Đó là một thế giới rộn ràng tiếng nhạc, nỉ non lời hát văn, nghi ngút khói hương và ngùn ngụt những đàn đại mà bị hoá kiếp thành tro; thế giới của những đền, những phủ, những đồng cô, đồng cậu, với mê muội những con nhang, đệ tử trong các buổi hầu đồng, khấn bóng.

Tôn thờ thế giới đó, ngoài những người làm ăn buôn bán, còn có cả những người được gọi là trí thức, thậm chí, cả những người đang nắm quyền chức ở Bộ nọ, ngành kia. Và dù là ai đi nữa trong xã hội, khi vào đây, họ đều rất mực kính cẩn trước những “thầy đồng”.

Con đường vào đồng của "thầy"
Thầy Tiến là con út trong gia đình có 6 anh em, từng là một trong những tay anh chị có tiếng ở ga Trần Quý Cáp (Hà Nội) từ thời chưa giải phóng về tiêu thụ hàng ăn cắp, dưới trướng có đến vài chục đứa lưu manh. Ai cũng nghĩ, cả đời Tiến “gù” sẽ gắn với kiếp lưu manh chuyên nghiệp.

Nhưng một điều bất ngờ đã xảy ra mà người giàu trí tưởng tượng nhất có lẽ cũng chẳng bao giờ nghĩ tới. Đùng một cái, Tiến rũ bỏ tất cả để đi theo con đường tu hành, sau lần “làm phúc” mua vé tàu hộ một nhà sư đi từ Hà Nội về Huế. Tiến được nhà sư giác ngộ đến mức đi tàu chui từ Hà Nội vào Huế để tìm nhà sư và trải qua 8 năm ăn chay, niệm phật tại đây. Rồi Tiến trở lại Hà Nội.

Về nhà một thời gian, chỉ qua một giấc mơ, thế là ngày hôm sau Tiến tìm đến đền Ghềnh, Gia Lâm, Hà Nội. Khi lễ xong, Tiến được ông đồng già ở đây chấp nhận cho làm chấp tác, thay hương, dầu trong đền. Cũng không hiểu tại sao 8 năm tu hành ở Huế, Tiến chẳng thể nào nhớ nổi một trang kinh Phật, nhưng mới làm chấp tác tại đền Ghềnh vài ngày, Tiến đã thuộc làu làu tên và tích về các vị Thánh, ông Hoàng, bà Chúa.

Được ông đồng già truyền cho cách mở phủ lập đền có Thánh giáng, ông Hoàng nhập, Tiến nhảy đồng lập phủ trôi chảy, khéo léo đến khó tin. Cho tới bây giờ, thầy Tiến cũng đã 60 tuổi, đã là đồng thày nổi tiếng trong giới đồng bóng khắp trong Nam ngoài Bắc, với 12 va -li khăn trầu, áo ngự, con nhang, đệ tử không thiếu.

Ít tuổi hơn thầy đồng Tiến một con giáp, nhưng cũng nổi tiếng không kém về tài mát tay mở phủ, kêu thay, cầu đỡ với những động tác nhảy đồng dẻo không ngờ là Hải “bơm” ở Quán Thánh, Hà Nội. Không giống như đồng Tiến, pải đến lúc thanh niên mới phát hiện ra mình có căn, có quả, mà Hải bơm – theo lời mẹ của thầy – ngay lúc 6 tuổi, đã lấy vỏ bao hương ngậm cho môi đỏ.

Lúc dầu, bà chỉ nghĩ đó là trò nghịch của trẻ con, nhưng càng ngày bà càng thấy con trai mình không như những bé trai cùng phố, mà chỉ thích chơi những trò cùng con gái như nhảy dây, bán đồ hàng, đặc biệt là Hải rất thích búp bê. Điều làm bà bàng hoàng nhất là khi phát hiện ra trong người thằng con trai của mình lúc 16 tuổi có một bộ đồ phụ nữ.

Vừa xấu hổ, hoang mang, vừa thương con, bà và những người anh cua Hải đã khuyên răn, kể cả đánh đập Hải. Sau một thời gian không có kết quả gì, bà đành phải nuốt nước mắt chiều lòng con, để cho nó theo nghề đồng bóng. Bà tự an ủi mình rằng: “Nó bị như vậy cũng là gánh quả kiếp cho cả nhà rồi!”.

Bây giờ, ngay tại tầng 3 của nhà bà là một gian điện thờ tam toà tứ phủ khá to đẹp và sạch sẽ do thầy đồng Hải “bơm” ngày ngày đèn nhang, hương nến. Thu nhập của cả gia đình bà trông vào lộc Thánh của thầy đồng Hải.

Những người bình thường chẳng ai sau một đêm ngủ dậy là thấy mình trở thành “thầy đồng” cả. Nói như lời của những bà những chị vẫn đi lễ, thì hầu như tất cả những thầy đồng đều là những người có “căn, quả”.

Một buổi hầu đồng
Tôi đã đi theo nhiều buổi hầu đồng, nhưng ấn tượng nhất vẫn là buổi hầu tại đền Bồ Đề, Gia Lâm, Hà Nội cách đây hơn 1 năm. Giới hầu đồng vẫn có câu “tùy tiền biện lễ”, và phải chứng kiến tận mắt mới hiểu được sự vô cùng trong giới này.

Chuẩn bị cho buổi hầu đồng này, trước đó 1 tuần, các thợ mã chuyên nghiệp của Hà Tây đã phải tập kết nguyên vật liệu tại đây để làm một đàn đại mã, có tên Long Tu Phượng Mã gồm 3 ngựa: đỏ, vàng, trắng, 1 voi xám với tỉ lệ 1/1 so với ngoài thật.
Ngoài ra, còn có một thuyền rồng dài 3,5 m, rộng 0, 8 m được trang trí cầu kỳ. Tất cả được đặt ở sân đền vì chúng quá to để có thể đưa được vào hậu điện, nơi gần với các Thánh, các Ngài. Trong đền, người ta bày 4 toà sơn trang với khoảng 60 hình nhân cao từ 1,2 – 1, 6 m có bốn màu: đỏ, xanh vàng, trắng, tượng trưng cho bốn hướng.

Trong tiếng nhạc hối hả và giọng hát kể lể sâu lắng của đoàn hát văn với đầy đủ đàn, sáo, trống, nhị, cô đồng là một thanh niên da trắng, môi đỏ, mày dài xuất hiện trong trang phục trắng toát từ chân tới đầu. Hai người phục vụ nhanh chóng ấn vào tay “cô” thẻ hương, khoác lên người “cô” bộ quần áo đàn bà màu đỏ may khá cầu kỳ, trùm lên đầu “cô” tấm khăn.

“Cô” bắt đầu khấn vái. Thủ nhang, đồng đền, thủ anh, lính chị xin phép được hầu. Ngài pháp sư (thầy đồng) cũng khẩn trương tuyên sớ. Sớ có nội dung bao gồm ngày, tháng, kêu cầu cho ai, địa chỉ ở đâu, kêu cầu về việc gì.

Sau đó là một quá trình hầu với những màn khua hương, nhảy nhót rất điệu nghệ của cô đồng. Cô đồng dâng tiền, vỗ gối, và cứ mỗi lần nghe hát văn hay, cô lại vỗ vào chiếc gối có năm lớp thêu hình rồng, từ tay cô bay ra những tờ tiền có mệnh giá lớn. Trong suốt 3 tiếng đồng hồ lên đồng, cô đã thay 13 bộ quần áo, phát 13 mâm lễ và cũng từng ấy lần nhảy múa quay cuồng, châm đến 4 bao thuốc để hút và phát lộc.

Buổi hầu kết thúc khi toàn bộ 13 mâm lễ với hoa quả, bia, các đồ ăn khác được phát hết cho khách. Ước tính, người hầu đồng lần này đã phải chi ra một khoản tiền không dưới 20 triệu đồng để chuốc lấy một tuần vất vả chuẩn bị và một buổi hầu đồng. Nếu coi người hầu đồng là nhân vật chính thì thầy đồng chính là người dẫn dắt đạo diễn.

Cuộc sống thường ngày của thầy đồng

Những người làm “thầy” trong thế giới hầu đồng bận bịu nhất vào dịp màu xuân, nhất là những ngày đầu năm. Những ngày này, chỉ riêng việc xếp lịch đi lễ cùng con nhang nào cũng đã đủ mệt. Có những ngày họ phải chạy mấy “sô” liền. Còn trong năm, chỉ những ngày đẹp, ngày lành tháng tốt, họ mới đi hầu. Vậy những ngày còn lại, những ông thầy này biết làm gì để “giết thời gian”?

Dù chỉ kiếm sống bằng nghề hầu đồng và trông coi ngôi đền của một con nhang (nghe đâu là một quan chức cấp Vụ), tại Phạm Sư Mạnh, Hồ Tây, Hà Nội với mức lương 2, 5 triệu đồng/tháng nhưng lúc nào túi thầy Tiến dường như cũng “rủng rỉnh”. Quần áo đồ hiệu chính cống, nhẫn vàng đeo đầy tay, móng tay luôn cũng được sơn sửa một cách điệu đàng, kỹ càng và tất nhiên, điện thoại phải luôn đi trước thời đại, “thầy” gọi không tiếc tiền.

Khi đi ăn uống nhậu nhẹt cùng với bạn bè, thầy không bao giờ cho phép ai trả tiền. Nếu một ngày đẹp trời, bạn tình cờ đi qua Hồ Gươm, nhìn về phía cây lộc vừng sẽ thấy một nhóm đàn ông có vẻ vô công rồi nghề đang ngồi tranh cãi về những “con lô, con đề” thì rất có thể là thầy Tiến và những đồng nghiệp của thầy.

Nếu không trong bộ áo hầu đồng thì thầy Tiến giống như những thương nhân mới phất, chẳng ai có thể đoán được nghề nghiệp đúng của thầy.

Ngược lại, dáng vẻ đặc biệt của Hải lại tố cáo rõ đây là một người không bình thường, dáng di nhẹ nhàng, giọng nói khó phân biệt là giọng nam hay nữ. Sau một thời gian dài kỳ thị, nay những người ở khu phố từ người già đến trẻ con đều gọi người đàn ông 43 tuổi này bằng “cô”. Nếu ai lỡ mồm gọi bằng bác, chú, hay anh thì thế nào cũng bị thầy đồng Hải mắng té tát cho một trận nhớ đến già. Tuy vậy, cũng không ai để bụng “cô” cả.

Tất nhiên, không chỉ rong chơi trong những ngày “nông nhàn”, những thầy đồng cũng rất chịu khó nâng cao tay nghề của mình, có những ngày mọi người tụ tập ở nhà Hải “bơm” tập hát và múa đồng đến tận 22 giờ. Và cũng có những ông thầy đồng kiêm luôn cả thầy cúng, thầy bói, như thầy Thấn (thành phố Thái Bình) nên chẳng bao giờ hết việc.

Những người làm thầy đồng nếu không phải là “đồng cô” như Hải “bơm” thì hầu như ai cũng có gia đình như những người bình thường. Nếu như thầy Tiến có vợ con hiện dang sống ở Hải Dương, thầy Thành “trợ lý” (của thầy Tiến) có vợ đang sống ở Ba Lan, thì thầy Thấn hiện vẫn sống cùng vợ và các con dưới một mái nhà, cũng lo toan chuyện học hành thi cử cho các con như ai.

Lời kết

Những thầy đồng đơn giản cũng chỉ là những con người trong một xã hội vốn rất đa dạng và nhiều màu sắc. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, “phú quý sinh lễ nghĩa” thì hiện tượng đồng, bóng cũng có chiều hướng gia tăng. Chỉ có điều, không biết bao nhiêu người đã hao tiền, tốn của, khánh kiệt tài sản vì những đàn đại mã, những mâm lộc tố hao, những lần vỗ gối và Thánh giáng.

Liệu đây có phải là căn bệnh của xã hội hiện đại?


Theo Đàn Ông