Từ xưa đến giờ, nhiều thầy phong thủy luôn tự vỗ ngực rằng chỉ giúp dân cầu phúc, nhưng khi vào cuộc rồi vẫn căn cứ vào nhu cầu ý muốn của gia chủ để tính giá cao thấp. Nói đúng ra thì họ coi đó là một nghề kiếm cơm, làm giàu bằng phương pháp thôi miên hóa những khổ chủ cả tin, ít hiểu biết thông qua những kiến thức cổ mù mờ, khẩu ngữ bí ẩn, dụng cụ thô sơ nội dung nhuốm màu hoang đường. Thuật phong thủy tuân theo một số nguyên tắc chính yếu cùng những nhu cầu kiên thức không giản đơn chút nào. Một số người cho rằng chỉ cần quen biết vài thầy phong thủy chuyện trò dăm cuộc, ghi chép đôi điều cốt lõi coi như đã hiểu về tướng địa! Nhưng đó chỉ là những thầy thấp tay, lòe bịp kiểu chợ búa thôi chứ muốn khẳng định mình là thấy địa trứ danh, có mác hiệu xịn cần phải đọc nhiều loại sách, kể cả sách quý hiếm, tư liệu, lịch sử, truyền thuyết kinh điển. Như cuốn cẩm nang Phong thủy giảng nghĩa giới thiệu: Bước đầu học địa lý, phải phân biệt âm dương, tam hợp, song sơn, ngũ hành, sinh vượng, tứ tuyệt rồi sau đến bát quái, long mạch, núi, địa hình... rồi tất cả những điều ấy đem ra thực hành cho cả người sống và người chết. Sau khi nhập môn xong, các thầy địa thực tập lại phải hiểu được những khái niệm thông thường nhất của nghề như Khí (một loại vật chất trìu tượng phát sinh từ tinh thần, tồn tại ở mọi nơi và không ngừng vận động biến hóa mà thuật phong thủy coi đó là yếu tố gốc của vạn vật), Tứ tượng (gồm Thái dương, Thái âm, Thiếu dương. Thiếu âm vận dụng vào địa hình xem tốt xấu, lành dữ), Bát quái (sinh ra từ thuyết âm dương, quy định ứng vào các vùng đất khác nhau để xác định phương vị), Hình thế đất (chủ yếu dùng để quan sát núi gồm có 5 thế rồng của 5 hướng, rồi lại căn cứ vào hình đáng, tư thế chia thành 9 rồng như rồng quay đầu, rồng bay, rồng nằm...).
Các thầy địa từ xưa khi hành nghề có rất nhiều dụng cụ đầu tiên phải nói đến la bàn, trên đó có đủ các thông tin cần thiết để phán. Tiếp theo là những biện pháp cứu vãn những điểm hung họa sắp hoặc đang xảy ra để biến hung thành cát như: Dùng mai thạch trân trạch thần - dùng gương soi trấn sơn binh. Các thầy còn sử dụng bùa chú yểm, vẽ lên cây, đeo vào người, treo trước nhà hoặc chôn xuống đất gọi là bùa Ngũ nhạc, bùa trấn tứ phương, bùa tam giáo cứu trạch... những bùa này vẽ bằng màu son lên miếng gỗ có kích thước quy định và treo theo ngày giờ. Các thầy cũng viết chữ lên tảng đá hoặc chôn yểm hình nhân, súc vật bằng gỗ, đất hay chiếu gương soi để trấn hưng (giờ đây nhiều nhà thành thị cũng đua nhau treo miếng gương bát giác lên cửa ra vào để trừ tà)! Thật ra tất cả những vật dụng này chỉ mang tính an ủi tâm lý chứ không thể ngăn chặn được điều gì. Ví như chỉ một chữ thiện hoặc phúc viết lên miếng gỗ mà có thể trừ được tà ma, đuổi bệnh tật, mang lại phúc lành thì tại sao mỗi chúng ta và cả thầy phong thủy nữa cứ đeo dăm bảy cái bùa trong người hoặc treo yểm từ trong buồng, giữa nhà ra vườn để mãi mãi được yên ổn giống như tiêm vac-xin phòng bệnh vậy? Nếu như hiểu rằng càng đeo nhiều bùa chú càng tết thì tội gì không đeo thay đồng hồ, dây chuyền, nhét vào ví để tiền lúc nào cũng vào như nước, mọi bệnh tật kể cả cúm gà, HIV, ung thư đều phải chào thua? Liệu có thầy địa nào dám chắc là dùng bùa chú đảm bảo không bị đạo chích đào tường phá két sắt không bị chập điện, hỏa hoạn và thậm chí động đất thì nhà chúng ta vẫn trơ trơ cùng tuế nguyệt? Và nếu thế những thầy phong thủy phải chung sức mở hắn nhiều tổ hợp sản xuất bùa cho toàn dân thì mới đủ đáp ứng nhu cầu! Có lẽ tập đoàn những thầy địa cũng đang có ý định ấy chăng?
Ngoài bùa chú ra, các thầy phong thủy dùng một số đồ nghề khác nữa như Thổ khuê (gậy căn cứ vào bóng nắng xác định phương hướng), Thổ quy (dụng cụ đo bóng nắng để phân định bốn mùa), những dụng cụ này ít nhiều mang tính khoa học ứng dụng. Bên cạnh đó, còn có Kim chỉ nam (một dụng cụ giống như cái môi múc canh xoay tròn tự do trên mặt bàn tròn, cán môi chỉ hướng nam trên mặt bàn khắc thiên chi, bàn đồng tâm chồng lên nhau: bàn tròn gọi là thiên bàn tượng trưng cho trời, bàn vuông gọi là địa bàn tượng trưng cho đất. Giữa thiên bàn vẽ chùm sao Bắc Đẩu, ngoài cùng có 28 sao và 12 chữ số. Địa bàn có ba tầng vẽ thập can và thập nhị chi cùng 28 sao). Khi hành sự trên thực địa, các thầy còn dùng cả thước đo đó là một dụng cụ bằng kim loại dài khoảng 1m, chỗ tay cầm giống như hai tai kéo khi gập lại còn khi mở ra sẽ xoay thành góc 90 độ, thực chất đó cũng là thanh sắt từ hoạt động theo nguyên tắc kim chỉ nam.
Mỗi thầy phong thủy đều có một bí quyết riêng không ai giống ai để khẳng định mình giỏi hơn hết thảy, chính vì vậy trên cùng một dụng cụ nhưng các thầy có thể phán hoàn toàn khác nhau và ai cũng cho là mình đúng còn các thầy khác sai tuốt! Nhưng dù sai hay đúng cũng không thể còn đất dụng võ nữa. Lấy ví dụ như cách tìm long mạch chẳng hạn. Long mạch trong thuật phong thủy vốn là một phạm trù hết sức phức tạp về lý thuyết và càng mông lung trên thực tế. Muốn tìm được long mạch phải xác đính được vị trí núi tổ. vì tổ sơn là căn nguyên của cát hung. Tìm được tổ sơn rồi lại phải phân định long mạch xấu hay tốt. Phân tích xong cuối cùng phải tính đếm xem có dùng được không bởi có những long mạch dài xa trên ngàn dặm, loại tương đối cũng vài ba dặm! Ngày xưa chuyện đơn giản vì đất quê ta mênh mông. dân cư thưa thớt chọn chỗ nào cũng ổn, nhưng bây giờ thì khác, nếu long mạch ở giữa đường cao tốc hay trong khu công nghiệp hoặc trúng vào khu vườn cây xuất khấu thì đố thầy địa nào dám cuốc đất lên mà yểm long mạch? Hơn nữa, cách xem cát địa còn phải phụ thuộc vào ngộ tính trời cho từng thầy, tức là mắt phải thấu thị xuyên qua mấy mét đất thì mới chọn đúng chỗ, mà muốn có đôi mắt thần kỳ ấy ngoài khả năng thiên bẩm ra thì không hiểu phải mất bao lâu thầy địa mới luyện được tuyệt chiêu ấy? Thời buổi bây giờ thị lực ai cũng suy giảm vì thiết bị điện tử, chắc là các thầy phong thủy dù muốn cũng không thể trông chờ vào những dược phẩm thông thường như Tobicom hay Rhoto để có ngộ tính cao siêu được!