"何期自性能生萬法。" "Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?" "Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp."
"何期自性能生萬法。"

"Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp?"

"Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp."

Tâm Tịnh
Đó là một câu mà con, Tâm Tịnh, đã viết ra từ kinh Pháp Bảo Đàn, do ngài Lục tổ Huệ Năng giảng và ngài Pháp Hải ghi lại bằng chữ Hán, mà đã được dịch và chú giải bởi 2 vị Phật tử cư sĩ Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến, từ bản chữ Hán được tìm thấy từ động Đôn Hoàng, câu chữ Hán và câu phiên âm tiếng Việt trong tựa đề được viết ra ở trang 14, trong website:
http://www.doko.vn/tai-lieu/phap-bao...n-viet-1740303

Tự Tánh, chính Tự Tánh (by itself), chẳng sanh chẳng diệt đã đành, Tự Tánh by itself cũng chẳng sanh ra muôn pháp. Tự Tánh tiềm tàng, hiện hữu trong muôn pháp, nhưng không sanh ra muôn pháp. Do nghiệp (karma), cộng với sự tương tác của pháp (mà nhà Phật gọi chung là duyên) mà muôn pháp hình thành.
Trong Pháp Bảo Đàn kinh, viết về ngài Lục Tổ Huệ Năng, kể rằng, khi ngài Đại Ngộ được Tự Tánh, ngài đã nói ra 5 câu, trong đó có câu mà nguyên bản tiếng Hán như sau:
何期自性能生萬法。
Phiên âm chữ Hán sang chữ Việt:
Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp?
Con không biết ai là người dịch đầu tiên câu này ra tiếng Việt, mà những người sau, khi dịch kinh này, cũng dịch giông giống. Lý do gì mà như vậy?
Những links mà con liệt kê và trích sau đây là toàn bài Pháp Bảo Đàn kinh đã được dịch ra tiếng Việt, con chỉ trích một đoạn liên quan đến câu này. Câu mà đã khiến nhiều người đọc lầm tưởng rằng Tự Tánh (hay Phật Tánh) đã tạo ra mọi sự vật trên thế gian này, và như vậy, với riêng quyền năng này, nhiều người đã nghĩ rằng, Phật Tánh tương đương với tên gọi Thượng Đế ở một số tôn giáo khác, trên bình diện tạo ra muôn pháp, ngoại trừ vô hình, vô tướng, và ta có thể dùng danh từ Thượng Đế thay cho Phật Tánh.
Từ câu được phiên âm từ chữ Hán sang chữ Việt cho dễ đọc này, con đã thấy có một số bản dịch ra nghĩa tiếng Việt, từ nhiều tác gỉa:
Con xin được liệt kê ra đây 4 bản dịch:
1. Tác giả Đoàn Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải – Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
http://thienphatgiao.wordpress.com/2...h-tien-dich/3/

Bắt đầu trích: "Tổ lấy áo cà-sa che quanh, chẳng cho ai trông thấy, rồi giảng kinh Kim Cang cho nghe. Đến câu ‘Nên sanh tâm từ nơi chỗ chẳng trụ vào đâu cả.’ Huệ Năng vừa nghe liền đại ngộ, hiểu rằng hết thảy muôn pháp chẳng rời tự tánh. Liền bạch Tổ rằng: ‘Ngờ đâu tự tánh vốn tự thanh tịnh. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng sanh diệt. Ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng lay động. Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp.’ " Hết trích.

2. KINH PHÁP BẢO ĐÀN
Lục Tổ Huệ Năng
Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch và Lược Gỉai
Từ Ân Thiền Đường, Santa Ana Xuất Bản1992
http://thuvienhoasen.org/p16a681/pham-tua-thu-nhat

Phẩm Tựa Thứ Nhất

Bắt đầu trích: "Tổ dùng Ca sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết Kinh Kim Cang, đến câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ tất cả vạn pháp chẳng lià tự tánh, bèn bạch Tổ rằng:

Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,

Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,

Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,

Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,

Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!" Hết trích.


3. Dịch giả: THÍCH NỮ TRÍ HẢI
http://www.buddhismtoday.com/viet/ki...hapbaodan1.htm

Bắt đầu trích: "Tổ dùng tấm cà sa vây che không cho người thấy (ánh đèn), đoạn đọc Kinh Kim cang cho nghe. Đến chỗ “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Huệ Năng hoắc nhiên đại ngộ, hết thảy vạn pháp không lìa tự tánh, bèn bạch Tổ rằng:

- Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn không sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn không lay động, có thể sanh muôn pháp." Hết trích.

4. PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
http://thienphatgiao.wordpress.com/2...ien-su-dich/3/

Bắt đầu trích: "Ngũ Tổ lấy áo ca sa đắp cho ta, chẳng cho ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Có nghĩa là: Không nên trụ vào chỗ nào mà sanh tâm mình ( Phải thật đúng y như lời, như lúc tiếp vật, xúc chạm, tâm mình vẫn như như không nhiễm, không chấp, không thủ, không xả, không không, cũng không phải là không không. Phải biết, ngoài Bổn Tâm, không còn sanh tâm chi khác. Trên cảnh không sanh tâm, hết cảnh tâm không diệt – Nđm)

Huệ Năng này nghe nói rồi liền rất tỏ sáng, biết rằng cả thảy muôn pháp đều chẳng lìa tánh mình, mới bạch với Tổ Sư:

Nào dè tánh mình vốn tự nhiên trong sạch.

Nào dè tánh mình chứa đầy đủ (muôn pháp –nd)

Nào dè tánh mình vốn không lay động

Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp." Hết trích.

(Con xin được mở ngoặc ở đây, để ghi nhận thêm:
* Có một bản dịch sang Anh ngữ, do tác giả Philip B. Yampolsky vào năm 1967, vị này đã không dịch đoạn mà có những câu này:
http://www.fodian.net/world/Platform..._Yampolsky.pdf

* Hòa Thượng Thích Mãn Giác, năm 2003, cũng đã dùng bản dịch Anh ngữ này để dịch sang tiếng Việt:
http://thuvienhoasen.org/p16a731/kinh-phap-bao-dan
)

Chúng ta thấy rằng, cả bốn vị dịch gỉa đều dịch giông giống nhau, con xin tóm lược:

Lục Tổ đại ngộ rằng:

Cư Sĩ Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến: hết thảy muôn pháp chẳng rời tự tánh

Tỳ Kheo Thích Duy Lực: tất cả vạn pháp chẳng lià tự tánh

Ni Sư Thích Nữ Trí Hải: hết thảy vạn pháp không lìa tự tánh

Thiền Sư Minh Trực: cả thảy muôn pháp đều chẳng lìa tánh mình

Nói một cách khác Tự Tánh luôn hiện diện trong muôn pháp.

Và trong 5 câu mà ngài Lục tổ đại ngộ, có câu Tự Tánh vốn không lay động, nói một cách khác, Tự Tánh ở thể tĩnh lặng.

Và đây là câu cuối cùng trong 5 câu "đâu ngờ" này:

Cư Sĩ Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến: Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp.

Tỳ Kheo Thích Duy Lực: Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!

Ni Sư Thích Nữ Trí Hải: Nào ngờ tự tánh có thể sanh muôn pháp.

Thiền Sư Minh Trực: Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp.

Cả 4 vị dịch câu này cũng tương tự nhau.

Tư duy, con nhận thấy, có sự mâu thuẫn giữa sự đại ngộ về tự tánh vốn chẳng lay động và tự tánh sanh ra muôn pháp.Tự tánh tĩnh lặng, như như, sao lại động để sanh ra pháp? Ngoài ra, Đạo Phật là Đạo Cứu Khổ chúng sinh, Đức Phật dạy chúng sinh tu để tâm thanh tịnh trong Tự Tánh, thoát khỏi mọi khổ đau cho mình và độ cho người cùng thoát khổ, sao Chân Như Tự Tánh lại tạo ra muôn pháp sinh diệt, hư huyễn trong cõi đời này, để sự khổ đau trở lại với chúng sinh? Mâu thuẫn, phải không ạ? Hay Tự Tánh đóng vai một quan tòa, sáng tạo, định đoạt, an bài nhân quả cho chúng sinh, do đó tạo ra muôn pháp? Nếu nói Tâm Sinh Diệt tạo ra muôn pháp thì con đồng ý, còn như nói Tâm Bất Sinh sinh ra muôn pháp, thì con thấy ... không hợp lý Đạo.
***
Đó là những bản dịch ra tiếng Việt tiêu biểu mà con tìm thấy nhờ kỹ thuật internet tân tiến ngày nay. Từ một trong những bản dịch này, chúng ta được sự giảng giải của các vị Thầy, con xin được viết ra đây sự giảng giải tiêu biểu của 2 vị Thiền Sư về câu chính trong chủ đề của bài này: "Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp.":
1. Hòa Thượng Tuyên Hóa: Ngài (hoặc người dịch dùm ngài, vì ngài không biết tiếng Việt) dùng bản dịch của Thiền sư Minh Trực:

Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp!

Ngài (hoặc người dịch dùm ngài) diễn giảng câu này như sau:

"Con thật không ngờ rằng, vạn pháp vốn từ tự tánh sanh ra. Lúc trước con không nghĩ ra, nhưng nay lại chứng đắc cái diệu lý này. Thật không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả hết điều kỳ diệu này!"

Ghi chú: Chữ "con" trong trích dẫn này: Ngài Lục Tổ đang thưa gởi với ngài Ngũ Tổ.

http://thuvienhoasen.org/p17a1193/4/...etail_bookmark

2.Hòa Thượng Thích Thanh Từ: Ngài dùng bản dịch tương tự của Tỳ Kheo Thích Duy Lực:

Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!

Hòa Thượng chỉ đọc qua câu này mà không giảng giải.

http://thuvienhoasen.org/p17a1628/4/...u-nhat-hanh-do

***

Qua những dẫn chứng trên, rồi qua sự học Phật sơ thiển của con, con trở nên thắc mắc (Văn, Tư, Tu), và câu hỏi con xin được hỏi chư vị: "Tự Tánh hay Phật Tánh có đích thực sanh ra muôn pháp (muôn sự, muôn vật, muôn loài) như được viết và giảng giải không? hay là muôn pháp trên thế gian này đều như huyễn và đều do nhân quả, nhân duyên, hợp lại mà tạo thành?", vì thắc mắc (Tư - trong Văn, Tư, Tu), con đã mạo muội viết bài này kính gởi tới chư vị cao minh xin được thỉnh giáo.

***

Con xin được trở lại với câu chữ Hán:

何期自性能生萬法。

Phiên âm chữ Hán:

Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp?

Mỗi chữ Hán có nhiều nghĩa, tùy theo nội dung của câu. Dựa trên tự điển Việt-Hán-Nôm:

http://hannom.huecit.vn/

con đã lựa nghĩa nào cho đúng với chánh pháp (con tô màu vàng). Hai chữ quan trọng trong câu này là chữ Năng và chữ Sanh:

Hán Việt:



Năng

(1): tài năng, như: năng viên 能員 chức quan có tài.
(2): hay, sức làm nổi gọi là năng, như: thị bất vi giã, phi bất năng giã 是不為也, 非不能也 -ấy là không làm, chứ không phải là không làm nổi vậy.
(3): thuận theo, như: nhu viễn năng nhĩ 柔遠能邇 -khiến cho kẻ xa quy phục về gần.
(4): con năng, một loài giống như con gấu. Vật lý học gọi cái gì có thể tạo ra công sức là năng (năng lượng), như: điện năng 電能 sức điện.

Hán Việt:



Sanh

(1): sống, đối lại với tử 死 .
(2): còn sống, như: bình sanh 平生 -lúc ngày thường còn sống; thử sanh 此生 -đời này v.v...
(3): những vật có sống như: chúng sanh 眾生 , quần sanh 群生 -đều là nói các loài có sống cả.
(4): sinh sản, nẩy nở, như: sanh tử 生子 -đẻ con, sanh lợi 生利 -sinh lời v.v...
(5): nuôi, những đồ để nuôi sống đều gọi là sanh. Như: sanh kế 生計 -các kế để nuôi sống.
(6): sống, chưa chín gọi là sanh, làm việc không có kinh nghiệm gọi là sanh thủ 生手 , khách không quen thuộc gọi là sanh khách 生客 (khách lạ) v.v...
(7): học trò, như: tiên sanh 先生 -ông thầy, nghĩa là người học trước mình, hậu sanh 後生 , học trò, nghĩa là người sinh sau v.v... Thầy gọi học trò là sanh : học trò cũng tự gọi mình là sanh.
(8): dùng như chữ mạt 末 .
(9): dùng làm tiếng đệm.
(10): tiếng dùng trong tấn tuồng. Ta quen đọc là chữ sinh.

Vậy, theo con học hành và hiểu về Tự Tánh, con xin mạn phép tạm dịch là:

Đâu ngờ Tự Tánh năng sống trong muôn pháp

- "năng" đây ý chỉ "có công năng" chứ không phải là "hay" với nghĩa là có sức làm nổi, làm được.

- "sanh" đây là "sống" (đối lại với tử), ý chỉ "hiện diện, tồn tại, có mặt" chứ không phải là "sanh" với ý nghĩa "sanh ra, creating, sinh sôi nẩy nở"

Nếu dùng 8 chữ để cùng thể với 4 câu trên, thì có thể bỏ chữ "năng", cũng vẫn y nghĩa. Xin được sửa lại là:


Đâu ngờ Tự Tánh sống trong muôn pháp


Câu cuối cùng này, cũng là câu quan trọng nhất trong 5 câu, và cũng chính là sự đại ngộ của ngài Lục Tổ Huệ Năng, rằng: Tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự Tánh. Nói một cách khác, Tự Tánh luôn hiện diện trong muôn pháp. Trong kinh Kim Cang cũng có câu tương tự: Tất cả các pháp đều là Phật pháp. Tự Tánh sống trong muôn pháp, hay nói một cách khác, Tự Tánh có mặt trong muôn pháp, nhưng bị che khuất bởi vô minh, bởi tham, sân, si mà chúng ta đã huân tập từ nhiều kiếp. Một khi chúng ta nhận biết sự giả tướng, sự huyễn hóa, sự sinh diệt của muôn pháp trên thế gian này, và không còn dính mắc vào chúng trong mọi lúc, thì Tự Tánh hiển lộ tròn đầy.

Lại nói một cách khác, trong muôn pháp đều có Tự Tánh, muôn pháp do duyên mà thành, muôn pháp không do Tự Tánh tạo ra, muôn pháp biến dịch, tạo tác, hành hoạt, tương tác, mà thọ quả trên bề mặt của Tự Tánh. Sự gây tạo nghiệp nhân do thức hành hoạt, do kinh nghiệm, do sự tính toán, đo lường, cố ý của thức xen vào, để rồi quả hình thành. Tự Tánh được ví như đất, mọi sự hành hoạt trên đất, đổ chất dơ hay chất sạch vào đất, đất chẳng từ nan, đất không sinh ra chất dơ, chất sạch, và đất vẫn hiện diện. Tự Tánh cũng được ví như hư không, dung chứa tất cả, hư không không sinh ra những gì hư không đang dung chứa, và hư không vẫn bao trùm ở đó. Tự Tánh cũng được ví như nước biển với những lượn sóng sinh diệt, hết lớp này tới lớp khác, xô đẩy trên bề mặt, nước biển không sinh ra sóng, và trong tầng sâu, nước biển tĩnh lặng hiện hữu v.v... Vậy thì, Tự Tánh chính (đúng) là tồn tại, có mặt, hiện diện, sống trong muôn pháp. Nếu Tự Tánh sanh muôn pháp thì chẳng khác nào khái niệm về thần quyền, Thượng Đế, khiến đã có một số vị, kể cả những vị đã nghiên cứu sâu dầy trong Phật Học, xuất gia và tại gia, đã dùng từ Thượng Đế thay cho Phật Tánh. Như vậy, khả năng "sinh ra muôn pháp" này đã khiến các vị hiểu như thế và giảng giải như thế, như những chữ đã được viết ra, rồi cũng dựa trên câu này, mà suy diễn thêm ra rằng, như vậy, mọi sinh vật, mọi sự việc trên thế gian này, kể cả duyên, đều được sáng tạo, an bài, định đoạt bởi Tự Tánh hay Phật Tánh hay Thượng Đế (God), giống như nhiều tôn giáo khác đã quan niệm trên bình diện tạo dựng này, chỉ riêng với đạo Phật, thì đừng nhân cách hóa mà thôi, và nếu có ai phản đối việc dùng từ Thượng Đế để chỉ Phật Tánh, các vị này sẽ khuyên là "chúng ta đừng nên chấp vào văn tự".

Con xin được trích một đoạn viết của một vị đạo hữu mà con đồng thuận: "Thượng Đế của đạo Phật (nếu cần phải gọi theo ngôn ngữ quy ước của lý tính phương Tây) chính là Duyên Khởi. Đó là vạn sự vạn vật đều không có một tự tánh riêng thường hằng bất biến (Không Tánh). Nhưng khi những vật không có tự tánh đó gặp nhau và hợp lại với nhau trong những điều kiện nào đó thì sẽ tạo ra một hợp thể mới (Duyên Khởi). Tất cả đều quay theo vòng sinh diệt của quá trình: thành, trụ, hoại, không, từ vô thủy đến vô chung."

Kính thưa chư vị, con nghĩ sao, con viết vậy, và con rất mong mỏi được các vị dịch giả, các vị cao tăng, các vị Thầy, xuất gia và tại gia, các vị tiền bối, dẫn đường, chỉ lối, xem lại việc dịch thuật của câu trong đề tài này, nếu con nói gì sai, xin các ngài chỉ bảo, và thứ lỗi cho con, và nếu có phần nào trong bài mà các ngài đồng ý, xin các ngài dịch và giảng giải lại câu này, hoặc ghi thêm cước chú trong sách đã dịch, để người sau không còn dựa trên câu này mà hiểu sai chánh pháp của đấng Bổn Sư nữa. Nhất là hiện nay, Đạo Phật đang được lan truyền mỗi lúc mỗi rộng sang phương trời Âu, Mỹ, kinh, sách, bài giảng sẽ từ từ được dịch sang những ngôn ngữ Âu, Mỹ, và dĩ nhiên, chúng ta mong muốn những người anh em của chúng ta hiểu và hành Phật pháp đúng với chân lý, với sự thật, với những gì Đấng Bổn Sư đã chỉ dạy chúng ta.

Mong thay,
Tâm Tịnh.
Thư viện Hoa Sen


Một số câu trả lời hoặc phản hồi :

Tâm Tịnh :
Đi sâu hơn chút nữa và trực tiếp hơn, thì câu mà đạo hữu Đức Tuệ suy tư: "Tôi là vạn pháp mà vạn pháp cũng là tôi ", và "Tôi nhưng mà thực chẳng là tôi" thật là chính xác. Trong mỗi cái xác thân như huyễn này của chúng ta, đều có 4 yếu tố chính, mà nhà Phật gọi là tứ đại: đất, nước, gío, lửa; cái xác thân này cũng chẳng khác gì vạn pháp: đất đá, thực vật, động vật ... đều như thế, trong ta có khoáng chất, có kim loại, có điện năng, có sức hút, có gió, có nước, có sức nóng, có sự sống v.v... vạn pháp trong vũ trụ sinh diệt này, ít nhiều cũng thế, và cũng đang thở, đang sống. Cục đá, khúc gỗ ... nhìn thấy như bất động, nhưng chia chẻ ra, thì gồm nhiều phân tử bên trong, và cũng đang co dãn, đang thở, đang sống, đang chết ... cùng chịu chung một quy luật thành, trụ, hoại, không; sinh, trụ, hoại, diệt như chúng ta. Sự tiến hóa, sự thích ứng với môi trường, khả năng sinh tồn, thay đổi dna, sự đột biến dna ... dẫn đến sự tương tác, sự kết hợp của duyên, của nghiệp quả v.v... qua hàng tỉ năm đã thành hình con người chúng ta ngày hôm nay, nhưng "Tôi nhưng mà thực chẳng là tôi", vâng, như thế đấy, tất cả chỉ là huyễn, nào có cái tôi cố định đâu, từng tế bào một, sinh, trụ, hoại, diệt trong cái gọi là tôi, cái tôi vay mượn đất, nước, gío, lửa từ khi mới lọt lòng, rồi lão, rồi bệnh, rồi cuối cùng, thì cái tôi cũng tàn, hoàn trả lại cho tứ đại ... Phần mà khiến chúng ta có một vị trí cao nhất trong muôn pháp (muôn loài, muôn sự vật ...) - phần mà giúp chúng ta có thể nhận biết được - chính là phần tâm, phần trí tuệ, cái trí tuệ mà nhà Phật gọi Vô Sư Trí (không phải trí tuệ do sự học hỏi), cái Trí Tuệ Bát Nhã, mà muôn pháp khác không có, chỉ riêng con người có, để có thể nhận ra rằng, có một thứ có sẵn, luôn tồn tại, hiện hữu trong muôn pháp, trong thế giới sinh diệt này, mà chỉ có con người có khả năng nhận ra và sống được trong cái có sẵn, luôn tồn tại này, để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn sinh, trụ, hoại, diệt, cái vòng đau khổ sinh, lão, bệnh, tử; cái có sẵn, luôn tồn tại đó, chính là Tâm Bất Sinh, hay còn gọi là Tự Tánh, là Chân Tâm, là Phật Tánh, là Niết Bàn, là Vô Sanh ...

chodomka :
Nghĩa lý rất thâm sâu ,tự tánh(diệu giác) và pháp tánh(vật chất) là không hai nhưng cũng chẳng là một.

Do tâm mà duyên giác ,giác duyên hành,hành thành ra việc làm mà tác động với những điều bên ngoài .làm duyên khởi trùng trùng nên không thể nói là tâm không năng sanh ra pháp.

Xét cho cùng pháp có pháp tánh ,thì tương ưng với phật tánh là do đồng thể nhau...là do tự pháp có sanh diệt mà cũng có do tác động mà sanh.

Kỳ hà tự tánh năng sanh vạn pháp ...

nghĩ rằng tự tánh năng khởi mà duyên ra đến vạn pháp, vạn pháp cũng hàm chứa trong đó tự tánh (không giác) của phật tánh năng sanh.

Đây là lời nói ,tất nhiên còn phải xem xét thêm nhiều ý kiến !

Nhất Nguyên :
"何期自性能生萬法。"
"Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp?"
"Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp."
Phật dạy: "Y NGHĨA BẤT Y NGỮ" Tự Tính thuộc bản thể Chân Như Diệu Giác ko thuôc pháp sinh diệt nên ko thể nói sinh hay ko sinh, ngôn ngữ thuộc pháp sinh diệt nên tạm dùng vậy. Chẳng có Tự Tinh thì vạn pháp cũng chẳng huyễn lập! Cho nên, vạn pháp do mê lầm(ko nhận đúng lẽ thật) Tự Tính mà huyễn lập. Trong nhà Phật thường dùng dụ để hành giả ngộ cái lý trao truyền: Tỷ như con mắt bệnh nhìn sáng đèn có thấy vâng quang, vầng quang chẳng do sáng đèn sinh, nhưng nếu ko có sáng đèn vầng quang cũng chẳng huyễn lập. Cho nên, do sáng đèn mà vầng quang sinh, nhưng là huyễn sinh do mê lầm sáng đèn vậy!
Tuy Tự Tính năng sinh vạn pháp, nhưng thật ko thể lầm lẫn với cái sinh tác ý của ngài Thượng Đế nặn chúng sinh từ đất sét rồi hà hơi tiếp khí...

Tinh Thủy :
.Đại sư Tăng Triệu (384 - 414) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:
Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh.
Vì duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là Tánh Không, vì pháp thể là chơn như biến hiện nên gọi là Pháp Tánh.
Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi làThật Tướng.
Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là Tánh Không, bởi vì tánh không nên gọi Pháp Tánh, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là Thật Tướng, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô.”
(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, in trong Chư Kinh Tập Yếu, trang 470 - 471).

Tâm Tịnh :
Kính thưa đạo hữu Đức Tuệ, đạo hữu suy tư: "Tôi là vạn pháp mà vạn pháp cũng là tôi ", và "Tôi nhưng mà thực chẳng là tôi". TT tư duy tiếp cùng đh: Cái tôi là một pháp sinh diệt (bao gồm nhiều pháp nhỏ: đầu, mình, tứ chi, nội tạng, máu, nước v.v... rồi những pháp này lại bao gồm những pháp nhỏ hơn: đầu thì gồm tóc, óc, dây thần kinh v.v..., sự hành hoạt của giác quan, tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v...), vạn pháp chịu sự chi phối bởi tiến trình sinh, trụ, hoại, diệt; sinh diệt, sinh diệt ... chẳng có pháp sinh diệt nào tồn tại, nên chẳng thật, hay nói, chỉ là giả tướng. Vậy cũng có thể nói, cái tôi cũng chỉ là giả tướng giống như vạn pháp khác, và tôi có đấy, nhưng thực sự chẳng có cái tôi, vì cái tôi chẳng thường hằng, mà chỉ là huyễn, do nghiệp duyên mà tạm hình thành, có đó, rồi mất đó ... Hy vọng đh ổn hơn (-: Xin kính chào đạo hữu. Tâm Tịnh.

Quảng Minh :
"Vì tất cả các pháp do nhân duyên sinh đều là thể tánh không tịch, vì vậy Như lai gọi đó là pháp thân." (Kinh Phật thuyết công đức tạo tháp)
Thể tánh chân thật của tất cả các pháp, không luận là tâm hay sắc, đều là cái tánh không tịch. Các pháp không tịch nên không có một sự gì và cũng không có một tướng gì, nhưng vì vậy mà tùy duyên có tất cả sự, tất cả pháp. Như Trung luận ghi: “Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành”.(以有空義故,一切法得成: Vì do có tánh không nên các pháp đều thành).
Bốn câu đầu là Chân không. Câu cuối là Diệu hữu.

Quảng Minh :
(A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA - QUYỂN I - Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao - Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không - Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa)
(Diễn) Luận vân: “Tam giả Dụng Đại, năng sanh nhất thiết thế gian xuất thế gian thiện nhân quả cố”.
(演) 論云:三者用大,能生一切世間出世 善因果故
(Diễn: Luận ghi: “Ba là Dụng Đại vì có thể sanh ra hết thảy các thứ nhân quả tốt lành thế gian và xuất thế gian”).
“Luận” là Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát trình bày theo thứ tự thuận: Một là Thể Đại, hai là Tướng Đại, ba là Dụng Đại. Ở đây nói về Dụng Đại, cho nên dẫn điều thứ ba [trong luận Khởi Tín] nhằm thuyết minh tâm của chúng sanh có đủ vô biên diệu dụng, có thể sanh hết thảy nhân lành quả lành thế gian và xuất thế gian. Những thiện nhân thiện quả xuất thế gian của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật là do đâu mà có? Từ trong tâm của chính quý vị sanh ra. Thiện nhân thiện quả của trời người trong thế gian cũng từ trong cái tâm của chính quý vị sanh ra. Quý vị phải biết: Đây là chân tâm, chân tâm quyết định sanh ra thiện nhân và thiện quả. Tam ác đạo và A Tu La đạo từ đâu mà có? Từ vọng tâm sanh ra. Chân tâm mang thêm một tầng vô minh sẽ sanh ra hết thảy ác nhân, ác quả, vẫn là do cái tâm ấy sanh ra. Trong tâm vướng mắc vô minh, vướng mắc phiền não nghiệp chướng, liền sanh ra ác nhân, ác quả. Trừ bỏ vô minh, trừ khử nghiệp chướng, tâm ấy sanh ra thiện nhân, thiện quả, há chẳng phải là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Hãy nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo).
Chữ “pháp giới” [trong hai câu kệ ấy] chỉ mười pháp giới, mà cũng chỉ Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới và mười pháp giới đều là “duy tâm sở tạo”, “tạo” có nghĩa là hiện, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Vì sao có thể hiện các thứ khác nhau? Thức khởi lên sự biến hóa ở trong ấy, duy thức sở biến. Tâm là chân tâm, duy Thức là chân tâm đèo thêm một tầng vô minh, chúng ta gọi nó là A Lại Da Thức hoặc “vọng tâm”. Nó có thể sanh, mà cũng là như Lục Tổ lúc khai ngộ đã nói: “Hà kỳ tự tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp). “Hà kỳ” (何期) là không ngờ; không ngờ tự tánh có thể sanh ra hết thảy vạn pháp. Ngài khai ngộ liền thấy được chân tướng này, thốt lên một câu rất cảm khái như thế!

Đức Tuệ :
Kính chào quý thiện hữu chi thức Tâm Tịnh !
Đọc bài viết của quý thiện hữu tôi thấy rất khế hợp với sở đắc của tôi : rằng " Tôi là vạn pháp mà vạn pháp cũng là tôi ".
( Tôi nhưng mà thực chẳng là tôi ) . Nói ra điều này với chính pháp mình thấy cũng cảm thấy có điều gì đó chưa ổn mong được sự chỉ giáo têm của quý đạo hữu Tâm Tịnh !

Tâm Tịnh :
Kính thưa quý Thiện Tri Thức Quảng Minh,
Tâm Tịnh thực tình rất vui khi câu cuối cùng này được quý đh có sự giải thích hợp với chánh pháp, rằng, không phải Tự Tánh "mặt tĩnh" sanh ra, tạo ra muôn pháp như một số người lầm tưởng. Tâm Tịnh xin chân thành cảm ơn quý đạo hữu. TT rất mong có một ngày không xa, được thấy bản dịch kinh Pháp Bảo Đàn do Cư Sĩ Quảng Minh dịch và giảng giải.
Tâm Tịnh không hiểu: cùng một chữ Tự Tánh, sao lại có 2 nghĩa trái ngược hẳn nhau như vậy, tại sao không dùng 2 danh từ khác nhau, như: Tâm Bất Sinh vs Tâm Sinh hoặc Tâm Giác vs Tâm Mê, Tự Tánh mặt tĩnh vs Tự Tánh mặt động (phải chi thêm một chữ Hán nữa là rõ nghĩa rồi, đâu cần phải học môn Duy Thức nữa) v.v... Đạo Phật là Đạo như thật, thực tế, rõ ràng, minh bạch, không lẫn lộn, sao lại hiện hiện (trong 4 câu trên), rồi lại ẩn ẩn (trong câu thứ 5 cũng là câu cuối, mà không một lời giải thích), mà hiện hiện, ẩn ẩn lại dùng chung một chữ như vậy? Tối thiểu là trong Hán Nôm Việt dictionary, phải có 2 nghĩa, với 2 câu thí dụ cho 2 nghĩa đó, và để category là nghĩa trong Phât Giáo, nhưng hoàn toàn không có. Đạo hữu đưa thí dụ tự tánh không ở trong hoa cúc (sao đh biết?), có thể hoa cúc tâm thức còn quá non kém chưa thể nhận biết như con người được (mà ngay cả con người, dù có thức đấy, mà cũng còn không nhận biết cái Bản tâm mặt tịnh như thế nào), chúng ta cũng là sản phẩm của sự tiến hóa, sinh sinh, diệt diệt, trùng trùng duyên khởi mà thôi, và còn nhiều thí dụ nữa, electrons xoay quanh hạt nhân v.v... nhưng tất cả các thí dụ của đh không đúng với ý mà TT muốn nói:
Ngài Lục Tổ sau khi nghe câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, ngài đại ngộ: ngài thấy "muôn pháp chẳng lìa tự tánh", ngài đã thốt lên 5 câu nói mà câu cuối cùng là câu kết luận, cũng chính là điều mà ngài đại ngộ, "tự tánh hiện hữu, có sẵn trong muôn pháp", thân của chúng ta cũng là một pháp, và tự tánh có sẵn, hiện hữu trong ta từ vô số kiếp, chỉ khi nào Ưng vô sở trụ, thì mới, nhi sanh kỳ tâm, chỉ khi nào tâm không còn trụ - vào các pháp sinh diệt như huyễn, để rồi không còn dính mắc vào 6 trần như huyễn - thì chân tâm mới hiện bầy, mới sống được với tự tánh chân như. Kính đạo hữu, Tâm Tịnh.

Nguyễn Văn Hòa :
Do đâu mà có 10 pháp giới bao gồm cả 4 pháp giới trên pháp giới người (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật)? Chính là do phân biệt mà có. Nếu chẳng khởi tâm, chẳng động niệm thì 10 pháp giới cũng không có, 10 pháp giới ở ẩn, chẳng hiển lộ! Nhưng do tập khí vô minh từ vô thỉ chưa tận diệt, chưa buông bỏ tập khí; do còn chưa buông bỏ, cho nên chúng ta thấy tất cả cái gì cũng là thật vì chúng đang hiển lộ.
Vì tự tánh của pháp giới chúng sinh từ xưa đến nay vốn dĩ thanh tịnh, như nhiên, chẳng đến chẳng đi, chẳng còn chẳng mất, nhưng sao chúng ta lại thấy thiên hình vạn trạng, có được, có thua, dưới mọi hình tướng, chúng ta thấy có vậy là do vọng niệm dấy khởi, do tâm phân biệt sanh diệt mà hình thành.
Cho nên câu “có thể sanh ra vạn pháp” và câu “vốn tự trọn đủ” là hai mặt thuận và nghịch như đồng tiền có hai mặt, trái và phải hay chân và giả. “Vốn tự trọn đủ” là tánh Chân, ở dạng ẩn. “Có thể sanh ra vạn pháp” là tướng Giả, ở dạng hiển, tức hiện hành hay hiển lộ.

Quảng Minh :
DH TT nói: "Tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự Tánh. Nói một cách khác, Tự Tánh luôn hiện diện trong muôn pháp."
Hết thảy muôn pháp chẳng rời tự tánh (一切萬法,不離自性)
Ví dụ: Electron vây xung quanh hạt nhân nguyên tử (proton và neutron) trong những lộ trình gọi là orbital. Nói cách khác, "các electron chẳng lìa hạt nhân nguyên tử". Có thể nào nói, "hạt nhân nguyên tử luôn hiện diện trong các electron"?
Vấn đề nằm ở chỗ này.

Quảng Minh :
" "A lai da (tên khác của chân như)" - ắt hẳn đh đang nói tới A lai da khi hoàn toàn sạch hạt giống? Alaya trống => Chân Như."
Hành giả khi tới Bất động địa, tức là Bát địa trở lên, thì thức thứ 8 mới xả cái tên "Tàng thức" (A lại da thức) mà chỉ còn gọi là "Dị thục thức". Khi đến vị Đẳng giác, được Kim Cang đạo, thì thức thứ 8 không còn gọi tên là "Dị thục" nữa. Vì lúc bấy giờ, các chủng tử hữu lậu cấu nhiễm đã hết, nên thức thứ 8 được đổi tên là "Vô cấu thức"; chỉ còn thuần chủng tử vô lậu thanh tịnh, nên cũng được gọi là "Bạch tịnh thức". Đến Kim Cang đạo, thì thức này được gọi là "Vô cấu" và chuyển thành Đại viên cảnh trí.
Các Luận sư Duy thức có khuynh hướng chỉ đề cập đến những gì có thể đề cập trong tương hệ nhân quả nên không đả động đến Như Lai tạng (hay Chân như), đối tượng khảo sát ở ngoài khả năng diễn đạt. Nhưng các nhà Pháp tánh học thì khác. Pháp tánh học không xem Chân như như là nhân và hiện tượng là quả, mà trình bày Chân như có hai mặt: mặt tĩnh là tự thân chân như, và mặt động là biểu hiện của chân như. Chính tại quan điểm này, Chân như Duyên khởi được thành lập và có khả năng cắt nghĩa căn nguyên của A lại da thức.
Bốn câu đầu là mặt tĩnh của chân như (bản tâm), và câu cuối là mặt động của chân như (bản tâm).
"cần có cước chú, giải thích chữ "sanh" với ý nghĩa sanh sống, luôn tồn tại, hiện hữu, có mặt trong muôn pháp, chứ không phải sanh ra, sinh sôi, nảy nở."
Vi dụ: Một đóa hoa cúc là 1 pháp trong muôn pháp. Có thể nào nói: Tự tánh (chân như/ bản tâm) "sanh sống, luôn tồn tại, hiện hữu, có mặt trong" đóa hoa cúc. Vậy thì, khi đóa hoa cúc ấy héo tàn (vô thường/ sinh diệt) thì tự tánh (chân như/ bản tâm) có còn tồn tại?
Nếu không tồn tại thì tự tánh (chân như/ bản tâm) giống như pháp hữu vi vô thường thôi.
Đóa hoa cúc là 1 pháp trần, cần có nhãn căn và nhãn thức mới nhận biết được. Huống nữa, đóa hoa cúc, con chó chỉ thấy hai màu đen trắng, con rắn thì thấy bằng hơi nóng (như chúng ta nhìn qua ống nhòm hồng ngoại tuyến), con dơi thì thấy bằng sóng điện như ra đa… Giác quan mắt của mỗi loài khác nhau nên đối tượng được thấy cũng khác nhau.
Đóa hoa cúc là do thức biến, chứ không thể nói thức "sanh sống, luôn tồn tại, hiện hữu, có mặt trong" đóa hoa cúc.

Tâm Tịnh :
Kính thưa Thiện Tri Thức Quảng Minh, TT đồng ý với đh, chỉ có vài điểm, TT xin được chia sẻ: Lời Đh: "Khi nói “tâm sinh vạn pháp”, là nói về A lại da (tên khác của chân như), cụ thể, nó kho chứa tích lũy nhiều đời nhiều kiếp của vô số hạt giống năng lực của nghiệp" - "A lai da (tên khác của chân như)" - ắt hẳn đh đang nói tới A lai da khi hoàn toàn sạch hạt giống? Alaya trống => Chân Như. Vậy thì dịch gỉa cần cước chú, cái "tâm" sinh vạn pháp này là cái tâm sinh diệt, là cái A lại da đầy hạt giống, chứ không phải là cái A lại da đã hoàn toàn sạch hạt giống. Tuy nhiên, vì ngài Pháp Hải dùng cùng một danh từ chữ Hán Tự Tánh giống hệt như 4 câu trên (thay vì dùng Tự Tánh ... còn hạt giống chẳng hạn), nên người đọc automatically hiểu là cùng một nghĩa Tâm Bất Sinh, không thể nào người đọc nghĩ ra nghĩa trái ngược là Tâm Sinh Diệt được (trừ những vị như đh, vì thấy sinh muôn pháp, đã suy luận ra 'à, đang nói chuyện về A lại da còn hạt giống đây'), do đó, điểm sai ở đây là dịch gỉa đã chọn sai nghĩa của động từ Sanh, Sanh đây không phải sanh ra, sanh sôi nảy nở, mà là sanh sống, ở đó (trong muôn pháp), tồn tại, hiện hữu trong muôn pháp.
"Dh Tâm Tịnh có lòng muốn chú thích những điểm khó hiểu, tôi đồng ý." - Xin cám ơn đh - "Nhưng vấn đề là những dịch phẩm đều đã được xuất bản, và không phải dịch giả nào cũng có khuynh hướng chú thích cặn kẽ trong dịch phẩm của mình." - Tiếc rằng chuyện đó đã xảy ra, sau khi dịch, dịch gỉa nên có sự kiểm tra lại (review) bởi những vị masters thông hiểu về nội dung của sách dịch trước khi xuất bản, để nếu có chỗ nào sai hoặc chưa rõ nghĩa, thì kịp thời điều chỉnh, hoặc giảng giải cho rõ ràng trong phần cước chú - "Người học Phật phải tìm hiểu thôi." - Trong trường hợp ở câu trong đề tài của bài này, để người học Phật phải tự tìm hiểu thì không được công bằng cho lắm, vì vấn đề này không phải là chuyện đơn giản! bằng chứng là đã gây ra sự hiểu lầm của nhiều người, kể cả những cụ đã nghiên cứu Phật Học cả đời, kể cả những bậc xuất gia đã nhiều năm - "Riêng câu cuối, chữ “tự tánh” nó xuyên suốt trong Pháp bảo đàn, nên ai đọc từ đầu đến cuối thì cảm nhận được ý nghĩa của nó," - Xin thưa, mình không thể assume như vậy được, thưa đh, tùy theo duyên của mỗi người, tùy theo sự tiếp xúc Phật pháp của mỗi cá thể, không phải ai cũng cảm nhận được - "theo cách nôm na , là Tâm thể, Bản tâm, thiền tông gọi là Bản lai diện mục, Pháp hoa gọi là Thật tướng." Cảm ơn đh đã confirm những danh từ này đều cùng một nghĩa - như Chân Tâm, Tự Tánh, Phật Tánh, Chân Như, Như Lai tạng v.v... tùy theo mỗi kinh, mỗi chỗ gọi khác nhau mà thôi.
Một lần nữa, TT xin chân thành cảm ơn đạo hữu và kính chúc đạo hữu luôn vạn sự kiết tường. Tâm Tịnh.

Quảng Minh :
Nếu bản thể gương vốn không có tính tiếp nhận hình ảnh khác nhau, thì dẫu sắc tướng đối diện, hình ảnh cũng không hiện ra trên gương. Còn gương hiện được hình ảnh thì biết nó vốn có tính tiếp nhận của hình ảnh.
Do vậy mà một mặt gương sáng, trong một lúc, hiện được mọi hình ảnh sạch và dơ, v/v, nhưng hình ảnh sạch không ngại gì cho hình ảnh dơ, hình ảnh dơ không ngại gì cho hình ảnh sạch. Không ngại gì nhau mà sạch với dơ vẫn khác nhau. Và dẫu có tính, có tướng của các hình ảnh khác nhau mà vẫn viên dung bất nhị, chỉ là một mặt gương.
Bản tâm, tự tánh ví như mặt gương. Muôn pháp dụ cho các hình ảnh.
Tự tính sinh muôn pháp, hay tự tính có mặt trong muôn pháp?
Gương sinh hình ảnh, hay gương có mặt trong hình ảnh?
Ngạ quỷ và con người cùng thấy dòng sông Hằng, nhưng vì sao ngạ quỷ thấy sông là máu, không thể uống được, còn con người lại thấy khác? Nếu tự tính có mặt hay tồn tại trong muôn pháp, thì lẽ ra ngạ quỷ và con người cùng thấy giống nhau. Lại nữa, cùng là ngạ quỷ, cùng thấy sông Hằng, nhưng có ngạ quỷ thấy sông là máu, có ngạ quỷ thấy sông là dòng lửa, có ngạ quỷ thấy sông khô cạn.
Tại sao người tu thiền phải căn cứ vào Tâm mà tu tập chỉ quán? Vì xưa nay chưa có một pháp nào ngoài Tâm mà được thiết lập.
Nói tự tánh hiện hữu trong muôn pháp thì cũng như nói chúa Trời hay Thượng đế hiện hữu trong muôn loài. Tự tánh như hư không, các pháp biểu hiện ở trong hư không ấy, Có thể nào nói hư không nằm trong các pháp?
24/10/2014

Quảng Minh :
Theo quan điểm Ðại thừa, Phật tính là thể bất sinh bất diệt của mọi loài. Vì thế, mọi loài đều có thể đạt giác ngộ và trở thành một vị Phật. Chân như đồng nghĩa với Như lai tạng, Phật tính, Pháp thân.
Tự tánh thanh tịnh tức là chân như, không, thật tế, vô tướng, thắng nghĩa, pháp giới. (tùy tên gọi).
Muốn đạt được tự tánh thanh tịnh thì phải thoát ly thoát ly tất cả chướng ngại dơ bẩn, tức phiền não, ngã chấp, pháp chấp. “Tất cả chúng sinh vốn là Phật” cũng như vàng vốn sẵn là vàng, nhưng là vàng quặng, lẫn tạp chất, nên phải gạn lọc, xả bỏ tạp chất cho sạch để trở về bản chất vàng, chứ không phải dùng chất khác mà làm thành vàng được.
Thoát ly chướng ngại bằng cách tu 37 bồ đề phần pháp, tu 6 ba la mật.
Pháp duyên sinh chính là y tha, được phát sinh từ chủng tử nơi A lại da. Nhưng nói y tha là nói đủ cả 3 tướng (y tha, biến kế, viên thành), lúc mê cũng như lúc ngộ. Lúc mê thì nơi y tha chỉ thấy biến kế (ngã pháp) mà không thấy viên thành (chân như), lúc ngộ thì trái lại.
Tâm sinh diệt, nói rõ là Tâm-ý-thức. Như vậy, tâm có 3 tầng:
1. Tầng trong cùng: Duy thức luận, gọi nó là thức thư 8, A lại da. Không thể nhận thức được tự thể của nó đã đành, cho đến các hình thái hoạt động của nó cũng không thể dễ dàng nhận biết. Duy chỉ có thể biết rằng nó tồn tại là do quan sát sự tồn tại của thiên nhiên, của vũ trụ, của thân và tâm.
2. Tầng hoạt động luôn luôn là chấp ngã, gọi là ý: những hoạt động của tâm lý, nói chung là suy lường, đắn đo, ước lượng, phánđoán, v.v., gọi là tư lương. Nói gọn, tư lương là hoạt động của một cái tôi, chỉ cho thứ thứ 7, Mạt na, là ý thức tự ngã.
3. Tầng hoạt động bên ngoài, là các hoạt động của ý thức cùng với các giác quan.
Khi nói “tâm sinh vạn pháp”, là nói về A lại da (tên khác của chân như), cụ thể, nó kho chứa tích lũy nhiều đời nhiều kiếp của vô số hạt giống năng lực của nghiệp, để rồi đến khi chín muồi, nghĩa là sau một quá trình đã được xử lý,các hạt giống năng lực hay năng lượng ấy biến chuyển,và biến thái thành thân, tâm và thế giới; chúng được duy trì do lực tương tác, tức hỗ tương tác dụng theo quy luật duyên khởi.
Dh Tâm Tịnh có lòng muốn chú thích những điểm khó hiểu, tôi đồng ý. Nhưng vấn đề là những dịch phẩm đều đã được xuất bản, và không phải dịch giả nào cũng có khuynh hướng chú thích cặn kẽ trong dịch phẩm của mình. Người học Phật phải tìm hiểu thôi. Riêng câu cuối, chữ “tự tánh” nó xuyên suốt trong Pháp bảo đàn, nên ai đọc từ đầu đến cuối thì cảm nhận được ý nghĩa của nó, theo cách nôm na , là Tâm thể, Bản tâm, thiền tông gọi là Bản lai diện mục, Pháp hoa gọi là Thật tướng. Tâm là nước mà đang đóng thành băng, băng rã thì nước hoàn nước. Thế nên, không môt đặc tính và sự dụng nào của đời sống mà tách rời tự tánh thanh tịnh, tức chân như, chân tâm, Phật tính. Tâm ấy là Phật (bản thể, nước), Tâm ấy làm Phật (sự dụng, thoát ly chướng ngại dơ bẩn: phiền não chướng và sở tri chướng – nước đóng băng rồi tan rã).


Tâm Tịnh :
Xin được chia sẻ thêm với quý đạo hữu: Tâm Tịnh vẫn nghĩ chữ Tự Tánh trong cả 5 câu có chung một nghĩa, đều là Chân Tâm, mình có thể để nguyên như vậy: "Ngờ đâu tự tánh năng sanh muôn pháp.", nhưng cần có cước chú, giải thích chữ "sanh" với ý nghĩa sanh sống, luôn tồn tại, hiện hữu, có mặt trong muôn pháp, chứ không phải sanh ra, sinh sôi, nảy nở. Trong nhà Phật, có mệnh đề "trùng trùng duyên khởi": trong thế giới hữu vi này, những sinh sinh, diệt diệt của muôn pháp xảy ra liên tục, duyên bé, duyên lớn do đó luôn luôn sinh khởi, trùng trùng điệp điệp khởi duyên, vì thế chúng ta thấy, bề ngoài (thân) cũng như bề trong (tâm trí) của mỗi người mỗi khác, vì mỗi người đã qua vô lượng kiếp, đã tạo vô số nghiệp khác nhau, trùng trùng duyên khởi khác nhau, do đó, thân tâm của mỗi người chịu quả khác nhau, người thông minh, kẻ kém trí, người nhanh nhẹn, kẻ chậm chạp, người đẹp đẽ, kẻ sinh ra đã dị hình v.v... do đó, trên thế giới này, có khoảng 7 tỉ người, mà có ai giống hệt nhau đâu, ngay cả cặp sanh đôi, vẫn có những điểm khác nhau. Nếu chúng ta không để ý tu sửa tâm mình, dừng tâm sinh diệt (dừng sóng trên mặt biển - dừng tâm động) để sống với chân tâm (thì mặt nước biển mênh mông phẳng lặng hiện ra - Tâm Phật hiển lộ; nước biển không sinh ra sóng - Chân Tâm Tự Tánh không sinh ra muôn pháp), thì chúng ta mãi mãi lăn trôi trong sinh tử luân hồi, mãi mãi khổ, mãi mãi phải lập lại tiến trình sinh, lão, bệnh, tử. Kính, Tâm Tịnh.

Tâm Tịnh :
Rất cảm ơn về những lời khuyên của đh Từ viên. TT xin ghi nhận. Kính chào đạo hữu.

Tâm Tịnh :
Kính thưa Thiện Tri Thức Quảng Minh, Tâm Tịnh (TT) thấy đh biết nhiều về kinh, nên nghĩ rằng, chắc hẳn đh là nhà tu hành (-: dù sao đh cũng là bậc thầy của TT, xin chân thành cảm ơn đh đã rất sốt sắng giải thích những từ được dùng ở câu trong đề tài, để rồi đưa tới kết luận, có thể dịch tạm là: "Đâu ngờ tự tánh có năng tính sinh khởi vạn pháp." để ý được chính xác hơn. Ngoài ra, đh cũng nói, "Ý nghĩa của "tự tánh" chỉ cho Bản tâm", vậy kính thưa đh, Bản tâm có phải là một cách gọi khác của Phật Tánh không ạ? Hay cũng có 3 mặt như tự tánh? Và Phật Tánh chỉ là một mặt trong 3 mặt giống như tự tánh? Trong một ý kiến trước đó, đạo hữu cũng có đề cập rằng, "bốn câu đầu là mặt chân như, câu cuối là mặt sinh diệt". Như trước đây, TT đã đề cập, TT chỉ biết Tự Tánh chỉ là một cách gọi khác của Phật Tánh, vì chỉ riêng Phật Tánh có tự tánh (tự có tánh riêng, độc lập, làm chủ được chính mình, không lệ thuộc vào duyên nào cả, không phan duyên với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, Tự Tánh thanh tịnh, tĩnh lặng, không sanh, không diệt v.v...), đây là lần đầu tiên, qua đh, TT được biết tự tánh có 3 mặt, trong đó, có mặt sinh diệt. (Cả từ "Bản tâm", TT cũng được dạy chỉ là một cách gọi khác của Chân Như, Phật Tánh). Vậy, nếu từ "tự tánh" không thể thay đổi và chữ "sinh" trong "sinh ... vạn pháp" vẫn được dùng, thì trong trường hợp này, cước chú vẫn rất cần thiết để ghi sự khác biệt giữa nghĩa tự tánh của 4 câu trên và nghĩa tự tánh ở câu cuối cùng, vì cả 5 câu được viết liên tục nhau, làm sao người đọc biết được có nghĩa khác nhau?
Rất cảm ơn đh đã cho TT biết: trong 5 dịch giả, chỉ còn duy nhất dịch giả Nguyễn Minh Tiến. Xin kính chào đạo hữu Quảng Minh.

Từ viên :
Mot vai dieu goi den dh tam tinh!
Dh co su tim toi rat tot, tuy nhien ban chua tiep can duoc nen phat hoc dai thua nen rat kho de linh hoi, cach dich cua cac ban dich tren rat sat nghia, tuy theo moi nha moi truong phai phat hoc nhu duy tong, thien thai tong, phap hoa tong... Se co cai nhin khac nhau, nhung ban chat van la mot. Noi de hieu hon, tanh cua cac phap hay con goi su vat hien tuong tuc la phap tanh, van loai chung sinh goi la tu tanh, tu tanh la noi thang vao ban chat cua chung sinh, de hieu dc tu tanh trong moi chung sanh can phai co su trai nghiem tam linh moi linh hoi duoc,cac phap trong vu tru deu duoc sinh khoi tu tang thuc, hay a lai da thuc... Nhung de hieu duoc dieu nay thi phai nghien cuu ve duy thuc tong, ma duoc noi ro trong bo luan thanh that, toi khong the giai thich tuong tan cho ban duoc, vi no sau sa va chuyen mon, noi don gian vi sao mat tiep xuc voi the gioi no nhan biet duoc moi su vat hien tuong vi du nhin cai nha la biet cai nha, nhin chiec xe la biet chiec xe, vay cai nha hay chiec xe no co tu trong tam hay tu ben ngoai? Nen moi noi co thi co tu may may, khong thi ca the gian nay cung khong, ban co thoi gian nghien cuu luan thanh that se hieu ro hon, tu do de noi rang van phap do tam co, tat ca deu khong ngoai tam. Nhu vay, cach dich tren cua cac bac truong thuong rat sat voi nghia ly. Chuc dh tham nhap duoc ao nghia dai thua. A di da phat

Quảng Minh :
Kính thưa đạo hữu Tâm Tịnh,
Tôi xin được đính chính, tôi là một Phật tử tại gia.
Những câu trong Pháp bảo đàn kinh, do H.T Thích Duy Lực dịch, được trích dẫn về "tự tánh". Hai chữ "tự tánh" là chữ mà Pháp bảo đàn kinh sử dụng rất nhiều. Dĩ nhiên tùy theo tính từ hay danh từ đi kèm mà tự tánh chỉ cho "Tâm" (viết hoa) hay trí, hay bản chất của một sự thể.
Bài viết của đạo hữu bài về 5 câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, trong đó, đạo hữu thấy có sự mâu thuẩn. Mong rằng, sau những chia sẻ, đạo hữu không còn thấy mâu thuẩn nữa.
Về việc dịch thuật câu cuối: 何期自性,能生萬法 hà kỳ tự tánh, năng sinh vạn pháp
"Tự tánh" không thể sửa đổi vì: 1. Tự tánh là chữ dùng của Pháp bảo đàn kinh; 2. Mạch văn không cho phép sửa đổi; 3. Ý nghĩa của "tự tánh" chỉ cho Bản tâm.
"Vạn pháp" bao gồm 3 cõi, 5 đường và 3 tạp nhiễm (phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm và sinh tạp nhiễm).
"Năng sinh": nếu dịch là "hay sinh", "có thể sinh" thì hơi tối nghĩa (dù gì "hay sinh" vẫn khá hơi "có thể sinh"). Năng có khi dịch là có khả năng, có năng lực. Ở đây tôi đề nghị dịch là "có năng tính". "Sinh", ở đây chỉ có nghĩa là "sinh khởi", như trong định thức duyên khởi: Cái này sinh thì cái kia sinh. Nghĩa "sống" không thích hợp. Nếu hiểu "tự tánh" là năng sinh, tức chủ thể sinh, thì "vạn pháp" là sở sinh, tức cái được sinh. (đứng trên mặt tục đế mà tạm nói như vậy)
Như vậy, tạm dịch: "Đâu ngờ tự tánh có năng tính sinh khởi vạn pháp." (nhưng dịch như vậy thì dài dòng)
Tôi không muốn bàn việc bản dịch của ai đúng sai. Tôi chỉ muốn đạo hữu hiểu đúng câu cuối, và khi đã hiểu rồi thì việc tôi xong. Dịch giả chịu trách nhiệm hoàn toàn về bản dịch của mình. (trong 5 vi dịch giả, hiện chỉ còn cư sĩ Nguyễn Minh Tiến - xin vào trang rongmotamhon.net)
Thân chào đạo hữu Tâm Tịnh.

Tâm Tịnh :
Cảm ơn đh Tuệ Huy đã trích ra những đoạn kinh diễn tả rất rõ ràng. Vậy thì khi tâm còn sinh thì mới tạo, sanh ra pháp. Chữ tâm trong câu "vạn pháp do tâm tạo" là tâm sinh diệt (chứ không phải Bản Tâm hay Chân Tâm - Tâm Giải Thoát, Tâm Bất Sinh), có sinh, ắt có diệt, hay nói gọn một chữ là tâm động. Chồng nổi nóng (sinh), vợ vuốt ve, khuyên nhủ, chồng nguôi ngoai, hết cơn nóng (diệt). Thèm ăn bánh cuốn (sinh), xách xe đi tìm bánh cuốn, ăn no, hết thèm (diệt) v.v... đủ thứ ý niệm liên tục trong đầu, sinh sinh, diệt diệt ... tạo ra muôn pháp hay vạn pháp là vì thế, tốt có, xấu có, sinh để lợi cho người có, mà sinh làm hại cho người cũng có ... Rất cảm ơn đh và các đh khác đã góp những ý kiến xây dựng, tất cả đều cho chánh pháp được lan truyền và trường tồn. Rất đồng ý với ĐH Phan Bửu Thông, học, hiểu và hành phải song hành với nhau, nếu không chẳng ích lợi gì. Tâm Tịnh.

Quảng Minh :
“Huệ Năng bạch Hoà Thượng: Tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ chẳng lià tự tánh, tức là phước điền, chưa rõ Hoà Thượng bảo làm việc gì?”
“Sanh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu lià khỏi biển khổ sanh tử, tự tánh nếu mê, phước làm sao có thể cứu được?”
“Tổ đã biết Thần Tú chưa được vào cửa, chẳng thấy tự tánh.”
“Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp là ÐẠI,muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người.”
“Thiện tri thức, tất cả TRÍ BÁT NHÃ đều từ tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức, gọi là chơn tánh tự dụng.”
“CÁI TRÍ của BÁT NHÃ vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm mê tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ tự tánh, tức là tiểu căn.”
“bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là TỌA, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là THIỀN.”
“Tự tâm vô ngại, thường dùng trí huệ chiếu soi tự tánh”
“Các ngươi hãy nghe, nay ta khiến các ngươi ngay nơi tự thân được thấy tự tánh có tam thân Phật; tam thân Phật này từ tự tánh sanh ra, chẳng từ bên ngoài mà được.”
“Hữu vô đều chẳng chấp,
Tự tánh luôn luôn hiện.”
“Nếu ngộ được tự tánh, cũng chẳng lập Bồ Ðề Niết Bàn”
“Như vậy mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh”
“Chơn như tự tánh thị chơn Phật,
Tà kiến tam độc thị ma vương.”

Tâm Tịnh :
Kính thưa thầy Quảng Minh, thực ra mình chỉ sửa bản dịch mà thiếu, hoặc sai thôi, chứ mình đâu có sửa lời của ngài Lục tổ, cũng như BBT TVHS sửa những điểm dịch sai nghĩa đối với bản chính trong Tâm Bất Sanh, chứ đâu có sửa lời của ngài Bankei. Hẳn là thầy đồng ý với con? Thầy cũng thấy, trong một chữ có thể có nhiều nghĩa, ngôn ngữ nào cũng vậy, tùy theo chữ đó nằm trong nội dung của câu nào. Nếu người dịch không biết về lý tánh của sự việc đang nói, không hiểu ý của người viết, thì sẽ lựa chữ có ý nghĩa sai ... và có thể chỉ một chữ mà rất tai hại. Con nghĩ có 2 cách:
1) Mình lựa chữ "sống" thay cho chữ "sanh", đương nhiên là bỏ chữ "ra", bỏ chữ "có thể" ở trong bản dịch nào có những chữ này.
2) Mình để chữ "sanh", bỏ chữ "có thể"
Cả 2 cách đều cần có cước chú để làm rõ nghĩa.
Xin thầy và các bậc Thiện Tri Thức, xuất gia và tại gia, thêm ý kiến. Đây là mình đang kết tập đấy thầy ạ, một kết tập nhỏ nhưng ý nghĩa lớn, dù chỉ một chữ, một câu, nhưng rất quan trọng, nói đúng ý Phật, đúng ý ngài Lục tổ và mang ánh sáng tới những người còn cho là Phật Tánh tạo ra muôn sự, an bài, định đoạt mọi sự việc xảy ra trên thế gian này. Kính thầy, Tâm Tịnh.

Tuệ Huy :
Trước hết cám ơn Thầy Quảng Minh và ĐH Tâm Tịnh đã giải minh một số vấn đề then chốt.
Đúng như Thầy Quảng Minh đã trình bày. Chân Như, Bổn Tâm, hay Tự Tánh có hai mặt: "Chân như là mặt bất biến của Tâm. Chân như có hai mặt là bản tịnh và khách trần, cho nên ở mặt nhiễm ô, là pháp duyên khởi; ở mặt thanh tịnh, là trí vô phân biệt, hay được gọi là Như lai tạng, là Như lai pháp thân"
Đó là hai mặt tịnh và động của Tâm, cũng chính là hai mặt Thể và Dụng của Tâm
ĐH Tâm Tịnh có đưa ra câu hỏi: Chữ "tạo" trong "vạn pháp duy tâm tạo" theo đh thì nghĩa gì?
Để trả lời câu hỏi này, xin trước trích ra một đoạn Kình trong Tăng Chi Bộ Kinh, Kinh Cội Rể Sự Vật, Phẩm Niệm, trang 759 do HT Thích Minh Châu dịch:
" - Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo có hỏi như sau: “Thưa Hiền giả, tất cả pháp lấy gì làm căn
bản? Tất cả pháp lấy gì làm sanh khỏi? Tất cả pháp lấy gì làm tập khởi? Tất cả pháp lấy gì làm chỗ tụ
hội? Tất cả pháp lấy gì làm thượng thủ? Tất cả pháp lấy gì làm tăng thượng? Tất cả pháp lấy gì làm tối
thượng? Tất cả này pháp lấy gì làm lõi cây?” Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy trả lời như sau:
“Này chư Hiền, các pháp lấy dục làm căn bản. Tất cả pháp lấy tác ý làm sanh khởi. Tất cả pháp lấy xúc
làm tập khởi. Tất cả pháp lấy thọ làm chỗ tụ hội. Tất cả pháp lấy định làm thượng thủ. Tất cả pháp lấy
niệm làm tăng thượng. Tất cả pháp lấy tuệ làm tối thượng. Tất cả pháp lấy giải thoát làm lõi cây”. Được
hỏi như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như vậy"
Đoạn Kinh này rất quan trọng vì nó nói liên "thể-cách" các Pháp được "tạo" ra trong Tâm. Tựa đề bài Kinh là "Cội rễ Sự Vật"
Câu thứ nhất: "Tất cả Pháp lấy dục làm căn bản". Dục là "động" của Tâm (biểu lộ là trạng thái ham muốn), vô dục là không động, được như thế thì các Pháp lấy gì Sanh khởi? Bậc Alahán là người ly dục đến mức không còn dư tàn nên an trú trong bốn câu đầu "không ngờ.." của Lục Tổ, tức là Bản Tịnh Của Tâm.
Câu thứ hai: "Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm sanh khởi". ĐH nghiệm lại coi có đúng không? Nếu ĐH "không tác ý tất cả tướng", thì có Pháp nào xuất hiện không? Vì thế cho nên Thế Tôn nói "Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm sanh khởi"
Tương tự như thế, câu thứ ba: "Tất cả Pháp lấy Xúc làm tập khởi". Nếu không có xúc (chỗ gặp gỡ của căn trần thức) thời có pháp nào khởi lên hay không?
Câu thứ tư: "Tất cả Pháp lấy Thọ làm chổ hội tụ". Câu này rất vi tế khó thấy. Vì sao nói Thọ là chổ hội tụ, cái gì hội tụ? Phân tách điều này để làm rõ nghĩa rất dài và chi tiết, xin hẹn ĐH vào dịp khác.
....
Xin ĐH thong thả chiêm nghiệm trên tự thân chính mình đoạn kinh trên, bây giờ xin trở lại câu hỏi: Chữ "tạo" trong "vạn pháp duy tâm tạo" theo đh thì nghĩa gì?
Các nhân duyên được Thế Tôn trình bày trong đoạn kinh trên về cội rễ của sự sanh khởi và đoạn diệt của Vạn Pháp rất rõ rành minh bạch: Nó bao gồm: "Dục, Tác Ý, Xúc, Thọ, Định, Niệm, Tuệ, và Giải Thóat". Trong đó, Dục, Tác Ý, Xúc, Thọ, Định, Niệm, thuộc phần sanh khởi, Tuệ và Giải Thoát thuộc phần đoạn diệt của các Pháp. Tất cả các yếu tố đó đều thuộc về Tâm, có liên hệ tới thể cách vận hành của Tâm. Chính vì lý do đó mà nói "Vạn pháp duy tâm tạo". Dĩ nhiên, như đã nói ở trên, đây là nói về phần Dụng của Tâm. Nếu Tâm không động (vô dục) hay Tâm cùng tu với Tuệ, thì quả Giải Thoát phải đến. Đó là Cội Rễ Sự Vật, Như Nó Đang Là do Đức Thế Tôn khai thị cho chúng ta qua đoạn Kinh trên. Thân Kính.


Quảng Minh :
A lại da thức hay bản thức là căn bản của thân thể (và thế giới của thân thể), của sự sống (và đời sống) của các thức (và đối tượng của các thức). Một cách nhìn khác, năng tính (chủng tử) và biểu hiện (hiện hành) của các pháp toàn là bản thức. Cái gọi là thế giới chỉ là sự biểu hiện tương tự (cộng biến) của các nghiệp thức tương tự (cộng nghiệp).
Nhiếp luận: “Tại sao A lại da huân tập thì không đa dạng, mà lại làm nhân cho các pháp đa dạng? Như tấm vải được nhuộm, khi nhuộm thì chưa có đa dạng, nhuộm rồi thì nơi tấm vải có những màu sắc và đường nét đa dạng. A lại da cũng vậy. Nó được sự huân tập bởi các pháp đa dạng, nhưng khi huân tập thì chưa có đa dạng, huân tập rồi thì các pháp đa dạng hiện hành.”
“Sự duyên khởi như đã nói trên đây, thì trong đại thừa cũng đã rất sâu xa.Thêm nữa, nói đại khái thì duyên khởi có 2 loại. Một là duyên khởi ra tự tánh khác nhau, hai là duyên khởi ra tự thể khác nhau. Ở đây do A lại da mà các pháp sinh ra, đó là duyên khởi ra tự tánh khác nhau, vì làm duyên tố cho những tự tánh khác nhau. Lại có sự duyên khởi của 12 chi, đó là duyên khởi ra tự thể khác nhau, vì làm duyên tố cho những tự thể tốt xấu khác nhau.”
(Tự thể là sinh mạng và thế giới của sinh mạng, nói chung là quả báo.)
H.T Thích Trí Quang giải thích: “Cả 2 sự duyên khởi đều là do A lại da. Duyên khởi thứ nhất do danh ngôn huân tập, duyên khởi thứ hai do hữu chi huân tập. Duyên khởi thứ nhất là chất liệu, duyên khởi thứ hai là tổ hợp. Nhân sinh vũ trụ do duyên khởi thứ nhất mà thành các pháp biệt thể khác nhau, do duyên khởi thứ hai mà các pháp biệt thể ấy thành ra quả báo tổng thể khác nhau.”
Những gì trên đây có thể tạm giải thích cho câu: “Không ngờ tự tánh vốn sinh vạn pháp.”

Tâm Tịnh :
Con vừa gởi đi và Ý Kiến đã nhận cách này, hy vọng TVHS sẽ sửa phần ý kiến để nhận URL. Con xin được tiếp tục những gì con đang viết:
Dù sao, thì mình vẫn cần cước chú trong mỗi sách đã dịch, giải thích rõ ràng như thầy đã làm, để không ai về sau này còn lầm lẫn nữa, sự lầm lẫn hiểu chánh thành tà rất tai hại cho kiếp người, dù chỉ một niệm sai, vẫn là sai, huống chi lại là một Lý lớn trong Phật Học, Lý Duyên Khởi, vì chính còn tâm sinh diệt mà mang nghiệp, tạo duyên, để rồi Lý Duyên Khởi thành hình, vạn pháp cứ thế mà sinh! Đây chỉ là một bài được đăng trên một website, mặc dù là một website Phật Giáo chân chính và đứng đắn và được nhiều người biết tới, tuy nhiên, mình cũng không biết chắc là các bậc có tiếng tăm trong Phật Giáo Việt Nam có đọc không, nên con nghĩ, Thầy làm việc này là hay hơn cả, vì thầy đã tường tận kinh sách, thầy trình với các ngài, cũng may là còn có ngài Thích Thanh Từ còn ở với chúng ta, thầy Thanh Từ thì đại diện bên Thiền Tông, rồi thầy Giới Đức đại diện bên Nguyên Thủy, và ... con không biết ai nữa (-: để các ngài "chứng minh" và "đóng con dấu", thì người ngày nay và người ngày sau sẽ tin và nghe theo hơn và chấm dứt sự lầm đường trong câu dễ lạc dẫn này, mình cũng cần liên lạc với những dịch giả còn tại thế như Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến (Cư Sĩ Đoàn Trung Còn thì con không biết còn hiện diện không), còn ba vị kia, thì con biết Ni Sư Trí Hải đã ra đi, còn 2 vị con không biết đã viên tịch chưa? và con cũng không biết còn dịch giả nào dịch kinh này nữa không, để các vị sửa sách cho hợp nhất với chánh pháp. Việc nào con có thể làm được, con xin hết lòng, sau khi có bản viết đồng thuận với tất cả, nếu không có bản Microsoft Word để sửa, mà chỉ có dưới dạng PDF (do chỉ scan, mà không đánh máy lại), thì con cũng sửa/thêm được. Xin thầy suy nghĩ thêm và cho con biết ý kiến. Con chân thành cảm ơn thầy. Tâm Tịnh.

Tâm Tịnh :
con đã thử paste the url của sách này vào đây, nhưng vì giới hạn của ý kiến chưa nhận text dưới dạng url, nên con thử diễn tả vậy, rồi thầy và các vị mà muốn vào xem, sửa theo để có một url đúng format (thay thế colon bằng hai chấm (:), dot bằng dấu chấm (.) và bỏ đi tất cả blank spaces):
http colon // thuvienhoasen dot org / a17038 / tam-bat-sinh
http://thuvienhoasen.org/a17038/tam-bat-sinh
Kính thầy Quảng Minh, con cám ơn thầy đã giải thích rất rõ, như vậy, dùng cùng một chữ Tự Tánh, mà lại có 2 nghĩa của 2 mặt trái ngược nhau: 4 câu đầu là tánh Phật, câu cuối là tánh phàm.
"Bốn câu đầu là mặt chân như . Câu cuối là mặt sinh diệt."
Thầy nói: "Câu nói của Lục tổ là như vậy, không thể sửa đổi, trên nguyên tắc phiên dịch. Huống chi sửa đổi thì càng sai."
Vâng, mình không thay đổi câu nói của ngài Lục tổ (chữ Hán vẫn y chang), nhưng mình có thể sửa đổi bản dịch đúng ý của ngài Lục tổ, hợp với chánh pháp như thầy giải thích, được chứ ạ? Khi tất cả đồng thuận, vị dịch giả nào còn có mặt trên dương trần, thì sửa luôn sự dịch của mình trong lần tái bản kế tiếp, có thể sửa tạm trên văn bản online, còn vị nào đã khuất, thì mình ghi trong cước chú (tương tự như một lần TVHS BBT đã cước chú trong sách dịch Tâm Bất Sinh của Ni Sư Trí Hải:

Tâm Tịnh :
Rất cảm ơn đh không-pháp đã dành thời gian xem lại sách và góp ý, đh còn biết tiếng Hán và thông hiểu Phật pháp để phân tính nữa, đh giải thích rất hợp lý, tuy nhiên, dù mình để cả 2 chữ SANH trước (ngộ ra bản tánh) và SỐNG (bản tánh luôn hiện hữu), mình vẫn phải cần cước chú đh ạ. Xin ghi nhận ý kiến của đh. Đa tạ. Tâm Tịnh.

không-pháp :
Năm 87 có về Tào Khê đảnh lễ dâng hương và trầm<miến trầm nầy ở Miền trung VN> bái lạy Lục Tổ... vưà đến cổng tam quan chùa Nam Hoa Tào Khê, giưã trưa muà hạ trời nóng nực khó chiụ... đùng một cái trời đỗ mưa rất kỳ lạ, cơn mưa lớn nhưng dừng rất nhanh, vào trong nội viện chuà mà lòng rất buồn cho cơn mưa ấy: trong lòng nghĩ bậy bạ rồi đột nhiên chưĩ thề< có sao nói vậy xin lượng thứ>vaò đến hậu điện ...KP cũng như mọi người: đốt hương,để trầm trước kim thân của Tổ... rồi lạy vừa cử tay lên tráng trực diện với mặt Tổ thì hốt nhiên kinh ngạc có một năng lực kỳ lạ phóng ra từ kim thân cuả Tổ mà KP trực giác được lúc âý để rồi tự tâm cảm ứng giao thông nói lên một lời kỳ dị:NÀO DÈ LỤC TỔ LÀ NGƯỜI VIỆT NAM!!! về sau nhiều năm KP mới đọc:bản dịch của thầy MÃN GIÁC,Thần Hội muốn thanh minh cho Tổ... và đã bị giam cầm 6 năm<việc đại bí mật này liên quan với dân tộc Việt Nam>... về sau còn duyên thì viết rõ ràng hơn...ngoài ra còn nhiều chuyện truyền khẩu cuả người dân Thiều quan mà không thấy có ghi trong Đàn Kinh, như những công án đơn sơ và căn bản bình dân... nhưng sự thấu triệt đến cội nguồn u huyền được gọi là : KHẨU TRUYỀN, và BẤT LẬP VĂN TỰ...< những người biǹh dân đến học Pháp với Tổ chứ không chỉ chư trí thức> chỉ có con người mộc mạc biǹh dị phương nam ấy mơí làm nên được việc nầy: HUỆ NĂNG...

Quảng Minh :
Chân như là mặt bất biến của Tâm. Chân như có hai mặt là bản tịnh và khách trần, cho nên ở mặt nhiễm ô, là pháp duyên khởi; ở mặt thanh tịnh, là trí vô phân biệt, hay được gọi là Như lai tạng, là Như lai pháp thân.
Đọc Khởi tín luận của đại sĩ Mã Minh, ta thấy bản thể của Tâm ta là Chân như: “Tâm có hai mặt: mặt chân như và mặt sinh diệt. Mặt nào cũng bao quát toàn thể các pháp, tại sao, vì hai mặt như vậy không phải tách rời lẫn nhau.”
Bốn câu đầu là mặt chân như . Câu cuối là mặt sinh diệt.
Lục tổ Huệ Năng lặn lội đến Hoàng mai yết kiến ngũ tổ. Khi được Ngũ tổ giảng đến câu: "Ưng vô sở trú nhi sinh kỳ tâm”, thì Huệ Năng đại ngộ tất cả các pháp không ngoài tự tánh, và thưa rằng: “Không ngờ tự tánh vốn tự trong sáng, không ngờ tự tánh vốn bất sinh diệt, không ngờ tự tánh vốn tự đủ cả, không ngờ tự tánh vốn không dao động, không ngờ tự tánh vốn sinh vạn pháp.” Sau này Lục tổ khuyên người làm theo chánh định Bát nhã bằng cách tụng niệm Kim cương, với lời nói giản dị: “Lúc nào chỗ nào tâm cũng đừng ngu, ngu một chút là bát nhã mất một chút, trí một chút là bát nhã sinh một chút.”
Tự tánh là tự tánh của Tâm, là bản thể của Tâm vừa đề cập.
Theo Chỉ quán luận của Tuệ Tư: “Tâm thể vốn đủ 2 trạng huống vắng lặng và hoạt dụng" Tâm thể thì bất nhị (không sai biệt), bình đẳng (nơi chúng sinh hay nơi Phật hoàn toàn như nhau), vô tướng (siêu việt hình tướng, khái niệm). Tâm tánh, tức tính năng của Tâm (hoạt dụng), như mặt gương phản chiếu hình ảnh tốt xấu, có 2 loại: tính thuận (thuận hợp với Tâm) hay tính tịnh (tính trong sạch); tính trái (chống trái với Tâm) hay tính nhiễm (tính dơ bẩn). Tính năng của Tâm cũng vậy, chỉ là nhất vị, không trở ngại hay phá hoại lẫn nhau, đặc biệt không tính năng nào mất đi, dầu ở giai đoạn chúng sinh hay giai đoạn chư Phật.
Bốn câu đầu chỉ cho tâm thể. Câu cuối chỉ cho tâm tánh.
Câu nói của Lục tổ là như vậy, không thể sửa đổi, trên nguyên tắc phiên dịch. Huống chi sửa đổi thì càng sai.

không-pháp :
菩提自性本來清淨,但用此心,直了 佛 trong(行由品) đây là TÂM PHÁP trùng hiện qua khẩ̉u thuyết đầu tiên cuả Lục Tổ Huệ Năng... ẩn tàng trong Tâm truyền Tâm, từ Một thời 拈花微笑<niêm hoa vi tiếu>... đến CAÍ ĐANG LÀ...vượt qua sự nguyên cưú và hành tu (Văn, Tư, Tu) như Tâm Tịnh... ghi ở trên cho KP thêm một chút mắm muối: Khẩu Ngữ và Văn viết trong từng vùng cuả người Tàu từ Lục Tổ cho đến bây chừ vẩn là một điều quảng đại phức tạp Rắc rối...Phật Thích Ca đã dùng khẩu ngữ< địa phương or vùng> thuyết truyền TÂM PHÁP taị xứ Ấn thời ấy... Lục Tổ thời ấy sinh sống trong vùng: Quảng Đông, quảng tây or lớn hơn chút đến Động đình hồ...nam hoa tự ở thiều quan phát âm có khác đi một chút giọng so vơí giọng quảng đông< thiều quan cũng thuộc QĐ>..." Tất cả bản kinh khác nhau
của Pháp Bảo đàn kinh đều xác nhận hai điều quan trọng:
Thứ nhất: Huệ Năng không biết đọc và không biết viết chữ Tàu;
Thứ hai: Huệ Năng sinh trưởng tại Lĩnh Nam và hoằng pháp chung quanh vùng
Nam Hải, tức là Phiên Ngung (thuộc lãnh thổ Việt Nam thời đó).
Và điều quan trọng là tất cả các bản khác nhau của Pháp Bảo ðàn kinh đều còn giữ
lại ít nhất hai lần, nếu không muốn nói là năm sáu lần những câu đại loại sau đây để
chứng tỏ Huệ Năng không phải là người Hán tộc mà làngười Việt Nam:
- Hoằng Nhẫn mắng Huệ Năng: “Mi là dân Lĩnh Nam, vốn là đồ mọi rợ, làm thế
nào thành Phật được?” (phân đoạn 3, bản ðôn Hoàng).
- “Thực không ai ngờ nơi đất Lĩnh Nam lại được phúc có Phật sinh ra nơi ấy”
(phân đoạn 37, bản ðôn Hoàng).
Mấy chữ “đồ mọi rợ” ở đây là dịch mấy chữ chửi thề ở đời đường “các lão 獦獠” mà
Yampolsky đã chú thích như sau: “Ko-lao” (các lão) là một tiếng mắng chửi, có nghĩa
là dân dã man, gần như súc vật ở phương Nam nước Trung Hoa (tức là Việt Nam)”
(op. cit., trang 127).
Chỉ nội mấy chữ “các lão” trên cũng đủ để chứng minh Huệ Năng không phải người
Trung Hoa mà là người Lĩnh Nam.(Thich Man Giac)"... Đến đây mới vào đề câu:何期自性能生萬法。Phiên âm chữ Hán Việt:Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp. Tâm Tịnh Xin được sửa lại là: Đâu ngờ Tự Tánh sống trong muôn pháp...菩提自性本來清淨: Bồ Đề Tự Tính bản lai Thanh Tiṇh: IF vào được: 自性清淨<KIẾN TÁNH> Huệ Năng không biết đọc và không biết viết chữ Tàu;( không phải là người bản xứ )< tức ngoại tộc> .thì miệng đọc giống như tam tự kinh vậy: 何期,自性, 能生, 萬法...Từ TÂM THỂ THẤY TÁNH hoát nhiên kinh ngạc:能生(trùng trùng HIỆN TƯỚNG SANH KHƠĨ SỐNG ĐỘNG ẤY...) LẠ THAY TỰ TÁNH NĂNG SỐNG, SINH RA MUÔN PHÁP, chữ:何期 này là sự Trực tâm trong VÔ NHƠN NGÃ< cái TỰ BIẾTkhông còn< XÍ́A> vào nưã. vậy::何期自性能生萬法 có thể dịch: LẠ THAY TỰ TÁNH NĂNG SANH VÀ SỐNG TRONG VẠN PHÁP... có nên chăn? !!! khong-phap

Quảng Minh :
Nhiếp luận: “Y tha khởi tướng là gì? Là các thức do a lại da làm chủng tử và thuộc về phân biệt hư vọng. Các thức ấy là gì? Là thức thân, thức chủ thể của thân, thức chủ thể của sự tiếp nhận, thức được tiếp nhận, thức tiếp nhận, thức thì gian, thức số mục, thức thế giới cư trú, thức nói năng, thức mình người, thức đường lành đường dữ. Tựu trung, thức thân cho đến thức nói năng là do chủng tử của danh ngôn huân tập, thức mình người là do chủng tử của ngã kiến huân tập, và thức đường lành đường dữ là do chủng tử của hữu chi huân tập. Các thức như vậy là cái y tha khởi tướng thống thuộc 3 cõi 5 đường và 3 tạp nhiễm, là được biểu hiện bởi phân biệt hư vọng. Như vậy, các thức này thống thuộc phân biệt hư vọng, đặc tính là duy thức, làm căn cứ cho sự biểu hiện không có và không thực. Như thế đó gọi là y tha khởi tướng.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
A lại da là tánh y tha. Y tha là tổng thể của tánh biến kế và tánh viên thành của nhiễm pháp và tịnh pháp. Y tha không cố định là nhiễm hay tịnh. Y tha mà thành chân thật thì tự tánh thanh tịnh hiển lộ, gọi là viên thành thanh tịnh.
Nhiếp luận: “Sanh tử là phần tạp nhiễm nơi y tha, niết bàn là phần thanh tịnh nơi y tha, chỗ dựa của hai phần là y tha. Chuyển y là chính y tha khi nổi lên sự đối trị thì chuyển bỏ phần tạp nhiễm mà chuyển được phần thanh tịnh.” (H.T Thích Trí Quang dịch)

Tâm Tịnh :
Lời của đạo hữu Tuệ Huy: "Câu cuối giờ đây đâu có vấn đề gì? "Tâm hay sanh vạn pháp" là cái lẽ dĩ nhiên: Vạn pháp duy tâm tạo." và "Vạn Pháp là "Cái Đang Là" đang phơi bày." Thưa đạo hữu, Tâm thì đh đã nói ở trên là Bản Tâm, và đưa ra câu Vạn pháp duy tâm tạo hay Bản Tâm tạo ra vạn pháp, và vạn pháp là những cái đang là? Vậy còn chữ "sanh" thì sao? và chữ "tạo" trong "vạn pháp duy tâm tạo" theo đh thì nghĩa gì? Nếu là cái đang là, thì đâu có sanh, đâu có tạo? Xin cảm ơn đh và tất cả các đh khác đã góp ý. Tâm Tịnh.

Tâm Tịnh :
Con suy nghĩ thêm, như vậy, theo như thầy Quảng Minh nói, thì tự tánh trong 4 câu đầu là Chân Như Phật Tánh, còn ở câu thứ năm, con kết hợp câu của thầy và của Hòa Thượng Thích Trí Quang về tự tánh y tha khởi, thì chính là Duyên Khởi rồi, vậy thì mình cứ nói rõ ra như vậy là tốt nhất, chứ cứ dùng thêm danh từ Hán khó hiểu làm gì cho phức tạp? Phật pháp cần nên đơn giản, rõ ràng, để mọi người dễ hiểu mà theo, con thiết nghĩ như vậy. Như vậy, câu cuối cùng, để luôn là "Đâu ngờ duyên khởi năng sanh vạn pháp" là xong thôi, đỡ phải chuyện hiểu lầm nữa. (-: Thầy nghĩ sao?

Tuệ Huy :
"Tự Tánh" ở đây tức là Bản Tâm. Ngộ tự tánh (hay bản tâm) là chủ trương chính của Thiền Tông. Năm câu "nào ngờ" của Lục Tổ thốt ra sau khi Ngài ngộ Bản Tâm. Nhân duyên của sự ngộ này sau khi nghe Ngũ Tổ giảng đến câu "Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm", tức là câu nói liên hệ tới cái "bí quyết" (vô sở trụ) để phát huy triệt để cái "Dụng" của "Kỳ Tâm". Hiểu như vậy ta có thể thay "tự tánh" thành "tâm"
Đâu ngờ tâm vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tâm vốn chẳng sanh diệt,
Đâu ngờ tâm vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tâm vốn chẳng lay động,
Đâu ngờ tâm hay sanh vạn pháp.
Câu cuối giờ đây đâu có vấn đề gì? "Tâm hay sanh vạn pháp" là cái lẽ dĩ nhiên: Vạn pháp duy tâm tạo.
Bổn tâm hay tự tánh cũng chỉ là danh từ để chỉ cái "Tánh Tự Nhận Thức Biết"
Vạn Pháp là "Cái Đang Là" đang phơi bày. Một phen "ngôn ngữ đạo đoạn", "đằng khô thụ đảo" thì "Thể Lộ Kim Phong".
Thế nên, Thiền Lão Sư mới có kệ rằng:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây trắng hiện toàn chân.
(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân)

Tâm Tịnh :
Con cảm ơn thầy đã góp ý, con xin lỗi thầy, theo sở học không thông kinh điển của con thì con chỉ biết có một "tự tánh", tự tánh này không "bị" sinh, do đó không "bị" diệt, mà thường hằng, bất biến, trong sáng, thanh tịnh. Khi con đọc 5 câu mà như thầy đã thấy trong bài, người viết/dịch chỉ dùng một từ "tự tánh", do đó, con hiểu là đang nói về một tự tánh mà thôi. Con đọc qua ý kiến của thầy, thì như vậy có 3 mặt của tự tánh: biến kế, y tha và viên thành. Kể ra cũng phức tạp đấy, nhưng nếu 4 câu đầu là tự tánh viên thành, và riêng câu thứ 5 là tự tánh y tha, thì con nghĩ, để khỏi sự hiểu lầm, thì người viết/dịch nên dùng từ khác nhau, chẳng hạn 4 câu đầu thì dùng "tự tánh viên thành" ("Đâu ngờ tự tánh viên thành vốn tự thanh tịnh" ... "Đâu ngờ tự tánh y tha hay sanh vạn pháp") và định nghĩa về tự tánh viên thành, tự tánh y tha trong cước chú, ít nhất là phải giải thích rõ ràng để người đọc không bị lầm lẫn. Nếu không phân biệt 2 loại hay 2 mặt của tự tánh, và giải thích rõ rệt, thì những người như chúng con khi đọc câu cuối này, sẽ tưởng rằng cùng một "tự tánh" hay chữ mà thường được dùng là Phật Tánh, và sẽ lầm tưởng rằng Phật Tánh sanh ra vũ trụ, vạn pháp, định đoạt nhân quả v.v... và như vậy cũng chính là Thượng Đế (nhưng dùng như một danh từ, không nhân cách hóa mà thôi), và có thể dùng từ Thượng Đế để chỉ Phật Tánh ("tự tánh viên thành" trong ý kiến của Thầy). Vậy làm sao mình sửa và cước chú những sách đã được viết/dịch đây? Xin các thầy, các bậc Thiện Tri Thức cùng góp ý để làm sáng tỏ vấn đề này. Con chân thành cảm ơn quý ngài. Tâm Tịnh.

Tâm Tịnh :
Thưa thầy Quảng Minh, con rất cảm ơn thầy đã dành thời gian ra để góp ý, hầu hoằng pháp lợi sinh, con hiểu đơn giản, ý của thầy là: có 3 loại tự tánh: biến kế, y tha, viên thành. 4 câu trên là tự tánh viên thành, câu thứ 5 là tự tánh y tha. Vậy, con không hiểu tại sao ngài Lục tổ, hay ngài Pháp Hải khi viết lại lời ngài Lục tổ không dùng từ khác để cho người sau có thể phân biệt được như thầy hiểu vậy? Và nếu thực sự như vậy, theo con học, thì nói nôm na là 4 câu trên là tánh của Tâm Bất Sinh, còn câu thứ 5 là áp dụng cho Tâm Sinh Diệt. Nếu là vậy, thì những sách đã được dịch cần có cước chú, hoặc dùng từ khác, để những người đọc trong hiện đời và đời sau không còn hiểu lầm nữa. Ai sẽ làm việc này? Con rất cảm kích tất cả các vị đã theo dõi những bài viết và hướng dẫn người người theo đúng chánh pháp. Kỹ thuật internet ngày nay đã tạo thêm phương tiện để các thầy hoằng pháp. Kính thầy, Tâm Tịnh.

Nguyễn Hoàng Tân :
Tự Tánh chính là Phật Tánh. Thế gian là môi trường không hoàn hảo cho mọi sự biến đổi hay còn gọi là vô thường. Cỏi vô thường biến dịch mãi mãi, từ đó thân tâm sẽ không bao giờ ngưng nghỉ. Từ đó vốn Tự Tánh bị môi trường Vô Thường chi phối, đó là luật của tạo hoá ( ở đây mình không muốn xủ dụgn chữ Thượng Đế)
Sự chi phối đó sanh ra vạn pháp. Nếu Tự Tánh sống trong cỏi âm, không có môi trường Vô Thường thì Tự Tánh vốn hoà n hảo ngang hàng với hư vô và tạo hoá

Quảng-Vinh :
Nếu có thể hiểu là: 'Tự tánh có khả năng sanh ra vạn pháp' thì không cần phải sửa câu như dh Tâm Tịnh đã đề nghị. Theo thiển ý, 32 ứng thân của Bồ-tát Quán-Âm cũng là từ tự tánh của Ngài sanh ra.

Quảng Minh :
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp.
Trong 5 câu này, 4 câu đầu chỉ cho tự tánh viên thành thật, và câu cuối cùng chỉ cho tự tánh y tha khởi. A lại da mặt ẩn là chủng tử của các pháp, mặt hiện là hiện hành của các pháp, các pháp ấy là y tha khởi tánh. Ngộ nhận các pháp như vậy là ngã pháp, ngã pháp ấy là biến kế chấp tánh. Giác ngộ a lại da như vậy vẫn chân như, chân như ấy là viên thành thật tánh.
Hòa thượng Thích Trí Quang giải thích: “Ba tự tánh là quan sát mọi mặt của mỗi pháp hữu vi mà nói, chứ không phải có riêng ngoài mỗi pháp ấy. Ba tự tánh có thể nói và ví dụ vắn tắt như vầy, theo Phật học đại từ điển (trang 307). Một, biến kế là ảo trạng của phàm phu ngộ nhận, như ngộ nhận sợi giây là con rắn; biến kế này chính là ngã pháp do phàm phu vọng chấp mà có. Hai, y tha là do yếu tố mà có, như sợi giây do chỉ gai và mọi sự hỗ trợ mà thành; y tha này chính là các pháp hữu vi, do chủng tử nơi a lại da nhờ các trợ duyên mà hiện hành. Ba, viên thành là thực thể của các pháp hữu vi, như thực chất của sợi giây là chất chỉ gai; viên thành này chính là pháp tánh chân như, do tuệ giác chứng ngộ. Cũng nên ghi chú rằng, nói pháp tánh tùy duyên mà thành các pháp y tha thì được coi là nghĩa thật, nói pháp tánh làm bản thể mà có các pháp y tha thì được gọi là nghĩa tạm. Ba tự tánh như vậy, tánh có nghĩa là có, nhưng mỗi tánh có mỗi cách: biến kế là vọng hữu (có một cách sai lầm) y tha là giả hữu (có một cách tương đối) viên thành là thật hữu (có một cách đích thực).”

Quảng Minh :
Và sau đây là trích dẫn kinh Giải thâm mật về 3 tự tánh:
“Đức bản, tánh của các pháp đại lược có ba mặt: một là biến kế chấp tánh, hai là y tha khởi tánh, ba là viên thành thật tánh. Biến kế chấp tánh là thế nào, là tự tánh và sai biệt của các pháp, được giả thiết bởi danh từ, cho đến làm cho theo đó mà phát sinh ngôn ngữ. Y tha khởi tánh là thế nào, là đặc tính duyên sinh của các pháp, cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, vô minh duyên sinh hành, cho đến tập hợp cả đống đau khổ thuần nhất và lớn lao. Viên thành thật tánh là thế nào, là chân như nhất quán của các pháp, chân như mà Bồ tát phải do các duyên tố tinh tiến dũng mãnh, tác ý đúng lý và tư duy không ngược mới thông đạt, bằng vào sự thông đạt này mà tuần tự tu tập, cho đến vô thượng chánh biến giác mới chứng ngộ viên mãn.”
“Đức bản, như người bị bịnh màng mắt, cái màng mắt ấy biến kế chấp tánh cũng vậy. Như người bị bịnh màng mắt thấy những ảo ảnh tóc lông ong ruồi lá diếp giây sắn hay xanh vàng đỏ trắng, những ảo tượng ấy y tha khởi tánh cũng vậy. Như người mắt đã trong sáng, hết hẳn màng mắt, bản tính con mắt trong sáng nhìn thấy cảnh vật không thác loạn, cảnh vật không thác loạn ấy viên thành thật tánh cũng vậy.”

Quảng Minh :
“Lại tựa như ngọc bạch châu trong suốt, nếu nhuộm màu xanh (61) thì thấy như ngọc đế thanh, do ngộ nhận là ngọc đế thanh mà làm cho người lầm lẫn thác loạn; nếu nhuộm màu đỏ thì thấy như ngọc hổ phách, do ngộ nhận là ngọc hổ phách mà làm cho người lầm lẫn thác loạn; nếu nhuộm màu lục thì thấy như ngọc sát sắc, do ngộ nhận là ngọc sát sắc mà làm cho người lầm lẫn thác loạn; nếu nhuộm màu vàng thì thấy như hoàng kim, do ngộ nhận là hoàng kim mà làm cho người lầm lẫn thác loạn. Tương tự nơi ngọc bạch châu trong suốt mà có màu sắc, nơi y tha khởi tánh mà có tập khí ngôn từ của biến kế chấp tánh thì cũng như vậy; tương tự nơi ngọc bạch châu trong suốt mà có những ngộ nhận đế thanh hổ phách sát sắc hoàng kim, nơi y tha khởi tánh mà có biến kế chấp tánh thì cũng như vậy; tương tự ngọc bạch châu trong suốt, y tha khởi tánh thì cũng như vậy; tương tự nơi ngọc bạch châu trong suốt, đế thanh hổ phách sát sắc hoàng kim luôn luôn và vĩnh viễn không thật có và không đặc tính, nơi y tha khởi tánh, cái viên thành thật tánh mà biến kế chấp tánh luôn luôn và vĩnh viễn không thật có và không đặc tính thì cũng như vậy.”
“Đức bản, biết do tướng và danh tương ứng làm duyên tố thì biết được biến kế chấp tánh; nơi y tha khởi tánh, biết cái chấp của biến kế chấp tánh làm duyên tố thì biết y tha khởi tánh; nơi y tha khởi tánh, biết không có cái chấp của biến kế chấp tánh làm duyên tố thì biết viên thành thật tánh.”
“Lại nữa, nếu Bồ tát có thể nơi y tha khởi tánh của các pháp mà đúng như sự thật biết biến kế chấp tánh, thì thế là đúng như sự thật biết sự vô tướng của các pháp; nếu Bồ tát đúng như sự thật biết y tha khởi tánh, thì thế là đúng như sự thật biết sự tạp nhiễm của các pháp; nếu Bồ tát đúng như sự thật biết viên thành thật tánh, thì thế là đúng như sự thật biết sự thanh tịnh của các pháp. Bồ tát nếu nơi y tha khởi tánh mà đúng như sự thật nhận biết sự vô tướng thì có thể hủy diệt sự tạp nhiễm, nếu có thể hủy diệt sự tạp nhiễm thì có thể chứng đắc sự thanh tịnh.”
“Đức bản, Bồ tát do đúng như sự thật mà biết biến kế chấp tánh, y tha khởi tánh và viên thành thật tánh, nên cũng đúng như sự thật mà nhận biết sự vô tướng, sự tạp nhiễm và sự thanh tịnh. Đúng như sự thật mà nhận biết sự vô tướng nên hủy diệt sự tạp nhiễm, hủy diệt sự tạp nhiễm nên chứng đắc sự thanh tịnh: ngang đây gọi là vị Bồ tát khéo biết tánh của các pháp, và cũng ngang đây Như lai qui định vị Bồ tát ấy là Bồ tát khéo biết tánh của các pháp.”

-Quả là câu hỏi khó dành cho các nhà lý luận đại thừa !