Ai cũng nghĩ Tô Lịch là thủy danh, tức là tên sông. Trong khoa học định danh học có phân ra nhân danh, sơn danh, địa danh, thủy danh... Tô Lịch nay được biết là tên sông và ai cũng nghĩ nó là thủy danh. Nhưng hoàn toàn sai.

Đó là một nhân danh. Đó là một tên người.

Và đây là một nhân vật lịch sử đàng hoàng, có tiểu sử, có công tích, được chép vào chính sử. Ngoài ra chưa kể đến những thành tích, ngọc phả, thần phả, những nghi lễ thờ cúng rồi thì lễ hội… để thờ nhân vật lịch sử họ Tô tên Lịch.
Như vậy, có thể khẳng định điều đầu tiên khi nhắc đến Tô Lịch rằng đây là nhân danh được thuỷ danh hóa. Nguyên nhân làm sao?
Người ta hoàn toàn có thể làm được mấy tập phim rất hay, rất công phu về điều này. Bộ phim cần phải bắt đầu bằng cảnh xuất hiện núi Long Đỗ. Long là Rồng và Đỗ là Rốn. Rốn Rồng. Dân gian vẫn gọi đỗ là đậu, đều có xuất xứ của nó.
Bài thơ nổi tiếng của Tào Thực làm theo lệnh anh trai mình là Tào Phi từng viết:

Chử đậu nhiên đậu ky,
Đậu tại phủ trung khấp.
Bản thị đồng căn sinh,
Tương tiễn hà thái cấp?

Dịch nghĩa: Nấu đậu đun cành đậu,
Đậu ở trong nồi khóc.
Sinh ra từ một gốc,
Sao nỡ đốt thiêu nhau.

Đậu hay là đỗ nghĩa gốc của nó là cái rốn. Thế tức là đã có một cái núi Rốn Rồng xuất hiện khi nhắc đến Tô Lịch.


Bản đồ thành Thăng Long theo Hồng Đức Địa Dư - 1490, với sông Cái bên mặt Đông, sông Tô Lịch mặt Bắc và Tây. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: 36hn.


Tìm về cội nguồn lịch sử khai sinh ra Hà Nội ngày nay, những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội ngày nay từ trước Công nguyên (TCN), giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, Hà Nội lúc đó vẫn đang còn lầy lội, người ta đã dùng thuật ngữ là vịnh Hà Nội. Thế rồi đến thời kỳ biển lùi, nước rút dần và từ vùng lầy lội ấy nổi lên những gò đất. Sử sách miêu tả về vùng đất đó cho thấy có 12 hay 13 cái gò đất lớn giữa hệ thống sông ngòi chằng chịt. Có thuyết nói rằng gò Đống Đa ngày nay cũng chính là một trong số những gò đất thời tiền sử ấy. Nhưng ở đây, ta cần quan tâm đến một gò đất nổi tiếng nhất bấy giờ, ấy là gò đất Long Đỗ.

Người tiền sử đã tìm đến, chọn chỗ đó làm đất định cư, xây làng, lập chợ vì nó cao nhất, lớn nhất và linh thiêng nhất. Làng Rốn Rồng cũng chính là ngôi làng đầu tiên của đất Thăng Long trong lịch sử và Hà Nội ngày nay. Sử sách xưa chép không gọi là làng, mà ghi là Long Đỗ Hương. Chữ Hương có nghĩa là thôn. Gọi "quê hương" là vì lẽ đó. Niên đại của Làng Rốn Rồng vào đầu Công Nguyên.



Điều quan trọng tiếp theo là người đứng đầu của ngôi làng đó, ấy là một người họ Tô tên Lịch. Sử cũ viết về thời đầu Công Nguyên có chép rõ: "Đây là người đứng đầu Long Đỗ Hương. Có lòng nhân ái, không những cai quản tốt mà gặp lúc đói kém, Tô Lịch đã xuất của trong nhà ra giúp cho nạn dân. Vì thế rất được tin phục. Đến khi chết thì được tôn làm thành hoàng."

Tức là từ một nhân vật có thật trong lịch sử, ông Tô Lịch trở thành một nhân thần. Trong việc phân chia thế giới thần linh, chúng ta có hai loại nhiên thần và nhân thần, thần gốc tự nhiên và thần gốc người. Ông Tô Lịch là nhân thần và là thành hoàng của làng cổ ở Hà Nội hôm nay.

Long Đỗ Hương có đặc trưng là một gò đất cao và có một dòng nước uốn lượn ở bên làng. Dòng nước ấy vào 2.000 năm trước chưa có tên. Khi ông Tô Lịch qua đời, dòng nước uốn quanh đó, vốn là nguồn cung cấp nước cho làng, được mang tên Tô Lịch.
Từ đó mà ra đời sông Tô Lịch.



Việt Nam trải suốt từ Bắc vào Nam, có hàng nghìn con sông, hàng nghìn ngọn núi. Sông thường có nguồn từ núi mà thành. Sông chở nước, mang tính âm, thực hiện chức năng sinh thành sự sống, duy trì sự sống. Nhờ sông mà châu thổ đồng bằng được sinh ra. Núi chỉ nơi có đất trên cao, mang tính dương, hùng vĩ và là mái nhà cho vạn vật sinh sôi… Từ ghép "sông núi" vốn có cùng trường nghĩa với danh từ "đất nước".

Như vậy, từ xa xưa cặp sông - núi trong văn hóa người Việt chính là một cặp Âm - Dương, cha - mẹ. Trong tâm thức Việt, cặp đôi này có chức năng sinh sản, duy trì sự sống; nơi nào có cặp đôi sông - núi nơi đó được xem là vùng đất địa linh nhân kiệt.
Nhìn vào văn hoá Việt, có rất nhiều cặp biểu tượng sông núi nổi tiếng như vậy.

Phía tây bắc có núi Mường Hung soi vào dòng sông Mã. Khởi nguồn cho nước Văn Lang có núi Tản sông Đà. Về Ninh Bình thì cặp biểu tượng sông núi mà người dân hết sức tự hào và gìn giữ là sông Vân núi Thúy. Nam Định thì được gọi là vùng đất của non Côi sông Vị. Vùng đất xứ Nghệ là núi Hồng sông Lam. Xứ Huế thì không ai mà không biết đến sông Hương núi Ngự. Vào đến Quảng Ngãi thì cặp biểu tượng là núi Ấn sông Trà.

Thế thì tìm hiểu Hà Nội, Thăng Long, Đông Đô, hay Đại La… cần phải biết rõ về cặp biểu tưởng núi Nùng sông Tô.
Nằm ở vị trí trung tâm của Long Đỗ hương từ thời tiền sử, có một ngọn núi thiêng, tên gọi dân gian là núi Nùng. Giờ đây chúng ta có thể xác định được núi Nùng tiền sử nằm ở đâu giữa Hà Nội hiện đại này?

Nhiều người đi qua đường Hoàng Hoa Thám, chỗ Bách Thảo, thường chỉ tay vào gò đất cao cao ở đó mà giới thiệu như một sự hiểu biết đáng tự hào về lịch sử Hà Nội:

- "Biết núi Nùng nổi tiếng ở đâu không? Kia kìa!"

Đó là một sai lầm chết người.


Ngọn núi trong vườn Bách Thảo bị nhầm là núi Nùng, thực ra đây là "Sư Sơn". Nguồn: Tranh của Họa sĩ Lương Xuân Đoàn (chúng tôi xử lý lại thành đen trắng cho phù hợp với màu sắc toàn bài này).

Ngọn núi ở trong vườn Bách Thảo có tên ghi vào các văn tự cổ, bản đồ cổ là Sư Sơn. Vì chữ Hán không có âm nào để phiên âm tên gốc của ngọn núi là Sưa, nên người ta chép đại chữ Sư cho gần âm. Từ đó, quen dần đọc thành Sư Sơn.

Tên gốc của nó là núi Sưa. Cách gọi tên núi này giống cách người xưa gọi một ngọn đồi nổi tiếng ở Bắc Ninh là Lim, chỉ vì ở đó được trồng nhiều cây lim. Núi Sưa cũng vậy. Chỗ này vốn có rất nhiều cây Sưa quý mà được gọi là núi Sưa, phiên sang chữ Hán là Sư Sơn. Ta không bao giờ được phép nhầm lẫn núi Sưa (Sư Sơn) với núi Nùng thật sự.

Bởi núi Nùng là một ngọn núi thiêng, nó nằm trung tâm hoàng thành Thăng Long, ngày nay còn được gọi là núi Điện Kính Thiên. Và Điện Kính Thiên được xây trên đất gốc của Long Đỗ Hương - gò đất cổ 2.000 năm.


Nơi đặt Điện Kính Thiên trong di tích Hoàng thành Thăng Long ngày nay mới thực sự là núi Nùng. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: Hanoi.gov.vn


Truyền thuyết rồi người đời sau cũng đã chép vào những bộ như Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam chích quái... đều nói từ núi Nùng này ông Tô Lịch đã phát hiện ra một huyệt đạo có thể thông xuống tận âm ty địa phủ. Trên đỉnh của núi thì mạch của nó có thể thông lên đến tận trời xanh. Phát hiện này của ông Tô Lịch đã khiến Núi Nùng ở Long Đỗ Hương chẳng những là trung tâm, là cao điểm, là tiêu điểm, là tụ điểm mà còn là linh điểm.

Cũng chính vì thế mà suốt 1.000 năm Bắc thuộc, các thời kỳ từ Nam Việt - Lưỡng Hán cho đến Tùy Đường cai trị Giao Chỉ đều ưu tiên lựa chọn núi Nùng để xây trung tâm hành chính, và dựa vào địa thế của sông Tô mà được bảo vệ và phát triển. Như vậy núi Nùng sông Tô là một cặp biểu tượng đã xuất hiện từ TCN chứ không phải đến thời Thăng Long mới có.



Đến giai đoạn Thăng Long, chúng ta cần phải quan tâm đến chuyện vua Lý Thái Tổ dời đô. Kinh đô của nước Đại Cồ Việt lúc đó đang ở Hoa Lư "thành thì hẹp, đất thì thấp". Vậy muốn dời đô, vua Lý Thái Tổ quyết định đi đâu?

Ông ta có thể hoàn toàn chọn Cổ Loa. Sau An Dương Vương (Thục Phán) cả nghìn năm, Ngô Quyền lại định đô ở đó. Nhà Ngô lập nước từ 939 đến 965 thì sụp đổ. Vậy là cho đến lúc Lý Thái Tổ quyết định dời đô (1010) thời gian không hề xa. Thành Cổ Loa vẫn còn là một tòa thành tốt, lại nằm ở vị trí trung tâm. Nhưng ông đã không chọn.

Ông cũng có thể hoàn toàn chọn ngay chính quê ông, Đình Bảng Bắc Ninh. Vua đương triều thì chỉ cần ra một sách lệnh là gạch ngói, phu phen sẽ ùn ùn tập kết đến để xây kinh đô ngay. Lê Lợi xây kinh đô ở quê gốc của mình là Lam Kinh, Đinh Tiên Hoàng xây Hoa Lư cũng là ở quê mình. Nhưng mà Lý Thái tổ không chọn quê để định đô. Mà ông lại quyết định chọn Đại La. Vì sao?

Vì tất cả những địa danh trên, từ Cổ Loa, Đình Bảng, Lam Kinh hay cả Hoa Lư... đều ở phía Bắc của sông Nhị Hà (sông Hồng), phía Bắc của sông Tô Lịch. Chỉ có Đại La với trung tâm là điểm Rốn Rồng đó mới có sông Tô để mà làm hào sâu vừa để phòng ngự vừa để che chở. Thực tế sông Tô suốt cả 2.000 năm nay vẫn chính xác là một hào nước lớn của thành Đại La - Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Vậy là sông Tô có nhiệm vụ phòng ngự cho kinh thành. Quan trọng hơn nữa, cùng với sông Tô ở phía trong, nhích ra một tý ở vòng ngoài, Đại La còn có con sông Cái bảo vệ. Tên gốc của sông Hồng ngày hôm nay chính là sông Cái.


Bản đồ Hà Nội cuối thế kỷ 19 trong Đồng Khánh Địa Dư Chí, tiếp tục thể hiện sông Tô Lịch còn vẹn nguyên và ôm trọn, cùng với sông Cái (sông Hồng) tạo thành 3 mặt bảo vệ thành Thăng Long. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: Báo Kiến Thức.


Nghĩa của chữ Cái rất hay. Nó thể hiện được trí tuệ dân gian của người Việt cổ khi đặt tên. Cái là một từ đa nghĩa. Trong trường hợp "con dại cái mang", cái là mẹ. Trong trường hợp "trống cái", cái lại là to. Thế là cái có hai nghĩa mẹ và to. Nhưng chưa hết. Còn có trường hợp "đường cái", nó là đường chính yếu. Vậy là các sắc thái ý nghĩa từ "mẹ, to và chính yếu" đều được lấy ra để đặt tên gốc của con sông Hồng ngày hôm nay.

Người Pháp đặt tên con sông này là sông Hồng bởi vì họ là những nhà địa lý giỏi. Họ thấy con sông này nhiều phù sa. Phù sa lại màu hồng cho nên họ gọi là Fleuve Rouge. Chuyển sang tiếng Anh là Red River. Chuyển sang Hán ngữ là Hồng Hà. Kết hợp cả Nôm lẫn Hán ta gọi là sông Hồng.

Mà người Pháp chỉ mới đến đây từ thế kỷ 19, cho nên Hồng Hà, sông Hồng, Fleuve Rouge hay Red River… so với chiều dài 2.000 năm thì đó là một cái tên mới toanh.
Sông Cái mới là tên gốc.


Sông Cái (sông Hồng) và cầu Long Biên trước đây. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: Báo Kiến Thức.


Sông Cái và sông Tô Lịch là hai hào tử huyệt để che cho Long Đỗ, che cho Đại La. Cho nên Lý Thái Tổ không chọn những địa danh kia mà chọn chỗ này là vì những lý do đó. Cặp mắt của Lý Thái Tổ không chỉ là cặp mắt của một nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà quân sự mà còn là của một nhà sử học.
Để rồi mãi về sau, bao nhiêu lần "Thăng Long phi chiến địa" phần lớn là nhờ vào những kiến thức lịch sử về một dòng sông.


Tới cuối thế kỷ 19, dòng sông Tô Lịch cũng chính là nhân chứng cho việc người Pháp hai lần chiếm đánh thành Hà Nội. Tất cả những lần chiếm Hà Nội của người Pháp đều phải dùng pháo thuyền (một loại thuyền chiến có trang bị các loại pháo hạm tầm xa) di chuyển từ cửa biển ngược dòng sông Hồng rồi vào sông Tô Lịch mà nã pháo, chiếm thành.

Cổng thành Cửa Bắc mà ngày này chúng ta vẫn thấy là nằm trên phố Phan Đình Phùng. Con đường đó có được là bởi người Pháp sau khi chiếm Hà Nội đã cho lấp đoạn sông Tô chảy qua. Khi Pháp đánh cổng thành Cửa Bắc, ông Hoàng Diệu dù đang ốm vẫn quyết lên Cửa Bắc để chỉ huy giữ thành, ấy là đang trông xuống sống Tô.



Thành Cửa Bắc với hào nước trước mặt chính là sông Tô Lịch, bức ảnh này là khi chưa bị đạn pháo bắn. Bức còn lại là tường thành đã có dấu đạn pháo khi quân Pháp công thành. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: VietnamLandmarks; 36hn.
Thời đó đoạn sông này còn rất to, rộng 20m, sâu 3m, lại còn được thả cả chông gai bên dưới. Cho nên Pháp mới không vào được và phải bắn pháo hạm vào chỗ cổng thành Cửa Bắc.

Nhưng cũng từ những vết đạn đại bác ở cửa thành đó, từ sau cái ngày 25/4/1882, tương lai của sông Tô Lịch trở nên bi đát như chính đô thành Hà Nội vừa thất thủ, như chính cả dân tộc Việt Nam bị lầm than dưới thời Pháp thuộc. Hàng nghìn năm sông thiêng chứng kiến thịnh suy, và sức vươn lên của con người, của dân tộc Việt Nam; vậy mà chỉ cần có gần 80 năm, người Pháp với tư duy đại lục địa của mình, đã góp phần đường phố hóa, bê tông hóa một dòng sông lịch sử. Người Hà Nội hôm nay có cần phải cống mương hóa rồi lấp kín nó luôn đi không?


Cho đến trước khi bị lấp một phần, sông Tô bắt nguồn từ sông Hồng chảy từ Đông sang Tây rồi xuôi xuống phía Nam Hà Nội. Hồ sơ lưu trữ của người Pháp cho thấy, 30km chiều dài sông Tô chở theo mạch nguồn lịch sử 2000 năm, có đến 30 làng xã dựa vào dòng nước vừa trong vừa mát ấy mà ra đời, rồi thịnh suy theo dòng nước.


Sơ đồ thể hiện sự ảnh hưởng lịch sử và văn hoá của dòng sông Tô Lịch với những ngôi làng ven sông. Sơ đồ được chúng tôi vẽ lại một phần từ tài liệu "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" (tạm dịch: Sông Tô Lịch trong cảnh quan Hà Nội) của Đỗ Xuân Sơn.


Khởi thủy sông Tô Lịch đã đóng vai trò như một tuyến đường giao thông quan trọng của Long Đỗ Hương, vốn đã có được dòng lạch to lớn. Sử sách chép lại, sông Tô Lịch xưa dài 30km, bề ngang rất rộng và là hệ thống giao thông đường thủy quan trọng từ phía Đông vào thành Thăng Long. Dân gian miêu tả nó như thế này:

Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền em sát thuyền anh
Dừng chèo muốn ngỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.Hoặc:Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng lướt gần lướt xa
Thon thon hai mái chèo hoa
Lướt đi, lướt lại như là bướm bay

Điểm cốt yếu tạo ra sức sống và vẻ đẹp của sông Tô Lịch chính là nằm ở 2 cửa thông với sông Nhị Hà. Hai cửa sông này như hai huyệt đạo quyết định đến sự tồn vong của dòng sông.

Cửa thứ nhất ở khu vực phố Chợ Gạo ngày nay. Nó nằm ngay dưới nền của tòa nhà Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam, tòa Techcombank đồ sộ.


Tranh vẽ thể hiện cửa sông nơi sông Tô Lịch giao với sông Hồng ngày xưa (là phố Chợ Gạo ngày nay). Nguồn: "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" của Đỗ Xuân Sơn.


Theo thực địa thì vào năm 1889, thực dân Pháp với chính sách lục địa hóa, đồng bằng hóa, mở rộng Hà Nội đã cho lấp đoạn đầu nguồn này của sông Tô Lịch. Từ đó mới xuất hiện phố Chợ Gạo. Có tên Chợ Gạo là bởi vì, nó là chỗ để người ta thuyền bè ngược xuôi buôn gạo ở ngay cửa sông Tô.

Từ phố Chợ Gạo, dòng Tô thông sang phố Nguyễn Siêu ngày nay. Tại sao con phố đó có tên là Nguyễn Siêu? Tại vì khu làng ven bờ sông đó, vốn có nhà của ông Nguyễn Văn Siêu. Ông sống ở đó từ nhỏ, sau thành tài, mở trường dạy học ngay bên bờ sông.



Tranh vẽ mô tả cửa sông Tô Lịch (Chợ Gạo ngày nay) và quang cảnh, đời sống trong thành Thăng Long xưa. Nguồn trích dẫn: 36hn.