SỰ BÍ ẨN CỦA DO THÁI GIÁO.

Thật ra có hai điều bí ẩn lớn liên quan đến Do thái giáo. Ðiều bí ẩn thứ nhất là sự kiện đáng buồn này : Sau bao nhiêu thế kỷ mong đời Ðấng Cứu Thế và vị Ðế Vương của mình, nó không nhìn nhận ra được Ngài lúc Ngài đến. Ðó là điều các Kitô hữu đầu tiên cho là chướng nghịch nhất. Tại sao những anh em Do thái của họ lại có thể từ chối không tin ở Chúa Giêsu ? Phaolô đã cố gắng trả lời câu hỏi này từ chương 9 đến chương 11 trong bức thư ông gởi tín hữu Rôma. Ðiều bí ẩn thứ hai thì có tính cách hiện đại hơn : Dân Do thái đã làm thế nào để tiếp tục sống được một nhóm trong khoảng thời gian gần 2000 năm nay mà không có đền thờ, bàn thờ và hiến lễ ? Dĩ nhiên điều bí ẩn này không bao giờ đã tự trình diện với Phaolô, nhưng với thiên tài lạ lùng của ông, ông đã để lại cho chúng ta một nguyên tắc để căn cứ vào đó mà tìm ra giải đáp.

Không nhìn nhận Chúa Giêsu. Trước nhất, chúng ta cần phải xét xem việc dân Do thái không nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Thế, là Vua thuộc dòng dõi Ðavít thiên hạ ngóng chờ. Nổi buồn rầu của Phaolô đối với sự kiện này thật là sâu xa và chân thành, đến nổi ông đã phơi bày một cách thảm thiết lòng yêu thương của ông đối với dân tộc ông trong những câu ông viết. Ông thương hại vì họ muốn tách rời khỏi Ðức Kitô thay vì cần phải hợp nhất với Ngài. Niềm hy vọng và nổi ước mơ tột đỉnh của ông là họ được ơn cứu độ.

“Trong Ðức Kitô, tôi nói thật, tôi không nói dối ; trong Thánh Thần lương tâm tôi làm chứng cho tôi, là tôi phải ưu phiền rất mực, và đau đớn không ngơi trong lòng. Tôi đã ước nguyện xin làm hiến vật tách khỏi Ðức Kitô vì anh em đồng chủng của tôi về phần xác. Họ là người Israel ; thuộc về họ, địa vị nghĩa tử, sự vinh quang, các Giao Ước, Lề Luật, việc phụng thờ, các Lời Hứa ; thuộc về họ, các Tổ Phụ ; và do tự họ, Ðức Kitô, về phần xác. Ðấng vượt trên mọi sự” (Rm 9, 1 – 5).

“Hỡi anh em, điều lòng tôi những mong mỏi nguyện cầu với Thiên Chúa là cho họ được đạt ơn cứu rỗi” (Rm 10, 1).

Thật vậy, sự kiện một số đông người thuộc Do thái giáo chưa trở thành người Kitô giáo là điều rất khó giải thích. Thiên Chúa đã phán hứa với Abraham, Môsê, Ðavít và các Tiên Tri ; hứa một dòng giống vô số, một vương quốc vĩnh cửu và phổ bác. Có lẽ nào một Thiên Chúa lại thất hứa ? Không nên nghĩ như thế.

“Hẳn không phải vì Lời Thiên Chúa đã trái hẹn” (Rm (9, 6).

Những lời Thiên Chúa phán hứa với miêu duệ của Abraham phải được nên trọn vẹn. Nhưng Phaolô hỏi, ai là dòng giống của Abraham để những lời hứa ấy được thực hiện ? Phải chăng chỉ là những người họ hàng với Abraham về phương diện tự nhiên, hay là những người mà chúng ta có thể gọi là con cái thiêng liêng của Abraham, tức là những người họ hàng với Abraham do sự hợp nhất thiêng liêng với Ðức Kitô, con của Abraham ? Câu trả lời của Phaolô được gặp thấy trong thư gửi tín hữu Rôma 9, 8 – và càng rõ rệt hơn, trong một đoạn của bức thư gửi tín hữu Galát.

“Nghĩa là : Không phải con cái theo xác thịt, tất là con cái Thiên Chúa, nhưng con cái theo lời hứa mới được kể là dòng giống” (Rm 9, 8).

“Vì hết thảy anh em là con cái Thiên Chúa nhờ bởi lòng tin trong Ðức Giêsu Kitô. Vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Ðức Kitô, thì đã được mặc lấy Ðức Kitô : Không còn Do thái hay Hylạp ; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Giêsu. Mà nếu anh em thuộc về Ðức Kitô, vậy thì anh em là miêu duệ của Abraham, những kẻ thừa tự thể theo lời hứa” (Gal 3, 26 – 29).

Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân từ yêu thương đối với mọi Kitô hữu, Do thái cũng như dân ngoại, vì cả hai đều là con cháu của tổ phụ Abraham. Trong chương trình cứu độ, họ đã thế chỗ cho Israel xưa và hưởng mọi đặc quyền của nó. Họ đã trở thành con cái Thiên Chúa và dân tộc Ngài yêu quý.

“Những bình mang thương xót đó tức là chúng ta, Ngài đã kêu gọi không chỉ từ giữa Do thái, mà cả giữa dân ngoại. Như Ngài phán trong sách Hôsê : Ta sẽ gọi phi dân Ta làm dân của Ta, và kẻ thất sủng làm người đắc sủng. Và sẽ xảy ra là nơi đã nói với chúng : Các ngươi không phải là dân Ta, ở đó chúng sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa hằng sống” (Rm 9, 24 – 26).

Những con cái thiêng liêng của Abraham mới được tuyển chọn, chứ không phải những con cháu về phần xác thịt, sự kiện đó ăn khớp hoàn toàn với cách tuyển chọn của Thiên Chúa thường được thấy rõ ràng qua suốt lịch sử Israel. Thiên Chúa hay chọn lựa người này hơn người khác. Ngài đã chọn Isaac, con trai của Sara, chứ không chọn Isamel, con trai của Agar, mặc dù Abraham là cha của cả hai. Trong hai anh em song sinh Esau và Yacob, Thiên Chúa đã chọn Yacob mặc dù nhỏ hơn. Và giờ đây, Phaolô kết luận rằng Ngài lại tuyển chọn một lần nữa : tuyển chọn miêu duệ thiêng liêng của Abraham chứ không tuyển chọn dân Do thái là con cháu tự nhiên của Abraham. Lý do tại sao Thiên Chúa hành động như thế vẫn chưa ai hiểu thấu được. Thiên Chúa là Thiên Chúa, nghĩa là Ngài vẫn luôn luôn là bí nhiệm đối với con người, con người không thể hiểu hết các việc Thiên Chúa làm, hoặc tại sao Ngài làm như thế. Con người vật thụ tạo của Thiên Chúa, không dám tra vấn Ngài lý do và mục đích các việc Ngài làm. Phaolô nói :

“Hỡi người phàm kia, ngươi là ai mà dám cãi trả Thiên Chúa ? Há đồ vật đất lại nói với người nắn ra nó : tại sao ông đã làm tôi thế này sao ? Hay người thợ gốm lại không có quyền trên nắm đất thó, để từ cũng một nắm mà nặn ra : cái thì bình quý, cái thì bình xoàng ư ?” (Rm 9, 20 – 21).

Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại không được thừa nhận ? Xét về phương diện loài người, làm sao mà lại có một khúc cong như thế trong vận mệnh một dân tộc ? Làm sao mà nhiều người Do thái không chấp nhận sứ điệp các nhà truyền giáo Kitô hữu đầu tiên đã rao giảng cho họ, sứ điệp của Tin Mừng Chúa Giêsu là Ðức Kitô ? Ðó là những câu hỏi thực hiểm hóc, nhưng Phaolô đã làm hết sức để tìm cách giải đáp. Ông, một người trước kia vốn là Biệt Phái, biết rõ rằng dân Do thái thật sốt sắng, nhưng lòng sốt sắng của họ đã bị lạc hướng và thiếu sáng suốt. Họ đã đặt niềm hy vọng cứu độ của họ vào lề luật, vào khả năng của họ tuân giữ giới luật. Ðây là sự lầm lẫn căn bản, bởi vì ơn cứu độ chỉ được gặp thấy nơi Ðức Kitô mà thôi. Sự hợp nhất căn bản với Ðức Kitô – chỉ sự hợp nhất này mới đem lại ơn cứu độ – Phát sinh từ lòng tin tưởng nơi Chúa Giêsu, tin một cách vững vàng Ngài là Chúa đã Phục Sinh. Ðây chính là tâm điểm thảm kịch của người Do thái. Những công việc của họ là công việc do người thế phàm, không thể đem lại ơn cứu độ cho họ, nhưng họ lại sốt sắng với những công việc đó. Niềm tin nơi Chúa Giêsu là Chúa đã Phục Sinh, có thể cứu độ họ, nhưng họ lại không có niềm tin đó.

“Tôi chứng thực cho họ là họ có lòng nhiệt thành đối với Thiên Chúa, nhưng không được sáng suốt. Vì không nhận biết sự công chính của Thiên Chúa, và ra công thiết lập sự công chính riêng của mình, họ đã không suy phục sự công chính của Thiên Chúa. Vì đích cùng của Lề Luật, là Ðức Kitô, nguồn công chính cho mọi kẻ tin .

. Nếu ngươi tuyên xưng nơi miệng ngươi Giêsu là Chúa, và nếu ngươi tin trong lòng ngươi : Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết, ngươi sẽ được cứu. Vì tin trong lòng thì được sự công chính, và nếu tuyên xưng nơi miệng thì được ơn cứu rỗi” (Rm 10, 2 – 4 ; 9 -10).

Như thế có phải là Thiên Chúa chối bỏ Israel chăng ? Phải chăng dân Do thái không còn liên hệ gì đặc biệt với Ngài nữa ? Phaolô, một người Do thái rất yêu mến dân tộc mình, không thể nghĩ như thế. Một mặt, không phải hết thảy mọi người Do thái đều chối bỏ Ðức Giêsu. Tất cả những Kitô hữu đầu tiên đều là người Do thái, và nơi họ Phaolô thấy có những người thuộc số sót mà các tiên tri thường hay nói đến. Theo tư tưởng các tiên tri thì không có một thảm kịch nào lớn lao cho bằng sự loại trừ người Do thái hoàn toàn ra khỏi sự phù trợ yêu thương của Thiên Chúa. Ðiều này đã được xác thực, theo lời chú thích của Phaolô, ngay cả trong việc Ðức Kitô làm cho Do thái giáo được trở nên trọn vẹn. Trong trường hợp này, một số sót tín hữu người Do thái cũng đã còn tồn tại trong việc hoàn thành ơn cứu độ của Kitô giáo. Theo ý nghĩa này thì chắc chắn là Thiên Chúa đã không chối bỏ Dân Ngài.

“Vậy tôi xin hỏi : Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ Dân Ngài ? Ðừng nói gỡ ! Chứng là tôi đây : Một người Israel thuộc dòng giống Abraham, chi tộc Benjamin, Thiên Chúa đã không ruồng bỏ Dân Ngài đã biết đến từ trước. Hay anh em lại không biết Kinh Thánh nói gì trong truyện Êlia, khi ông thưa kiện Israel với Thiên Chúa : Lạy Chúa, chúng đã giết các tiên tri của Ngài ; sót lại chỉ có một mình tôi, và chúng đang tìm hại mạng tôi. Nhưng sấm ngôn nói gì với ông ? Ta còn chừa lại cho Ta bảy ngàn người không hề bái gối trước Baal. Thời bây giờ cũng vậy : số sót có đó, bởi ơn mà được chọn ! Mà nếu là bởi ơn, thì không còn là do tự việc làm, chẳng vậy ơn không còn là ơn ! Vậy thì sao ? Ðiều Israel cố tìm thì đã không được ; song đã được những ai được chọn” (Rm 11, 1 – 7).

Phaolô còn nhận xét một khía cạnh cứu độ khác nữa trong toàn thể câu chuyện đen tối này của thảm kịch quốc dân Do thái. Chính cái chỗ dân Do thái bị trầm luân, lại là nơi đưa đến ơn cứu độ cho dân ngoại, ơn cứu độ do niềm tin nơi Ðức Giêsu là Chúa đã Phục Sinh, dường như là sự mù quáng của dân Do thái đã đưa tới ánh sáng cho dân ngoại. Mỗi cụm mây đều có một đường viền bạc, cho nên sự nghĩ đến ơn cứu độ của dân ngoại nhờ đức tin nơi Chúa Giêsu đã đem lại cho Phaolô một một khía cạnh đầy an ủi trước cái thảm kịch của dân Do thái. Phaolô chợt nghĩ đến một hình ảnh để so sánh. Dân được Thiên Chúa tuyển chọn giống như một cây ôliu. Những cành tự nhiên và nguyên thủy của nó là dân Do thái, đã được tỉa bớt đi để được thay thế bằng những cành khác, là những dân ngoại đã được tiếp ghép vào cây ôliu, bởi vì giờ đây sự ngay thẳng là do niềm tin nơi Ðức Giêsu, mặc dù chính nó làm cho dân Do thái bị tỉa khỏi cây, cũng có hậu quả đến sự dân ngoại được tiếp ghép vào. Ðây là phần tươi sáng của bức tranh mà Phaolô muốn vẽ ra cho chính mình và cho độc giả. Nhưng ông cũng vội vàng cảnh cáo dân ngoại đừng tự phụ kiêu căng đối với dân Do thái. Sự được tiếp ghép vào cây ôliu là một ân huệ ban cho dân ngoại, chứ không phải là do công trạng của họ. Chắc chắn làhọ sẽ đáp ứng lại bằng sụ biết ơn và đề phòng kẻo vì làm mất đức tin mà họ cũng bị tỉa đi.

“Nhưng nếu có ít nhiều nhánh bị chặt, và ngươi, ôliu hoang dại, được tháp thay vào, và thông phần màu mỡ tự gốc ôliu, ngươi đừng vinh vang lên mặt với các nhánh kia. Nếu có vinh vang thì này : Không phải ngươi mang rễ, nhưng rễ mang ngươi ! Ngươi sẽ đáp “nhiều nhánh đã được chặt cho tôi được tháp thay vào !” Hẳn rồi, vì không tin, nên chúng đã bị chặt, còn ngươi tin mà đứng đó ! Ðừng có tự cao tự đại, hãy sợ thì hơn. Vì nếu Thiên Chúa đã không tha những nhánh bẩm sinh thuộc gốc, thì Ngài cũng sẽ chẳng tha cho ngươi” (Rm 11, 17 – 21).

Sự sống còn của dân Do thái. Ðến đây Phaolô đưa ra cho chính ông, cho những đồng bào Do thái Kitô hữu của ông, và cho tất cả chúng ta ngày nay lời tiên đoán mau mắn, khả dĩ giúp chúng ta: Giải quyết một bí nhiệm sâu xa nữa liên quan đến Do thái giáo. Bằng cách nào và vì mục đích gì mà nó vẫn còn tồn tại xuyên qua bao nhiêu thế kỷ ? Từ ngày Yêrusalem bị quân Rôma hủy diệt năm 70 (sau TCGS). Người Do thái không còn đền thờ, bàn thờ và hiến lễ. Họ không có một quốc gia riêng biệt mãi cho tới khi nước Israel được tái lập cách đây ít năm. Họ đã bị lưu đày, đưa từ xứ này sang xứ khác, bị giam hãm trong những vùng biệt lập trên khắp thế giới (xin Thiên Chúa tha thứ cho), do chính những Kitô hữu là con cháu thiêng liêng của họ. Nhưng họ vẫn còn tồn tại. Ngay cả sự tàn sát khủng khiếp của Hítle cũng không tiêu diệt được họ. Trong lịch sử toàn thế giới, chưa từng có một nhóm dân tộc nào đã từng sống sót sau bao nhiêu tang thương như thế. Trong bất cứ quốc gia nào, người Do thái cũng có thể tổ chức thành một nhóm tràn đầy sinh lực, tuy nhiên họ vẫn là một nhóm riêng biệt, luôn luôn ý thức về lịch sử cổ thời của họ, luôn luôn được bàn tay Yavê phù trợ cho khỏi bị tiêu diệt. Phaolô dĩ nhiên là đã không thể thấy trước cái lịch sử lâu dài này của dân Do thái hãy còn kéo dài mãi cho đến thời chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, ông đã cho chúng ta câu giải đáp để soi tỏ bí nhiệm này. Bởi vì ông tin tưởng chờ mong có ngày họ sẽ nhìn nhận Ðức Giêsu là Ðức Kitô của họ, là Chúa đã Phục Sinh của họ. Sự mù quáng của họ chỉ là tạm thời, sự tuyển chọn đầu tiên của Thiên Chúa, bằng cách nào đó, vẫn hãy còn bền vững. Khi đến ngày Thiên Chúa định, những cành nguyên thủy lại sẽ được tiếp ghép với cây ôliu. Ðó là ngày mà Phaolô chắc chắn và đã nóng lòng chờ đợi.

“Vậy hãy ngắm xem lòng nhân lành và sự nghiêm khắc của Thiên Chúa : nghiêm khắc với những kẻ sa ngã, nhân lành đối với ngươi, nếu ngươi kiên trì trong lòng nhân lành ấy ; bằng không, ngươi cũng sẽ bị chặt. Còn họ, nếu họ không kiên trì trong sự cứng tin, họ sẽ được tháp vào, vì Thiên Chúa có quyền ghép họ vào lại. Vì nếu ngươi bẩm sinh là nhánh lảy tự ôliu hoang dại, mà được tháp vào ôliu giống tốt, trái với bẩm tính, thì huống chi là họ, những cành chính gốc, họ sẽ được tháp vào thân cây ôliu gốc cũ của họ.

Hỡi anh em, tôi không muốn để anh em không hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự phụ mình khôn : Israel đã ra chai đá phần nào, cho đến khi toàn thể dân ngoại đã gia nhập, và như thế tất cả Israel cũng sẽ được cứu . Xét theo Tin Mừng, họ là người thù nghịch, vì cớ anh em ; nhưng theo sự lựa chọn, họ là chí ái vì cớ cha ông. Vì ơn đã ban, lời đã gọi, Thiên Chúa không hề hối tiếc” (Rm 11, 22 – 29).

Chỉ khi nào Israel xưa trở lại với Ðức Kitô, thì công trình cứu độ mới thật là được thông phần đầy đủ, bởi vì chỉ lúc đó mới thực có sự hợp nhất phải có giữa Do thái và dân ngoại trong Ðức Kitô, đó là sự bí nhiệm Phaolô thường nói đến. Mãi cho đến hôm nay, chỉ những người Do thái thuộc số sót lại, số ít được tuyển chọn, mới nhìn nhận Chúa Cứu Thế và hợp nhất với Ngài, trong Ngài, hợp nhất với anh em dân ngoại. Hiệu quả đầy đủ công trình cứu độ của Ðức Kitô mà mục đích là sự hợp nhất trọn vẹn, vẫn chưa được hoàn tất cho tới khi nào dân Thiên Chúa đã chọn xưa kia nhìn nhận Ðấng Cứu Thế của mình. Chỉ bấy giờ công trình cứu độ mà Phaolô đã mô tả một cách hùng vĩ mới được hoàn toàn thừa nhận.
“Dân ngoại và Do thái, Ngài đã làm cho đôi bên nên một, triệt hạ tường ngăn thành chắn, tiêu biểu cho mối hằn thù – nhờ thân xác Ngài – thủ tiêu lề luật nguyên những điều răn lệnh chỉ, ngõ hầu trong Ngài, Ngài tạo dựng hai loại người ấy nên một người mới, đem lại bình an và giảng hòa hai dân – trong một thân mình – với Thiên Chúa, nhờ Thập Giá, giết chết hằn thù – nơi mình Ngài” (Ep 2, 14 – 16).

Chương trình cứu độ, xét theo một phương diện đúng đắn đặc biệt, sẽ được hoàn tất với mọi hiệu quả của nó khi mà cả dân Do thái và dân ngoại đều được hợp nhất với nhau trong Ðức Kitô, và nhờ Ðức Kitô được hợp nhất với Thiên Chúa và sự thiện hảo của Thiên Chúa. Như thế sẽ làm cho đường tròn quá trình cứu độ trở về điểm cuối nơi mà nó đã bắt đầu trước kia, trở về với Thiên Chúa và sự thiện hảo của Thiên Chúa. Trong khi chờ đợi, tất cả chúng ta đều được mời gọi hoạt động với Ðức Kitô và với Thánh Thần của Ðức Kitô đang ở trong chúng ta, để thúc đẩy bằng mọi cách tiến triển của vương quốc Thiên Chúa nơi trần thế tức là Giáo Hội, về phương diện thiêng liêng cũng như về số lượng. Chương trình cứu độ chỉ được hoàn tất khi nào Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Ðức Kitô, được lan rộng khắp cùng vũ trụ.
Hết

Tác giả: Giuse Võ Đức Minh, Gm
https://dantocdothai.wordpress.com/2012/08/14/dk/