THÍCH – ĐẠO – NHO

I

Đức Khổng-Tử là một nhà hiền-triết, dạy đạo cư-gia, Ngài sanh ra trong thời giặc loạn của xứ Tàu, sau Lão-Tử 50 năm tức là sau Phật Thích-Ca 550 năm vậy.
Đức Khổng-Tử là một người con chí hiếu, lúc nhỏ Ngài tập hành lễ-giáo, Ngài tập lễ bái đến khòm lưng, gặp ai lớn nhỏ Ngài cũng lễ-bái cho đến cái cây cục đá, Ngài cũng lễ-bái nữa; Vì đối với Ngài lễ-giáo là phép lịch-sự là phép thân-thiện là lòng thương yêu là sự kính-nể tốt đẹp hơn hết. Ngài cho rằng: Có lễ-giáo con người mới có thứ-tự, có lòng nhơn mới sống chung nhau được, chính lễ-giáo là sự nho-nhã nhu-hòa, khiêm-nhượng mềm yếu dẻo-dai mới là con đàng sống được.
Có nhu-đạo mới thành nhân-đạo và nhu-đạo sẽ thắng tất cả mọi thứ chiến-tranh mạnh cứng, là phép sống đời, trong những cảnh loạn ly, nho đạo cũng là sợi dây cột chùm tất cả cây cao, để tránh nạn bão to gió lớn cùng là sự xô-xát đập-đùa lẫn nhau.
Nho-giáo là giáo-lý bình dân dẹp loạn trong khi có loạn và là một giáo-lý lập gia-đình hay hơn hết, cốt yếu của nho-giáo là loài người phải có lòng nhân đừng giết hại lẫn nhau cũng gọi là nhân-đạo. Theo giáo-lý ấy mọi loài đều phải sống, khi đã có cái sống và không ai nên làm cho ai phải chết, khi tự họ chưa chết! Đành rằng sống là khổ, nhưng ngoài mặt đất nầy ra, ta còn biết phải đi đâu tránh khổ và nếu chết đi vì uất-ức vì luyến-ái thì còn phải khổ gấp trăm lần nữa vậy.
Thế thì ai cũng phải sống cả và muốn mình sống thì đừng giết hại người, có không thù oán thì ta mới được sống yên và ta không nên để gương ác hại lại cho đời sau, và tất cả đều phải giữ-gìn một giới cấm nghiêm-trọng, là không nên sát-sanh hại mạng.
Không sát-sanh mới có lòng nhân-ái mới được gọi là nhơn loại! Mới có khác với buổi ban đầu và là đã tiến-hóa lên cao một nấc, khác cổ-nhân.
Cũng vì sự khuyên can chém giết lẫn nhau mà đức Khổng-Tử, Ngài dạy về đạo tam-cang và phép ngũ-thường cho trong gia-đình xã-hội, Ngài bày ra sự quan-hôn tang-tế cho loài người, Ngài dạy trẻ nhỏ thành nên người lớn, Ngài dạy con thú trở nên người ta, Ngài dạy kẻ ác trở nên người thiện, Ngài làm cho tất cả phải sống. Giáo-lý của Ngài cũng như bọc thai, luật-pháp của Ngài như lòng khám, để nhốt đậy giữ yên cứu sống mạng người trong cơn khủng-hoạn.
Đạo nhơn-nghĩa của Ngài, mục-đích để kết liền sự sống giữa ta, người, gia-đình, xã-hội, thế-giới và cả chúng-sanh chung, từ nhỏ tới lớn, từ ít tới nhiều, và như thế là phải thương yêu nhau tất cả, từ hẹp tới rộng, để cho không còn tai-nạn.
Ngài cho rằng vạn-vật ta làm cho tốt được thì ta cũng phải làm sao cho tâm ta được tốt, có như thế vạn-vật mới ở bền với ta, ta mới có được vạn-vật, giáo-lý ấy là đạo của Ngài, tức là Ngài bảo thủ thuyết “CÓ”! Có ta có vạn-vật, ta và vạn-vật đều phải trọn lành tốt đẹp, có mãi, giữ mãi, sống mãi. Vật hư, làm cái khác, người chết sanh trở lại, tức là giáo-lý luân-hồi nhơn-quả; Ta phải có ta phải sống ngày nay và ngày mai phải luôn luôn tốt đẹp, có công mới có quả, công quả phải bằng nhau. Ấy là lý trung-dung của nho đạo.
Theo giáo-lý đức Khổng-Tử thì kẻ nhỏ phải học nho-giáo, người lớn phải thật-hành nho-giáo và ông già thì đem nho-giáo dạy lại trẻ nhỏ, phải đem nho-giáo lập thành cõi đời, phải lấy nho-đạo làm phong-hóa, nho-đạo phải là con đường cái của nhân-loại.
Theo nho-đạo, thì người ta phải đứng tại lớp người, chớ đừng lui lại lớp thú và cũng là chưa biết phải đi tới đâu; Đức Khổng-Tử khi xưa Ngài chỉ biết thời hiện tại, việc gì cũng phải vay trả cho xong, trong ngày hiện tại trước mắt mà Ngài cho rằng: Ta phải khiêm-nhường, mà đừng ngó tới xa quá của bậc Trời Phật lớp trên và cũng chớ quay lui trở lại lớp thú nghĩa là con người phải biết lấy địa-vị việc làm của mình hiện tại mà đừng nhắc việc quá-khứ vô-ích hay là luận việc vị-lai không công mà chi. Cũng như học trò cứ lo phận sự học-hành theo bài vở của mình cho xong là được lên lớp, chớ nói luận làm chi rộn nhọc.
Như vậy nghĩa là: Nho-giáo tiến chớ không phải thủ, mà là tiến bằng cách chẩm-rải dè-dặt thận trọng, trên Nho-giáo là Lão-giáo trên Lão-giáo là Thích-giáo nghĩa là trên người là Trời, trên Trời là Phật, Nho-giáo là lớp ba, Lão-giáo lớp nhì, Thích-giáo lớp nhứt, trong một trường đạo có ba lớp mà chỗ đến có một mục-đích là bỏ khổ tìm vui vậy.
Bởi sau đức Phật 500 năm, nên Lão-Tử noi gương đức Phật hành-đạo độc-giác một mình mà nên đạo bằng phép thần-thông huyền-bí siêu-hình.
Còn đức Khổng-Tử sau đức Phật 550 năm, nên học theo đức Phật về phép cư-gia độ-thế và bởi Ngài sanh trong thời-loạn nên mảng lo đi cứu giải chiến-tranh mà không có dư thời-giờ tu học. Kịp đến khi Ngài già gần chết mới nói đến sự tu thì ôi thôi trể muộn; Đức Khổng-Tử, Ngài trọng Lão-Tử và Phật Thích-Ca Mưu-Ni lắm, đức Lão-Tử, Ngài cũng trọng Phật Thích-Ca vô cùng, hai Ngài đều là đệ-tử Phật Thích-Ca. Chính Lão-Tử là kẻ xuất-gia tu thiền-định và đức Khổng-Tử là tu hạng cư-sĩ cứu đời tuy hai Ngài không gặp Phật, mà là sự thật-hành đúng y giáo-lý của Phật ban hành từ trước. Hay cũng có thể nói là hai ông thầy giáo lớp nhì, lớp ba sau ông thầy giáo lớp nhứt là Phật vậy!
Đức Khổng-Tử cũng như cánh tay mặt của Phật đưa ra để cứu mạng sống chúng-sanh trước đã, Đức Lão-Tử cũng như cánh tay trái của Phật để giữ tâm tu thiền định, nuôi chơn-như bản tánh. Còn đức Phật như cái đầu chính giữa, có cả mắt tai mũi miệng gom chứa cả chúng-sanh thâu dụng.
Vậy nên tam-giáo là một đạo, ba Ngài cũng như một hai lớp sau về lần theo lớp trước và bởi do lớp trước mới có hai lớp sau, các lớp có ra là do tùy nơi căn-cứ trình-độ của chúng-sanh thấp kém mà lớp dưới phải mở bày ra để lần đưa lên lớp trên chỗ một.
Giáo-lý của đức Khổng-Tử không thể dạy được bậc đã thiện rồi hay như bậc ông già lớn tuổi như bậc quân-tử mà là giáo-lý sắp đặt chế trị nghiêm luật, lo cho đám trẻ nhỏ côi hoang thôi.
Nho-giáo là giáo-lý cần sống và rồi sống để chịu khổ vậy, Nho-giáo là giáo-lý sống tạm theo thời nên cũng kêu gọi là đời hay đường đời, giáo-lý tạm trong lúc chiến-tranh mà không dùng được trong khi yên-tịnh. Nếu sống mà không học có khác nào người hiền mà chưa có con mắt, sẽ nguy hại biết bao; Sự học của Nho-giáo là lo cái sống chớ chưa học đến chơn-lý võ-trụ và các pháp trong thề-gian cũng như cái học chỉ giữ có một quyển sách, một bài thì dùng không được trong những việc khác trở ngại.
Theo giáo-lý của đức Khổng-Tử, người bảo con người đừng tham-lam nhưng người lại dạy phái bảo-thủ cái đó, phải giữ-gìn vật-chất có khác nào tích-trữ nguồn-góc của sự tham-lam cạnh-tranh.
Ngài bảo người ta đừng giết nhau, phải cần sống, tức là xúi con người tham sống mà hễ tham sống cho mình thì sao lại chẳng đi hại kẻ khác!
Ngài bảo người ta đừng hơn thua nhưng Ngài lại dạy mỗi người có danh-lợi có khác nào là đốc xúi sự chen đua lấn áp lẫn nhau.
Ngài bảo người ta đừng chia rẽ nhưng Ngài lại đặt tên xã-hội, tên gia-đình, tên quyến-thuộc bà con tức là sự phân chia khác biệt ta và người, thì hỏi thử làm sao mà bình-yên được?
Ngài dạy người ta phải sống nhưng nào có thấy ai được sống mãi, Ngài dạy phải chấp có nhưng nào ai xưa nay có thấy cái chi thường bền, có mãi đâu, vì thế nên đức Khổng-Tử, Ngài mới thất-bại nơi nước Lỗ cùng 72 chư-hầu xưa không trọng dụng và cũng như khi hầu chuyện với Lão-Tử, Ngài thấy Ngài nghẹt lối nói không thành lời.
Ngài thật-hành và chủ-trương theo giáo-lý trị thế cũng thật hay nhưng kẻ đời sau hiểu lầm nơi giáo-lý của Ngài xưng gọi đệ-tử Ngài, mà họ đi làm giặc loạn để bôi lọ, vẽ mặt phá hại đạo Ngài thật là đáng tiếc.
Cũng vì thế mới có kẻ dám nói: Đức Khổng-Tử sợ người ta chia rẽ làm giặc nhỏ mới bày lập gia-đình xã-hội binh đông để làm giặc lớn giết chết một lần cho gọn; Những kẻ ấy trách quá đáng họ có biết đâu người hư chớ nào phải đạo tệ, bởi đời sau tại kẻ học hiểu lầm, hành sái vì cho bấy nhiêu là đủ mà không chịu tìm kiếm lớp Trời Phật học thêm mới phải bị tai-nạn là tự họ vậy. Mà cũng phải có như vậy thì giáo-lý của Lão-Tử mới được nổi danh hơn và người ta mới biết Trời là cao quí hơn người, còn Phật thì cao siêu hơn Trời kia nữa.

II

Đức Lão-Tử thật là khác hẳn đức Khổng-Tử, đức Lão-Tử thì lưng ngay đầu thẳng trọn đời chẳng biết cúi khòm, tánh cang-trực của Ngài không sợ ai cả cho đến bị người ta đánh đập mà Ngài cũng chẳng một tiếng kêu xin. Ngài tin công-lý, Ngài muốn tìm hiểu chơn-lý của võ-trụ, Ngài cho chúng-sanh vạn-vật vốn vô quyền vô trị ai cũng như ai cái gì cũng như cái nấy mà thôi, hoặc may chúng-sanh vạn-vật có khác nhau là chỉ nơi giáo-lý danh-từ tạm, nơi thể tướng tạm bên ngoài chớ tất cả đều là một linh-hồn, ai ai cũng là tâm-hồn như nhau hết dầu trình-độ cao thấp chớ rốt cuộc rồi cũng vẫn như nhau, bằng nhau, còn xác thân dầu là của người thú hay cỏ cây cả thảy là đất nước lửa gió chớ không có chi danh-vọng. Dầu người ta không giết thì nó cũng tự chết lấy, nên giết mà làm gì, giết hại thù oán mà chi, vì có ai giết hại tâm hồn ta đặng đâu mà hòng lo sợ, Đức Lão-Tử Ngài sống bằng một tâm hồn có ba phần: Linh, giác và thần.
Tức là Ngài sống bằng siêu-hình và Ngài tách mình ra khỏi đám nhục-dục thấp thường mà sống riêng nơi núi non thanh vắng, hang động im-lìm, Ngài là kẻ chết, Ngài là kẻ không tham muốn gì hết, Ngài chỉ muốn sự thanh-nhàn tỉnh-mịch để dưỡng tâm yên-lặng trong cỏi thanh-tịnh huyền-bí thôi. Ngài cho rằng: Cuộc đời vô-ích và giả-dối, ai ai rồi cũng thất-bại cả vì cái đó là đang ở trong cái không; Không bao chụp như vậy là Ngài chấp không, cả thảy đều không, Ngài ở trong cái không, được vui-sướng chơn thật hơn.
Giáo-lý của Ngài là chết vui hơn sống khổ và không có xã-hội gia-đình quyến-thuộc bà con của cải miếng ăn danh lợi gì cả vì chúng sanh là những linh-hồn và vạn-vật là đất, nước, gió, lửa thôi.
Đối với Ngài thì chúng-sanh không ai lo cho tâm hồn ai được, mỗi người phải tự lo lấy cũng như không ai giết tâm hồn ai được vì là nó tự sống lấy, thì phiền-lụy với nhau mà làm gì, giáo-lý ấy là đạo của Ngài; Ngài kêu nó là đạo, vì nó là con đường cao-ráo chỗ cứu-vớt kẻ trần-luân, những kẻ đã bị trầm-luân trong chốn biển ô danh-lợi của cái có, cái ác, cái tham cái lún sâu không bờ bến, không nơi nương-tựa, không kết-quả, không mục-đích. Đạo-giáo của đức Lão-Tử là lớp trên cao hơn nho-giáo và là đối-nghịch với đời; Người học nho mà bước lên lớp nầy thì phải bỏ hết sở-chấp mà chỉ phải còn dùng cái trí, cũng như lên lớp trên là phải bỏ hết bài vở cũ của lớp dưới mà chỉ mang theo được cái trí thôi.

Giáo-lý của Phật như mặt Trời.
Giáo-lý của đức Lão-Tử như mặt trăng.
Giáo-lý của đức Khổng-Tử như ngôi sao.
Giáo-lý của đức Khổng-Tử và Lão-Tử tuy còn là lớp tạm không thật nhưng giáo-lý của đức Lão-Tử thì sáng rõ hơn nhiều, cũng như mặt trăng thì sáng hơn ngôi sao, tuy vậy chớ cũng còn đêm tối chưa được sáng rõ như mặt nhựt, nghĩa là chưa bằng giáo-lý giác-ngộ của Phật chỉ rõ tất cả sự thật của ban ngày.
Theo đạo giáo của đức Lão-tử thì người ta phải lo tu tâm, lánh bỏ cõi thế đời giả-dối, chiêm-bao mà đừng mãi mê đeo theo gánh hát diễn trò, mang râu đội mão, nó chỉ là sự khổ-sở vô-ích không rồi thất-bại, lếu rộn.
Vì hễ việc chi càng lo là phải lo mãi việc có hoài, còn bằng không lo thì càng khỏi lo mà không có chi hết, việc đời cũng y như vậy, sợ gió làm động mặt nước, lấy gió trừ gió làm cho gió lớn mãi gió khắp cùng; Vậy sao chúng ta chẳng gọi là không, rồi thì sẽ không có gì hết cho được thành-nhàn yên-lặng có thong-thả hơn không?
Vậy nên theo giáo-lý của đạo Lão-Tử thì người ta hiền rồi là phải đi tu, ông già là phải đi tu, làm người là phải đi tu vì hiền rồi mà không đi tu là khổ và sẽ ác trở lại.
Ông già mà không đi tu là khổ và sẽ làm trẻ con lại, thái-bình rồi mà không đi tu là khổ và sẽ sanh chiến-tranh lại.
Như thế thì giáo-lý của đức Khổng-Tử là gom chúng-sanh lại để đừng chia rẽ sanh loạn nhỏ lúc ban đầu; Còn giáo-lý của đức Lão-Tử chia rẽ chúng-sanh ra để đừng có giặc loạn to lúc về sau, nghĩa là khi chia rẽ mà loạn thì phải gom hiệp lại cho bình-yên, về sau khi hết loạn rồi mà số đông gom hiệp ở lâu sanh loạn là phải chia rẽ ra trở lại. Dầu ly hay hiệp đều là pháp thái-bình tạm mỗi lúc để nối tiếp sự bình-yên mãi mãi; Như thế là pháp phải thay đổi luôn luôn theo thời-duyên chớ không nhất định được.

Cái hiệp của đức Khổng-Tử là để cho thân sống chớ không phải để làm loạn chết thân tâm.
Cái lý của Lão-Tử là để cho tâm sống chớ không phải để chịu khổ chết tâm thân.
Gồm cả hai pháp thì thân tâm đều sống mãi, ấy cũng vì muốn thiện mới hiệp và vì trái cảnh, muốn thiện là phải ly, chớ không phải ly để loạn hay là hiệp để hại lẫn nhau theo lẽ ác.
Cũng như đức Khổng-Tử làm cho thái-bình và đức Lão-Tử thì tiếp thêm làm cho thái-bình vĩnh-viễn mà hai pháp ấy, thiếu một cũng không được, vì thiếu Nho-giáo thì không thái-bình và thiếu Lão-giáo thì sẽ sanh loạn trở lại cũng như kẻ cầm binh-khí là để ra trận-mạc, khi không có chiến-tranh mà còn cầm binh-khí là chính họ sẽ làm loạn tiếp-tục kế đó. Vậy thì, sự lìa bỏ binh-khí khi hết loạn, tức như sự giải-thoát đi tu của Lão-Tử trong thời thái-bình thật là đúng lý, cũng như Trương-Lương công thành thân thối là hay quí.
Đức Khổng-Tử sanh trong thời loạn, Ngài dẹp loạn rồi mới đi tu.
Đức Lão-Tử sanh trong thời bình, Ngài đi tu là cho được bình-yên mãi mãi, giáo-lý thay đổi khác nhau theo thời duyên thật là quý hay hữu-ích lắm vậy; Giáo-lý của hai Ngài là đạo của thân-tâm là đạo của tất cả chúng-sanh, đạo ấy là lẽ sống vui trên mặt đất cho đến ngày hôm nay.
Đức Phật cũng dạy đúng y như thế, thân thì phải chung hợp sống chung, tâm thì phải tự ai lo tu riêng nấy; Cũng như cây cỏ, xác thân thì dựa kề nhau, còn tâm thì ở riêng trong mỗi xác thân, trong đời ai muốn chết mà nhớ đến đức Khổng-Tử là họ tự sống trở lại! Ai quá khổ mà nhớ đến đức Lão-Tử là họ liền vui trở lại! Hai Ngài là xác thịt và linh-hồn của chúng-sanh của mỗi người mà không ai có thể quên thiếu một phần nào được cả!
Về thuyết đó của đức Khổng-Tử thật là có hoài có mãi, giáo-lý làm việc thật cực-nhọc nhiều lắm mà sự kết-quả lại ít hơn, vì tình-nghĩa gom hiệp là việc nhỏ nhoi số ít; Còn chúng-sanh đông nhiều thì không hiệp được, dầu thân có hiệp chớ tâm chẳng bao giờ hiệp, thì làm sao số đông xã-hội mà ép buộc cả thảy các thứ tâm ý cho y nhau trách gì giáo-lý có của đức Khổng-Tử chẳng làm cho xã-hội không bền vững mà trái lại giáo-lý nho đạo dùng lập gia-đình cỏn con thì hay lắm. Thế mới biết rằng: Việc chi có sắp đặt, có trật-tự có cai-trị là chỉ được cho số ít thôi; Như thần-quyền chúa-tể thì không cai trị chúng-sanh được, cũng như ông thầy giáo lớpchót đối với học trò sơ sơ khờ dại thì phải dung luật để trị kẻ tiểu-nhơn ấy trong một số ít. Chớ với các lớp trên cao kia thì phải lấy lễ mà đãi họ chỉ phải chăm lo dạy họ, để cho tự tu , tự sửa lây chớ không dung quyền lực đối với họ nữa vì họ tự biết tự tu, tự tri lấy họ nào phải cần ai ép buộc.
Vả lại ở lớp dưới học trò đông mà đứa nên rất ít, ở lớp trên học trò ít mà đứa nên nhiều, lớp dưới thì khó dạy mà phải trị, lớp trên thì không trị mà dễ dạy, được là cũng bởi nhờ sự rèn luyện của lớp dưới buổi đầu để đưa lên lớp trên cái trang-nghiêm tốt đẹp ấy.
Giáo-lý Lão-Tử lớp trên, Ngài chỉ nói về lý “KHÔNG”, Ngài không có mệt nhọc lo lắng gì cả, Ngài bảo mỗi ai tự lo trau tâm lấy mình, Ngài bảo người ta bỏ thế-sự danh-lợi để trau tâm thì tất cả đều nghe theo, và cả xã-hội tự ai nấy lo trau tâm là được yên vui tất cả. Vậy nên giáo-lý Lão-Tử là dạy về số đông hay hơn hết mà lại khỏe-khoắn không có mệt nhọc chút gì. Người ta cũng nói đức Khổng-Tử chuyên dạy về bình-dân làm cho dân không loạn, về phép nội trị trong nước.
Còn đức Lão-Tử thì chuyên dạy vua quan trí thức, kẻ cầm đầu hay cũng như con rắn, ta chỉ bắt khúc đầu. Sự thật như vậy, kẻ bề trên mà biết tu tâm cũng đủ cho muôn dân được hưởng nhờ hạnh-phúc và giặc-giả không từ đâu phát sanh ra được nữa và bậc vua quan mà còn phải lo tu thì dân-giả đâu còn ai dám ham muốn cái vua quan, theo như người ta hiểu lầm cái vua quan là danh lợi mà sự thiệt của quan là khổ sở là tôi tớ của dân khờ, là nạn tai của cướp trộm bởi sự hăm he thù oán và mãi lo-lắng giữ-gìn của cải thân mạng cho muôn loại, bằng cách chẳng công ơn đã bị bận-rộn mãi cho ai, mà không còn đường tấn-hóa cho mình đi kịp, thế mới biết vua quan là khổ là hy-sinh là thiệt thòi đủ thứ. Kẻ lãnh trách-nhiệm cha anh, của người cha anh tuy sướng thân một chút mà thật là lao-tâm khổ-trí, bổn-phận cha anh không phải dễ hành, đúng thì cũng khổ mà hành không đúng thì cũng khó lòng, khổ nhứt là mãi lo ăn ở cho đàn em bất trị không rồi, không xong gì cả, mà chúng lại oán hờn.
Phương châm của đức Lão-Tử, là sự chỉ cho cái tâm-hồn, lo cho lúc sau khi chết và hiện tại là không có vạn-vật là không thường, giáo-lý ấy an-ủi rất khéo làm cho người ta quên hẳn sự khổ của hiện tại nhứt là tâm của các ông già, những người chán-nản thất-bại được vui sướng mà sống lành thêm tức là tạo nên tâm hồn từ-bi hỷ-xả, cao-thượng mà kẻ sống thì thấy như mình đã chết nên thong-thả an-nhàn sung-sướng lắm họ không còn có thấy cái gì nữa trong thế-gian, họ đang ở trong cái không-không tuyệt-đối nên khỏe nhẹ và thông-minh sáng-suốt lắm; Họ sống bằng lý-trí và vui với lý-trí ngoài ra họ không biết gì cả.
Đạo Khổng và đạo Lão có ra là do đạo Phật, vì trình-độ chúng-sanh không theo được đạo Phật nên đức Lão-Tử mới bày ra đạo Trời và cũng bởi người ta không theo được đạo Trời nên đức Khổng-Tử mới mở ra đạo người để đến với đạo Trời; Đạo Trời là để đến với đạo Phật tức là ba lớp học của chúng-sanh đời nay.

III

Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni Ngài dạy gồm cả xuất-gia và tại-gia tức là Ngài dạy cả hai pháp của Khổng-Tử và Lão-Tử, Ngài không chấp một bên nào; Ngài giữ mực trung. Nghĩa là: Ngài cũng có dạy cả hai bên theo nhơn-duyên, vậy nên nói, Khổng-giáo là đạo Phật cũng được hay là đạo Phật là Khổng-giáo Lão-giáo cũng được. Đức Phật được siêu-việt hơn, bởi Ngài đã thật giải-thoát đến chơn-như và toàn-giác, Ngài đứng ngoài tất cả chúng-sanh vạn-vật và các pháp nên Ngài không còn lầm lạc, Ngài biết khắp võ-trụ, Ngài không đem mình làm phận-sự gì hết, Ngài chỉ bảo sự lạc lầm cho ai nấy thôi. Ngài không dòm ngó đến sự chết sống, Ngài cũng không chú ý đến sự khổ vui, Ngài cũng không lấy hay bỏ ai hết, Ngài cho rằng: Cõi đời ra sao cũng được, Ngàichỉ muốn cho ai nấy lần-lần được sự giác-ngộ biết sáng như Ngài, vì hễ giác-ngộ rồi thì không còn sở chấp, mà không còn sở chấp là sao sao cũng được cũng xong thì sự chết sống, khổ vui, đến đi, còn mất, có không, vinh-nhục lợi hại chẳng ăn thua gì.
Chúng-sanh miễn giác-ngộ rồi là được, trong đời đã sẵn có công-lý của bản tâm, nghiệp nhơn thì có quả, miễn là ai nấy đừng mê-muội, rồi thì khổ hay vui họ cũng an lòng lấy và tự họ sẽ đi lần-lần theo con đường giác-ngộ của họ.
Cũng giống như đức Khổng-Tử với cư-gia, Phật dạy phải cấm sát-sanh là trước , cũng giống như đức Lão-Tử với xuất-gia Phật dạy cấm dâm-dục là đầu, Ngài cũng cho rằng: Cõi Trời vô sắc-giới và dục-giới là cao hơn cõi người dâm-giới. Không dâm-dục chẳng sanh thì đâu có giết! Không có giết thì đâu có sanh! Nó là đầu đuôi của nhau, cũng như không có ác đâu có khổ và không khổ đâu có ác! Đức Phật Ngài chỉ Niết-Bàn là trung-đạo Chánh-Đẳng Chánh-Giác mực giữa, chớ không phải thấp cao xa gần chi cả. Chính cõi Niết-Bàn là lòng từ-bi bình-đẳng, tất cả chúng-sanh chung, là sự trong sạch không nhơ uế, là sự sáng láng của trí-huệ là sự yên-lặng của tâm-chơn chớ không phải ở đâu cả; Đức Phật dạy chúng-sanh phải biết ở trong bản tâm yên-lặng của mình chớ đừng ở đâu hết, vì chỗ nào cũng không bền và chỉ có cái chơn-như mới là giải-thoát tất cả luân-hồi sanh-tử mà thôi. Ngài chỉ rõ sự sống của chúng-sanh, sanh ra bởi nhơn-duyên con của tứ-đại; Kìa như những cọng cỏ sanh ra bởi đất thì nó chỉ là cái sống tự-nhiên vậy thôi chớ không có gì bận rộn cả. Cũng như Ngài muốn nói,chúng-sanh là những cọng cỏ, cọng cỏ lúc đầu chưa biết chi cả nên gọi trơ-trơ nhưng về sau càng tiến tới theo thời-gian, chúng-sanh càng lầm-lạc khổ-sở tai-hại, rốt lại sau khi đã giác-ngộ rồi thì cũng còn sự trơ-trơ của cái biết, mà không còn cử-động chi cả, trở lại như cọng cỏ buổi ban đầu. Vì bởi không ác thì không thiện, không tham-lam thì khỏi bố-thí, không giết thì khỏi cứu, không mê thì khỏi tỉnh, không giận hờn thì không nhẩn-nhục, không giải-đãi thì khỏi siêng-năng. Như thế là bao nhiêu việc của chúng-sanh cực-nhọc lay-quay trong nhiều đời kiếp chỉ khổ công mà không ích hay gì ráo. Vậy nên giác-ngộ rồi là trơ-trơ, trơ-trơ có phải đỡ hơn không? Thậtvậy, không có ghét thì đâu có thương, kẻ nào trong tâm bằng-thẳng, trơ-trơ yên-lặng như đầy đủ thì không bao giờ có sự dư thiếu ấy, mà trần-thế là cõi yên-lặng trơ-trơ chớ không có gì.
Tại sao tâm ta thiếu? Là tại ta bớt ra chẳng phải thiếu! Tại sao tâm ta dư? Là tại bởi ta thêm lấy vô chẳng phải dư! Và như thế là ta đã lầm-lạc tai-nạn rồi đó thật vô-ích lắm. Chớ chi ta hãy để tâm tự-nhiên nghỉ ngủ bằng-thẳng, chẳng là yên ổn hơn không!
Tại sao chúng ta chẳng xét nghỉ, là mặt đất chung, cọng cỏ sống chung tư-do, sống ở chết đi, khi đây khi đó, do nhơn-duyên không sắp đặt và cái biết là để học, học với tất cả; Cái sống là để sống, an-nhàn với tất cả, cái linh là linh-diệu thần-thông phải để tự-nhiên kín-đáo cho nó linh-thiêng mầu-nhiệm huyền-bí bao-la! Để cho tâm ta được trơ-trơ bằng thẳng. Giáo-lý của đức Phật dạy chung sống, chung học, chung cả cỏ, cây, thú, người Trời Phật tâm bình-đẳng sống cho nhau, thi ân đừng cần báo, phải trao đổi lẫn nhau, diệt trừ ý nghiệp, dứt bỏ tham, sân, si, tâm đừng vọng-động. Ngài dạy cả thế-giới chúng-sanh chung đúng lắm, theo Phật dạy cả thế-giới chúng-sanh yên-vui thì xã-hội mới yên-vui, xã-hội yên-vui thì gia-đình mới yên-vui, gia-đình yên-vui thì mình mới yên-vui. Như vậy nghĩa là: Ta ở trong tất cả, ta phải sống với quá-khứ vị-lai và hiện tại, nghĩa là ta phải sống với tất cả v.v…sống bằng sự dứt tham ái, giữ tâm an-lạc. Vì thế mà khi xưa đức Phật bỏ gia-đình xã-hội để sống chung với tất-cả, Ngài giải-thoát giáo-lý gia-đình xã-hôi tông-giáo và Ngài cũng giải-thoát cho chúng-sanh luôn… Cũng như một người thợ săn kia, lúc đầu lùa bắt những con le-le, đem về gom một chỗ tạo sắm chuồng-bồ, nhốt lại, trước là thương vì nó lạc loài bơ-vơ đói khát và sau khi nuôi nó mỗi ngày rải thóc cho ăn, lùa cho đi uống, lấy công lao ấy mà có thịt ăn, mỗi ngày ăn thịt một con mập tốt xúi chúng sanh-sản cho nhiều, bồ nước trước mặt chảo nước sau lưng…
Nhưng một hôm, người gặp một con chim đại-bàng bay liệng trên cao, chim ấy nói rằng: Mình là con vịt ốm yếu bịnh-hoạn trong đoàn, bị vất thải lạc rơi vào trong buội rậm, nhờ đó mà được rảnh-rang đi tu trong rừng kín, nhịn ăn nên lông dài bay được. Điều ấy làm cho người thợ săn thấy mình thua kém xấu-xa và khổ-nhọc tội-lỗi, thế là sau nầy người phá hết chuồng-bồ, thả hết bầy vịt bảo chúng đi tu và người cũng đi tu nữa. Chính không phải người tha chúng làm ơn, mà là nguời không muốn làm tội thêm nữa vậy; Cách đó chẳng bao lâu người ta thấy trên nền trời ấy, có một bầy chim đại-bàng do một đoàn chủ cầm đầu, bay khắp cùng xứ và tản lạc ra xa đầy trên thế-giới.
Người đó tức là đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni thành Phật, bầy chim ấy là đệ-tử đắc-quả của Ngài, con chim đại-bàng trước hết là đức Phật Ca-Diếp, chuồng-bồ là giáo-lý gia-đình xã-hội, đức Phật trong nhiều đời kiếp trước kia, tu hạnh cư-gia giống y như đức Khổng-Tử gom hiệp lùa ví chúng-sanh lại ở chung, tạo pháp-luật gia-đình xã-hội làm chuồng lồng nuôi dân bằng lợi-lộc, cho thóc lúa, lấy nước danh dơ bẩn mà tắm người ta. Bày xúi sự sanh-sản vui chơi để mà thủ lợi, đền cho công cán, lâu ngày người ta quên lịch-sử buổi ban đầu, nhận lầm quyến thuộc bà con chỗ ở, lập nên sự nghiệp tô đắp cho thân, mảng ham ngon, tốt, béo, no, mà thân mạng có ngày chết luộc. Ngài thấy Ngài tội-lỗi không nỡ hưởng miếng mồi ngon, để cho chảo dầu danh-lợi đốt nấu con người. Ngài xem gương giải-thoát của Phật Ca-Diếp mà Ngài xuất-gia dùng giáo-lý của Ngài phá tung tủ khám địa-ngục của Ngài mà giải-thoát luôn cho tất cả. Ngài không nỡ làm vua bằng thịt máu của người khờ dại, Ngài đi xin ăn để phá cái sở-chấp của gia-đình xã-hội, cha mẹ vợ con tiền của, ta và người danh và lợi, Ngài đi xin ăn để giải-thoát nhẹ bay khắp cùng đây đó, sống chung, học dạy chung, thương yêu chung, bình-đẳng đại-đồng bác-ái.
Vì bởi Ngài làm được việc đúng chơn-lý ấy, Ngài bỏ tất cả giai-cấp thế quyền danh-lợi nên chúng-sanh thảy tôn Ngài là Phật và người ta theo Ngài thờ Ngài mãi mãi, thờ cái tâm trơ-trơ bằng-thẳng của Ngài.

Tóm lại: Đạo là con đường từ đầu tới cuối, đức Phật Thích-Ca Ngài đã đi đến cuối đường, đức Lão-Tử còn đang đi chặn giữa, đức Khổng-Tử mới bước đến khoảng đầu, trong ba cảnh-ngộ của ba chặn, tức là ba giáo-lý của một con đường, con đường ấy là: Đường khất-sĩ của chúng-sanh, mà đức Phật là bậc y-bát chuyên-môn, đức Lão-Tử cũng là bậc mang áo ôm bầu, còn đức Khổng-Tử thì lưng cơm bầu nước, khó bần nho-sĩ. Nghĩa là: Đức Phật là thầy dạy đạo khất-sĩ, đức Lão-Tử là đang tu thật-hành khất-sĩ và đức Khổng-Tử là đang tập hạnh khất-sĩ mới khởi-hành.
Khất-sĩ là đạo của tam-giáo là chơn-lý võ-trụ là đạo của tâm người của chúng-sanh chung, của tất-cả, đến với tất-cả, mà không ai không phải là xin học; Khất-sĩ! Có xin học mới sống yên-vui không tội-lỗi!
Khất-sĩ là đạo
Cư-sĩ là đời
Đời sẽ về y theo đạo
Nho-giáo xưa kia! Khổng, Tăng, Tư, Mạnh mới thật là người hiểu đạo khất-sĩ của chư Phật hơn hết.

st.