Pháp môn niệm Phật không chỉ kỳ lạ, chỉ tín sâu nguyện thiết, gắng sức thực hành mà thôi. Điều cần yếu là tin cho thấu đáo, giữ chí cho bền lâu, một lòng chuyên niệm, mỗi ngày đêm hoặc mười muôn, hay năm muôn câu, lấy số quyết định không thiếu làm ước lệ. Hành trì như thế trọn một đời, thề không thay đổi, nếu không được vãng sanh, thì chư Phật ba đời thành ra nói dối. Khi được chứng vãng sanh, tất không thối chuyển, bao nhiêu pháp môn đều được thực hiện tiền. Rất kỵ tâm không thường hằng, nau vầy mai khác, thấy ai nói pháp chi huyền diệu liền xu hướng theo, thì không môn nào thành tựu. Đâu biết nếu phát tâm niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật niệm được thuần thục, thì ba tạng, mười hai loại kinh những giáo lý cực tắc đều ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba tu tịnh giới cũng ở trong đó.

* Người chăm niệm Phật, buông bỏ cả thân tâm thế giới là đại bố thí; không còn khởi tâm tham giận mê là đại trì giới; không so đo phải quấy hơn thua là đại nhẫn nhục, không gián đoạn xen tạp là đại tinh tấn; không để vong tưởng buông lung là đại thiền định, không bị đường lối khác làm mê hoặc là đại trí tuệ. Thử tự nghiệm xét, nếu đối với thân tâm thế giới còn chưa buông bỏ, niệm tham giận mê vẫn còn hiện khởi, việc phải quấy hơn thua còn đeo nơi lòng, tâm vọng tưởng buông lung còn chưa trừ diệt, các đường lối khác còn làm mê hoặc ý chí, như thế không gọi là chơn niệm Phật.

* Muốn được cảnh giới “một lòng không loạn” cũng chẳng có phương chước chi lạ, lúc mới dụng công, cần phải lần chuỗi ghi số, mỗi ngày đêm định khoá là bao nhiêu câu đừng cho thiếu xót. Giữ đúng như thế, lâu ngày niệm lực sẽ thuần thục, thành ra cảnh “không niệm tự niệm”, chừng ấy ghi số hay không cũng được. Nếu lúc ban sơ muốn vội nói lời cao siêu, muốn không trước tướng, muốn học viên dung tự tại thì niệm lực khó thành. Như thế là tin không sâu, hành trì không hết sức, dù cho người có giảng được mười hai phần giáo, tỏ được một ngàn bảy trăm công án, đều là việc bên bờ sống chết luân hồi, khi lâm chung quyết định không dùng được.

* Niệm Phật có sự trì, lý trì. Sự trì là tin có Phật A Di Đà ở phương Tây, mà chưa hiểu lý tâm nầy của Phật, tâm nầy là Phật, chỉ quyết chí cầu sanh, niệm Phật như con nhớ mẹ, không lúc nào tạm quên. Lý trì là tin Phật A Di Đà ở Tây phương là tâm mình sẵn có đủ, là tâm mình tạora, đem hồng danh sẵn đủ, tạo ra của tâm mình mà làm cảnh buộc tâm, khiến cho không tạm quên niệm Phật. Sau đây là bài văn Phát nguyện của Đại Sư:

Con nguyện lâm chung không chướng ngại
A Di Đà Phật rước từ xa
Quan Âm cam lồ rước nơi đầu
Thế Chí kim đài cho đỡ gót
Trong một sát xa lìa ngũ trược
Khoãng co tay duỗi đến Liên Trì
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe được pháp âm liền hiểu rõ
Nghe rồi tỏ ngộ vô sanh nhẫn
Không rời an dưỡng tại ta-bà
Khéo dùng phương tiện độ chúng sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự
Con nguyện như thế Phật chứng tri
Tất cả về sau được thành tựu

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Đại Nguyện Đại Lực tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Trên đây là bài văn phát nguyện của Đại Sư, xưa nay có nhiều linh nghiệm. Các liên hữu đang lúc phát nguyện thấy các điềm lành. Có người trong lúc quán tưởng suy niệm thấy Phật phóng quang. Chư liên hữu nên niệm tưởng ân đức Phật A Di Đà với một lòng thành kính, tức là tự thương mình chướng sâu không được thấy Phật, nay sanh lòng hổ thẹn, tự sám hối ăn năn thống trách mình chướng sâu tội nặng, si mê lầm lạc, nên một lòng chí thành niệm Phật, để mong được thấy Phật. Làm như thế tất lâu ngày tâm tánh thuần thục, lục căn được phục chế, ắt đặng thấy được Phật phóng quang tiếp độ.

Pháp môn niệm Phật trong tông Tịnh Độ là một pháp môn tối thắng và cực tắc; tối thắng vì lợi lạc ba căn thiện tri thức nghiệp dứt tình không, bậc trung căn tuy có nghiệp lực song do sự tỉnh thức mà giác ngộ quay đầu, bậc hạ căn suốt đời đắm chìm trong bể khổ sông mê, lấy ác làm sự nghiệp… nếu biết giác ngộ hồi đầu, đều có thể tiếp nhận học tập và thực hành niệm Phật mà không phải gặp những điều kiện khó khăn, cho đến khi công viên quả mãn đều được vãng sanh như ý nguyện. Trong tông phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng từ 75 năm qua nhiều người quy thú tu hành chuyên cần niệm Phật, khi lâm chung đều hiện điềm lành, được đại chúng, chư liên hữu trợ duyên, tự chứng vãng sanh, thân an lạc mà hoá.

Pháp môn niệm Phật là một pháp môn không chỉ dành riêng cho giới thượng lưu tri thức, những bậc xuất gia cắt ái từ thân, vào tu trong non núi, chốn tòng tâm an lan nhã. Mà còn tiếp nhận một cách dễ dàng đối với những vị Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, các vị nếu quyết tâm đều có thể tu chứng quả không kém bậc xuất gia. Như trong đời nhà Minh, không chỉ riêng cómột số các bậc Đại Sư Vân Thê, Trí Húc… mà còn có các vị tiên sinh trí thức cư sĩ nguyện tu tịnh nghiệp, chứng đắc có điềm lành tại tiền, trí tuệ rất siêu xuất hơn người, như Cư Sĩ Viên Hoành Đạo, Viên Trung Đạo… chẳng hạn, là một số nhà trí thức ở thế gian, nghiên cứu kinh Phật lão thông, các vị sớm quy y Tam Bảo, một lòng tin tưởng pháp môn niệm Phật, tu cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Nhân nói về Tịnh Độ Tông thời nhà Minh, trong đó có nhắc đến Cư Sĩ Viên Hoành Đạo là người Cư Sĩ có công tu hành niệm Phật, xương minh Tịnh Độ, xiển dương chánh pháp qua cửa ngõ pháp môn niệm Phật, Cư Sĩ còn biên soạn bộ sách Tịnh Độ có giá trị lưu truyền trong đời. Trung Phước tôi xin được trích một vài ý tưởng của Cư Sĩ bàn về thế giới Tây phương là gia hương của chư liên hữu. Một cõi nước mà thân khắp cả chỗ, chỗ nào cũng có Phật pháp, lại còn có vô biên cõi nước, có Đức Phật A Di Đà phóng quang tiếp độ.

* Pháp thân Phật bình đẳng y báo, chánh báo đan xen lẫn nhau. Mười phương cõi Phật nhơ sạch, không có sai biệt. Chỉ vì hạnh nghiệp của chúng sanh bất đồng, nên các Đức Phật hoá hiện có khác nhau, hoặc nói quyền thừa, hoặc nói pháp tạng, hoặc nói pháp thông, hoặc nói pháp viên đốn, hoặc giảng nói tiệm tiến, hoặc nói pháp bí mật, bất định giáo, vũ hành nhiều phương tiện độ sanh.

Bức thông điệp của Phật trôi theo dòng chảy thời gian, dù trải qua trên 2000 năm, nhưng chân lý tuyệt vời của Ngài thì chỉ có một, mà giáo tướng của có đến tám muôn bốn ngàn pháp môn. Công cuộc hoằng đạo của Đức Phật, rất khéo vận dụng dòng pháp đúng người, đúng thời điểm, hợp phương hướng xứ sở từng cá nhân, từng cộng đồng, nhất là những cộng đồng ngoại đạo ngự trị thời gian dài trên đất Ấn xa xưa, nên giáo pháp của Ngài đi đến đâu, mọi người dễ tiếp nhận, và thuận lợi trong thực hành. Cuộc hoằng truyền ấy, đã thấm nhuần con người trên đất Ấn mênh mông, trải qua những sa mạc hoang sơ vùng Bamiyan. Đến sau khi Ngài tịch diệt, thì chư Tổ Sư tiếp thu, rất thuận lợi hoằng truyền đến tận vùng cao nguyên Tây Tạng, đài nguyên Thanh Hải vượt núi non trùng điệp đến các quốc gia bên bờ biển Đông, Đông Bắc Á, Đông Nam Á, hay ở thế giới Phương Tây.

Điều nầy cũng dễ hiểu khi Phật Pháp đến với con người, không chỉ kiến tạo con người từ Vua Chúa đến hàng thứ dân trở thành người xuất gia đạt đến chổ làm hạnh Sa Môn như Phật, mà còn được người thế gian từng mỗi thế hệ đón chào, tiếp nhận những tư tưởng từ bi trí tuệ, những trào lưu học đạo giải thoát gần như muốn biến các quốc gia có tín ngưỡng trở thành quốc giáo của quốc gia đó; huống chi là con người.

Trên đất nước Trung Hoa hay Việt Nam; từ Hàn Quốc đến Nhật Bản có biết bao nhiêu người phát tín tâm nhiếp nhận tư tưởng hiếu hoà của đạo Phật; họ trở thành những Cư Sĩ chân tu thạc đức như Sa Môn, họ thật học không kém người xuất gia, họ tu phạm hạnh, gần như có một đôi khi người xuất gia cũng không sánh bằng.

Từ những sự hội nhập như thật của Đức Phật Thích Ca, cũng như đệ tử của Ngài từ suốt trên hai ngàn năm qua, đã đem Phật pháp cống hiến cho con người những tinh hoa giáo lý qua cửa ngõ pháp môn niệm Phật, để lại biết bao môn học kinh luận, thi kệ, sách sử nói về Tịnh Độ đã từng làm hài lòng các học giả, nhà nghiên cứu khó tính, những người đã giác ngộ hoặc chưa giác ngộ, những người còn trầm nịch trong thế giới phàm phu. Chúng tôi xin giới thiệu một số tinh hoa những kinh, sách, những bài luận, yếu chỉ, bài thuyết giảng nói về thế giới Tây Phương Cực Lạc, pháp môn niệm Phật Tịnh Độ Tông thật vi diệu để làm tiền đề và phá nghi trong tu học và tiện việc nghiên cứu xiển dương (phần giới thiệu nội dung tam kinh Kinh Vô Lượng Thọ (Đại bổn A Di Đà) – Kinh A Di Đà (Kinh Tiểu Bổn A Di Đà) – Thập Lục Quán Kinh (Kinh Quán Vô Lượng Thọ) Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự Phẩm (trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa) đã nói ở chương trước)

Nay xin giới thiệu các bộ sách luận giải, như :

Đại Trí Độ Luận : “Phật là Vô Thượng Pháp Vương, chư Đại Bồ Tát làm Pháp Vương thần của Ngài. Bậc mà quần thần tôn trọng đó, duy có Đức Pháp Vương mà thôi”. Có những vị Bồ Tát tự xét rằng : “Thuở xưa, vì mình chê bai pháp Bát Nhã, cho nên bị sa đoạ vào nẽo ác chịu vô lượng thống khổ. Lại phải trải qua vô lượng kiếp rồi, tuy tu các hạnh lành, cũng chẳng đặng ra khỏi biển khổ. Sau nhờ gặp chư Thiện tri thức dạy cho niệm danh hiệu Phật A Di Đà, liền được diệt trừ tội chướng, vãng sanh Tịnh Độ. Nay nên tự lễ tạ Đức Phật A Di Đà. Tại sao vậy? Là vì tất cả cha mẹ, bà con, bạn lành, đồng loại, thiên thần, Vua Chúa, không ai độ được mình ra khỏi biển khổ. Chỉ có nguyện lực của Đức Phật A Di Đà nhiếp thọ cho mình mà thôi. Nhờ vậy, mình được ra khỏi biển khổ…”

Có bài kệ nói:

Nếu ai nguyện làm Phật
Tâm niệm A Di Đà
Phật liền hiện thân đến
Nên nay tôi quy mạng…

Cũng trong Đại Trí Độ Luận có dạy rằng : Vào thời Đức Phật, có một người già xin cho mình được xuất gia, Ngài Xá Lợi Phất không cho. Đức Phật nhìn thấy người ấy kiếp trước đi hái củi bị cọp rượt, bèn trèo lên cây mà niệm Nam Mô A Di Đà Phật chẳng ra tiếng. Nhờ có điều lành nhỏ ấy, người được gặp Phật và đắc quả A La Hán.

Chỉ xưng danh hiệu Phật một lần mà còn được giải thoát, huống chi trọn đời niệm Phật ?

Liên Tông Bảo Giám: Trong hằng hà sa số Như Lai, Đức A Di Đà là đệ nhứt; trong thập phương vi trần số cõi Phật, cảnh Cực Lạc là nơi về. Tin sâu Cực Lạc thiệt là cửa mầu giải thoát; tưởng thấu A Di Đà, thiệt là cha lành của chúng sanh. Bởi vậy cho nên : một ý nghĩ khởi lên, mà vạn linh đều hay; một lòng tin sanh ra, mà chư Phật đều hiện. Mới vừa xưng Bảo hiệu (danh hiệu Phật A Di Đà) đã gieo giống vào Liên Thai (Liên Hoa hoá sanh); một khi phát lòng Bồ Đề, liền được nêu tên ở Kim Địa (cõi nước Cực Lạc). Người chỉ lo tự ngộ, tự tu, thiếu niềm tin sâu, nguyện thiết thật rất tiếc lắm thay.

Than ôi, đời mạt pháp, có nhiều ý quấy dòng mê: biếm Tịnh nghiệp làm quyền thừa (tạm), chê tụng là thô hạnh (nết thô tu hướng) ! Há chẳng phải đắm chìm “hoả trạch”, tự cam chịu nhiều kiếp trầm luân; trái ngược từ thân, rất đau lòng một đời mất uổng ? Nên tin rằng: chẳng nương tha lực, không do đâu dứt nghiệp mê lầm, không gặp pháp môn tu niệm Phật, chẳng có đường thoát khỏi luân hồi sanh tử.
Thế nên, người khinh chê pháp môn niệm Phật, chính là khinh chê tự thân mình. Tình quấy dễ tập, pháp lành khó nghe, luân chuyển trong ba đường dữ, kiếp dài chẳng đặng thoát ra…!

Tịnh độ cảnh quán yếu môn: Nầy, pháp môn tu Tịnh Độ, đối với chúng sanh mạt thế là con đường ra khỏi luân hồi, là chiếc thuyền vững đưa người qua khổ ải. Một khi sanh về cõi kia, mãi mãi chẳng hề thối chuyển. Được thân màu sắc vàng, bay đi tự tại, tự nhiên có cơm ăn áo mặc, thân được thấy Phật mà nghe pháp; nhờ vậy nên rất mau vào ngôi Thánh. Cõi đó không cọp, sói, sư tử, muỗi, ruồi, sâu bọ, bức não; không có sấm sét mưa gió lạnh nóng, đói khát nấu nung. Hoa sen hoá sanh, thọ mạng vô lượng, đã không có mọi thống khổ về sanh già bệnh chết, đó là thế giới Cực Lạc. Cho nên Đức Phật Thích Ca Như Lai, muốn khiến cho chúng sanh mê muội ở cõi nầy rời khỏi mọi nỗi khổ, bèn mở cửa pháp môn chiết nhục. Đức A Di Đà Từ Phụ chỉ cho con đường nhiếp thọ. Sỡ dĩ ta mõi miệng đinh ninh, riêng khen Tịnh độ phổ khuyến vãng sanh, thiệt bởi vì đó. Cho nên thánh hiền, đạo, tục những người niệm Phật được vãng sanh, chẳng biết bao nhiêu mà kể số! Chỉ vì kẻ phàm phu thấp kém, say đắm vương vít trần lao, chẳng cầu ra khỏi, mà cam tâm trôi dạt trong biển luân hồi. Đau thương lắm thay!

An lạc tập : Người nào hay niệm Phật A Di Đà thì dứt hết thảy nghiệp chướng và được vãng sanh về Tịnh Độ. Tại sao vậy ? Ví như có người dùng gân sư tử mà làm dây đàn, tiếng đàn ấy vừa tấu lên thì hết thảy dây đàn khác đều đứt. Nếu người nào đã phát Bồ Đề tâm, mà hay niệm Phật A Di Đà thì chướng nặng phiền não đều dứt đứt tất cả. Lại ví như người lấy sữa bò, dê, lừa, ngựa mỗi thứ đổ vào một cái chén; nếu đem một giọt sữa sư tử mà pha vào đó, thì các thứ sữa hoá ra nước. Nếu người nào đã phát bồ đề tâm, mà hay niệm Phật A Di Đà, thì hết thảy các chướng ác ma tự nhiên tiêu diệt, và người ấy được sanh về Tịnh Độ.

Quyết Nghi Luận: Thân người khó được, Tịnh Độ dễ sanh. Tại sao vậy?

Năm giới mà chẳng giữ, thì dứt đường nhân loại, bặt nẻo thượng nhiên. Năm giới được thanh tịnh, mới có thể sanh lại làm người. Huống chi năm giới đã khó trì, lại chẳng có nguyện lực nhiếp thọ? Đó gọi là thân người khó được vậy.

Người tu Tịnh Độ, chẳng nói việc trì giới trọn, chẳng trọn, chỉ niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà mà thôi. Dầu cho có tội nghiệp, pháp môn cũng cho sám hối. Tới lúc mạng chung được Đức Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và Thanh Tịnh Hải chúng đều có nguyện lực, lai đáo tiếp dẫn, nhiếp thọ, đó gọi là Tịnh Độ dễ sanh.

Tịnh hạnh pháp môn: Sám hối, tự siêng chùi gương xưa, tiêu lần bụi mờ bao kiếp. Niệm Phật như riêng gặp Vua sáng, bỗng được cứu vớt lúc sau. Trong bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – ở những lúc đi đứng nằm ngồi, siêng nghĩ cảnh Tịnh Độ trang nghiêm, thường nhớ Đức Phật A Di Đà. Niệm Phật được như vậy, thì tam muội hiện tiền, vãng sanh Tịnh Độ chẳng còn ngờ gì.

Đại tập Nguyệt Tạng kinh: Trong thời mạt pháp, ức ức chúng sanh khởi phát tu tập, nhưng chưa có người nào đắc đạo. Đó đều bởi ở đời ác thế ngũ trược, tu học tạp pháp khó thành. Duy có một môn niệm Phật, có thể thông thoáng đường về. Phật biết rằng: tự hạnh khó tròn, tha lực dễ đến. Tỷ như kẻ sĩ yếu dựa thế Luân Vương du hí cõi tứ Thiên. Lại như chất phàm tục mượn công Tiên dược, phi thăng miền Tam Đảo, thật là đạo dễ hành mau được công tương ứng. Ý lành đã bày tỏ đinh ninh, vậy khá khắc cốt ghi tâm.

Bảo Vương Luận: Kẻ tắm ở biển cả, người trì nước ở trăm sông; người trì niệm danh hiệu Phật, ắt thành công phép Tam muội. Tỷ như hạt châu trong bỏ xuống nước đục, nước đục liền trở nên trong. Cũng thế, tiếng niệm Phật gieo vào lòng loạn, lòng loạn hoá thành lòng Phật.

Pháp Hoa Kinh: Nếu những người lòng tán loạn, bước vào trong vòng tháp miếu, xưng một tiếng Nam Mô A Di Đà Phật, thảy đều đã thành Phật đạo.

Lại nói: Danh Phật nghe khắp mười phương, nhiêu ích cho các chúng sanh, đủ hết thảy các căn lành, dễ hỗ trợ tâm vô thượng.

Hoa Nghiêm Kinh: Trong tất cả oai nghi, thường niệm công đức Phật, ngày đêm không tạm dứt, hạnh nghiệp ấy nên làm.

Kinh dạy tiếp: Thà chịu cảnh khổ ở địa ngục, mà được nghe danh hiệu chư Phật, chớ chẳng chịu cảnh vui vô lượng, mà chẳng được nghe danh hiệu Phật.

Chánh Pháp Nan Văn phẩm: Đức Phật dạy rằng: Nhân dân trong thế gian được nghe danh hiệu Đức Phật A Di Đà, nếu họ từ tâm hoan duyệt, chí ý thanh tịnh, lông tóc dựng lên, đôi tròng rơi luỵ, đó đều là những người đã bao đời thường hành Phật Đạo. Hoặc đó là những vị ở các phương Phật khác, từng hành Bồ Tát đạo, chớ chẳng phải là hạng phàm phu.

Nếu những kẻ nào chẳng tin lời Phật, chẳng tin niệm Phật, chẳng tin vãng sanh, đó là hạng từ nơi nẻo sanh tử sanh lên tai ương thừa chưa hết, tánh ngu si vẫn còn, chưa có thể giải thoát.

Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh nầy, mà chẳng đặng nghe. Chừng nghe được rồi đối với quả vô thượng, mãi mãi chẳng hề thối chuyển. Vậy nên phải tín thọ trì niệm, theo như thuyết mà tu hành. Nay Ta giảng cả pháp ấy cho các người nghe. Vì thương xót chúng sanh, nên ta riêng lưu lại pháp nầy.

Kệ rằng:

Nếu chẳng thuở xưa tu phước huệ
Tới nay chánh pháp dễ gì nghe
Đã từng khâm phụng chư Như Lai
Vậy có nhơn duyên nghe nghĩa ấy
Kìa cõi Phật kia vui vô hạn
Chỉ Phật với Phật biết mà thôi
Thinh văn, Duyên giác đầy thế gian
Dùng hết thần trí chẳng lường được
Đại thánh Pháp vương tuyên Diệu pháp
Tế độ hết thảy thoát trầm luân
Nếu có ai thọ trì, đương thuyết
Thiệt là bạn tốt đắc bồ đề.

(Những bài kinh, luật, luận trên đây được trích từ Quy Nguyên Trực Chỉ của Ngài Nhứt Nguyên Tông Bổn, trang 93-99, bản dịch Đoàn Trung Còn năm 1958, để cống hiến liên hữu độc giả).

Đến như, trong Long Thơ Tịnh Độ, Tiến Sĩ Vương Nhật Hưu, một cư sĩ trí thức phát tín tâm tu Tịnh Độ và xiển dương pháp môn Tịnh Độ, một pháp môn mà người tu Phật không ai có thể bỏ qua. Đến như những bậc Thiền Sư đã có trình độ tu chứng, đạo hạnh khả phong, oai nghi lẫm liệt, song con đường giải thoát chính nhân chính đẳng của các Ngài vẫn là niềm tin, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện cầu sanh Tây phương Tịnh Độ.

Pháp môn niệm Phật là gối đầu giường của người con Phật chăng? Nếu không chẳng còn ý nghĩa của người tu hành gì cả!

Thuyết Tịnh Độ thường thấy ngươi thực hành trong mỗi ngày, mà bao nhiêu công niệm Phật bèn thấy kết quả nơi đời sau, lúc vãng sanh về Tịnh Độ. Người không biết tưởng niệm Phật là việc của đời sau, nào ngờ đâu công đức niệm Phật lại rất có lợi ích ngay trong đời nầy nữa vậy. Vì sao? Phật sở dĩ tha thiết dạy người làm lành, cũng như nhà Nho dạy người lánh dữ, nào có khác chi? Khác là khác có danh từ Phật với Nho vậy thôi. Thế cho nên người niệm Phật tu Tịnh Độ thường thấy trong mỗi ngày, ý tưởng Phật, miệng niệm Phật, thân làm việc Phật, thì đâu không phải là ba nghiệp thanh tịnh? Ba nghiệp thành tịnh là việc lành, làm lành thời là quân tử, là trang đại hiền, đương đời ai cũng quý mến phục luỵ. Thánh thần phò hộ phước lộc được tăng trưởng, sống lâu vô cùng tận. Do đây mà nói, thời để tâm nghe theo lời Phật dạy, thực hành theo pháp môn niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, thì ai dám bảo rằng không lợi ích ngay trong đời nầy ư? (Long Thơ Tịnh Độ trang 25, bản dịch HT Hành Trụ).

Trong lúc biên soạn quyển sách Hoa Sen Vi Diệu Pháp nầy, tôi thường nghe bên tai, một Thiền Sư hiện đại rất già dặn, trong thuyết giảng sử dụng ngôn từ văn hoa lưu loát nhằm thu hút cho đệ tử thính pháp càng nhiều càng đông cho hơn các Chùa khác, không hiểu Ngài tu thiền có nghiệp dứt tình không chưa? Mà lại đi chê “pháp môn Tịnh Độ là thấp, tu không thành Phật, vì còn tu tướng”… Lại chê pháp môn Tịnh Độ của Phật, của Tổ Sư … Nên nay, nhân nói về pháp môn niệm Phật niệm danh hiệu A Di Đà Phật ở thời điểm cực thịnh, người trí thức, kẻ hàn nhân người người tu niệm Phật, mọi người tu niệm Phật, trai gái trẻ già đồng tu niệm Phật, chư Thiền Sư chuyển pháp tu niệm Phật, người Trung Hoa niệm Phật, người Triều Tiên niệm Phật, người Nhật Bản niệm Phật, người Việt Nam niệm Phật, người của tây bán cầu niệm Phật, soạn giả xin phép trích một đoạn sách Tịnh Độ “Vạn Thiện Đồng Quy Tập” của Ngài Vĩnh Minh : “Luận Trí Độ nói : ví như trẻ thơ nếu không gần cha mẹ thì sẽ sa hầm, sụp hố, bị những tai nạn nước lửa, thiếu sữa mà chết. Thế nên, cần phải thường gần gũi cha mẹ, được nuôi dưỡng khôn lớn mới có thể thừa kế gia nghiệp…”

Bồ Tát mới phát tâm phần nhiều nguyện vãng sanh Tịnh Độ, thân cận chư Phật, tăng trưởng Pháp thân, vậy mới có thể thừa kế gia nghiệp của Phật, cứu tế chúng sanh trong mười phương. Có sự lợi ích như thế nên chư Bồ Tát phần nhiều nguyện vãng sanh”.

Hơn nữa xét trong các kinh, vãng sanh về cõi an dưỡng thì duyên lành mạnh mẽ, hoàn cảnh thù thắng, phước đức đầy đủ, tuổi thọ lâu dài, liên hoa hoá sanh. Được Phật đón rước liền lên bậc Bồ Tát. Nhanh chóng sanh vào nhà Như Lai, ở mãi nơi bậc bất thối chuyển, đều được thọ ký đạo Bồ Đề, thân đầy đủ tướng hảo ánh sáng, dạo nơi cây báu đài hương, cúng dường mười phương chư Phật, tinh thần an trụ nơi chánh định thanh nhàn, bên tai thường nghe pháp đại thừa, sánh vai cùng hàng nhất sanh bổ xứ, niệm niệm rỗng lặng, tâm tâm tịch tĩnh, ngọn lửa phiền não tắt ngắm, dòng suối ái dục cạn khô, tên gọi đường ác không còn, lẽ nào lại có sự luân hồi sanh tử ?

An Quốc Sớ nói, gọi là Cực Lạc bởi vì có hai mươi bốn điều vui :

1. Lan can bao quanh
2. Lưới báu giăng trên hư không
3. Bóng mát che đường đi
4. Ao tắm bằng bảy báu
5. Nước tắm công đức lắng trong
6. Thấy tận cát vàng
7. Bậc thềm lấp lánh ánh sáng
8. Lâu đài ở giữa hư không
9. Bốn loại hoa sen toả hương ngào ngạt
10. Đất bằng vàng ròng
11. Thường tấu diễn tám âm thanh
12. Mưa hoa ngày đêm
13. Sáng sớm đã được nhắc nhở tu hành
14. Nhặt những hoa đẹp
15. Cúng dường chư Phật các phương
16. Đi kinh hành nơi cõi nước mình
17. Các loài chim cùng hót vang hoà điệu
18. Nghe pháp sáu thời
19. Thường nghĩ nhớ Tam Bảo
20. Không có ba đường ác
21. Có Phật biến hoá
22. Cây lay động dưới lau
23. Ngàn cõi nước đồng thinh khen ngợi
24. Hàng Thanh văn phát tâm đại thừa.

Lại nữa, sách Tịnh Độ Quần Nghi Luận nói, Tây phương Tịnh Độ có 30 điều lợi ích:

1. Thọ dũng cõi Phật thanh tịnh
2. Được niềm vui Phật pháp rộng lớn
3. Tuổi thọ gần bằng Phật
4. Dạo khắp mười phương cúng dường chư phật
5. Được chư Phật thọ ký
6. Tư Lương phước huệ chóng được viên mãn
7. Mau chứng đắc đạo giác ngộ ngân chánh vô thượng
8. Cùng chúng Bồ Tát dự chung pháp hội
9. Thường không thối chuyển
10. Vô lượng hạnh nguyện tăng tiến trong mỗi niệm
11. Chim anh vũ, xá lợi tuyên dương pháp âm
12. Gió mát lay động cành cây như diễn tấu các loại âm nhạc
13. Dòng nước có ngọc ma ni lượn vòng, diễn thuyết các giáo nghĩa
khổ không
14. Các loại nhạc khí tấu vang âm thanh vi diệu
15. Bốn mươi tám nguyện của Phật, dứt hẳn ba đường ác
16. Đạt được thân sắc vàng
17. Hình tướng tốt đẹp
18. Đầy đủ năm thứ thần thông
19. Thường trụ nơi chánh định tụ
20. Không có các điều bất thiện
21. Mạng sống lâu dài
22. Y phục và thức ăn tự nhiên hoá hiện
23. Chỉ hưởng thụ những điều vui
24. Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt
25. Không có người nữ thật
26. Không có hạng tiểu thừa
27. Xa lìa tám nạn
28. Đạt được ba pháp nhẫn
29. Thân tướng thường có ánh sáng
30. Được thân Na La Diên bền chắc.

(Vạn Thiền Đồng Quy Tập, bản dịch Thích Minh Thành, trang 107-111)

Qua những lời phán dẫn chứng về thế giới tây phương Tịnh Độ trên, chúng ta thấy rằng, nơi có Đức Phật kiến tạo nên một cuộc sống an bình cho con người và chúng sanh, một người phát tín tâm niệm Phật thì sẽ được an lạc, sống vui sống khoẻ trong môi trường tinh khiết, không “có ngựa xe như nước, áo quần loè loẹt như nêm”; gió bụi, khói công nghiệp của nền văn minh bằng khoa học thật mịt mờ làm đen tối cả bầu trời, ô nhiểm sinh thái đời sống con người.

Cũng không có những tình cảm riêng tư, cục bộ, không đấu tranh lẫn nhau, vì tất cả chỉ là một, một tâm thanh tịnh niệm Phật, cùng chung ý tưởng chơn như Phật, không tranh chấp đồ đệ, môn phong, hệ phái; hằng ngày chỉ có những người tu toàn đạo hạnh liêm khiết, sống đạo không vướng chút bụi nhơ, không lắm những điều tình ái, cờ bạc rượu chè, khoe khoang, chê bai giỏi dở, tâm ai nấy giữ thân ai nấy trao dồi, không xem người kia làm việc gì, mà chỉ trông vào mình đã làm được gì, tu được bao nhiêu, có tu không, có thực hành không, đắc đạo đến đâu ? – Người có muốn chê bai ai, cũng không chê được, vì miệng thì hôi nhơ, nhưng tâm họ đã thanh tịnh! Nên lời chê bai thị phi trở thành những bài pháp lành, cuộc đấu tranh chống chọi người khác trở thành những cuộc đấu tranh chống lại những tham sân si của chính mình… Ngài Lục Tổ Huệ Năng dạy phải tự trở về xem lại những hành vi cử chỉ chơn tâm của chính mình, chính là “bản lai chân diện mục”.

Người sống ở thế giới Tây phương Cực Lạc, Niết Bàn, giải thoát của Đạo Phật là như thế!
Với thâm ý của Đức Lục Tổ Huệ Năng ở thời xa xưa, người tu đã là nghiệp dứt tình không, nhứt thời tỏ ngộ bỏ phàm làm Phật trong lúc hiện tiền, ở đây và bây giờ thân tâm toàn chơn Phật, không một mãi mai bợn nhơ nhiễm bẩn.

Tôi nhớ lại những năm còn tu ở núi, lúc bay giờ cảm nghĩ người liên hữu Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, được sinh ra trong thời mạt pháp, gặp Phật Pháp muộn màng, được Tôn Sư giáo hoá học đạo niệm Phật pháp môn chốn non xanh Bồng Đảo; nhưng ý chí quyết tâm một đời học đạo giải thoát, không xa rời pháp môn một ly tấc, với lời dạy của Đức Tôn Sư, hằng ngày ngoài thực tập công phu, tụng kinh niệm Phật còn phải tự kiểm điểm thân tâm mình: Một là thấy mình – Hai là biết mình – Ba là xem mình – Bốn là nhớ mình – Năm là nghe mình – Sáu là xử mình – Bảy là học mình – Tám là tu mình – Chín là phân biệt mình – Mười là thương mình. Phải chăng đây cũng chính là lời dạy trùng hợp với tư tưởng của Ngài Huệ Năng, được áp dụng cho Tăng Ni, Phật tử phát tâm tu hành ở thời mạt pháp.

Trong tam kinh Tịnh Độ của Phật thuyết và một bộ Luận Ngài Thiên Thân Bồ Tát giảng thuyết, minh triết và Tịnh Độ: “chúng ta thử xem như Ngài Văn Thù, kiết tập kinh giáo Đại Thừa, trụ thế lưu thông đã bốn trăm năm mươi năm. Còn sau khi Phật nhập Niết Bàn cách ba trăm bảy mươi năm thì Ngài Mã Minh Bồ Tát ra đời; cách năm trăm ba mươi năm, thì Ngài Long Thọ Bồ Tát xuất thế; đến sau khoảng chín trăm năm, thì Ngài Thiên Thân Bồ Tát hiện thân giáo hoá. Các Ngài ấy đều là bậc Đại Thánh nhơn ở Tây vực, mà cũng đều là Tổ Sư bên Tịnh Độ Tông cả. Vậy chỗ phát nguyện của Tịnh Độ Tông có từ thời xa xưa và y cứ của Tịnh Độ Tông rất xác đáng, chuẩn mực.

Huống chi chẳng những kinh giáo ấy chuyên nói về Tịnh Độ Tông, lại như các kinh Đại Thừa kiêm nói thuyết Tịnh Độ, hay là nói các pháp khác mênh mông cao viễn, mà khi kết luận thì thú hướng về pháp môn thù thắng tông chỉ Tịnh Độ, rất nhiều vô số.

Tại sao? Vì pháp môn tịnh độ là một pháp môn rất viên đốn, cực tắc, thiệt trong phương tiện mà phương tiện tột bực, trong thiệp cảnh mà thiệp cảnh cực điểm, cao hơn các pháp, lợi khắp các căn; có năng lực đưa chúng sanh ra khỏi tam giới, người tu tiến thẳng bồ đề, chẳng những chúng ta là hạng chúng sanh khổ não, thấp hèn ở trong đời ngũ trược nầy phải tín thọ phụng hành mà thôi, mà cho đến hết thảy chúng sanh trong mười phương pháp giới, nếu bỏ Tịnh Độ mà cầu giải thoát, thì trên không thể viên mãn đặng Phật quả, dưới không thể độ được hàm linh.

Cho nên, nói gì thì nói, tu theo pháp môn nào rồi thì cuối cùng cũng phát nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc, và hạnh môn nào cũng do đó mà an trú, cho đến chư Phật trong mười phương đều dùng tướng lưỡi rộng dài mà tán thán tuyên pháp môn nầy và lấy cõi Tịnh Độ của Đức A Di Đà là chỗ quy hướng cho thế giới của mình.

Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: Ngài Thiện Tài đồng Tử đi du phương học đạo trải qua năm mươi ba người thầy, thiện tri thức vĩ đại đã chứng đặng phẩm vị đẳng giác, nhưng cuối cùng, đồng với bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ hồi hướng phát nguyện vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc Thế Giới, để có cơ sở quyết định cho Phật sự viên mãn.

Chúng ta liên hữu Tịnh Độ nào dám khinh thường pháp môn tu, mà lại là lời dạy của Phật, Tổ Sư… đến nay vẫn còn gía trị và pháp môn vẫn phù hợp, rất phù hợp với thế giới hiện đại của thế kỷ 21!
Tịnh Độ Tông thời nhà Minh, không chỉ có bấy nhiêu chư Tổ Sư, chư Đại Sư như đã nói trên. Còn rất nhiều những bậc chân tu thật đức, thạc học, tu chứng có điềm lành; từ giới xuất gia đến hàng tại gia. Trong giới Cư Sĩ thời điểm nầy, nghiên cứu qua sách Tịnh Độ, chúng ta còn thấy có Cư Sĩ Viên Hoành Đạo, một liên hữu vừa hộ thế, vừa tu tập pháp môn niệm Phật, hộ Phật, hộ Tăng khiến cho Tăng tục đồng quy hiệp nhứt, chuyên tu tịnh nghiệp, xương minh Tịnh Độ. Cư Sĩ biên soạn bộ “Tây Phương Hiệp Luận” dẫn chứng pháp môn tu, công nhận pháp môn tu có hiệu quả thực tiễn, giới thiệu pháp môn đến với các hàng thiện hữu tri thức và các giới sĩ, nông, công, thương, để lại cho hàng Cư Sĩ đời sau có phương tiện duyên tu tuyệt vời.

Viên Trung Lang tên thật là Hoành Đạo, hiệu Thạch Đầu, ở huyện Công An, tỉnh Hồ Bắc. Anh là Bá Tu, tên Tông Đạo, hiệu Hương Quang. Em là Tiểu Tu, tên là Trung Đạo, hiệu là Thượng Sinh. Cả ba anh em đồng một mẹ sinh ra. Thời niên thiếu nổi tiếng về văn học, lớn lên có duyên Phật pháp tín ngưỡng Thiền Tông. Niên hiệu Vạn Lịch thứ 42 (1573), đời Vua Thần Tông, nhà Minh, ba anh em đều đỗ tiến sĩ. Bá Tu làm quan đến chức Hữu Thứ Tử, Trung Lang làm quan tri huyện ở Ngô Giang. Ông giải quyết việc công rất sáng suốt, mau lẹ. Khi rảnh rỗi, Trung Lang thích ngao du sơn thuỷ. Sau được thăng chức lễ bộ chủ sự, lấy cớ bệnh, xin nghĩ việc hồi hương.

Ở Thành Nam, Cư Sĩ có lập một khu vườn trồng muôn cây liễu xanh tươi, gọi cảnh trí nầy là Liễu Lãng. Cư Sĩ thường cùng với các thiền nhân tham quan ở trong đó. Đầu tiên Cư Sĩ học Thiền với Lý Trác Ngô, tin hiểu thông suốt, biện tài vô ngại. Sau đó Cư Sĩ tự nghiệm xét: “bàn luận về cái không nầy chẳng phải thiết thực”, liền đổi pháp tu, hướng về Tịnh Độ, sớm hôm siêng năng lễ tụng và giữ gìn cấm giới. Bá Tu, Liễu Tu cũng đồng thời phát tâm niệm Phật. Trung Lang tuyển chọn trong các kinh giáo, biên soạn bộ “Tây Phương Hiệp Luận”. Nội dung bộ luận bàn về tánh, tướng đến chỗ viên dung, đi sâu vào pháp môn bất nhị. Viết xong Bá Tu ghi lời tựa. Sau đó Trung Lang nhận giữ lại chức cũ, rồi thăng tiến đến chức vụ Huân Ty Lang Trung. Chẳng bao lâu lại cáo bệnh, xin nghĩ về nhà chẳng mấy ngày rồi vào thành Kinh Châu, ở tạm trong Chùa chư Tăng lo bề tu niệm, tinh tiến niệm Phật, không bệnh mà quy Tây. Tiểu Tu làm quan đến chức Lễ Bộ Lang Trung ở phương Nam cũng xin nghỉ việc. Về già, Cư Sĩ siêng năng cần mẫn với việc lễ tụng kinh bái sám. Một buổi tối, khi khoá tụng xong, thần thức tham quan Tịnh Độ (trích Tây Phương Hiệp Luận, bản dịch Thích Trí Thông, trang 235, 236).

Thật là một gia đình có ba anh em, một đời tài hoa, tri thức vẹn toàn, tước quyền đầy đủ, gia phong nho nhã, nhàn hạ tiêu dao lại noi gương Phật Tổ từ bỏ thế sự, quyền lực thế gian phát khởi tâm tu Tịnh Độ niệm Phật, hiệu quả vô lường.

Xin trích một đoạn trong “Tây Phương Hiệp Luận”, bản dịch Thích Trí Thông, Cư Sĩ Viên Hoành Đạo tán thán công đức cõi Tịnh Độ Tây Phương của Đức Phật A Di Đà: “Tịnh Độ Tây Phương của Đức Phật A Di Đà có công đức rộng lớn như biển cả, có bi trí rộng lớn như biển cả, có nguyện lực rộng lớn như biển cả. Nếu nói đầy đủ thì giả sử trên từ các Đức Phật, Bồ Tát, Thinh Văn, Bích Chi Phật, trời, người, ma, quả, súc sinh khắp cả mười phương thế giới, dưới đến loài sâu bọ và tất cả vật vô tri như cỏ cây, ngói đá, mảy bụi cực nhỏ, mỗi mỗi đều có đầy đủ vô lượng miệng, trong mỗi miệng đều có vô lượng lưỡi, trong mỗi lưỡi đều có phát ra vô lượng âm thanh, nói mãi, nói nhiều… Nói như vậy trải qua vô lượng trăm ức vạn thời kỳ vô số như cát bụi cũng không thể nào nói hết được…” (Tây Phương Hiệp Luận, trang 45).

Một người phàm phu, quanh năm suốt tháng, suốt đời làm điều thiện, một người phàm phu, quanh năm suốt tháng, suốt đời không làm điều thiện, một người phàm phu sống trong thế giới dẫy đầy những khổ đau oằn oại, một người cũng như thế và ngược lại, một khi đã giác ngộ, lìa bến mê nguyện sanh về cõi giác, tất cả đều thọ hưởng chung một phước huệ khôn lường, không thể nói hết được. Vì do chính tự họ kiến tạo cho mình một thế giới an lạc, một thế giới hạnh phúc, trang nghiêm, đẹp đẽ và vững niềm tin yêu nơi giáo pháp của Phật; chính họ đã nắm bắt hạnh nguyện ngàn đời của chư Phật, họ bước đi theo dấu chân của chư Phật, ý tưởng của họ một lòng trong sạch với Phật, lúc nào cũng tán thán ca tụng thế giới Phật, thế giới đó chính là thế giới nội tại của người con Phật mà Viên Hoành Đạo đã làm và thốt lên được trong “Tây Phương Hiệp Luận”.

Lại trong “Tây Phương Hiệp Luận”, Cư Sĩ Viên Hoành Đạo đã nghiên cứu về pháp môn niệm Phật rất sâu tế, Cư Sĩ đã làm một việc hy hữu trong một thời điểm đưa Tịnh Độ Tông đến thời cực thịnh, người người, nhà nhà tu niệm Phật. Cư Sĩ đã tiếp nhận và biên soạn lại từ Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới nói về pháp môn niệm Phật và an trú trong pháp môn để tu hành. Lúc bấy giờ Ngài Đức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài Đồng Tử rằng : “Thiện Nam Tử ! Ta được năng lực trí giải quyết định, tín căn thanh tịnh, trí tuệ sáng tỏ, quán khắp cảnh giới, xa lìa tất cả chướng ngại, đầy đủ hạnh thanh tịnh, tham quan khắp mười phương để cúng dường các Đức Phật, thường niệm tất cả các Đức Như Lai, ghi nhớ chánh pháp của tất cả các Đức Phật, thường thấy tất cả Đức Phật thuận theo các thứ tâm ưa thích của mỗi loài chúng sanh mà thị hiện các thứ để thành tựu tuệ giác vô thượng, ở trong đại chúng rống tiếng sư tử. Thiện Nam Tử, ta chỉ được pháp môn ánh sáng trí tuệ thấy khắp tất cả cảnh giới của các Đức Phật được ức niệm nầy”.

1. Pháp môn nầy mệnh danh là môn niệm Phật ánh sáng trí tuệ chiếu khắp, vì chúng sanh niệm Phật, thường thấy các cung điện trong cõi nước của tất cả các Đức Phật đều thanh tịnh, trang nghiêm.

2. Pháp môn làm cho tất cả chúng sanh niệm Phật, vì tuỳ theo sở thích của tâm chúng sanh đều làm cho họ thấy Phật, tâm họ được thanh tịnh.

3. Pháp môn làm cho chúng sanh an trụ nơi niệm Phật, làm cho họ nhập vào thập lực của Như Lai.

4. Pháp môn làm cho chúng sanh an trụ nơi pháp niệm Phật, vì họ thấy được vô lượng Phật, nghe được pháp vi diệu.

5. Pháp môn niệm Phật chiếu sáng rực rỡ khắp các phương, vì chúng sanh niệm Phật thấy cõi Phật trong tất cả thế giới đều rộng lớn như biển cả, bình đẳng không sai biệt.

6. Pháp môn niệm Phật là pháp nhập vào chỗ không thể thấy, vì chúng sanh niệm Phật thấy các việc thần thông tự tại của các Đức Phật trong tất cả cảnh giới vi tế.

7. Pháp môn niệm Phật trụ vào các kiếp, vì tất cả kiếp chúng sanh niệm Phật thường thấy các việc làm của Như Lai không ngừng nghỉ.

8. Pháp môn niệm Phật trụ tất cả thời gian, chúng sanh niệm Phật thường thấy Như Lai thân cận ở chung, không hề xa cách.

9. Pháp môn niệm Phật trụ ở tất cả cõi, vì tất cả cõi nước, chúng sanh niệm Phật đều thấy thân Phật vượt trội hết thảy.

10. Pháp môn niệm Phật trụ vào tất cả đời, vì tuỳ theo điều ưa thích của tâm chúng sanh mà họ thấy khắp cả các Đức Như Lai trong ba đời.

11. Pháp môn niệm Phật trụ tất cả cảnh giới, vì trong tất cả cảnh giới, chúng sanh niệm Phật đều thấy các đức Như Lai lần lượt xuất hiện.

12. Pháp môn niệm Phật trụ vào chỗ tịch diệt, vì trong một niệm, chúng sanh niệm Phật thấy tất cả cõi, tất cả Đức Phật thị hiện Niết Bàn.

13. Pháp môn niệm Phật trụ vào xa lìa, vì ở trong một niệm, chúng sanh niệm Phật thấy tất cả Đức Phật từ chỗ trụ của Ngài rồi ra đi.

14. Pháp môn niệm Phật trụ vào chỗ quảng đại, vì tâm của chúng sanh niệm Phật thường quán sát thân Phật nào cũng đều đầy khắp hư không pháp giới.
15. Pháp môn niệm Phật trụ vào vi tế, vì ở đâu một mảy lông có Đức Như Lai xuất hiện, không thể nói hết, chúng sanh niệm Phật đều đến chỗ ấy để phụng sự.

16. Pháp môn niệm Phật trụ vào cảnh giới trang nghiêm, vì ở trong một niệm, chúng sanh niệm Phật thấy tất cả cõi đều có các Đức Phật thành tựu tuệ giác vô thượng hiển hiện thần thông.

17. Pháp môn niệm Phật an trụ nơi Phật sự, vì chúng sanh niệm Phật thấy tất cả Phật xuất hiện ở thế gian, phóng ánh sáng trí tuệ, chuyển pháp luân.

18. Pháp môn niệm Phật trụ vào tâm tự tại, vì tuỳ theo điều ưa thích của chúng sanh mà tất cả Đức Phật thị hiện các thứ thần thông.

19. Pháp môn niệm Phật trụ vào tự nghiệp, vì biết tuỳ theo nghiệp chúng sanh đã tích tập mà Phật hiện thân khiến họ được giác ngộ.

20. Pháp môn niệm Phật trụ vào thần thông, vì chúng sanh niệm Phật thấy Phật ngồi trên hoa sen rộng lớn, nở xoè trùm khắp pháp giới.

21. Pháp môn niệm Phật trụ vào hư không, vì chúng sanh niệm Phật quán sát Như Lai có thân như vầng mây để trang nghiêm pháp giới hư không giới. (Tây Phương Hiệp Luận, bản dịch Thích Trí Thông, trang 78-80).

Nhằm để phổ cập sâu rộng pháp môn tu niệm Phật vào trong quảng đại quần chúng Trung Hoa thời bấy giờ, Cư Sĩ Viên Hoành Đạo lại nói tiếp về pháp tu niệm Phật của Bồ Tát nghiên cứu trích từ trong Kinh Tịnh Danh như sau:

“Nầy Bảo Tích! Tâm ngay thẳng là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh không tâm dối trá được sanh về nước kia”.
- Tâm thâm sâu là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh công đức viên mãn sanh về nước kia.
- Tâm Bồ Đề là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh tu pháp đại thừa được sanh về nước kia.
- Bố thí là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh có thể xả bỏ tất cả được sanh về nước kia.
- Giữ giới là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh tu tập mười nghiệp lành được sanh về nước kia.
- Nhẫn nhục là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh ba mươi hai tướng trang nghiêm được sanh về nước kia.
- Tinh tiến là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh siêng tu tất cả công đức được sanh về nước kia.
- Thiền định là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh tâm không loạn động được sanh về nước kia.
- Trí tuệ là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành phật, chúng sanh chánh định được sanh về nước kia.
- Bốn tâm vô lượng là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh thành tựu từ bi hỷ xả được sanh về nước kia.
- Tứ nhiếp pháp là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh thuộc về giải thoát được sanh về nước kia.
- Phương tiện là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành phật, chúng sanh có phương tiện vô ngại đối với tất cả pháp được sanh về nước kia.
- Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh có bốn niệm xứ, có bốn chánh cần, có bốn thần túc, có năm căn, có năm lực, có bảy tuệ giác, có tám đường chánh được sanh về nước kia.
- Tâm hồi hướng là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, thì được cõi nước đầy đủ tất cả công đức.
- Khéo nói để loại bỏ tám tai nạn là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, cõi nước khôn có ba đường dữ, tám tai nạn.
- Tự giữ giới hạnh, không nói lỗi người là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, cõi nước không có danh từ phạm giới.
- Mười nghiệp lành là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh không chết yểu lại rất giàu có, đủ phạm hạnh, nói thành thật nói hoà nhã, quyền thuộc không lìa nhau, khéo hoà giải người thưa kiện, nói hữu ích, không ganh ghét, không giận dữ, chánh kiến, được sanh về nước kia (Tây Phương Hiệp Luận, bản dịch Thích Trí Thông, trang 81-83).

Chuyên tu sâu vào pháp môn niệm Phật, chúng ta mới thấy được pháp môn tu là tối thắng thượng của các Đức Như Lai, không như những hạng phàm phu lòng trần còn mãnh liệt, ham thích lợi danh, bon chen từ lời nói, việc làm, tranh lần từ quyền thế đến tiền bạc… mà lại đi đánh giá chê bai pháp môn niệm Phật; thấy người tu niệm Phật thì tìm cách vu khống cho là tu theo tà kiến, mê tín dị đoan! Chỉ có những hạng ngu phu ngu phụ mới xem thường pháp môn niệm Phật, vì họ có tu bao giờ đâu mà rõ; chỉ có điều tâm họ không an, vọng niệm dẫy đầy, không rảnh rang mà thực hành tu niệm, ít nhất cũng làm gương cho đoàn hậu tấn! Những người có tánh hay chê khen, chê người khen mình, thường là chẳng có quan đến việc tụng niệm công phu công quả gì cả, chỉ làm tổn hao tiền của đàn na tín thí, uổng phí công sức Tổ Thầy của họ mà thôi!

Vào năm 1971, lúc bấy giờ có chư Tăng Khất Sĩ thường xuyên đến học Phật Pháp với Đức Tôn Sư thượng Thiện hạ Phước, có cả chư Tăng Ni của Sư Trưởng Thiền Đức, Đức Tôn Sư có bài thuyết giảng về pháp môn niệm Phật cho chư Tăng Ni, Phật Tử tại Tịnh Xá Thắng Liên Hoa. Sau thời thuyết giảng có lưu ký lại một số Phật sự quan trọng cho chư Tăng Ni trên bước đường hoằng hoá pháp môn:

- Quyết định thứ nhất: Non Bồng Tịnh Độ Chánh Tông, pháp môn niệm Phật kể từ ngày nay đến vô lượng nghìn thu vị lai bất thối chuyển.
- Quyết định thứ hai: Thủ trì kinh Đại Thừa Đại Tạng của Phật Tổ Như Lai bất thối chuyển, vô lượng nghìn thu bất thối chuyển. Kinh Đại Thừa của Từ phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết tại xứ Ấn Độ cách đây 2515 (tính từ năm 1971).
- Quyết định thứ ba: Non Bồng thủ trì thần chú Đại Bi của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô lượng nghìn thu bất thối chuyển. Kể từ ngày hôm hay đến vô lượng nghìn kiếp vị lai bất thối chuyển.
- Quyết định thứ tư: Phạm hạnh, Tịnh hạnh, Bồ Tát hạnh, thủ trì cội Bồ Đề bất thối chuyển, năng tác Phật sự, năng hành pháp lục độ bất thối chuyển, đời đời kiếp kiếp bất thối chuyển.
- Quyết định thứ năm: Chín tuổi đạo trọn lành, trường chay niệm Phật, hoặc tại gia, hoặc ly gia, mới được quy y Tam Bảo. Không phạm năm tội ngũ nghịch. Ly gia mười tám tuổi đạo trọn lành mới được thọ giới Sa Di (không được phạm năm tội ngũ nghịch) không được phạm giới cấm. Ly gia hai mươi bảy tuổi đạo trọn lành (không được phạm năm tội ngũ nghịch), không phạm thập giới, mới được thọ Cụ Túc giới Tỳ Kheo.
- Quyết định thứ sáu: của Non Bồng Y Bát Đầu Đà, khất thực lập hạnh giải thoát là duy nhất của Non Bồng. Phạm hạnh trang nghiêm là tối thượng của Non Bồng, Bồ Tát hạnh, Bồ Tát đạo, Bồ Tát giới, Bồ Tát tánh là cốt tỷ của Non Bồng.
- Quyết định thứ bảy: Tín, Hạnh, Nguyện Thệ và Nguyện Hải của Như Lai, bổn hạnh nguyện của thập phương Bồ Tát là nền tảng giáo lý Tịnh Độ Non Bồng vô lượng nghìn thu bất thối chuyển.

Trích Sách Tịnh Độ Giản Lược
Tác giả Hòa Thượng Thích Giác Quang