [ Xin đọc thêm bài viết của cùng tác giả về “ Từ Quân Doanh kỷ lược đến Khâm Định An-Nam kỷ lược ”, đăng trên Gio-o.com ( http://www.gio-o.com/nguyenduychinh.html ) ]

Giữa con số đề nghị của Tạ Chí Đại Trường là 200.000 ngàn quân Thanh và con số của Nguyễn Duy Chính chứa tới 20.000 người , đâu là con số giả định có thể chấp nhân được gần đúng ?

Người viết xin mượn chữ của Phạm thị Hoài phải chăng cần có kết quả của những phép tính trừ trong việc đọc về các con số trong chiến dịch Việt-Thanh ?

3. Giải trừ huyền thoại về cách đối xử tàn nhẫn của nhà Nguyễn Gia Long đối với Quang Trung Nguyễn Huệ

Có một điều cần lưu ý bạn đọc là những tài liệu liên quan đến sự “ bạo tàn ” của Nguyễn Ánh khi mới lên ngôi thì đều xuất phát từ hai nguồn tài liệu :

Thứ nhất từ các lá thư của các thừa sai Pháp trong Archives des Missions Étrangères de Paris , Cochinchine , trong đó có các tài liệu như : Lettres édifiantes et curieuses của Gia Tô Hội . Bộ Nouvelles lettres Édifiantes et curieuses do Đặng Phương Nghi hoặc do Nguyễn Ngọc Cư dịch hoặc Những Lời thuật của Barisy về Trận Thị Nại , Thư của giáo sĩ Le Labousse cũng về Trận Thị Nại hoặc Lời thuật của Brisy về trận Phú Xuân . Cả ba tài liệu trên đều do giáo sư Hoàng Xuân Hãn chuyển ngữ .

Thứ hai và đây là phần quan trọng nhất là các vụ trả thù Tây Sơn lại do chính các sử gia triều Nguyễn chính thức tường thuật lại . Điều đó cho thấy thái độ công khai hóa các trừng phạt vì họ cho rằng trừng phạt đó là xứng đáng , là xử theo luật . Bây giờ người đọc cho là xử phạt quá tàn độc như hình phạt cho voi giày xé là có ghi trong luật lệ hẳn hoi . Giả dụ Tây Sơn có quyền lực trong tay mà bắt được giặc có lẽ cũng không làm khác hơn .

Về các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê

Khi dịch các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê , bà Đặng Phương Nghi cũng ghi nhận tính cách “ tế nhị ” khi phải dịch những lá thư đó . Tuy nhiên , không thể phủ nhận tính cách cập nhật và tinh cách nhân chứng của các lá thư này .

Đọc các thư từ hay bài tường thuật của các thừa sai Ba Lê cho thấy những nhận xét chi li , tỉ mỉ , tính chất người đậm nét và những biểu lộ tình cảm cũng rất người của các lời tường thuật . Nó như chuyện kể thực , sống động và trung thực .

Điều này cũng chứng tỏ Vũ Ngự Chiêu đã bất công khi đánh giá các tài liệu này .

Các lời tường thuật có tính truyền đạt , được sự cảm thông của người đọc không thua gì một bài phóng sự của một tay viết báo bây giờ . Đọc không thể không mủi lòng , rơi lệ vì sự tàn bạo của con người , của kẻ thắng trận đối với kẻ bại trận . Nhất là đối với các phụ nữ, vợ các tướng tá bại trận .

Xin được trích dẫn vài đoạn tiêu biểu .

“Sau đó , Nguyễn Vương hỏi tôi đã trông thấy các ngụy tướng chưa ; thấy tôi đáp rằng chưa , ngài cho lệnh giải họ tới . Rồi ngài bảo tôi đi xem các chị em của Tiếm vương ( Cảnh Thịnh ) . Tôi đã tuân lệnh . Những tù nhân này ở một ngôi nhà kín , hơi tối , thiếu vẻ thanh nhã ; trong cảnh huống của họ , có sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại . Tất cả có 5 người ; một 16 tuổi rất đẹp , một thiếu nữ 12 tuổi , con vương phi Đàng Ngoài , dung mạo tầm thường ; còn ba người khác từ 16 đến 18 có nứỚc da hơi sẫm , nhưng dung mạo xinh đẹp . Trong một ngục thất khác không xa , có thân mẫu của vị thiếu phó , tướng chỉ huy đạo quân bao vây thành Quy Nhơn . Bà ta độ 55 tuổi và có nhan sắc . Trong trạng huống bất hạnh , bà tỏ ra rất cương quyết , có vẻ trinh thục và không tự tôn . Rồi tới vợ phò mã Nguyễn Văn Trị , là chị ruột của Tiếm Vương . Còn bà Tư-Khấu Định , vợ tướng chỉ huy pháo binh , có võ tướng ; Bà Tham-lĩnh Thông , vợ phó đô đốc hải quân và sau nữa còn rất nhiều người , muốn nhớ hết phải ghi cả một niên giám trong ký ức .

Nguyễn Vương đã để cho cướp phá tất cả dinh thự của các tướng địch và tôi tức giận các binh lính đã đập vỡ và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tay họ; chắc chắn có những tòa nhà tuy xây cất theo lối Trung Hoa nhưng nếu ở Paris thì có lẽ được coi là những lâu đài tráng lệ , nhiều vườn đẹp trồng nhiều dị thảo và nhiều bình cho Nhật Bản .

Tóm lại , đó là chung cục việc báo thù của Nguyễn Vương và chắc hẳn ít là nỗi oán cừu của ngài rất hời hợt” .

Về Chính sử triều Nguyễn

Nay thử đọc một số trích đoạn được ghi chép trong chính sử triều Nguyễn về các hình phạt “ dã man ” dành cho kẻ chiến bại :

“Tháng 11 làm lễ tuyên cáo võ công . Ngày Quý dậu tế thiên địa thần kỳ , Ngày Giáp tuất hiến phù ở Thái miếu .( Hiến Phù : Dâng những người bắt được trong chiến tranh ) .

Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực , Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy , Quang Thiệu , Quang Bàn ra ngoài cửa thành , xử án lăng trì cho 5 voi xé xác ( Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay chân , rồi cho voi xé , đó là một thứ cực hình ) , đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất di , còn xương đầu lâu của Nhạc , Huệ , Toản và một của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại ( Ngoại đồ gia : Sau đổi là vũ khổ . Năm Minh Mệnh thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi ) . Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu , Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép , bêu đầu cho mọi người biết . Xuống chiếu bố cáo trong ngoài ”.
( Trích Thực Lục , trang 531 ) .

Theo tài liệu Bissachère ghi ở trên còn đưa ra chi tiết anh em nhà Cảnh Thịnh trước khi chết còn phải chứng kiến cảnh các lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc .

Căn cứ vào sự việc được chính thức sử gia nhà Nguyễn kể lại thì quả thực cách hành xử của Nguyễn Ánh quả là quá tàn độc đội với kẻ đã chết cũng như đối với con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ .

Cũng vì thế , các nhà viết sử Việt Nam đều đồng loạt lên án Nguyễn Ánh , Gia Long . Từ Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược , Phạm Văn Sơn trong Việt sử toàn thư , Hoa Bằng trong Quang Trung , anh hùng dân tộc đến Vũ Ngự Chiêu đều cùng đồng loạt lên án Nguyễn Ánh Gia Long .

Các sử gia Trần Trọng Kim và Phạm Văn Sơn chê trách triều đình nhà Nguyễn hẹp lượng . Hoa Bằng thương tiếc cho người anh hùng Quang Trung bị gán cho chữ Ngụy .

Trần Gia Phụng chê trách Nguyễn Ánh viện cớ việc trả thù chỉ là dựa trên “ nghĩa lớn trong kinh Xuân Thu ” mà thực ra là trái với đạo lý cổ truyền của dân tộc .

Vũ Ngự Chiêu thì viết :

” Không ai phủ nhận được một điều : Cách đối xử của các vua nhà Nguyễn ( 1802-1945 ) với Quang Trung Nguyễn Huệ và gia đình Tây Sơn cực kỳ tàn nhẫn . Theo Đại Nam Thực Lục , Chính biên , từ tháng Một Tân Dậu , ngay khi tái chiếm kinh thành Huế , Nguyễn Chủng cho lệnh phá hủy mộ Quang Trung , “ bổ săng , phơi thây bêu đầu ở chợ ” . Con trai , con gái , họ hàng và tướng hiệu của nhà Tây Sơn ” 31 người đều bị lăng trì cắt nát thây ” … Sự trả thù còn trút xuống dòng dõi Nguyễn Văn Nhạc dưới thời Minh Mạng (…) “
( Trích Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn ( 1778-1802 ) Nguyên Vũ , Ngàn năm soi mặt , 2002 . Trích lại trong báo Đi Tới , số 84 , bộ mới , trang 159 ) .

Qua những tư liệu vừa trích dẫn trên cũng như sự đồng thuận của các người viết sử cho thấy dư luận nói chung đều lên án cách hành xử của các vua quan nhà Nguyễn đối với Tây Sơn – một người được coi là anh hùng dân tộc .

Tuy nhiên , cũng cần nhìn lại và đánh giá lịch sử cho công bằng .

Thực sự Nguyễn Ánh có phải là người có bản tính tàn độc đối với kẻ bại trận không ?

Căn cứ vào chính sử Nhà Nguyễn cho thấy Nguyễn Ánh không phải ác độc như cái nhìn miệt thị của các người viết sử .

“ Trừ cỏ xấu , cốt để nuôi cho lúa tốt; giết kẻ ác , cốt để cứu giúp dân lành . Vả chăng một phủ Quy Nhơn đều là đất đai cũ , nhân dân cũ của ta , từ thuở Tây Sơn nổi loạn , dùng làm sào huyệt , nhân dân bị thế bắt buộc , không thể không theo (…) . Vậy ra lệnh từ nay phàm khi đối trận chém giết thì không kể, còn bắt được người tại trận, không kể người ở Thuận Hóa, Bắc Hà, Quảng Nam , Quảng Ngãi , Quy Nhơn , đều được thưởng như nhau bất tất phân biệt ; người từ Quảng Ngãi về Bắc thì cho lưu lại để thu dùng , người ở Quy Nhơn trở vào thì cấp cho tiền gạo rồi thả về . Đó thực là đánh bằng nghĩa mà dạy bằng nhân vậy . Ta đã đinh ninh dặn bảo , nếu có ý trái lệnh giết càn thì tức là hạng quân kiêu căng giận dữ , do lòng tàn nhẫn , đều chiếu theo quân pháp mà trị tội ”
( Trích “ Quốc Sử Quán Triều Nguyễn . Đại Nam Thực Lục ”, tập một , trang 471-472 , nxb Giáo Dục ) .

Và đối với bọn cựu thần nhà Lê và những hương cống học trò cũng như con cháu họ Trịnh , Nguyễn Ánh đều lấy lẽ phủ dụ , thấu rõ tâm tình của họ để thu phục họ . Sử nhà Nguyễn viết :

“ Ta sẽ nghe lời nói thử việc làm , tùy tài bổ dụng , cho người hiền được có vị , người tài được có chức , họp lòng nghĩ , chia mưu làm , để cùng nên đạo trị nước . (…)

Với dòng họ Trịnh sử viết “ Tiên thế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia . Trung gian Nam Bắc chia đôi , dần nên ngăn cách , đó là việc đã qua củ người trước , không nên nói nữa . Ngày nay trong ngoài một nhà, nghĩ lại mồí tình thích thuộc bao đời , thương người còn sống , nhớ người đã mất , nên lấy tình hậu mà đối xử . Vậy cũng báo cho nhau , họp chọn lấy một người trong họ giữ việc thờ cúng , để giữ tình nghĩa đời đời “ .
( Trích ĐNTL, trang 507-508 ) .

Cách ứng xử như trên , có tình có nghĩa nào phải của một kẻ tàn độc ?

Riêng đối với La Sơn phu tử được coi là cố vấn cận thần của Tây Sơn , bốn lần được Nguyễn Huệ vời ra giúp nước đã được Nguyễn Ánh đối đãi khoan hồng như Sử sách ghi :

“ Thả Xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về . Vua dụ rằng : “ Khanh là người có tuổi tác đạo đức , rất được người ta trông cậy . Sau khi trở về núi nên khéo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều , khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta ” . Bèn sai quan quân đưa về.( Trích ĐNTL , trang 445 ) .

Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao Nguyễn Ánh , Gia Long lại có mối thâm thù và muốn trả món nợ cừu hận ấy ? Phải chăng Nguyễn Huệ cũng xử sự tàn độc khi chiến thắng ?

Những việc làm “ tàn độc ” của Tây Sơn hầu như bị sử sách bỏ quên

Việc Nguyễn Ánh làm thì được kể lại kỹ càng . Nhưng việc của Tây Sơn làm thì không đụng tới . Phải được hiểu như thế nào về sự việc này ?

Xin đọc trích dẫn một số sự việc khi Nguyễn Huệ Bắc tiến do linh mục Thomas Thiện viết phúc trình :

“Chừng một tháng nay , một vị tướng của tầu Attila – Nguyễn Huệ tên là Vach Quinh đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính . và bắt dân chúng cung cấp một số gạo lớn . Với những hành động tối dã man , tên ác quỷ đó thường hay xẻo tai , lột da mặt từ trán cho tới miệng , đánh nhừ tử cho đến chết những viên xã trưởng hay những đại diện cho các làng xã không tuân lệnh hắn ngay (…) . Ai nếu đều tin chắc rằng Bắc Vương ra Bắc Kỳ là để chiếm ngai vàng vương quốc mà thôi .

Những người ra trình diện đều bị bắt ngay lập tức . Họ phaỉ trả một số tiền chuộc ít hay nhiều tùy theo chức vụ và tư cách của họ nếu họ muốn chạy tội . Còn nếu không có tiền chuộc , họ sẽ bị xử tử (…) . Phẫn nộ trước các hành động khinh thị ý ngài , Bắc Vương liền cho bắt họ lại và ra lệnh tịch thu tài sản của họ . Ngược lại họ cứng đầu mãi , thì họ sẽ bị giết (…) Quân Tây Sơn ra lệnh cho dân làng ông phải đem nộp ông ta ngay nếu không cả làng sẽ bị cướp phá hoàn toàn . Dân làng buộc lòng phải tuân lệnh và vị quan khốn nạn này lại rơi vào tay của quân Tây Sơn “ bạo tàn ” , chúng liền xử tử ông và treo đầu ông bên lề đường ”

Ký tên . Thomas Thiện, linh mục người Bắc Kỳ .
( Trích Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ , Đăng Phương Nghi ,Tập san sử địa , số 9-10 , Sàigòn , 1968 , từ trang 196-198 ) .

Có hai tài liệu do Ngô Bắc dịch mới đây chứng minh rằng Tây Sơn đã dùng hải tặc Trung Hoa trong việc Bắc tiến . Đám Hải tặc Trung Hoa đã gây nhiều kiếp nạn trong vùng mà chúng đi qua hoặc trú đóng đúng như nội dung bản phúc trình của Thomas Thiện vừa được trích dẫn ở trên . Tài liệu do Dian H. Murray viết với tựa đề : ” Các ảnh hưởng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn trên sự phát triển của Hải tặc Trung Hoa “ . Để viết tài liệu này , Murray cũng đã dẫn chứng hàng chục tài liệu liên quan của các sử gia Tầu như Shun-tehsien-chih , Kuang-tung t’ung-chih , Chu Huai , 8 chuan , 1827 , v…v….

Điều đó cho thấy binh đội Tây Sơn đi đến đâu dân chúng lầm than khổ sở vì bị cướp bóc , bắt lính và tàn sát dân chúng đến đó .

Nào ai đã viết lại về các sự việc này ?

Riêng đối với dòng họ Nguyễn Ánh thì kể như không một người nào sống sót dưới bàn tay của Tây Sơn , trừ lại còn mình Nguyễn Ánh . Theo Trần Gia Phụng ghi lại thì :

- Thứ nhất chú , bác ruột Nguyễnh Ánh bị giết là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần , Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương .

- Thứ nhì anh em ruột của Nguyễn Ánh cũng bị Tây Sơn giết là Nguyễn Phúc Đông ( anh ruột ) và Nguyễn Phúc Mân , Nguyễn Phúc Thiên ( em ruột ) .

- Thứ ba quan trọng hơn cả , Tây Sơn đã cho quật mộ Nguyễn Phúc Côn ( thân phụ cả Gia Long ) đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790 .

Về việc này , xin đọc kỹ chính sử nhà Nguyễn đã viết lại như sau :

“ Tháng 9 , ngày Ất Hợi , sửa lại sơn lăng .

Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn văn Huệ tham bạo vô lễ , nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc ( tức lăng Trường Mậu ) rất tốt , định dem hài cốt vợ táng ở đó . Hôm đào huyệt , bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra , gầm thét vồ cắn , quân giặc sợ chạy . Huệ ghét không muốn chôn nữa . Sau Huệ đánh trận hay thua , người ta đều nói các lăng liệt thánh khí tốt nghi ngút , nghiệp đế tất dứt . Huệ bực tức , sai đồ đảng đào các lăng , mở lấy hài cốt quẳng xuống vưc….(…) . Đến nay Huyên đem việc tâu lên Vua thương xót vô cùng , thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại (….) . Ngày kỷ Hợi , vua thân đến tế cáo , nghẹn ngào sa lệ , bầy tôi đều khóc cả “
( Trích ĐNTL , trang 466 ) .

Chẳng những thế , Tây Sơn Nguyễn Huệ còn đào hết lăng tẩm Tám đời của chúa Nguyễn tại Thừa Thiên , ném xuống sông . Nhưng điều mà Nguyễn Ánh không thể tha thứ được là phần mộ của Nguyễn Phúc Côn , thân sinh của Nguyễn Ánh cũng bị khai quật và hài cốt bị ném xuống sông .

Theo tài liệu ghi lại không lấy gì làm chắc chắn trong Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết chi tiết như sau :

“ Theo truyền thuyết khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức đức Hưng tổ ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá , sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới . Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi đi tìm lại hài cốt của thân phụ nghe người làng tường thuật , ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ . Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ , sọ liền hút những gọt huyết này ( lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người ) ” .
( Trích “ Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả ” , trang 193 , nxb Thuận Hoa , Huế 1995 . Trích lại trong bài viết của cụ Võ Hương An “ Bàn về Tây Sơn Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả ” ) .

Dưới cái nhìn thông tục, đời thường , cụ Võ Hương An cho rằng cuộc trả thù của Nguyễn Ánh chỉ là một cuộc vay trả . Đời có vay thì có trả . Nói khác đi sự trả thù có ý nghĩa chính đáng , chấp nhận được nếu đặt trong bối cảnh một xã hội theo thứ “ Văn Hóa nuôi thù ” vốn tồn tại nơi người Việt Nam .

Trả thù đôi khi trở thành một thúc bách luân lý và bổn phận .


Mấy vấn đề về vua Gia Long
Gs Trần Quốc Vượng​

[​IMG]

PHẦN MỘT

0.1. Tôi không phải là một chuyên gia về lịch sử, đặc biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có những nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70 cho đến gần đây, đầu xuân Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua lại xứ Huế và viết dăm bẩy bài về vị thế địa – văn hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà Nguyễn, mở đầu là vua Gia Long (1802-1820) và kết thúc là vua Bảo Đại (1925-1945).

Tôi đã nói và viết tản mạn nhiều vấn đề về xứ Đàng Trong, về thời Nguyễn và nhà Nguyễn.

0.2. Ông Nguyễn Khoa Điềm – thuộc dòng họ Nguyễn Khoa nổi danh từ các chúa Nguyễn mà bà nội ông (Đạm Phương Nữ Sĩ) là cháu nội vua Minh Mạng, sinh ra thân phụ ông là nhà Mác-xít và là một trong những người cộng sản đầu tiên, tức Hải Triều Nguyễn Khoa Văn – đã từng phát biểu ở trường Đại học viết văn Nguyễn Du trong dịp lễ khai giảng khóa 5 (1995-1998), rằng khi ông là tổng biên tập đầu tiên của Tạp chí Sông Hương ở một thời chưa đổi mới lắm, ông đã cho đăng bài của tôi về “Xứ Huế và vị thế lịch sử của Huế” và đã cùng ban biên tập tạp chí ấy tặng tôi giải thưởng đặc biệt cho bài viết này, mà khi ấy người ta cho là một sự “xét lại” về mặt sử học. Bởi trước đó, theo giới Sử – Văn – Triết – Mỹ chính thống của Việt Nam, thì gần như là một sự “phủ định sạch trơn” (table rase) về thời Nguyễn và nhà Nguyễn, trong khi đó ở bài viết ấy và những bài tiếp theo, tôi cùng với các nhà nghiên cứu Dân tộc – Xã hội – Mỹ học như Nguyễn Đức Từ Chi, Trần Lâm Biền đã đề nghị một cách nhìn hơi khác, tóm tắt lại là:

- Cần phân biệt thời Nguyễn, đời Nguyễn và nhà Nguyễn.

- Cần phân biệt thời các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn.

- Và trong các vua Nguyễn, cũng cần phân biệt các vua đầu Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng (1820-1840) và các vua cuối Nguyễn như Tự Đức (1848-1883); và ngay cả các vua Nguyễn sau Tự Đức, cũng cần phân biệt những ông Đồng Khánh, Khải Định với những ông vua yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Lại càng nên phân biệt chính trị triều Nguyễn và học thuật, trước tác và mỹ thuật của nền Quốc học Nguyễn. Có “cộng đồng” triều đình và có các “cá thể” vua – quan nữa chứ !

1.0. Nay theo yêu cầu của Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói tóm tắt đôi điều mà tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.

1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít thường gọi là “Khởi nghĩa nông dân”) bắt đầu xảy ra vào năm 1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành vua Quang Trung vĩ đại bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con trên 10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính “cậu bé” Nguyễn Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như hết thảy những nhân vật của dòng chúa đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14 tuổi, từ xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần như là đại diện duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành vị Nguyên Soái chống lại phong trào Tây Sơn đang dâng lên và lan tỏa trong toàn quốc từ Nam chí Bắc như triều dâng thác đổ.

1.2. Tôi không bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:

- Ở Đàng Trong thì lật đổ “trào đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ “trào đình” của các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ quãng đầu thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã trở thành những ông vua “bù nhìn”, hay là các “con rối” (puppet) trong tay các chúa Trịnh.

- Chiến thắng vĩ đại chống quân xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền Giang) vào cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây Sơn như sợ cọp” và chính là do lợi dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn Ánh mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”, cầu ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự.

- Đại chiến thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 – mà ông vua cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn Ánh, ông vua Lê ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.

1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước lịch sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương – Quang Trung càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một vai trò lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII.

Nhưng bảo rằng Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng thành một đô thị thủ đô thì theo tôi lại là một lối viết quá đà ! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông Hương và thành Lý Châu – sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên một thị thành, một cảng thị (City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó thời Đại Việt Huyền Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim Long thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).

1.4. Tuy không phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì thế cùng lực kiệt, đã qua giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực phương Tây (nhất là Pháp), đã dám cho vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho nước Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng cho Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để mong nước Pháp quân chủ cuối mùa (1787) cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù cái nước Pháp quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho Nguyễn Ánh và đã được / bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử phương Tây, nhưng sao chăng nữa, việc đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân phương Tây mà trước hết là Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo thân (Pro) thực dân can thiệp ngày càng sâu vào nội trị Việt Nam, và dẫn tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối mùa.

1.5. Tuy sự thật lịch sử cho tôi – và cho chúng ta – biết rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy đã không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp đòi vua Gia Long thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết từ chối với lý do rất chính đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước Versailles đâu !

Trên đường từ Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ “phiêu lưu” người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết hơi quá đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những nhân tố quan trọng nhất để tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại Tây Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).

1.6. Như vậy, với những điều viết trên, là tôi đã có một hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với triều đại Tây Sơn chủ yếu là do những nguyên nhân nội sinh, và đứng về mặt cá nhân tôi hay là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục” dù “chút chút” – Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của một ông chúa bị giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ có những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia Long.

1.7. Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe XHCN (cũ) đến phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế đã thống nhất đất nước chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung, mặc dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế lực quân chủ thối nát ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm đứng đàng sau những quyền lực khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan là đã góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất nước(1).

1.8. Không nói gì đến ông Nguyễn Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” – không đủ nội lực để đối địch với Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu nguồn” và ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà theo tôi “ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn nhỏ nhen được làm Trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh chọe” với em sau vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã vội vã ra Bắc kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn nguôi và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể nói được là nước ta đã được thống nhất ngay dưới thời Tây Sơn ? Đó là một “lập trường giai cấp” máy móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) “xọ chuyện kia” (chống quân chủ Nguyễn – Trịnh).

1.9. Ở đây có một vấn đề thuộc phương pháp luận sử học cần được làm sáng tỏ là: Lịch sử bao giờ cũng có một sự gián cách giữa lịch sử – thực tại (Histoire – Réalité) và lịch sử nhận thức (Histoire – Conscience). Mà cái lịch sử nhận thức thì luôn gắn liền với chủ quan nhà sử học – nhưng trách nhiệm và bổn phận của nhà sử học chân chính là luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan đến mức cao nhất. Mức cao nhất đó là như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cuối thế kỷ XX nói: Hơn ai hết là nhà sử học cần “nhìn thẳng vào sự thật !”, nói đúng sự thật, và giải thích một cách khoa học cái sự thật khách quan ấy. Vẫn theo tôi, “tâm thức tiểu nông” Việt Nam là nền tảng tinh thần của nền “dân chủ làng xã”, của sự đồng dạng văn hóa (Cultural Identity) ở cấp văn hóa xóm làng Đại Việt – Việt Nam một thời. Thống nhất rồi chia rẽ, đó là “trách nhiệm lịch sử” của cấu trúc quân chủ Phật giáo (Lý – Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê – Nguyễn). Lịch sử chính trị và lịch sử văn hóa, có cái CHUNG và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ vào chính trị hay vào kinh tế là cái nhìn (Point of view) đã “lỗi thời” (Over time) lâu rồi, quá lâu rồi !

PHẦN HAI

01. Luôn “trung thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều “lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long.

01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…

Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:

Văn vô sơn thủy phi kỳ khí,

Nhân bất phong sương vị lão tài !

Nghĩa là:

Văn không sông núi, không cao diệu,

Người chẳng phong sương, khó rạng tài !

01.2. Rất gần đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng:

Phụ thân Hồ Chí Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu lãng (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ “lãng du” ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé, Long An, Sa Đéc…

Có thể Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng (wandering) đó, nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp “sống nghiệm” với nhiều nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông trở thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ (Generous), rất Việt Nam và cũng rất “Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.

Thế mà đã có kẻ dám dịch “wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói xấu ***** ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ LỎNG” !

01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là “quái ác” – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.

01.4. Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương Tây, cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế Trà My”…

01.5. Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt Nam. Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến chủ đề ta đang bàn về Gia Long.

02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801) – mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn – cuối cùng ông đã thắng.

02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua !”.

Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách “giải thích” lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ ?

Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến , mà dù có thắng – như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi !

02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội chiến ở Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” – sáng – chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức Việt Nam. Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA (Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV):

Lạy trời cho cả gió lên,

Cho cờ vua Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).

Lại có câu ca dao “cận đại”:

Lạy trời cho cả gió Nồm,

Cho thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra !

Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian.

02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào đơn:

Thôi ! Thôi ! Thôi ! Việc đã rồi !

Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta !

Nay mai dựng lại nước nhà,

Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.

Thôi cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786) !

02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa Khuê Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại !

Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc – Dân gian.

Huế trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn nói chung ?

Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM !

03. Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực lịch sử là thế này:

03.1. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” của Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).

03.2. Cho nên không làm gì có chuyện vua Gia Long giết hai con bà và lại lấy bà làm vợ. Khi Ngọc Hân làm vợ Quang Trung, đã môi giới để người em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình làm vợ của Cảnh Thịnh.

Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, bà Ngọc Bình bị kẹt ở Phú Xuân. Gia Long chiếm Phú Xuân, bắt được Ngọc Bình và quyết định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám triều thần của Gia Long xúm lại can ngăn, họ nói: - Bệ hạ nay có cả thiên hạ, thiếu gì gái đẹp – trinh nguyên, việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình ! Vua Gia Long cười ha hả mà nói: - Đến đất nước của giặc “tau” còn lấy, huống chi là vợ giặc,“tau” lấy vợ giặc làm vợ “tau” thì có chi mô !

Về việc này Biên Niên sử của triều Nguyễn còn chép hẳn hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục Chính biên.

Tôi kể chuyện này với ông bạn thân – nay đã quá cố “người xứ Huế” (mẹ là dòng Hoàng phái Nguyễn) là PGS Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm và bảo tôi rằng: - Ở đại học, tôi học cổ sử Việt Nam với các thầy khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết. Thật là tuyệt ! Đây là một “ca” (cas = trường hợp) mà nếu lý giải bằng phân tâm học (psyanalyse) thì sẽ rất lý thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời các quan đại thần là rất “cynique” (tôi chưa biết dịch là gì cho đúng, đại khái là rất “tởm”, “lỗ mãng”, “bất cần sĩ diện”, “trắng trợn”… nhưng mà rất THỰC) đấy chứ, phải không anh ?

Tôi mủm mỉm gật đầu đồng ý.

03.3. Tôi được đọc GIA PHẢ nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả có đoạn chép:

Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con gái là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân (và hai con bà) về Bắc, về quê bà. Vua Gia Long đồng ý. Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền về làng Nành và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị (1840-1847), có một tên cường hào ở làng Nành vì có sự chảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ Nguyễn nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về ngôi “mả ngụy” Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không biết – phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông Nhị Hồng…

Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh, tương truyền là “rất thiêng”, đấy chính là nơi hài cốt Ngọc Hân dạt vào, được dân vớt lên mai táng lại. Nhiều nhà “Hà Nội học” – không đọc gia phả họ Nguyễn làng Nành – đã nói và viết rất “lu bu” về chuyện này và “đổ vạ” cho Gia Long và nhà Nguyễn đào mả vợ Quang Trung để trả thù ! “Trả thù”, vâng, có thể có ở mọi thời, song việc đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông không phải là việc và trách nhiệm – tội lỗi của Gia Long.

03.4. Gia Long “tội vạ” gì mà gây thù chuốc oán thêm với sĩ phu và dân chúng Bắc Hà mà ông chê bai là “bạc” – theo thành ngữ dân gian – hay được / bị “dân gian hóa” thành câu: “Bạc như dân, bất nhân như lính”.

Theo chỗ tôi được biết (tôi biết rất ít thôi), thì sau khi vua Gia Long ra Bắc (1802) diệt nốt “dư đảng Tây Sơn” và cử Nguyễn Văn Thành (“Tiền Quân Thành”) làm Bắc thành trấn thủ, vua Gia Long đã – qua ông Thành – làm vài việc sau đây:

03.5. Tổ chức một lễ tế “Trận vong tướng sĩ” ở bên bờ sông Nhị phía Đông thành Thăng Long. Bài văn tế này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học – vẫn được học ở sách Việt Nam văn học sử yếu của cố GS Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn tế là “Vô danh”, sau này giới Văn học và Hà Nội học đã tìm ra tác giả chính là Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc Hà – người đã cộng tác với triều đình Tây Sơn đến cùng (1801) và viết bài Phú nôm nổi tiếng “Tụng Tây hồ phú”(và do vậy Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài phản bác cũng khá hay với nhan đề “Chiến tụng Tây hồ phú”). Lễ tế vong này và bài văn tế giành cho mọi sĩ tử binh không phân biệt ai là “chân” ai là “ngụy”. Tế xong, Nguyễn Huy Lượng không bị phạt tù tội gì về việc cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn Gia Long “bổ” cho ông cử nhân hay chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định), sau ông bị – theo gia phả và sử địa phương chí chép – giặc cướp giết.

03.6. Cũng dưới thời vua Gia Long, bà phi “tòng vong” với Lê Chiêu Thống xin triều Nguyễn cho đưa hài cốt ông vua Lê cuối cùng này cùng vài quan tòng vong (đã chết bên nước Thanh) đem về nước. Vua Gia Long – qua lời tâu của Trấn thủ Bắc thành – đã đồng ý. Bà phi họ Nguyễn này mang hài cốt chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất xong thì tự tử chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện này từ thời trung học Pháp thuộc).

Vua Gia Long đã sai lập “đền Cố Lê” ở Hà Nội (mạn phố Thụy Khuê) để thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà Thái miếu ở Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ. “Đền vua Lê” (còn gọi là “Thái miếu”) hiện vẫn còn và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước CHXHCN Việt Nam xếp hạng (“Di tích Văn hóa được xếp hạng”).

03.7. Quê tổ nhà Nguyễn là Gia Miêu ngoại trang ở Hà Trung – Thanh Hóa, đối diện với dãi núi Triệu Tường. Ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã trở thành “ông Hai” (ông cả Nguyễn Uông đã bị anh rể – chồng bà Ngọc Bảo – giết để cướp chính quyền Thái Sư (như thủ tướng ngày sau), thay thế ông bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng) đã bị đầu độc chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình thành đạo Mẫu Việt Nam mà mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành “Thánh Mẫu” theo thần tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng đã được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan Lớn Triệu Tường”. Vua Gia Long đã về thăm quê gốc Gia Miêu.

Trên đường công tác điền dã, năm 1994, tôi đã về thăm Gia Miêu, thăm ngoại / nội trang, thăm núi Triệu Tường, và đang đứng trầm ngâm chiêm ngắm ngôi đình được trùng tu lại thời Gia Long, rất đẹp mắt nhưng đang gần như bị “bỏ quên” (chưa được xếp hạng và đang xuống cấp, chưa được trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về trụ sở Đảng ủy và UBND xã.

Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và “thăm hỏi” vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không !, tôi được chiêu đãi một bữa bia “đã đời”, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình “nghe lỏm” – tôi đang giảng giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà nước bỏ quên ! Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có “tư duy đổi mới” khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Vua Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của mình nhưng không hề sai sửa lại tên quê. Mãi đến thời Tự Đức (1848-1883), ông vua này mới sai đổi tên Gia Miêu cũ xưa thành tên mới Quý Hương !

03.8. Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh này.

Thật là lạ ! Càng lạ hơn, khi tôi (1992) về thăm lại quê hương Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan ở Thạch Thất xứ Đoài (nay thuộc tỉnh Hà Tây) – người được coi là “Trương Tử Phòng” (quân sư Trương Lương của Hán Cao Tổ) của Trịnh Kiểm. Gia Long rồi Minh Mạng đã ban cho ngôi nhà thờ Trạng Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4 chữ “TRUNG HƯNG CÔNG THẦN”, miễn sưu dịch cho con cháu Trạng Bùng, lại cho 2 “đinh phụ” được coi sóc nhà thờ và mồ mả của ông Trạng đã hết lòng “phù Lê phù Trịnh” này.

03.9. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã / đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai báo lại năm 1802.

Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc (1802), ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh – Trịnh Cơ – từ xứ Thanh ra Thăng Long và phán bảo rằng: - Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta !

Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù. Nhưng mà không !, vua Gia Long nói tiếp: - Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác họ Trịnh trình cho ta biết !

Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực viết ra (cố GS Hoàng Xuân Hãn rất khen ngợi bản gia phả nhà Trịnh này là trung thực, đã viết rõ gốc gác nghèo hèn và hành xử “xấu xa” của Trịnh Kiểm như ăn cắp gà, giết trộm trâu, ăn cắp ngựa…). Đọc xong Gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nênTrịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay làng Trịnh Điện bên bờ sông Mã có diện tích đúng 200 mẫu, 1 mẫu Trung bộ = 5000m2).

LỜI TẠM ĐÓNG

Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định (châu thổ sông Mê Kông) trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình luận về ý đồ chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường” hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của NGUYỄN ÁNH ?

Tôi đã nhắc đi nhắc lại – làm rườm tai bạn đọc, nếu bài này được đọc và được in – rằng tôi, kẻ ngu hèn này, không phải là một nhà Sử học chính tông.

Vậy, theo ý F. Engels vĩ đại, ai không am hiểu lắm về một lĩnh vực khoa học nào đó mà cứ cố tình “nói chõ” vào thì có thể được lượng thứ về một số sai lầm không đến nỗi lớn lắm.

Tôi, từ lâu đã rất mê F. Engels, mượn và có thể là “lợi dụng” mấy lời nói của ông để tạm đóng bài viết có nhiều phần “dở hơi” này.

Hà Nội – Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh)

Mùa thu tháng Tám, 1996



GS Trần Quốc Vượng




Vua Gia Long dưới mắt người phương Tây

[​IMG]


John Barrow/A Voyage to Cochinchina

Ngô Bắc dịch​

Sau một thời kỳ dài phân chia Nam Bắc Việt Nam, triều đại miền nam của chúa Nguyễn đã thành công trong việc thống nhất vương quốc, với sự ủng hộ của nước Pháp, vào năm 1802, chấm dứt Phong Trào Tây Sơn do các người bất mãn vùng An Nam cầm đầu. Người thống nhất quốc gia Việt Nam hiện đại, Nguyễn Ánh (trong nguyên bản được nêu danh là Caung-shung [Hoàng Thượng hay Chúa Thượng (?), chú của người dịch]), chọn đế hiệu trị vì Gia Long (1802-1819), là một nhân vật có nhiều khả năng khác thường. Ông được mô tả dưới đây bởi Sir John Barrow (a), một người dân Anh Quốc du lịch nhiều nơi và là kiểm toán viên tòa đại sứ Anh Quốc tại Trung Hoa năm 1793.

… Trước khi tôi tiến đến việc đưa ra bất kỳ một sự kế toán nào về các sự giao dịch của chính chúng ta với xứ sở này, hay về các cung cách và nhân dáng của dân chúng, tôi cần tiếp tục lời trần thuật của tôi về sự tiến triển được thực hiện bởi Nguyễn Ánh trong việc phục hồi vương quốc của ông ta; và lựa chọn từ những tài liệu của tôi những đặc tính tiêu biểu trong nhân cách của nhân vật phi thường này, là người đáng được xếp vào một số ít người sinh ra với khả năng cai trị thế giới; người mà đôi khi xuất hiện, trong mọi xứ sở, với một vẻ huy hoàng sẽ làm mờ nhạt tất cả những con người đồng thời tầm thường của họ. Điều cần làm là xin thưa với độc giả rằng phần lớn sự phác họa mà tôi đưa ra ở đây, cũng như phần tiếp theo sau, là nội dung của một bản thảo tập hồi ức được viết bởi ông Barissy (b), một sĩ quan người Pháp thông minh, đang chỉ huy một chiến thuyền phục vụ vị quân vương này. Và khi mà đoạn văn trước rất phù hợp với những gì chúng ta hay biết được tại vịnh Turon [Đà Nẵng ngày nay, chú thích của người dịch], xuyên qua người thông dịch của chúng tôi, từ một viên thư ký người Trung Hoa cho chính quyền ở nơi chốn đó, và với nhiều quan hệ khác nhau với các nhà truyền giáo cư ngụ tại đó, tôi không ngần ngại gì khi đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nhất nơi đoạn văn kế tiếp. Trong thực tế, các sự kiện cụ thể đã chứng thực cho lời chứng của hai ông khách Anh Quốc đã từng thăm viếng Sai-gong [trong nguyên bản, chú của người dịch] trong các năm 1799 và 1800…

Từ năm 1790, khi mà Nguyễn Ánh trở về Nam Kỳ, cho đến năm 1800, ông chỉ được hưởng hai năm trong hòa bình, năm 1797 và 1798: và hai năm này đã là, trong mọi khả tính xác xuất, hai năm quan trọng nhất cho sự trị vì nhiều trắc trở của ông tính đến lúc bấy giờ. Dưới sự che chở của Giám Mục Adran, người mà trong mọi công việc quan trọng đã là nhà cố vấn của Ngài, Nguyễn Ánh đã hướng sự chú tâm đến sự cải tiến xứ sở của mình. Nhà Vua đã thiết lập cơ sở chế tạo muối hột tại Fen-tan (xứ Chàm)… mở các tuyến giao thông giữa các đồn bót quan trọng và các thị trấn lớn, và cho trồng hai bên đường cây cối cho bóng mát. Nhà Vua đã khuyến khích sự canh tác cây cau và lá trầu không, những đồn điền đã bị tàn phá bởi đạo quân nổi dậy. Nhà Vua cũng treo giải thưởng cho việc truyền giống dâu tằm; tạo ra các vùng đất rộng lớn để chuẩn bị cho việc trồng cây mía đường; và thiết lập nhiều nhà máy điều chế hắc ín, nhựa đường, chất nhựa dẻo. Nhà Vua đã ra lệnh chế tạo ra hàng ngàn khẩu súng hỏa mai; Ngài cho khai một mỏ chứa quặng sắt, và xây dựng các lò nấu quặng luyện kim. Nhà Vua phân chia lực lượng bộ binh thành các trung đoàn chính quy, thiết lập các quân trường, nơi mà các sĩ quan được giảng dậy các lý thuyết về việc bắn súng và chế tạo đại bác bởi các thầy dậy người Âu Châu…

… Nhà Vua gửi các phái đoàn đến các huyện miền núi phía tây vương quốc của Ngài, được cư trú bởi dân Lào và dân Miêu (Miaotse), những sắc dân man rợ mà Ngài muốn dẫn họ nhập vào một quốc gia văn minh và một chính quyền lương hảo. Những cư dân miền núi này là những người mà người Trung Hoa dã gọi họ bằng một danh xưng miệt thị là “Người Có Đuôi”; mặc dù trong mọi trường hợp khả hữu, họ là hậu duệ bình thường của các thổ dân thực sự nguyên thủy của đế quốc văn minh lâu đời này. Tóm lại, vị Quân Vương này, bởi sự ứng dụng không mệt mỏi các nghệ thuật và sự sáng tạo của chính Ngài, giống như Hoàng Đế Peter của nước Nga, mà không cần đến sự tàn bạo, đã khơi động, bởi gương sáng cá nhân mình, các năng lực của thần dân của Ngài, và cũng giống như vị vua Alfred bất tử của chúng ta, đã không từ nan một sự khổ nhọc nào để đổi mới xứ sở của Ngài…

Hoàng Thượng tượng trưng, theo đúng ý nghĩa nghiêm ngặt nhất của từ ngữ, một chiến sĩ hoàn toàn. Ngài được nói đã ưa thích danh xưng Tướng Công (c) hơn danh xưng Chúa Tể. Ngài được mô tả là một người can đảm nhưng không cẩu thả; nhiều sáng kiến về các điều thiết thực, khi gặp phải những khó khăn cần vượt qua. Các ý niệm của Ngài thường chính xác; hành động của Ngài thì cương quyết; Ngài không hề nản lòng khi gặp các khó khăn, hay né tránh sang bên lề khi gặp các trở ngại. Cẩn trọng trong khi quyết định, nhưng một khi đã quyết nghị, Ngài sẽ thi hành một cách nhặm lẹ và mạnh mẽ. Trong chiến trận Ngài luôn luôn nổi bật trên hết (d) …

Sự đối xử của Ngài đối với người ngoại quốc thì lịch sự và nhã nhặn. Đối với các sĩ quan Pháp phục vụ Ngài, Ngài đã dành sự chú ý rõ rệt nhất và đối xử với họ bằng phép lịch sự nhất, thân thiện nhất và cũng khá khôi hài. Trong tất cả cuộc đi chơi săn bắn của Ngài, và các các buổi tiệc tùng vui vẻ khác, lúc nào cũng có một trong các sĩ quan này được mời tham dự. Ngài công khai tuyên bố sự tôn kính lớn lao của Ngài đối với các đạo lý của Thiên Chúa Giáo, và dung chấp tôn giáo này và trong thực tế mọi tôn giáo khác trong lãnh địa của Ngài (e). Ngài tôn thờ với sự gìn giữ nghiêm ngặt nhất các châm ngôn của lòng hiếu thảo, như được đề ra trong các tác phẩm của Khổng Tử, và đã hạ mình một cách kính cẩn trước mặt thân mẫu của Ngài (người vẫn còn sống) không khác gì một đứa trẻ trước mặt cha mẹ mình. Ngài thông hiểu trọn vẹn các tác phẩm của các danh gia Trung Hoa nổi tiếng nhất; và, xuyên qua bản chuyển dịch sang Hán ngữ bộ Bách Khoa Từ Điển của Giám Mục Adran, Ngài thụ đắc được không ít kiến thức về nghệ thuật và khoa học của Âu Châu, trong đó Ngài quan tâm nhiều nhất về các vấn đề liên hệ đến việc hải hành và đóng tàu …

Để giúp Ngài có thể để tâm nhiều hơn đến việc trị nước, nếp sống của Ngài đã được quy định theo một chương trình cố định. Vào 6 giờ sáng, Ngài thức dậy rời giường ngủ, và đi tắm bằng nước lạnh. Vào 7 giờ sáng Ngài tiếp các Quan: mọi văn thư nhận được ngày hôm trước đều được đọc lên, theo đó, các chỉ dụ của Ngài được ghi chép cẩn thận bởi các quan lại liên hệ. Sau đó Ngài sang thăm kho đạn dược của thủy quân, xem xét các công việc đã được thực hiện khi Ngài không có mặt, chèo thuyền rồng quanh hải cảng, thanh tra các chiến thuyền của Ngài. Ngài đặc biệt quan tâm đến ban chỉ huy; và tại xưởng đúc, được dựng lên trong kho đạn dược, súng đại bác được đúc với đủ mọi loại kích thước…

Ngài không uống rượu nho của Tàu cũng như không dùng bất kỳ loại rượu mạnh nào khác, và lấy làm hài lòng với một lượng thịt rất nhỏ. Một ít cá, cơm, rau và trái cây, cùng với trà và chút bánh ngọt, tạo thành các đồ ăn chính trong thực đơn hàng ngày của Ngài. Giống như một hậu duệ Trung Hoa thực sự, như Ngài từng tuyên xưng, của một vương gia nhà Minh, Ngài luôn luôn dùng bữa một mình, không cho phép vợ Ngài hay bất kỳ người nào khác trong gia đình được ngồi ăn cùng mâm với Ngài (f)…

Để tương xứng với sự tưởng niệm (Giám Mục) Adran, từ trần vào năm 1800, cần phải ghi nhớ, đó là cá tính của vị Quân Vương này, rằng sự phục hồi vương quốc của Ngài, sự thắng lợi trong chiến tranh, sự cải thiện xứ sở trong những thời khoảng hòa bình và, trên hết, sự tiến bộ mau chóng được thực hiện trong các lãnh vực nghệ thuật, sản xuất và khoa học, phần lớn là nhờ vào tài năng, sự chỉ dẫn và sự giám sát nghiêm chỉnh của vị truyền giáo này. Nhà Vua, về phần mình, yêu mến giám mục đến mức độ tôn thờ, xưng tụng giám mục bằng từ ngữ chỉ dành riêng cho đức Khổng Tử, như là một Sư Biểu (Illustrious Master). Và để chứng thực sự tôn kính cao vời của mình, sau khi thi hài của Giám Mục đã được chôn cất bởi các tu sĩ đồng dòng theo các nghi thức của Giáo Hội La Mã, Nhà Vua đã ra lệnh thi hài phải được quật lên và cải táng với tất cả tang lễ và nghi thức được quy định bởi lễ giáo người dân Nam Kỳ (g); Ngài cũng đã không bị thuyết phục để bỏ qua cử chỉ tiêu biểu lòng tưởng nhớ của mình, bất kể những lời khẩn cầu và sự trần tình của các giáo sĩ người Pháp, là những người không ít kinh hoàng về cách thức hành động không thiêng liêng như thế …

———-

Chú thích của người dịch:

(a) Tác giả, John Barrow sinh ngày 19 tháng Sáu năm 1764 tại Ulverston, Anh Quốc, từ một gia đình tiểu điền chủ. Ông đã làm nhiều nghề ngay từ lúc trẻ, trước khi làm kế toán trưởng cho một xưởng đúc thép tại Liverpool. Năm 1792, ông được cử đi theo Lord McCartney sang mở tòa đại sứ đầu tiên của Anh Quốc tại Trung Hoa. Nhờ vậy ông đã có dịp du hành sang vùng lân cận, trong đó có Việt Nam. Sau này ông còn đi thám hiểm nhiều vùng sâu trong nội địa Phi Châu.
Với nhiều kinh nghiệm du hành như vậy, ông đã được chính phủ Anh Quốc bổ nhiệm làm nhân vật thứ nhì tại Bộ Tư Lênh Hải Quân và đã tái tổ chức Hải Quân Hoàng Gia thành một lực lượng hữu hiệu. Sau những chiến thắng quân sự lớn lao đánh bại nước Pháp tại Trafalgar và Waterloo, chính ông Barrow đã là người quyết định đầy vua Napoleon của nước Pháp sang đảo St. Helena. Ông là tác giả của tác phẩm nổi tiếng ‘Mutiny of the Bounty’ [Cuộc Nổi Loạn trên tàu Bounty].
Ông cũng tổ chức cuộc thám hiểm tìm kiếm hải trình từ Bắc sang Tây và là sáng lập viên Hội Địa Lý Hoàng Gia Anh Quốc. Tên ông được dùng để đặt cho Mũi Barrow ở đỉnh cực bắc của vùng Alaska và Eo biển Barrow Strait tại miền Bắc Canada.
Ông được phong tước tùng nam tước (dưới nam tước trên tước hiệp sĩ) vào năm 1835. Ông về hưu năm 1845 và chết bất đắc kỳ tử năm 1848.

(b) Laurent André Barisy sinh tại Port Louis, Pháp Quốc, ngày 8 tháng 11 năm 1769, con của một viên chức làm việc tại công ty buôn bán với Ấn Độ. Từ 17 tuổi, Barisy đã đi theo các thương thuyền, đến năm 21 tuổi là thuyền trưởng của tàu Ile de Groix. Khoảng năm 1791, Barisy khởi hành sang Thổ Nhĩ Kỳ, rồi sang Ấn Độ và gặp đám cướp biển Mã Lai. Đến năm 24 tuổi, Barisy tìm đựoc nơi trú náu bên cạnh chúa Nguyễn Ánh. Nhờ kinh nghiệm thương mại hàng hải, Barisy đã được chúa Nguyễn Ánh phái đi sang Ấn Độ, Phi Luật Tân, Mã Lai, Malacca để mua quân trang quân dụng cho quân đội 200,000 người của chúa Nguyễn Ánh khi đó.
Laurent Barisy đã thực sự trở thành một người Nam Kỳ, ông ta lấy một người đàn bà Việt Nam và có nhiều con với người vợ này. Barisy được vua Gia Long phong tước làm Thiện Tri Hầu.
Barisy cũng mang cấp Trung Tá trong quân đội của chúa Nguyễn Ánh, tham dự nhiều trận đánh trên bộ, đặc biệt là trận đánh đuổi quân Tây Sơn tại Đà Nẵng ngày 8 tháng Ba năm 1801 và trận đánh Huế vào ngày 15 tháng Sáu năm 1801.
Barisy chết vào ngày 23 tháng Bảy năm 1802, trước khi chúa Nguyễn Ánh chiếm được Hà Nội và thống nhất đất nước Việt Nam.

(c) Người đương thời hay gọi chúa Nguyễn Ánh là Tướng Gia Định. Vua Gia Long đã là người thống nhất đất nước sau gần 300 năm bị phân chia thành Đằng Trong và Đằng Ngoài. Vua Gia Long xin đổi quốc hiệu là Nam Việt (bao gồm Việt Thường và An Nam) nhưng vua nhà Thanh lo sợ vua Gia Long có hậu ý đòi lại các phần đất thuộc Nam Việt trước đây trong nội địa Trung Hoa nên mới đổi ngược lại thành Việt Nam Quốc. Nước ta có danh xưng Việt Nam từ đó.

(d) Bản văn của John Barrow dựa chính yếu trên tài liệu của Laurent Barisy là người hầu như suốt đời phục vụ vua Gia Long nên chỉ ghi toàn những lời tán tụng hay ở vị thế tế nhị nên không thể bày tỏ các ý kiến phê bình hay chỉ trích. Để sự phán đoán được cân bằng hơn, xin trích dịch một vài sử liệu khác có cái nhìn ít nhiều khác biệt về con người vua Gia Long như sau:
“18. Một ít đều trách nhà vua
Song cũng có kẻ chê vua rằng: chẳng được vững lòng; vì khi nào đặng thạnh sự thì vui mừng quá; bằng khi phải khốn khổ ít nhiều, hay ít khi bị trận, thì ra như ngã lòng và sợ hãi quá. Vậy khi nào đã được trận thì vui mừng quá lẽ, chẳng biết thừa dịp thắng trận mà theo bắt quân giặc và ép nó chịu phép cho xong. Có kẻ lại trách rằng: chẳng hay cầm giữ quân mình cho đủ, nên bắt người ta nặng việc quan quá.” (Sử Ký Đại Nam Việt, Annales Annamites, Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa Việt Nam Xuất Bản, Sài gòn, 1974, trang 58.)

(e) Trong cùng sách dẫn trên (Sử Ký Đại Nam Việt, trang 100), nơi đoạn cuối cùng có ghi lại chính sách của vua Gia Long đối với đạo Thiên Chúa như sau:
” Vả lại năm sau, khi vua ra Kẻ Chợ thọ phong thì giáng chỉ mới chẳng cấm đạo tỏ tường, nhưng mà nói phạm đến sự đạo, cùng chê kẻ có đạo nhiều đều nặng lắm, vì gọi đạo thánh Đ[ức] C[húa] T[rời] là dị đoan, là tả đạo; và trách bổn đạo là chấp mê chi đồ; và lễ làng nào chưa có nhà thờ, thì cấm nhặt chẳng cho làm; còn nơi nào đã có nhà thờ mà đã hư đi, thì phải bẩm quan; quan có phê cho, mới đặng làm.”
Nơi trang 65 cùng sách đã dẫn còn kể chuyện vua “dạy hai quan đại thần kia ép quan lớn có đạo, tên là Dinh Trung, bỏ vào trong hoàng cung, mà giúp việc tế lễ và bái tổ tiên…” Ông Dinh Trung này không chiu lạy tổ tiên Vua, và nói “Tôi lạy một Đức Chúa Trời Ba Ngôi mà thôi.” Vua Gia Long có giải thích cho ông Dinh Trung rằng chính đức giám mục Adran “cũng nói với trẫm rằng: lạy tổ tiên thế ấy thì chẳng tội gì.” Viên quan Dinh Trung đó vẫn không chịu . Vua Gia Long có nói “Thằng này là nghịch thần.” Đoạn thì vua nói qua đều khác.

(f) Về đời sống cá nhân vua Gia Long, cùng sách dẫn trên (Sử Ký Đại Nam Việt, trang 64), có đoạn ghi như sau:
” Vua mê sắc dục, nên ghét đạo, và đôi khi chẳng vì nể Đức Thầy {giám mục Adran]; những nói nặng đều chê bai sự đạo và thêm lời hoa tình nữa.”

(g) Về mối giao tình giữa vua Gia Long và Bá Đa Lộc (giám mục Adran), sách Hoàng Việt Hưng Long Chí,nhà xuất bản Văn Học, Sàigòn, 1993, của Ngô Giáp Dậu, nơi các trang 235-236 có ghi như sau:
” Đông Cung [tức Hoàng Tử Cảnh, chú của người dịch] tâu lên Thế Tổ [tức vua Gia Long, chú của người dịch]:
- Bá Đa Lộc ốm nặng đã chết ở trong quân.
Bá Đa Lộc từng bảo hộ Đông cung Cảnh sang Tây, lại được dự bàn việc binh nhung nơi màn trướng, cậy mình có nhiều công lao nên có ý phóng túng kiêu ngạo, từng bị Trần Đại Luật dâng sớ hạch tội, xin vương thượng mượn kiếm trời chém đầu đi. Nhưng Thế Tổ dụ rằng:
-Bá Đa Lộc đánh đông dẹp bắc, là người ngu xuẩn trí trá nhưng có thể sai khiến được. Hãy tạm để đó đã!
Đến đây có tin cáo phó của Đông cung. Thế Tổ bèn phong cho Bá Đa Lộc tước Bi Nhu quận công”, đưa thi hài về chôn cất tại Gia Đinh. “
[Bá Đa Lộc chết ngày 9 tháng 10 năm 1799 ở cửa Thị Nại, xác được ướp thuốc, đưa về chôn và cho xây lăng tức Lăng Cha Cả, gần cổng phi trường Tân Sơn Nhứt, theo chú thích nơi trang 236, sách Hoàng Việt Hưng Long Chí dẫn trên.]

Sách Sử Ký Đại Nam Việt đã dẫn trên, trang 65, có đoạn như sau:
“Khi vua muốn dùng người [giám mục Adran] làm việc gì trọng phò vực nhà nước, mà người xin kiếu, vì sợ các quan ghen, thì vua làm thinh; song qua một ít lâu, thì nói nhiều đều phạm sự đạo, cùng đe cấm đạo, có ý nhắc lại và ép người chịu lấy việc ấy. Có khi vua quỉ quyệt giả sự bắt tội cho các quan có đạo, hay là ép làm sự rối; vua đã rõ biết Đức Thầy sẽ xin dong thứ chẳng sai; nên có ý dùng dịp tha cho các quan ấy mà lấy lòng người, cùng kể là ơn riêng vua làm bởi vì nể người.”