THIỆN ÁC

Vấn đề thiện ác từ xưa đến nay vẫn thường được nhắc đến. Hầu hết các tôn giáo và những nền luân lý khác nhau đều có qui định sẵn những mẫu mực để phân biệt hành vi thiện và ác cũng như sự hứa hẹn phần thưởng đời sau và sự đe dọa trừng phạt bằng lửa họa ngục cho các tín đồ của mình. Nhưng lúc nào cũng có người ở trong đạo đôi khi lại hoài nghi về những tiêu chuẩn thiện, ác mà tôn giáo và tập tục xã hội của họ đã đề ra. Hoặc vì những sự kiện thực tế trong xã hội đã xẩy ra chung quanh, nó có vẻ không phù hợp lắm với những tín điều mà họ đã được dạy để tin tưởng, hoặc vì họ muốn tự do sống ra ngoài những gì đã ngăn cấm, nên họ thường có những lý lẽ để hoài nghi. Có một sự thưởng phạt nào của thần linh và Thượng Đế đối với con người không? Tại sao lắm kẻ hung bạo, xảo trá lại giàu sang phú quí trong đời sống, còn kẻ hiền lành lại gặp cảnh tai ương và nghèo khó? Có ông Trời không? Nếu không thì đâu có ai oán trách Trời, Đất mà làm gì! Còn nếu quả nhiên là có, thì chả lẽ Trời lại bất công, thiên vị và không có mắt hay sao? Khoa siêu hình và thần bí học đã có những nhận định gì về các vấn đề trên để giải quyết minh bạch vấn đề thiện và ác mà nhiều người còn băn khoăn ngờ vực? Trong bài này chúng ta thử tìm hiểu vấn đề thiện ác theo những câu hỏi trên và phối hợp với khoa thần bí để cố gắng một phần nào trả lời cho những thắc mắc đó.

Trước hết cần phải giới hạn vị trí của loài người trong khả năng trí thức của họ có thể tìm hiểu về chính họ, tha nhân, thiên nhiên và vũ trụ vật chất mà sáu giác quan của loài người có thể lĩnh hội được, và một số cơ hội không nhiều lắm về những sự can thiệp của thần linh hiển lộ trong đời sống về việc chiêu họa cũng như tác phúc cho một số người được chọn làm kiểu mẫu để làm gương cho đời mà những nhà nghiên cứu về siêu hình học đã chứng kiến hoặc một số thường nhân đã có duyên tham dự. Căn cứ trên sự quan sát và luận lý trí thức để nhận định các sự kiện hữu hình và siêu hình hầu đúc kết lại những định luật vật chất hay các nguyên lý vô hình là một vấn đề khả dĩ có thể làm được. Tuy vậy tham vọng toàn tri về vũ trụ vật chất đã là một sự thất bại rõ ràng đối với các nhà khoa học hiện nay, thế thì chúng ta cũng không nên quá tham lam mà đòi hỏi tỏ rõ hết những gì thuộc về thần linh và Thượng Đế. Bằng lòng với những hiểu biết khiêm tốn của mình đó là một thái độ phải lẽ và hợp lý nhất để nghiên cứu về thế giới, vũ trụ cũng như luật Trời, bộ máy thiên cơ, thần linh… Thượng Đế.

Khoa học vật chất đã một phần nào thành công trong việc khám phá về vũ trụ, tạo vật chung quanh và con người trong đời sống hữu hình của chúng, nó cũng tìm ra một số định luật vật chất để ứng dụng vào công cuộc chinh phục thiên nhiên và cải thiện đời sống nhân loại. Hơn hai thế kỷ qua biết bao nhiêu phát minh của các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội đã được áp dụng vào đời sống thực tế. Nhân loại đã được hưởng nhiều tiện ích do khoa học hữu hình mang đến. Nhưng sau một thời gian bồng bột và sôi nổi đó, ngày nay khoa học vật chất cũng đã thú nhận là mình vẫn chưa hiểu rõ hết các phần tử vật chất li ti của một nguyên tử nhỏ nhất. Đừng nói chi đến việc muốn tìm hiểu cái vũ trụ vật chất bao la gồm hàng tỷ tỷ hành tinh như trái đất mà chúng ta đang ở. Nhà khoa học thông thái nhất hiện nay còn chưa biết rõ hình dạng cái mũi của ông ta, chân mày của ông ta có bao nhiêu cọng? Và hằng ngàn bộ phận khác trong cơ thể của chính ông ta. Vậy chúng ta có thể đi đến một kết luận không sợ sai là khoa học không đáng giá một hột cát so với chính những cái mà nó chưa biết về chính cái vũ trụ vật chất này.

Bước sang lãnh vực siêu hình, chúng ta gặp một vấn đề còn nan giải hơn khoa học hữu hình ngàn lần. Tuy vậy cái số mệnh của nhân loại hình như gắn liền với cái linh trí của một sinh vật nhỏ bé, lúc nào cũng hướng về những việc vô cùng, và hình như họ có thể cảm nhận được cái vô cùng đó mặc dù họ chẳng biết nó là gì. Đôi lúc trong những giây phút mơ màng, họ lại hý hửng tưởng rằng họ còn hơn Thượng Đế và tức tốc vung cây thiết bảng của họ để làm loạn thiên cung, để rồi rơi té xuống lãnh vực của thực tế mà nằm chiu tội dưới Ngũ Hành Sơn hơn 500 năm một cách tiu ngỉu. Phải biết trước cái ngông cuồng ngạo mạn của mình và phải thấy rõ cái trí thức không đáng giá một phần tỷ của hột cát của chính mình, từ đó hãy hành trình một chút cho vui sang lãnh vực siêu hình.

Tuy cái khí cụ khoa học chẳng có giá trị gì, nhưng ta cũng có thể mang nó nếu ta muốn, để được an tâm hơn khi tìm hiểu về các dữ kiện siêu hình. Phương pháp quan sát, phân tích, tổng hợp của khoa học có thể sử dụng để đo các dữ kiện vô hình chuyển sang hữu hình. Ngoài ra với cái tâm trạng bằng lòng với những khám phá từng phần về vũ trụ và thế giới vật chất cũng như về những sự kiện thần bí được mặc khải trong lãnh vực siêu hình, giờ đây chúng ta sẽ thử nghiên cứu về vấn đề thiện ác được nêu trên trong các phần sau:

Khi quan sát các sự kiện thực tế xẩy ra trước mắt, ở trên trời, dưới đất và trong lòng biển, người ta thấy rõ ràng một số việc hiển nhiên liên quan đến việc thiện ác đã xẩy ra trong dòng sinh hoạt của các loài thú. Trong rừng xanh, có một cái luật bất di dịch của loài cầm thú là “mạnh được yếu thua”. Con sư tử, con cọp, con beo, con gấu v.v… luôn luôn có lý để dùng chính cái sức mạnh của chúng mà quật ngã những con hươu, con nai, con dê, con trừu, con bò v.v… để ăn tươi nuốt sống chúng. Thân phận của những con vật nhỏ bé để chống lại với loài mãnh thú dã man kia chỉ còn có cách là co giò mà cố gắng chạy thoát khỏi những nanh vuốt của những con vật muốn ăn thịt chúng. Đó là một qui luật của rừng xanh. Còn ở dưới lòng đại dương thì sao? Những sinh vật li ti gần mặt biển thì ăn những chất rong rêu màu xanh. Những con cá nhỏ thì ăn những con vật li ti đó. Một số cá lớn đến lượt chúng lại nuốt những bầy cá nhỏ để tự sinh sống. Những con cá khổng lồ thì sinh tồn bằng hằng loạt những loài cá khác. Trên trời cũng vậy, các loài chim thì ăn sâu, bọ, thú nhỏ và những loài cá. Thế giới của loài vật nhìn chung khó có thể phân biệt được có thiện ác gì trong đó hay không! So chiếu lại với loài người, lịch sử nhân loại cũng đã lưu lại cho ta nhiều chứng cớ về những cuộc chiến tranh giữa người với người trong các bộ tộc nhỏ, chủng tộc lớn hơn, các dân tộc và những khối dân tộc đã đấu chiến với nhau ra sao để thống trị nhau. Đã có những dân tộc hoàn toàn bị diệt chủng hay bị đồng hóa với một dân tộc khác. Ngay trong lòng xã hội của một dân tộc, những kẻ không ngoan, khỏe mạnh, xảo trá cũng thường áp đảo những kẻ thấp cổ, bé họng và ngu dốt hơn để tranh dành quyền lợi. Chính vì những sự kiện cụ thể đó, khiến có một số người đã phải từng thốt lên câu này: “Con người là loài chó sói đối với người”.

Những hiện thực xã hội đó khiến cho một số người có đầu óc thực tiễn đã phải đề cao cái chủ trương tự mình mai nanh vuốt để khỏe như con sư tử và tinh ranh như con cáo hầu lấn áp người khác để giàu sang và cho rằng đó là một chân lý cận nhân tình nhất của những người khôn ngoan trong đời sống xã hội.

Nhưng xã hội loài người, mặc dù có những cuộc tàn sát dã man lẫn nhau để sinh sống, nhưng lương tâm của nhân loại lúc nào cũng còn có đó nhờ những giáo thuyết của các đấng chân sư hay tiên tri đã rao giảng về sự công bằng, tình bác ái và lòng thương yêu giữa người với người. Sự nhắc nhở đời sống thánh thiện để được nước trời, luôn luôn được một phần nhân loại tuân giữ.

Thực tế đời sống nhân loại, không phải hoàn toàn sinh hoạt như loài thú, mặc dù cái thú tánh đó vẫn còn thường xuất hiện nơi nó đối với người khác. Lẽ phải vẫn còn đó và lương tri nhân loại vẫn còn sau những cuộc đấu chiến hãi hùng. Đời sống xã hội của một dân tộc đã có luật lệ được quy định để ngăn chặn những cái dã tâm của người này đối với người khác. Những nguyên tắc bình đẳng, huynh đệ, công lý đã luôn luôn được nhắc nhở trong xã hội loài người. Dư luận và công pháp quốc tế không nhiều thì ít bắt buộc các quốc gia phải tôn trọng một số luật lệ trong những tị hiềm và tranh chấp của họ. Dù thế trong thực tế của đời sống luôn luôn vẫn còn những người manh nha qua mặt luật pháp quốc gia hay quốc tế bằng những xảo thuật, để chiếm đoạt quyền lợi.

Những người ở trong tôn giáo này, luân lý nọ, thường hướng đức tin của mình nơi quyền lực của các đấng thần linh và Thượng Đế để sống lành thiện theo lý tưởng của giáo thuyết họ. Họ an tâm nơi luật siêu nhiên, luật Trời có thể bảo vệ họ chống lại những bất công do kẻ khác đưa tới, hoặc an phận trông chờ sự phán xét về sau. Bao nhiêu câu nói của những kẻ tin đạo đã được truyền tụng: “Ở lành gặp lành” – " Ác giả ác bảo"- " Gieo gió gặp ba"- “Sống hung dữ, chết bạo tàn” – “Phước năng thắng số” – “Thần linh có mắt” v.v…

Tôn giáo đã giữ vai trò quan trọng của mình trong công việc khuyến thiện dân chúng, làm cho họ an phận để sinh sống và nhẫn nhục trước những cảnh tranh giành do bản tánh tham lam, xảo trá của người khác.

Nhưng bất chợt, trong một giai đoạn nào đó của cuộc sống, do sự chung đụng với tha nhân, con người có lúc ở vào một trường hợp bị khinh rẻ, ức hiếp, phiền lòng do những người giàu sang nào đó vô tình hay cố ý đưa đến; họ lại mủi lòng và thường đặt vấn đề: có thật là ở hiền gặp lành không? Tại sao những kẻ này, kẻ nọ theo họ thấy đâu có đạo đức gì, tội lỗi là khác mà lại giàu có, uy quyền? Niềm tin tôn giáo của họ bị lung lay. Cũng có thể nhiều trường hợp khó hiểu đã xẩy ra trước mắt họ làm cho họ mất hết đức tin nên họ đã chối bỏ những luân lý đạo đức mà họ đã nhiệt thành tuân giữ từ trước, để cũng trau vuốt kế mưu mà nhảy vào cuộc tranh giành của cải và quyền lực thế tục.

Đối với đa số con người, sự thưởng phạt của thần linh đối với kẻ thiện và người ác là một điều khó thấy. Con người chỉ có thể thấy một phần phiến diện của đời sống một người thiện hay ác. Họ chỉ thấy kẻ ác đang ở giai đoạn lên voi nhưng ít khi có cơ hội để chứng kiến lúc người kia xuống chó để trả nghiệp quả của mình đã tạo. Ở đời cái cảnh tang thương, biến đổi thường xẩy ra đối với người ác. Nhưng vì sự thiển cận mà loài người không thể nào hiểu được, nên thường tưởng là không có. Người xưa từng trải việc đời, từng trông thấy nhiều cảnh đổi thay, đã thường tán thán rằng: “Lưới trời tuy thưa, nhưng một mẻ lông không qua lọt”. Ý nhắc chừng chúng ta cái định luật thần linh lúc nào cũng hiện diện bên vai hữu, vai tả ta mà xem xét và thưởng phạt ta một cách công bình và chính trực. Làm sao có thể hiểu thấu được những biện pháp của thần linh trong cách phán đoán, xét xử, cải hóa hay trừng phạt một người, một gia đình, một dân tộc, trong cuộc sống chung của nhân loại. Đó là một công việc quy mô, đầy chi tiết và liên quan với nhau một cách chằng chịt và rối răm. Nó còn chứa nhiều ẩn số mà con người không thể biết được, nên thường chỉ có tính cách đoán mò và thiển cận trong những phàn nàn nông nổi của họ. Những diễn tiến can thiệp của thần linh đối với con người trong đời sống hiện tại vẫn có xẩy ra, nhưng phần lớn loài người không để ý đến trong những trường hợp như có vẻ bình thường, ngay cả trong một số trường hợp cụ thể rõ ràng cũng không có bao nhiêu người được dịp chứng kiến, ngoại trừ những nhà chuyên nghiệp và cá nhân liên hệ cùng gia đình của họ.

Sau đây chúng tôi xin ghi lại ba mẫu chuyện điển hình từ sự can thiệp của thần linh đối với một số hành động tốt xấu của một số cá nhân bình thường trong xã hội và sự thưởng phạt cùng giáo hóa của thiêng liêng cụ thể như thế nào đối với các đương sự:

1. Một ủy viên xã ủy của xã L.D., quận C.T., tỉnh V.B. Khi tiếp thu xã đó sau ngày 30/4/1975, theo sự cuồng nhiệt của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ông ta đã dẹp đình, phá miếu gây khó khăn cho một số tu sĩ và giới đồng cốt trong xã, khiến họ phải lánh cư đi nơi khác để được yên thân. Một thời gian sau, trong gia đình của ông một đứa con bị thần linh nhập xác và hành bịnh. Cứ chạng vạng tối thì thần linh nhập vào xác của cậu con vung tay múa chân và xuất khẩu nói nhiều câu sốc óc và chửi mắng ông, khoảng vài tiếng đồng hồ thì xuất mất. Nhiều lần như thế khiến ông bực mình cho là mình bị ma quỉ khuấy phá. Ông thuật: chính ông ta lấy súng M16 bắn hàng loạt đạn trên các ngọn cây chung quanh khu nhà ông vì theo ông nghĩ ma quỉ sợ súng sẽ bỏ đi. Nhưng trái với đều ông nghĩ, mọi việc cứ tiếp tục diễn tiến mỗi đêm. Ông lại đem ba viên đạn loại súng ngắn mà ông còn giữ để kỷ niệm cho tôi xem và cho biết chính trong một lần nọ đứa con bị ma quỉ nhập xác thách thức ông, ông đã bắn ba phát vào phía dưới chân của nó để dọa quỉ thần, nhưng kết quả là ba viên đan đều không nổ. Thấy sự hiển linh đó khiến ông kiên dè và giữ ba viên đạn lép đó để làm kỷ niệm. Một thời gian sau chính bản thân ông cũng bị thần linh nhập xác, hành bệnh ông khiến ông phải ăn chay trường, vì nếu ăn mặn thì ói ra hết (đến lúc đó ông đã ăn chay hơn bảy tháng). Phối hợp hành động để chuyển hóa ông ta, mỗi đêm quỉ thần nhập vào cùng một lúc hai cha con ông và khiến cho hai bên đấu phép với nhau hằng cả giờ đồng hồ. Luôn luôn cứ mỗi lần như vậy là phía ông ngã quị và thua cuộc. Từ lúc bị hành bệnh, cực chẳng đã ông phải nghe lời của vợ và bà mẹ vợ đến đủ cả am miếu để xin chữa bệnh. Từ đó ông quen biết lần các nhà tu huyền bí trong tỉnh. Có người chỉ bảo ông phải thượng thờ vị Phật này, Bồ Tát nọ. Người khác giải thích chuyện đạo này, kinh kia v.v… Vì bị bệnh nên cực chẳng đã ông đều phải răn rắc tuân theo. Từ lúc ông bị bệnh vô hình, lần hồi các bà có xác cô cậu đã lần lượt trở về xã để ở lại và không bị làm khó khăn nữa. Một đêm kia, khi hai cha con ông bị quỉ thần mượn xác để đấu phép, các bà đồng bóng kia không ai hẹn, lại bị nhập xác chạy đến nhà ông và cũng nhảy vào đấu phép để phụ lực ông ta chống lại vị thần linh ở phía người con. Nhưng cuối cùng tất cả mấy bà và ông ta đều bị đánh té ngã do huyền lực của đứa con. Vị thần linh nhập xác đứa con thường thân chuyển diễn tả dáng điệu của một con chim to và xuất khẩu rêu rao y ta là con công mà Phật Mẫu Chuẩn Đề thường cỡi xuống thế và cho biết y ta chỉ sợ có câu chú và đạo ấn Chuẩn Đề mà thôi. Câu chuyện được đồn đãi trong giới các nhà tu huyền bí đến tai một người bạn quen của chúng tôi. Lúc đó tôi đang truyền bá kinh chú Chuẩn Đề của Thượng tọa Thích Viên Đức dịch. Biết là nhân duyên do thần thánh chuyển hóa những kẻ không có đức tin về đạo và cần mượn tay tôi để góp phần hóa độ ông ta. Tôi đã cẩn thận hỏi lại ý kiến của thần thánh và được lệnh chữa trị cho ông.

Thật là bất ngờ, một đảng viên cộng sản vô thần trung kiên hơn 20 năm đã hoàn toàn khuất phục trước uy lực của thần linh khiến ông ta có một bàn thờ rất lớn trong nhà và thờ trên bốn hình tượng lớn của Phật và Bồ Tát, bên cạnh còn có một tủ kinh chứa trên 20 quyển. Rõ ràng nhà ông ta đã biến thành một cái đình miếu, nếu ta có thể mệnh danh như thế. Riêng thân phận ông ta hiện tại lại là một ông từ cần mẫn, cúc cung lo nhang khói hàng ngày.

Khi thấy mặt tôi, đứa con nuôi tức thì bị nhập xác và mạnh bạo lên tiếng trách cứ tại sao tôi lại đến mà giúp đỡ cho ông ta. Quỉ thần đó diễn tả qua xác của đứa con hành động kháng cự và định hành hung tôi. Là một người chuyên môn trong lãnh vực vô hình và việc làm của thần linh, tôi đã đóng vai trừ quỉ, kiết ấn Chuẩn Đề và dùng thần lực chỉ thẳng vào xác của đứa con. Thằng nhỏ đang ngồi trên bộ ván, té một cái rầm rơi xuống đất và nằm chết ngất. Độ năm phút sau, đứa con lại có một vị thần linh khác nhập về, cung cách rất nghiêm trang và đạo mạo xuất khẩu đòi tôi phải bồi thường nhân mạng cho đệ tử của ông ta vừa bị tôi dùng ấn Chuẩn Đề giết chết. Tôi làm bộ phân trần và hứa hoàn hồn cho để tử ông ta sống lại. Thần linh đó vui vẻ gật đầu. Trước bàn Phật, tôi nguyện đến đức Thượng Đế và chư Phật mười phương, lớn tiếng cố ý cho gia đình ông ta nghe, để xin ơn trên gia hộ và chuyển thần lực quét gió về phía lúc nãy đứa con bị té ngất. Con công đó sống lại và tiếp tục nhập vào xác cậu ta, diễn tả thái độ khuất phục và quy ngưỡng tôi. Sau khi chấm dứt màn kịch mà trong đó tôi đóng vai kép chánh khiến cả nhà ông xã ủy viên nọ (là khán giả) đều mừng rỡ ra mặt và reo lên đã gặp được Thầy. Tôi giải thích lý do khiến ông ta bị bệnh, chỉ ông ta phương cách tu tập và truyền pháp Chuẩn Đề cho ông ta.

Khoảng một tháng sau đó, tôi nghe đâu ông ta hoàn toàn khỏi hẳn bệnh vô hình và cả gia đình ông ta đã có làm một buổi lễ tạ ơn đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mà chính má vợ và gia đình ông ta đã khấn khứa đâu đó với thiêng liêng từ trước.

Những việc tương tợ đã xẩy ra cho nhiều gia đình các cán bộ cộng sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bài này không thể trình bày hết được.

2. Một gia chủ mà tôi có dịp điểm đạo truyền pháp trong chuyến sang Pháp vừa qua đã thuật câu chuyện sau đây cho tôi nghe: Ba của bà ta sau khi mất rất là linh hiển. Nhiều người trong nhà thấy ông ta hiện về và gia đình cầu xin giúp việc này, việc nọ đều được. Một trường hợp cụ thể xẫy ra như một phép lạ mà gia chủ rất cao hứng để kể cho tôi nghe. Má bà ta trong một dịp gần tết, vì thấy ông chồng rất linh ứng, đã thắp nhang trước bàn thờ trịnh trọng kể lể cảnh nghèo và khích ông cho một con số để đánh đề, hầu có tiền mua đồ tết cho xắp nhỏ trong nhà. Bà đã nằm mơ thấy ông ta cho một con số và đánh trúng một số tiền. Còn tiếc rẻ trúng ít vì không dám đánh nhiều, bà ta lại thắp nhang xin một con số nữa. Kết quả được cho thêm một con số và trúng khá lớn. Hối tiếc sao mình không đánh lớn hơn, bà ta lại xin một con số khác. Lần này vẫn được cho một con số nữa. Gia đình, dòng họ, lối xóm vì đã quá tin tưởng ở những lần trước dốc cả tiền để đánh lớn. Kết quả lại thắng. Gia chủ cho biết lần đó má bà đã trúng cả một bao cà gòn tiền. Từ đó về sau gia đình không còn mơ thấy cho số nữa.

Là một người am hiểu về luật siêu hình, tôi thắc mắc hỏi gia chủ là khi ba của bà còn sống có tu hành chi chăng? Bà chợt nhớ ra cái đặc điểm nhất của người cha là khi còn sống rất thương những kẻ ăn mày. Bất cứ ai đến xin, ông đều đích thân đi múc cơm mà cho. Lâu ngày thành cái tục, ăn mày cứ đến xin ăn mãi làm rộn nhà khiến vợ ông ưa cằn nhằn. Bà ta thường rầy la xua đuổi họ. Thường khi bọn ăn mày biết ý, đợi lúc vợ ông đi khỏi, là họ lần lượt đến để xin ông hoặc cơm hoặc tiền. Suốt đời ông chỉ có làm thế mà khi chết lại hiển thần và luật trời còn cho phép ông giúp gia đình ông trúng số rất lớn để làm gương cho bá tánh. Câu chuyện làm tôi nghĩ đến lời này trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo: “Cho kẻ nghèo chính là cho Thượng Đế vậy”. Quả nhiên là một bằng chứng rất đúng trong trường hợp này.

3. Một giáo sư dạy chung với tôi, hai vợ chồng kín đáo phá thai không một ai được biết. Kết quả là bà vợ bị nhập xác hành bệnh mấy tháng trời, đem các nơi chữa trị bằng bùa phép kể cả đưa vào nhà thương điên Chợ Quán vì gia đình tưởng bị bệnh tâm thần mà không chữa khỏi. Cuối cùng hồn đứa con nhập xác mẹ, xuất khẩu cho biết là cha mẹ nó đã phá thai khiến nó không thể ra đời được và họ đã vi phạm luật Trời, họ phải thành tâm sám hối tội lỗi và phải lo tu tập để đền tội mới có thể hết bệnh.

Trong thực tế có khá nhiều sự hiển lộ của thần linh trong sự thưởng phạt con người ngay trong đời sống hiện hữu. Đối với những nhà nghiên cứu về thần bí học họ đã chính mắt thấy, tai nghe không biết là bao nhiêu trường hợp cụ thể. Riêng với người thường việc đó có thể chỉ xảy ra hạn hữu một hay hai lần trong đời sống của họ mà thôi. Để cải thiện và cảnh cáo người tội lỗi, thần linh đã không ngần ngại nhúng tay trong những việc nhỏ mà kẻ vi phạm chỉ là những người tầm thường. Thế thì chúng ta có thể suy diễn ắt hẳn là phải có sự can thiệp của thần thánh trong những trường hợp tội lỗi lớn lao mà người vi phạm là những kẻ có thế lực. Có điều tội lỗi đó tùy trường hợp có thật là lỗi theo quan điểm của thánh thần hay không? Nếu có họ sẽ bị trừng phạt. Hay chính kẻ phạm tội lại là con múa rối mà thánh thần đã giựt dây để thực hiện một công việc ác cần thiết nào đó mà thánh thần muốn. Trong trường hợp sau này dĩ nhiên đó là một việc khó hiểu đối với loài người vì tất nhiên là kẻ phạm tội do sự điều khiển của thánh thần hoàn toàn không có tội. Thế thì theo khoa siêu hình thánh thần có can thiệp đến sinh hoạt của loài người để thưởng phạt họ. Nhưng cũng có những ngoại lệ họ phạm tội mà vẫn an nhiên trước luật Trời. Dầu sao tránh ác làm thiện vẫn là một việc hợp với luật Trời nhất mà đại đa số loài người phải tuân hành triệt để.