KỲ 2: PHÁP ĐÀN GIẢI TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG CHO TÍN CHỦ NGỌC L. Đ/C ALHAMBRA, CA 91803, U.S.A.

I. Nhân duyên thực hiện pháp đàn:

Chị L là bạn thân chung xóm từ thuở cắp sách đến trường của dì Nga, dì Nga là dì của tỷ Thiện Hỏa, dì cũng thường đi theo nhóm tham dự các pháp đàn khi rảnh rỗi. Nhưng sau đó chị L đã theo gia đình định cư sang Mỹ. Chị sống và làm việc tại Mỹ nhưng chị cũng thường hay về Việt Nam.

Nhân một chuyến về Việt Nam chị có quen một người bạn. Người này thật ra cũng không thương yêu gì chị nhưng biết chị là Việt Kiều có nhiều tiền nên cố tìm cách khai thác tiền từ chị. Khi chị về lại Mỹ người này sợ chị bỏ, sợ chị xa mặt cách lòng hoặc sợ quen người mới thì sẽ không về Việt Nam nữa hoặc về Việt Nam thì sẽ quen người khác.

Vì thế, người này đã nhờ thầy Pháp Lỗ Ban yểm bùa vào chị. Năm 2005, chị bắt đầu có những triệu chứng bất thường như nhức đầu kinh khủng, trong người mệt mỏi ngủ không được thức trắng đêm trong một thời gian dài, 2 vai rất đau và nặng như có người bóp vậy. Có một điều rất lạ là cứ đến giờ Ngọ (12 giờ trưa) là chị bị nhức đầu kinh khủng. Mà chị đi đến các bệnh viện ở Mỹ và Việt Nam các bác sỹ điều không tìm ra được bệnh.

Nhân một chuyến đi về Việt Nam, lúc này chị vẫn tiếp tục qua lại với người tình, trong một đêm ngủ cùng nhau thì hiện tượng trên lại lặp lại nên chị niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì thấy người tình thay đổi sắc mặt một cách kỳ quái, vò đầu bứt tai và quát chị “Cô có im ngay không? Đừng niệm nữa nhức đầu quá. Im đi để tôi ngủ”. Chị thấy vậy mới nghĩ trong lòng ra sức niệm thêm nữa thì lúc này người này ôm đầu đau quằn quại, hai mắt đỏ ngầu như mắt quỷ, rồi hét lên một tiếng và ngã một cái rầm xuống nệm ngủ luôn tới sáng.

Thế là sáng hôm sau chị chia tay với người này và về Mỹ. Khi chuẩn bị lên máy bay thì binh của Thầy pháp ngăn cản không cho chị đi làm cho chị đau bụng, ói mửa, không ngủ được nhưng chị cố gắng vượt qua để về Mỹ. Qua bên Mỹ chị tiếp tục bị hành bởi các triệu chứng trên nó làm cho trí nhớ chị giảm sút, sức khỏe kém, công việc gặp trục trặc, gia đạo thì lục đục…Khi qua Mỹ chị có đi nhiều thầy bà và các chùa nhưng tình hình không khả quan là bao. Chị có quy y một chùa ở bên Mỹ thì thấy có đỡ hơn một chút thôi, và không có cách nào khác là chị sống chung với lũ cho đến ngày hữu duyên gặp nhóm.

Chị cũng thường xuyên gọi điện về Việt Nam tâm sự với dì Nga tình trạng của chị thì dì khuyên chị nên sắp sếp về Việt Nam để nhóm xem sao để mà cúng giải ra. Điều đặc biệt ở chị L là một người bản lĩnh mạnh mẽ và có tính tình nhân hậu, ở bên Mỹ chị cũng thường hay làm từ thiện. Chính vì nhờ cái phước đức đó nó kéo lại nên trong một thời gian dài từ 2005 đến nay mà một người bị yếm bùa như chị vẫn không bị điên khùng hoặc mất mạng. Chính vì nhờ cái phước đó nên nhóm mới có cơ duyên giúp chị.

Khi về Việt Nam vừa mới xuống máy bay là người kia đã gọi điện hỏi chị liền (mặc dù chị không cho ai biết), vì binh Thầy pháp báo cho biết. Về Việt Nam chị ở nhờ nhà bà con gần nhà dì Nga. Biết chuyện tỷ Thiện Hỏa có qua chùa thỉnh sư phụ đi đến nơi chị L. đang ở. Khi mới bước vào nhà chị L thì sư phụ đã thấy âm binh đứng đầy trước cửa và khi lên phòng chị L thì thầy thấy có một vong nam cao to da den người Mê Hi Cô theo chị. Sư phụ mới nói với chị: “Con L sao con không tu tập, tụng kinh niệm phật hồi hướng cho cái vong đi theo con đi”. Lúc này chị L mới hết hồn vì có người nhìn thấy cái vong đó.

Và chị kể cái vong đó theo chị cũng lâu rồi, chị và cả gia đình chị ở bên Mỹ đều thấy nó. Nó còn phá trong nhà chị như làm cho chén đĩa xoong nồi khua, mấy đứa cháu chị tắm nó gõ cửa phòng tắm kêu tên nhưng khi mở cửa ra thì không thấy có ai. Tối chị ngủ thì bị cái vong này nắm chân kéo xuống giường.Vì thời gian gặp chị là gần Tết nên trong nhóm có một số bạn đạo đã về quê nên không thể lập pháp đàn ngay để cúng giải cho chị. Nên tỷ Thiện Hỏa và huynh Thiện Mộc cùng sư phụ tạm thời tác pháp giải trượt khí trên người chị cho giảm bớt để chờ qua Tết nhóm tập trung đông đủ sẽ lập pháp đàn cúng giải dứt điểm cho chị.

Và tỷ Thiện Hỏa khuyên chị L tiếp tục niệm Phật để giải trừ nghiệp chướng ngăn chặn tà khí xâm lấn vào cơ thể. Sau khi thầy tác pháp cúng giải cho chị thì chị có phản hồi là đã đỡ hơn nhiều nhưng vẫn còn đau hai vai như có ai bóp, vẫn còn nhức trên đỉnh đầu. Từ chỗ thấy sự vi diệu của Phật Pháp như thế chị mới phát nguyện phóng sanh, bố thí. Chị cùng huynh Thiện Mộc thả cá phóng sanh, và phát 300 phần quà cơm từ thiện tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương.

II. Chuẩn bi pháp đàn:

Vì chị L không có nhà ở Việt Nam nên pháp đàn lần này chúng tôi mượn nhà của huynh Thiện Thổ tác pháp. Mọi người hẹn nhau tập trung đến nhà đạo hữu Thiện Thổ tác pháp khoảng 10h ngày 16-02-2014.

III. Diễn biến pháp đàn:

Thầy trì chú Úm Lam vào ly nước trên bàn Phật dùng để Sái tịnh đàn pháp và sau đó dùng để giải trượt tà khí trên người thân chủ. Vào đàn pháp mỗi người tham gia đàn pháp thắp một nén hương trên bàn thờ Phật và cầu nguyện trong Tâm. Riêng chúng tôi luôn cầu nguyện xin mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh Tăng, chư vị Hộ pháp thiên long bát bộ phù hộ cho chúng tôi thực hiện pháp đàn thành công để cứu độ chúng sanh, giúp chúng sanh biết rõ nghiệp lực của mình mà tinh tấn tu hành giải nghiệp, hóa giải oan gia, giúp chúng sanh tin sâu hơn vào Phật pháp mà tự mình đốt đuốc soi đường, tự cứu chính mình thoát khỏi bể khổ luân hồi sanh tử.

Chúng tôi tác pháp theo nghi thức sau:

1. CÚNG KÍNH ĐIỀN – CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT


2. CÚNG THỔ CÔNG:

Thầy dùng tiếng Thiên để trao đổi với các vị Thổ Công Thổ Địa và Thần Hoàng Bổn Cảnh ở cuộc đất gia chủ. Xin các vị giáng đáo đàn tràng gia hộ cho nhóm thực hiện pháp đàn thành công.


3. CÚNG CÁC VONG LINH

4. CÚNG CẦU AN:

Nhóm cùng các bạn đạo hữu duyên có mặt trong đàn pháp trì tụng kinh Phổ Môn để cầu an cho chị L.

5. THU BINH VÀ GIẢI TRƯỢT KHÍ TRONG NGƯỜI TÍN CHỦ.

Tín chủ Phát Nguyện:

Thường thì bất kỳ pháp đàn nào cũng vậy nhóm chúng tôi chỉ chịu cúng giúp nếu như tín chủ thành tâm hướng về Trời Phật, ăn năn sám hối tội lỗi của mình và điều quan trọng nhất là phải phát nguyện tu tập tinh tấn tụng kinh niệm Phật hàng ngày, làm việc thiện bố thí, cúng dường phóng sanh, tu tâm dưỡng tánh, hành theo mười điều Thiện Nghiệp.

Vì sao phải phát nguyện như trên. Vì qua thực tiễn hành pháp của nhóm những tín chủ nào thành tâm tu tập làm việc thiện nghiệp thì sau một thời gian đều nhận được sự linh ứng, cái nghiệp quả được hóa giải. Nhưng bên cạnh đó có một vài pháp đàn tín chủ không thành tâm tu tập, giải đãi trong việc tu tập, hoặc không hành thiện bố thí thì kết quả không được xoay chuyển, hoặc xoay chuyển lúc đầu nhưng sau đó lại như cũ.

Họ lại xoay qua phỉ báng Trời Phật, phỉ báng Nhóm cúng sao mà không có linh nghiệm gì vậy? Điều này thật là vô minh. Họ không hiểu được quy luật nhân quả. Mỗi con người sinh ra trên thế gian này đều có mang nghiệp quả cả, cái nghiệp mình đã tạo ra không những kiếp này mà muôn ức kiếp về trước cứ chồng chất lên nhau. Mình đã gây ra biết bao nhiêu oán thù, gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho biết bao nhiêu người phải vì mình mà đau khổ, phải vì mình mà tán gia bại sản, gia đình phân ly cách biệt, phải vì mình mà vào tù ra tội, phải vì mình mà mất đi cái quyền được sống…

Tội lỗi của chúng ta như núi chất đầy như vậy nhưng cái phúc đức chúng ta lại không có bao nhiêu vì chẳng làm việc gì để có cái công đức để mà hóa giải cái nghiệp quả ấy. Nhưng chúng sanh lại vô minh lúc nào cũng nghĩ mình là người tốt hết, không có ai nghĩ mình là người xấu cả nên cứ than thân trách phận sao mình sống tốt như thế này mà sao ông trời cho mình gặp chuyện này chuyện kia. Có thể trong kiếp này mình sống tốt thật nhưng những tiền kiếp mình sống không tốt nên kiếp này mình mới đau khổ vì cái quả của mình gây ra tiền kiếp nó theo đòi mình.

Quy luật nhân quả rất công bằng không có chúng sanh nào có thể thoát khỏi ra ngoài quy luật này kể cả chư Phật, chư Bồ Tát. Vậy thì có cách nào để xoay chuyển cái nghiệp quả đó không? Chư Phật rất Từ bi đã chỉ cho chúng sanh con đường thoát khỏi nghiệp lực đó là tu tập, hành thiện bố thí, cúng dường, phóng sanh… để có công đức mà xoay chuyển nghiệp lực, xoay chuyển cuộc sống cho thân tâm an lạc, gia đạo bình an. HÃY DÙNG TÂM AN LẠC MÀ HOAN HỶ ĐÓN NHẬN NGHIỆP LỰC. Có như vậy thì chúng sanh mới thoát khỏi và vượt qua vòng xoáy của nghiệp lực.

Nhân quả vốn công bằng, chúng sanh gieo nhân thì chỉ có tự chúng sanh giải cái nghiệp quả do mình gây ra. Chư Phật, Chư Bồ Tát chỉ là người trợ duyên, các Ngài chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi nghiệp lực, thoát khỏi luân hồi sinh tử. Chư Phật vạn năng chứ không toàn năng, các Ngài cũng không thể xen vào quy luật nhân quả được.

Và nhóm cũng vậy chỉ đơn giản là người trung gian là cầu nối để giúp các đạo hữu tin sâu hơn vào Phật pháp, nhóm bằng kiến thức hạn hẹp của mình cố gắng chỉ cho quý vị cách để quý vị thoát khỏi nghiệp lực, không làm sai quy luật nhân quả, sống an lạc trong chánh pháp. Sự màu nhiệm của Phật pháp có xảy ra hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào quý vị có tin sâu vào Phật pháp mà phát nguyện tu tập để giải nghiệp cho chính bản thân mình và gia đình mình hay không?

Nói tiếp đến chị L, vì chị định cư bên Mỹ từ nhỏ nên vốn kiến thức tiếng Việt của chị bị hạn chế. Do đó, khi chị đọc lời phát nguyện có nhiều chỗ bị vấp phải đánh vần, chúng tôi giúp chị vượt qua những đoạn này, nhưng không sao qua đó chứng tỏ được sự thành tâm của chị khi đọc hết lời phát nguyện hơn một trang giấy.

Tác pháp thu binh và giải trượt khí trên người tín chủ:
​Chúng tôi gọi chị ngồi trước bàn Phật, rồi lấy lá khăn ấn của Tổ Thầy trùm lên đầu chị. Sau đó thầy và 5 người trong nhóm chúng tôi cùng tác pháp thu binh và giải trượt khí trên người chị L.

Thầy đọc thần chú, dùng nhang khoán những chữ phù lên đầu, 2 vai, 2 tai, lưng của tín chủ. Thầy kiết ấn vẽ các chữ phù thổi lên các vị trí trên và niệm chú dùng nhang khoán vẽ linh phù thổi vào người tín chủ, sau đó thổi phù vào hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân. Huynh Thiện Mộc trì chú vào linh phù đốt cho tín chủ uống và dùng nhang khoán và vẽ linh phù xung quanh người. Còn tôi Thiện Thủy dùng Dao Phổ Ba niệm thần chú và vẽ linh phù xung quanh người tín chủ.

Huynh Thiện Thổ thì để mõ trên đầu tín chủ rồi tụng 5 biến Chú Đại Bi, mọi người có mặt trong pháp đàn đồng thanh trì tụng Chú Đại Bi để trợ lực cho huynh. Tỷ Thiện Hỏa lấy nước từ chai nước trên bàn thờ nhà chị hơn một năm qua đã được chị tụng chú hàng ngày giao cho huynh Thiện Mộc tiếp tục gia trì thần chú. Sau đó huynh Thiện Mộc dùng nước này tác pháp giải những trượt khí trên người tín chủ. Còn tôi gia trì thần chú vào lưỡi Ông Tiêu và dặn chị luôn mang theo bên mình để ngăn chặn tà khí xâm nhập cơ thể.