kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: Câu hỏi đặt ra trong kinh Pháp Bảo Đàn.

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Câu hỏi đặt ra trong kinh Pháp Bảo Đàn.

    "何期自性能生萬法。" "Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?" "Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp."
    "何期自性能生萬法。"

    "Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp?"

    "Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp."

    Tâm Tịnh
    Đó là một câu mà con, Tâm Tịnh, đã viết ra từ kinh Pháp Bảo Đàn, do ngài Lục tổ Huệ Năng giảng và ngài Pháp Hải ghi lại bằng chữ Hán, mà đã được dịch và chú giải bởi 2 vị Phật tử cư sĩ Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến, từ bản chữ Hán được tìm thấy từ động Đôn Hoàng, câu chữ Hán và câu phiên âm tiếng Việt trong tựa đề được viết ra ở trang 14, trong website:
    http://www.doko.vn/tai-lieu/phap-bao...n-viet-1740303

    Tự Tánh, chính Tự Tánh (by itself), chẳng sanh chẳng diệt đã đành, Tự Tánh by itself cũng chẳng sanh ra muôn pháp. Tự Tánh tiềm tàng, hiện hữu trong muôn pháp, nhưng không sanh ra muôn pháp. Do nghiệp (karma), cộng với sự tương tác của pháp (mà nhà Phật gọi chung là duyên) mà muôn pháp hình thành.
    Trong Pháp Bảo Đàn kinh, viết về ngài Lục Tổ Huệ Năng, kể rằng, khi ngài Đại Ngộ được Tự Tánh, ngài đã nói ra 5 câu, trong đó có câu mà nguyên bản tiếng Hán như sau:
    何期自性能生萬法。
    Phiên âm chữ Hán sang chữ Việt:
    Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp?
    Con không biết ai là người dịch đầu tiên câu này ra tiếng Việt, mà những người sau, khi dịch kinh này, cũng dịch giông giống. Lý do gì mà như vậy?
    Những links mà con liệt kê và trích sau đây là toàn bài Pháp Bảo Đàn kinh đã được dịch ra tiếng Việt, con chỉ trích một đoạn liên quan đến câu này. Câu mà đã khiến nhiều người đọc lầm tưởng rằng Tự Tánh (hay Phật Tánh) đã tạo ra mọi sự vật trên thế gian này, và như vậy, với riêng quyền năng này, nhiều người đã nghĩ rằng, Phật Tánh tương đương với tên gọi Thượng Đế ở một số tôn giáo khác, trên bình diện tạo ra muôn pháp, ngoại trừ vô hình, vô tướng, và ta có thể dùng danh từ Thượng Đế thay cho Phật Tánh.
    Từ câu được phiên âm từ chữ Hán sang chữ Việt cho dễ đọc này, con đã thấy có một số bản dịch ra nghĩa tiếng Việt, từ nhiều tác gỉa:
    Con xin được liệt kê ra đây 4 bản dịch:
    1. Tác giả Đoàn Trung Còn
    Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải – Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
    Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
    http://thienphatgiao.wordpress.com/2...h-tien-dich/3/

    Bắt đầu trích: "Tổ lấy áo cà-sa che quanh, chẳng cho ai trông thấy, rồi giảng kinh Kim Cang cho nghe. Đến câu ‘Nên sanh tâm từ nơi chỗ chẳng trụ vào đâu cả.’ Huệ Năng vừa nghe liền đại ngộ, hiểu rằng hết thảy muôn pháp chẳng rời tự tánh. Liền bạch Tổ rằng: ‘Ngờ đâu tự tánh vốn tự thanh tịnh. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng sanh diệt. Ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng lay động. Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp.’ " Hết trích.

    2. KINH PHÁP BẢO ĐÀN
    Lục Tổ Huệ Năng
    Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch và Lược Gỉai
    Từ Ân Thiền Đường, Santa Ana Xuất Bản1992
    http://thuvienhoasen.org/p16a681/pham-tua-thu-nhat

    Phẩm Tựa Thứ Nhất

    Bắt đầu trích: "Tổ dùng Ca sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết Kinh Kim Cang, đến câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ tất cả vạn pháp chẳng lià tự tánh, bèn bạch Tổ rằng:

    Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,

    Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,

    Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,

    Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,

    Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!" Hết trích.


    3. Dịch giả: THÍCH NỮ TRÍ HẢI
    http://www.buddhismtoday.com/viet/ki...hapbaodan1.htm

    Bắt đầu trích: "Tổ dùng tấm cà sa vây che không cho người thấy (ánh đèn), đoạn đọc Kinh Kim cang cho nghe. Đến chỗ “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Huệ Năng hoắc nhiên đại ngộ, hết thảy vạn pháp không lìa tự tánh, bèn bạch Tổ rằng:

    - Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn không sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn không lay động, có thể sanh muôn pháp." Hết trích.

    4. PHÁP BẢO ĐÀN KINH
    Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
    http://thienphatgiao.wordpress.com/2...ien-su-dich/3/

    Bắt đầu trích: "Ngũ Tổ lấy áo ca sa đắp cho ta, chẳng cho ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Có nghĩa là: Không nên trụ vào chỗ nào mà sanh tâm mình ( Phải thật đúng y như lời, như lúc tiếp vật, xúc chạm, tâm mình vẫn như như không nhiễm, không chấp, không thủ, không xả, không không, cũng không phải là không không. Phải biết, ngoài Bổn Tâm, không còn sanh tâm chi khác. Trên cảnh không sanh tâm, hết cảnh tâm không diệt – Nđm)

    Huệ Năng này nghe nói rồi liền rất tỏ sáng, biết rằng cả thảy muôn pháp đều chẳng lìa tánh mình, mới bạch với Tổ Sư:

    Nào dè tánh mình vốn tự nhiên trong sạch.

    Nào dè tánh mình chứa đầy đủ (muôn pháp –nd)

    Nào dè tánh mình vốn không lay động

    Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp." Hết trích.

    (Con xin được mở ngoặc ở đây, để ghi nhận thêm:
    * Có một bản dịch sang Anh ngữ, do tác giả Philip B. Yampolsky vào năm 1967, vị này đã không dịch đoạn mà có những câu này:
    http://www.fodian.net/world/Platform..._Yampolsky.pdf

    * Hòa Thượng Thích Mãn Giác, năm 2003, cũng đã dùng bản dịch Anh ngữ này để dịch sang tiếng Việt:
    http://thuvienhoasen.org/p16a731/kinh-phap-bao-dan
    )

    Chúng ta thấy rằng, cả bốn vị dịch gỉa đều dịch giông giống nhau, con xin tóm lược:

    Lục Tổ đại ngộ rằng:

    Cư Sĩ Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến: hết thảy muôn pháp chẳng rời tự tánh

    Tỳ Kheo Thích Duy Lực: tất cả vạn pháp chẳng lià tự tánh

    Ni Sư Thích Nữ Trí Hải: hết thảy vạn pháp không lìa tự tánh

    Thiền Sư Minh Trực: cả thảy muôn pháp đều chẳng lìa tánh mình

    Nói một cách khác Tự Tánh luôn hiện diện trong muôn pháp.

    Và trong 5 câu mà ngài Lục tổ đại ngộ, có câu Tự Tánh vốn không lay động, nói một cách khác, Tự Tánh ở thể tĩnh lặng.

    Và đây là câu cuối cùng trong 5 câu "đâu ngờ" này:

    Cư Sĩ Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến: Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp.

    Tỳ Kheo Thích Duy Lực: Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!

    Ni Sư Thích Nữ Trí Hải: Nào ngờ tự tánh có thể sanh muôn pháp.

    Thiền Sư Minh Trực: Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp.

    Cả 4 vị dịch câu này cũng tương tự nhau.

    Tư duy, con nhận thấy, có sự mâu thuẫn giữa sự đại ngộ về tự tánh vốn chẳng lay động và tự tánh sanh ra muôn pháp.Tự tánh tĩnh lặng, như như, sao lại động để sanh ra pháp? Ngoài ra, Đạo Phật là Đạo Cứu Khổ chúng sinh, Đức Phật dạy chúng sinh tu để tâm thanh tịnh trong Tự Tánh, thoát khỏi mọi khổ đau cho mình và độ cho người cùng thoát khổ, sao Chân Như Tự Tánh lại tạo ra muôn pháp sinh diệt, hư huyễn trong cõi đời này, để sự khổ đau trở lại với chúng sinh? Mâu thuẫn, phải không ạ? Hay Tự Tánh đóng vai một quan tòa, sáng tạo, định đoạt, an bài nhân quả cho chúng sinh, do đó tạo ra muôn pháp? Nếu nói Tâm Sinh Diệt tạo ra muôn pháp thì con đồng ý, còn như nói Tâm Bất Sinh sinh ra muôn pháp, thì con thấy ... không hợp lý Đạo.
    ***
    Đó là những bản dịch ra tiếng Việt tiêu biểu mà con tìm thấy nhờ kỹ thuật internet tân tiến ngày nay. Từ một trong những bản dịch này, chúng ta được sự giảng giải của các vị Thầy, con xin được viết ra đây sự giảng giải tiêu biểu của 2 vị Thiền Sư về câu chính trong chủ đề của bài này: "Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp.":
    1. Hòa Thượng Tuyên Hóa: Ngài (hoặc người dịch dùm ngài, vì ngài không biết tiếng Việt) dùng bản dịch của Thiền sư Minh Trực:

    Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp!

    Ngài (hoặc người dịch dùm ngài) diễn giảng câu này như sau:

    "Con thật không ngờ rằng, vạn pháp vốn từ tự tánh sanh ra. Lúc trước con không nghĩ ra, nhưng nay lại chứng đắc cái diệu lý này. Thật không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả hết điều kỳ diệu này!"

    Ghi chú: Chữ "con" trong trích dẫn này: Ngài Lục Tổ đang thưa gởi với ngài Ngũ Tổ.

    http://thuvienhoasen.org/p17a1193/4/...etail_bookmark

    2.Hòa Thượng Thích Thanh Từ: Ngài dùng bản dịch tương tự của Tỳ Kheo Thích Duy Lực:

    Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!

    Hòa Thượng chỉ đọc qua câu này mà không giảng giải.

    http://thuvienhoasen.org/p17a1628/4/...u-nhat-hanh-do

    ***

    Qua những dẫn chứng trên, rồi qua sự học Phật sơ thiển của con, con trở nên thắc mắc (Văn, Tư, Tu), và câu hỏi con xin được hỏi chư vị: "Tự Tánh hay Phật Tánh có đích thực sanh ra muôn pháp (muôn sự, muôn vật, muôn loài) như được viết và giảng giải không? hay là muôn pháp trên thế gian này đều như huyễn và đều do nhân quả, nhân duyên, hợp lại mà tạo thành?", vì thắc mắc (Tư - trong Văn, Tư, Tu), con đã mạo muội viết bài này kính gởi tới chư vị cao minh xin được thỉnh giáo.

    ***

    Con xin được trở lại với câu chữ Hán:

    何期自性能生萬法。

    Phiên âm chữ Hán:

    Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp?

    Mỗi chữ Hán có nhiều nghĩa, tùy theo nội dung của câu. Dựa trên tự điển Việt-Hán-Nôm:

    http://hannom.huecit.vn/

    con đã lựa nghĩa nào cho đúng với chánh pháp (con tô màu vàng). Hai chữ quan trọng trong câu này là chữ Năng và chữ Sanh:

    Hán Việt:



    Năng

    (1): tài năng, như: năng viên 能員 chức quan có tài.
    (2): hay, sức làm nổi gọi là năng, như: thị bất vi giã, phi bất năng giã 是不為也, 非不能也 -ấy là không làm, chứ không phải là không làm nổi vậy.
    (3): thuận theo, như: nhu viễn năng nhĩ 柔遠能邇 -khiến cho kẻ xa quy phục về gần.
    (4): con năng, một loài giống như con gấu. Vật lý học gọi cái gì có thể tạo ra công sức là năng (năng lượng), như: điện năng 電能 sức điện.

    Hán Việt:



    Sanh

    (1): sống, đối lại với tử 死 .
    (2): còn sống, như: bình sanh 平生 -lúc ngày thường còn sống; thử sanh 此生 -đời này v.v...
    (3): những vật có sống như: chúng sanh 眾生 , quần sanh 群生 -đều là nói các loài có sống cả.
    (4): sinh sản, nẩy nở, như: sanh tử 生子 -đẻ con, sanh lợi 生利 -sinh lời v.v...
    (5): nuôi, những đồ để nuôi sống đều gọi là sanh. Như: sanh kế 生計 -các kế để nuôi sống.
    (6): sống, chưa chín gọi là sanh, làm việc không có kinh nghiệm gọi là sanh thủ 生手 , khách không quen thuộc gọi là sanh khách 生客 (khách lạ) v.v...
    (7): học trò, như: tiên sanh 先生 -ông thầy, nghĩa là người học trước mình, hậu sanh 後生 , học trò, nghĩa là người sinh sau v.v... Thầy gọi học trò là sanh : học trò cũng tự gọi mình là sanh.
    (8): dùng như chữ mạt 末 .
    (9): dùng làm tiếng đệm.
    (10): tiếng dùng trong tấn tuồng. Ta quen đọc là chữ sinh.

    Vậy, theo con học hành và hiểu về Tự Tánh, con xin mạn phép tạm dịch là:

    Đâu ngờ Tự Tánh năng sống trong muôn pháp

    - "năng" đây ý chỉ "có công năng" chứ không phải là "hay" với nghĩa là có sức làm nổi, làm được.

    - "sanh" đây là "sống" (đối lại với tử), ý chỉ "hiện diện, tồn tại, có mặt" chứ không phải là "sanh" với ý nghĩa "sanh ra, creating, sinh sôi nẩy nở"

    Nếu dùng 8 chữ để cùng thể với 4 câu trên, thì có thể bỏ chữ "năng", cũng vẫn y nghĩa. Xin được sửa lại là:


    Đâu ngờ Tự Tánh sống trong muôn pháp


    Câu cuối cùng này, cũng là câu quan trọng nhất trong 5 câu, và cũng chính là sự đại ngộ của ngài Lục Tổ Huệ Năng, rằng: Tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự Tánh. Nói một cách khác, Tự Tánh luôn hiện diện trong muôn pháp. Trong kinh Kim Cang cũng có câu tương tự: Tất cả các pháp đều là Phật pháp. Tự Tánh sống trong muôn pháp, hay nói một cách khác, Tự Tánh có mặt trong muôn pháp, nhưng bị che khuất bởi vô minh, bởi tham, sân, si mà chúng ta đã huân tập từ nhiều kiếp. Một khi chúng ta nhận biết sự giả tướng, sự huyễn hóa, sự sinh diệt của muôn pháp trên thế gian này, và không còn dính mắc vào chúng trong mọi lúc, thì Tự Tánh hiển lộ tròn đầy.

    Lại nói một cách khác, trong muôn pháp đều có Tự Tánh, muôn pháp do duyên mà thành, muôn pháp không do Tự Tánh tạo ra, muôn pháp biến dịch, tạo tác, hành hoạt, tương tác, mà thọ quả trên bề mặt của Tự Tánh. Sự gây tạo nghiệp nhân do thức hành hoạt, do kinh nghiệm, do sự tính toán, đo lường, cố ý của thức xen vào, để rồi quả hình thành. Tự Tánh được ví như đất, mọi sự hành hoạt trên đất, đổ chất dơ hay chất sạch vào đất, đất chẳng từ nan, đất không sinh ra chất dơ, chất sạch, và đất vẫn hiện diện. Tự Tánh cũng được ví như hư không, dung chứa tất cả, hư không không sinh ra những gì hư không đang dung chứa, và hư không vẫn bao trùm ở đó. Tự Tánh cũng được ví như nước biển với những lượn sóng sinh diệt, hết lớp này tới lớp khác, xô đẩy trên bề mặt, nước biển không sinh ra sóng, và trong tầng sâu, nước biển tĩnh lặng hiện hữu v.v... Vậy thì, Tự Tánh chính (đúng) là tồn tại, có mặt, hiện diện, sống trong muôn pháp. Nếu Tự Tánh sanh muôn pháp thì chẳng khác nào khái niệm về thần quyền, Thượng Đế, khiến đã có một số vị, kể cả những vị đã nghiên cứu sâu dầy trong Phật Học, xuất gia và tại gia, đã dùng từ Thượng Đế thay cho Phật Tánh. Như vậy, khả năng "sinh ra muôn pháp" này đã khiến các vị hiểu như thế và giảng giải như thế, như những chữ đã được viết ra, rồi cũng dựa trên câu này, mà suy diễn thêm ra rằng, như vậy, mọi sinh vật, mọi sự việc trên thế gian này, kể cả duyên, đều được sáng tạo, an bài, định đoạt bởi Tự Tánh hay Phật Tánh hay Thượng Đế (God), giống như nhiều tôn giáo khác đã quan niệm trên bình diện tạo dựng này, chỉ riêng với đạo Phật, thì đừng nhân cách hóa mà thôi, và nếu có ai phản đối việc dùng từ Thượng Đế để chỉ Phật Tánh, các vị này sẽ khuyên là "chúng ta đừng nên chấp vào văn tự".

    Con xin được trích một đoạn viết của một vị đạo hữu mà con đồng thuận: "Thượng Đế của đạo Phật (nếu cần phải gọi theo ngôn ngữ quy ước của lý tính phương Tây) chính là Duyên Khởi. Đó là vạn sự vạn vật đều không có một tự tánh riêng thường hằng bất biến (Không Tánh). Nhưng khi những vật không có tự tánh đó gặp nhau và hợp lại với nhau trong những điều kiện nào đó thì sẽ tạo ra một hợp thể mới (Duyên Khởi). Tất cả đều quay theo vòng sinh diệt của quá trình: thành, trụ, hoại, không, từ vô thủy đến vô chung."

    Kính thưa chư vị, con nghĩ sao, con viết vậy, và con rất mong mỏi được các vị dịch giả, các vị cao tăng, các vị Thầy, xuất gia và tại gia, các vị tiền bối, dẫn đường, chỉ lối, xem lại việc dịch thuật của câu trong đề tài này, nếu con nói gì sai, xin các ngài chỉ bảo, và thứ lỗi cho con, và nếu có phần nào trong bài mà các ngài đồng ý, xin các ngài dịch và giảng giải lại câu này, hoặc ghi thêm cước chú trong sách đã dịch, để người sau không còn dựa trên câu này mà hiểu sai chánh pháp của đấng Bổn Sư nữa. Nhất là hiện nay, Đạo Phật đang được lan truyền mỗi lúc mỗi rộng sang phương trời Âu, Mỹ, kinh, sách, bài giảng sẽ từ từ được dịch sang những ngôn ngữ Âu, Mỹ, và dĩ nhiên, chúng ta mong muốn những người anh em của chúng ta hiểu và hành Phật pháp đúng với chân lý, với sự thật, với những gì Đấng Bổn Sư đã chỉ dạy chúng ta.

    Mong thay,
    Tâm Tịnh.
    Thư viện Hoa Sen


    Một số câu trả lời hoặc phản hồi :

    Tâm Tịnh :
    Đi sâu hơn chút nữa và trực tiếp hơn, thì câu mà đạo hữu Đức Tuệ suy tư: "Tôi là vạn pháp mà vạn pháp cũng là tôi ", và "Tôi nhưng mà thực chẳng là tôi" thật là chính xác. Trong mỗi cái xác thân như huyễn này của chúng ta, đều có 4 yếu tố chính, mà nhà Phật gọi là tứ đại: đất, nước, gío, lửa; cái xác thân này cũng chẳng khác gì vạn pháp: đất đá, thực vật, động vật ... đều như thế, trong ta có khoáng chất, có kim loại, có điện năng, có sức hút, có gió, có nước, có sức nóng, có sự sống v.v... vạn pháp trong vũ trụ sinh diệt này, ít nhiều cũng thế, và cũng đang thở, đang sống. Cục đá, khúc gỗ ... nhìn thấy như bất động, nhưng chia chẻ ra, thì gồm nhiều phân tử bên trong, và cũng đang co dãn, đang thở, đang sống, đang chết ... cùng chịu chung một quy luật thành, trụ, hoại, không; sinh, trụ, hoại, diệt như chúng ta. Sự tiến hóa, sự thích ứng với môi trường, khả năng sinh tồn, thay đổi dna, sự đột biến dna ... dẫn đến sự tương tác, sự kết hợp của duyên, của nghiệp quả v.v... qua hàng tỉ năm đã thành hình con người chúng ta ngày hôm nay, nhưng "Tôi nhưng mà thực chẳng là tôi", vâng, như thế đấy, tất cả chỉ là huyễn, nào có cái tôi cố định đâu, từng tế bào một, sinh, trụ, hoại, diệt trong cái gọi là tôi, cái tôi vay mượn đất, nước, gío, lửa từ khi mới lọt lòng, rồi lão, rồi bệnh, rồi cuối cùng, thì cái tôi cũng tàn, hoàn trả lại cho tứ đại ... Phần mà khiến chúng ta có một vị trí cao nhất trong muôn pháp (muôn loài, muôn sự vật ...) - phần mà giúp chúng ta có thể nhận biết được - chính là phần tâm, phần trí tuệ, cái trí tuệ mà nhà Phật gọi Vô Sư Trí (không phải trí tuệ do sự học hỏi), cái Trí Tuệ Bát Nhã, mà muôn pháp khác không có, chỉ riêng con người có, để có thể nhận ra rằng, có một thứ có sẵn, luôn tồn tại, hiện hữu trong muôn pháp, trong thế giới sinh diệt này, mà chỉ có con người có khả năng nhận ra và sống được trong cái có sẵn, luôn tồn tại này, để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn sinh, trụ, hoại, diệt, cái vòng đau khổ sinh, lão, bệnh, tử; cái có sẵn, luôn tồn tại đó, chính là Tâm Bất Sinh, hay còn gọi là Tự Tánh, là Chân Tâm, là Phật Tánh, là Niết Bàn, là Vô Sanh ...

    chodomka :
    Nghĩa lý rất thâm sâu ,tự tánh(diệu giác) và pháp tánh(vật chất) là không hai nhưng cũng chẳng là một.

    Do tâm mà duyên giác ,giác duyên hành,hành thành ra việc làm mà tác động với những điều bên ngoài .làm duyên khởi trùng trùng nên không thể nói là tâm không năng sanh ra pháp.

    Xét cho cùng pháp có pháp tánh ,thì tương ưng với phật tánh là do đồng thể nhau...là do tự pháp có sanh diệt mà cũng có do tác động mà sanh.

    Kỳ hà tự tánh năng sanh vạn pháp ...

    nghĩ rằng tự tánh năng khởi mà duyên ra đến vạn pháp, vạn pháp cũng hàm chứa trong đó tự tánh (không giác) của phật tánh năng sanh.

    Đây là lời nói ,tất nhiên còn phải xem xét thêm nhiều ý kiến !

    Nhất Nguyên :
    "何期自性能生萬法。"
    "Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp?"
    "Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp."
    Phật dạy: "Y NGHĨA BẤT Y NGỮ" Tự Tính thuộc bản thể Chân Như Diệu Giác ko thuôc pháp sinh diệt nên ko thể nói sinh hay ko sinh, ngôn ngữ thuộc pháp sinh diệt nên tạm dùng vậy. Chẳng có Tự Tinh thì vạn pháp cũng chẳng huyễn lập! Cho nên, vạn pháp do mê lầm(ko nhận đúng lẽ thật) Tự Tính mà huyễn lập. Trong nhà Phật thường dùng dụ để hành giả ngộ cái lý trao truyền: Tỷ như con mắt bệnh nhìn sáng đèn có thấy vâng quang, vầng quang chẳng do sáng đèn sinh, nhưng nếu ko có sáng đèn vầng quang cũng chẳng huyễn lập. Cho nên, do sáng đèn mà vầng quang sinh, nhưng là huyễn sinh do mê lầm sáng đèn vậy!
    Tuy Tự Tính năng sinh vạn pháp, nhưng thật ko thể lầm lẫn với cái sinh tác ý của ngài Thượng Đế nặn chúng sinh từ đất sét rồi hà hơi tiếp khí...

    Tinh Thủy :
    .Đại sư Tăng Triệu (384 - 414) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:
    Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh.
    Vì duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là Tánh Không, vì pháp thể là chơn như biến hiện nên gọi là Pháp Tánh.
    Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi làThật Tướng.
    Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
    Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là Tánh Không, bởi vì tánh không nên gọi Pháp Tánh, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là Thật Tướng, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô.”
    (Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, in trong Chư Kinh Tập Yếu, trang 470 - 471).

    Tâm Tịnh :
    Kính thưa đạo hữu Đức Tuệ, đạo hữu suy tư: "Tôi là vạn pháp mà vạn pháp cũng là tôi ", và "Tôi nhưng mà thực chẳng là tôi". TT tư duy tiếp cùng đh: Cái tôi là một pháp sinh diệt (bao gồm nhiều pháp nhỏ: đầu, mình, tứ chi, nội tạng, máu, nước v.v... rồi những pháp này lại bao gồm những pháp nhỏ hơn: đầu thì gồm tóc, óc, dây thần kinh v.v..., sự hành hoạt của giác quan, tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v...), vạn pháp chịu sự chi phối bởi tiến trình sinh, trụ, hoại, diệt; sinh diệt, sinh diệt ... chẳng có pháp sinh diệt nào tồn tại, nên chẳng thật, hay nói, chỉ là giả tướng. Vậy cũng có thể nói, cái tôi cũng chỉ là giả tướng giống như vạn pháp khác, và tôi có đấy, nhưng thực sự chẳng có cái tôi, vì cái tôi chẳng thường hằng, mà chỉ là huyễn, do nghiệp duyên mà tạm hình thành, có đó, rồi mất đó ... Hy vọng đh ổn hơn (-: Xin kính chào đạo hữu. Tâm Tịnh.

    Quảng Minh :
    "Vì tất cả các pháp do nhân duyên sinh đều là thể tánh không tịch, vì vậy Như lai gọi đó là pháp thân." (Kinh Phật thuyết công đức tạo tháp)
    Thể tánh chân thật của tất cả các pháp, không luận là tâm hay sắc, đều là cái tánh không tịch. Các pháp không tịch nên không có một sự gì và cũng không có một tướng gì, nhưng vì vậy mà tùy duyên có tất cả sự, tất cả pháp. Như Trung luận ghi: “Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành”.(以有空義故,一切法得成: Vì do có tánh không nên các pháp đều thành).
    Bốn câu đầu là Chân không. Câu cuối là Diệu hữu.

    Quảng Minh :
    (A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA - QUYỂN I - Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao - Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không - Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa)
    (Diễn) Luận vân: “Tam giả Dụng Đại, năng sanh nhất thiết thế gian xuất thế gian thiện nhân quả cố”.
    (演) 論云:三者用大,能生一切世間出世 善因果故
    (Diễn: Luận ghi: “Ba là Dụng Đại vì có thể sanh ra hết thảy các thứ nhân quả tốt lành thế gian và xuất thế gian”).
    “Luận” là Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát trình bày theo thứ tự thuận: Một là Thể Đại, hai là Tướng Đại, ba là Dụng Đại. Ở đây nói về Dụng Đại, cho nên dẫn điều thứ ba [trong luận Khởi Tín] nhằm thuyết minh tâm của chúng sanh có đủ vô biên diệu dụng, có thể sanh hết thảy nhân lành quả lành thế gian và xuất thế gian. Những thiện nhân thiện quả xuất thế gian của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật là do đâu mà có? Từ trong tâm của chính quý vị sanh ra. Thiện nhân thiện quả của trời người trong thế gian cũng từ trong cái tâm của chính quý vị sanh ra. Quý vị phải biết: Đây là chân tâm, chân tâm quyết định sanh ra thiện nhân và thiện quả. Tam ác đạo và A Tu La đạo từ đâu mà có? Từ vọng tâm sanh ra. Chân tâm mang thêm một tầng vô minh sẽ sanh ra hết thảy ác nhân, ác quả, vẫn là do cái tâm ấy sanh ra. Trong tâm vướng mắc vô minh, vướng mắc phiền não nghiệp chướng, liền sanh ra ác nhân, ác quả. Trừ bỏ vô minh, trừ khử nghiệp chướng, tâm ấy sanh ra thiện nhân, thiện quả, há chẳng phải là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Hãy nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo).
    Chữ “pháp giới” [trong hai câu kệ ấy] chỉ mười pháp giới, mà cũng chỉ Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới và mười pháp giới đều là “duy tâm sở tạo”, “tạo” có nghĩa là hiện, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Vì sao có thể hiện các thứ khác nhau? Thức khởi lên sự biến hóa ở trong ấy, duy thức sở biến. Tâm là chân tâm, duy Thức là chân tâm đèo thêm một tầng vô minh, chúng ta gọi nó là A Lại Da Thức hoặc “vọng tâm”. Nó có thể sanh, mà cũng là như Lục Tổ lúc khai ngộ đã nói: “Hà kỳ tự tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp). “Hà kỳ” (何期) là không ngờ; không ngờ tự tánh có thể sanh ra hết thảy vạn pháp. Ngài khai ngộ liền thấy được chân tướng này, thốt lên một câu rất cảm khái như thế!

    Đức Tuệ :
    Kính chào quý thiện hữu chi thức Tâm Tịnh !
    Đọc bài viết của quý thiện hữu tôi thấy rất khế hợp với sở đắc của tôi : rằng " Tôi là vạn pháp mà vạn pháp cũng là tôi ".
    ( Tôi nhưng mà thực chẳng là tôi ) . Nói ra điều này với chính pháp mình thấy cũng cảm thấy có điều gì đó chưa ổn mong được sự chỉ giáo têm của quý đạo hữu Tâm Tịnh !

    Tâm Tịnh :
    Kính thưa quý Thiện Tri Thức Quảng Minh,
    Tâm Tịnh thực tình rất vui khi câu cuối cùng này được quý đh có sự giải thích hợp với chánh pháp, rằng, không phải Tự Tánh "mặt tĩnh" sanh ra, tạo ra muôn pháp như một số người lầm tưởng. Tâm Tịnh xin chân thành cảm ơn quý đạo hữu. TT rất mong có một ngày không xa, được thấy bản dịch kinh Pháp Bảo Đàn do Cư Sĩ Quảng Minh dịch và giảng giải.
    Tâm Tịnh không hiểu: cùng một chữ Tự Tánh, sao lại có 2 nghĩa trái ngược hẳn nhau như vậy, tại sao không dùng 2 danh từ khác nhau, như: Tâm Bất Sinh vs Tâm Sinh hoặc Tâm Giác vs Tâm Mê, Tự Tánh mặt tĩnh vs Tự Tánh mặt động (phải chi thêm một chữ Hán nữa là rõ nghĩa rồi, đâu cần phải học môn Duy Thức nữa) v.v... Đạo Phật là Đạo như thật, thực tế, rõ ràng, minh bạch, không lẫn lộn, sao lại hiện hiện (trong 4 câu trên), rồi lại ẩn ẩn (trong câu thứ 5 cũng là câu cuối, mà không một lời giải thích), mà hiện hiện, ẩn ẩn lại dùng chung một chữ như vậy? Tối thiểu là trong Hán Nôm Việt dictionary, phải có 2 nghĩa, với 2 câu thí dụ cho 2 nghĩa đó, và để category là nghĩa trong Phât Giáo, nhưng hoàn toàn không có. Đạo hữu đưa thí dụ tự tánh không ở trong hoa cúc (sao đh biết?), có thể hoa cúc tâm thức còn quá non kém chưa thể nhận biết như con người được (mà ngay cả con người, dù có thức đấy, mà cũng còn không nhận biết cái Bản tâm mặt tịnh như thế nào), chúng ta cũng là sản phẩm của sự tiến hóa, sinh sinh, diệt diệt, trùng trùng duyên khởi mà thôi, và còn nhiều thí dụ nữa, electrons xoay quanh hạt nhân v.v... nhưng tất cả các thí dụ của đh không đúng với ý mà TT muốn nói:
    Ngài Lục Tổ sau khi nghe câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, ngài đại ngộ: ngài thấy "muôn pháp chẳng lìa tự tánh", ngài đã thốt lên 5 câu nói mà câu cuối cùng là câu kết luận, cũng chính là điều mà ngài đại ngộ, "tự tánh hiện hữu, có sẵn trong muôn pháp", thân của chúng ta cũng là một pháp, và tự tánh có sẵn, hiện hữu trong ta từ vô số kiếp, chỉ khi nào Ưng vô sở trụ, thì mới, nhi sanh kỳ tâm, chỉ khi nào tâm không còn trụ - vào các pháp sinh diệt như huyễn, để rồi không còn dính mắc vào 6 trần như huyễn - thì chân tâm mới hiện bầy, mới sống được với tự tánh chân như. Kính đạo hữu, Tâm Tịnh.

    Nguyễn Văn Hòa :
    Do đâu mà có 10 pháp giới bao gồm cả 4 pháp giới trên pháp giới người (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật)? Chính là do phân biệt mà có. Nếu chẳng khởi tâm, chẳng động niệm thì 10 pháp giới cũng không có, 10 pháp giới ở ẩn, chẳng hiển lộ! Nhưng do tập khí vô minh từ vô thỉ chưa tận diệt, chưa buông bỏ tập khí; do còn chưa buông bỏ, cho nên chúng ta thấy tất cả cái gì cũng là thật vì chúng đang hiển lộ.
    Vì tự tánh của pháp giới chúng sinh từ xưa đến nay vốn dĩ thanh tịnh, như nhiên, chẳng đến chẳng đi, chẳng còn chẳng mất, nhưng sao chúng ta lại thấy thiên hình vạn trạng, có được, có thua, dưới mọi hình tướng, chúng ta thấy có vậy là do vọng niệm dấy khởi, do tâm phân biệt sanh diệt mà hình thành.
    Cho nên câu “có thể sanh ra vạn pháp” và câu “vốn tự trọn đủ” là hai mặt thuận và nghịch như đồng tiền có hai mặt, trái và phải hay chân và giả. “Vốn tự trọn đủ” là tánh Chân, ở dạng ẩn. “Có thể sanh ra vạn pháp” là tướng Giả, ở dạng hiển, tức hiện hành hay hiển lộ.

    Quảng Minh :
    DH TT nói: "Tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự Tánh. Nói một cách khác, Tự Tánh luôn hiện diện trong muôn pháp."
    Hết thảy muôn pháp chẳng rời tự tánh (一切萬法,不離自性)
    Ví dụ: Electron vây xung quanh hạt nhân nguyên tử (proton và neutron) trong những lộ trình gọi là orbital. Nói cách khác, "các electron chẳng lìa hạt nhân nguyên tử". Có thể nào nói, "hạt nhân nguyên tử luôn hiện diện trong các electron"?
    Vấn đề nằm ở chỗ này.

    Quảng Minh :
    " "A lai da (tên khác của chân như)" - ắt hẳn đh đang nói tới A lai da khi hoàn toàn sạch hạt giống? Alaya trống => Chân Như."
    Hành giả khi tới Bất động địa, tức là Bát địa trở lên, thì thức thứ 8 mới xả cái tên "Tàng thức" (A lại da thức) mà chỉ còn gọi là "Dị thục thức". Khi đến vị Đẳng giác, được Kim Cang đạo, thì thức thứ 8 không còn gọi tên là "Dị thục" nữa. Vì lúc bấy giờ, các chủng tử hữu lậu cấu nhiễm đã hết, nên thức thứ 8 được đổi tên là "Vô cấu thức"; chỉ còn thuần chủng tử vô lậu thanh tịnh, nên cũng được gọi là "Bạch tịnh thức". Đến Kim Cang đạo, thì thức này được gọi là "Vô cấu" và chuyển thành Đại viên cảnh trí.
    Các Luận sư Duy thức có khuynh hướng chỉ đề cập đến những gì có thể đề cập trong tương hệ nhân quả nên không đả động đến Như Lai tạng (hay Chân như), đối tượng khảo sát ở ngoài khả năng diễn đạt. Nhưng các nhà Pháp tánh học thì khác. Pháp tánh học không xem Chân như như là nhân và hiện tượng là quả, mà trình bày Chân như có hai mặt: mặt tĩnh là tự thân chân như, và mặt động là biểu hiện của chân như. Chính tại quan điểm này, Chân như Duyên khởi được thành lập và có khả năng cắt nghĩa căn nguyên của A lại da thức.
    Bốn câu đầu là mặt tĩnh của chân như (bản tâm), và câu cuối là mặt động của chân như (bản tâm).
    "cần có cước chú, giải thích chữ "sanh" với ý nghĩa sanh sống, luôn tồn tại, hiện hữu, có mặt trong muôn pháp, chứ không phải sanh ra, sinh sôi, nảy nở."
    Vi dụ: Một đóa hoa cúc là 1 pháp trong muôn pháp. Có thể nào nói: Tự tánh (chân như/ bản tâm) "sanh sống, luôn tồn tại, hiện hữu, có mặt trong" đóa hoa cúc. Vậy thì, khi đóa hoa cúc ấy héo tàn (vô thường/ sinh diệt) thì tự tánh (chân như/ bản tâm) có còn tồn tại?
    Nếu không tồn tại thì tự tánh (chân như/ bản tâm) giống như pháp hữu vi vô thường thôi.
    Đóa hoa cúc là 1 pháp trần, cần có nhãn căn và nhãn thức mới nhận biết được. Huống nữa, đóa hoa cúc, con chó chỉ thấy hai màu đen trắng, con rắn thì thấy bằng hơi nóng (như chúng ta nhìn qua ống nhòm hồng ngoại tuyến), con dơi thì thấy bằng sóng điện như ra đa… Giác quan mắt của mỗi loài khác nhau nên đối tượng được thấy cũng khác nhau.
    Đóa hoa cúc là do thức biến, chứ không thể nói thức "sanh sống, luôn tồn tại, hiện hữu, có mặt trong" đóa hoa cúc.

    Tâm Tịnh :
    Kính thưa Thiện Tri Thức Quảng Minh, TT đồng ý với đh, chỉ có vài điểm, TT xin được chia sẻ: Lời Đh: "Khi nói “tâm sinh vạn pháp”, là nói về A lại da (tên khác của chân như), cụ thể, nó kho chứa tích lũy nhiều đời nhiều kiếp của vô số hạt giống năng lực của nghiệp" - "A lai da (tên khác của chân như)" - ắt hẳn đh đang nói tới A lai da khi hoàn toàn sạch hạt giống? Alaya trống => Chân Như. Vậy thì dịch gỉa cần cước chú, cái "tâm" sinh vạn pháp này là cái tâm sinh diệt, là cái A lại da đầy hạt giống, chứ không phải là cái A lại da đã hoàn toàn sạch hạt giống. Tuy nhiên, vì ngài Pháp Hải dùng cùng một danh từ chữ Hán Tự Tánh giống hệt như 4 câu trên (thay vì dùng Tự Tánh ... còn hạt giống chẳng hạn), nên người đọc automatically hiểu là cùng một nghĩa Tâm Bất Sinh, không thể nào người đọc nghĩ ra nghĩa trái ngược là Tâm Sinh Diệt được (trừ những vị như đh, vì thấy sinh muôn pháp, đã suy luận ra 'à, đang nói chuyện về A lại da còn hạt giống đây'), do đó, điểm sai ở đây là dịch gỉa đã chọn sai nghĩa của động từ Sanh, Sanh đây không phải sanh ra, sanh sôi nảy nở, mà là sanh sống, ở đó (trong muôn pháp), tồn tại, hiện hữu trong muôn pháp.
    "Dh Tâm Tịnh có lòng muốn chú thích những điểm khó hiểu, tôi đồng ý." - Xin cám ơn đh - "Nhưng vấn đề là những dịch phẩm đều đã được xuất bản, và không phải dịch giả nào cũng có khuynh hướng chú thích cặn kẽ trong dịch phẩm của mình." - Tiếc rằng chuyện đó đã xảy ra, sau khi dịch, dịch gỉa nên có sự kiểm tra lại (review) bởi những vị masters thông hiểu về nội dung của sách dịch trước khi xuất bản, để nếu có chỗ nào sai hoặc chưa rõ nghĩa, thì kịp thời điều chỉnh, hoặc giảng giải cho rõ ràng trong phần cước chú - "Người học Phật phải tìm hiểu thôi." - Trong trường hợp ở câu trong đề tài của bài này, để người học Phật phải tự tìm hiểu thì không được công bằng cho lắm, vì vấn đề này không phải là chuyện đơn giản! bằng chứng là đã gây ra sự hiểu lầm của nhiều người, kể cả những cụ đã nghiên cứu Phật Học cả đời, kể cả những bậc xuất gia đã nhiều năm - "Riêng câu cuối, chữ “tự tánh” nó xuyên suốt trong Pháp bảo đàn, nên ai đọc từ đầu đến cuối thì cảm nhận được ý nghĩa của nó," - Xin thưa, mình không thể assume như vậy được, thưa đh, tùy theo duyên của mỗi người, tùy theo sự tiếp xúc Phật pháp của mỗi cá thể, không phải ai cũng cảm nhận được - "theo cách nôm na , là Tâm thể, Bản tâm, thiền tông gọi là Bản lai diện mục, Pháp hoa gọi là Thật tướng." Cảm ơn đh đã confirm những danh từ này đều cùng một nghĩa - như Chân Tâm, Tự Tánh, Phật Tánh, Chân Như, Như Lai tạng v.v... tùy theo mỗi kinh, mỗi chỗ gọi khác nhau mà thôi.
    Một lần nữa, TT xin chân thành cảm ơn đạo hữu và kính chúc đạo hữu luôn vạn sự kiết tường. Tâm Tịnh.

    Quảng Minh :
    Nếu bản thể gương vốn không có tính tiếp nhận hình ảnh khác nhau, thì dẫu sắc tướng đối diện, hình ảnh cũng không hiện ra trên gương. Còn gương hiện được hình ảnh thì biết nó vốn có tính tiếp nhận của hình ảnh.
    Do vậy mà một mặt gương sáng, trong một lúc, hiện được mọi hình ảnh sạch và dơ, v/v, nhưng hình ảnh sạch không ngại gì cho hình ảnh dơ, hình ảnh dơ không ngại gì cho hình ảnh sạch. Không ngại gì nhau mà sạch với dơ vẫn khác nhau. Và dẫu có tính, có tướng của các hình ảnh khác nhau mà vẫn viên dung bất nhị, chỉ là một mặt gương.
    Bản tâm, tự tánh ví như mặt gương. Muôn pháp dụ cho các hình ảnh.
    Tự tính sinh muôn pháp, hay tự tính có mặt trong muôn pháp?
    Gương sinh hình ảnh, hay gương có mặt trong hình ảnh?
    Ngạ quỷ và con người cùng thấy dòng sông Hằng, nhưng vì sao ngạ quỷ thấy sông là máu, không thể uống được, còn con người lại thấy khác? Nếu tự tính có mặt hay tồn tại trong muôn pháp, thì lẽ ra ngạ quỷ và con người cùng thấy giống nhau. Lại nữa, cùng là ngạ quỷ, cùng thấy sông Hằng, nhưng có ngạ quỷ thấy sông là máu, có ngạ quỷ thấy sông là dòng lửa, có ngạ quỷ thấy sông khô cạn.
    Tại sao người tu thiền phải căn cứ vào Tâm mà tu tập chỉ quán? Vì xưa nay chưa có một pháp nào ngoài Tâm mà được thiết lập.
    Nói tự tánh hiện hữu trong muôn pháp thì cũng như nói chúa Trời hay Thượng đế hiện hữu trong muôn loài. Tự tánh như hư không, các pháp biểu hiện ở trong hư không ấy, Có thể nào nói hư không nằm trong các pháp?
    24/10/2014

    Quảng Minh :
    Theo quan điểm Ðại thừa, Phật tính là thể bất sinh bất diệt của mọi loài. Vì thế, mọi loài đều có thể đạt giác ngộ và trở thành một vị Phật. Chân như đồng nghĩa với Như lai tạng, Phật tính, Pháp thân.
    Tự tánh thanh tịnh tức là chân như, không, thật tế, vô tướng, thắng nghĩa, pháp giới. (tùy tên gọi).
    Muốn đạt được tự tánh thanh tịnh thì phải thoát ly thoát ly tất cả chướng ngại dơ bẩn, tức phiền não, ngã chấp, pháp chấp. “Tất cả chúng sinh vốn là Phật” cũng như vàng vốn sẵn là vàng, nhưng là vàng quặng, lẫn tạp chất, nên phải gạn lọc, xả bỏ tạp chất cho sạch để trở về bản chất vàng, chứ không phải dùng chất khác mà làm thành vàng được.
    Thoát ly chướng ngại bằng cách tu 37 bồ đề phần pháp, tu 6 ba la mật.
    Pháp duyên sinh chính là y tha, được phát sinh từ chủng tử nơi A lại da. Nhưng nói y tha là nói đủ cả 3 tướng (y tha, biến kế, viên thành), lúc mê cũng như lúc ngộ. Lúc mê thì nơi y tha chỉ thấy biến kế (ngã pháp) mà không thấy viên thành (chân như), lúc ngộ thì trái lại.
    Tâm sinh diệt, nói rõ là Tâm-ý-thức. Như vậy, tâm có 3 tầng:
    1. Tầng trong cùng: Duy thức luận, gọi nó là thức thư 8, A lại da. Không thể nhận thức được tự thể của nó đã đành, cho đến các hình thái hoạt động của nó cũng không thể dễ dàng nhận biết. Duy chỉ có thể biết rằng nó tồn tại là do quan sát sự tồn tại của thiên nhiên, của vũ trụ, của thân và tâm.
    2. Tầng hoạt động luôn luôn là chấp ngã, gọi là ý: những hoạt động của tâm lý, nói chung là suy lường, đắn đo, ước lượng, phánđoán, v.v., gọi là tư lương. Nói gọn, tư lương là hoạt động của một cái tôi, chỉ cho thứ thứ 7, Mạt na, là ý thức tự ngã.
    3. Tầng hoạt động bên ngoài, là các hoạt động của ý thức cùng với các giác quan.
    Khi nói “tâm sinh vạn pháp”, là nói về A lại da (tên khác của chân như), cụ thể, nó kho chứa tích lũy nhiều đời nhiều kiếp của vô số hạt giống năng lực của nghiệp, để rồi đến khi chín muồi, nghĩa là sau một quá trình đã được xử lý,các hạt giống năng lực hay năng lượng ấy biến chuyển,và biến thái thành thân, tâm và thế giới; chúng được duy trì do lực tương tác, tức hỗ tương tác dụng theo quy luật duyên khởi.
    Dh Tâm Tịnh có lòng muốn chú thích những điểm khó hiểu, tôi đồng ý. Nhưng vấn đề là những dịch phẩm đều đã được xuất bản, và không phải dịch giả nào cũng có khuynh hướng chú thích cặn kẽ trong dịch phẩm của mình. Người học Phật phải tìm hiểu thôi. Riêng câu cuối, chữ “tự tánh” nó xuyên suốt trong Pháp bảo đàn, nên ai đọc từ đầu đến cuối thì cảm nhận được ý nghĩa của nó, theo cách nôm na , là Tâm thể, Bản tâm, thiền tông gọi là Bản lai diện mục, Pháp hoa gọi là Thật tướng. Tâm là nước mà đang đóng thành băng, băng rã thì nước hoàn nước. Thế nên, không môt đặc tính và sự dụng nào của đời sống mà tách rời tự tánh thanh tịnh, tức chân như, chân tâm, Phật tính. Tâm ấy là Phật (bản thể, nước), Tâm ấy làm Phật (sự dụng, thoát ly chướng ngại dơ bẩn: phiền não chướng và sở tri chướng – nước đóng băng rồi tan rã).


    Tâm Tịnh :
    Xin được chia sẻ thêm với quý đạo hữu: Tâm Tịnh vẫn nghĩ chữ Tự Tánh trong cả 5 câu có chung một nghĩa, đều là Chân Tâm, mình có thể để nguyên như vậy: "Ngờ đâu tự tánh năng sanh muôn pháp.", nhưng cần có cước chú, giải thích chữ "sanh" với ý nghĩa sanh sống, luôn tồn tại, hiện hữu, có mặt trong muôn pháp, chứ không phải sanh ra, sinh sôi, nảy nở. Trong nhà Phật, có mệnh đề "trùng trùng duyên khởi": trong thế giới hữu vi này, những sinh sinh, diệt diệt của muôn pháp xảy ra liên tục, duyên bé, duyên lớn do đó luôn luôn sinh khởi, trùng trùng điệp điệp khởi duyên, vì thế chúng ta thấy, bề ngoài (thân) cũng như bề trong (tâm trí) của mỗi người mỗi khác, vì mỗi người đã qua vô lượng kiếp, đã tạo vô số nghiệp khác nhau, trùng trùng duyên khởi khác nhau, do đó, thân tâm của mỗi người chịu quả khác nhau, người thông minh, kẻ kém trí, người nhanh nhẹn, kẻ chậm chạp, người đẹp đẽ, kẻ sinh ra đã dị hình v.v... do đó, trên thế giới này, có khoảng 7 tỉ người, mà có ai giống hệt nhau đâu, ngay cả cặp sanh đôi, vẫn có những điểm khác nhau. Nếu chúng ta không để ý tu sửa tâm mình, dừng tâm sinh diệt (dừng sóng trên mặt biển - dừng tâm động) để sống với chân tâm (thì mặt nước biển mênh mông phẳng lặng hiện ra - Tâm Phật hiển lộ; nước biển không sinh ra sóng - Chân Tâm Tự Tánh không sinh ra muôn pháp), thì chúng ta mãi mãi lăn trôi trong sinh tử luân hồi, mãi mãi khổ, mãi mãi phải lập lại tiến trình sinh, lão, bệnh, tử. Kính, Tâm Tịnh.

    Tâm Tịnh :
    Rất cảm ơn về những lời khuyên của đh Từ viên. TT xin ghi nhận. Kính chào đạo hữu.

    Tâm Tịnh :
    Kính thưa Thiện Tri Thức Quảng Minh, Tâm Tịnh (TT) thấy đh biết nhiều về kinh, nên nghĩ rằng, chắc hẳn đh là nhà tu hành (-: dù sao đh cũng là bậc thầy của TT, xin chân thành cảm ơn đh đã rất sốt sắng giải thích những từ được dùng ở câu trong đề tài, để rồi đưa tới kết luận, có thể dịch tạm là: "Đâu ngờ tự tánh có năng tính sinh khởi vạn pháp." để ý được chính xác hơn. Ngoài ra, đh cũng nói, "Ý nghĩa của "tự tánh" chỉ cho Bản tâm", vậy kính thưa đh, Bản tâm có phải là một cách gọi khác của Phật Tánh không ạ? Hay cũng có 3 mặt như tự tánh? Và Phật Tánh chỉ là một mặt trong 3 mặt giống như tự tánh? Trong một ý kiến trước đó, đạo hữu cũng có đề cập rằng, "bốn câu đầu là mặt chân như, câu cuối là mặt sinh diệt". Như trước đây, TT đã đề cập, TT chỉ biết Tự Tánh chỉ là một cách gọi khác của Phật Tánh, vì chỉ riêng Phật Tánh có tự tánh (tự có tánh riêng, độc lập, làm chủ được chính mình, không lệ thuộc vào duyên nào cả, không phan duyên với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, Tự Tánh thanh tịnh, tĩnh lặng, không sanh, không diệt v.v...), đây là lần đầu tiên, qua đh, TT được biết tự tánh có 3 mặt, trong đó, có mặt sinh diệt. (Cả từ "Bản tâm", TT cũng được dạy chỉ là một cách gọi khác của Chân Như, Phật Tánh). Vậy, nếu từ "tự tánh" không thể thay đổi và chữ "sinh" trong "sinh ... vạn pháp" vẫn được dùng, thì trong trường hợp này, cước chú vẫn rất cần thiết để ghi sự khác biệt giữa nghĩa tự tánh của 4 câu trên và nghĩa tự tánh ở câu cuối cùng, vì cả 5 câu được viết liên tục nhau, làm sao người đọc biết được có nghĩa khác nhau?
    Rất cảm ơn đh đã cho TT biết: trong 5 dịch giả, chỉ còn duy nhất dịch giả Nguyễn Minh Tiến. Xin kính chào đạo hữu Quảng Minh.

    Từ viên :
    Mot vai dieu goi den dh tam tinh!
    Dh co su tim toi rat tot, tuy nhien ban chua tiep can duoc nen phat hoc dai thua nen rat kho de linh hoi, cach dich cua cac ban dich tren rat sat nghia, tuy theo moi nha moi truong phai phat hoc nhu duy tong, thien thai tong, phap hoa tong... Se co cai nhin khac nhau, nhung ban chat van la mot. Noi de hieu hon, tanh cua cac phap hay con goi su vat hien tuong tuc la phap tanh, van loai chung sinh goi la tu tanh, tu tanh la noi thang vao ban chat cua chung sinh, de hieu dc tu tanh trong moi chung sanh can phai co su trai nghiem tam linh moi linh hoi duoc,cac phap trong vu tru deu duoc sinh khoi tu tang thuc, hay a lai da thuc... Nhung de hieu duoc dieu nay thi phai nghien cuu ve duy thuc tong, ma duoc noi ro trong bo luan thanh that, toi khong the giai thich tuong tan cho ban duoc, vi no sau sa va chuyen mon, noi don gian vi sao mat tiep xuc voi the gioi no nhan biet duoc moi su vat hien tuong vi du nhin cai nha la biet cai nha, nhin chiec xe la biet chiec xe, vay cai nha hay chiec xe no co tu trong tam hay tu ben ngoai? Nen moi noi co thi co tu may may, khong thi ca the gian nay cung khong, ban co thoi gian nghien cuu luan thanh that se hieu ro hon, tu do de noi rang van phap do tam co, tat ca deu khong ngoai tam. Nhu vay, cach dich tren cua cac bac truong thuong rat sat voi nghia ly. Chuc dh tham nhap duoc ao nghia dai thua. A di da phat

    Quảng Minh :
    Kính thưa đạo hữu Tâm Tịnh,
    Tôi xin được đính chính, tôi là một Phật tử tại gia.
    Những câu trong Pháp bảo đàn kinh, do H.T Thích Duy Lực dịch, được trích dẫn về "tự tánh". Hai chữ "tự tánh" là chữ mà Pháp bảo đàn kinh sử dụng rất nhiều. Dĩ nhiên tùy theo tính từ hay danh từ đi kèm mà tự tánh chỉ cho "Tâm" (viết hoa) hay trí, hay bản chất của một sự thể.
    Bài viết của đạo hữu bài về 5 câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, trong đó, đạo hữu thấy có sự mâu thuẩn. Mong rằng, sau những chia sẻ, đạo hữu không còn thấy mâu thuẩn nữa.
    Về việc dịch thuật câu cuối: 何期自性,能生萬法 hà kỳ tự tánh, năng sinh vạn pháp
    "Tự tánh" không thể sửa đổi vì: 1. Tự tánh là chữ dùng của Pháp bảo đàn kinh; 2. Mạch văn không cho phép sửa đổi; 3. Ý nghĩa của "tự tánh" chỉ cho Bản tâm.
    "Vạn pháp" bao gồm 3 cõi, 5 đường và 3 tạp nhiễm (phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm và sinh tạp nhiễm).
    "Năng sinh": nếu dịch là "hay sinh", "có thể sinh" thì hơi tối nghĩa (dù gì "hay sinh" vẫn khá hơi "có thể sinh"). Năng có khi dịch là có khả năng, có năng lực. Ở đây tôi đề nghị dịch là "có năng tính". "Sinh", ở đây chỉ có nghĩa là "sinh khởi", như trong định thức duyên khởi: Cái này sinh thì cái kia sinh. Nghĩa "sống" không thích hợp. Nếu hiểu "tự tánh" là năng sinh, tức chủ thể sinh, thì "vạn pháp" là sở sinh, tức cái được sinh. (đứng trên mặt tục đế mà tạm nói như vậy)
    Như vậy, tạm dịch: "Đâu ngờ tự tánh có năng tính sinh khởi vạn pháp." (nhưng dịch như vậy thì dài dòng)
    Tôi không muốn bàn việc bản dịch của ai đúng sai. Tôi chỉ muốn đạo hữu hiểu đúng câu cuối, và khi đã hiểu rồi thì việc tôi xong. Dịch giả chịu trách nhiệm hoàn toàn về bản dịch của mình. (trong 5 vi dịch giả, hiện chỉ còn cư sĩ Nguyễn Minh Tiến - xin vào trang rongmotamhon.net)
    Thân chào đạo hữu Tâm Tịnh.

    Tâm Tịnh :
    Cảm ơn đh Tuệ Huy đã trích ra những đoạn kinh diễn tả rất rõ ràng. Vậy thì khi tâm còn sinh thì mới tạo, sanh ra pháp. Chữ tâm trong câu "vạn pháp do tâm tạo" là tâm sinh diệt (chứ không phải Bản Tâm hay Chân Tâm - Tâm Giải Thoát, Tâm Bất Sinh), có sinh, ắt có diệt, hay nói gọn một chữ là tâm động. Chồng nổi nóng (sinh), vợ vuốt ve, khuyên nhủ, chồng nguôi ngoai, hết cơn nóng (diệt). Thèm ăn bánh cuốn (sinh), xách xe đi tìm bánh cuốn, ăn no, hết thèm (diệt) v.v... đủ thứ ý niệm liên tục trong đầu, sinh sinh, diệt diệt ... tạo ra muôn pháp hay vạn pháp là vì thế, tốt có, xấu có, sinh để lợi cho người có, mà sinh làm hại cho người cũng có ... Rất cảm ơn đh và các đh khác đã góp những ý kiến xây dựng, tất cả đều cho chánh pháp được lan truyền và trường tồn. Rất đồng ý với ĐH Phan Bửu Thông, học, hiểu và hành phải song hành với nhau, nếu không chẳng ích lợi gì. Tâm Tịnh.

    Quảng Minh :
    “Huệ Năng bạch Hoà Thượng: Tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ chẳng lià tự tánh, tức là phước điền, chưa rõ Hoà Thượng bảo làm việc gì?”
    “Sanh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu lià khỏi biển khổ sanh tử, tự tánh nếu mê, phước làm sao có thể cứu được?”
    “Tổ đã biết Thần Tú chưa được vào cửa, chẳng thấy tự tánh.”
    “Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp là ÐẠI,muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người.”
    “Thiện tri thức, tất cả TRÍ BÁT NHÃ đều từ tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức, gọi là chơn tánh tự dụng.”
    “CÁI TRÍ của BÁT NHÃ vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm mê tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ tự tánh, tức là tiểu căn.”
    “bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là TỌA, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là THIỀN.”
    “Tự tâm vô ngại, thường dùng trí huệ chiếu soi tự tánh”
    “Các ngươi hãy nghe, nay ta khiến các ngươi ngay nơi tự thân được thấy tự tánh có tam thân Phật; tam thân Phật này từ tự tánh sanh ra, chẳng từ bên ngoài mà được.”
    “Hữu vô đều chẳng chấp,
    Tự tánh luôn luôn hiện.”
    “Nếu ngộ được tự tánh, cũng chẳng lập Bồ Ðề Niết Bàn”
    “Như vậy mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh”
    “Chơn như tự tánh thị chơn Phật,
    Tà kiến tam độc thị ma vương.”

    Tâm Tịnh :
    Kính thưa thầy Quảng Minh, thực ra mình chỉ sửa bản dịch mà thiếu, hoặc sai thôi, chứ mình đâu có sửa lời của ngài Lục tổ, cũng như BBT TVHS sửa những điểm dịch sai nghĩa đối với bản chính trong Tâm Bất Sanh, chứ đâu có sửa lời của ngài Bankei. Hẳn là thầy đồng ý với con? Thầy cũng thấy, trong một chữ có thể có nhiều nghĩa, ngôn ngữ nào cũng vậy, tùy theo chữ đó nằm trong nội dung của câu nào. Nếu người dịch không biết về lý tánh của sự việc đang nói, không hiểu ý của người viết, thì sẽ lựa chữ có ý nghĩa sai ... và có thể chỉ một chữ mà rất tai hại. Con nghĩ có 2 cách:
    1) Mình lựa chữ "sống" thay cho chữ "sanh", đương nhiên là bỏ chữ "ra", bỏ chữ "có thể" ở trong bản dịch nào có những chữ này.
    2) Mình để chữ "sanh", bỏ chữ "có thể"
    Cả 2 cách đều cần có cước chú để làm rõ nghĩa.
    Xin thầy và các bậc Thiện Tri Thức, xuất gia và tại gia, thêm ý kiến. Đây là mình đang kết tập đấy thầy ạ, một kết tập nhỏ nhưng ý nghĩa lớn, dù chỉ một chữ, một câu, nhưng rất quan trọng, nói đúng ý Phật, đúng ý ngài Lục tổ và mang ánh sáng tới những người còn cho là Phật Tánh tạo ra muôn sự, an bài, định đoạt mọi sự việc xảy ra trên thế gian này. Kính thầy, Tâm Tịnh.

    Tuệ Huy :
    Trước hết cám ơn Thầy Quảng Minh và ĐH Tâm Tịnh đã giải minh một số vấn đề then chốt.
    Đúng như Thầy Quảng Minh đã trình bày. Chân Như, Bổn Tâm, hay Tự Tánh có hai mặt: "Chân như là mặt bất biến của Tâm. Chân như có hai mặt là bản tịnh và khách trần, cho nên ở mặt nhiễm ô, là pháp duyên khởi; ở mặt thanh tịnh, là trí vô phân biệt, hay được gọi là Như lai tạng, là Như lai pháp thân"
    Đó là hai mặt tịnh và động của Tâm, cũng chính là hai mặt Thể và Dụng của Tâm
    ĐH Tâm Tịnh có đưa ra câu hỏi: Chữ "tạo" trong "vạn pháp duy tâm tạo" theo đh thì nghĩa gì?
    Để trả lời câu hỏi này, xin trước trích ra một đoạn Kình trong Tăng Chi Bộ Kinh, Kinh Cội Rể Sự Vật, Phẩm Niệm, trang 759 do HT Thích Minh Châu dịch:
    " - Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo có hỏi như sau: “Thưa Hiền giả, tất cả pháp lấy gì làm căn
    bản? Tất cả pháp lấy gì làm sanh khỏi? Tất cả pháp lấy gì làm tập khởi? Tất cả pháp lấy gì làm chỗ tụ
    hội? Tất cả pháp lấy gì làm thượng thủ? Tất cả pháp lấy gì làm tăng thượng? Tất cả pháp lấy gì làm tối
    thượng? Tất cả này pháp lấy gì làm lõi cây?” Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy trả lời như sau:
    “Này chư Hiền, các pháp lấy dục làm căn bản. Tất cả pháp lấy tác ý làm sanh khởi. Tất cả pháp lấy xúc
    làm tập khởi. Tất cả pháp lấy thọ làm chỗ tụ hội. Tất cả pháp lấy định làm thượng thủ. Tất cả pháp lấy
    niệm làm tăng thượng. Tất cả pháp lấy tuệ làm tối thượng. Tất cả pháp lấy giải thoát làm lõi cây”. Được
    hỏi như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như vậy"
    Đoạn Kinh này rất quan trọng vì nó nói liên "thể-cách" các Pháp được "tạo" ra trong Tâm. Tựa đề bài Kinh là "Cội rễ Sự Vật"
    Câu thứ nhất: "Tất cả Pháp lấy dục làm căn bản". Dục là "động" của Tâm (biểu lộ là trạng thái ham muốn), vô dục là không động, được như thế thì các Pháp lấy gì Sanh khởi? Bậc Alahán là người ly dục đến mức không còn dư tàn nên an trú trong bốn câu đầu "không ngờ.." của Lục Tổ, tức là Bản Tịnh Của Tâm.
    Câu thứ hai: "Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm sanh khởi". ĐH nghiệm lại coi có đúng không? Nếu ĐH "không tác ý tất cả tướng", thì có Pháp nào xuất hiện không? Vì thế cho nên Thế Tôn nói "Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm sanh khởi"
    Tương tự như thế, câu thứ ba: "Tất cả Pháp lấy Xúc làm tập khởi". Nếu không có xúc (chỗ gặp gỡ của căn trần thức) thời có pháp nào khởi lên hay không?
    Câu thứ tư: "Tất cả Pháp lấy Thọ làm chổ hội tụ". Câu này rất vi tế khó thấy. Vì sao nói Thọ là chổ hội tụ, cái gì hội tụ? Phân tách điều này để làm rõ nghĩa rất dài và chi tiết, xin hẹn ĐH vào dịp khác.
    ....
    Xin ĐH thong thả chiêm nghiệm trên tự thân chính mình đoạn kinh trên, bây giờ xin trở lại câu hỏi: Chữ "tạo" trong "vạn pháp duy tâm tạo" theo đh thì nghĩa gì?
    Các nhân duyên được Thế Tôn trình bày trong đoạn kinh trên về cội rễ của sự sanh khởi và đoạn diệt của Vạn Pháp rất rõ rành minh bạch: Nó bao gồm: "Dục, Tác Ý, Xúc, Thọ, Định, Niệm, Tuệ, và Giải Thóat". Trong đó, Dục, Tác Ý, Xúc, Thọ, Định, Niệm, thuộc phần sanh khởi, Tuệ và Giải Thoát thuộc phần đoạn diệt của các Pháp. Tất cả các yếu tố đó đều thuộc về Tâm, có liên hệ tới thể cách vận hành của Tâm. Chính vì lý do đó mà nói "Vạn pháp duy tâm tạo". Dĩ nhiên, như đã nói ở trên, đây là nói về phần Dụng của Tâm. Nếu Tâm không động (vô dục) hay Tâm cùng tu với Tuệ, thì quả Giải Thoát phải đến. Đó là Cội Rễ Sự Vật, Như Nó Đang Là do Đức Thế Tôn khai thị cho chúng ta qua đoạn Kinh trên. Thân Kính.


    Quảng Minh :
    A lại da thức hay bản thức là căn bản của thân thể (và thế giới của thân thể), của sự sống (và đời sống) của các thức (và đối tượng của các thức). Một cách nhìn khác, năng tính (chủng tử) và biểu hiện (hiện hành) của các pháp toàn là bản thức. Cái gọi là thế giới chỉ là sự biểu hiện tương tự (cộng biến) của các nghiệp thức tương tự (cộng nghiệp).
    Nhiếp luận: “Tại sao A lại da huân tập thì không đa dạng, mà lại làm nhân cho các pháp đa dạng? Như tấm vải được nhuộm, khi nhuộm thì chưa có đa dạng, nhuộm rồi thì nơi tấm vải có những màu sắc và đường nét đa dạng. A lại da cũng vậy. Nó được sự huân tập bởi các pháp đa dạng, nhưng khi huân tập thì chưa có đa dạng, huân tập rồi thì các pháp đa dạng hiện hành.”
    “Sự duyên khởi như đã nói trên đây, thì trong đại thừa cũng đã rất sâu xa.Thêm nữa, nói đại khái thì duyên khởi có 2 loại. Một là duyên khởi ra tự tánh khác nhau, hai là duyên khởi ra tự thể khác nhau. Ở đây do A lại da mà các pháp sinh ra, đó là duyên khởi ra tự tánh khác nhau, vì làm duyên tố cho những tự tánh khác nhau. Lại có sự duyên khởi của 12 chi, đó là duyên khởi ra tự thể khác nhau, vì làm duyên tố cho những tự thể tốt xấu khác nhau.”
    (Tự thể là sinh mạng và thế giới của sinh mạng, nói chung là quả báo.)
    H.T Thích Trí Quang giải thích: “Cả 2 sự duyên khởi đều là do A lại da. Duyên khởi thứ nhất do danh ngôn huân tập, duyên khởi thứ hai do hữu chi huân tập. Duyên khởi thứ nhất là chất liệu, duyên khởi thứ hai là tổ hợp. Nhân sinh vũ trụ do duyên khởi thứ nhất mà thành các pháp biệt thể khác nhau, do duyên khởi thứ hai mà các pháp biệt thể ấy thành ra quả báo tổng thể khác nhau.”
    Những gì trên đây có thể tạm giải thích cho câu: “Không ngờ tự tánh vốn sinh vạn pháp.”

    Tâm Tịnh :
    Con vừa gởi đi và Ý Kiến đã nhận cách này, hy vọng TVHS sẽ sửa phần ý kiến để nhận URL. Con xin được tiếp tục những gì con đang viết:
    Dù sao, thì mình vẫn cần cước chú trong mỗi sách đã dịch, giải thích rõ ràng như thầy đã làm, để không ai về sau này còn lầm lẫn nữa, sự lầm lẫn hiểu chánh thành tà rất tai hại cho kiếp người, dù chỉ một niệm sai, vẫn là sai, huống chi lại là một Lý lớn trong Phật Học, Lý Duyên Khởi, vì chính còn tâm sinh diệt mà mang nghiệp, tạo duyên, để rồi Lý Duyên Khởi thành hình, vạn pháp cứ thế mà sinh! Đây chỉ là một bài được đăng trên một website, mặc dù là một website Phật Giáo chân chính và đứng đắn và được nhiều người biết tới, tuy nhiên, mình cũng không biết chắc là các bậc có tiếng tăm trong Phật Giáo Việt Nam có đọc không, nên con nghĩ, Thầy làm việc này là hay hơn cả, vì thầy đã tường tận kinh sách, thầy trình với các ngài, cũng may là còn có ngài Thích Thanh Từ còn ở với chúng ta, thầy Thanh Từ thì đại diện bên Thiền Tông, rồi thầy Giới Đức đại diện bên Nguyên Thủy, và ... con không biết ai nữa (-: để các ngài "chứng minh" và "đóng con dấu", thì người ngày nay và người ngày sau sẽ tin và nghe theo hơn và chấm dứt sự lầm đường trong câu dễ lạc dẫn này, mình cũng cần liên lạc với những dịch giả còn tại thế như Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến (Cư Sĩ Đoàn Trung Còn thì con không biết còn hiện diện không), còn ba vị kia, thì con biết Ni Sư Trí Hải đã ra đi, còn 2 vị con không biết đã viên tịch chưa? và con cũng không biết còn dịch giả nào dịch kinh này nữa không, để các vị sửa sách cho hợp nhất với chánh pháp. Việc nào con có thể làm được, con xin hết lòng, sau khi có bản viết đồng thuận với tất cả, nếu không có bản Microsoft Word để sửa, mà chỉ có dưới dạng PDF (do chỉ scan, mà không đánh máy lại), thì con cũng sửa/thêm được. Xin thầy suy nghĩ thêm và cho con biết ý kiến. Con chân thành cảm ơn thầy. Tâm Tịnh.

    Tâm Tịnh :
    con đã thử paste the url của sách này vào đây, nhưng vì giới hạn của ý kiến chưa nhận text dưới dạng url, nên con thử diễn tả vậy, rồi thầy và các vị mà muốn vào xem, sửa theo để có một url đúng format (thay thế colon bằng hai chấm (:), dot bằng dấu chấm (.) và bỏ đi tất cả blank spaces):
    http colon // thuvienhoasen dot org / a17038 / tam-bat-sinh
    http://thuvienhoasen.org/a17038/tam-bat-sinh
    Kính thầy Quảng Minh, con cám ơn thầy đã giải thích rất rõ, như vậy, dùng cùng một chữ Tự Tánh, mà lại có 2 nghĩa của 2 mặt trái ngược nhau: 4 câu đầu là tánh Phật, câu cuối là tánh phàm.
    "Bốn câu đầu là mặt chân như . Câu cuối là mặt sinh diệt."
    Thầy nói: "Câu nói của Lục tổ là như vậy, không thể sửa đổi, trên nguyên tắc phiên dịch. Huống chi sửa đổi thì càng sai."
    Vâng, mình không thay đổi câu nói của ngài Lục tổ (chữ Hán vẫn y chang), nhưng mình có thể sửa đổi bản dịch đúng ý của ngài Lục tổ, hợp với chánh pháp như thầy giải thích, được chứ ạ? Khi tất cả đồng thuận, vị dịch giả nào còn có mặt trên dương trần, thì sửa luôn sự dịch của mình trong lần tái bản kế tiếp, có thể sửa tạm trên văn bản online, còn vị nào đã khuất, thì mình ghi trong cước chú (tương tự như một lần TVHS BBT đã cước chú trong sách dịch Tâm Bất Sinh của Ni Sư Trí Hải:

    Tâm Tịnh :
    Rất cảm ơn đh không-pháp đã dành thời gian xem lại sách và góp ý, đh còn biết tiếng Hán và thông hiểu Phật pháp để phân tính nữa, đh giải thích rất hợp lý, tuy nhiên, dù mình để cả 2 chữ SANH trước (ngộ ra bản tánh) và SỐNG (bản tánh luôn hiện hữu), mình vẫn phải cần cước chú đh ạ. Xin ghi nhận ý kiến của đh. Đa tạ. Tâm Tịnh.

    không-pháp :
    Năm 87 có về Tào Khê đảnh lễ dâng hương và trầm<miến trầm nầy ở Miền trung VN> bái lạy Lục Tổ... vưà đến cổng tam quan chùa Nam Hoa Tào Khê, giưã trưa muà hạ trời nóng nực khó chiụ... đùng một cái trời đỗ mưa rất kỳ lạ, cơn mưa lớn nhưng dừng rất nhanh, vào trong nội viện chuà mà lòng rất buồn cho cơn mưa ấy: trong lòng nghĩ bậy bạ rồi đột nhiên chưĩ thề< có sao nói vậy xin lượng thứ>vaò đến hậu điện ...KP cũng như mọi người: đốt hương,để trầm trước kim thân của Tổ... rồi lạy vừa cử tay lên tráng trực diện với mặt Tổ thì hốt nhiên kinh ngạc có một năng lực kỳ lạ phóng ra từ kim thân cuả Tổ mà KP trực giác được lúc âý để rồi tự tâm cảm ứng giao thông nói lên một lời kỳ dị:NÀO DÈ LỤC TỔ LÀ NGƯỜI VIỆT NAM!!! về sau nhiều năm KP mới đọc:bản dịch của thầy MÃN GIÁC,Thần Hội muốn thanh minh cho Tổ... và đã bị giam cầm 6 năm<việc đại bí mật này liên quan với dân tộc Việt Nam>... về sau còn duyên thì viết rõ ràng hơn...ngoài ra còn nhiều chuyện truyền khẩu cuả người dân Thiều quan mà không thấy có ghi trong Đàn Kinh, như những công án đơn sơ và căn bản bình dân... nhưng sự thấu triệt đến cội nguồn u huyền được gọi là : KHẨU TRUYỀN, và BẤT LẬP VĂN TỰ...< những người biǹh dân đến học Pháp với Tổ chứ không chỉ chư trí thức> chỉ có con người mộc mạc biǹh dị phương nam ấy mơí làm nên được việc nầy: HUỆ NĂNG...

    Quảng Minh :
    Chân như là mặt bất biến của Tâm. Chân như có hai mặt là bản tịnh và khách trần, cho nên ở mặt nhiễm ô, là pháp duyên khởi; ở mặt thanh tịnh, là trí vô phân biệt, hay được gọi là Như lai tạng, là Như lai pháp thân.
    Đọc Khởi tín luận của đại sĩ Mã Minh, ta thấy bản thể của Tâm ta là Chân như: “Tâm có hai mặt: mặt chân như và mặt sinh diệt. Mặt nào cũng bao quát toàn thể các pháp, tại sao, vì hai mặt như vậy không phải tách rời lẫn nhau.”
    Bốn câu đầu là mặt chân như . Câu cuối là mặt sinh diệt.
    Lục tổ Huệ Năng lặn lội đến Hoàng mai yết kiến ngũ tổ. Khi được Ngũ tổ giảng đến câu: "Ưng vô sở trú nhi sinh kỳ tâm”, thì Huệ Năng đại ngộ tất cả các pháp không ngoài tự tánh, và thưa rằng: “Không ngờ tự tánh vốn tự trong sáng, không ngờ tự tánh vốn bất sinh diệt, không ngờ tự tánh vốn tự đủ cả, không ngờ tự tánh vốn không dao động, không ngờ tự tánh vốn sinh vạn pháp.” Sau này Lục tổ khuyên người làm theo chánh định Bát nhã bằng cách tụng niệm Kim cương, với lời nói giản dị: “Lúc nào chỗ nào tâm cũng đừng ngu, ngu một chút là bát nhã mất một chút, trí một chút là bát nhã sinh một chút.”
    Tự tánh là tự tánh của Tâm, là bản thể của Tâm vừa đề cập.
    Theo Chỉ quán luận của Tuệ Tư: “Tâm thể vốn đủ 2 trạng huống vắng lặng và hoạt dụng" Tâm thể thì bất nhị (không sai biệt), bình đẳng (nơi chúng sinh hay nơi Phật hoàn toàn như nhau), vô tướng (siêu việt hình tướng, khái niệm). Tâm tánh, tức tính năng của Tâm (hoạt dụng), như mặt gương phản chiếu hình ảnh tốt xấu, có 2 loại: tính thuận (thuận hợp với Tâm) hay tính tịnh (tính trong sạch); tính trái (chống trái với Tâm) hay tính nhiễm (tính dơ bẩn). Tính năng của Tâm cũng vậy, chỉ là nhất vị, không trở ngại hay phá hoại lẫn nhau, đặc biệt không tính năng nào mất đi, dầu ở giai đoạn chúng sinh hay giai đoạn chư Phật.
    Bốn câu đầu chỉ cho tâm thể. Câu cuối chỉ cho tâm tánh.
    Câu nói của Lục tổ là như vậy, không thể sửa đổi, trên nguyên tắc phiên dịch. Huống chi sửa đổi thì càng sai.

    không-pháp :
    菩提自性本來清淨,但用此心,直了 佛 trong(行由品) đây là TÂM PHÁP trùng hiện qua khẩ̉u thuyết đầu tiên cuả Lục Tổ Huệ Năng... ẩn tàng trong Tâm truyền Tâm, từ Một thời 拈花微笑<niêm hoa vi tiếu>... đến CAÍ ĐANG LÀ...vượt qua sự nguyên cưú và hành tu (Văn, Tư, Tu) như Tâm Tịnh... ghi ở trên cho KP thêm một chút mắm muối: Khẩu Ngữ và Văn viết trong từng vùng cuả người Tàu từ Lục Tổ cho đến bây chừ vẩn là một điều quảng đại phức tạp Rắc rối...Phật Thích Ca đã dùng khẩu ngữ< địa phương or vùng> thuyết truyền TÂM PHÁP taị xứ Ấn thời ấy... Lục Tổ thời ấy sinh sống trong vùng: Quảng Đông, quảng tây or lớn hơn chút đến Động đình hồ...nam hoa tự ở thiều quan phát âm có khác đi một chút giọng so vơí giọng quảng đông< thiều quan cũng thuộc QĐ>..." Tất cả bản kinh khác nhau
    của Pháp Bảo đàn kinh đều xác nhận hai điều quan trọng:
    Thứ nhất: Huệ Năng không biết đọc và không biết viết chữ Tàu;
    Thứ hai: Huệ Năng sinh trưởng tại Lĩnh Nam và hoằng pháp chung quanh vùng
    Nam Hải, tức là Phiên Ngung (thuộc lãnh thổ Việt Nam thời đó).
    Và điều quan trọng là tất cả các bản khác nhau của Pháp Bảo ðàn kinh đều còn giữ
    lại ít nhất hai lần, nếu không muốn nói là năm sáu lần những câu đại loại sau đây để
    chứng tỏ Huệ Năng không phải là người Hán tộc mà làngười Việt Nam:
    - Hoằng Nhẫn mắng Huệ Năng: “Mi là dân Lĩnh Nam, vốn là đồ mọi rợ, làm thế
    nào thành Phật được?” (phân đoạn 3, bản ðôn Hoàng).
    - “Thực không ai ngờ nơi đất Lĩnh Nam lại được phúc có Phật sinh ra nơi ấy”
    (phân đoạn 37, bản ðôn Hoàng).
    Mấy chữ “đồ mọi rợ” ở đây là dịch mấy chữ chửi thề ở đời đường “các lão 獦獠” mà
    Yampolsky đã chú thích như sau: “Ko-lao” (các lão) là một tiếng mắng chửi, có nghĩa
    là dân dã man, gần như súc vật ở phương Nam nước Trung Hoa (tức là Việt Nam)”
    (op. cit., trang 127).
    Chỉ nội mấy chữ “các lão” trên cũng đủ để chứng minh Huệ Năng không phải người
    Trung Hoa mà là người Lĩnh Nam.(Thich Man Giac)"... Đến đây mới vào đề câu:何期自性能生萬法。Phiên âm chữ Hán Việt:Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp. Tâm Tịnh Xin được sửa lại là: Đâu ngờ Tự Tánh sống trong muôn pháp...菩提自性本來清淨: Bồ Đề Tự Tính bản lai Thanh Tiṇh: IF vào được: 自性清淨<KIẾN TÁNH> Huệ Năng không biết đọc và không biết viết chữ Tàu;( không phải là người bản xứ )< tức ngoại tộc> .thì miệng đọc giống như tam tự kinh vậy: 何期,自性, 能生, 萬法...Từ TÂM THỂ THẤY TÁNH hoát nhiên kinh ngạc:能生(trùng trùng HIỆN TƯỚNG SANH KHƠĨ SỐNG ĐỘNG ẤY...) LẠ THAY TỰ TÁNH NĂNG SỐNG, SINH RA MUÔN PHÁP, chữ:何期 này là sự Trực tâm trong VÔ NHƠN NGÃ< cái TỰ BIẾTkhông còn< XÍ́A> vào nưã. vậy::何期自性能生萬法 có thể dịch: LẠ THAY TỰ TÁNH NĂNG SANH VÀ SỐNG TRONG VẠN PHÁP... có nên chăn? !!! khong-phap

    Quảng Minh :
    Nhiếp luận: “Y tha khởi tướng là gì? Là các thức do a lại da làm chủng tử và thuộc về phân biệt hư vọng. Các thức ấy là gì? Là thức thân, thức chủ thể của thân, thức chủ thể của sự tiếp nhận, thức được tiếp nhận, thức tiếp nhận, thức thì gian, thức số mục, thức thế giới cư trú, thức nói năng, thức mình người, thức đường lành đường dữ. Tựu trung, thức thân cho đến thức nói năng là do chủng tử của danh ngôn huân tập, thức mình người là do chủng tử của ngã kiến huân tập, và thức đường lành đường dữ là do chủng tử của hữu chi huân tập. Các thức như vậy là cái y tha khởi tướng thống thuộc 3 cõi 5 đường và 3 tạp nhiễm, là được biểu hiện bởi phân biệt hư vọng. Như vậy, các thức này thống thuộc phân biệt hư vọng, đặc tính là duy thức, làm căn cứ cho sự biểu hiện không có và không thực. Như thế đó gọi là y tha khởi tướng.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
    A lại da là tánh y tha. Y tha là tổng thể của tánh biến kế và tánh viên thành của nhiễm pháp và tịnh pháp. Y tha không cố định là nhiễm hay tịnh. Y tha mà thành chân thật thì tự tánh thanh tịnh hiển lộ, gọi là viên thành thanh tịnh.
    Nhiếp luận: “Sanh tử là phần tạp nhiễm nơi y tha, niết bàn là phần thanh tịnh nơi y tha, chỗ dựa của hai phần là y tha. Chuyển y là chính y tha khi nổi lên sự đối trị thì chuyển bỏ phần tạp nhiễm mà chuyển được phần thanh tịnh.” (H.T Thích Trí Quang dịch)

    Tâm Tịnh :
    Lời của đạo hữu Tuệ Huy: "Câu cuối giờ đây đâu có vấn đề gì? "Tâm hay sanh vạn pháp" là cái lẽ dĩ nhiên: Vạn pháp duy tâm tạo." và "Vạn Pháp là "Cái Đang Là" đang phơi bày." Thưa đạo hữu, Tâm thì đh đã nói ở trên là Bản Tâm, và đưa ra câu Vạn pháp duy tâm tạo hay Bản Tâm tạo ra vạn pháp, và vạn pháp là những cái đang là? Vậy còn chữ "sanh" thì sao? và chữ "tạo" trong "vạn pháp duy tâm tạo" theo đh thì nghĩa gì? Nếu là cái đang là, thì đâu có sanh, đâu có tạo? Xin cảm ơn đh và tất cả các đh khác đã góp ý. Tâm Tịnh.

    Tâm Tịnh :
    Con suy nghĩ thêm, như vậy, theo như thầy Quảng Minh nói, thì tự tánh trong 4 câu đầu là Chân Như Phật Tánh, còn ở câu thứ năm, con kết hợp câu của thầy và của Hòa Thượng Thích Trí Quang về tự tánh y tha khởi, thì chính là Duyên Khởi rồi, vậy thì mình cứ nói rõ ra như vậy là tốt nhất, chứ cứ dùng thêm danh từ Hán khó hiểu làm gì cho phức tạp? Phật pháp cần nên đơn giản, rõ ràng, để mọi người dễ hiểu mà theo, con thiết nghĩ như vậy. Như vậy, câu cuối cùng, để luôn là "Đâu ngờ duyên khởi năng sanh vạn pháp" là xong thôi, đỡ phải chuyện hiểu lầm nữa. (-: Thầy nghĩ sao?

    Tuệ Huy :
    "Tự Tánh" ở đây tức là Bản Tâm. Ngộ tự tánh (hay bản tâm) là chủ trương chính của Thiền Tông. Năm câu "nào ngờ" của Lục Tổ thốt ra sau khi Ngài ngộ Bản Tâm. Nhân duyên của sự ngộ này sau khi nghe Ngũ Tổ giảng đến câu "Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm", tức là câu nói liên hệ tới cái "bí quyết" (vô sở trụ) để phát huy triệt để cái "Dụng" của "Kỳ Tâm". Hiểu như vậy ta có thể thay "tự tánh" thành "tâm"
    Đâu ngờ tâm vốn tự thanh tịnh,
    Đâu ngờ tâm vốn chẳng sanh diệt,
    Đâu ngờ tâm vốn tự đầy đủ,
    Đâu ngờ tâm vốn chẳng lay động,
    Đâu ngờ tâm hay sanh vạn pháp.
    Câu cuối giờ đây đâu có vấn đề gì? "Tâm hay sanh vạn pháp" là cái lẽ dĩ nhiên: Vạn pháp duy tâm tạo.
    Bổn tâm hay tự tánh cũng chỉ là danh từ để chỉ cái "Tánh Tự Nhận Thức Biết"
    Vạn Pháp là "Cái Đang Là" đang phơi bày. Một phen "ngôn ngữ đạo đoạn", "đằng khô thụ đảo" thì "Thể Lộ Kim Phong".
    Thế nên, Thiền Lão Sư mới có kệ rằng:
    Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
    Trăng trong mây trắng hiện toàn chân.
    (Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
    Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân)

    Tâm Tịnh :
    Con cảm ơn thầy đã góp ý, con xin lỗi thầy, theo sở học không thông kinh điển của con thì con chỉ biết có một "tự tánh", tự tánh này không "bị" sinh, do đó không "bị" diệt, mà thường hằng, bất biến, trong sáng, thanh tịnh. Khi con đọc 5 câu mà như thầy đã thấy trong bài, người viết/dịch chỉ dùng một từ "tự tánh", do đó, con hiểu là đang nói về một tự tánh mà thôi. Con đọc qua ý kiến của thầy, thì như vậy có 3 mặt của tự tánh: biến kế, y tha và viên thành. Kể ra cũng phức tạp đấy, nhưng nếu 4 câu đầu là tự tánh viên thành, và riêng câu thứ 5 là tự tánh y tha, thì con nghĩ, để khỏi sự hiểu lầm, thì người viết/dịch nên dùng từ khác nhau, chẳng hạn 4 câu đầu thì dùng "tự tánh viên thành" ("Đâu ngờ tự tánh viên thành vốn tự thanh tịnh" ... "Đâu ngờ tự tánh y tha hay sanh vạn pháp") và định nghĩa về tự tánh viên thành, tự tánh y tha trong cước chú, ít nhất là phải giải thích rõ ràng để người đọc không bị lầm lẫn. Nếu không phân biệt 2 loại hay 2 mặt của tự tánh, và giải thích rõ rệt, thì những người như chúng con khi đọc câu cuối này, sẽ tưởng rằng cùng một "tự tánh" hay chữ mà thường được dùng là Phật Tánh, và sẽ lầm tưởng rằng Phật Tánh sanh ra vũ trụ, vạn pháp, định đoạt nhân quả v.v... và như vậy cũng chính là Thượng Đế (nhưng dùng như một danh từ, không nhân cách hóa mà thôi), và có thể dùng từ Thượng Đế để chỉ Phật Tánh ("tự tánh viên thành" trong ý kiến của Thầy). Vậy làm sao mình sửa và cước chú những sách đã được viết/dịch đây? Xin các thầy, các bậc Thiện Tri Thức cùng góp ý để làm sáng tỏ vấn đề này. Con chân thành cảm ơn quý ngài. Tâm Tịnh.

    Tâm Tịnh :
    Thưa thầy Quảng Minh, con rất cảm ơn thầy đã dành thời gian ra để góp ý, hầu hoằng pháp lợi sinh, con hiểu đơn giản, ý của thầy là: có 3 loại tự tánh: biến kế, y tha, viên thành. 4 câu trên là tự tánh viên thành, câu thứ 5 là tự tánh y tha. Vậy, con không hiểu tại sao ngài Lục tổ, hay ngài Pháp Hải khi viết lại lời ngài Lục tổ không dùng từ khác để cho người sau có thể phân biệt được như thầy hiểu vậy? Và nếu thực sự như vậy, theo con học, thì nói nôm na là 4 câu trên là tánh của Tâm Bất Sinh, còn câu thứ 5 là áp dụng cho Tâm Sinh Diệt. Nếu là vậy, thì những sách đã được dịch cần có cước chú, hoặc dùng từ khác, để những người đọc trong hiện đời và đời sau không còn hiểu lầm nữa. Ai sẽ làm việc này? Con rất cảm kích tất cả các vị đã theo dõi những bài viết và hướng dẫn người người theo đúng chánh pháp. Kỹ thuật internet ngày nay đã tạo thêm phương tiện để các thầy hoằng pháp. Kính thầy, Tâm Tịnh.

    Nguyễn Hoàng Tân :
    Tự Tánh chính là Phật Tánh. Thế gian là môi trường không hoàn hảo cho mọi sự biến đổi hay còn gọi là vô thường. Cỏi vô thường biến dịch mãi mãi, từ đó thân tâm sẽ không bao giờ ngưng nghỉ. Từ đó vốn Tự Tánh bị môi trường Vô Thường chi phối, đó là luật của tạo hoá ( ở đây mình không muốn xủ dụgn chữ Thượng Đế)
    Sự chi phối đó sanh ra vạn pháp. Nếu Tự Tánh sống trong cỏi âm, không có môi trường Vô Thường thì Tự Tánh vốn hoà n hảo ngang hàng với hư vô và tạo hoá

    Quảng-Vinh :
    Nếu có thể hiểu là: 'Tự tánh có khả năng sanh ra vạn pháp' thì không cần phải sửa câu như dh Tâm Tịnh đã đề nghị. Theo thiển ý, 32 ứng thân của Bồ-tát Quán-Âm cũng là từ tự tánh của Ngài sanh ra.

    Quảng Minh :
    Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
    Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
    Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
    Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,
    Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp.
    Trong 5 câu này, 4 câu đầu chỉ cho tự tánh viên thành thật, và câu cuối cùng chỉ cho tự tánh y tha khởi. A lại da mặt ẩn là chủng tử của các pháp, mặt hiện là hiện hành của các pháp, các pháp ấy là y tha khởi tánh. Ngộ nhận các pháp như vậy là ngã pháp, ngã pháp ấy là biến kế chấp tánh. Giác ngộ a lại da như vậy vẫn chân như, chân như ấy là viên thành thật tánh.
    Hòa thượng Thích Trí Quang giải thích: “Ba tự tánh là quan sát mọi mặt của mỗi pháp hữu vi mà nói, chứ không phải có riêng ngoài mỗi pháp ấy. Ba tự tánh có thể nói và ví dụ vắn tắt như vầy, theo Phật học đại từ điển (trang 307). Một, biến kế là ảo trạng của phàm phu ngộ nhận, như ngộ nhận sợi giây là con rắn; biến kế này chính là ngã pháp do phàm phu vọng chấp mà có. Hai, y tha là do yếu tố mà có, như sợi giây do chỉ gai và mọi sự hỗ trợ mà thành; y tha này chính là các pháp hữu vi, do chủng tử nơi a lại da nhờ các trợ duyên mà hiện hành. Ba, viên thành là thực thể của các pháp hữu vi, như thực chất của sợi giây là chất chỉ gai; viên thành này chính là pháp tánh chân như, do tuệ giác chứng ngộ. Cũng nên ghi chú rằng, nói pháp tánh tùy duyên mà thành các pháp y tha thì được coi là nghĩa thật, nói pháp tánh làm bản thể mà có các pháp y tha thì được gọi là nghĩa tạm. Ba tự tánh như vậy, tánh có nghĩa là có, nhưng mỗi tánh có mỗi cách: biến kế là vọng hữu (có một cách sai lầm) y tha là giả hữu (có một cách tương đối) viên thành là thật hữu (có một cách đích thực).”

    Quảng Minh :
    Và sau đây là trích dẫn kinh Giải thâm mật về 3 tự tánh:
    “Đức bản, tánh của các pháp đại lược có ba mặt: một là biến kế chấp tánh, hai là y tha khởi tánh, ba là viên thành thật tánh. Biến kế chấp tánh là thế nào, là tự tánh và sai biệt của các pháp, được giả thiết bởi danh từ, cho đến làm cho theo đó mà phát sinh ngôn ngữ. Y tha khởi tánh là thế nào, là đặc tính duyên sinh của các pháp, cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, vô minh duyên sinh hành, cho đến tập hợp cả đống đau khổ thuần nhất và lớn lao. Viên thành thật tánh là thế nào, là chân như nhất quán của các pháp, chân như mà Bồ tát phải do các duyên tố tinh tiến dũng mãnh, tác ý đúng lý và tư duy không ngược mới thông đạt, bằng vào sự thông đạt này mà tuần tự tu tập, cho đến vô thượng chánh biến giác mới chứng ngộ viên mãn.”
    “Đức bản, như người bị bịnh màng mắt, cái màng mắt ấy biến kế chấp tánh cũng vậy. Như người bị bịnh màng mắt thấy những ảo ảnh tóc lông ong ruồi lá diếp giây sắn hay xanh vàng đỏ trắng, những ảo tượng ấy y tha khởi tánh cũng vậy. Như người mắt đã trong sáng, hết hẳn màng mắt, bản tính con mắt trong sáng nhìn thấy cảnh vật không thác loạn, cảnh vật không thác loạn ấy viên thành thật tánh cũng vậy.”

    Quảng Minh :
    “Lại tựa như ngọc bạch châu trong suốt, nếu nhuộm màu xanh (61) thì thấy như ngọc đế thanh, do ngộ nhận là ngọc đế thanh mà làm cho người lầm lẫn thác loạn; nếu nhuộm màu đỏ thì thấy như ngọc hổ phách, do ngộ nhận là ngọc hổ phách mà làm cho người lầm lẫn thác loạn; nếu nhuộm màu lục thì thấy như ngọc sát sắc, do ngộ nhận là ngọc sát sắc mà làm cho người lầm lẫn thác loạn; nếu nhuộm màu vàng thì thấy như hoàng kim, do ngộ nhận là hoàng kim mà làm cho người lầm lẫn thác loạn. Tương tự nơi ngọc bạch châu trong suốt mà có màu sắc, nơi y tha khởi tánh mà có tập khí ngôn từ của biến kế chấp tánh thì cũng như vậy; tương tự nơi ngọc bạch châu trong suốt mà có những ngộ nhận đế thanh hổ phách sát sắc hoàng kim, nơi y tha khởi tánh mà có biến kế chấp tánh thì cũng như vậy; tương tự ngọc bạch châu trong suốt, y tha khởi tánh thì cũng như vậy; tương tự nơi ngọc bạch châu trong suốt, đế thanh hổ phách sát sắc hoàng kim luôn luôn và vĩnh viễn không thật có và không đặc tính, nơi y tha khởi tánh, cái viên thành thật tánh mà biến kế chấp tánh luôn luôn và vĩnh viễn không thật có và không đặc tính thì cũng như vậy.”
    “Đức bản, biết do tướng và danh tương ứng làm duyên tố thì biết được biến kế chấp tánh; nơi y tha khởi tánh, biết cái chấp của biến kế chấp tánh làm duyên tố thì biết y tha khởi tánh; nơi y tha khởi tánh, biết không có cái chấp của biến kế chấp tánh làm duyên tố thì biết viên thành thật tánh.”
    “Lại nữa, nếu Bồ tát có thể nơi y tha khởi tánh của các pháp mà đúng như sự thật biết biến kế chấp tánh, thì thế là đúng như sự thật biết sự vô tướng của các pháp; nếu Bồ tát đúng như sự thật biết y tha khởi tánh, thì thế là đúng như sự thật biết sự tạp nhiễm của các pháp; nếu Bồ tát đúng như sự thật biết viên thành thật tánh, thì thế là đúng như sự thật biết sự thanh tịnh của các pháp. Bồ tát nếu nơi y tha khởi tánh mà đúng như sự thật nhận biết sự vô tướng thì có thể hủy diệt sự tạp nhiễm, nếu có thể hủy diệt sự tạp nhiễm thì có thể chứng đắc sự thanh tịnh.”
    “Đức bản, Bồ tát do đúng như sự thật mà biết biến kế chấp tánh, y tha khởi tánh và viên thành thật tánh, nên cũng đúng như sự thật mà nhận biết sự vô tướng, sự tạp nhiễm và sự thanh tịnh. Đúng như sự thật mà nhận biết sự vô tướng nên hủy diệt sự tạp nhiễm, hủy diệt sự tạp nhiễm nên chứng đắc sự thanh tịnh: ngang đây gọi là vị Bồ tát khéo biết tánh của các pháp, và cũng ngang đây Như lai qui định vị Bồ tát ấy là Bồ tát khéo biết tánh của các pháp.”

    -Quả là câu hỏi khó dành cho các nhà lý luận đại thừa !

  2. #2

    Mặc định

    Phản hồi của dịch giả kinh Pháp Bảo Đàn, người duy nhất còn tại thế, cư sỹ, nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tiến.

    Người học Phật và những mối nghi khi đọc Kinh điển

    Lời ngỏ: Tôi vừa được anh Tâm Diệu (BBT Thư viện Hoa Sen) gửi cho một đường link để xem bài viết của đạo hữu Tâm Tịnh tại đây. Bài viết nêu nghi vấn về một câu kinh Việt dịch trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ Huệ Năng mà tôi là một trong những người tham gia Việt dịch và là người duy nhất còn sống. Tôi đã dự tính viết một bài trình bày ý kiến của riêng tôi về vấn đề này, nhưng xét vì hiện có một số nghi vấn từ nhiều Phật tử khác nên tôi quyết định kết hợp trình bày tổng quát trong bài viết sau đây.

    Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt và trải nghiệm của chính bản thân mình, hoàn toàn không do bất kỳ áp lực nào từ người khác. Thế nhưng, tiến trình xác lập niềm tin vào Kinh điển thật không đơn giản và dễ dàng. Thứ nhất, làm sao để chúng ta có thể tự mình xác định được những bản văn thực sự là Kinh điển mà không sợ mắc phải sai lầm? Thứ hai, khi học hỏi và nghiên cứu Kinh điển để áp dụng vào sự tu tập, chắc chắn sẽ có những điểm mà chúng ta không đủ sức nhận hiểu tức thời hoặc thậm chí qua nhiều năm tu tập. Những điều không hiểu được đó tất yếu sẽ là nguyên nhân làm khởi sinh những mối nghi trong lòng ta. Vậy phải giải quyết những mối nghi này theo cách như thế nào?

    Bài viết này sẽ được lần lượt đề cập đến hai vấn đề vừa nêu trên. Đây là những nhận thức, ý kiến của riêng người viết nên chỉ xin được chia sẻ như những kinh nghiệm cá nhân, mong có thể giúp ích được ít nhiều cho những ai quan tâm.

    Phần 1. Mối nghi về nguồn gốc Kinh điển

    Tam tạng Kinh điển hay Giáo pháp giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong đạo Phật. Trong Tam bảo (Phật, Pháp và Tăng) Tăng-già vẫn phải đặt sau Giáo pháp, bởi lý do có mặt của Tăng-già chính là để thực hành Giáo pháp và dẫn dắt Phật tử thực hành theo đó. Nếu không có Giáo pháp thì cũng sẽ không có lý do để Tăng-già tồn tại.

    Đối với người học Phật, việc đọc hiểu, nghiên cứu Kinh điển để áp dụng vào sự tu tập là điều thiết yếu, bất kể chúng ta có đang tu tập dưới sự dẫn dắt của một vị thầy hay không. Cho dù một bậc thầy chân chánh có thể dẫn dắt, giúp chúng ta tu tập nhanh chóng, hiệu quả hơn rất nhiều lần, nhưng điều tiên quyết vẫn là vị thầy ấy phải theo đúng với Kinh điển. Bất kỳ vị thầy nào, nếu đưa ra những chỉ dẫn lệch lạc, trái ngược với Kinh điển, chúng ta đều phải có sự thận trọng xem xét lại việc nương theo vị thầy ấy. Sở dĩ như vậy là vì Kinh điển do chính đức Phật nói ra hoặc ấn chứng, và do đó có độ tin cậy cao hơn hẳn so với bất kỳ phát minh, sáng kiến nào của một người chưa hoàn toàn giác ngộ.

    Thế nhưng, việc xác định một văn bản nào đó có đúng thật là Kinh điển hay không lại không phải chuyện dễ dàng chút nào, nhất là trong thời đại chúng ta, cách xa Đức Phật đã hơn 25 thế kỷ. Trong thực tế, đã có không ít những tranh biện xoay quanh vấn đề này, thậm chí có người đã không ngần ngại dùng đến từ "ngụy tạo" để chỉ đến toàn bộ Kinh điển Đại thừa. Đây là một thái độ cực đoan rất nguy hiểm cho các thế hệ tương lai, bởi nó có nguy cơ "vơ đũa cả nắm" và hủy hoại tất cả những tinh túy Phật học đã được tích lũy và trao truyền từ nhiều thế kỷ qua.

    Tuy nhiên, vấn đề tưởng chừng như hết sức khó khăn này thật ra lại đã sẵn có giải pháp được đức Phật chỉ bày trong Kinh điển. Có 4 yếu tố cốt lõi trong Kinh điển được tất cả các truyền thống Phật giáo cùng thừa nhận, đã được đề cập đến trong cả kinh điển Nguyên thủy cũng như Đại thừa, thường được biết với tên gọi Tứ pháp ấn (四 法 印), với ý nghĩa là bốn dấu ấn để xác thực Chánh pháp, hoặc một tên gọi ít người biết đến hơn là Tứ pháp bản mạt (四 法 本 末), với ý nghĩa là bốn cội gốc căn bản và bao quát nhất. Nói một cách dễ hiểu hơn thì đây là bốn tính chất mà người tu tập phải nhận biết. Đức Phật là bậc giác ngộ viên mãn nên đã thấy biết được trọn vẹn và thuyết dạy về bốn tính chất này.

    Những gì là bốn tính chất được đề cập ở đây? Theo kinh Tăng Nhất A-hàm, phẩm 26, kinh số 8 thì đó là tính chất vô thường, khổ và vô ngã của tất cả các hành (hay hết thảy mọi hiện tượng), cùng với tính chất tịch tĩnh của Niết-bàn. Theo lời Phật dạy thì bất kỳ bản văn nào, dù được gọi là Kinh điển, nhưng nếu trình bày những điều đi ngược bốn pháp ấn này thì người Phật tử có thể biết được rằng đó không phải là Kinh điển do Phật thuyết dạy.

    Nhưng giải pháp này cũng có sự giới hạn, vì nó giúp chúng ta loại bỏ những gì trái ngược với Kinh điển, không đúng lời Phật dạy, nhưng nếu có – và sự thật là đã có rất nhiều - những bản văn tuy không trái ngược lời Phật dạy, nhưng không thể chắc chắn thực sự là do đức Phật trực tiếp nói ra, mà có khả năng là do những người đời sau căn cứ vào lời Phật dạy để viết ra thì thế nào? Vì căn cứ vào lời Phật dạy để viết ra, nên điều tất nhiên là sẽ hoàn toàn phù hợp với lời Phật dạy, và do đó không thể dùng Tứ pháp ấn để phân biệt được nữa. Nhưng vì có khả năng là không phải do chính đức Phật trực tiếp nói ra, nên cũng cần có sự tiếp cận khác hơn là so với những bản văn có độ xác thực cao hơn. Trong trường hợp này, vấn đề đã trở nên tinh tế, khó nhận biết hơn rất nhiều. Tuy vậy, cũng không hẳn là không có giải pháp.

    Một số người bi quan vẫn thường cho rằng hiện nay là thời kỳ Mạt pháp, nhưng bản thân tôi luôn tin rằng chúng ta vẫn còn rất may mắn và hạnh phúc biết bao khi được sinh ra vào một thời kỳ tuy không có Phật ra đời nhưng vẫn được tiếp cận với Kinh điển, Giáo pháp của đức Phật với một sự phong phú, đa dạng và khá toàn vẹn. Mặc dù có những hạn chế nhất định về mặt sử liệu, nhưng nhìn chung thì với những dữ kiện đã được biết và được hầu hết mọi người công nhận, toàn bộ kinh tạng Nikāya qua 4 lần kết tập, đến nay hiện vẫn còn nguyên vẹn để người Phật tử có thể dựa vào đó mà học hỏi, hành trì. Về cơ bản, tôi chưa từng thấy có người Phật tử nào hoài nghi về tính xác thực của Tam tạng Kinh điển Nikāya, cho dù là người ấy tu tập theo bất kỳ truyền thống nào trong Phật giáo. Sự đồng thuận này có thể xem là điểm chung vững chắc giữa tất cả Phật tử hiện nay để có thể cùng nhau đi đến một cách nhìn nhận phù hợp với Chánh kiến về vấn đề tiếp cận, học hỏi và nghiên cứu Kinh điển.

    Qua trình bày đại lược như trên, đi vào chi tiết chúng ta sẽ gặp phải những trường hợp sau đây khi tiếp cận với Kinh điển:

    a. Trường hợp văn bản có tính xác thực cao

    Đây là trường hợp của những Kinh điển mà chúng ta may mắn giữ được toàn vẹn qua các lần kết tập, như 34 kinh trong Kinh Trường bộ (Dīgha Nikāya), 152 kinh trong Kinh Trung bộ, cho đến tất cả các Kinh trong Tam tạng Nikāya hiện còn...

    Đối với tất cả những Kinh điển thuộc loại này, chúng ta nên tiếp cận và xác lập niềm tin theo đúng tinh thần lời dạy của đức Phật trong kinh Kalama, nghĩa là thông qua sự suy xét sáng suốt và thể nghiệm của chính bản thân mình, không phải vì dựa vào sự tin tưởng đối với người khác hay chỉ vì điều đó được ghi chép trong Kinh điển.

    Vì sao như thế? Vì cho dù về mặt văn bản, ngôn từ, chúng ta đã tin chắc đó là lời Phật dạy, nhưng nếu chúng ta chưa có sự suy xét, thể nghiệm của chính bản thân, ta sẽ không có khả năng nhận hiểu đúng thật và đầy đủ về những lời dạy ấy. Khoảng cách giữa tri thức và thực chứng luôn cần có sự thể nghiệm, hành trì mới có thể xóa bỏ. Nếu chúng ta chỉ tiếp cận Kinh điển thông qua ngôn từ, lý luận, ta sẽ dễ dàng rơi vào chỗ nhận hiểu và thực hành không đúng như lời Phật dạy, hoặc thậm chí nguy hiểm hơn nữa là diễn giải Kinh điển sai lệch theo những tri thức mà ta đang có.

    Vì vậy, cần thấy rõ là ngay cả đối với những lời Phật dạy thì cũng cần phải có sự suy xét, nhận hiểu và thực hành một cách sáng suốt mới có thể mang lại lợi lạc cho bản thân và người khác. Những người thuộc lòng Kinh điển hoặc thậm chí có khả năng thuyết giảng Kinh điển nhưng không có sự áp dụng thực sự vào đời sống, chắc chắn sẽ không tự mình thể nghiệm được những lời Phật dạy, và do đó mà việc đi sai đường là chuyện rất dễ xảy ra.

    b. Trường hợp văn bản không có tính xác thực cao

    Đây là trường hợp của những Kinh điển Đại thừa mà chúng ta không thể biết được một cách chắc chắn về nguồn gốc, xuất xứ. Trong nhiều thế kỷ qua, tuyệt đại đa số Phật tử đều tin chắc rằng đây là những Kinh điển do chính đức Phật thuyết dạy. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các ngành khoa học phương Tây như văn bản học, khảo cổ học, sử học v.v... đã dựa vào những kết quả nghiên cứu để cho rằng văn bản của các Kinh điển Đại thừa xuất hiện khá muộn so với kinh điển Nguyên thủy. Điều này đã làm cho một số người bắt đầu đặt nghi vấn về nguồn gốc của những Kinh điển Đại thừa. Nhưng có điều quan trọng cần lưu ý ở đây là, rất nhiều người thường nhầm lẫn giữa sự xuất hiện của các văn bản Kinh điển Đại thừa với bản thân những Kinh điển này. Hay nói khác đi, chúng ta không thể loại trừ khả năng là Kinh điển Đại thừa trước khi được xuất hiện dưới dạng văn bản đã được lưu hành ở dạng truyền khẩu trong nhiều thế kỷ trước đó.

    Khi có sự phân vân về nguồn gốc Kinh điển như thế, sự tiếp cận tất nhiên cần có những yêu cầu khác hơn, nhưng yêu cầu trước hết là chúng ta phải chấp nhận sự không biết chắc của mình. Sự chấp nhận này là rất quan trọng, vì nếu không ta sẽ rơi vào sai lầm là kiên quyết bác bỏ tất cả khi cho rằng đó là những kinh "ngụy tạo", hoàn toàn không phải do đức Phật thuyết giảng. Trong trường hợp này, ta mắc phải sai lầm trước tiên là đã đưa ra phán quyết về một điều ta hoàn toàn không biết chắc. Và như vậy, nếu có khả năng đó thực sự là lời dạy của đức Phật thì ta đã tự mình đóng lại cánh cửa tiếp cận với Giáo pháp.

    Cách ứng xử sai lầm như thế là cực đoan, không đúng với tinh thần "Trung đạo" theo những lời dạy sáng suốt của đức Phật.

    Tốt hơn, chúng ta nên chấp nhận sự "không biết chắc" của mình, để có thể tiếp cận với những Kinh điển thuộc loại này trên tinh thần của Tứ pháp ấn, sẵn sàng loại bỏ những gì không phù hợp với lời Phật dạy. Và muốn sử dụng được Tứ pháp ấn, điều tất nhiên là trước hết chúng ta cần phải tự mình có sự tu tập quán chiếu các yếu tố vô thường, khổ và vô ngã cũng như tìm hiểu lời Phật dạy về Niết-bàn tịch tĩnh. Những điều này được chỉ dạy trong rất nhiều Kinh điển, nên việc thực hành tu tập có thể nói là điều khả thi đối với bất cứ ai. Điều cần lưu ý ở đây là mức độ nhận hiểu về các yếu tố vô thường, khổ và vô ngã sẽ luôn tỷ lệ thuận với công phu tu tập hành trì của mỗi người, hoàn toàn không chỉ giới hạn trong lớp vỏ ngôn ngữ.

    Sau khi áp dụng Tứ pháp ấn, ít nhất chúng ta đã có thể xác định được những gì là phù hợp với lời Phật dạy. Vấn đề tiếp theo là nên nhận thức như thế nào về tính xác thực của những Kinh điển này khi ta không thể biết chắc là có phải do đức Phật trực tiếp nói ra hay không. Hiện nay, có thể quan sát thấy một số khuynh hướng nổi bật như sau:

    Khuynh hướng thứ nhất là của một số người rơi vào cực đoan khi không chỉ ra được bất kỳ điều gì trái với lời Phật dạy trong những bộ kinh mình tìm hiểu (hoặc thậm chí là không tìm hiểu) nhưng vẫn nhất quyết bác bỏ cho đó là do người đời sau ngụy tạo, lại còn tìm mọi cách để bài bác, công kích, xem đó như những tà thuyết gây hại cho mọi người. Sự phát triển quá trớn của khuynh hướng này hiện nay còn đi đến chỗ muốn phủ nhận toàn bộ những gì liên quan đến Đại thừa, chẳng hạn như truyền thống tu tập từ nhiều ngàn năm qua. Người Phật tử nên thận trọng để tránh rơi vào khuynh hướng sai lầm này.

    Khuynh hướng thứ hai có phần ôn hòa hơn là không tin vào Kinh điển Đại thừa nhưng không bài bác, công kích vì thực sự không thấy có gì trái với lời Phật dạy. Như đã nói, Kinh tạng Nikāya với sự nguyên vẹn và xác tín vẫn là một gia tài Pháp bảo vô giá luôn sẵn có cho mọi người Phật tử học hỏi và tu tập. Chúng ta có thể từ chối những kinh điển không thuộc Kinh tạng Nikāya, nhưng không thể bác bỏ vì sự thật là ta không biết chắc được về nguồn gốc của các Kinh điển đó. Những người theo khuynh hướng này do việc "không biết chắc được" về nguồn gốc của Kinh điển Đại thừa nên từ chối không học hỏi và chỉ thừa nhận Kinh tạng Nikāya mà thôi.

    Khuynh hướng thứ ba rộng mở hơn, chấp nhận việc tham khảo vào nội dung các bộ kinh Đại thừa để tìm kiếm những giá trị tích cực có thể áp dụng trong sự tu tập. Trải qua một truyền thống nối dài nhiều ngàn năm, những Kinh điển, luận giải được thu thập trong Kinh tạng là một khối lượng đồ sộ, hàm chứa nhiều tư tưởng, giáo lý phong phú, đa dạng và thâm sâu. Khi chọn những bộ kinh thích hợp với pháp môn tu tập mà mình đang áp dụng để học hỏi, người Phật tử sẽ có nhiều khả năng mở rộng và đào sâu hơn nhận thức, hiểu biết về phương pháp tu tập của mình. Điều đó chỉ có lợi mà không có hại. Hơn thế nữa, nó giúp chúng ta thể nghiệm được những lời Phật dạy ở một góc độ bao quát, rộng mở hơn. Những người theo khuynh hướng này tuy có thể không tin chắc rằng những Kinh điển ấy là do đức Phật trực tiếp nói ra, nhưng thừa nhận việc những Kinh điển ấy trình bày giáo lý do Phật thuyết dạy và thậm chí là trình bày với những phương pháp vô cùng uyên áo, sâu sắc.

    Khuynh hướng thứ tư là tự mình xác tín về nguồn gốc Kinh điển Đại thừa theo đúng tinh thần những gì đức Phật đã dạy. Những người theo khuynh hướng này tin chắc rằng những Kinh điển Đại thừa đúng thật với tinh thần Tứ pháp ấn là do chính đức Phật thuyết dạy, chẳng hạn như các kinh Bát-nhã, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, A-di-đà v.v... và rất nhiều Kinh điển khác. Người Phật tử theo khuynh hướng này được lợi ích lớn là có thể tiếp cận với toàn bộ Giáo pháp của đức Bổn Sư, bao gồm cả Kinh tạng Nikāya và Kinh điển Đại thừa. Khi kết hợp việc học hỏi Kinh điển và tu tập theo tinh thần "bất bộ phái", người Phật tử thoát ra khỏi nhiều sự trói buộc của những quan điểm hẹp hòi thông thường và có thể chuyên tâm hành trì pháp môn mình đã chọn.

    Như vậy, dựa vào đâu để người Phật tử có thể tự xác tín về nguồn gốc Kinh điển Đại thừa? Câu trả lời không đơn giản, nhưng có thể lược kể ra một vài luận cứ như sau:

    Thứ nhất, người Phật tử đặt niềm tin vào lời Phật dạy sau khi đã có sự hành trì thể nghiệm thì niềm tin ấy vững chắc và mạnh mẽ hơn so với niềm tin vào các nhà khoa học, mà cụ thể ở đây là văn bản học, khảo cổ học, sử học... Các nhà khoa học này nói rằng "các văn bản Kinh điển Đại thừa chỉ xuất hiện sớm nhất vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên", nhưng họ không thể trả lời được câu hỏi "Kinh điển Đại thừa xuất hiện từ lúc nào?". Và ngay cả nếu như họ có thể đưa ra câu trả lời, thì giá trị của tri thức khoa học cũng chỉ là tương đối khi so với giá trị chân lý trong lời Phật dạy. Một thời gian dài, vật lý học Newton đã thống trị hoàn toàn trong khoa học vật lý, nhưng sau những khám phá của Albert Einstein thì mọi sự bắt đầu thay đổi. Thuyết tiến hóa của Darwin cũng được nhận thức khác đi khi có những kết quả nghiên cứu mới của khoa học hiện đại. Và rõ rệt nhất là thuyết địa tâm (xem trái đất là trung tâm vũ trụ) đã được xem như tuyệt đối chính xác cho đến thế kỷ 16. Nhưng từ thế kỷ 17, khoa học đã chứng minh là nó sai lầm hoàn toàn và đã bị thay thế bằng thuyết nhật tâm... Trong khi đó, những gì đức Phật thuyết dạy dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn luôn chứng tỏ được tính chính xác, hợp lý và mang lại lợi ích an vui cho muôn người.

    Ngay cả đối với sự ra đời của đức Phật, từ thế kỷ 18 trở về trước, người Phật tử chỉ có thể đặt niềm tin thông qua những ghi chép trong Kinh điển mà không hề có bất kỳ một chứng cứ khoa học nào. Chỉ đến đầu thế kỷ 19, các nhà khảo cổ mới lần lượt phát hiện các di chỉ quan trọng tại Thánh tích Lumbini như trụ đá do vua A-dục dựng lên để ghi dấu nơi đản sinh đức Phật và nhiều công trình kiến trúc cổ tại đây... và dựa vào đó, các nhà khoa học mới bắt đầu xác tín về việc đức Phật đã từng sống và thuyết giảng trên hành tinh này.

    Những phát hiện của khoa học là không thể dự đoán trước. Chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng một ngày nào đó người ta sẽ khai quật được một tu viện cổ xưa chẳng hạn, với những chỉ dấu cho thấy sự xuất hiện của Kinh điển Đại thừa từ trước đó...

    Tuy nhiên, đó vẫn là chuyện của các nhà khoa học. Người Phật tử đến với đạo Phật như những con người đi tìm lối thoát cho những vấn nạn của chính thân phận con người, không phải vì những kiến thức khoa học. Thử hình dung một ngày nào đó, một nhà khoa học nổi tiếng tìm đến và nói với chúng ta: "Năm giới mà các ông đang giữ theo đó hoàn toàn không phải do đức Phật chế định. Tôi đã có đầy đủ bằng chứng về điều đó." Chúng ta sẽ phản ứng thế nào với điều đó? Riêng tôi, chắc chắn tôi sẽ đáp lại: "Vâng, xin ông hãy đăng tải điều đó lên các sách khoa học của ông. Còn tôi, tôi đã tự mình thể nghiệm được vô vàn lợi ích từ Năm giới, nên dù ông có chứng minh rằng nó do ai đó nói ra chứ không phải đức Phật, thì đối với tôi cũng sẽ không có gì thay đổi cả. Tôi vẫn sẽ tiếp tục giữ theo Năm giới này."

    Rõ ràng, là người Phật tử chúng ta có thẩm quyền xác tín về Kinh điển của đức Phật cao hơn các nhà khoa học. Đối với họ, yếu tố quyết định "sự thật" chỉ là những văn bản, những di chỉ khảo cổ vô hồn, nhưng đối với chúng ta thì những giá trị tâm linh, những ý nghĩa nhiệm mầu trong các nền tảng giáo lý Bát-nhã, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa... là những giá trị rất sống động, rất thật và có thể giúp ta giải quyết được những vấn nạn khổ đau trong đời sống. Những ai đến với Bát-nhã, Pháp Hoa... như những văn bản không hồn, chắc chắn họ sẽ còn tiếp tục truy tìm nguồn gốc của chúng qua chứng cứ khoa học. Nhưng những ai đã thực sự vượt qua nhiều giai đoạn bế tắc trong đời sống nhờ vào tư tưởng Bát-nhã, Pháp Hoa... thì hoàn toàn không cần đến điều đó. Bằng sự thể nghiệm tự thân, chúng ta có thể xác tín được đó chính là những lời được thuyết dạy bởi một đấng Giác ngộ viên mãn, bởi nó thực sự mang lại lợi lạc vô biên cho người tu tập.

    Thứ hai, lịch sử phát triển của Phật giáo qua 25 thế kỷ với một không gian đang mở rộng đến khắp thế giới đã chứng minh vai trò tích cực của Kinh điển Đại thừa. Những giá trị tích cực đó cũng được chứng minh ngay tại Việt Nam chúng ta, qua hai triều đại Lý - Trần mà sự cai trị đất nước chịu ảnh hưởng rõ rệt từ Phật giáo Đại thừa, với Kinh điển được học hỏi trực tiếp từ Hán tạng vì chưa có bản dịch. Đất nước trong thời kỳ này đã phát triển hết sức ổn định và tốt đẹp, ngay cả giặc ngoại xâm phương Bắc cũng liên tục bị đẩy lùi nhiều lần. Phật giáo Đại thừa đã đào tạo cho dân tộc ta nhiều vị vua anh minh trong cả hai triều Lý, Trần... Nhiều người trong số họ sẵn sàng từ bỏ cả vương quyền để sống đời thoát tục. Khi nhìn lại lịch sử như thế, chúng ta càng thấy rõ không có lý do gì để phải hoài nghi hoặc bác bỏ Kinh điển Đại thừa. Trong hiện tại, nếu có những dấu hiệu không tích cực nào đó của những cá nhân tự nhận là tu theo Đại thừa, chúng ta cần nhận rõ sự lệch lạc của mỗi cá nhân đó, không thể vì thế mà quy lỗi cho Kinh điển Đại thừa. Hơn ai hết, người Phật tử phải tiếp nhận Kinh điển theo đúng tinh thần những lời Phật dạy, nghĩa là phải lấy sự thể nghiệm của tự thân làm yếu tố xác quyết quan trọng nhất.

    Thứ ba, sự soi chiếu dưới ánh sáng của Tứ pháp ấn đã chứng tỏ rằng các Kinh điển Đại thừa hiện đang được lưu hành không có gì đi ngược với lời dạy của đức Phật. Điều này cho thấy có 2 khả năng: hoặc là những kinh ấy do chính đức Phật thuyết dạy, hoặc là đã được những vị uyên thâm về Phật pháp viết ra dựa theo lời Phật dạy. Tuy nhiên, khả năng thứ hai sẽ bị loại trừ bởi tất cả Kinh điển Đại thừa đều được xác tín bằng câu "Như thị ngã văn" (Tôi nghe như thế này). Đây là một lời tuyên thệ nói lên sự thật trước khi ghi chép, thuật lại Kinh văn. Vì thế, chỉ có thể tin chắc đây là lời dạy của Phật, nếu không thì các vị chép kinh đều phạm tội nói dối (vọng ngữ), và họ không có động cơ để làm như vậy, dù là tham danh hay tham lợi, vì cả hai điều ấy đều không có.

    Khi người lãnh đạo đất nước bắt đầu nhậm chức, họ tuyên thệ trước toàn dân. Khi một nhân chứng chuẩn bị làm chứng trước tòa, họ tuyên thệ nói lên sự thật. Rõ ràng, chúng ta có đặt ít nhiều niềm tin vào những lời tuyên thệ ấy, vì đó là lý do để những nghi thức như vậy tồn tại. Thế thì tại sao chúng ta lại không thể đặt niềm tin vào những vị uyên thâm Phật pháp đã ghi chép Kinh điển, khi tư cách đạo đức và tâm linh của họ cao hơn hẳn so với những người phàm tục? Họ không thể am hiểu và hành trì Phật pháp để rồi ngay từ lúc mở đầu kinh văn đã ghi vào một câu nói dối. Vì thế, tôi tin chắc rằng họ chỉ có thể ghi chép lại những điều mà chính họ đã tin chắc là do đức Phật thuyết dạy.

    Khả năng Kinh điển Đại thừa đã được truyền khẩu qua nhiều thế kỷ, đợi đến lúc thích hợp mới xuất hiện dưới dạng văn bản là điều hoàn toàn có thể. Trong thực tế, dòng Kagyu của Phật giáo Tây Tạng được hình thành từ khoảng đầu thế kỷ 12 và vẫn duy trì truyền thống khẩu truyền cho đến ngày nay, tuy họ có đủ điều kiện để ghi chép Giáo pháp. Như vậy, việc Kinh điển Đại thừa được truyền khẩu cho đến thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên vẫn có khả năng là đúng thật.

    Một thực tế khác nữa là chính Kinh tạng Nikāya cũng đã trải qua một giai đoạn truyền khẩu nhiều thế kỷ trước khi được ghi chép thành văn bản vào lần kết tập thứ tư. Trong sách "The Buddha and His Teachings" (Buddhist Publication Society, Sri Lanka - 1980) ngài Venerable Narada Mahathera đã viết về lần kết tập Kinh điển này như sau:

    "About 83 B.C., during the reign of the pious Simhala King Vatta Gāmani Abhaya, a Council of Arahants was held, and the Tipitaka was, for the first time in the history of Buddhism, committed to writing at Aluvihāra in Ceylon."(Xem tại đây.)

    (Vào khoảng năm 83 trước Công nguyên, vào thời đại của vị vua Simhala (Tích Lan) sùng tín là Vatta Gāmani Abhaya, một Hội đồng gồm các vị A-la-hán đã họp lại, và lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, Tam tạng Kinh điển được ghi chép thành văn bản tại Aluvihāra thuộc Ceylon (Tích Lan).)

    Nhiều nguồn cứ liệu đáng tin cậy khác cũng đề cập tương tự. Hơn thế nữa, theo các nhà nghiên cứu thì ngôn ngữ mà đức Phật thực sự đã sử dụng để thuyết giảng Kinh điển không phải tiếng Pali. Các bản Kinh văn Pali thực sự chỉ là những văn bản được chuyển dịch từ một ngôn ngữ ban đầu nào đó mà hiện vẫn chưa thể xác định rõ. Như vậy, danh từ "Nguyên thủy" mà chúng ta đang dùng cũng có những giới hạn nhất định về độ xác tín. Trong sách A Short History of Buddhism (Lược sử Phật giáo), học giả người Đức Edward Conze viết về thời kỳ 500 năm trước Công nguyên của Phật giáo như sau:

    "Suốt trong thời kỳ đầu này, kinh điển chỉ được truyền miệng, và phải cho đến khoảng gần cuối thời kỳ mới bắt đầu có sự ghi chép. Những gì đức Phật đã thật sự nói ra, hầu như không có gì được ghi chép lại ngay. Có thể là vào lúc ấy đức Phật đã giảng dạy bằng ngôn ngữ Ardhamagadhi, nhưng không có Phật ngôn nào được ghi lại bằng ngôn ngữ này. Về những kinh điển được ghi chép sớm nhất, ngay cả ngôn ngữ được sử dụng vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Những gì chúng ta có chỉ là bản dịch của những kinh điển đầu tiên ấy sang các thứ tiếng Ấn Độ khác, chủ yếu là tiếng Pali, và một hình thức đặc biệt của tiếng Sanskrit dùng riêng cho Phật giáo."(Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, xem tại đây.)

    Như vậy, nếu người Phật tử chúng ta không có khả năng tự mình xác tín vấn đề nguồn gốc Kinh điển thông qua chính sự thể nghiệm hành trì mà luôn phụ thuộc quá nhiều vào những nguồn thông tin khác, thì đến một lúc nào đó, sẽ không tránh khỏi việc có người nghi ngờ ngay cả tính xác thực của Kinh tạng Nikāya. Và những lý do hôm nay được đưa ra để bài xích, bác bỏ Kinh điển Đại thừa thì đến một ngày nào đó sẽ được lặp lại để bác bỏ Kinh tạng Nikāya. Khi ấy, Phật giáo sẽ có nguy cơ trắng tay sau nhiều thế kỷ đã tồn tại và phát triển.

    Tóm lại, trong bốn khuynh hướng kể trên khi tiếp cận với Kinh điển Đại thừa, người Phật tử có thể tùy theo sự nhận thức riêng của mỗi người để lựa chọn, nhưng hoàn toàn không nên rơi vào khuynh hướng thứ nhất, bởi đây chính là sự sai lầm cực đoan nguy hại nhất cho Chánh pháp. Tiêu biểu cho sự lan truyền của khuynh hướng này quý vị có thể xem tại đây và tự đưa ra nhận định của riêng mình.

    Phần 2. Những mối nghi về nội dung Kinh điển

    Phần lớn chúng ta khi lần đầu tiên tìm đến đạo Phật đều thường là với một tách trà đầy ắp và một dạ dày rỗng tuếch. "Tách trà đầy ắp" là vô số những tri thức, kiến giải, khái niệm và định kiến mà ta đã tích lũy qua nhiều năm trong cuộc sống thế tục. Và cái "dạ dày rỗng tuếch" là để chỉ cho sự đói thiếu chân lý vì chưa từng được tiếp cận với những lời Phật dạy.

    Vì thế, nếu may mắn được tiếp cận với kho tàng Kinh điển, giáo lý, chúng ta sẽ như người đói khát đứng trước một bàn tiệc đầy ắp những món ngon vật lạ. Mỗi một món ăn đều có thể giúp ta qua cơn đói, nhưng đồng thời mỗi món ăn trên bàn tiệc linh đình ấy cũng đều có những màu sắc, hương vị riêng, và trong số đó có không ít những món xa lạ mà ta chưa từng biết. Điều tất nhiên là sau khi thỏa mãn cơn đói bằng những món quen thuộc, ta sẽ bắt đầu muốn thử qua cho hết những món lạ hơn, ngon hơn.

    Cũng vậy, giáo lý của đạo Phật hết sức phong phú, đa dạng và có đủ mọi tầng bậc. Với người mới bước vào đạo Phật, chỉ cần nghiêm cẩn giữ theo Năm giới là chúng ta đã bắt đầu thấy ngay vô vàn lợi ích trong cuộc sống gia đình cũng như trong quan hệ xã hội. Tiếp theo, chúng ta có nhiều pháp môn để chọn lựa cho việc hành trì nhằm an định tâm thức, dừng lắng những tư tưởng lăng xăng cũng như bắt đầu đối trị với những tâm hành phiền não như tham lam, sân hận, si mê...

    Phác đồ chung của bước đầu tu tập thì chỉ đơn giản thế, nhưng đi vào thực tế thì muôn người muôn vẻ, nên kinh nghiệm tu tập của mỗi người trải qua cũng đều khác biệt. Và ngay khi có được chút thành quả trong tu tập, chẳng hạn như được an ổn hơn, nhận thức sáng suốt hơn so với trước đây, thì cơn đói chân lý sẽ lắng xuống và "tách trà đầy ắp" phát huy tác dụng. Ta sẽ bắt đầu phân tích những gì gặp được trong Kinh điển và so sánh với khối tri thức "đồ sộ" mà ta đã từng tích lũy. Trong giai đoạn này, cũng sẽ có không ít người chạy theo con đường truy tầm kiến thức, rơi vào việc nghiên tầm thiên kinh vạn quyển mà quên đi tầm quan trọng của thực tế hành trì.

    Những ai có thể xác lập được niềm tin hoàn toàn vào Kinh điển thông qua thực tế hành trì, người ấy có nhiều cơ may "làm trống" tách trà tri thức để tiếp thu và trực nhận dễ dàng hơn những lời dạy từ Kinh điển. Ngược lại, người học Phật thường phải trải qua một cuộc đấu tranh dai dẳng giữa một bên là những tri thức, định kiến thế tục và một bên là những chân lý hướng đến giải thoát.

    Tuy vậy, chúng ta cần biết rằng, sự dung hợp hài hòa là điều khả thi và thậm chí còn là hệ quả tất nhiên khi ta nắm hiểu được yếu chỉ trong Kinh điển. Nhưng đối với người mới bước đầu học Phật thì những bước loanh quanh để giải quyết vấn nạn "xung khắc" này thường phải kéo dài qua một thời gian nhất định. Nếu may mắn có được một bậc minh sư hoặc thiện tri thức dẫn dắt, ta có thể rút ngắn được quãng đường này. Bằng không, ta vẫn phải tự mình nỗ lực để vượt qua. Người học Phật nếu hiểu được điều này thì dù trong những giai đoạn có hoang mang, nghi ngại cũng không đánh mất niềm tin vào Tam bảo.

    Mặt khác, dù tham muốn háo hức đến đâu trước một bàn tiệc linh đình, ta cũng không thể thưởng thức hết tất cả các món ngon. Và vì thế ta cần biết khôn ngoan khi chọn lựa. Được ăn ngon, ăn no là đủ để thỏa mãn nhu cầu, nhưng nếu muốn ăn cho thật nhiều, chẳng những vẫn không sao ăn hết mà còn có nguy cơ khổ vì bội thực.

    Đức Phật dạy rất nhiều pháp môn trong Kinh điển, thậm chí càng học ta càng nhận ra con số đó nhiều hơn nữa. Tôi đã từng thấy có những người tỏ ra uyên bác khi ngồi đếm ngón tay kể ra tất cả các pháp môn trong Phật giáo Đại thừa và tưởng rằng như vậy là đã hiểu hết được những gì ghi chép trong Kinh điển, nhưng không biết rằng chính điều đó cho thấy họ chỉ là kẻ đứng xa nhìn, chưa có chút thể nghiệm thực sự nào.

    Đức Phật không hề muốn làm khổ chúng ta khi truyền dạy "quá nhiều" pháp môn như thế, mà sự thật là vì cần phải có như thế mới đáp ứng được nhu cầu đa dạng của tất cả chúng sinh. Trong Kinh điển Ngài từng dạy rằng: "Vì chúng sinh có vô số phiền não nên cần có vô số pháp môn để đối trị." Các pháp môn trong đạo Phật giống như dược liệu chứa trong một kho thuốc lớn, tuy rất nhiều nhưng chỉ phân phối đến mỗi người bệnh một số liều cần thiết mà thôi.

    Mỗi chúng ta đều là người đang mang bệnh phiền não. Hãy đến với Kinh điển trên tinh thần "tùy bệnh chọn thuốc", đừng tham muốn quá nhiều như những món ăn trên bàn tiệc kia, bởi ta sẽ không tiêu hóa được mà còn có thể chết vì bội thực. Một bậc minh sư cũng sẽ không làm gì khác hơn là "tùy bệnh cho thuốc", bởi khi đã có thuốc rồi thì việc uống thuốc sẽ là việc riêng của mỗi người. Chính đức Phật cũng từng nói rằng: "Ta như lương y tùy bệnh cho thuốc, nếu người bệnh không chịu uống thuốc, không phải lỗi nơi ta."

    Những gì nêu trên là nhận thức thức tối thiểu có thể giúp chúng ta giảm nhẹ được rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với Kinh điển. Thứ nhất, khi hiểu được như thế, chúng ta sẽ có sự chú tâm "làm trống tách trà tri thức" khi đến với Kinh điển, và điều đó giúp ta có được một sự trực nhận khách quan hơn đối với những ý nghĩa sâu xa, mới mẻ. Thứ hai, khi đến với Kinh điển trên tinh thần "tùy bệnh chọn thuốc" , ta sẽ không mất thời gian "lang thang" giữa khu rừng Kinh điển mênh mông để rồi phải cảm thấy hoang mang lạc lõng. Thay vì vậy, ta sẽ sớm biết chú tâm tìm kiếm cho mình một nội dung thích hợp để chuyên tâm nghiền ngẫm và tu tập hành trì, thay vì chú trọng vào quá nhiều điều không thực sự ích lợi cho sự tu tập của chính mình. Ta biết rõ bệnh mình đang cần thực sự uống thuốc chứ không phải chỉ lo việc "sưu tập thuốc".

    Việc học hỏi Kinh điển để áp dụng vào đời sống tu tập chắc chắn không thể là một tiến trình dễ dàng. Và trong tiến trình ấy, chúng ta không tránh khỏi có những lúc sanh khởi tâm nghi vì chưa hiểu rõ được một điều nào đó ghi chép trong Kinh điển. Chúng ta không nên tự trách mình khi có những lúc khởi nghi như thế. Trái lại, việc khởi tâm nghi còn có thể là dấu hiệu cho thấy một nhận thức tích cực, bởi nếu chỉ biết lặp lại những điều ghi chép trong Kinh điển mà không tự nhận thức được thấu đáo, ta sẽ không có khả năng áp dụng một cách đúng đắn lời dạy của đức Phật vào cuộc sống. Mặc dù vậy, nếu ta không nhận hiểu đúng thì trong rất nhiều trường hợp, những mối nghi này sẽ gây chướng ngại cho sự tu tập.

    Những vấn đề làm ta khởi nghi tuy rất đa dạng, nhưng có thể lược phân ra hai loại thường gặp nhất. Thứ nhất là nghi về những từ ngữ khó hiểu, và thứ hai là nghi về những ý nghĩa quá sâu xa, uyên áo.

    a. Khởi nghi vì những từ ngữ khó hiểu

    Có nhiều nguyên nhân khiến cho từ ngữ trong Kinh điển khó hiểu đối với chúng ta. Nếu chúng ta lần đầu tiên tìm hiểu về một phần giáo lý nào đó thì sự chưa quen thuộc với lãnh vực này sẽ là một nguyên do. Vì thế, việc kết hợp đọc Kinh điển với tra cứu các thuật ngữ Phật học gần như là điều bắt buộc. Phần đông chúng ta đọc Kinh điển qua các bản dịch, và nếu dịch giả có sự quan tâm đến khó khăn này của người đọc, vị ấy sẽ đưa vào bản dịch nhiều chú giải cho các thuật ngữ, nhờ đó người đọc sẽ được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, dù sao thì khó khăn loại này vẫn là một thách thức tất yếu mà chúng ta phải nỗ lực vượt qua, bởi khi diễn đạt những phạm trù giáo lý, người dịch có rất nhiều khi buộc phải sử dụng các thuật ngữ mà không có lựa chọn nào khác.

    Một nguyên nhân khác có thể là do định kiến. Khi lần đầu tiên tiếp xúc với một khái niệm nào đó trong giáo lý, nếu chúng ta có sự nhận hiểu không đúng hoặc phiến diện từ trước, thì khi gặp lại cùng những khái niệm ấy trong Kinh điển, ta có khuynh hướng áp đặt cách giải thích sẵn có của mình, và do đó làm cho cách hiểu câu kinh trở nên sai lệch khiến ta sinh nghi. Vì thế, sự thận trọng trong tra cứu cũng như tham học với các bậc thầy, các vị thiện tri thức là điều cần thiết để giảm thiểu những mối nghi loại này.

    Nguyên nhân thứ ba là do những sai sót trong ghi chép, in ấn. Kinh điển được truyền lại qua nhiều thế kỷ, khả năng xảy ra sai sót là điều không thể tránh. Vì thế, đôi khi chúng ta có thể nhận ra một từ ngữ nào đó quá khó hiểu hoặc không thích hợp với ý nghĩa câu kinh. Việc tra cứu hoặc tham học để giải quyết mối nghi này phức tạp hơn nhiều, vì nhất thiết phải dựa vào những nguồn cứ liệu chắc chắn cũng như có một khả năng chuyên môn trong thẩm định. Nếu không đủ sức làm việc này, chúng ta có thể nêu vấn đề lên và tạm gác lại để chờ những người có đủ khả năng sẽ thực hiện việc khảo đính, tuyệt đối không nên chủ quan dựa vào sự nhận hiểu của riêng mình mà tự ý chỉnh sửa Kinh điển.

    Về sự sai sót trong in ấn, có thể xem qua một ví dụ ở đây. Quý vị sẽ tìm thấy câu này:

    "Lại giải thoát tức là pháp vô vi. Ví như thợ gốm làm đồ rồi lại bị bể. Giải thoát chẳng như vậy." (Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 5, Hòa thượng Thích Trí Tịnh Việt dịch.)

    Câu kinh hết sức khó hiểu. Có mối tương quan nào giữa "thợ gốm làm đồ rồi lại bị bể" với sự giải thoát để Kinh văn đưa ra ví dụ này, và vì sao "làm đồ rồi lại bị bể" ?

    Truy tìm trong nguyên bản Hán văn, ta thấy câu kinh này được dịch từ câu: "又解脫者即無為法。譬如陶師作已還 。解脫不爾。" (Hựu giải thoát giả tức vô vi pháp. Thí như đào sư tác dĩ hoàn phá. Giải thoát bất nhĩ.)

    Bản Việt dịch đã đi khá sát với nguyên văn, không có gì sai lệch. Tuy nhiên, sự khó hiểu của câu kinh khiến ta khởi sinh nghi ngại vì không thể hiểu theo bất kỳ ý nghĩa nào cho thích hợp. Chúng tôi đã ôm mối nghi này cho đến khi tìm được câu kinh tương đương trong kinh Đại Bát Nê-hoàn do ngài Pháp Hiển Hán dịch từ cùng một Phạn bản với kinh Đại Bát Niết-bàn. Ở vị trí của câu kinh vừa dẫn, ngài Pháp Hiển đã dịch sang Hán ngữ là: "譬如陶家埏埴作器有作有壞。 (Thí như đào gia duyên thực tác khí, hữu tác hữu hoại. – Ví như thợ lò gốm dùng đất sét làm ra các món đồ dùng, có làm ra ắt có hư hoại. )

    Như vậy là rõ ràng bản kinh Đại Bát Niết-bàn của ngài Đàm-vô-sấm khi khắc lại đã thiếu đi ít nhất là 4 chữ, khiến cho câu văn trở nên tối nghĩa. Sau khi điều chỉnh được sai sót này, quý vị sẽ thấy chúng tôi dịch câu kinh này ở đây như sau:

    "Lại nữa, giải thoát tức là pháp vô vi. Ví như người thợ lò gốm làm ra các món đồ, [về sau ắt] phải vỡ nát, hư hoại. Giải thoát không phải như thế."

    Ở đây câu kinh muốn nhấn mạnh đến tính chất vô thường, "hữu tác hữu hoại" của sự vật. Nhưng quý vị có thể thấy, chúng tôi hoàn toàn không sửa lại Kinh văn khi dịch từ bản Hán ngữ của ngài Đàm-vô-sấm, mà chỉ căn cứ vào sự nhận hiểu đúng hơn sau khi tham khảo bản Hán ngữ của ngài Pháp Hiển để thêm vào mấy chữ cho rõ nghĩa, nhưng vẫn đặt những chữ thêm vào ấy trong ngoặc vuông để phân biệt rõ đó là phần được chúng tôi thêm vào. Cách làm này vừa giúp người đọc hiểu được ý kinh, vừa trung thành với nguyên tác. Trong trường hợp sự nhận hiểu của chúng tôi có sai lệch, thì người đời sau khi xem lại vẫn có thể căn cứ nguyên tác để điều chỉnh cho đúng. Nếu chúng tôi chủ quan cho rằng sự tra khảo như trên là chắc chắn đúng và sửa lại Kinh văn, thì về sau sẽ không còn ai có khả năng phát hiện để điều chỉnh nếu cách hiểu của chúng tôi có sai lầm, vì văn bản đã bị cố định trong hình thức mới. Khi có nghi ngại đối với Kinh văn, chúng tôi tin rằng cần phải hết sức thận trọng như thế.

    Nguyên nhân thứ tư có thể làm khởi sinh nghi ngại là do người dịch kinh không hiểu đúng ý kinh. Chẳng hạn, khi đọc bản dịch Kinh Đại Bát Niết-bàn tại đây, quý vị sẽ tìm thấy câu kinh này:

    "Chúng con chưa thoát khỏi năm mươi bảy phiền não trói buộc mà sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ, vào với Niết Bàn?" (Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, Cư sĩ Tuệ Khai Việt dịch, Hòa thượng Thích Đỗng Minh chứng nghĩa)

    Câu kinh này khiến chúng tôi nghi ngại ở điểm là chưa từng nghe bất cứ kinh điển, luận giải nào khác nói đến 57 phiền não! Với mối nghi này, chúng tôi đã đối chiếu nguyên bản Hán văn và cả thảy 5 bản dịch khác nhau, bao gồm 3 bản Việt dịch và 2 bản dịch từ Hán ngữ sang Anh ngữ. Bản Hán văn ghi như sau:

    "我未如是脫五十七煩惱繫縛。云何如 便欲放捨入於涅槃。" (Ngã vị như thị thoát ngũ thập thất phiền não hệ phược, vân hà Như Lai tiện dục phóng xả nhập ư Niết-bàn?)

    Như vậy, "ngũ thập thất" dịch là 57 thì dường như không sai. Trong số các bản dịch thì Hòa thượng Thích Trí Tịnh bỏ hẳn câu này không dịch, còn lại 4 vị kia đều dịch như nhau - hai bản Anh ngữ đều ghi là "fifty-seven illusions". Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn không thể giải tỏa mối nghi này, vì nếu không kể ra được đủ 57 loại phiền não thì câu kinh này có thể xem như hoàn toàn vô nghĩa.

    Kiên trì tiếp tục tiến trình tra cứu, tìm kiếm thông tin, cuối cùng chúng tôi đọc thấy trong một bản sớ giải cách giải thích như sau: "五十七煩惱者, 三種煩惱也。 (Ngũ thập thất phiền não giả, tam chủng phiền não dã. – Năm mươi bảy phiền não, đó là chỉ cho 3 loại phiền não.) Và một bản khác nói rõ hơn: "五五蓋也。十十 纏也。七七漏也。" (Ngũ, ngũ cái dã; thập, thập triền dã; thất, thất lậu dã.)

    Như vậy, rõ ràng ở đây không thể hiểu là 57 phiền não, mà là 3 nhóm phiền não bao gồm ngũ cái, thập triền và thất lậu. Nhưng kinh văn ngày xưa không sử dụng các dấu ngắt câu, nên thay vì "ngũ, thập, thất phiền não", các dịch giả tiền bối đều đã nhận hiểu nhầm là "ngũ thập thất phiền não".

    Những trường hợp tinh tế như vậy, chúng ta cũng khó trách người dịch kinh, nên tốt nhất vẫn là nên đọc Kinh văn với một sự thẩm xét sáng suốt để có thể nhận ra ngay những chỗ chưa hoàn toàn hợp lý.

    Tuy nhiên, những ví dụ trên cũng cho thấy quá trình nhận hiểu, giải tỏa những mối nghi khi đọc Kinh điển không hề đơn giản. Chúng ta không thể chỉ dựa vào một vài nguồn cứ liệu hoặc ý nghĩa được ghi trong các từ điển để xác định và điều chỉnh ý nghĩa Kinh văn. Quá trình này chẳng những cần được mở rộng tối đa đến các bản văn liên quan, mà còn phải hết sức khách quan, thận trọng, chắt lọc các nguồn thông tin tìm được trước khi đi đến quyết định điều chỉnh một cách hiểu từ ngữ nào đó trong Kinh điển. Nếu tự thấy những nỗ lực của mình chưa thể giải quyết rốt ráo được vấn đề, chúng ta nên tham vấn các vị tôn túc, thiện tri thức và chờ đợi một ai đó có đủ khả năng làm rõ, thay vì nóng vội và tự mình chỉnh sửa theo những hiểu biết, suy diễn chủ quan.

    Thông tin trong các từ điển chỉ nên được xem như nguồn tham khảo, ngay cả các từ điển Phật học cũng thế, tuyệt đối không được xem đó là căn cứ để điều chỉnh Kinh văn. Những người biên soạn từ điển cũng có giới hạn nhất định và sai sót là chuyện không thể tránh khỏi, ngay cả với những từ điển có uy tín lớn như Từ điển Phật Quang, huống chi là các từ điển Hán Việt thông thường. Chúng tôi đã từng phát hiện một sai lầm hết sức nghiêm trọng trong Từ điển Phật Quang, bản Hán ngữ, tại mục từ Nam Bản Niết-bàn kinh, trang 3738, nội dung như sau:

    南本涅槃經: 又作大般涅槃經。收於大正藏第十二 。北涼曇無讖所譯之涅槃經四十卷, 其文粗樸,品目過略,後由南朝劉宋 沙門慧嚴、慧觀與謝靈運等,依法顯 六卷泥洹經將之加以刪訂修治,文辭 練,共成二十五品,三十六卷。... ...〔梁高僧傳卷七慧嚴傳〕(Nam bản Niết-bàn kinh: Hựu tác Đại Bát Niết-bàn kinh, thu ư Đại chính tạng đệ thập nhị sách. Bắc Lương Đàm-vô-sấm sở dịch chi Niết-bàn kinh tứ thập quyển, nhân kì văn thô phác, phẩm mục quá lược, hậu do Nam triều Lưu Tống Sa-môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán dữ Tạ Linh Vận đẳng, y Pháp Hiển chi lục quyển Nê-hoàn kinh tương chi gia dĩ san đính tu trị, văn từ tinh luyện, cộng thành nhị thập ngũ phẩm, tam thập lục quyển... ... (Lương Cao tăng truyện, quyển thất, Tuệ Nghiêm truyện)

    Dịch nghĩa:

    Nam bản Niết-bàn kinh: Cũng gọi là Đại bát Niết-bàn kinh, được đưa vào Đại chánh tạng, tập 12. Bản dịch kinh Niết-bàn 40 quyển vào đời Bắc Lương của ngài Đàm-vô-sấm, vì văn chương thô thiển mộc mạc, phẩm mục quá sơ sài, [nên] về sau đến đời Lưu Tống Nam triều mới được nhóm các sa-môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, [cư sĩ] Tạ Linh Vận... cùng dựa theo [bản dịch] kinh Nê-hoàn 6 quyển của Pháp Hiển để thêm vào, san định sửa chữa, văn chương câu cú thành tinh luyện, cả thảy là 25 phẩm, 36 quyển... ... [Dẫn theo] Lương Cao tăng truyện, quyển 7, truyện Tuệ Nghiêm.)

    Tuy nhiên, trong quá trình Việt dịch Kinh Đại Bát Niết-bàn từ bản Hán dịch của ngài Đàm-vô-sấm, chúng tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi nhận thấy hoàn toàn không có lý do gì để Từ điển Phật Quang cho rằng bản dịch này "văn chương thô thiển mộc mạc, phẩm mục quá sơ sài" , cũng như khi so sánh đối chiếu từng trang giữa Nam bản và Bắc bản, chúng tôi xác định rõ là nhóm của ngài Tuệ Nghiêm không hề làm những việc "san định sửa chữa, văn chương câu cú thành tinh luyện" như nội dung từ điển đã ghi. Công việc chủ yếu được thực hiện trong lần khắc in lại đời Nam Tống là căn cứ bản dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển (mà chúng tôi vừa dẫn ở đoạn trên) để phân chia lại các phẩm mục. Do đó mà từ 40 quyển trong lần in đầu, khi khắc in lại chỉ còn 36 quyển. Còn việc chỉnh sửa từ ngữ hầu như rất ít, không đáng kể.

    Để làm rõ mối nghi này, chúng tôi đã theo dẫn chú của Từ điển Phật Quang để tìm đọc trong quyển 7 sách Lương Cao tăng truyện, phần truyện ngài Tuệ Nghiêm. Trong sách này, chúng tôi tìm thấy nội dung liên quan như sau:

    "嚴迺共慧觀謝靈運等。依泥洹本加之 目。文有過質頗亦治改。" (Nghiêm nãi cộng Tuệ Quán, Tạ Linh Vận đẳng, y Nê-hoàn bản gia chi phẩm mục, văn hữu quá chất phả diệc trị cải.)

    Dịch nghĩa:

    [Tuệ] Nghiêm mới cùng với các vị Tuệ Quán, Tạ Linh Vận... y theo bản kinh Nê-hoàn mà thêm vào các phẩm mục, văn chương có chỗ nào lệch lạc cũng chỉnh sửa lại.

    Như vậy, quả nhiên theo sách này thì công việc của nhóm ngài Tuệ Nghiêm chủ yếu là "thêm vào các phẩm mục" như chúng tôi đã nhận biết, còn việc chỉnh sửa chỉ xuất hiện ở một vài nơi không đáng kể, hoàn toàn không giống như mô tả của Từ điển Phật Quang. Có lẽ thay vì hiểu đúng như trong sách ghi là "y Nê-hoàn kinh gia chi phẩm mục" thì những người biên soạn từ điển chỉ đọc câu này là "y Nê-hoàn kinh gia chi". Điều kỳ lạ là cách đọc hiểu sai lầm này lại thấy xuất hiện ở đầu các bản kinh thuộc Nam bản trong Đại Chánh tạng với dòng chữ này: 宋代 沙門慧嚴等依泥洹經加 之 - Tống đại Sa-môn Tuệ Nghiêm đẳng y Nê-hoàn kinh gia chi.

    Đó là một ví dụ để cho thấy việc không thể đặt niềm tin hoàn toàn vào các từ điển, cho dù là những từ điển rất có uy tín.

    b. Khởi nghi vì những ý nghĩa sâu xa, uyên áo

    Những nghi vấn loại này thường liên quan nhiều đến "tách trà tri thức" luôn đầy ắp của chúng ta. Thường thì ta rất ít khi ý thức được việc cần phải "làm trống" nó trước khi tiếp nhận những tư tưởng mới từ Kinh điển. Những tri thức thế tục qua một thời gian dài đã chiếm chỗ trong tâm trí ta và khẳng định giá trị nhất định của chúng. Nếu tiếp tục chấp nhận những giá trị ấy thì ta không cần thiết phải thay đổi gì cả. Nhưng vấn đề ở đây là, khi cảm thấy cần thiết phải tìm đến với đạo Phật thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc ta đã nhận ra những bế tắc hay bất ổn nào đó trong cuộc sống. Nói cách khác, nếu không bắt đầu nhận dạng được khổ đau trong đời sống thì chúng ta sẽ chưa cảm thấy cần đến giáo lý của đạo Phật.

    Vì thế, khi đến với đạo Phật, đến với Kinh điển, chúng ta cũng đồng thời có nhu cầu chuyển hướng tâm thức để tìm một giải pháp cho những khổ đau trong đời sống. Nếu ta vẫn loay hoay theo đường hướng cũ, thì việc đọc Kinh điển chẳng qua cũng chỉ tích lũy thêm cho ta một khía cạnh tri thức lý luận mới, nhưng đó lại không phải là mục đích của Kinh điển. Những người đọc Kinh điển để suy diễn, lý luận, tranh cãi về phương diện này hay phương diện khác, hầu hết đều rơi vào cách tiếp cận sai lầm này.

    Khi xác định mục đích học hỏi Kinh điển là để có được những giải pháp tu tập áp dụng vào đời sống nhằm chuyển hóa khổ đau, mang lại lợi lạc cho bản thân và tha nhân, chúng ta nhất thiết phải "làm trống" đi tách trà tri thức đầy ắp của mình. Có như vậy, ta mới có thể dễ dàng trực nhận được những giá trị lợi lạc vô song từ Kinh điển.

    Cũng trên tinh thần đó, người học Kinh điển sẽ tránh được tình trạng sa đà vào sự nghiên tầm lý luận quá nhiều mà không chú trọng đúng mức vào công phu hành trì, tu tập. Chính trong ý nghĩa này mà kinh Duy-ma-cật có dạy rằng: "Tùy kỳ phát hành tắc đắc thâm tâm. Tùy kỳ thâm tâm tắc ý điều phục. Tùy kỳ điều phục tắc như thuyết hành." (隨其發行則得深心。隨其深心。則意 伏。隨其調伏則如說行。)

    Từ chỗ khởi làm ắt được lòng tin sâu vững. Từ lòng tin sâu vững ắt tâm ý được điều phục. Do tâm ý được điều phục ắt có thể làm đúng theo như lời được thuyết dạy.

    Nếu nhận hiểu trình tự tu tập như trong câu kinh này, chúng ta sẽ thấy được tầm quan trọng của việc khởi sự tu tập thay vì chỉ loanh quanh trong vòng lý luận.

    Dù vậy, việc khởi tâm nghi khi gặp những câu kinh mang ý nghĩa thâm áo cũng là điều khó tránh khỏi. Trong trường hợp đó, chúng ta cần biết phân biệt giữa sự "nghi" vì chưa hiểu được huyền nghĩa là khác với sự "ngờ vực" vì cho rằng những điều trong kinh có khả năng sai lầm hoặc không hợp lý, không thể đặt niềm tin. Tâm nghi đúng đắn như thế sẽ mở ra cho chúng ta một khả năng tiến xa hơn khi giải được mối nghi, trong khi sự ngờ vực lại là một trong những nguyên nhân che chướng, làm trở ngại con đường tu tập của chúng ta.

    Để hiểu thêm về trường hợp khởi nghi vì những ý nghĩa sâu xa, uyên áo trong Kinh điển, chúng tôi xin nêu trường hợp của đạo hữu Tâm Tịnh được trình bày chi tiết tại đây. Mời quý vị đọc qua trước khi xem tiếp phần bên dưới để có thể dễ dàng theo dõi những trích dẫn của chúng tôi.

    Câu văn khiến cho đạo hữu Tâm Tịnh khởi nghi là một câu do Lục tổ Huệ Năng cảm thán nói ra ngay sau khi đạt ngộ nhờ được nghe giảng kinh Kim Cang. Câu ấy như sau:

    "何期自性能生萬法。" (Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp.)

    Trước hết, cần cải chính một vài thông tin trong bài viết của đạo hữu Tâm Tịnh. Trong link đầu bài dẫn đến bản dịch ở trang www.doko.vn có một sai lệch là người đăng sách đã trích câu mở đầu trong bản dịch của thầy Mãn Giác để lên đầu trang, trong khi bên dưới lại là bản dịch của Cố học giả Đoàn Trung Còn và tôi. Do đó đạo hữu Tâm Tịnh có sự hiểu lầm rằng chúng tôi đã dịch "từ bản chữ Hán được tìm thấy ở động Đôn Hoàng". Thật ra, bản dịch của chúng tôi là dịch từ bản Hán văn trong Càn Long tạng và Đại Chánh tạng, nội dung có nhiều chỗ khác biệt so với Đôn Hoàng tả bản (bản chép tay tìm được ở Đôn Hoàng) mà thầy Thích Mãn Giác chọn dịch.

    Thứ hai, bản dịch của thầy Mãn Giác là dịch từ bản Hán văn tìm được ở Đôn Hoàng, không phải dịch từ bản tiếng Anh của Yampolsky. Đạo hữu Tâm Tịnh đã biết việc này và có đính chính trong thư gửi cho tôi, nhưng tôi thấy vẫn cần nêu ra ở đây để tránh sự hiểu lầm cho quý độc giả. Ngoài ra còn một điều quan trọng hơn nữa là, do bản tiếng Anh của Yampolsky và bản Việt dịch của thầy Mãn Giác đều dịch từ bản Đôn Hoàng nên không có những đoạn kệ được trích dẫn, chứ không phải các vị cố ý "không dịch đoạn mà có những câu này". Hiện tôi đang có trong tay ảnh chụp của bản chép tay tìm được tại Đôn Hoàng nên có thể xác quyết điều đó. Nội dung này cần nói rõ để tránh sự ngộ nhận rằng do nhận thấy những câu kệ trên có gì đó không đúng Chánh pháp nên các vị đã lược bỏ không dịch.

    Rộng mở Tâm Hồn - Trang kinh chép tay trong tả bản Đôn Hoàng, cho thấy không có bài kệ được chúng ta bàn đến ở đây.

    Dòng kinh thứ 3 đọc ngược từ bên phải qua, 4 chữ dưới cùng là "thuyết Kim Cang Kinh".
    Dòng kinh thứ 4, từ trên đọc xuống là: "Huệ Năng nhất văn ngôn hạ tiện ngộ, kỳ dạ thọ pháp, nhân tận bất tri, tiện truyền Đốn pháp..."

    Đây là vị trí xuất hiện những câu cảm thán của Lục Tổ Huệ Năng, nhưng trong bản kinh chép tay này hoàn toàn không có. Thầy Mãn Giác đã dịch theo bản này.

    Về câu kệ làm khởi sinh tâm nghi của đạo hữu Tâm Tịnh, nội dung nghi tình gồm có 2 ý chính. Thứ nhất, liệu những người Việt dịch có dịch đúng ý kinh hay không? Trong trường hợp dịch sai, thì việc đương nhiên là phải nhận sai để chỉnh sửa lại cho đúng, và vấn đề sẽ không còn gì để bàn tiếp. Nhưng nếu sự chuyển dịch không có gì sai thì do đó sẽ nảy sinh ý thứ hai là, liệu hàm ý của câu kệ này có đúng với Chánh pháp hay không? Có mâu thuẫn với những câu kệ trước nó hay không?

    Có một thực tế là hiện nay trong số những người dịch kinh Pháp Bảo Đàn, ngoài tôi ra thì tất cả các vị khác đều đã qua đời. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là tôi có thẩm quyền lên tiếng thay cho các dịch giả khác, mà tất cả đều là những bậc tiền bối. Để tránh sự ngộ nhận này nên trước hết xin nêu rõ rằng những gì trình bày ở đây chỉ là ý kiến của riêng tôi mà thôi.

    Trước khi trình bày ý kiến của mình về những gì đạo hữu Tâm Tịnh đã nêu, tôi xin quay lại một chút với nội dung chúng ta đang bàn, về việc khởi sinh lòng nghi khi đọc Kinh điển vì gặp phải những ý nghĩa sâu xa, uyên áo mà mình chưa đủ sức hiểu hoặc thấy là không hợp lý. Ở đây, tôi thực sự cảm ơn đạo hữu Tâm Tịnh đã cho tôi một ví dụ sinh động để trình bày những gì tôi muốn đề cập đến trong bài viết này, về những điều nên làm khi người Phật tử gặp những trường hợp khởi tâm nghi khi đọc Kinh điển. Những gì đạo hữu đã làm trong trường hợp này cũng chính là những gì tôi muốn nhắn gửi đến người học Phật khi đọc Kinh điển.

    Thứ nhất, việc khởi tâm nghi không có gì sai trái, thậm chí còn là yếu tố cần thiết để giúp ta tiến tới trên đường học đạo. Nhưng chỉ nên "nghi" mà không nên "ngờ vực" như tôi đã giải thích ở phần trên. Từ vấn đề có nghi vấn đó, chúng ta nên nỗ lực tìm kiếm thông tin liên quan bằng mọi phương tiện có thể được, để thông qua đó có thể làm rõ hơn vấn đề mà chúng ta đang nghi. Đây chính là điều đạo hữu Tâm Tịnh đã làm, được phản ánh rất rõ trong bài viết của đạo hữu.

    Thứ hai, tuy tìm kiếm thông tin nhưng vẫn chỉ nên xem đó như những nguồn tham khảo, không nên vội tin vào chỉ riêng một nguồn thông tin nào đó để vội vã đưa ra những chỉnh sửa đối với Kinh điển. Đây cũng là điều mà đạo hữu Tâm Tịnh đã làm khi đọc qua và trích dẫn rất nhiều thông tin nhưng không vội vã đi đến kết luận.

    Thứ ba, nếu có thể thì nên tham khảo ý kiến nhiều người, các bậc tôn túc, các vị thiện tri thức... để cùng nhau suy xét tìm câu giải đáp. Bản thân người có nghi tình tuy có thể đề xuất câu trả lời nhưng không cố chấp xem đó là giải pháp cuối cùng, mà chỉ nêu ra để rộng đường thảo luận. Đây cũng là điều đạo hữu Tâm Tịnh đã làm khi công khai nghi vấn của mình thành một "open case" trên Thư viện Hoa Sen để lắng nghe ý kiến của tất cả mọi người, mạnh dạn đề xuất các hướng giải đáp nhưng vẫn tha thiết mong đợi ý kiến của mọi người. Đạo hữu cũng đã có thư riêng cho tôi trình bày vấn đề này. Tôi hết sức trân trọng những suy nghĩ và việc làm như thế của đạo hữu.

    Bây giờ, tôi xin trình bày một vài ý kiến về vấn đề đạo hữu Tâm Tịnh đã nêu. Trước hết câu kệ được đề cập: "何期自性能生萬法。" (Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp.) đã xuất hiện trong bối cảnh toàn văn như sau:

    祖以袈裟遮圍,不令人見。為說金剛 。至應無所住而生其心,惠能言下大 。一切萬法不離自性。遂啟祖言,何 期自性本自清淨。何期自性本不生滅 何期自性本自具足。何期自性本無動 。何期自性能生萬法。 (Tổ dĩ cà-sa già vi, bất linh nhân kiến. Vị thuyết Kim Cang Kinh, chí ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.’ Huệ Năng ngôn hạ đại ngộ: nhất thiết vạn pháp, bất ly tự tánh. Toại khải Tổ ngôn: ‘Hà kỳ tự tánh bản tự thanh tịnh! Hà kỳ tự tánh bản bất sanh diệt! Hà kỳ tự tánh bản tự cụ túc! Hà kỳ tự tánh bản vô động diêu! Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp!’)

    Dịch nghĩa:

    "Tổ lấy áo cà-sa che quanh, chẳng cho ai trông thấy, rồi giảng kinh Kim Cang cho nghe. Đến câu ‘Nên sanh tâm từ nơi chỗ chẳng trụ vào đâu cả.’ Huệ Năng vừa nghe liền đại ngộ, hiểu rằng hết thảy muôn pháp chẳng rời tự tánh. Liền bạch Tổ rằng: ‘Ngờ đâu tự tánh vốn tự thanh tịnh. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng sanh diệt. Ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng lay động. Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp.’"

    Trong văn cảnh này, câu "Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp" được Việt dịch thành "Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp" là chính xác, không có gì sai lệch, cả về phương diện ngữ nghĩa cũng như văn cảnh.

    Về ngữ nghĩa, câu này không quá phức tạp, nên với những chữ Hán xuất hiện trong câu như thế thì phải Việt dịch như thế, có thể nói là một trong những câu khá đơn giản về cấu trúc và từ ngữ, không có vấn đề ẩn ý hay đa nghĩa để chúng ta phải cân nhắc nhiều. Đây cũng chính là lý do vì sao các vị dịch giả tiền bối đều dịch giống như nhau, không có khác biệt lớn. Chỉ khi phân tích đến mức độ tinh tế hơn, ta mới thấy chữ năng (能) trong câu này có 3 lựa chọn và các dịch giả hầu như chỉ khác nhau ở sự lựa chọn này.

    Lựa chọn thứ nhất, hiểu "năng" là "khả năng, có thể". Sư cô Trí Hải và Thiền sư Minh Trực chọn cách hiểu này: Nào ngờ tự tánh có thể sanh muôn pháp / Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp."

    Lựa chọn thứ hai, hiểu "năng" là "thường xuyên, hay xảy ra". Tiếng Việt nói "năng thăm năng viếng" chẳng hạn, là dùng theo nghĩa này của chữ năng này. Thầy Duy Lực chọn cách hiểu này: "Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp."

    Lựa chọn thứ ba, hiểu "năng" là "khả năng tự nhiên, biết làm điều gì", như chim biết bay, cá biết lội... là có thể dùng nghĩa này của chữ "năng" để chỉ. Tôi chọn ý nghĩa này vì xem ra nó ít gây nhầm lẫn nhất, bởi việc "tự tánh sanh ra vạn pháp" là một khả năng tự nhiên, như chim bay, cá lội... không phải loại khả năng do rèn luyện mà có hoặc do điều kiện nào đó quy định. Vì thế, trong câu Việt dịch tôi để trống vị trí chữ này, cũng như khi ta nói "chim bay" tức là hàm ý "chim biết bay, chim có thể bay" và đó là khả năng tự nhiên của nó.

    Khi chọn hiểu theo cách thứ nhất, khả năng đưa tới nhầm lẫn xem như đây là một quyền năng huyền bí rất dễ xảy ra. Trong thực tế, tôi đã thấy có người nói rằng "tự tánh có quyền năng sinh ra vạn pháp". Đây là một cách hiểu sai lầm về câu kệ đang bàn.

    Cách hiểu thứ hai dễ đưa tới sự hiểu lầm về tính thường xuyên, nghĩa là hàm ý lúc có, lúc không, không phải là một yếu tố thường tại.

    Nhưng cả ba cách hiểu như trên đều chấp nhận được và cũng không thể phân biệt đúng sai, chỉ có đôi chút khác biệt tinh tế như tôi vừa nói, hoàn toàn tùy thuộc vào sự chọn lựa của dịch giả. Đối với người thực sự đi vào nghiền ngẫm Kinh văn thì cả 3 cách diễn đạt như trên đều đúng ý, không sợ đưa đến sự hiểu lầm.

    Về văn cảnh, câu này nằm trong toàn cảnh 5 câu cảm thán như sau:

    Ngờ đâu tự tánh vốn tự thanh tịnh!
    Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng sanh diệt!
    Ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ!
    Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng lay động!
    Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp!

    Bốn câu đầu là nói về thể, câu cuối cùng này là nói về dụng. Ý nghĩa như vậy hoàn toàn tương hợp, không có gì mâu thuẫn. Đạo hữu Tâm Tịnh có chỗ nghi rằng "Tự tánh tĩnh lặng, như như, sao lại động để sanh ra pháp?" Điểm nghi này không còn thuộc về vấn đề Việt dịch nữa, mà thuộc về ý nghĩa của Kinh văn, do đó chúng ta sẽ tiếp tục đề cập trong phần sau.

    Tóm lại, về mối nghi của đạo hữu Tâm Tịnh đối với phần Việt dịch câu kinh này, với sự cân nhắc thận trọng tối đa trong khi dịch, cũng như hiện nay đã nghiêm túc xem xét lại một cách khách quan sau khi đọc bài của đạo hữu Tâm Tịnh, tôi xin xác quyết việc dịch thuật câu kinh này hoàn toàn không có vấn đề bất ổn nào, chẳng những trong bản dịch của Cố Học giả Đoàn Trung Còn và tôi, mà cả trong các bản dịch khác đã nêu. Những vấn đề mà đạo hữu Tâm Tịnh nghi ngại sẽ tiếp tục được đề cập đến trong phần xem xét về ý nghĩa sâu xa của câu kệ.

    Kinh Pháp Bảo Đàn là Giáo pháp uyên áo của Thiền tông. Những câu kệ do Lục Tổ nói ra ngay sau khi chứng ngộ lại càng uyên áo nhất trong những điều uyên áo. Vì thế, nếu người đọc khởi sinh nghi tình cũng là điều dễ hiểu. Về ý nghĩa câu "Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp", chúng ta sẽ xem xét trong toàn cảnh Kinh văn như sau:

    Đoạn văn này nằm trong Phẩm thứ nhất của kinh Pháp Bảo Đàn, tức phẩm Hành do (Nguyên do hành trạng), theo chính lời của Lục Tổ là để nói về "nguyên do đắc pháp" của ngài, do đó mà có tên là Hành do.

    Những lời do Lục Tổ Huệ Năng nói ra là ngay sau khi đạt ngộ, cảm thán về những gì được ngài trực nhận trong lúc ấy, và đối tượng không phải là thính chúng đang nghe pháp, chỉ duy nhất có Ngũ Tổ, người đã thông qua sự thấy biết đó mà ấn chứng cho ngài qua đoạn văn sau:

    祖知悟本性,謂惠能曰。不識本心, 法無益。若識自本心,見自本性,即 丈夫,天人師,佛。 (Tổ tri ngộ bản tánh, vị Huệ Năng viết: ‘Bất thức bản tâm, học pháp vô ích. Nhược thức tự bản tâm, kiến tự bản tánh, tức danh Trượng phu, Thiên nhân sư, Phật.’ )

    Dịch nghĩa:

    "Tổ biết là đã ngộ bản tánh, nên bảo Huệ Năng rằng: ‘Chẳng biết bản tâm, học pháp vô ích. Nếu tự biết bản tâm, tự thấy bản tánh, tức là bậc Trượng phu; là thầy của hàng trời, người; là Phật.’"

    Như vậy, qua sự ấn chứng của Ngũ Tổ, chúng ta có thể tin rằng những lời Lục Tổ nói ra lúc ấy là phù hợp Chánh pháp, không có sai lầm.

    Mặc dù vậy, sau khi dặn dò ngài Huệ Năng về việc phải lưu truyền Chánh pháp, Ngũ Tổ vẫn tiếp tục yêu cầu ngài Huệ Năng lắng nghe thêm một bài kệ. Nguyên văn đoạn này như sau:

    便傳頓教,及衣缽,云。汝為第六代 ,善自護念,廣度有情,流布將來, 令斷絕。聽吾偈曰。有情來下種,因 地果還生。無情既無種,無性亦無生 (‘Tiện truyền Đốn giáo cập y bát, vân: 'Nhữ vi đệ lục đại Tổ, thiện tự hộ niệm, quảng độ hữu tình, lưu bố tương lai, vô linh đoạn tuyệt. Thính ngô kệ viết: Hữu tình lai há chủng, Nhân địa, quả hoàn sanh; Vô tình ký vô chủng, Vô tánh diệc vô sanh. )

    Dịch nghĩa:

    "Tổ truyền pháp Đốn giáo và y bát, bảo rằng: ‘Nhà ngươi làm Tổ đời thứ sáu, khéo tự giữ gìn, rộng độ chúng sanh, lưu truyền đạo lý cho đời sau, đừng để tuyệt mất. Hãy nghe kệ ta đây:

    Tình khởi nên gieo giống,
    Vòng nhân quả loanh quanh.
    Không tình cũng không giống,
    Không tánh cũng không sanh.’ "

    Qua bài kệ của Ngũ Tổ hướng vào Lục Tổ mà dạy, ta có thể thấy được 2 ý trong phạm trù ngữ nghĩa. Thứ nhất, vòng luân hồi nghiệp quả xuất hiện là do "tình khởi, gieo nhân". Đó là thực trạng của tất cả chúng sinh. Thứ hai, khi đạt ngộ rồi thì "tình không khởi, nhân không gieo" , bởi trong cảnh giới ấy thì "không tánh, không sanh".

    Riêng câu cuối "Không tánh cũng không sanh" được chúng tôi cảm nhận như một ý trao đổi trực tiếp với câu cảm thán cuối cùng của Lục Tổ: "Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp." Phải chăng Ngũ Tổ có ý muốn nhắc nhở rằng: "Cho dù tự tánh có công năng sanh ra muôn pháp, nhưng trong cảnh giới đạt ngộ thì tánh cũng không còn, làm gì còn có việc sanh ra?"

    Qua phân tích trên, chúng ta nhận ra một số điều. Thứ nhất, sự nhận biết rằng "tự tánh sanh ra muôn pháp" là không sai, đã được Tổ sư ấn chứng, còn việc giải thích ý nghĩa tự tánh "sanh ra muôn pháp" như thế nào hoặc bằng cách nào, có lẽ phải đề cập trong một bài viết khác, không thể trình bày hết trong khuôn khổ bài này. Thứ hai, công năng "sanh ra muôn pháp" ấy được Tổ sư nhắc nhở rằng đó là đứng từ góc độ lưu chuyển luân hồi mà nói, một khi đã đạt cảnh giới vô sanh diệt thì "tình cũng không mà tánh cũng không".

    Như vậy, tôi hy vọng là nghi tình của đạo hữu Tâm Tịnh riêng về ý nghĩa "tự tánh sanh ra muôn pháp" có thể được giải tỏa. Còn về những câu kệ trước đó, nếu muốn nói rõ e rằng lại phải cần thêm một bài viết khác.

    Dưới đây tôi cũng sẽ đề cập thêm một vài vấn đề mà đạo hữu Tâm Tịnh đã nêu ra như là hệ quả của cách hiểu sai về câu kệ trên.

    Vấn đề thứ nhất , đây là câu hỏi của đạo hữu Tâm Tịnh nêu ra: "Tự Tánh hay Phật Tánh có đích thực sanh ra muôn pháp (muôn sự, muôn vật, muôn loài) như được viết và giảng giải không? hay là muôn pháp trên thế gian này đều như huyễn và đều do nhân quả, nhân duyên, hợp lại mà tạo thành?"

    Xin trả lời qua hai ý sơ lược nhất. Thứ nhất, chúng ta không nên hiểu "tự tánh" tức là "Phật tánh" như trong câu hỏi của đạo hữu. Trong một số trường hợp, đúng là tự tánh có thể được hiểu như Phật tánh, nhưng đó vẫn là hai khái niệm thường được dùng trong những trường hợp khác nhau. Có thể hiểu nôm na rằng "tự tánh" của mỗi chúng sinh giống như quặng vàng, tuy có đủ mọi tính chất của vàng nhưng chưa sử dụng được, còn "tánh Phật" ví như vàng ròng, đã sẵn sàng để làm nên mọi thứ trang sức quý giá. Cho nên, nói "tự tánh" tức là "tánh Phật" cũng không sai, chỉ có điều dễ gây nhầm lẫn cho chính mình và người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn giảng rất chi tiết về tánh Phật, quý độc giả có thể tìm đọc tại đây để hiểu thêm. Phạm vi bài viết này không đủ để đề cập một vấn đề quá lớn như vậy, nên tôi chỉ xin lưu ý là việc sử dụng 2 danh từ này vẫn phải có sự cân nhắc khác biệt.

    Thứ hai, khi chúng ta đã hiểu được "muôn pháp trên thế gian này đều như huyễn và đều do nhân quả, nhân duyên hợp lại", thì khi suy nghĩ sâu hơn theo ý nghĩa lời dạy của Ngũ Tổ như trên, ta cũng sẽ thấy được: "Ngay cả nhân quả, nhân duyên đó cũng là như huyễn, không có gì chắc thật, thường tồn." Và như vậy, việc "tự tánh sanh ra muôn pháp" là không có gì phải nghi ngại, bởi "muôn pháp" cũng chỉ là như huyễn mà danh xưng "tự tánh" kia rồi cũng không còn nữa trong cảnh giới giải thoát: "Tánh còn không có, lấy gì để sanh?"

    Vấn đề thứ hai mà đạo hữu Tâm Tịnh nêu lên như hệ quả của việc nhận hiểu sai lầm câu kinh trên là: "Nếu Tự Tánh sanh muôn pháp thì chẳng khác nào khái niệm về thần quyền, Thượng Đế, khiến đã có một số vị, kể cả những vị đã nghiên cứu sâu dầy trong Phật Học, xuất gia và tại gia, đã dùng từ Thượng Đế thay cho Phật Tánh. Như vậy, khả năng "sinh ra muôn pháp" này đã khiến các vị hiểu như thế và giảng giải như thế, như những chữ đã được viết ra, rồi cũng dựa trên câu này, mà suy diễn thêm ra rằng, như vậy, mọi sinh vật, mọi sự việc trên thế gian này, kể cả duyên, đều được sáng tạo, an bài, định đoạt bởi Tự Tánh hay Phật Tánh hay Thượng Đế (God), giống như nhiều tôn giáo khác đã quan niệm trên bình diện tạo dựng này, chỉ riêng với đạo Phật, thì đừng nhân cách hóa mà thôi... ..."

    Nói ngắn gọn, đạo hữu Tâm Tịnh lo ngại rằng - và cũng đã nhìn thấy - có những người nhầm lẫn (vô tình hoặc cố ý) giữa "tự tánh / Phật tánh" và "Thượng Đế" , mà ý nghĩa câu "tự tánh sanh ra muôn pháp" có thể là một nguyên nhân, hoặc ít ra cũng là một điểm căn cứ cho những người sai lầm như thế.

    Phân tích vấn đề, chúng ta thấy sự lẫn lộn ở đây xuất phát từ hai ý niệm có sự tương đồng:

    1. Tự tánh sanh ra muôn pháp, vạn vật, sự vật...
    2. Thượng Đế sanh ra con người, vạn vật, sự vật...

    Theo một logic sơ đẳng, người ta có thể đi đến kết luận: "Tự tánh là Thượng Đế, hay Thượng Đế là tự tánh".

    Tuy nhiên, hai khái niệm "tự tánh" và "Thượng Đế" đều đã được định hình trong quy ước ngôn ngữ phổ thông, nên chúng ta cần xét đến các khái niệm đó:

    Về Thượng Đế, ở đây luôn luôn dùng danh xưng viết hoa, nên rõ ràng là chỉ đến một Đấng Toàn Năng, Đấng Sáng Thế, một vị chủ tể có quyền năng tạo ra con người, vạn vật...

    Về tự tánh, ta có thể hiểu ở mức đơn sơ nhất là "tánh của mỗi người". Chính Lục Tổ Huệ Năng đã nói kệ với ý nghĩa này chứ không phải với những khái niệm sâu xa, phức tạp như trong các từ điển Phật học. Vì sao tôi dám nói như thế? Chúng ta nhớ lại, Lục Tổ khi ấy chỉ là một chàng thanh niên đốn củi kiếm sống, vốn thất học, mù chữ, chưa từng được đọc Kinh điển ngoài việc nghe loáng thoáng vài câu kinh Kim Cang. Hơn nữa, ngài lại có nhiều khả năng là người Việt Nam (xem tại đây), không nói rành tiếng Trung Hoa nên chỉ có thể diễn đạt theo cách đơn sơ, mộc mạc nhất. Theo đó, "tự tánh" nghĩa là "tánh của mình", giống như khi ta nói "tánh tôi nóng lắm, tánh tôi thẳng thắn lắm, tánh tôi hay thương người .v.v..."

    Hơn nữa, nếu ta hiểu "tự tánh" trong bài kệ của Lục Tổ như là chân tâm, Phật tánh, chân như... hay những ý nghĩa uyên áo khác, thì Lục Tổ sẽ chẳng có gì phải ngạc nhiên để thốt lên những lời cảm thán như vậy. Chính vì đang đề cập đến cái "tánh của mình" rất tầm thường, rất dung tục này, nên ngài mới vô cùng ngạc nhiên, không ngờ rằng chính cái tánh tầm thường, dung tục ấy lại "vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn chẳng lay động"; hơn thế nữa chính nó lại là cội nguồn của "muôn pháp sanh diệt" .

    Như vậy, khi có ai đó muốn "đồng hóa" giữa tự tánh với Thượng Đế, sẽ có 2 khả năng xảy ra.

    Khả năng thứ nhất là xem tự tánh giống như Thượng Đế , nghĩa là mỗi người đều có một Thượng Đế, và chính Thượng Đế [tự tánh] này đã tạo ra "muôn pháp sanh diệt" trong "vòng nhân quả loanh quanh" theo lời Ngũ Tổ. Tất nhiên, những người tin Thượng Đế như một Đấng Sáng Thế sẽ không đồng tình với sự "đồng hóa" này, bởi như đã nói trên, khái niệm về Thượng Đế đã được họ định hình như một chủ tể của vũ trụ. Còn với những ai tin hiểu Phật pháp thì việc "du nhập" danh xưng này khi giảng nói Giáo pháp của đức Phật chẳng có ý nghĩa tích cực gì, mà rất dễ gây hiểu lầm cho người đọc.

    Khả năng thứ hai là xem Thượng Đế giống như tự tánh, nghĩa là cho rằng vị chủ tể, Đấng Sáng Tạo kia đã "biến hiện" thành tự tánh của mỗi người và chính tự tánh [Thượng Đế] này đã quyết định, chi phối mọi việc trong đời. Cách hiểu này là hoàn toàn sai lầm, không đúng lời Phật dạy, và đối với người Phật tử thì việc diễn giải như thế chính là lạc vào tà kiến, làm sai lệch Giáo pháp của đức Thế Tôn.

    Cho nên, những ai muốn ghép đôi "tự tánh" với Thượng Đế, dù với bất cứ lý do hay động cơ gì, xin nhớ cho là đạo Phật bác bỏ hoàn toàn quan niệm về một "Thượng Đế là chủ tể tạo ra con người".

    Đó là một số ý kiến của riêng tôi về nghi vấn của đạo hữu Tâm Tịnh khi đọc kinh Pháp Bảo Đàn. Tôi hoan nghênh tinh thần cầu học của đạo hữu và sẵn sàng trao đổi thêm những gì đạo hữu cần biết. Do phạm vi giới hạn của bài viết này, tôi không thể đề cập đến tất cả những gì đạo hữu đã nêu ra.

    Đến đây, tôi xin được nhắc lại một ý đã nêu trên để kết thúc bài viết này. Giáo pháp Kinh điển của đức Thế Tôn như một kho chứa muôn ngàn loại dược liệu khác nhau. Mỗi chúng ta nên "tùy bệnh chọn thuốc và uống thuốc" để sớm được "khỏi bệnh" và an vui trong đời sống, đừng mất quá nhiều thời gian chỉ để sưu tập cho mình một "kho thuốc đồ sộ" mà không thực sự sử dụng được bất cứ liều thuốc nào. Đó là sự phí phạm thời gian quý báu của kiếp người ngắn ngủi. Hãy ghi nhớ lời dạy trong kinh Duy-ma-cật: "Từ chỗ khởi làm ắt được lòng tin sâu vững. Từ lòng tin sâu vững ắt tâm ý được điều phục. Do tâm ý được điều phục ắt có thể làm đúng theo như lời được thuyết dạy." Trên tinh thần ấy, tôi rất mong sẽ luôn được đồng hành với tất cả những người học Phật hữu duyên, để cùng nâng đỡ, dắt dẫn nhau đi trên con đường Chánh pháp.
    Nguyễn Xuân Tiến

    Câu chuyện về bản dịch, cách hiểu khi dịch, chưa chắc đã quan trọng. Điều quan trọng là, dù hiểu theo nghĩa nào, bản thân kinh văn vẫn có lỗ hổng không vá được !

  3. #3

    Mặc định

    Chấp văn tự.
    Vạn pháp do tâm sanh cũng do tâm diệt.
    Vạn vật không thực không hư mà là tạm thời.
    Vô trụ là gốc, vô chấp là hành.

  4. #4

    Mặc định

    thực ra ngai' văn thu'cung đa~ noi tư` môt gôc' vô tru ma' lap tat ca?
    pháp cai' ma` luc tô ? ngô cung~ vây ung vô so tru nhi sanh ky` tâm
    ngươi' nao ung dung dk la' dac ' dao phat không phải la` phat tanh'
    bi chia che?đâu ma` ngươi ' ta goi no la` dieu dung cua? chân như
    thực chat bô tat hay phat hoac tô ? cung~ chỉ la` ngươi' ro ~dk nguon tâm
    ưng 'dung dk dieu tâm.nhi sanh ky` tâm .chinh' la' dieu tâm huynh ah'
    nhưng phai?tư' goc vô tru.keo cai tư?thi trên đương' la' ai vây.ưng vô sơ tru
    nhi sanh ky` tâm tkpt không can?đương ' ngươi' khác' tu hanh..........................quoai 'that

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 17-09-2013, 09:15 PM
  2. Triết lý Phục vụ trong Kinh Thánh và Kinh Doanh
    By minhthai in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 8
    Bài mới gởi: 19-01-2013, 11:08 PM
  3. Giải đáp những thắt mắt trong kinh phật
    By 12212012 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 132
    Bài mới gởi: 04-10-2012, 09:18 PM
  4. Ứng dụng 64 Quẻ kinh dịch trong kinh doanh
    By Khanluado in forum Dịch Học
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 06-04-2011, 09:20 AM
  5. Ứng dụng 64 Quẻ kinh dịch trong kinh doanh
    By ahyeah in forum Dịch học ( Dịch số, Thái Ất, Kỳ Môn Ðộn Giáp, Hoa Mai, Bát tự hà lạc,…)
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 22-02-2011, 10:09 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •