GIÁC-NGỘ

Vấn: Có địa-ngục chăng?
Đáp: Có, địa-ngục là sắc thân tứ-đại là bốn vách, cái đó là nền, sở chấp là nóc, chúng-sanh là tội nhơn ở trong cái khám tối đó.

Vấn: Có bao nhiêu thứ địa-ngục?
Đáp: Địa-ngục vô số đếm! Tâm địa nhốt trói cũng gọi là địa-ngục! Cái khổ ép-ngặt cũng là địa-ngục! Một niệm chấp cũng là địa-ngục! Cái ác cũng là địa-ngục! Tham-sân-si cũng là địa-ngục! Sự ích-kỷ cũng là địa-ngục! Địa-ngục lớn, địa-ngục nhỏ tùy theo việc làm lời nói, ý niệm, giáo-lý chẳng hay cùng các cái địa-ngục của loài người ấy đều giống như địa-ngục trong giữa ruột quả địa-cầu: Vách sắt, tối đen, lửa cháy, sình lầy, chết ngộp, có đủ sự trừng phạt.

Vấn: Những sự trừng phạt của địa-ngục như thế nào?
Đáp: Nơi địa-ngục thì phải chịu đau khổ và chết đi sống lại để chịu đau khổ mãi cho đến khi nào hết tội; Tội là thân-miệng-ý mười địa-ngục của tội thân khẩu ý là:

Sát-sanh
Trộm-cắp
Tà-dâm
Nói-dối.
Khoe-khoang
Đâm-thọc
Rủa-chửi
Tham-lam
Sân-giận
Si-mê
Mười địa-ngục ấy cũng kêu là thập-điện
Khi nào mười tội dứt, là thập-điện địa-ngục tiêu dứt! Tức tam-nghiệp thanh-tịnh thì Niết-Bàn tại đó, người ta không còn chết đi, sống lại, đổi nghề, chọn đạo, luân-hồi vay trả, để chịu đau khổ hình phạt của sắc hình đồ-vật nữa; Sự chết sống đây là chết bỏ nghề nầy sống qua nghề kia, tránh đau khổ để tìm đau khổ vì đau khổ mà chết bỏ cảnh nầy để trở lại cảnh khác cũng chịu đau khổ nữa. Ấy bởi không biết đường giải-thoát đi ra, mãi mãi ở trong cái có, cái sắc cái hữu-tình đồ phạt bằng vật-chất nên mới khổ-đau không dứt không gián-đoạn, ở trong cõi sắc ấy kêu gọi là dưới núi thiết-vi là dưới lời nói việc làm, mỗi lời nói như sắt thiết, mỗi việc làm như dây vi trói, càng chất chứa nói làm nâng lên cao, như những mắc lòi-tói sắt quấn đeo bao phủ cái ý ở trong ấy phải khổ-đau, mắc kẹt không ra được, càng vùng-vẫy càng bó chặc, càng cựa-quậy càng đau-khổ, càng tung loạn thì càng chết trơ thật là khổ hại. Ở trong địa-ngục của tứ-đại ấy, không cái có nào chẳng phải là sự hành-phạt mình cả, các cái sắc đó thật là ghê-gớm ví như rượu là nước đồng sôi, thân nữ sắc đẹp-xinh là cây cột đồng bào-lạc đốt người, sự đau thương là mũi đao, mũi thương, lưỡi người là dao cưa mổ-xẻ, tay chân người là kềm sắt dấu đồng, nguồn sông mê là tình ân-ái, chó sắc là sự ganh đua, rắn sắt là sự ác-độc, cá sấu là sự ghét-ghen, lạnh lẻo là dòng sông ích-kỷ, sinh-lầy là sự tham-lam, lửa cháy là tánh sân-giận, si-mê là đêm tối vọng-động là sự hành-hình. Xe sắt cán, ngựa sắt lôi, voi sắt kéo, tướng sắt đập là sự phong-lưu xa-mã, tướng tốt, tài hay, sức mạnh (lại cũng như nơi sòng bạc) đứt đầu như mất trí, cưa cẳng như ngồi trơ, xoi-mói nghiến đay như móc ruột, diều-ó như kẻ khôn lanh, chảo dầu là mồi danh-lợi xúi nung như lửa cháy đốt, biết bao muôn ngàn thảm trạng không sao kể xiết…Chúng-sanh hằng ở mãi tong địa-ngục tứ-đại chẳng có đường ra, tứ-đại sanh ra rồi lại ở luôn nơi đó chịu nạn, chết đi sống lại đổi thay da áo, nghiệp-nghệ lối đường mà ra không khỏi, không giảm bớt sự đau-khổ, là bởi nghiệp tội càng sanh, lấy nghiệp trừ nghiệp, lấy tội trừ tội thì tội nghiệp càng thêm chớ không có ích-lợi chi cả.
Trong địa-ngục chỉ có sự đau-khổ là đáng sợ hơn hết, chớ chết đi rồi mà gió nghiệp nó còn thổi tới là còn sống lại chưa tiêu-diệt được, chúng-sanh trong đó ở hoài chưa ra đặng là bởi hiểu lầm lạc nẻo, cứ nhắm chừng theo cái sắc có mà nắm kéo xiết vô mình đi tới làm cho chật đường, mất lối tự mình tạo ra cái chết cái đau khổ lấy mình, quá đau-khổ lại dữ hung nanh quái, tinh-ác lạ-lùng như bị tà-thần sát nhập, mê sảng điên-cuồng không ai lại gần cứu được. Kẻ ấy khó mà biết được cái không-không khoảng trống lớn rộng bên ngoài là nơi giải-thoát có đường đi, sạch êm mát sáng, nên không chịu vẹt xô phá bỏ cái vách sắt tường đồng để đến được cảnh yên vui nhứt-định. Nhưng tuy ngày nay như vậy, chớ lâu sau có kẻ cũng có ngày ra được, vì sự đau-khổ đã đến mức tức thì phản dội giác-ngộ tỉnh ra và chịu khó giảm dứt tiêu-trừ nghiệp tội lần-lần diệt hết mà được siêu-thoát.

Vấn: Có những ai cai-quản địa-ngục chăng?
Đáp: Có! Cái lương tâm của ta là Diêm-Vương xử án, vì nó mặt sắt, mặt âm không tư-vị ai hết, cái tâm là vua là chúa-tể trong bóng tối của ta, mà bởi nó nóng-nảy cang-trực nên gọi Diêm-Vương.
Cái trí phân biệt ghi nhớ của ta là phán-quan thơ-lại ghi chép đủ điều tội-lỗi không dấu được, không quên sót một mảy; Cái ý muốn dục của ta là quỷ-sứ tay sai, da-xoa la-sát tục kêu là quỷ vô-thường vì sự ham muốn không bền như vầy khi khác, nó dắt cái tham, cái ta đi tới mãi tới chỗ kết-quả của quả-báo, hành phạt thất-bại sa vào trong cái khổ-đau mờ-mịt của khám tội. Mã-Diện là sự chạy nhảy đua bơi tâng hót, ngưu-đầu là đen-đúa ác hung canh-ngạnh, cái thân của ta là nhà khám, miệng là cửa cái sắt mở rộng, tay chân là bốn cột nhà, xương sống như đòn-dông, xương-sườn như mè rui, da là vách lá, ngũ-tạng như đồ vật, hai lỗ mũi như lỗ hơi trước, hai lỗ tai như hai lỗ hơi sau, hai con mắt như hai lỗ bên hông, nhà ấy có một cửa ra vào, vào rồi bên trong đen tối không còn thấy đường ra được là bởi tại nơi cửa đóng kín-mít bên trong, còn phía ngoài thì hả rộng to quát khiến nên cái ta phải bị đọa-lạc.

Vấn: Sao gọi là huyết-bồn?
Đáp: Huyết-bồn là thai bào, chỗ huyết-kinh ngưng-đọng sanh thân, những ai còn luân-hồi còn nhập thai là còn mãi bị ngâm trong bồn-huyết.

Vấn: Sao gọi là cháo-lú của mạnh-bà?
Đáp: Mạnh-bà là cuốn rún mẹ ngậm trong miệng đứa con, cháo-lú là nước tinh-ba của vật-thực trong thân mình mẹ nhỉ vào miệng đứa con nhờ uống đó mà sống và lớn lên lần sanh-sản ra được, đứa con nhỏ ở trong ấy cũng còn gọi là ở trong địa-ngục, vì da bụng mẹ như mặt đất bằng, đứa con như hột giống, mộng-ngòi còn đang ngâm trong ấy. Trước khi sanh ra là phải ở trong ấy, ngủ mê-mang thấp tháp đồ dơ nuôi mạng lâu ngày mê-muội quên hết việc tiền căn thuở trước; Cũng như con cọp vì ăn ngon ngủ mê khi thức dậy liền quên hết việc đã qua, vậy nên gọi đó là đài ứ-vọng là ải mạnh-bà, đói ăn cháo-lú.

Vấn: Sao gọi xuống suối vàng?
Đáp: Trên con đường nghề-nghiệp giáo-lý đang đi tới thình-lình cái chết chắn ngang đứt đoạn, cái thất-bại, cái suy-sụp cái đứt gãy chận lại làm cho họ sa xuống hố mương không đường lui tới, tới cũng không được, lui cũng không xong như có hai tấm vách tường trước mặt, sau lưng khép chặt lại, tức-tối đau-đớn khổ-sở, bây giờ chỉ còn đường qua lại hai bên nhưng lại bị lún sình lâu, lúc-lắc ứ-nê chịu trận nên gọi xuống suối huỳnh-tuyền dị-lộ vô phương đào-tẩu là như vậy đó.

Vấn: Có gương nghiệt-cảnh chăng?
Đáp: Có! Gương nghiệt-cảnh là phản-giác kính trừu-tượng hiện rõ tội-lỗi rõ-ràng không chối cải được, người ta trong khi vui cười thì việc đã qua quên hết, nhưng nếu có một việc khổ-đau, buồn rầu, tức giận oán-ghét, thất-bại, sợ-sệt nhàm-chán thì cái ảo-ảnh đã qua sẽ lập lại rõ-ràng hiện lại rõ-rệt đủ hết, nhớ hết, thấy hết. Một em bé đời trước giết người ngày nay thình-lình bị một việc chi hốt-hoảng thất-vọng làm cho mê-sảng nó thấy hiện ra cảnh cũ, nó càng sợ quả-báo, công-lý vay trả nhơn-quả là càng thấy kẻ kia đòi mạng, nó càng sợ-sệt là càng thấy nó ở trong một cảnh giới khác cũa trừu-tượng, lộ ra rõ-rệt nó càng tưởng đến sự chết sự đau-khổ của người kia, là tư-tưởng nó hiện ngay lại nó, nó thấy nó như bị chém, bị giết bị đau-khổ y như vậy và nó chết, người ta nói nó bị ma-quỷ bắt là bởi không hiểu chớ không có ma quỷ nào hết chỉ tại đến lúc nó dòm vào mặt kiếng thấy việc làm của nó dội lại, càng tưởng càng sợ là càng thấy như thật. Vì cái ý con người có hai, khi dư thì muốn thiếu, khi thua thì muốn hơn, xem người rồi ngó lại mình, tưởng nơi mình là bởi thấy nơi người, cái ý hay nhìn hai bên chênh-lệch hay so-sánh nhảy qua nhảy lại, thương đó rồi ghét đó, ghét đó rồi thương đó, nó thấy ra luôn luôn việc người là việc mình, việc mình là việc người do đó mà tư-tưởng của nó hành-phạt lấy nó, khi nó làm quấy thưởng lấy nó, khi nó làm phải nó dắt cái ta đến chỗ kết-quả y-hệch như lúc thật-hành không sai một ly tấc, nào có chối cải gì với ai đâu! Như em bé đó mắc phải, đứng trước cảnh phản-giác ấy thì bịnh chắc không thể nào trị được và nó sẽ chết y như hồi nó giết kẻ kia thuở đời trước vậy, tiếng gọi là đến giờ đền tội.
Một người đâm heo thọc huyết lúc bình-thường hăng-hái làm việc nào có suy-nghỉ chi đâu, kẻ ác tính tới chớ đâu có tính lui hay biết giựt mình đứng lại, đến khi nó bịnh giựt mình sợ chết, sợ tội sợ quả-báo hoặc nó gặp cảnh thất-vọng đau khổ hoảng-hốt mê-sảng vì một việc gì thì nó nhớ hết việc đã qua, lúc đó trí-phán-quan thơ lại của nó làm việc, tâm Diêm-Vương quan tòa của nó xử phạt, lính quỷ-sứ là ý của nó kéo lôi đi đền tội nó thấy trước gương nghiệt-cảnh phản gián việc của nó đã làm, nó lại tưởng nó như con heo đang bị thọc huyết nó đòi dao thớt như lúc buổi ngày xưa. Kẻ ấy nó đã chết với ngày giờ hiện tại, nó đã sống ngược trở lại một cảnh-giới dĩ-vãng và nó thấy sự trở ngược của việc làm, thế là nó đền tội y như công-lý nhơn-quả, quả báo không sai chạy mà khỏi cần mượn ai xử phạt. Việc làm trở ngược của nó trước mắt, thiên-hạ không dấu ai được cả và cũng không ai cứu gỡ nó được.
Có hai hạng ông già, một ông lẫn tới chết, một ông lẫn thật lẫn là bởi việc làm tội-lỗi thật nhiều kéo dài mãi mãi, ông sống trong một cảnh-giới của những tội-lỗi đã qua, mà không biết gì là sự hiện tại, trong lúc ấy cái kiến phản-giác hiện rõ trước mắt trí của ông, dầu mắt nhắm, mắt mỡ đều thấy ra rõ-rệt nên gọi là kính phản-giác, cái tư-tưởng dội ngược lại của việc nói làm đâu-đâu hồi trước mà bây-giờ không ai biết được. Có khi ông sẽ thú tội hết, có khi ông thấy như là kẻ kia trả đũa lại ông, ông không có chỗ trốn thế là ông đã đến giờ đền tội! Mà lúc bình-thường vui-vẻ nào ông có suy-nghỉ đến, nhưng khi ông gặp cái vô-thường dắt-dẫn thấy chết thấy không, thất-vọng bực-tức sợ-sệt, hoảng-hốt điều chi, hoặc khô-não, hoặc đến với cái không ra không của ta tức là đến lúc mà ông đã hết thời, thất-chí suy-sụp là địa-ngục nó sẽ hiện đến trong tư-tưởng để phải trả báo lại cho ông không thiếu sót. Một ông già lẫn ít, rồi sẽ hết là bởi hành-vi đã qua, ít điều tội-lỗi và là tội-lỗi nhỏ nhặt cho nên sự đền trả khỏe-khoắn hơn và mau hết được.
Cũng có ông già không có lẫn là bởi trọn nhiều đời không tội-lỗi, trong tâm định vững được là nhờ có học đạo-lý, có tu thiền-định nên không có chấp sa-ngã theo hai phép tương-đối,cái ý được định, được giác-ngộ, không mê lầm nên không có lẫn, không gặp gương nghiệt-cảnh, không có sự phản giác ghê sợ mà là sự phản-giác của mừng vui của phước báo của việc từ-thiện của đức-huệ hiện đến, thế là ông càng tỉnh-táo càng sáng vui,càng an-lạc khoan-khoái nhẹ-nhàn tức là ông đã đứng trước cảnh Trời, đã gặp cảnh Trời đang ở trong cảnh Trời, trong lúc đang sống và trước khi chết hay sau khi chết. Trong cảnh ấy ông cũng ít biết ra việc thế đời tội-lỗi mà ông nhận thấy trong trù-tượng những kẻ mà ông đã cứu-độ, những kẻ ấy là con cháu, học trò tay sai hầu-hạ trên cõi thiên đường. Đó là giờ hưởng phước đã đến cho ông, kết-quả của việc làm ngày xưa mà hôm nay ông được toại hưởng riêng mình, không lo sợ ai chia giành cướp giựt và cũng không cần cất trữ.
Một nhà Sư xuất-gia giải-thoát làm khất-sĩ du-tăng thường tu tập công-lý lìa xa tương-đối, bỏ dứt nhơn-quả không còn quả báo như ngọn đèn tắt nghỉ yên-lặng nhiều năm nhiếu đời đã quen, nhà Sư ấy không còn có sự phản-giác. Cũng không còn trừu-tượng không còn ý-niệm trong tâm bằng-thẳng của yên-lặng, tam-nghiệp đã định thì trước mắt trí-huệ của người, dầu ở đâu, dầu lúc nào, dầu bao-lâu, dầu mãi mãi chỉ là một cảnh giới bằng-thẳng trong sạch yên-lặng, sáng-rỡ trong ấy thỉnh-thoảng có chứa một lòng từ-bi thương xót tế-độ chúng-sanh hiện ra để thâu dạy người ngoài thật là một cảnh giới đứng ngừng, cả thảy đứng ngừng vạn-vật như đã đứng ngừng, không có nắng mưa gió bụi chi cả trong tâm, thật là một cõi tuyệt-đối, vững chắc mãi-mãi tức là gương cảnh tây-phương Niết-Bàn vậy. Nơi đó không còn thấy có cái sống của tứ-đại sắc-thân, không còn có trí-não mà là chỉ còn có cái tâm chơn-như thôi, đó là kết-quả của công phu tu tập là chỗ đến của con đường thứ hai bên trần-thế, bên trần-thế là con đường ác khổ và chết thất-bại; Còn bên cảnh Tây-phương Cực-lạc Niết-Bàn là không ác không khổ và không chết không còn thất-bại ấy nữa.
Như vậy cảnh giới địa-ngục là sắc thân ác khổ chết và thất-bại, cảnh-giới thiên đường là thức-trí thiện vui sống và thành-công, còn cảnh giới Niết-Bàn là chơn-tâm tuyệt-đối, bình-đẳng sáng rỡ không có chi chi cả. Ba mặt kiến ấy, ba cảnh giới ấy không phải ở nơi đâu cả, có thể nói là ở nơi cái ác cái thiện hay nơi cái chơn-như của mỗi người hiện ra vậy, nó là kết-quả của ta, nó sẽ đến cho ta hoặc trong lúc sống hay trong lúc chết trong mọi lúc có dời đổi hay khôngdời đổi là tùy theo nhơn-nghiệp chen lộn. Đúng như vậy chơn-lý y như vậy nên một khi ta xem nơi người sắp chết họ buồn, họ sợ, họ lo, họ hoảng-hốt mê-sảng, họ đau-đớn, họ dữ-dằn mà ta biết là họ sẽ đi về đâu, họ sẽ đi theo quả báo của nhơn nghiệp trong ba ác đạo và họ sẽ bị đối chiếu trước gương nghiệt cảnh phản-giác, lúc sau khi thác họ bị trừng-phạt của ảo-ảnh hoặc lâu hay mau có khi cả ngàn năm mà vẫn chưa tiêu-tan cảnh địa-ngục tư-tưởng ấy vì bởi họ quá mê muội càng khổ, họ lại càng thêm tức-tối dữ-hung lồng-lộng thì cái quái-trạng của sự trừng-trị nơi việc làm không bao giờ tan mất mà lại còn thêm mạnh-mẽ cứng chắc lâu ngày thêm nữa. Trước giờ chết, một kẻ vui mừng yên-ổn tỉnh-táo êm-ái hiền từ…thì tức là kẻ đó được gặp và ở cõi thiên-đường, sự ở lâu nơi thiên-đường là bởi nơi tâm an-trụ bằng tâm chẳng an-trụ có ngày xao-động vọng-tưởng ác thì cảnh tốt đẹp ấy bị xen lộn rã tan, ắt là xa-đọa có ngày té xuống. Một người mà có tu nhập-định giờ chết hay lúc sống y nhau không có mẩy may gì thay đổi tức là đắc Niết-Bàn rồi đó, người ấy ở cảnh Niết-Bàn mãi được là phải nhờ cái giác, sự giác-ngộ gìn-giữ chơn-như nên mới gọi là Phật được nhập Niết-Bàn. Bằng thiếu sự toàn-giác như bậc sơ-giác độc-giác hay đại-giác thì nhập-định chưa bền lâu ắt còn phải đi tu thêm hạnh tự-giác giác-tha ở trong đời, để cho thành tựu sự giác-mãn tức là tu hạnh Bồ-Tát phải phát tâm đại-bi đại-nguyện hành cho đến khi toàn-giác, thì bi nguyện tư-nhiên mòn hết mới gọi Như-Lai đặng.
Như thế địa-ngục là vô-đạo không đường đi tới cảnh-giới của chết trơ thất bại, như bị đốt trói đứng ngừng, đạo phạt Thiên-đường là thiện đạo bền dài đi tới còn Tây-phương là cảnh nghỉ yên vô sự.
Ba danh-từ ấy là ba kết-quả của ba giáo-lý chớ không phải xa gần đâu cả, nhưng cũng xa là thật rất xa , cao là thật rất cao, gần là thật rất gần, thấp là thật rất thấp thấy gặp là tự-riêng của mỗi người, chẳng ai xúi bảo níu kéo dắt ai đi theo ai được.

Vấn: Làm sao giải-cứu khi kẻ đã mắc phải cảnh địa-ngục?
Đáp: Phật Trời thì giải-cứu được! Nhưng cũng phải tự lòng nơi kẻ ấy vui chịu vứt bỏ mà đi theo mới được! Kìa ta hãy nhìn xem một người đang bị khổ, họ khổ là bởi đang chấp mình ở trong sắc thân tứ-đại địa-ngục, họ đang bị hành-phạt bởi ác thần vật-chất trong lúc họ đang khổ không còn muốn sống, đâu còn biết đến sự việc ai ai, họ đâu còn biết ở đâu cảnh nào, đâu còn sự nói làm gì nữa. Dầu đang ở giữa đám đông nó cũng chẳng thấy ai và cũng không ai thấy đặng tâm nó ra sao? Kẻ nào đến gần khuyên lơn dỗ-dề ngon-ngọt thì nó xem như than lửa, nó càng thêm tức tối nóng nẩy đau-đớn, nó chỉ ở trong cảnh giới buồn thảm quạnh-hiu một mình nó, nó xem ra cảnh vật đều buồn và nó thấy ra cảnh đời bằng cặp mắt khác lạ như là ở thế-giới nào đâu. Tội ác của nó càng nhiều thì sự khổ của nó càng nhiều, vợ chồng cha mẹ con cháu kẻ thương yêu không ai chia sớt đặng, Nó thấy ra nó bơ-vơ cô-độc, nó thấy nó bị lẽ-loi sa-thải như bị rớt xuống vực sâu lui tới không đường, đang bị ép-ngặt kẻ xung-quanh càng cười là nó càng khóc mà nào hay biết. Trần-thế đối với no lu-mờ, của si-mê vách sắt của tứ-đại tham-lam lửa cháy bởi sân-giận, nó không biết đường nào ra khỏi bốn vách tứ-đại cả, nó càng muốn sống muốn vui là càng thấy chết thấy khổ, nếu nó còn có chút trí phân biệt thì nó mới biết là nó đang bị ở nhốt dưới thấp sâu của nước đất và của kẻ nào khác, có được trí-huệ mắt pháp cũng nhìn thấy ra được là nó đang bị lún ngộp dưới lầy sâu trong hang đen tối. Nó mà tự thoát ra được, là khi nào tội nghiệp nơi thân-khẩu-ý không còn nắm giử nữa nó chết bỏ cái ta đang bị ở trong tứ-đại đó đi tức là linh-hồn bay ra khỏi đặng, bằng chẳng đặng nó phải gặp một vị Trời chư Tiên trước khi tu hạnh cư-sĩ tại-gia đến mở khai cửa địa-ngục cho nó, cũng như khai vẹt trí não cho nó thấy ra ánh sáng lẽ phải đường ngay, chánh-thiện và noi theo gương vị Trời trí-thức mà đi theo thiện-đạo lìa bỏ sự tham-sân-si trong tứ-đại vật-chất mới được. Kẻ ấy nhờ Tiên Trời dìu đắt đem lên ra mới khỏi mà cũng phải tự nơi ý của nó vui chịu hối quá bỏ đi theo mới được, như vậy là nó không còn tham tiếc những sự vật-chất chứa từ lâu thành ra địa-ngục ấy.
Cũng có người vì nghiệp tội quá nặng, té rớt quá sâu vào tận chót đáy địa-ngục, phải bị hoảng-hốt mê-mang mãi, kẻ ấy như ngủ mơ-màng như ngây-si không biết gì hết nó mê-mang trong cảnh sợ hãi từ khi còn thân cho đến khi bỏ xác trăm ngàn muôn ức năm mà chưa tỉnh lại, linh-hồn không có sự nhập thai chi được, giống như kẻ điên khùng đang sống không có cái biết sau khi chết rồi cũng còn như vậy, linh-hồn mãi mãi đang bị ám-ảnh ở trong thế-giới đâu đâu nào có biết sự nhập-thai là gì. Thật vậy, nghiệp quá nặng từ khổ đến điên là nguy lắm, cảnh tượng ấy kêu là địa-ngục vô-gián a-tỳ, những kẻ ấy thật cũng khó cứu nó đặng trừ phi là khi nào nó đã tỉnh bớt, nó nhận ra nó tự biết nó là đang ở trong địa-ngục và nó có ý muốn ra thì hào-quang pháp-lý ánh-sáng giác-ngộ của Phật của pháp-sư rọi chiếu soi ngay nó làm cho dứt si mê đêm tối, do ánh sáng đó nó được mát-mẻ no đủ trong sạch, nó được bừng mắt tỉnh dậy, sáng thông nó nhìn ra khắp thế-giới chúng-sanh nó phát tâm đại-bi lớn rộng làm cho vách sắt tứ-đại tham-lam ích-kỷ phải ngã sập đi không còn nhốt bó nó nữa, nhờ hào-quang của Phật mát-mẻ làm cho lửa sân giận không còn nung-nấu nồi chảo danh-lợi thảy phải sập tan, bấy giờ nó có thể đứng đi tự-do theo chơn nối gót y như Phật là sự đi đứng nói làm lo cho khắp cả chúng-sanh trong võ-trụ không còn mắc kẹt phải ở một chỗ của địa-ngục ích-kỷ nữa thế là từ đó về sau nó đã giác-ngộ như người xuất-gia tinh-thần đầy-đủ bước trên sự vật mà đi do mắt trí kinh-nghiệm tỏ rõ không còn sợ lầm sụp té như khi trước, nó rất nhẹ-nhàn bay bổng lên cao làm người cao-thượng, không còn bị tình-tự vay trói níu buộc chi nữa được.
Cũng có kẻ bị khổ ít, địa-ngục nhẹ khi nhờ ánh-sáng hào-quang của chư Phật soi đến thì dây xích-xiềng đều đứt hết địa-ngục bị sấm sét nổ vở tang hoang mặt đất nâng đội lên như kẻ đã được xuất-gia giải-thoát ở nơi đất tịnh-độ, bấy giờ thì nổi mừng vui của mình mà thương xót đến chúng-sanh kẻ khác sau khi đắc trí-huệ phát tâm đại-bi đại nguyện tế-độ chúngsanh tức thì có được tòa sen của chư đệ-tử Giáo-Hội Tăng-Già nâng đỡ dưới chân đưa về cõi Phật thành chư Bồ-Tát sơ-tâm. Cũng có kẻ chưa được như vậy, nhờ ngó ra cảnh không-gian thấy sự khổ thân của kẻ khác liền đem trí-thức của mình ra, nói làm giúp đỡ thiên-hạ mà quên mình nhẹ-nhàn thì cũng được có vừng mây lành của kẻ mến đức mang ơn nâng đưa lên cõi thiên-đường hưởng được sự vui tươi phước lạc. Vị tiên trời ấy chết bỏ thoát khỏi địa-ngục sanh về cõi Trời là nhờ nơi ánh sáng pháp-bảo của chư Phật và khi được làm tiên-trời rồi, nếu không tham hưởng cõi ấy cho là khổ trí thì hãy dứt bỏ cảnh trí cao sang hạ mình đi xuất-gia khất-sĩ theo chư Phật để được tu-tập tâm chơn-như bình-đẳng thanh-nhàn yên-tịnh.
Còn bằng chẳng vậy thì cũng phải học pháp-bảo của Phật cho có ánh-sáng vòng hào-quang trên đầu không cho mê-muội hay hoặc ngó mặt ngay qua cõi Phật Pháp Tăng Tam-Bảo luôn luôn thính-pháp văn kinh cho có hào-quang thì mới đứng yên ngôi vị được. Chư Tiên mà được quí-trọng hơn hết là phải thường tế-khổn phò-nguy cho chúng-sanh luôn, để cho vừng mây dưới chân được vững chắc, vì nếu chúng-sanh ghét giận bỏ đi là mây tan đoàn rã té sa trở lại. Hai nữa chư Tiên chớ quá ham đội mão vàng, áo bạc, trạm trỗ thêu hoa, điểm trang bóng sắc thì thân mình mới có chiếu hào-quang, nhẹ-nhàn không té rớt và được tươi tốt sáng trong quí lạ, chư Tiên phải siêng-năng dầy công trau dồi phước-đức đừng ham toại hưởng danh-lợi phong-lưu thì địa-vị càng cao quí, quyến-thuộc càng thêm đông nhưng khi nào đã quá mệt khổ mà phước-huệ đủ đầy thì cũng nên hưu-trí xuất-gia làmPhật chớ đừng tham chấp thế lực oai-quyền không kiên không sợ, chẳng biết nghe ai của bậc vua Trời mà có ngày đọa lạc. Bởi cái vui vật-chất của đia-ngục xác thân với cái vui tinh-thần của trí-não cũng y nhau, hết thích ưa thì lâu ngày nhàm-chán ai ở trên cao mãi khỏi bị mỏi chân khổ té, còn dưới thấp sâu thì chết ngộp nhóng trồi không ai ở mãi bình-yên lâu dài một chỗ cho được.

Vấn: Nếu lý như vậy, sao có người lại cúng vái làm sớ điệp, lầu kho phướng xá xin tội rước vong ở đâu có linh-nghiệm chăng?
Đáp: Thân là địa-ngục, trí là thiên-đường tâm là tây-phương, cầu là cầu xin người đừng làm ác, vái là vái cầu xin người đừng mê-muội, tức là bằng sự khuyến-tu tập thiện, nói pháp làm lành, còn về sớ-điệp, lầu kho, phướng xá xin tội rước vong là làm cho vừa lòng vua quan với người giàu-sang, kẻ hiện tại. Còn linh-nghiệm hay không là biết chừng đâu, vía dại lòng tham của kẻ chết nào đó, họ nếu được thấy như vậy chắc là họ được no lòng mát-dạ rằng con cháu không quên ơn họ, chắc họ cũng vui cười giây lát. Chớ nếu họ đi học đạo lo tu bỏ tham-lam làm lành phải quên lòng ích-kỷ đoạn dứt ân-tình thì họ mới được siêu-thoát nhẹ-nhàn biến sanh lên Trời Phật không còn nặng nề thấp sâu đau khổ nữa.

Vấn: Người tu cúng vái lạy cầu vong-linh về ăn uống có chứng hưởng chi chăng?
Đáp: Cha mẹ còn sống nên cung dưỡng vái lạy cầu xin, chớ chết rồi biết có đó hay không? Việc làm ấy là tiếng chào cao hơn cỗ làm mát lòng mát dạ người chết, chớ có thân đâu mà ăn uống, cũng là việc làm gương hiếu-thảo để dạy cháu con về sau chớ không ích chi cho người chết, cũng có kẻ vì hưởng ăn gia-tài của người chết nên sợ chừng mà cúng vái vọng-tưởng chớ họ có thấy biết gì đâu.

Vấn: Vậy làm sao giúp đỡ cho kẻ chết nếu họ tội-lỗi khổ đau?
Đáp: Nếu biết chắc rằng vong linh tội-lỗi và đang bị khổ, đang có ở tại đó, thì con cháu phải tu cho họ tu theo hãy thuyết-pháp giảng-kinh luận đạo cho họ nghe và hãy làm sự phải thay thế họ, thì họ vui mừng lắm, nhờ nghe pháp mà vui và giác-ngộ, nhờ tu mà lần lần tiêu hết nghiệp tội.

Vấn: Có phải đối với mỗi người chết đều cầu-siêu chăng?
Đáp: Không! Người nào có tu giữ được năm giới, tám giới sắp lên thì khi chết khỏi phải cầu-siêu nữa vì họ đã biết đường đi, họ đã ở trên cao hơn nhơn-loại rồi, vì nhơn-loại một giới không sát-sanh, chớ họ đã được từ năm giới là cõi Trời dục-giới rồi, chữ “siêu” nghĩa là vượt qua vậy.

Vấn: Nói vậy thì địa-ngục thiên-đường tây-phương là giáo-lý, chớ không có sự cảnh thiệt hay sao?
Đáp: Sự cảnh cũng có! Nhưng lý thiệt mới là thiệt còn sự cảnh là giả, cho nên sự cảnh dầu không có cũng được, nghĩa là: Thân là địa-ngục, trí là thiên-đường, tâm là tây-phương, ấy là cảnh thiệt đời đời của ta, còn cảnh địa ngục thiên-đường, tây-phương nơi bên ngoài hữu-vi hay vô-vi kia là giả tạm sẽ dời đổi không thật không bền! Dầu ta có đến đó cũng đươc hay không đến đó cũng được, mặc dầu ta ở đâu đâu đi chăng nữa cũng chẳng bằng ta ở cảnh của tự nơi ta, biết cảnh trong ta thì cảnh ngoài là phụ thuộc không quan trọng. Cũng như tâm Niết-Bàn yên hơn cảnh Niết-Bàn, trí thiên-đường vui hơn là cảnh thiên-đường, thân địa-ngục khổ hơn là cảnh địa-ngục vì cảnh ngoài dễ mau dời đổi chớ cảnh trong thì khó lâu dời đổi đặng, vì thế nên kẻ đã giác-ngộ rồi thì không chăm-chú những việc bên ngoài kia nữa.

Vấn: Có cảnh-giới những linh-hồn bình-thường giống như cõi xác thân đây không?
Đáp: Có chớ! Cõi linh-hồn cõi xác thịt đâu phải hai! Xác thân là quần áo, cổi bỏ xác thân quần áo là linh-hồn, đang có xác thịt là linh-hồn mặc quần áo nào có lạ gì; Quần áo xác thịt như cái nhà, tâm hồn là chủ thì cái mà ta đang biết đang sống đang linh-ứng đây là tâm hồn chớ đâu phải xác thịt mà tự có được; Linh hồn đâu có sống chết, xác thịt thay đổi như áo quần dơ giặt lại, sắm đổi cái mới như cây chuối mẹ bỏ là có cây chuối con chớ cái sống đâu có chết hay cũng có sự tiêu diệt nhưng nơi loài người rất ít.
Sự chết sống nơi giáo-lý là danh-từ giác-ngộ để chỉ rõ thiện là sống, ác là chết, tâm hồn bị chết chôn trong cái ác còn cái khổ là địa-ngục; Lẽ sống chết là nói chết bỏ cái nghề nầy sống qua nghề kia, chết bỏ con đường nầy, sống qua con đường kia để chịu khổ mãi đó. Thiện là đi tới, dài kêu là sống là đạo, ác là đoãn ngắn, mất đường chết sựng ở hoài một chỗ là đời; Chớ thân bằng máu thịt hay thân bằng tư-tưởng bằng khí hơi cũng như nhau đâu có gì lạ, họ cũng đi đứng hoạt-động xung-quanh ta như ta vậy, chỉ có điều là ta ít thấy họ và họ cũng ít thấy ta, chuyện ai nấy lo có có ăn nhập gì nhau đâu. Ta ở chỗ rộng thì họ ở nơi chỗ tịnh, cũng như chúng ta đâu có ai ở chung với ai được đâu, phương nào đi theo đường nấy, nghề nào đi theo nghề nấy, chuyện ấy ta cũng không cần phải biết, vì khác cảnh giới ta chỉ biết có những tâm hồn không xác thịt vậy là đủ rồi.

Vấn: Trong đời ta nên sợ cái gì hơn hết?
Đáp: Ta chỉ có ghê sợ tội-lỗi là hơn hết! Người mà biết được công-lý pháp tương-đối nhơn-quả quả-báo thì chỉ có sợ tội-lỗi thôi chớ không sợ ai hết; Cái thưởng để giác-ngộ, dạy cũng để giác-ngộ, giác-ngộ rồi là được con đường giác-ngộ từ đó là sẽ tự mình đi, hư nên tự mình chịu lấy, mình không còn phiền trách kẻ đi trên trước nữa. Những bậc đi trên trước đã dạy ta, thưởng ta, phạt ta, là để cho ta giác-ngộ công-lý, khi ta đã giác-ngộ công-lý rồi thì phận sự của các Ngài cũng hết rồi, các Ngài không còn mắc tội với ta, không còn mắc tội với chúng-sanh nữa, mà từ đó phước ta, ta nhờ, tội ta, ta chịu và chúng-sanh phiền ta chớ không phiền người trên trước.
Vì là ta đã giác-ngộ rồi mà ta còn làm quấy là tội-lỗi ấy ở tại nơi ta cố ý vậy, trong đời mà ai cũng giác-ngộ công-lý hết rồi, biết công-lý nhân-quả là pháp tương-đối, quả báo của tự nơi mình rồi thì sẽ không còn có ông Trời, ông vua, ông Diêm-vương, ông tòa nào nữa cả, mà tất-cả như nhau bằng nhau là những bậc giác-ngộ sống chung như thế-giới Phật mà thôi, vì ai cũng là Phật cả. Ông Trời, ông vua, ông Diêm-Vương, ông quan-toà có là bởi do sự yêu cầu tôn lập của kẻ khác, người tội sanh pháp-luật chớ không phải các ông tự làm việc ấy. Trong đời nếu có ông nào tự muốn làm chức-vụ ấy tức là ông ấy còn mê-muội hơn người ta nữa, tự các ông tìm tội-lỗi tìm khổ chết tai họa, nghĩa là các ông ấy còn chưa giác-ngộ, biết có công-lý sẵn nơi mỗi người sao? Các ông ấy nếu mong xử-phạt người ta thì ai xử phạt ông ấy, ông ấy làm tội khổ người ta, ai làm tội khổ ông ấy: Người kia làm khổ kẻ khác là có tội, còn ông ấy làm khổ người kia sao lại không có tội. Công-lý nhơn-quả, quả báo tương -đối sẽ có tha vị gì ông ấy đâu! Cũng như cha đánh con là vì sự giác-ngộ bắt buộc, chớ đâu phải là cố-ý đánh; Vậy thì cõi trần-thế mà có ông Trời ông vua, ông Diêm-Vương, ông quan-tòa là vì sự giác-ngộ ép buộc chớ tất-cả đều giác-ngộ Phật hết rồi thì các ông ấy tội gì mà đi làm chức-vụ vô-ích đó nữa, làm chi cho mệt nhọc, chẵng là đi là Phật theo ai nấy với người ta cho được yên vui hơn. Như thế tức là ông vua ông Trời không có lo sự ăn ở cho người đã tu hiền khỏi cần cai-trị người đã giác-ngộ và Diêm-Vương quan-tòa không có xử án người đã tu hiền khỏi cần đày phạt người đã giác-ngộ.
Vậy thì tai sao chúng ta lại chưa chịu giác-ngộ công-lý, nhơn quả quả báo tương-đối của mình để cho các ông ấy rảnh khỏe, để cho tất-cả ai nấy cũng đều là thành Phật như nhau, bằng nhau; Nếu chúng ta mà biết sợ tội-lỗi thì đâu còn có các ông ấy nữa.Thật vậy, chỉ có tội-lỗi là chúng ta đáng sợ hơn hết.

Tóm lại: Sự giác-ngộ của chúng ta là có chớ ông Trời, ông vua, ông Diêm-Vương, ông quan-tòa vốn là không và chúng ta nên tự mình biết ghê sợ tội-lỗi hổ-thẹn tội-lỗi và dứt trừ tội-lỗi lấy mình tốt hơn là để người chế trị. Tội-lỗi có là bởi nơi sắc thân vật-chất hữu-tình tứ-đại địa-ngục vì ai nấy cũng như nhau là cái ác, cái có ở trong ấy, cái tham-sân-si nhốt phạt thống khổ vô-cùng, vậy ta phải xem coi cái có cái sắc là đất bỏ trơ trơ phía dưới chân ta dùng nó làm cái nền nhà của ta còn tâm ta là chủ ở bên trong tâm chủ, bước đi trên nền sắc thân, bọc che dưới giữa nhà thức-trí làm chủ bằng tâm thì chắc không còn tai nạn.
Hồi nghỉ lại ai ai cũng sanh ra từ nhỏ tới lớn ở trong đời, sanh ra ở trong cái có, cái vô-minh dễ gì tự-giác ai cũng mãi lay-quay trong sự vật lo cho ăn, mặc ở, bịnh của sắc thân tứ-đại cho là quan-trọng ai mà không tham danh-lợi vui chơi sung-sướng dư hơn cho êm-ấm xác thân ta và lo cho xác thân những kẻ khác nữa. Chấp lấy xác thân là ta là chủ ai ai cũng quí giá nâng cao tôn-trọng sắc thân mà nào chúng ta có nghỉ ra thiện ác? Mà nào có đếm kể coi cái ác quấy tội-lỗi ra gì? Ai mà không cho cái thiện là thiệt-thòi thua kém xấu-xa. Nào ta đã có phen nghỉ đến cái thiện là bền vui hơn là cái ác tươi cười trong nháy mắt mà quả-báo của nó là khổ ngàn ngày đâu, vì thế chúng ta mới lầm mới lạc đường mới thất-bại. Đến chừng có khổ, chúng ta mới nhận ra cái vô-thường, khổ não không ta, không của ta mới không còn mê-tín theo cái có cái sắc của cảnh bên ngoài nữa; Chừng đó chúng ta sẽ gặp đặng cái thật bên trong của ta làm chủ lấy ta không còn sợ-sệt cúi lòn ai cả, bởi ta đã không còn tội-lỗi với ai ai nữa. Cũng không còn tham muốn thái-quá bất-cập chừng ấy tâm ta đã định ta đã nhập-định nghỉ yên theo lẽ chánh chơn, ta nhập-định theo đường trung-đạo Chánh-Đẳng Chánh-Giác vô-thượng tức là ta nhập Niết-Bàn tâm chơn-như thành Phật vậy.
Phật là người giác-ngộ
Chúng ta sớm nên giác-ngộ
Vì sự giác-ngộ tâm chơn quý-báu hơn cái thiện lành thức-trí và cái thiện lành thức-trí cần ích hơn là sắc thân vật-chất, ác quấy, tội-lỗi, danh-lợi, vui chơi, cái có nơi ngoài tứ-đại.

st.