kết quả từ 1 tới 12 trên 12

Ðề tài: Mười tôn phái Phật Giáo ở Trung Hoa

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Mười tôn phái Phật Giáo ở Trung Hoa

    Mười tôn phái Phật Giáo ở Trung Hoa
    HT. Thích Thiện Hoa

    1. Luật tôn
    2. Tịnh độ tôn
    3. Thiền tôn
    4. Duy thức-pháp tướng tôn
    5. Mật tôn
    6. Pháp Hoa tôn
    7. Hoa Nghiêm tôn
    8. Tam luận tôn
    9. Câu xá tôn
    10. Thành thật tôn
    --------------------------------------------------------------------------------

    Không phải riêng gì Đạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, theo với thời gian và sự phát-triển, đều có chia ra nhiều tôn phái. Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên phải có để cho các căn cơ và hòan cảnh khác nhau đều có thể thích hợp được. Nếu không, thì đạo không thể phát-triển được về bề sâu cũng như bề rộng. Hơn một tôn giáo nào cả, Đạo Phật không có những giáo điều thần khải, không có một tinh thần rắn chắc, gò bó trong những hình thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khóang, tự do, dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Đạo Phật đi đến đâu cũng có thể phát-triển đúng theo căn cơ và hòan cảnh riêng biệt ở địa phương ấy. Do đó, mà Đạo Phật có rất nhiều màu sắc riêng biệt khi lan tràn trên các nước.

    Riêng ở Trung Hoa, Đạo Phật đã có chia mười tôn phái. Trong mỗi tôn phái đều có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngòai giáo pháp của Phật cả. Những tôn phái này cũng như những con đường khác nhau,có đường thẳng đường cong,đường cao đường thấp, đường rộ쮧 đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một mục đích chung cả. Hành giả tùy theo trình độ, trí thức, khả năng, sở thích riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả.

    Mười tôn phái ở Trung Hoa là: Luật tôn, Tịnh độ tôn, Thiền tôn, Pháp tướng tôn, Mật tôn, Thiên thai tôn, Hoa nghiêm tôn, Tam luận tôn, Câu xá tôn và Thành thật tôn.

    Trong 10 này, Câu xá tôn và Thành thật tôn chủ trương về Tiểu Thừa; Luật tôn và Thiền tôn thông cả Đại và Tiểu Thừa, còn 6 tôn kia thuộc về Đại Thừa.

    Nghĩa lý của các tôn rất mầu nhiệm kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công phu trong nhiều năm.trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông này, chúng ta không thể đi sâu vào mỗi tôn được. Ơí đây, chúng ta chỉ nên biết qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tôn ấy, để có chổ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn,chúng ta sẽ đi sâu vào từng tôn phái một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của mình mà lựa một trong những tôn ấy để tu hành.

    http://www.buddhismtoday.com/viet/tr...-gioithieu.htm

  2. #2

    Mặc định

    I. LUẬT TÔN

    --------------------------------------------------------------------------------

    I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

    Tôn này dùng luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Luật tôn. Đức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hòan cảnh mà chế ra nhiều lọai giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài,như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luận mà Đức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là"Bát thập tụng luận ". Về sau,tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ lụât riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần.

    Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Đạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy,bộ luật Tứ phầìn làthích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tôn.Ngài Đạo Tuyên là người ở Chung nam sơn, nên người đời gọi tôn này là " Chung nam sơn" để phân biệt với các Luật tôn khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ,hay Ngài Hoài Tố ở Đông pháp.

    Trong các Tôn này, chỉ có Luật tôn của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Đại Thưà lẫn Tiểu Thừa.

    II.-TÔN CHỈ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LUẬT TÔN

    Phàm một tổ chức, một công viếc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh.Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tủ chung ta:

    -Giữ giớ không sát nhơn hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ,súc sinh, và khỏi bị người giết haị, đó là tu.

    -Giữ giới khong trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm siềng xích, đời sau không mắc quả báo,bị người giựt của cướp nhà, đó là tu.

    -Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.

    -Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu.

    -Giữ giới kghông cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lo0õi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đo là tu.

    Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi,và thêm được một điều lành; giữ nhiều giớ là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật làphương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát.

    Nhờ giữ "giới luật" không làm các việc tội lỗi, nên tâm được "định"; do tâm định nên phát ra"trí huệ sáng suốt". Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành Phật.

    Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia thọ Sa-di,có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô-lậu học (giới,định,huệ ), "giới" đứng đầu tất cả.

    Tôn này sỡ dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên.

    III.- CÁC LOẠI GIỚI LUẬT

    Giới luật có nhiều lọai từng bậc,tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai lọai lớn là: Giới lụât của Đại Thưà và giới luật của Tiểu Thừa.

    -Những giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kềm giữ lòng tham,mà người khác cũng đượclợi là khỏi phải bịcái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu-thừa, vì trong khigiữ giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5 giới do Phật chế cho người tại-gia), Bát-quan-trai giới (8 giới Phật chế cho người tại gia-tập sống như người xuất gia), Sang-di giớivà Sang-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức-xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ-kheo giới (250 giới), và Tỳ-kheo0nhiều giới (348 giới) là những giới thuộc về phái Tiểu-thừa.

    Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhám vào mục đích lợi tha hơn tự lợi tì thuộc về Đại-thừa giớ. Những giới thuộc về Đại-thừa giới như 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ Tát, Tam-tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp-luật-nghi giới là giới không làm việc ác, Nhiếp-Thiện-Pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu-ích hữu-tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v..).

    Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới-luật có thể chia làm hai phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo thiện-nghiệp.

    1.-Về chỉ trì: có hai bộ giới bổn:

    a.-Tỳ-kheo giới bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di (4 giới), 2.-Tăng-tàng (13 giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.- Xã-đọa (30 giới), 5.- Đơn-đọa (90 giới), 6.- Đề-xà-nhiều (4 giới), 7.- Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ).

    b.-Tỳ-kheo-nhiều giới bổn (giới của Tỳ-kheo-nhiều gồm có 348 giới, chia làm 7 loại là:

    1.-Ba-la-di (8 giới), 2.- Tăng-tàn (17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới), 4.-Đơn-đọa (178 giới), 5.-Đề-xà-nhiều (8 giới ), 6.-Chúng-học (100 giới), 7.-Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm mươi bốn tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên, nhưng củng có thể làm tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại ,bảy loại như bên tăng (1).

    Giới Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-nhiều trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới-hạnh, phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Đó chỉ là giới tóm thâu những giới-luật chính, làm giềng-mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới-luật thì về "lượng" sánh đồng hư-không, về "cảnh" lại nan khắp cả pháp-giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế-hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai-nghi và 120.000 tế-hạnh.

    Vì sao Phật lập ra nhiều giới-luật như thế?

    - Vì mỗi một giới là ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa.

    2.- Về tác trì, gồm có 20 kiền-độ.

    Kiền độ nghĩa là phẩm loại, điều luật (Khanda).

    20 Kiền độ là:

    Thọ giới Kiền độ

    Thuyết giới Kiền độ

    An cư Kiền độ

    Tứ tự Kiền độ...

    Sự chia ra chủ trì và tác trì là cốt lõi dễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ‘’chỉ’’ có ‘’tác’’, trong ‘’tác’’ có ‘’chỉ’’, không thể nói một cách dứt khoát được.

    *** Chúng tôi chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.

    IV.-CÁC DANH TỪ VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH

    Như chúng ta đã thấy ở trên, giới-luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:

    1.-Sao gọi là ‘’danh, chủng, tánh, tướng’’?

    a.-Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo.v.v...

    b.- Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..

    c.-Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v.. hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là ‘’giới tánh’’.

    d.- Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là ‘’giới tướng’’.

    Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì (danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tôi ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh?

    2.- Sao gọi là ‘’ khai, giá, trì, phạm ’’?

    a.- Khai là mở, cho làm.

    b.- Giá là cấm, không cho làm.
    Như khi Phật còn tái thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ‘’Giá" . nhưng về sau cóvị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ‘’nếu có duyên sự thì được leo cây’’, như thế gọi là ‘’Khai’’.
    Một thí dụ thứ 2: người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Đó là ‘’Giá’’. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Đó là ‘’Khai’’. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư tăng.

    c.- Trì là giữ gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là ‘’Trì’’.

    d.- Phạm là vi phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là ‘’Phạm’’.
    Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới-luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi hành vi hàng ngày của mình xét xem một cách sáng suốt, thế nào là ‘’Trì’’, thế nào là ‘’Phạm’’; trong trường hợp nào, và giới nào được ‘’Khai’’; Trong trường hợp nào, và giới nào không được ‘’Khai’’.v.v.. nói một cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải ‘’Trì’’. Nếu không ‘’Trì’’ mà ‘’Phạm’’. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí huệ thúc đẩy, thì có thể ‘’Khai’’ mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiểm ô, vì phiền nảo thúc đẩy mà ‘’Khai’’ là ‘’Phạm’’.

    3.-Sao gọi là ‘’chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm’’?

    a.- Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác, quyết giữ gìn không gây tội lỗi.

    b.- Tác phạm là nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.

    c.- Tác trì là nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới.

    d.- Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới.

    Thí dụ: về tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm.

    4.- Sao gọi là ‘’ tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới’’?.

    a). Tánh tội là tội sẳn có trong bảng tấn chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn tánh này có sẳn trong tâm tánh chúnh sanh từ vô thỉ đến nay, hể có chúng sanh lá có chúng nó. Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.

    b). Giá tội là tội không sẵn có trong bản tấn nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả.

    c). Tánh giới là để ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng, nhưng củng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sư tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.

    d). Giá giới là giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát sinh. Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tien phải chặt ngành ngọn; như người dùng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào đo thị ấy.

    V.-KẾT LUẬN

    Như chúng ta đã rỏ, mục đích của gióa pháp mà Đứ룠Phật chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật. Tất cả các tôn phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục dích cuối cùng đều là một: Giác-ngộ và thành Phật.

    Luật tôn củng không đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác phần nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tôn trái lại chủ trương; hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hảy giữ gìn giới luật phải nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đa thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ.

    Thật là một chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc-chắn ! những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới củng chẳng khác gì trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại kẽ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thần, thì củng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp thì lu, nhưng không tắt thì càng cháy lâu cáng sáng tỏ.

    Vì những lí lẽ trình bày ở trên, Luật tôn đều phải thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ơí đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình , không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa , nhưng lại dễ thành công trên đường đời củng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội hà tiện (đi gánh phân ) và một căn trí thấp thỏi như Ngài Ưu-Ba-Li !Thế mà Ngài Ưu-Ba-Li lại trở thành một đệ tử của Phật, đã thành một bậc hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Ch úng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ưu-Ba-Li, lẻ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đệp như Ngài , nếu chúng ta củng tập nghiêm trì giới-luật như Ngài .

  3. #3

    Mặc định

    3.- THIỀN TÔN

    --------------------------------------------------------------------------------

    A.-PHẦN MỞ ĐẦU

    Thiền tôn thuộc cả Đại Thưà và Tiểu Thừa.củng như bao nhiêu tôn phái khác trong Phật Giáo, vị khai sáng đầu tiên của Thiền tôn vẫn là đức Phật. Trước Ngài , sự tham thiền nhạp định của các ngoại đạo không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương phápthiền định mới đạt đến chỗ rốt ráo. Như chúng ta đều biết qua lịch sử cúa Ngài , sau khi xuất gia, đức Phật đã trãi qua nhiều năm đi tìm đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt được đạo quả như ý muốn. Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu xa mà chính phải tìm trong trí huệ sáng suốt của Ngài . và từ đó, luôn trong 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề, Ngài đã ngồi thamthiền nhập định cho đến khuya mồng 8 tháng chạp âm lịch, lúc sao mai vừa mọc thì Ngài "Minh tâm kiến tánh", chứng được đaọ quả Bồ -đề,. Đó là một cuộc nhập định vô tiền khoáng hậu, mở đầu cho một pháp môn vô cùng hiệu nghiệm của đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tôn giáo riêng đã được thành lập. Đó là Thiền tôn.

    Sao gọi là Thiền tôn?-Thiền tôn là một tôn phái của Phật Giáolấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.

    Chữ "Thiền " là do chữ "Thiền-na", một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa và dịch nghĩa là định lự ( định các tự lự). Hiệp chungcả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định.

    Có chỗ giải: Chữ " Thiền", xưa dịch tư là " tư duy", nay dịch là " Tịnh lự". Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầmnn đối tượng của tâm thức ( tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.

    Chữ "Định" nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là Tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn.

    Hợp hai chữ Thiền và Định, chúng ta có một nghĩa chung như sau:Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán lọan, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy nghiệm chơn lý.

    Phương pháp thiền định có hai cách:

    1.-Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là " Tham thiền", như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v..

    2.-Tậ밠trung tư tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì như quán bất tịnh, quán từ bi v.v..nên củng gọi là " Quán tưởng".

    Có chỗ gọi là tu " Chỉ quán"hay tu" Định huệ". Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi động, tưc là định. Quán là quan sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ.

    "Chỉ" là nhơn, mà "Định là quả.

    " Quán là nhơn", mà "Huê " là quả.

    CHỦ TRƯƠNG CỦA THIỀN TÔN

    Tất cả chúng sinh, trãi qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ sanh-tử luân hồi vì bị vô minh mê hoặc.

    Tại sao lại có vô minh mê hoặc? chúng ta hằng ngày bị thất-tình (1), lục-dục (2), bát phong (3), xuy động, làm cho tâm tánh chúng ta phải bị mờ ám; cũng như ngọn đèn bị thổi leo lét, không sáng tỏ được, để phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi sáng cảnh vật. Đèn tâm của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió lục-trần (4) làm chao động. Vì đèn tâm chao động (không định) nên ánh áng trí huệ không thể tỏa ra; và ánh sáng trí huệ không tỏ sáng, nên khỗng xé tan được mây vô-minh hắc ám ở chung quanh và không chiếu soi chơn lý của vũ-trụ.

    --------------------------------

    (1) Thất-tình: Mứng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn.

    (2) Lục-dục: Những sự tình dục do lục-căn sanh ra.

    (3) Bát-phong: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.

    (4) Lục-trần: Sáu trần-cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

    Vậy hành-giả muốn rỏ chơn lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tánh thành Phật, thì phải phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh hắc ám, hành-giả phải làm sao cho đèn trí huệ của mình được sáng tỏ. Muốn thế hành-giả phải tu thiền-định. Tâm có định, mới phát sinh trí-huệ. Trí-huệ có phát sinh mới phá trừ được vô minh hắc ám, và với minh tâm kiến tánh thành Phật.

    Mới nghe qua chủ trương của Thiền-tôn, chúng ta thấy không có gì mới lạ, và tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hanh thì lại không phải dễ dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền-định rất khó, phải thường có thiện-hữu tri-thức dắt-dẫn, phải tốn rất nhiều công phu và kiên-nhẫn, phải trải qua một thời gian lâu dài, mới thu được kết quả.

    B.-CÁC LỌAI THIỀN-ĐỊNH

    Thiền-định có nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của ngoại-đạo, có thứ thiền của phạm-phu, có thứ thiền của Tiểu-thừa, có thứ thiền của Đại-thừa.

    Hãy nghe Ngài Tôn-Mật Thiền-sư dạy: ‘’ ...Người muốn cầu Thánh-đạo, tất phải tu thiền ‘’. Chơn-tánh không có dơ và sạch, thánh và phàm. Song thiền-định có cạn và sâu, từng bực không đồng:

    - Người tà-kiến, chấp trước sao lạc, ưu cõi trên, chán cõi dưới mà tu Thiền là ngoại đạo thiền;

    - Người chánh tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới má tu thiền, là phàm phu thiền;

    - Người biết rõ lý ‘’ ngã không’’ mà tu thiền là Tiểu-thừa thiền;

    -Người ngộ được lý‘’ngã, pháp dều không’’ mà tu thiền, là Đại-thừa thiền;

    -Người đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo tâm ấy mà tu thiền là Tối Thượng thừa thiền, củng gọi là ‘’chơn như tam muội’’

    Vì thiền có nhiều loại khác nhau như thế, nên trướ khi muốn thực hành cho đúng đắn chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khiỏ lạc vào đường nguy hiểm.

    I.- NGOẠI ĐẠO THIỀN

    Trong phần ngoại đạo thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của ngoại đạo như đạo Tiên, đạo Bà la môn, các lối thôi miên, và những tà thiền định với mục đích không chơn chánh.

    Sao gọi là không chơn chánh? -Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành động gì không nhằm mục đích trau dồi tâm tánh, dẹp trừ phiền não hữu lậu, để cầu giải thoát sanh tử luân hồi, đều không là chơn chánh. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán thì những tà thiền định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không chơn chánh; vì những người tu theo lối thiền định nầy chỉ nhắm mục đích cầu được sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được thần thông biến háo để dạo chơi thế giới,được những phép lạ, huyền bí để cám dỗ, mê hoặc người, hay được thần tiên để hưởng lạc thú tiêu diêu nơi tiên cảnh...

    Bởi họ dụng tâm không chơn chánh, tu phương pháp không chơn tánh, nhắm mục đích thiển cận, bề ngoài và bị các phiền não tham, sân, si, làm động cơ thúc đẩy, nên các laọi thiền của họ không rốt ráo và toàn thiện được. Trước tiên chúng ta hãy nói đến các tà thiền định.

    1.- Tà thiền định: Đọc các loại sách xua, chúng ta thường nghe nói đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ, vượn...tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng củng có những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được nhiều phép tắc để được ggần phụ nữ, nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn hớp via người lương thiện, để thỏa mãn thú tánh. Đó là những loài yêu tinh quỷ quái, mà ngày nay theo con mắt nhà khoa học thì khó có thể tin được là có. Nhưng có lẽ những người xưa muốn đặt ra câu chuyện yêu tinh quỹ quái như thế, để ngụ ý các loài thú, nếu tu luyện lâu năm củng có thể phép thuật hơn người. Nhưng bởi chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phé갠thuật càng cao cường bao nhiêu càng gây tai họa bấy nhiêu.

    Chúng ta củng thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ củng tập trung tư tưởng, luyện phép tịnh tâm, và khi thành tâm, và khi thành công củng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỷ mách bảo cho các việc quá khứ, vị lai ...mà củng tác oai, tác oai không ít.

    Đó cũng là do tu định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên gọi là thiền định, và kết quả là có hại cho mình và nhân quần xã hội.

    Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy.Ngài A-Nan trong kinh Lăng nghiêm về các lồi tà thiền định:

    " ..A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào ma đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung thành ma dân bự hạ làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử luân hồi được?. "

    ‘’...A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn đoạn tân sát hại, thì chỉ đạo vào thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm phi hành dạ xao và các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La sát và các quỉ thần...’’

    ‘’...A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết đọa vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma quỉ, bực hạ làm người tà bị các tà ma nhập (đồng bóng)...’’.

    2.-Thiền định của đạo Tiên: Theo các kinh sách của đạo tiên để lại, như kinh Huỳnh-đình, hay bộ Tánh mạng khuê chỉ v.v..thì con người sở dĩ sống được và minh mẫn là nhờ có đử ba món: tinh, khí và thần. Tinh , khí là chủ cúa xác thân; Thần là chủ của mạng sống. Hể tinh thần lục dục quá mạnh thì tinh khí hao mòn: tinh khí hao mòn thì thân bị che lấp tối tăm, con người mất sáng suốt. Vì thế cho nên phải trừ dục tình để dưởng tinh, luyện khí cho thân được cởi mở và phát hiện.

    " Tiên đạo cho rằng khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là những lỗ thông khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi trở lên là dương khí, khí di xuống là âm khí.

    Người tu tiên cốt luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên đỉnh đầu, tức là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ bỏ khí âm? Bởi vì âm khí là trược khí, làm cho nặng nề, tối tăm, ưa thích điều dâm dục , làm hao tổn tinh thần. Hể tinh thần hoằng dương tổn thì cái thần là cái linh động sáng suốt nhất, cũng là cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc". Vậy nên, kẻ phàm là kẻ còn nặng khí âm, còn bậc tiên chỉ còn là khí thuần dương mà thôi (1).

    ‘’Để luyện khí, người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa thiền, nghĩa là ngồi ở một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các phép như: ‘’Tọa công’’, ‘’Giao thiên trụ’’, ‘’Thiệt giải thấu yết’’.v.v..

    Tóm lại những người tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trị chí tập trung tư tưởng, luyện ‘’Tinh’’ hóa ‘’Khí’’, luyện ‘’Khí’’ hóa ‘’Thành’’, sau khi đã thuần thục, cũng được năm phép thần thông biến hóa. Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các Thế giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đơn để trị bệnh hay để uống cho được trường sinh bất tử thành địa tiên.

    Những vị tiên này, rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không dám chắc là có hay không. Nhưng dù có có đi nữa, thì trên lý thuyết, các vị này vì chưa được lậu tận thông, ‘’phiền não hữu lậu chưa hết’’ nên khi phiền não rối lên họ cũng bị đọa trở xuống, khi trường hợp ông Uất-Đầu-Lâm-Phách, hay ông Độc -Giác-Tiên-Nhân.v.v...Hơn nữa dù họ có luyện cái thân mình cho được trường sanh bất tử cũng không thể toại nguyện được, vì cái thân này là tứ đại giả hiệp, tất phải bị luật vô thường chi phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại là cái đãy gia chứa các vật bất tịnh thì dù có cưng dưỡng cho mấy rốt cuộc rồi cũng bị tan rã. Bởi lẽ đó người tu hành phải xem nó như cái bè đưa qua sông, khi qua sông rồi, chẳng nên mến tiếc cái bè mà chẳng chịu lên bờ.

    Trong bộ Qui-nguyên Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Đồng Tân, học trò của Tiên Hớn Chung Ly, sau khi đấu phép với Ng ài Huỳnh Long hòa thượng bị thua, ông đã bỏ đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do sự đầu Phật là vì ông Lữ Đồng Tân tự nhận thấy mình đã dụng tâm sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ sau đây để nói lên sự sai lầm của ông:

    Nguyên văn:

    Khí khước biều nan, kích tý cầm
    Như kim bất luyến hống trung câm
    Từ tùng nhất kiến Huỳnh long hậu
    Thì giác tùng tiên thố dụng tâm
    Dịch nghĩa:

    Bỏ lầu Linh dược ném đờn cầm.
    Tôi nay chẳng tiếc nước miếng vàng (2)
    Từ khi gặp Huỳnh Long hòa thượng
    Mới biết từ trước dụng tâm sai.
    (xem quyển Lữ Đồng Tân đầu Phật)
    (1) "Yoga và tọa thuyền" trong đại chúng tuần sau, số 219

    3.-Luyện Du già (Yoga). Yoga là một danh từ Ấn, gốc là chữ Yuj; Tàu dịch là Du già, nghĩa đen là ‘’tự đặt mình dưới một cái ách’’; nghĩa bóng là ‘’tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một quy luật khắc khe’’ tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc biệt, mà mục đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một với bản thể của trời đất.

    Du già cũng gọi là thuật luyện khí của Ấn độ, gần giống thuật luyện khí của đạo Tiên. Theo thuyết Du già trong thân thể con người có rất nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương sống, và có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến cho cái ‘’chơn quả’’ từ dưới ‘’hỏa hậu’’ (chổ hậu môn) không thể lên được. Nhất là vì thân thể không luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc. Vậy muốn cho hoả hậu (tức là cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giản ra, các khớp xương được thông và thẳng.

    Để đạt được mục đích nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như tư thế ‘’giản lưng ‘’ tư thế ‘’lưỡi cày’’, tư thế ‘’trồng chuối’’ (trút đầu xuống dưới, trở chân lên trên trời), để cho hỏa hậu dể lưu thông tới đỉnh đầu.

    Ngày nay Du già được phổ biến qua các nước Âu -Mỹ, gần như một phong trào. Phần đông cho đó là một phương pháp thể dục, để luyện cho thân thể được khỏe mạnh, trí huệ được sáng suốt, để tính toán và làm việc được nhiều và hiệu quả. Một số người đi xa hơn, muốn luyện Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi những sự đòi hỏi của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài những nỗi lo âu, sợ sệt hằng ngày và sống một cuộc đời an vui, tự tại. Lại có một hạng người khác mong rằng Du già sẽ làm cho họ khám phá những năng lực tiềm tàng ẩn núp trong con người và làm cho họ trở thành những nhân vật phi thường, có những thần thông biến hóa, phép mầu chước lạ, họ cũng tập trung tư tưởng, định tâm chú ý như các lối tu thiền định; ngoài ra họ còn có tu tập một cách rất khổ sở, hành hạ thân xác, bắt nó chịu đựng những thử thách cực độ, như phơi nắng dầm sương, ngồi trên chông gai, đứng bằng hai tay, treo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát,v.v...đó là những đạo sĩ người Ấn Độ thường gọi là ‘’pha-kia’’ (fakir).

    Những người này khi tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao chém không đứt, đâm không thủng, nhai ve chai, uống axit không sao, nằm ngũ một giấc luôn trong 3 tháng không ăn, không uống .v.v...

    Nhưng dù họ thành công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng trần tục liễu xanh thoát tử và minh tâm kiến tánh được

    ‘’Yoga và tọa thiền’’ trong Đại chúng tuần san, số 219

    ‘’nước miếng vàng: đối với người tu Tiên, thì nước miếng rất quí họ không bao giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện linh dược.

    (1) Nước miếng vàng: Đối với người tu tiên, thì nước miếng rất qúy, họ không bao giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện thành linh dược

    4.- Luyện thôi miên. đây cũng là một lối tu thiền của ngoại đạo, hiện nay rất thịnh hành trên thế giới. Nguyên tắc của phương pháp tu luyện này cũng là vận dụng tập trung tư tưởng vào một chỗ để cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người tập thôi miên, lúc mới đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú vào một chấm đen vẽ ở trên tường, để cả tâm trí tập trung vào đó, ngoài ra không còn để ý vào một sự vật gì ở chung quanh nữa. Họ ngồi tập hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần không còn tán lọan nữa, và có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác là họ thành công. Những người thôi miên giỏi, có thể dùng thôi miên để trị lành bệnh hay sai sử những người khác làm những chuyện phi thường, như xuất thân đi đến một xứ khác để thăm bà con, kể lại việc quá khứ hay tiền thân của một người khác.v.v...

    Tóm lại, nhờ luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn của mình. Nhưng vì lợi dụng, tâm không chơn chánh, chỉ tham cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, không lo dẹp trừ phiền não, hữu lậu, trau dồi tâm tánh bên trong, để được minh tâm kiến tánh nên không phải là chánh đạo. Đến khi phiền não hữu lậu nỗi lên hoặc nhiễm sắc tham tài.v.v...thì các thần thông, diệu dụng đều mất hết. Bởi thế nên Phật dạy các đệ tử: ‘’ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất’’.

    II.- PHÀM PHU THIỀN

    Phàm phu thiền cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành-giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ thiền, Tứ không.v.v...đều thuộc phàm phu thiền.

    1.- Tứ thiền tức là 4 giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chổ nhàm chán cái vui thô thiển đến cái vuivi tế thanh tịnh. Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau:

    a.-Sơ thiền, ly sanh hỷ lạc.-Hành giả khởi đầu bằngg tâm lý nhàm chán cái ô trược của cỏi Dục, và mong cầu được xa lìa(ly) được cái ô trược của Dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh hỷ lạc). Đó là kết quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền).

    b.- Nhị thiền, định sanh hỷ lạc.-Nhưng cái vui nói trên, lại làm cho tâm chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và cái vui mừng vi tế trong định lại nãy sanh; vì thế cho nên gòila" Định sanh hỷ lạc".

    c.-Tam thiền, ly hỷ diệu lạc.-Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế, nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giạlai cần bỏ cái vui mừng ở cõi nhị thiền. Khi bõ được cái vui mừng này, thì một nỗi vui mầu nhiệm khác lại phát sinh; vì thế cho nên gọi"Ly hỷ diệu lạc".

    Trong các kinh thường chép:Cõi tam thièn là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trênthì chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa.

    d.-Tứ thiền, xả niệm thanh tịnh.-Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô đọng của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư, xã luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toà thanh tịnh, vì thế nên gọi là"Xã niệm thanh tịnh".

    2.-Tứ không định.-Sau khi đã trãi qua Tứ thiền và đã thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trãi qua bốn giai đoạn gọi là tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là tứ không, vì khi vào bốn định này, thiên giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa.

    Không vô biên xứ định.-Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền, tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh, nhung vaãn còn thấy có sắc giới, còn thân còn cảnh và bị nhình săc trói buộc, nên sanh tâm nhàm chán. Để rời bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của tứ không, thể nhập với "Hư không vô biên",tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của cảnh.

    b) Thức vô biên xứ định.-Thiền giả khi đã định thứ nhấtcủa tứ không, rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thaáy được cái vô biên của hư không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên giới của tâm thức; khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi"Thức vô biên".

    c)Vô sỏ hữu xứ định:-Thiền giả ,mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn cách của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng sở;mà hễ còn thấy năng sở, tức con thấy mình và người , còn thấy có sở hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập định"Vô sở hữu xứ" (cõi không sở hữu).

    d)Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định.-Thiền giả khi đã nhập định"Vô sở hữu", không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn "tưởng". Mà còn tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng nữa, vào cõi "Định không tưởng". Nhưng không tưởng đây, không có nghĩa là vô triều vô giác như đất đá; không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá,. Không tưởng mà vẫn sáng suốt như một tấm gương, nhưng không phải là một tấm ván hay mặt đá. Đó là ý nghĩa của cõi định" Phi tưởng , phi phi tưởng".

    Có chỗ nói định" Tứ không" thuộc về ngoại đạo , nhưng người tu thiền, bắt đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc baáy giờ có hai con đường tẻ: Một con đường đi về ngũA-na-hàm (1) ở cõi tứ thiên(2) thuộc về cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về tứ không của cõi Vô sắc, thuọc về ngoại đạo.

    (1) Ngũ A-Na-Hàm là năm cõi A-Na-Hàm:a) Vô phiền, b).vô nhiệt, c). thiện kiến, d).thiện hiện, đ)sắc cứu cánh.

    (2) Tứ thiền có chín cõi ngoài năm cõi A-na hàm, còn có bốn cõi: Vô vân,phước sanh, quảng quả, vô tưởng.

    (3)Tiểu Thừa thanh văn có bốn quả thánh A-na hàm thuộc quả thánh thứ ba

    III.-NHỊ THỪA THIỀN

    Nhị Thừa ay Tiểu-thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền , nghĩa là các người tu theo các loại thiền nầy có thể vượt ra ngoài thế gian, thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, nnx pháp tu thiền nầy không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diên như các lối Đại-thừa thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần tự, cuộc bó, tu một pháp chỉ trừ được phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa thiền (Nhị thừa thiền là Thinh văn thừa và Duyên giác thừa).

    Nhị thừa thiền có rất những phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập thứt thế xứ quán, Bát hồi quả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng quán, Thập lục đặng thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư tử phấn tấn, siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo..tóm lại, hành quả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo-lý của một hay những pháp môn của Nhị thừa để tham sát tham thiền.

    Trong phạm vi hẹp hòi của bai phổ thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin nói sơ lược mọt ít phương pháp . nếu hành giả muốn đi sâu vào con đường tu này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công.

    1.- ngũ đình tâm quán:

    Quán tổ sức, trừ tâm toán loạn
    Quán bất tịnh, trừ tâm tham sắc dục
    Quán từ bi, trừ tâm sân hận
    Quán nhân duyên, trủ tân si mê
    Quán giới phân biệt, trừ tâm chấp ngã.
    (xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)
    2.- Cửu tưởng quán:

    a.-Tưởng thây sình tướng
    b.-Tưởng thây hoại diệt
    c.-Tưởng máu mủ chảy
    d.- Tưởng thây rục rã
    đ.- Tưởng thây xanh chàm
    e.- Tưởng thây bị giòi rúc rỉa
    ê.-Tưởng thây tan rã
    g.- Tưởng còn lại đống xương
    h.-Tưởng xương bị đốt tiêu.
    3.- Tứ vô lượng tâm:

    a.-Tâm vô từ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng vô từ vô lượng, bao bọc chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô biên.

    b.-Tâm bi vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng bi vô lượng, cứu khổ cho chúng sanh trong năm đường.

    c.-Tâm hỷ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho chúng sanh đều được Hỷ.

    d.-Tâm xã vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng Xã vô lượng, không lưu luyến cố chấp một việc gì.

    Tứ vô lượng tâm là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô tâm lượng, thì sau khi mạng chung sẽ sanh làm vua ở cỏi Tứ thiền; Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước đức được tăng trưởng, mau dặng Niết bàn, bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể .

    (xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)

    4.- Thập lục đặc thắng:

    thập lục đặc thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có quán, có đủ các thiền và có thể phát sanh ra quả vô lậu, không phải như Tứ thiền, ứ không, không ra khỏi sanh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là:

    a.- Biết hơi thở vào
    b.- Biết hơi thở ra
    c.- Biết hơi thở dài ngắn
    d.- Biết hơi thở thắp thân
    đ.- Trừ các thân hạnh
    e.- Thọ hỷ
    ê.- Thọ lạc
    f.- Thọ các tâm hạnh
    g.- Tâm tác hỷ
    h.- Tâm tác nhiếp
    i.- Tâm tác giải thoát
    k.- Quán vô thường
    l.- Quán xuất tán
    m.- Quán ly dục
    n.- Quán diệt
    o.- Quán phí xả.
    5.- Thông minh thiền:

    Thông minh thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh.

    a.-Lục thông tức là sáu phép thần thôngnhư:thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông.

    b.-Tam minh tức là thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh.



    6- Thập nhứt thế xứ quán:

    thập nhứt thế xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây:

    a.- Quán sắc xanh, khắp giáp tất cả chổ
    b.- Quán sắc vàng, khắp giáp tất cả chổ
    c.- Quán sắc đỏ, khắp giáp tất cả chổ
    d.- Quán sắc trắng, khắp giáp tất cả chổ
    đ.- Quán đất, khắp giáp tất cả chổ
    e.- Quán nước, khắp giáp tất cả chổ
    ê.- Quán gió, khắp giáp tất cả chổ
    g.- Quán lửa, khắp giáp tất cả chô
    h.- Quán hư không khắp giáp tất cả chổ 輯dt>
    i.- Quán thức tâm, khắp giáp tất cả chổ
    7.- Bát bối xã quán:

    Bát xã quán yức là tám phép quán có thể trái bỏ(bối xả) cảnh giới Tứ thiền, tú định của thế gian, dể thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép bối xả quán là:

    a.- Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền.
    b.-Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền .
    c.- Quán thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền .
    d.- Quán trái bỏ Hư không vô biên xứ.
    Đ.- Quán trái bỏ Thức vô biên xứ
    e.- Quán trái bỏ Vô sớ hữu xứ
    ê.- Quán trái bỏ Phi tưởng, phi phi tưởng xứ.
    f.- Quán trái bỏ diệt thọ tưởng.
    8.- Bát thắng xứ quán:

    thắng có nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở quán, cũng như công đức thu thập được trong khi thu hành, đều thù thắng hơn tám món Bối xã trên, nên gọi là ‘’Bát thắng xứ quán’’’.

    a.- Trong có sắc tướng, ngoài có ít sắc, thắng xứ.
    b.- Trong có sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ
    c.- Trong không sắc tướng, ngoài quán ít sắc ,thắng xứ
    d.- Trong không sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ
    đ.- Quán sắc xanh, thắng xứ
    e.- Quán sắc vàng, thắng xứ
    ê.- Quán sắc đỏ, thắng xứ
    f.- Quán sắc trắng, thắng xứ
    9.- Lục diệu pháp môn:

    Lục diệu pháp môn là sáu phép môn mầu nhiệm sau đây:

    a) Số. b) Tùy. c) Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh.

    (Xem quyển Lục Diệp pháp môn)

    10.- Bát niệm xứ:

    Với phép quán tám niệm sau nầy,thiền giả sẽ trừ đượcsự sợ hãi khi tu cửu tưởng và sẽ được đạo quả

    a)Niệm Phật. b) Niệm pháp . c) Niệm tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm hơi thở ra vào. h) Niệm chết(nhớ chết).

    11.- Thập quán tưởng:

    Thập quán tương gồm có:

    a). Tưởng vô thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã , d). Tưởng ăn vật bất binh, đ). Tưởng thế gian không vui, e). Tưởng chết, f). Tưởng bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng lìa, i). Tưởng hết.

    12.- Cửu thế đệ định:

    Cửu thế đệ định là 9 món thiền-định mà thiền-giả sẽ tùaan tự theo thứ lớp tu-luyện: từ Sơ-thiền đến Tứ-thiền, rồi đến Tứ-định, và cuối cùng, cộng thêm định Diệt-thọ-tưởng là chín món tất cả.

    13.- Sư-tử phấn tấn Tam-muội:

    Với pháp thiền này, hành-giả bắt đầu tham-thiền như pháp Cửu-thứ-đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ-thiền đến thiền-định thứ chín là Diệt-thọ-tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ chín đến Sơ-thiền. Thiền-giả tới lui trong thiền-định một cách thông suốt, tự-tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư-tử, nên gọi là ‘’Sư-tử phấn tấn tam-muội ’’. Kết quả của lối thiền này, nếu được hòan toàn siêu-việt thì thiền-gỉa sẻ là Bồ Tát. Nếu không hoàn-toàn tự-tại và chưa siêu-việt thì thành Thanh Văn.

    14.-Ba mươi bảy pháp trợ đạo:

    Thiền-giả cũng có thể lấy một pháp-môn hay nhiều pháp-môn trong số 37 pháp trợ-đạo để tham-thiền, tu-luyện. Ba mươi bảy pháp trợ-đạo đã có nói rỏ trong Phật-học Phổ-thông khóa ba. Ơí đây, chúng tôi chỉ xin nhắc qua để quý độc-giả nhớ lại thôi:

    a). Ngũ căn b). Ngũ lực

    c). Tứ chânh cần d). Tứ như ý túc

    đ). Tứ niệm xứ e). Thất Bồ-đề phần

    ê). Bát chánh đạo phần.

    KẾT LUẬN VỀ NHỊ-THỪA THIỀN

    Các pháp tu thiền của Nhị-thừa hay Tiểu-thừa nói trên, như quý độc-giả đã thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành-giả muốn cho có kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích-hợp với trình-độ của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp-môn nấy được. Sự lựa-chọn nầy cũng cần được các bậc thầy hướng-dẫn. Vì-thế, chúng ta thường nghe ngày xưa các vị chaan tu đi ‘’ cầu pháp ‘’, hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công lao khó-nhọc, có nhiều khi hy-sinh cả tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sưchỉ dạy phương-pháp tu hành, như Ngài Thiện-Tài đi tham-cầu 53 vị Thiện-triều-thức, Ngài Huyền-Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Độ để cầu Pháp. Hành-giả sau khi được vị minh-sư nhận lời, còn phải theo hầu hạ một thời-gian rất lâu để vị minh-sư ấy quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như Ngài Xá-lợi-phất đem pháp Sổ-tức dạy người giữ nghĩa-địa, hay pháp quán Bất-tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích, chứ không kết-quả gì hết.

    Hành-giả cũng nên nhớ một đe\iều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên bôn-chôn, nóng-nảy vô ích. Sự tu hành củng như trồng cây, không theẻ nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới nước, làm đây đủ bổn phận của mình, rồi kiên-nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên.

    Người tu hành củng vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích-trữ nhiều năm, đến khi công tròn quả mãn, thì được mminh tâm kiến tánh.

    Hãy nhớ rằng tu-hành phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một hai đời mà thành Phật được.

    IV.- ĐẠI-THỪA THIỀN

    Đại-thừa Thiền là pháp tu thiền bực của Đại-thừa, củng gọi là xuất-thế-gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng cho những người thượng căn rất thông-minh và lanh-lợi tu. Những bực Đại-thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các phiền nảo thô-trược, chỉ còn vi-tế vô-minh, nếu kiếp này gặp được minh-sư chỉ giáo cho phép tu Đại-thừa thiền nầy, thì sẽ được ttỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu-tố căn bản của Đại-thừa thiền là trí-huệ. Thiền-giả phải lấy trí-huệ để tự quan sát tamm-tánh. Nếu thiếu trí-huệ, thiền-giả khó được kết-quả khi tu theo Đại-thừa thiền.

    CÁC PHÁP THIỀN-ĐỊNH CỦA ĐẠI-THỪA

    Các pháp thiền-định của Đại-thừa rất nhiều như: Pháp-hoa tam-muội, niệm Phật tam-muội, Ban châu tam-muội, Giác ý tam-muội, Thủ-tăng-nghiên tam-muội, Tứ-tánh-thiền, Nhứt-thế-thiền, Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền,, Nhứt tế hạnh thiền, Trừ phiền-não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh-tịnh tịnh thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như lai tối thượng thừa thiền, Đat-ma sư-tổ thiền .v.v.

    Dưới đây chúng ta hãy nghiên cứu qua một số pháp thiền-định thông thường của Đại-thừa.

    Sao gọi là ‘’ Pháp hoa tam-muội ‘’?

    Phương pháp nay dựa theo kinh Đại phẩm Bát-nhã. Hành-giả tu pháp này, tâm ý giác-ngộ tất cả các pháp và được vô-sanh-nhẫn (độc giả nào muốn rỏ thêm, hảy xem lời bình luận của Ngài Trí-Giả-Đại-Sư).

    Sao gọi là ‘’ Thủ nghiêm tam muội ‘’?

    Phương-pháp này căn cứ theo kinh Thủ-lăng-nghiêm. Hành-giả phải nhận chân rằng các pháp đều từ thưc-thể như là Như-Lai-Tạng tamm mà tùy duyên biến-hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rỏ các pháp đều như huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham-thiền nhập-định, nên cũng gọi là như hiển tam-muội.

    Sao gọi la蠦#145;’ Tự-tánh thiền, Nhứt thế thiền, nan thiền .v.v..’’?

    các món thiền như ‘’Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền, Nhứt thế môn thiền. Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh- tịnh tịnh thiền ‘’, gồm cả thảy chín món và được gọi là Đại-thừa thiền.

    Sở dĩ, gọi các món thiền naylaf Đại-thừa thiền, vì các vị Bồ Tát nhờ y theo các món thiền này mà tấn tu làm nên được công-hạnh rộng lớn, thắm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu rỏ thêm, hảy đọc quyễn ‘’ Pháp giới thứ đệ sang môn ’’ do Ngài Trí-Giả Đại-Sư soạn).

    Sao gọi là ‘’ Trực-chỉ thiền ‘’?

    Trực-chỉ thiền là pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không dùng phương-tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo.

    Sao gọi là ‘’ Như-lai thanh-tịnh thiền’’?

    Như-lai thanh-tịnh thiền là pháp thiền thanh-tịnh của Như-lai. Như chúng ta đã biết, Đức-Phật Thích-Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi tham-thiền 6 năm dưới gốc cây Bồ- đề. Sau khi phá trừ hết vô minh phiền-não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ-đề. Do đó, phép thiền này được gọi là ‘’ Như-lai thanh-tịnh thiền’’.

    Sao gọi là ‘’ Như-lai Tối-thượng-thừa thiền ‘’?

    Đây là phép thiền cao-siêu hơn tất cả các phép thiền mà đức Như-lai đã ứng-dụng.

    Sao gọi là Đạt-Ma Tổ-Sư thiền ‘’?

    Như chúng ta nghe, Ngài Đạt-Ma sau khi từ Ấn Độ sang Trung Hoa truyền đạo, đã ngồi xây mặt vào tường chín nằm, tại chùa Thiếu-Lâm để thamm-thiền. Đat-Ma Tổ-sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đa xtu luyện ở chùa Thiếu-Lâm vậy.

    Các phép thiền của Đại-thừa, như quý độc-giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều không kể xiết, tựu-trung có thể chia làm hai loại lớn:

    1.- Một loại thường gọi là tam-muội, căn cứ theo kinh sách của Phật Tổ truyền dạy mà tu tập, có tu có quán, có phương-pháp nhất định, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm Phật tam-muội, Ban-châu tam-muội, Giác-ý tam-muội, Thủ-tăng-nghiêm tam-muội v.v...Các loại tam-muội này vì có quy củ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thư hai mà chúng tôi sắp nói dưới đây, nên được nhiều người tu luyện và số người thành tựu cũng nhiều.

    2.- Một loại thứ hai, được truyền dạy không căn-cứ theo kinh-giáo, không có văn tự, tức là loại thiền ‘’ giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn-tự ’’, như các pháp ‘’ Trực-chỉ thiền, Như-lai thanh-tịnh thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như-lai tối-thượng thừa thiền, Đạt-Ma Tổ-sư thiền v.v...Với loại thiền này là người ngộ trước dùng tâm giác-ngộ của mình để ấn-chứng cho người sau giác ngộ. Đó tức là loại thiền ‘’ Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật ‘’: Vị minh-sư dùng tâm mình đễ tiếp xúc với tâm đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ-tử; như dùng ngộn đèn sáng chói mà tâm mình mã bừng phát ra để chiếu vào tâm đệ-tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực-tiếp của sự giác-ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền náy tức là loại thiền đa xây dựng truyền nối từ Đức-Phật Thích-Ca xuống cho đến Ngài Lục-tổ. Đây là một lối ‘’ truyền đạo’’ hay ‘’truyền đăng’’ trực tiếp linh động chính thống, nhưng không phổ biến như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho mỗi người, chứ không thể truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là một vị có trí-huệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp.

    Cách truyền dạy pháp thiền này có hai lối:

    a). Tham cứu một câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay ‘’ công-án’’, nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn, nhưng y-nghĩa sâu-xa, đối với người thường không hiểu được.

    Khi một vị Tổ của phái Thiền-Tôn này nhận thấy trong hàng đệ-tử của mình có một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối đạo tiếp nối sự nghiệp của Thiền-tôn và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho vị đệ-tử ấy một câu thoại-đầu (một luận-án, như bây giờ, các vị bác sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho ban giám khảo). Vị đệ-tử này, đêm ngày tham cứu câu thoại-đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ-tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu rồi, vị Tổ-sư mới ấn chứng cho.

    b). Nhưng nhiều khi vị Tổ-sư lại không trao cho đệ-tử của mình một câu thoại-đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất lạ-lùng, người thường khó có thể hiểu được như : đánh, hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà v.v...chẳng hạn; như có một vị đệ-tử đến cấu đạo với một vị Tổ-sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng Thiền-tượng (roi thiền) đánh dập vị đệ-tử kia, để xem sự phản ứng ấy như thế nào. Do sự phản ứng mà vị Tổ-sư biết được vị đệ-tử kia đã giác ngộ hay chưa.

    ( Xem Pháp Bảo Đàn Kinh).

    Tóm lại, pháp thiền này rất là màu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người xưa có nói: ‘’ Thiền cơ huyền diệu’’ ( máy thiền mầu-nhiệm). Các vị Tổ-sư trong khi truyền đạo, không dựa theo một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời cơ mà ứng-biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo, xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho vị đệ-tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài tùy cơ lập pháp. Tất nhiên phương-pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó, mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương-pháp gì để truyền thọ.

    Về sau cũng có người bắt chước những phương-pháp như đánh, hét v.v...nhưng vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà thôi, chứ không có hiệu quả gì.

    HỆ-THỐNG TRUYỀN THỪA CỦA CÁC TỔ TRONG PHÁI THIỀN TÔN TẠI ẤN ĐỘ

    1.-Ngài Ma Ha Ca Diếp, Sơ-tổ của Thiền-tôn ở Ấn Độ:

    trong kinh Phạmthiên vấn Phật quyết nghi và trong bộ "Thích nghi kê cổ " quyển nhất,chùa chép đại khái như sau: khi Phật ở hội Linh Sơn, có ông Đại Phạm Thiên Vương, đem hoa sen dâng cúng Phật. Phật cầm cành hoa sen lên để khai thị cho đại chúng (thiền cơ). Tòan thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma Ha Ca Diếp là tỏp ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, chúm chím mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Đức Phật nhận thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho Ngài Ca-Diếp được đắc truyền và làm tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Độ) Phật tuyen bố như sau:

    Nguyên văn:

    Ngô hữu chánh pháp nhãn tạng
    Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng,
    Vi diệu pháp môn, kim phú Ma Ha Ca Diếp

    Dịch nghĩa:

    Ta ương"chánh pháp nhãn tạng",cũng gọi là Niết bàn diệu tâm", cũng tên là thật tướng vô tướng" cũng gọi là "Vi diệu pháp môn", nay ta truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.

    Sau đó, Phật truyền y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau:

    Nguyên văn:

    Pháp pháp bổn vô pháp
    Vô pháp pháp, diệc pháp
    Kim phú vô pháp thời
    Pháp pháp hà tằng pháp.
    Dịch nghĩa:

    Các pháp vốn không pháp
    Không pháp cũng là pháp
    Nay truyền cái vô pháp (vô tướng)
    Vô pháp nào có pháp.
    Đây là nguồn gôc phát khởi Thiền tôn, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm) không dùng kinh giáo và phương tiện.

    2.- Ngài A-Nan, Tổ thứ hai của Thiền tôn ở Ấn Độ:

    một hôm Ngài A-Nan hỏi Ca-Diếp:

    - Ngòai việc truyền y bát, đức Thích tôn còn truyền pháp gì riêng cho Ngài nữa không?

    Tổ Ca-Diếp gọi to:

    - A-Nan !

    Ngài A-Nan: Dạ !

    Tôí dạy tiếp:

    - Cây sào phướn trước của chùa ngã !

    Ngài A-Nan lièn tỏ ngộ Thiền cơ, nên được tổ Ca-Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị tổ thứ hai. (xem Phật học từ điển, trang 1638 về mục "Ca-Diếp can sát").

    Từ Ngài A-Nan trở về sau, có thêm 26 vị Tổ về Thiền tôn nữa. Cộng cả Ngài Ca-Diếp và Ngài A-Nan, ở Ấn Độ có cả thảy là 28 vị Tổ, thứ lớp tuần tự như sau:

    1 .- Tổ Ma Ha Ca Diếp
    2. Tổ A-Nan
    3. Tổ Thương-Na Hòa-Thứ
    4. Tổ Ưu-Ba Cúc Đa
    5. Tổ Đề-Đa-Ca
    6. Tổ di giá ca
    7. Tổ bà tu mật
    8 Tổ Phật Đà Nan Đề
    9 Tổ Phục Đà Mật Đa
    10 Tổ Hiếp Tôn Giả
    11 Tổ Phú Na Giạ Xa
    12 Tổ Mã Minh
    13 Tô ؃a Tỳ Ma La
    14 Tổ Long Thọ
    15 Tổ Ca Na Đề Bà
    16 Tổ La Hầu Na Đa
    17 Tổ Tăng Già Nan Đề
    18 Tổ Già Đa Xá Đa
    19 Tổ Cưu Ma La Đa
    20 Tổ Xà Giạ Đa
    21 Tổ Bà Tu Bàn Đầu
    22 Tổ Ma Noa La
    23 Tổ Hạc Lặc Na
    24 Tổ Sư Tử
    25 Tổ Bà Xá Tư Đa
    26 Tổ Bát Như Mật Đa
    27 Tổ Bát Nhã Đa La
    28 Tổ Bồ Đề Đạt Ma.
    (Theo truyện Phú Pháp Tạng Nhơn duyên)
    Hai mươi tám vị tổ này được làm rực rỡ cho Phật Giáo ở Ấn Độ, chứ không cho riêng gì Thiền Tôn Phật Giáo sau này được lan rộng trên toàn cầu, một phần lớn do công đức của 28 vị Tổ này. Ngày nay khi nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự kiện này chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm đều ở trong Phật Thiền Tôn. sự nhận xét này không những được chứng minh ở Ấn Độ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật-Bản và đến Việt-Nam nữa.

    SỰ TRUYỀN THỪA THIỀN TÔN Ở TRUNG HOA

    1.- Ngài Bồ Đề Đạt Ma, sơ Tổ của Thiền Tôn ở Trung Hoa

    Sau khi Ngài Bát Nhã Đa La, vị Tổ 27 của Thiền Tôn ở ÂꮭĐộ, ấn chứng cho làm tổ thứ 28, Ngài Bồ Đề Đạt Ma ở lại Ấn Độ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư phụ, Ngài sanh Trung Hoa truyền đạo.

    Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Đế (528 dl.) trị vì, Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách hình thức bề ngoài, nên tổ Đạt Ma được giả từ vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xâymặt vào tường, tham thiên nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo ( xem quyển tổ Đạt Ma, do Hương Đạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đòi sau có tên là ‘’Đạt Ma tổ sư thiền ‘’. trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài , đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Đó cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Đó là Ngài Thần Quang mà sau này được tổ Đạt Ma ấn chứng cho làm tổ thứ hai của Thiền Tôn ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả.

    Dể làm kim chỉ nam cho người tu thiền đơui sau, tổ Đề Đạt Ma còn truyền lạ bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển, rất có giá trị.

    2.- Ngài Huệ Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền Tôn thứ hai ở Trung Hoa

    Ngài Thần Quang, nghe danh tổ Đạt Ma đến cầu đạo. Nhưng tổ không tiếp.Ngài Thần Quang quỳ đọei luôn mấy năm suốt mấy năm ở ngoài hiên chùa; nhưng tổ cũng không đoái hoài đến không. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình. Lúc bấy giờ tổ Đạt Ma mới xoay lại hỏi:

    Ông đến đây cầu gì?

    Ngài đáp:

    Con cầu pháp an tâm.

    Tổ bảo:

    Ông đem tâm đến đây để ta an cho.

    Ngài thưa:

    Con tìm tâm không được.

    Tổ dạy:

    Ta đã an tâm cho ông rồi đó !

    Ngài liền ngộ đạo. Tổ Đạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho Ngài Huệ Khả:

    Nguyên văn:

    Ngô bổn lai tư độ
    Truyền pháp độ mê tình
    Nhất hoa khai ngũ diệp
    Kết quả tự nhiên thành.
    Dịch nghĩa:

    Ta đến nước Trung Hoa
    Truyền pháp độ kẻ mê
    Một bong trổ năm cánh
    Kết quả tự nhiên thành.
    3.- Ngài Tăng Xán, vị tổ thứ ba của Thiền ở Trung Hoa

    Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng xán làm vị Tổ thú bacu thiền tôn ở Trung Hoa.

    4.- Ngài Đạo Tín, vị tổ thứ tư của Thiền tổ ở Trung Hoa

    Tổ Tăng Xán truyền pháp cho Ngài Đạo Tín là vị tổ thứ tư. Sự truyền pháp ại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây cầm đầu.

    Ngài Hoằng Nhẫ ở núi Đông Sơn, huyện Hùynh Mai.

    Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Đầu, cũng gọi là "Ngưu Đâu Thiền".

    5.- Ngài Hoằng Nhẫn,vị tổ thứ năm của Thiền tôn ở Trung Hoa

    Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây:

    Một hôm Ngài Đạo Tín, vị tổ thứ tư Thiền tôn,thấy một ôn già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi,có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy:

    Ta đã già, ông đã già ! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thhể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho ! Ông già thưa:

    Nếu con đi đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ được tịch trước, thì làm sao truyền đạo cho con được?

    Đức Tứ tổ dạy:

    Ta sẽ ở nán lại cỏi đời để chờ ông.

    Vâng lời tổ dạy, ông giá đi vòng theo dòng suối, thấy một cô gái gồi giặt bên bờ. Ông già hỏi:

    Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không?

    Cô gái thưa:

    ông hãy hỏi cha mẹ cháu.

    Ông già nói tiếp:

    Nếu cô bằng lòng thì tôi hỏi sau.

    Cô gái trả lời:

    Dạ bằng lòng

    Được lời, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác.

    Còn cô giá kia, không có chồng mà từ dó trở nên có mang. Bị cha mẹ đánh đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vã, nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh được đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Đứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mỡ miệng cười. Tổ nói:

    -Ta đang trông đợi ngươi đây !

    tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa bé.

    Tổ Đạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn ròi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị tổ thứ năm của Thiền Tôn. sau khi truyền đạo xong, tứ tổ Đạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa).

    6.- Ngài Huệ Năng vị tổ thứ sáu của Thiền Tôn ở Trung Hoa

    Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chử, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho một nhà phú ông. Trong khi chờ đọi Ngài lắng nge chủ nhà tụng kinh Kim Cang. Đến câu ‘’ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm ’’, Ngài liền ngộ đạo.

    Đợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trộ khên ngợi và hỏi rằng:

    Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy?

    Tôi cũng mốn thọ trì tụng đọc như ông.

    Phú ông mách cho Ngài:

    Tại núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngủ tổ, thường truyền Phật độ người, ông nên đến đó mà mà cầu đạo.

    - Ngài trả lời:

    Tôi cũng muốn như thế lắm; ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao !

    - Phú ông bảo:

    Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi tật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia.

    - Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán cho Phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.

    - Ngũ tổ thấy Ngài hỏi:

    Ông ở đâu đến và đến đây để cầu việc gì?

    - Ngài đáp:

    Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật.

    Ngũ tổ thấy hình thù Ngài kì dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả quở to rằng:

    Ông là người mọi rợ phương Nam mà cầu thành Phật làm gì?

    - Ngài Huệ Năng trả lời:

    Bạch tổ sư ! Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc.

    Ngũ tổ sợ trong công chúng để ý, lộ bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà truyền cho Ngài xuống nhà trù công giã gạo

    Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình được già, muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:

    Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ sáu.

    Tin này được truyền ra rất mau chóng.

    Trong chúng mọi người đều nô nức, xôn xao bàn tán:

    Trong chúng chỉ có Thưởng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa củng được truyền tổ vị.

    Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngủ Tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới cầm đèn hồi hợp đến víwt một bài kệ trên vách phía đông lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm:" Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không ai biết".

    Nguyên văn:

    Thân thị Bồ-Đề thọ
    Tâm như minh cảnh đài
    Thời thời thường phất thức
    Vật sử nhá trần ai.
    Dịch nghĩa:

    Thân là cây Bồ-Đề
    Tâm như đài gương sáng
    Thường ngày hằng quét lau
    Chớ cho dính bụi trần.
    Sáng nay,tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiểntên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục:

    -Đây rồi! Kế tổ vị đây rồi!Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa!nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem bài kệ, Ngài Huệ Năngcủng từ nhầ trùtheo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ,Ngài Huệ Năng nói:- Còn đứng ngoài cửa rào.

    Kẻ qua người lạinghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ:

    -Đã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào!

    Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo:

    -Tôi củng có một bài kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ.

    Một người liền hoan hỷ viết hộ. Huệ Năng đọc bài kệ sau đây:

    Nguyên văn:

    Bồ-Đề bổn vô thọ
    Tâm phi minh cảnh đài
    Bổn lai vô nhứt vật
    Hà xứ nhá trần ai?
    Dịch nghĩa:

    Bồ-Đề vốn không cây
    Tâm không phải đài gương
    Xưa nay không một vật
    Chỗ nào dính bụi trần?
    Nghe xong bài kệ, mọi người dều kinh ngạc: Không ngờ một người dốt nát như thếmà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế?

    Ngủ Tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn dánh tan dư luấnco thể nguy hại cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọcbài kệ của Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ Năng.

    Một buổi chiều, Ngủ Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng:

    - Gạo đã trắng chưa? (mật ý hỏi: Đạo đã ngộ chưa? )

    Ngài Huệ Năng đáp:

    -Bạch Tổ, gạo con giả đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng ( mật ý Ngài muốn nói:Đạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền ).

    Ngũ Tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên dầu chày ba cái rồi đi lên ( Ngủ Tỏ bảo Huệ Năng canh ba vào phòng ).Ngài Huệ Năng vào phòng Ngủ tổ. Ngài được Ngủ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm tỏ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng hóa đạo pháp ( Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng).

    Từ đó, Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc chủ trương về Tiệm tu, nên gọ là "Nam đốn, Bắc tiệm" hay" Nam Năng Bắc Tú".

    Sau đây là bản lược đồ về sáu vị tỏ thiền tôn ở Trung Hoa:

    Sơ tổ : Ngài Bồ-Đề Đạt -Ma

    Nhị tổ : Ngài Huệ -Khả (Thần Quang)

    Tam tổ :Ngài Tăng- Xán

    Tứ tổ :Ngài Đạo

  4. #4

    Mặc định

    Tứ tổ :Ngài Đạo Tín

    Ngũ tổ :Ngài Hoằng Nhẫn

    Ngài Ngưu Đầu thiền Sư

    Lục tổ :Ngài Huệ Năng

    Ngài Thần Tú.

    Từ Ngài lục tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ không còn ấn chứng rieng cho một vị nào. Do đó trong Thiền thiền Tôn không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây:

    HAI PHÁI VÀ NĂM DÒNG

    Ngài Huệ Năng từ khi lên làm lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nỗi tiếng hơn hết là Ngài Hoài NHượng ởở nam nhạc và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xêm Pháp Bảo Đàn Kinh). Hai Ngài này là mở đầu cho hai phái Thiền Tôn là phái Nam nhạc và pháiTHanh Nguyên.

    Phái Nam nhạc vè sau lại chia làm hai dòng là: Lâm tế và Quy ngưởng.

    Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là: Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn.

    Sau đây là lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền Tôn ở Trung Hoa.

    I.-Ngài Hoài Nhượng ( Ở Nam nhạc )

    1.-Lâm tế

    2.-Quy Ngưởng

    II.-Ngài Hành Tú (Ở Thanh Nguyên) 3.-Tào Động

    4.-Vân Môn

    5.-Pháp Môn

    1.-Dòng Lâm Tế

    a)Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế, tuần tự như sau:

    -Hoài Nhượng Thiền Sư

    -Đạo Nhứt Thiền Sư(họ Mã, tục gọi là Mã Tổ)

    -Bách Trượng Thiền Sư(Hoài Hải)

    -Huỳnh Nghiệt Thiền Sư (Hỳ Vân)- Lâm Tế Nghĩa Hùyen.

    b.-Sự truyền pháp (thiền cơ) của tôn Lâm Tế:

    Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền Tôn khó mà hiểu được, đói với người thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hết to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền-sư:
    để cầu giác ngộ, một hôm Ngài Lâm tế hỏin Huỳnh Nghiệt:

    -Sao gọi là đại ý Phật pháp?

    Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền trượng( gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một cái. Ba lần Ngài Lâm tế hỏi, thì ba lần được dánh như thế.

    Ngài Lâm tế lầylam bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với Ngài Đại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm tế mợingô được tôn chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt.

    Từ đó về sau, dòng Lâm tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy.

    Ngài Lâm tế nói:"Có khi hét một tiếng như bữu kiếm kim cương vương , có khi hét một tiéng như sư tử giậm chân , có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét ".bởi thế nên người đời gọi là" Lâm tế tứ yết "

    (bốn tiếng hét của Lâm tế).

    Dòng Lâm tế sau lại chia làm hai nhánh:Dương kỵ và Huỳnh long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm tế rất thạnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền tôn trong các Đại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm tế.

    2.-Dòng Quy Ngưỡng

    Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy sơn đất Đàm châu. Ngài Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch.

    Ngài Quy Ngưỡng là một vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài , không ai có thể lường được . ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tôn. sự truyền đạo của Ngài củng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi đàothi Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽtướng người , tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo.

    3.-Dòng Tào Động:

    Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:

    Ngài Thanh Nguyên Thiền Sư

    Ngài Hy Thiên Thiền sư, tức Ngài Thạch Đầu Hòa Thượng

    Ngài Dược Sơn Thiền Sư

    Ngài Vân Nham Thiền Sư

    Ngài Lương Giới Thiền Sư ở núi Đông Sơn

    Ngài Bổn Tịch Thiền Sư ở núi Tào Sơn

    Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương Giới (Đông Sơn); Ngài lương giới cũng dùng pháp này để truyền cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).

    4.- Dòng Vân-Môn:

    Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:

    a).Ngài Thạch-Đầu Thiền sư

    b).Ngài Thiên-Hoàng.

    c).Ngài Long-Đàm.

    d).Ngài Đức-sơn.

    đ).Ngài Tuyết-phong.

    e).Ngài Vân-Uyển Thiền-sư ở đất Thiền-châu, Vân-môn.

    Cách truyền pháp của Ngài Vân-Uyển (Vân-môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ ‘’Dám’’. Nếu người cầu đạo ngần-ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ ‘’Di’’. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là ‘’ Nhứt tự quán ‘’ ( Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di ‘’.

    5.- Dòng Pháp-nhãn :

    Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:

    a). Ngài Tuyết-phong Thiền-sư.

    b). Ngài Huyền-sang Thiền-sư.

    c). Ngài Xa-hán Thiền-sư.

    d). Ngài Vân-ích Thiền-sư.

    Phương pháp khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân-ích Thiền-sư là đúng sáu tướng trong kinh Hoa-Nghiêm sau đây:

    - Tổng tướng: Tức là muốn nói đến chơn-như nhứt tâm.

    - Biệt tướng: Tức là các duyên sanh khởi từ chơn-như nhứt tâm.

    - Đồng tướng: Các pháp đều đồng như nhau.

    - Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng.

    - Thành tướng: Dựng lập ra cảnh-giới.

    - Hoại tướng: Vị trí không đồng tức là hoại tướng.

    THIỀN-TÔN Ở VIỆT NAM

    Như chúng ta đã biết, Phật Giáo Việt-Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tôn được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt-Nam Thiền tôn củng được xem như là một phái chính củ đạo Phật . đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có gì là khó hiểu.

    Phật giáo truyền vào Việt-Nam từ thế kỷ thứ II tây lịch, do các vị danh Tăng người Ấn Độ và Trung Hoa, như các Ngài Ma-Ha-Ha-KỳVực, Ngài Khương-Tăng-Hội(người Ấn Độ ), Ngài Mâu-Bác(người Trung Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị này thuộc tôn phái nào, và truyền vào Việt-Nam giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tôn. vì Thiền tôn ở Việt-Nam là do từ Trung Hoatruyền sang. Mà Thiền tôn ở Trung Hoathì phải đợi đếnđầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương-Võ-Đế (528), tổ Bồ-Đề -Đạt-Ma mới đưa vào. vậy thì nhất địnhlà Thiền tôn ở Việt-Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI Tây lịch. Sự phỏng đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt-Nam chứng minh. Vào năm 580 ( cuối thế kỷ thứ VI ), Ngài Tỳ-Nhiều-Đa-Lưu-Chi, làn đầu tiên truyền thiền tôn vào Việt-Nam , và là vị sơ tổ về Thiền tôn Việt-Nam . sau Ngài Tỳ-Nhiều-Lưu-chi củng có nhiều vị danh tăng khácđem truyền Thiền tôn vào Việt-Nam , và nhờ đó, Việt-Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tôn như ở Trung Hoa. Một diều đặc biệt, đáng hãnh diện cho Phật tử Việt-Nam là ngoài những phái Thiền tôn ở Trung Hoa truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tôn do một vị vua sáng lập, đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần Nhân Tôn.

    Dưới đây, chúng ta tuần tự nói về các môn phái Thiền tôn ấy:

    1.-Phái Tỳ-Nhiều-Đa-Lưu-Chi

    a )Vị Sơ tổ Thiền tôn ở Việt-Nam .

    Ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, người Ấn Độ là đệ tử Ngài Tăng-Xán (Tam tổ thiền tôn).

    Lầìn đầu tiên gặp tổ Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của tổ khác thường, Ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh lễ. Ngài đãnh lễ ba lần mà tổ vẫn ngồi lim dim đôi ắt chứ không nói gì hết (thiền cơ) .Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng thấy trong người đổi khác, nhu tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba lạy.Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một trong những đệ tử xúat sắc nhất của tổ tăng Xán.

    Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương nam để truyền đaọ, Ngài vâng lệnh sang Việt-Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, trụ trì tại chùa Pháp vân ở tỉnh Hà Đông.

    Khi sắp thị tịch, Ngài gọi đệ tử là Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng:

    " Tâm ấn của Phật , không có thể mập mờ được , Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không thiếu, không đến không đi không được , không mất, không phải đông nhất, cũng không phải sai biệt, không thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt không xa xách cũng không phải không xa xách. Chỉ vìđối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (Tâm ấn) mà thôi".

    Chư Phật trong ba đời do đó (tâm-ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ-sư cũng do đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các loại hữu tình vô tình cũng đều như thế cả.

    Khi đệ tam Tổ Tăng-xán ấn chứng ‘’tâm-ấn’’ cho ta, đã bảo rằng: ‘’Ông nên sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì’’.

    Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền-ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta.

    Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi !’’

    Dạy xong, Tổ Tỳ Ni-Đà-Lưu-Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Đệ-tử trà-tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp để thờ.

    Về sau, vua Lý-Thái-Tôn có bài kệ truy-tán Ngài như sau:

    Nguyên văn:

    Sáng tự lai Nam Quốc
    Văn quân cữu tập thiền
    Ưﮧ khai chi Phật tín
    Viễn hợp nhất tâm nguyên
    Hạo hạo Lăng-già nguyệt
    Phân phân Bát-nhã liên
    Hà thời hạnh tương kiến
    Tương dữ thoại trùng thuyền.
    Dịch nghĩa:

    Mở lối qua người Việt
    Nghe Ngài thông đạo thiền
    Nguồn tâm thông một mạch
    Cõi Phật rộng quanh miền
    Lăng-già ngời bóng nguyệt
    Bát-nhã nứt mùi sen
    Biết bao giờ được gặp
    Đàm-đạo lẽ thâm-huyền.
    b). Ngài Pháp-hiển Thiền-sư, vị Tổ thừ hai của Thiền-tôn Việt-Nam:

    Sau khi Tổ Tỳ Ni-Đà-Lưu-Chi tịch, Ngài Pháp-hiển là vị Tổ thứ hai của phái Thiền-tôn Tỳ Ni-Đà-Lưu-Chi. Ngài họ Đỗ, quê ở Quận Chu-diên (Sơn tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp-Vân, Tổ Tỳ Ni-Đà-Lưu-Chi thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và hỏi:

    - Chú họ gì?

    Ngài Pháp-hiển hỏi lại:

    -Hòa-thượng họ gì?

    Tổ lại hỏi:

    -Chú không có họ à?

    Ngài trã lời:

    -Sao lại không có ! Nhưng đố Hòa-thượng biết?

    Tổ quát lên:

    -Biết để làm gì?

    Ngài Pháp-Hiển chợt ngộ ý Tổ Tỳ Ni-Đà-Lưu-Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm đệ-tử và sau được truyền tâm-ấn.

    Được ít lâu, sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ-sơn tu thiền-định, những loại cầm thú thường quấn quýt chung-quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ. Đệ-tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền-tôn ở trong thời kỳ này có thể nói là thạnh nhất. Đó cũng nhờ công đức hoằng-hóa của Ngài Tỳ Ni-Đà-Lưu-Chi và Ngài Pháp-hiển. Về sau trong pháp nẫycung có nhiều vị thiền-sư xuất-sắc như Ngài Pháp-thuận, Vạn-hạnh .v.v...

    2.- Phái Vô-Ngôn-Thông

    a). Vị Sư-tổ của Pháp Thiền-tôn thứ hai ở Việt-Nam:

    Ngài họ Tịnh, quê ở Quảng-châu, xuất gia ở chùa Song-Lâm (Triết-giang bây giờ). Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử của Bách Trượng thiền sư (đệ tử của Mã Tổ).

    Khi Ngài mới đến yết kiến Bách Trượng Thiền sư gặp lúc thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị tăng hỏi Bách Trượng thiền sư rằng:

    Thế nào là pháp môn đốn ngộ của phái Đại-thừa?

    Bách Trượng thiền sư dạy rằng:

    -Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nêu tâm địa được thông thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng).

    Nghe được câu ấy, tự nhiên Ngài Vô Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt-Nam tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng(Bắc Ninh), Ngài ngồi vây mặt vào vách trọn nhày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành thiền sư, biết Ngài là bậc cao tăng trong Phật Thiền tôn, nên tôn thờ Ngài làm Thầy.

    Trước khi tịchn gọi Cảm Thành thiền sư mà bảo:

    -Ngày xưa tổ sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng:

    Nhất thế chư pháp, giai tùng tâm sanh

    Tâm vô sở sanh, pháp vô sở trú

    Nhược đạt tâm địa, sở trú vô ngại

    Phi ngộ thượng căn, thận vật kinh hứa.

    Nghĩa là: Hết thải các pháp, đều tự tâm sanh;tâm nếu không sanh, pháp không chổ trú. Nếu hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không trở ngại, cái tâm pháp ấy nếu không gặp được bậc tâm căn, chớ nên truyền bậy.’’

    ‘’Đó là lời dặn của người xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy’’.

    Nói xong Ngài chắp tay mà tịch.

    b) Vị Nhị tổ của phái Vô Ngôn Thông:

    cảm Thành thiền sư: Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh).

    Khi Ngài Vô Ngôn Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối đạo, nên ở lại. Và Ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở Ngài Vô Ngôn Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm tối hầu hạ không hề trễ nải. Hai thầy trò rất mến nhau, do đoa Ngài Vô Ngôn Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Ngài Cảm Thành thật xứng đáng là người nối chí của Ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài :

    -Thế nào là Phật?

    Ngài trả lời:

    -Chổ nào cũng là Phật cả.

    Vị đệ tử lại hỏi:

    -Thế nào là tâm của Phật?

    Ngài trả lời:

    -Không hề che đậy chổ nào.

    Đây cũng là một câu chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa vô cùng.

    Ngài Cảm Thành không bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư.



    c) Vị tam tổ của phái Vô Ngôn Thông:

    Ngài Thiện Hội thiền sư: Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành thiền sư, hầu thầy đã hơn 10 năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy:

    Trong kinh Phật có dạy: ‘’ Đức Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà nay thầy cứ dạy rằng ‘’ tâm tức là Phật, Phật tức là tâm’’ là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu xin thầy dạy rỏ cho.

    Cảm Thành thiền sư nói:

    -Ngươi nói trong kinh Phật nói thế là ai nói đó?

    -Vậy lời ấy không phải là Phật thuyết sao?

    -Lời ấy phải đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: ‘’ Ta trú ở thế gian để dạy chúng sanh 49 năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ !’’ Vì theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, củng lại là ma vậy.

    -Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không phải là Phật?

    -Ngày xua có người hỏi mã tổ rằng: ‘’ Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật?’’ Mã Tổ trả lời: ‘’ Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào ấy cho ta xem !’’. người ấy không chỉ được . Mã Tổ lại tiếp: ‘’ Đạt được thì khắp mọi nơi chổ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì cứ sai lầm đi mãi mãi’’. Thế là chỉ một lời nói nó che đi, mà thành ra sai lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa?

    Ngài Thiện Hội trả lời:

    -Nếu như vậy đệ tử hiểu rồi.

    -Người hiểu thế nào?

    -Đệ tử hiểu rằng khắp hết mọi nơi, chổ nào củng là tâm Phật cả.

    Nói xong Thiện Hội thiền sư súp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói:

    -Thế là người hiểu tới nơi rồi đó.

    Do sự lãnh hội mau chóng đó ma Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là ‘’khéo hiểu’’.

    Trên đây là một vài câu chuyện đến đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái Thiền tôn.

    Sứ truyền pháp từ thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Đến đời cư sỉ Ứng Thuận(1221) là cuối cùng.

    3.- Phái Thảo Đường

    Năm kỷ dậu (1069) vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho các quan trong triều đình để làm quân hầu.trong số quan triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản ‘’Ngữ lục’’của mình bị một tù binh sữa chưa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị thiền sư người Trung Hoa, theo tầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy là Ngài Thảo Đường, đệ tử của Ngài Tuyết Đậu Minh Giác ở Trung Hoa.

    Khi biết tung tích của Thảo Đường thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Đường lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Đệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo Đường lập ra một phái Thiền Tôn thứ ba ở Việt-Nam . Phái Thảo Đường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thầy được mười chín vị.

    4.- Phái Trúc Lâm

    Đệ nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tôn (1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giử vững nền độc lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là ‘’Hương Vân Đại Đầu Đà ‘’ lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách ất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi.

    Trong các phái Thiền tôn ở Việt-Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như Ngài Pháp Loa tôn sư, Ngài Huyền Quang tôn sư ...

    5.- Phái Lâm Tế

    Phái Lâm Tế do Ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Định) lập chùa Thập Tháp Di Đà, Mở trường dạy học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Đồng.

    Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tôn ( Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Đông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúc Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung.

    Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền bài kệ sau đây:

    Tịch tịch, kính vô ảnh
    Minh minh, châu bát dụng
    Dường đường,vật phi vật
    Liểu liểu, không vật không
    Đại ý: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý ‘’chân không diệu hữu’’.

    Xét trong’’ Lịch truyền tổ đồ ‘’ thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là sơ tổ.

    6.- Phái Liễu Quán

    Phái Liểu-quán xuất phát từ Liểu-Quán-Hòa-Thượng. Ngài Liểu-quán quê ở Phú-yên (Song-cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sang-Di với Ngài Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm 1702, Ngài đến Long-Sơn cầu học pháp tham-thiền với Ngài Tử-Dung Hòa-Thượng (Tổ khai sơn chùa Từ Đàm Huế, người Trung Hoa).

    Tổ Tử-Dung dạy Ngài tham-cứu câu: ‘’Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ ‘’, (muôn pháp về một, một pháp về đâu?) . Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền-Đăng-Lục, thấy có câu: ‘’ Chỉ vật truyền tâm, nhơn bất hội xứ ’’. Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: ‘’ nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây ’’.

    Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy rằng: ‘’ các người khóc làm gì? các Đức-Phật ra đời còn nhập niết-bàn. Ta nay đi đến rỏ ràng, về có chổ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm ‘’.

    Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây :

    Nguyên văn:

    Thất thập dư niên thế-giới trung
    Không không, sắc sắc diệu dung thông
    Kim triêu nguyệt mãn, hoàn gia lý
    Hà tất bôn ba vấn tổ tông.
    Dịch nghĩa:

    Ngoài bảy mươi năm trong thế-giới
    Không không, sắc sắc thảy dung thông
    Ngày nay nguyện mãn về nơi củ
    Hà phải ân cần hỏi tổ tông.
    Viết xong, Ngài bảo môn đồ:

    Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô-thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta.

    Ngài tịch vào ngày 22 tháng 11 năm Nhâm-Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ.

    Đến đây chúng ta cũng nên nhận định cho rỏ ràng điễm này: Như tôi nói ở đoạn trước, Thiên-Tôn do người Việt sáng lập chỉ có một Phái duy nhất do vua Trần-Nhân-Tôn làm Sơ-tổ là phái Trúc-Lâm Yên-Tử. Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là phái Liểu-quán, do Ngài Liểu-quán một danh tăng Việt-Nam chủ xướng, như vậy có mâu thuẩn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so với các phái Thiền-Tôn khác ở Việt-Nam, thì phái Liểu-quán chỉ một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh miền Trung-Việt.

    Vả lại, Ngài Liểu-quán cũng là đệ-tử của Ngài Tử-Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm-Tế. Do đó, pháp Liểu-quán, nếu chúng ta đi tìmm nguồn góc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của phái Lâm-tế mà thôi.



    CÁC KINH SÁCH NÓI VÊ THIỀN

    Khi kinh sách nói về Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, đễ quý độc-giả khỏi bỡ-ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số sách thiết yếu sau đây:1.-Kinh Lăng-già
    2.-Kinh Lăng-Nghiêm
    3.-Kinh Viên-Giác
    4.-Kinh Pháp-Bảo-Đàn
    5.-Đại-thừa Chỉ-quán
    6.-Tiểu Chỉ-quán
    8.-Đồng môm Chỉ-quán
    9.-Kinh Kim-cang
    10.-Truyền-đăng-lục
    11.-Thuyền-gia ngữ-lục
    12.-Tọa-thiền chỉ nam
    13.-Tông-cảnh-lục (của Ngài Tống Diên Thọ Thiền-sư)
    14.-Luận Đại-thừa khởi tín (của Bồ Tát Mã-Minh)
    15.-Vô-môn-quán (của Tổng Tôn-Thiện Thiền-sư)
    16.-Bích-Nha-Lục (của Phật quả Viên-ngộ)
    17.-Thung-dung-lục (của Vạn tùng Lão-nhơn)
    18.-Thiền-lâm Vĩnh-gia tập (của Huyền-giác)
    19.-Thiền-tôn chỉ nam (của vua Trần-Thái-Tôn) .v.v...


    C.- TỔNG KẾT CÁC LOẠI THIỀN-ĐỊNH

    Thiền-Định có nhiều loại, nhưng tóm lại áo thể chia làm hai loại lớn: Chánh-định và tà-định, hay Phàm-phu thiền và Thánh-nhơn thiền và Phật Giáo thiền.

    THIỀN ĐỊNH CỦA NGOẠI ĐẠO

    Những người theo lối thiền-định này do tâm niệm không chơn-chánh (phiền-nảo, tham, sân, si v.v....) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô-minh phiền-não, cầu được minh-tâm kiến-tánh, hay giác-ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần-thông biến-hóa để đi dạo chơi ở các thé-giới khác, cầu thành tiên để lạc-thú tiêu-dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu cho được phép lạ dể trị bệnh, để thien hạ sùng-bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v..

    Hảy lắng nghe lời Tổ Tôn-Mật dạy: ‘’ Người tà kiến chấp trước sai lầm , ư acõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là ngoại đạo thiền ‘’.

    THIỀN ĐỊNH CỦA PHÀM PHU

    Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục làm ô-trược mà cấu sinhvề cõi sắc và Vô-sắcđể hưởng thú vui thanh thoát.

    Hãy lắng nghe Tổ Tôn-Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này: ‘’ Người chán tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm-phu thiền.‘’

    THIỀN ĐỊNH CỦA PHẬT GIÁO

    Thiền-định của Phật Giáo có hai loại: Tiểu-thừa thiền và Đại-thừa thiền.

    -Tiểu-thừa thiền: là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu-thừa. Người tu phép Thiền-định này chỉ có công-dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền-não cũa pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn-ngộ nagy được.

    Hơn nữa, người tu Tiểu-thừa thiền, tuy đã phá ngã-chấp, nhưng còn bị pháp-chấp. Họ không ngộ được rằng: những phương-pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô-minh phiền não, tiến lên chổ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có nên tu, thật chứng.

    - Đại-thừa thiền: Đây là phương-pháp tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tánh mau lẹ, vượt bưc. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài Huệ-Năng, chỉ nghe câu ‘’ Ưng vô sở trụ, nhi sanh ký tâm ‘’, hay Ngài Ca-Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ

    Sở dĩ các vị này mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát-chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông.

    Hãy nghe Tổ Tôn-Mật nói về các vị này: ‘’ Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Đại-thừa thiền. Người đốn-ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền-não, đầy đủ trí-huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tân này mà tu thiền là Tối-thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn-như tam-muội ‘’.

    Vè phương-pháp tu chứng và truyền thọ của Đại-thừa thiền có ba cách:

    - Cách thứ nhất: Đây là các loại tam-muội má hành-giả căn cứ theo các kinh sách Đại-thừa tu luyện, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm-Phật tam-muội, Gíac-ý tam-muội, Thủ-tăng-liêm tam-muội v.v....

    - Cách thứ hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi lối thiền này là: ‘’ Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền ‘’ (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền-giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham-cứu này, Thiền-giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm.

    - Cách thứ ba: Với cách này,chúng ta khó có thể say nghĩ luận bàn gì được. Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi.

    Như dòng Lâm-Tê, khi có người đến cầu đạo, Thiền-sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét.

    Như dòng Quy-ngưỡng, các vị Tổ-sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ-tử .

    Như dòng Vân-môn, có vị Tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạotỏ ngộ.

    Như có Ngài chỉ đãi nước trà (Ngài Triệu-châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu đạo được tỏ ngộ.

    Có Ngài lại ngắm bóng mình cưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo (hổ khê tam chiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho để tan mà liền tỏ ngộ.

    Thật là thiền-cơ nhiệm-mầu, người ngoài không thê rsay nghĩ, bàn luận được.

    Muốn cho người cầu đạo được kết-quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba diều kiện sau đây:

    -Biết văn-cơ người cầu đạo.

    -Biết thời-tiết đúng lúc truyền đạo.

    -Biết phương-pháp nào thích hợp, trong ba phương-pháp nói trên, nếu truyền bá không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết-quả.

    Trước khi dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây ma fchác quý độc-giả cũng đồng ý là: Nước ta ngay fxưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền-tôn, và Thiền-tôn là môn phái rất thịnh hành trong nước. Thế mà ngày nay, vi fbao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền-tôn không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách sung-mậu như xưa nữa.

    Vậy chúng tôi hy-vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao-thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ gia tâm tu học của các Phật-tử Việt-Nam, Thiền-tôn sẽ lấy lại sắc thái sung-mậu ở Việt-Nam như các thời Lý, Trần.

  5. #5

    Mặc định

    4. DUY-THỨC TÔN hay là PHÁP-TƯỚNG TÔN


    --------------------------------------------------------------------------------

    I.- DUYÊN KHỞI LẬP-TÔN

    Tất cả chúng sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo bánh xe sanh tử luân-hồi.

    Nếu con người hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ-trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp-chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân hồi.

    Để phá trừ hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Đức-Phật có rất nhiều phương-pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.

    II.- ĐỊNH NGHĨA

    Tôn này thuộc về Đại-thừa, phân-tách vũ-trụ, vạn hữu đều do thức biến hiện.

    Duy-thức tôn, hay Pháp-tướng tôn, như danh từ đã chỉ-định, không nói về tâm tánh chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức, tức cũng là tướng của pháp. Biết rằng từ chơn vọng hòa hiệp biến thành hình tướng thức A-Lại-Da, rồi tư thức A-Lại-Da sanh ra các tướng tâm-pháp .v.v...tôn này quán-sát hành tướng của các pháp ấy, nên gọi là ‘’ Pháp-tướng tôn ‘’ .

    Đứng về phương diện nguyên-nhân mà nghiên-cứu, tôn này chủ-trương rằng vũ-trụ vạn-hữu, hay là tát cả các pháp đều do duy-thức biến-hiện, ngoài thức không còn một yếu tố nào khác nữa nên gọi là ‘’ Duy thức tôn ‘’ .

    Vậy ‘’ Pháp-tướng tôn ‘’ hay ‘’ Duy thức tôn ‘’ cũng đều để gọi pháp-môn mà tôn-chỉ chỉ la fnghiên cứu, quan-sát hành-tướng và nguyên nhân sanh-khởi của vạn pháp. Nguyên nhân sanh-khởi ấy là ‘’ Thức ‘’.

    III.- CĂN CỨ CÁC KINH SÁCH SAU ĐÂY, LẬP RA DUY-THỨC TÔN

    Như tất cả các tôn phái khác, Duy-thức tôn cũng căn-cứ vào căn luận của Phật mà được thành lập ra. Đó là 6 bộ kinh và 11 bộ luận sau đây:

    Sáu bộ kinh là:

    1.- Kinh Giãi-thâm-mật
    2.- Kinh Hoa-nghiêm
    3.- Kinh Như-lai xuất hiện công-đức trang-nghiêm
    4.- Kinh A-tỳ-đạt-ma
    5.- Kinh Lăng-nghiêm
    6.- Kinh Hậu-nghiêm (hay Mật-nghiêm).
    Mười một bộ luận là:

    1.-Luận Du-già Sư-địa
    2.- Luận Hiển-dương Thánh-giáo
    3.- Luận Đại-thừa Trang-nghiêm
    4.- Luận Nhiếp Đại-thừa
    6.- Luận Thập-địa-kinh
    7.- Luận Phân-biệt Du-già
    8.- Luận Quán Sở-duyên-duyên
    9.- Luận Duy-thức Nhị-thập-tụng
    10.- Luận Biện-trung-biên
    11.- Luận Tạp-luận
    Vị sáng lập ra Duy-thức chính là Bồ Tát Di-lặc. Đức-Di-Lặc sau khi tu chứng được Duy-thức, đã ýwng theo lời thỉnh-cầu của Ngài Vô-trước, nói Luận Du-già Sư-địa.

    Hai vị có công lớn trong việc phát-triển tôn này ở Ấn Độ là hai anh em nhà Vô-trước và Ngài Thế-thân. Ngài Vô-trước dựa theo bộ ‘’ Du-già Sư-địa ‘’ làm ra bộ luận ‘’Hiển-dương Thánh-giáo ‘’, và ‘’ Nhiếp Đại-thừa ‘’. Ngài Thế-thân lại có công đức lớn lao hơn nữa, tomtăts lại nghĩa lý Duy-thức, lảma bộ luận ‘’ Duy-thức tam thập tụng ‘’. Về sau, có mười vị Đại Luận-sư, sớ giải bộ Duy-thức tam-thập tụng, làm thành mười bộ luận chính về Duy-thức .

    Đến đời Đường, Ngài Huyền-trang từ Trung Hoa sang Ấn Độ thỉnh kinh và tham-cứu về Phật Giáo. Môn học sở trường của Ngài là Duy-thức. Sau khi trở về Trung Hoa, Ngài lượm-lặt tinh-hoa của 10 bộ đailuận nói trên, dịch thành Hán-văn, dưới nhan đề là: ‘’ Thành Duy-thức Luận ‘’, gồm cả thảy 10 quyển. Ngài Khuy-cơ là đệ-tử lớn của Ngài Huyền-trang sớ-giải thêm rỏ nghĩa-lý bộ ‘’ Thành Duy-thức Luận ‘’ làm ra thành 60 quyển, dưới nhan đề là ‘’ Thành Duy-thức thuật-ký ‘’.

    Tóm lại, ở Ấn Độ, vị có công lớn nhất trong sự phát huy Duy-thức tôn là Ngài Thế-thân. Còn ở Trung Hoa, vị có công lớn nhất trong việc truyền bá Duy-thức tôn là Ngài Huyền-trang.

    Về phương diện sách vở dạy về Duy-thức, từ xưa đến nay được các học giả xem là chánh-tôn Duy-thức, thì có ba bộ sau đây:

    1.- Đại-thừa Bá pháp minh môn luận (tatc giả là Ngài Thế-thân). Nội dung bộ luận này giải-thích các danh từ chuyên-môn của Duy-thức, nói rỏ 100 pháp và hai món vô-ngã. Người học Duy-thức nếu không học bộ luận này trước, thì không dễ gì hiếu được Duy-thức (bộ luận này đã được dịch ra tiếng Việt và chúng tôi lấy nhan đề là: Duy-thức nhập môn).

    2.- Duy-thức tam thập tụng (cũng do Ngài Thế-Thân tạo ra). Trong bộ luận này Ngài Thế-Thân dùng 30 bài tụng để giải thích về nghĩa lý chánh của Duy-thức, luận này chia làm bốn phần:

    a). Phần thứ nhất nói về ba chức năng-biến:

    -Thức năng-biến thứ nhất là thức A-lai-da (thức tứ tám).
    -Thức năng-biến thứ hai là thức Mạt-na (thức thứ bảy).
    -Thức năng-biến thứ ba là sáu thức năng trước.
    b). Phần thứ hai nói về các tâm-sở:

    -Biến-hành (5 món)
    -Biệt-cảnh (5 món)
    -Thiện (11 món)
    -Căn-bổn phiền-não (6 món)
    -Tùy phiền-não (20 món)
    -Bất-định (4 món).
    c). Phần thứ ba giải-đáp các nghi vấn:

    -Làm sao biết được phận-vi sanh-khởi của các thức?
    -Nếu không có ngoại cảnh, thì sao có sanh tử và các sự phân biệt?
    -Nếu không có ngoại cảnh, thì sao có chúng hữu-tình sanh-tử?
    -Nếu chỉ thức, tạo sao Phật lại nói có ba tánh?
    -Nếu có ba tánh, tại sao Phật nói ba món vô-tánh?
    d).Phần thứ tư nói về đệ tu Duy-thức:

    Từ khi phát tâm tu Duy-thức cho đến khi chứng được Duy-thức tánh thành Phật, hành-giả phải trải qua năm địa vị, thứ lớp như sau đây:

    -Vị Tư-lương (như lương thực cửa người đi đường).
    -Vị gia hạnh (gia công tấn hàng).
    -Vị thông-đạt (thấu suốt đường lối).
    -Vị tu-tập (tu-hành tập-luyện).
    -Vị cứu cánh (đến cùng tột địa vị tu chứng).
    3.- Bát-thức qui-cũ tụng (tác giả là Ngài Huyền-trang). Nội dung của quyển này, Ngài Huyền-trang dùng 12 bài tụng để toát yếu lại nghĩa-lý Duy-thức, gồm có bốn phần:

    a). Phần thứ nhất nói về năm thức đầu
    b). Phần thứ hai nói về thức thứ sáu .
    c). Phần thứ ba nói về thức thứ bảy
    d). Phần thứ tư nói về thức thứ tám.
    Mỗi một phần có ba bài tụng, hai bài tụng đầu nói hành-tướng các thức, khi hành-giả còn ở địa vị phàm-phu; bài tụng thứ ba nói hành-tướng các thức, khi lên quả-vị Thánh.

    Tóm lại, ba bộ luận trên này, người muốn học Duy-thức, khôngthể bỏ qua được.

    IV.- CHỦ-TRƯƠNG CỦA DUY-THỨC TÔN

    Chủ-trương của Duy-thức tôn là phá trừ vọng chấp ngã, pháp (biến kế sở chấp), bằng cách chỉ cho chúng sanh thấy tất cả các pháp đều nương nơi thức hiện ra (y-tha khởi), và mục dích cuối cùng lá đưa chúng sanh trở về với tánh chân thật (viên-thành thật). Thế-giới hiện-tượng này này, vì mê-mờ, chúng ta tưởng là chắc thật, nhưng hteo chủ trương của Duy-thức học, thì vũ-trụ vạn-hữu đều là Duy-thức biến-hiện. Cũng như sơn hà, đại địa trong cảnh chiêm bao, không có cảnh vật ấy.

    Vậy, nếu chỉ cho chúng sanh thấy được một cách rỏ ràng, vũ-trụ vạn-hữu do thức biến-hiện ra như thế nào, thì chắc chắn chúng sanh sẽ không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa. Cũng như khi biết cảnh vật trong chiêm bao là do tâm chiêm-báoanh ra thì không còn mê muội nơi cảnh chiêm-bao nữa. Mà không còn chiêm-bao tức đã thức-tỉnh. Cũng thế, khi không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa, tất sẽ thấy được cảnh chân-thật của vũ-trụ vạn-hữu, (tánh viên thành-thật) . đó là chủ trương của Duy-thức tôn.

    Nói một cách vắn tắt, chủ trương của Duy-thức tôn là quy vũ-trụ vạn-hữu trở về Duy-thức tướng, rồi từ Duy-thức tướng trở về Duy-thức tánh (tâm chơn-như hay tánh viên-giác).

    V.- THÀNH-PHẦN CỦA HIỆN-TƯỢNG GIỚI

    (vũ-trụ vạn-hữu gồm cả tâm và pháp ).

    PHÂN LOẠI THEO DUY-THỨC TÔN

    Hiện tượng giới, tức là vạn sự vạn vật trong vũ-trụ (gồm cả tâm lẫn vật), tuy nhiên không thể kể xiết được, nhưng dưới nhãn-quan của nhà Duy-thức học, có thể phân ra thành năm loại; năm loại này lại chia thành 100 thành phần hay 100 pháp.

    Năm loại lớn ấy là:

    1.- Tâm-vương tức là ‘’ tướng ‘’ của thức, thuộc về tâm-giới.

    2.- Tâm-sở tức là ‘’ dụng ‘’ của thức, cũng thuộc về tâm-giới.

    3,- Sắc-pháp tức là ‘’ảnh-tượng‘’ của thức, thuộc về sắc-giới.

    4.- Bất-tương-ứng-hành tức là ‘’phận-vị sai khác’’ của thức, không phải thuộc hẳn về tâm mà cũng không thuộc về sắc-giới, nhưng gồm cả hai phần mà thành.

    5.-Vô-vi tức là ‘’tánh’’ của thức, cũng gọi là ‘’chơn như ’’

    Bốn loại trên: tâm-vương, tâm-sở, sắc-pháp, bất tương ưng hành đều thuộc về " hữu vi",tức là " tướng ,có sanh diệt.

    Loại thứ năm, là pháp "vô vi", không sanh diệt, không tạo tác, tức là " tánh " của các pháp, hay chơn như.

    Năm loaại lắn trên đây, môĩ loại lại chia làm nhiều thành phần, có những tác dụng hành tướng riêng biệt, mà chúng ta cần nghiên cứu kỷ sau đây:

    1.-Tâm vương

    Tâm vương gồm có tấm món, mỗi món có những đặc tánh, khả năng và nhiệm vụ riêng biệt, như mỗi ông vua làm chủ mỗi nước, nên gọ là tâm vương. Tám phần của tâm vương là:

    a) Nhãn thức
    b) Nhĩ thức
    c) Tỹ thức
    d) Nhận thức
    đ)Thân thức
    e)Ý thức
    h)A-lại da thức

    Chúng ta có năm giác quan, mỗi giác quan có một sỡ năng, một cái biết riêng: khi ta nhìn một cái hoa, biết cái hoa ấy màu vàng hay đỏ v.v...cái biết ấy thuộc về con mắt, nên gọi là nhãn thức. Khi chúng ta nhge đàn, biết tiếng đàn ấy cao hay thấp, to hay nhỏv.v...cái biết ấy thuộc về tai, nên gọ là nhĩ thức. Khi ta ngữi một mùi gì, biết được mùi ấy thơm hay hôi, cái biết ấy thuộc về mũi, nên gội là tỷ thức. Khi chúng ta nếm một món ăn gì, biết được món ăn ấy mặn hạylat, chua hay ngọt, cái biết ấy thuộc về lưỡi, nên gọi là thiệt thức. Khi chúng ta đụng vào một vật gì, biết vật ấy cứng hay mềm, nóng hay lạnh, cái biết ấy thuộc về thân thể, nên gọi là thân thức.

    Năm cái biết trên này: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiềtva Thân thức, thuộc về năm giac quan bên ngoài nên chúng ta dễ nhận.

    Ba cái biết sau này: Ythưsc, Mạt-na- thức, A-lại-được-thức, thuộc về nội tâm, và theo thứ lớp, ẩn sâu vào trong, tế nhị hơn, nên khó nhận khó biết. Tuy thế, đối với nhà duy thức học, người ta cũng có thể nhận biết được rành rẽ hành tướng

    phân biệt được phạm vi hoạt động, sở trường , sở đoản và công năng của mỗi thứ.

    Trước tiên, chúng ta nói đến thức thứ sáu hay"Ý thức".

    Yhức có hai phạm vi hoạt động:

    -Khi nào ý thức hiẹp với năm thức trước, tiếp xúc với cảnh, thì gọi là " Ngủ của ý thức", hây là " Minh liẽu ý thức". Trong lúc mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v...mà không có ý thức phụ vào (để ý) thì mặc duù mắt vẫn thấy, tai vãn nghe, nhưng thấy nghe không được rõ ràng. Sách nho chép:"Tâm bất tại diên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn" ( nếu không chú ý, thì dù xem cũng chẵng thấy, lắng cũng chẵng nghe). Trái lại, khi có ý thức phụ vào, thấy nghe v.v...đều minh bạch.

    -Khi nào ý thức làm việc một mình, không cùng hợp tác với năm thức trước, thì gọi là "Đơn độc ý thứ" hay "Độc đầu ý thức".như trong lúc năm thức trước không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị và xúc, mà trong tâm trí vẫn lưu lại bóng dáng(pháp trần) của năm trần. Khi chúng ta nhớ tưởng lại, thì cảnh ngủ trần in như hiện rõ ràng ở trước, đó là công dụng của " Độc đầu ý thức". Thức thứ sáu này, khi tính tóan, suy nghĩ việc gì, thiện hay ác, hay hay dở, cũng đều lanh lợi đảm đang hơn các thức khác, nên trong duy thức nói:" Công vi thủ, tội vi khôi"( Có cngthì nó đứng đầu, mà có tội nó cũng đứng đầu).

    Thức thứ sáu, tuy sở trường là khôn ngoan lanh lợi, nhưng lại có sở đỏan là bất thường, không phải lúc nào cũng hiện diện, mà lại có khi gián đoạn, ẩn phục, như trong lúc bị hụp thuốc mê, chết giả, ngủ say, hay nhập vô tưởng định v.v...Qua những giai đọan ấy, ý thức lại hiện trở lại.

    Vậ빠trong lúc ý thức không hiện, nó núp ở đâu?

    Theo duy thức,khi đó, thức thứ sáu trở về gốc của nó là ý căn, tức là thức thứ bảy hay thức Mạt-na. Theo tâm lý họcthì cũng có thể gọi là tiềm thức.

    Thức thứ bảy này có hai công năng:

    -Chấp ngã;

    -Làm căn bản choÝ thức thứ sáu.

    Nnó có công là đem các pháp hiện hành bên ngoài ‘’truyền’’ vào tạng thức và đem các pháp chủng tử bên trong ‘’tống’’ ra ngoài nên nó có tên là ‘’truyền tống thức’’. Sự cháp ngã của tức này và của thức thứ Sáu, có thô và tế khác nhau. Khi nào để ý bảo thủ bản ngã, như khi ra trận bắn nhau với địch quân, khi đánh lộn, hay tìm một kế gì để sanh nhai, thì sự chấp ngã ấy thuộc về thức thứ Sáu. Thực ra không có lúc nào chúng ta không chấp ngã, sự chấp ngã vẫn thường trực trong chúng ta . nhưng nó âm thầm, sâu kín, tiềm trực, nên chúng ta không nhận thấy được. Đến lúc bất ngơ, đột nhiên xãy ra một sự việc gì đó có nguy hại đến tánh mạng ta, như bất thần có người rình rập, hay đi ra đường bị nhành cây gãy sắp rơi xuống đầu...trong những lúc ấy, tuy thức thứ Sáu không kịp để ý can thiệp, đối phó mà ta vẫn tự tránh né, bảo thủ cái ngã. Đó là ự chấp ngx của thức tứ bảy.

    Ngoài bảy thức nói trên, còn có một thức thứ tám tế nhị, sâu kín mênh mông hơn nữa, đó là thức A lại da, Tàu dịch là tàng thức, nghĩa là thức ‘’Tích chứa’’.

    Từ nhỏ đến lớn chúng ta đọc rất nhiều sách, tếp xúc với nhiều sự vật, rồi thời gian cứ tuần tự trôi qua, chúng ta tưởng đã quên mất rồi. Thế mà không ! Mỗi khi ngĩ dến thì danh từ, hình ảnh của những vật xưa củ hiện ra rỏ ràng như một cuốn phim quay lại ở trước mắt. Những danh từ hình ảnh ấy, vì sao mấy chục năm qua mà vẫn còn lại? Tất nhiên phải có một cái kho vô tận chứa lại, nên mới không mất vậy ! Kho vô tận này trong duy thức tôn gọi là tàng thức (thức chứa).

    Để cho dễ nhớ hành tướng và công năng của tám thức nói trên, cổ nhân có làm bài kệ rằng:

    Nguyên văn:

    Bát cá đệ huynh, nhứt cá si
    Độc hữu nhứt cá, tối linh tinh
    Ngủ cá môn tiền tô ꭦ#227;i mại
    Nhất cá gia trung tác chủ y.
    Dịch nghĩa:

    Anh em tám chú một người si (thức thứ bảy)
    Một mình ý thức rất tinh ranh (thức thứ sáu)
    Năm chàng ngoài cửa lo buôn bán (năm thức trước)
    Làm chủ trong nhà, thức lại da (thức thứ tám).

    2.- Tâm sở

    Tâm sở là tánh sở hữu, phụ thuộc của Tâm vương, cũng như ông quan trong triều, phụ thuộc dưới quyền sai sử của ông vua, hay những nhân viên phụ thuộc dưới quyền sử dụng của vị Bộ trưởng. Tâm sở có tất cả 51 pháp, chia làm sáu loẵi như sau:

    1.- Biến hành Tâm sở: Biến là phổ biến, hành là lưu hành; Biến hành Tâm sở nghĩa là những tâm sở có công năng phổ cập lưu chuyển khắp cả tám thức (tâm vương), với thức nào nó củng tương ưng được cả. Biến hành Tâm sở gồm có 5 pháp là: Xúc, Tác ý, Thọ,Tưởng và Tư.

    2.-Biệt cảnh Tâm sở: Biệy là riêng biệt, Biệt cảnh Tâm sở là những tâm sở riêng mỗi cảnh khác nhau, như dục Tâm sở duyên riêng với cảnh mà mình ưa muốn; Huệ tâm sở riêng với cánh mà mình quan sát...chứ không phải như Biến hành tâm sở. Biệt cảnh Tâm sở gồm có 5 pháp là : Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ.

    3.- Thiện Tâm sở: Thiện Tâm sở là tâm sở lành và có công năng phát sanh những điều lành mà thôi. Thiện tâm sở gồm có 11 pháp là: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sanh, Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xã và Bất hại.

    4.-căn-bản phiền-não tâm sở: những tâm-sở này gây phiền não, rối loạn cho chúng sanh. Đây là những phiền-não làm cội góc cho các phiền-não phát sinh, nên gọi là căn bản phiền-não. Căn bản phiền-não bao gồm có sáu pháp là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Akiến.

    5.- Tùy phiền-não tâm-sở: Những tâm-sở này nương tựa, phát sanh từ các phiền-não căn bản tâm sở nói trên, nên gọi là tùy phiền-não. Những tâm sở căn bản phiền-não trên là góc mà những tâm sở phiền-não này là ngọn. Tùy phiền-não tâm sở gồm có 50 pháp là: Phẫn, Hậu, Phú, Não, Tật, Xan, Cuốn, Siển, Hại, Kiêu, Vô-tàm, Vô-quí, Trạo-cử, Hồn-trầm, Bất-tín, Giải-đãi, Phóng-dật, Thất-niệm, Tán-loại, Bất-chánh-triều.

    6.- Bất định tâm sở: Bất-định nghĩa là không nhất định; bất định tâm sở là những tâm sở không nhất định thiện hay ác; không đứng hẳn về một phía thiện hay ác; như các pháp nói trên. Bất định tâm sởn gồm có bốn pháp là: Hối, Miên,Trầm, Tư.

    3.-Sắc pháp

    Sắc-pháp tức là những pháp có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại. Sắc-pháp là sự phối hợp của năm căn và sáu trần, cộng tất cả là 11 pháp:

    Năm căn là: Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân.

    Sáu trần là: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp trần.

    4.- Bất tương-ưng hành pháp

    Các pháp này không thuộc về sắc mà cũng không thuộc về tâm; nhưng chúng nó không thể rời sắc và tâm mà có được. Thí dụ như ‘’đắc’’ (được) là một ‘’bất tương-ưng pháp’’. ‘’được’’ không thể là sắc mà cũng không thể nào là tâm. Nhưng khi nói ‘’được’’, tức là hàm cái nghĩa ‘’được’’ một cái gì, nhưng ‘’được’’ một đồng bạc chẳng hạn, va fphải có một yếu tố thứ hai là ‘’ai’’ được. Đồng bạc thuộc về sắc, ‘’ai’’ thuộc về tâm. Còn ‘’được’’ không phải lá sắc và tâm mới có. Đó là một thí-dụ để chúng ta suy-gẫm về những pháp Bất-tương-ưng khác, như mạn-căn, sanh, trụ, dị, diệt, phương, thế tốc .v.v.. gồm tất cả là 14 pháp.

    5.- Vô-vi pháp

    Như đọan trên đã có nói, pháp vi-vô là pháp không sanh, không diệt, không tạo-tác, không thay đổi, xa lìa tướng hư vọng., tức là thể-tánh của các pháp. Các pháp vô-vi, đối với phàm-phu thì khó có thể nói-năng, nghĩ bàn, so sánh được. Tuy thế, để có một ý-niệm về thể-tánh chơn-như, nhà chủ trương Duy-thức dựa vào sắc tướng, danh tự để hình dung các pháp vô-vi. Do đó, mà đặt sáu pháp vô-vi sau đây:

    a). Hư không vô-vi: Muốn nói thể-tánh chơn-như, xa lìa các đều chướng ngại, giống như hư-không.

    b).Trạch-diệt vô-vi: Trạch là lựa chọn, Diệt là diệt trừ, nghĩa là nhờ các sự lựa chọn đứng-đắn của Trí-huệ vô lậu mà diệt trừ được sự phiền não nhiễn trước , chứng ngộ cứu cánh.

    c). Phi-trạch diệt vô-vi: trên thì nói nhờ sự lựa chọn, đứng đắn của trí-huệ mà diệt trừ được sự phiền não nhiếm trước. Nhưng nói thế không có nghĩa rằng pháp-tánh nhờ có sự diệt trừ phiền-não mới có được. Pháp-tánh vốn đã có sẳn, xưa nay là vốn là thanh-tịnh, không có nhiễm ô, không có sanh diệt, cho nên gọi là phi-trạch diệt vô-vi. Lại có nghĩa thứ hai là vì thiếu duyên, nên các phiền-não nhiễm-ô không hiện; vì thế mà pháp vô-vi thanh-tịnh tự hiện ra, không cần có sự trạch diệt.

    d).Bất động diệt vô-vi: khi đã xa lìa các phiền-não, về cõi tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc-giới, dứt bỏ những sự vai buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động bỡi một sắc tướng gì nữa, nên gọi là bất động diệt vô-vi: Khi đã xa lìa các phiền não , về cỏi tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc giới, dứt bỏ những sự vui buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động, bởi một sắc tướng gì nữa, nên gọi là ‘’Bất động diệt vô-vi ‘’.

    e). Tưởng thọ diệt vô-vi: Khi đã xa lìa được phiền não ở cõi thứ ba thuộc về vô sắc giới, các tâm sở ‘’ tưởng, thọ’’ đều tịch diệt, chơn như hiện ra, nên gọi là ‘’ Tưởng thọ diệt vô-vi’’.

    f) Chơn như vô-vi: Năm pháp vô-vi trên này là hình dung các đức tánh của chơn như; pháp thứ sáu này là "Chơn như vô-vi", mới chỉ đích danh bản thể chơn như.

    Để người đọc dễ nhớ 100 pháp vừa kể trên này, cổ nhân có làm một bài kệ, tóm tắt như sau.

    Nguyên văn:

    Sắc pháp thập nhất, tâm pháp bát
    Ngũ thập nhất cá tâm sở pháp
    Nhị thập tứ chủng bất tương ưng
    Sáu món vô vị, thành trăm pháp
    Dịch nghĩa:

    Sắc pháp mười một, tâm pháp tám
    Năm mươi mốt món tâm sở pháp
    Hai mươi bốn món bất tương ưng
    Sáu món vô-vi , thành trăm pháp .
    VI.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

    Như chúng ta đã biết vũ trụ vạn hữu tuy vô cùng phức tạp, nhưng nhà duy thức học có thể sắp xếp thành 100 loại (bách pháp ). Một trăm loại này, tuy hình tướng công năng có khác nhau, chung cục lại cũng đều Thức cả.

    Vậy phương pháp tu hành của nhà duy thức học là làm thế nào để chứng ngộ cái lý nói rên, thế nhập với cái chơn lý ấy. Để đạt được mục đích này nhà duy thức học dạy phải thực hành 5 pháp quán sau đây, gọi là ‘’Ngũ trùng duy thức quán’’. với năm pháp quán này,hành giả đi từ thô đến tế, từ phức tạp đến tinh thuần, để cuối cùng chỉ còn thấy có thức tánh, tức là tâm chơn như.

    1.- Bỏ cái hư giả, lưu lại cái hư thật. (khiển hư, tồn thật): Bỏ cái hư giả ức là các vọng chấp thật có ngã, có pháp do cái tánh ‘’ biến kế chấp’’ tạo ra. Lưu lại cái chân thật, tức là cái tánh ‘’ y-tha-khởi’’ và ‘’viên-thành’’. Nói một cách khác cho dễ hiểu, trong pháp quán này, hành giả phải quán ngã và pháp là không thật ( hư) để phá trừ cái chấp thật có. Hành giả lại quán tánh y tha, viên thành là thật có (thật) để phá trừ chấp không. Trong lối quán duy thức từng thứ nhất này, ‘’có’’ và ‘’không’’ đối đãi nhau, để bỏ’’ biến kế chấp’’ lưu lại ‘’y tha’’ và ‘’viên thành’’.

    2.- bỏ cái lộn lạo, lưu lại cái thuần túy (xả lạm lưu thuần): Cái lộn lạo nói ở đây là tướng phần (nội cảnh); có thuần túy ở đây là kiến phần. Bỏ cái lộn lạo, lưu cái thuần túy, tức là bỏ phần ‘’tướng’’ bị duyên (sở duyên) mà lưu lại cái phần ‘’kiến’’ là phần năng duyên. Đây là quán thứ hai về lối duy thức, lấy tâm (năng) và cảnh (sở) đối đãi với nhau, và mục đích là bỏ cảnh (xả lạm) mà chỉ giử lại tâm (lưu thuẩn). Lối quán thứ nhất là bỏ vọng cảnh ngoài tâm; lối quán thứ hai này là bỏ cảnh nội tâm là tướng phần của thức.

    3.- Đem cái ngọn trở về gốc (nhiếp mạt quy bổn): Cái ngọn ở đây tức là muốn nói tướng phần và kiến phần, còn gốc ở đây tức là tự chứng phần. Kiến phần và kiến phần là ‘’dụng’’ đều y theo tuẹ chứng phần mà khởi ra, nên gọi là ngọn; còn tự chứng phần là ‘’thể tánh’’ cho nên gọi là gốc. Lối quán duy thức thứ ba này là đem ‘’dụng’’ và ‘’thể’’ đối đãi với nhau, mà mục đích là bỏ cái phần thuộc tương đối ít quan trọng là dụng (kiến phần), chỉ giử lại cái phần căn bản là thể (tự chứng phần).

    4.- Giấu cái liệt làm hiển lộ cái thắng (ẩn liệt hiển thắng): Cái Liệt muốn nói ở đây tức là các tâm sở, cái Thắng tức là các tâm vương. Tâm sở phụ thuộc vào cái tâm vương nên gọi là liệt, hay kém ; tâm vương là phần sai sử chủ động, nên gọi là thắng, hay hơn. Lối quán duy thức thứ tư này là đem 51 món tâm sở so sánh với 8 món tâm vương, và mục đích là dẹp bỏ các món tâm sở và làm hiển lộ 8 món tâm vương.

    5.- Bỏ thưc tướng về thức tánh (khiển tướng chứng tánh): Bốn tầng quán Duy thức trên, tuy rốt ráo chỉ còn giử lại các món tâm vương, nhưng tâm vương cũng có sự tướng và lý tánh. Lối quán thứ năm này là đem sự tướng đối đãi với lý tánh, mà mục đích cuối cùng là bỏ sự tướng của thức (thức tướng) để trở về với lý tánh của thức (thức tánh), tức cũng là chứng nhập Pháp tánh hay tâm Chơn như (quý độc giả muốn hiểu rỏ thêm, xin xem bài duy thức quán đâị cương của Ngài Thái Hư Pháp sư).

    Ngoài năm lớp quán Duy thức của cổ nhơn mà chúng tôi vừa kể trên, còn có một lối tu nữa rất dễ dàng và thiết thực, hợp với đại chúng là chúng ta thường quan sát và kiểm điểm nội tâm của mình.

    Chúng ta hãy độc kỹ về hai lọai Phiền não tâm sở và Thiện tâm sở trong Duy thức, để nhìn rỏ mặt mày tướng trạng, công dụng, tánh tình và danh tự của chúng. Rồi hằng ngày chúng ta kiểm điểm ở nội tâm: Mỗi khi hiện lên một tâm niệm gì, chúng ta kiểm điểm và quan sát thật kỹ tâm niệm này thiện hay ác (phiền não). Nếu tâm niệm thiện thì chúng ta nuôi dưỡng cho nó phát-triển thêm, còn nếu tâm niệm ác thì chúng ta mau mau lo diệt trừ đi. Chúng ta biết sữa đổi tâm niệm xấu (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tốt (dưỡng tánh) như thế phải thì chúng ta se ỵthành được Thánh hiền (xem quyển tu tâm và dưỡng tánh).

    VII.- HÀNH GIẢ PHẢI TRẢI QUA NĂM ĐỊA VỊ TRONG KHI TU DUY THỨC

    Người tu học pháp môn Duy thức, cũng như kẻ bộ hành, từ khi nãy sinh ra cái ý định muốn đi cho đến tới đích, phải trải qua năm giai đoạn hay năm địa vị như sau:

    1.- Vị tư lương: Tức là thời gian chuẩn bị như người sắp đi xa, phải chuẩn bị lương thực trước lúc lên đường.

    Trong Duy thức Tam thập tụng:

    Nguyên văn:

    Nãi chí vị khởi thức
    Cầu trụ Duy thức tánh
    Ư nhị thủ tùy miên
    Du vị năng phục diệt
    Nghĩa là: Từ khi chưa phát tâm cho đến khi phát tâm cầu an trụ Duy thức tánh, trong thời gian đó, hai món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn miên phục, hành giả chưa có thể chinh phục diệt trừ được.

    2.- Vị Gia hạnh: Hành giã gia công tấn hạnh, cũng như người định đi xa, sau khi đã chuẩn bị đủ hành lý cách bước lên đường.

    Trong Duy thức tam thập tụng có chép.

    Nguyên văn:

    Hiện tiền lập thiểu vật
    Vị thị duy thức tánh
    Dĩ hữu sở đắc cố
    Phi thật trụ duy thức
    Nghĩa là: Nếu hiện tiền còn thấy mình an trụ duy thức tánh, dù nhỏ nhiệm bao nhiêu thì cũng chưa phải thật an trụ Duy thứ tánh, vì còn có chổ sở đắc vậy.

    3.- Vị Thông đạt: Hành giả thông suốt đường lối tu hành, cũng như người bộ người bộ hành.nghiên cứu kỹ lưỡng con đường mình sắp đi, biết rỏ đoạn nào tốt, đoạn nào xấu, đoạn nào nguy hiểm, đoạn nào không ...

    Trong Duy thức tam thập tụng có chép:

    Nguyên văn;

    Vô đắc bất đắc nghị
    Thị xuất thế gian trí
    Xả nhị thô trọng cố
    Tiện chứng đắc chuyển y.
    Nghĩa là: cảnh giới "vô dắc"này không thể nghĩ bàn; đây là trí xuất thế gian vô lậu. Do đã xa lìa được hai món thô trọng ( phiền não chườngva sở triều chướng ), hành-giả chứng được hai món chuyển y ( Bồ-Đề và Niết bàn).

    5.-Vị cứu cánh:Quả vị rốt ráo của sự tu chướng, tức là quả Phật , cũng như người đi đường đã hòan toàn tới chỗ.

    Trong Duy-thức tam thaạp tụng có chép:

    Nguyên văn:

    Thử tức vô lậu giới
    Bất tư nghị, thiện , thường
    An lạc, giải thoát thân
    Đại Mâu-nhiều danh pháp .
    Nghĩa là: đay là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là:a) Bất tư nghị, b)Thiện, cũng) Thường, được) An lạc,đời) Giải thoát thân, e) Đại Mâu nhiều, cũng gọi là pháp thân ( quý vị muốn rõ thêm, xem cuốn Duy-thức học, tập Và tức là Duy-thức tam thập tụng ).

    VII.-KẾT QUẢ TU CHỨNG

    a)Hành-giả : sau khi đã dày công tu luyện pháp mê vọng, năm thức trước của chúng tánh là nhãn, nhĩ, tỹ, thiềt và thân thức, duyên với cảnh giới năm trần là sắc, thanh, hương, vị và xúc trần;nhờ thế mà chúng ta mới thấy được sắc, nghe được tiếng , ngữi được mùi, nếm được vịvà cảm giác được cảnh giới chung quanh. Nhưng cái giá trịvà tầm hoạt động cũng như công dụng của năm thức ấyât nhỏ hẹp và thường hay sai lạc, nhận giả làm thật. Do đó, chúng ta tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi, quay cuồng trong lục đạo. Đối với người tu Duy-thức khi đã thành tựu rồi, thì năm thức này chuyển ra thành cái trí" thành sở tác", nghĩa là cái trí này có những công năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông biến hóa, hiện ra ba món hóa thân, đẻ tùy theo căn cơ của chúng sanh mà hóa dộ.

    b)Diệu quán sát trí:khi đang còn ở trong mê thức thứ sảucghi biết so đo, tính toán trong phạm vi nhỏ hẹp, tầm hoạt động không thể bao quát cùng khắp được . do đó nên nó thường hay sai kạc, lầm lẫn, và lôi kéo thân và miệng làm nhiều điều tội lỗi, tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi. Đến khi đã chứng được Duy-thức quả rồi, thì cái thức thứ sáu nàychuyển thành cái trí diệu quan sát, nghĩa làcái trí quan sát rát là mầu nhiệm, có thể thấy được hằng sang thế giới; trong mỗi thế giớ thấy được toàn thể chúng sanh, trong mỗi chúng sanh thấy được bao ngạc nhiêu tâm niệm v.v...Và nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện vọng, taam lý, làm lợi lạc cho chúng sanh.

    c)Bình đẳng tánh trí: Trong khi mê, thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ tám là ngã. Khi đã chấp "ngã" tất nhiên chỉ biết có ngã là quan trọng nhất, và mọi ý nghĩ, mọi hành động, mọi lời nói gì cũng đều quy tụ chung quanh cái ngã. Diều gì thích hợp với cái ngã thì yêu thương, chiều chuộng, cưng dưỡng, diều gì trái với cái ngã thì khinh ghét,hất hũi, chà đaạp. Do đó, gaay ra không biết bao nhiêu là bất công, bất bình đẵng làm xáo trộn, điêu đứng phá hũy cõi trần gian này. Đến khi chứng được Duy-thức quả, thức thứ bảy này không còn chấp ngã nữa, mà chỉ thấy mình và người , cho đến lòai vật đều như nhau. Khi đã có được trí bình đẵng rồithi sẽ dùng tâm từ bi hiện đủ phương tiện, để tùy theo căn cơ mỗi loài mà hóa độ, làm cho chúng sanh đều được giải thoát.

    d). Đại viên cảnh trí: Khi còn mê-mờ bị thức thứ Bảy chấp ngã và bị các chủng-từ phiền-não hữu-lậu, nhiễm-ô chi-phối, nên thức thứ Tám không được sáng suốt thanh-tịnh. Đến khi nhờ tu-hành, chứng được Duy-thức tánh, thì thức thứ Tám này trở thành như một cái gương lớn được lau chùi sạch bụi-bặm, có thể phản chiếu khắp cả mười phương thế-giới, nên gọi là ‘’Đại viên cảnh trí’’.

    2.- Hai trí:

    Bốn trí trên này, tuy có phân chia khác nhau, tùy theo công năng của mổi thứ, nhưng rốt lại, có thể gồm hai trí sau đây là Căn-bản trí và Hậu-đắc trí.

    a). Căn-bản trí: Tức là trí thể, chư Phật có chúng sanh đều sẳn có. Trí này cũng gọi là Vô phân-biệt trí.

    b). Hậu đắc trí: Trí là trí dụng. Sau khi chứng quả Thánh, được Căn-bản trí rồi mới được Hậu-đắc trí. Trí này cũng gọi là Sai-biệt trí; nghĩa là trí phân biệt các pháp do tánh y-tha-khởi mà có sai khác.

    Tóm lại, thành quả rốt-ráo của người tu học Duy-thức là chuyển đỗi được tám thức thành bốn trí là: Thành-sở-tác trí, Diệu-quán-sát trí, Bình-đẳng-tánh trí vá Đại-viên-cảnh trí. Đứng về mặt thể và dụng mà xét thì bốn trí này chỉ gồm lại làm hai là: Căn-bản trí và Hậu-đắc trí. Khi đã được hai trí này hành-giả đã chứng được Duy-thức tánh, ngộ nhập chơn-tâm, hoàn thành quả Phật.

    IX.- LỢI-ÍCH THIẾT-THỰC TRONG KHI HỌC VÀ TU DUY-THỨC

    Kết quả thu hoạcgh được như trên, hành-giả tất phải trải qua nhiều kiếp tu-hành. Nhưng chúng ta đừng thấy con đường đi qáu xa-xôi, diệu vợi mà nản chí. Vã lại không phải đợi đến khi thu hoạch được kết-quả cuối cùng mới nhận chân được sự lợi ích của pháp môn này. Ngay trong khi đang tu học, môn Duy-thức này cũng đã đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại rồi.

    1.- Chúng ta tự biết được mình một cách rỏ-ràng: Từ hồi nào đến giờ, chúng cho ta thân tâm này là của tánh, tưởng rằng chúng ta đã hiểu rõ bản thân tánh nhiều lắm. Nhưng nghĩ cho kỹ, chúng ta chỉ biết sơ sài về ta mà thôi. Về thân xác này, chúng ta chỉ thấy được những bộ phận ở bên ngoài như mặt, mũi, tay, chân v.v...Muốn biết các bộ-phận bên trong, chúng ta tất phải học khoa phẩu thuật.

    Về tâm-tánh chúng ta lại càng dốt hơn nữa. Nhiều khi chúng ta tưởng hiểu rõ nội tâm của mình, kỳ thật đã lầm nhiều lắm. Vậy muốn rõ biết tâm-tánh một cách rõ ràng, chúng ta hãy tu học Duy-thức. Như phần trên đã nói. Duy-thức học đã phân tích, chia-chẻ một cách tường tận, tỉ-mỉ, tâm-lý của chúng ta , liệt kê ra thành nhiều loại; mỗi loại có tên riêng, hành-tướng, công-năng, phạm-vi hoạt-động khác nhau như thế nào. Học Duy-thức, chúng ta thấy được phần nội tâm một cách rỏ ràng như người cầm gương soi, thấy tất cả những gì ở trên mặt. Chúng ta sẽ biết rõ những tâm-niệm xấu-xa để diệt-trừ (tu tâm), những tánh-tình tốt đẹp để bồi dưỡng (dưỡng tánh). Do đó, chúng ta sẽ trở thành người hiền lương, đạo-đức.

    2.- Chúng ta thấy được cái chánh-phủ nội tâm của chúng ta: Tâm-lý của mỗi người mới xem qua thật vô cùng phức-tạp; nhưng nếu suy nghiệm cho kỹ, chúng ta thấy vẫn có một tố chức gần giống như một liên bang; các Tâm-vương khác như một vị Tổng-thống của liên bang; các Tâm-vương khác như các vị đứng đầu của tiểu-banh; các tâm-sở Biến-hành như một vị Bộ-trưỏng; các Tâm-sở Biệt-cảnh như các vị Tỉnh-trưởng, Quận-trưởng; các Tâm-sở Bất-định như các vị dân-biểu không đảng phái; các Tâm-sở Thiện như các vị công-thần liêm-khiết hay các vị công-chức tân tâm vì dân vì nước; các Tâm-sở phiền nảo như những tham quan ô lại, hay cướp dựt lưu manh v.v... con các chủng-tử (thiện, ác, vô ký) thì như toàn thể dân chúng trong liên bang.

    Với một liên-bang nội tâm như thế, nếu chúng ta biết sắp đặt điều hòa bộ máy chính-quyền nội tâm cho vững vàng, thì tất nhiên liên-bang ấy sẽ vững mạnh, hùng-cường, và văn minh tiến bộ. Trái lại, nếu chúng ta không nắm vững được bộ máy hành-chính nội-tâm, thì liên-bang ấy sẽ loạn lạc, đói khổ và không sớm thì muộn, sẽ rơi vào vực thẳm tối tăm.

    Duy-thức học giúp cho chúng ta thấy rõ chánh-phủ nội-tâm của mình, để tự điều hòa cho được thạnh trị, thái-bình.

    3.- Chúng ta trau giồi được một đức tánh tốt đẹp là tánh ‘’kiên nhẫn’’:

    Học Duy-thức, trước tiên chính là chúng ta học đức tính kiên nhẫn. Thật vậy, người không kiên nhẫn không thể học Duy thức đến nơi đến chốn được, vì môn học này chia chẻ tâm lý một cách tỷ mỷ, phiền tóai; mỗi tâm niệm đều cũng nhiều danh từ chuyên môn,và được nghiên cứu kỹ lưỡng về tánh chất, hành vi, tướng trạng...những người không chịu khó, tánh tình hời hợt, nóng nảy, không thể nào thành công được trên đường tu học triều Duy-thức. Cho nên chỉ những người kiên nhẫn mới thành công, hay ngược lại,muốn thành công thì phải luyện tập đức tính kiên nhẫn. Từ xưa đến nay, trong đạo hay ngoài đời, những người được thành công vĩ đại đều nhờ đức tánh kiên nhẫn.

    4.- chúng ta giữ thái độ bình tĩnh tự tại: Như csác đọan trướ đã nêu rõ, mọi sự vật trong vũ trụ này đều do thức biến, chớ không chắc thật. Do đó, khi gặp điều may mắn, chúng ta không kiêu hãnh, ngạo mạn, cống cao; khi gặp cảnh đau buồn như tử biệt sanh ly...chúng ta bớt khổ não, kêu than, giữ được thái độ bình tĩnh và cũng cho biết được cõi đời là giã tạm, như mây bay, như gió thỏang,nên chúng ta không say đắm, tham lam, luyến tiếc, và nhờ thế, chúng ta bớt dần những nghiệp giữ, chóng được giải thóat.

    5.- Chúng ta nắm vững lòng tin:

    Học Duy-thức, chúng ta thấy được giá trị cao siêu của nó, nên lại càng tin tưởng mạnh mẽ vào tôn giáo của chúng ta, một tôn-giáo không phải dựa trên giáo điều độc đóan, mà dựa trên thực nghiệm, và lấy ngay nội tâm của con người làm nền tảng cho sự tu học của mình.

    X. KẾT LUẬN

    Chúng tôi đã trình bày xong những điểm chính yếu của Duy-thức tôn giáo hay Pháp tướng tôn. tấﴠnhiên, với phạm vi những bài giảng này, chúng tôi không thể đi sâu vào chi tiết, trình bày một cách rộng rải, đầy đủ hơn. Quý vị nào muốn nghiên cứu sâu xa về môn học này, xin hãy tim trước tiên ba bộ sách chính tông của Duy-thức là: Đại-thừa Bá Phát minh môn luận (Duy-thức nhập môn),Duy-thức Tam Thập Tụng và Bát Thức Quy Củ tụng; sau đósẽ nghiên cứu thêm những tập sách khác hiện đã xuất bản rất nhiều ở Việt-Nam .

    Tuy thế, sau khi xem qua nội dung bài này, quý vị có thể quyết định được con đường tu hành của quý vị rồi. Nếu quý vị thấy đây là một con đường tu hành thích hợp và thiết thực lợi ích đối với mình thì xin hãy hạ thủ công phu ngay, nghĩa là ngày đem quan sát kiểm thảo tâm thức của mình. Như quý vị đã biết, trong mỗi chúng ta đều có sáu đầu đảng giải quyết là sáu món Căn bản phiền não. Sáu đầu đảng này lại có hai mươi tên bộ hạ nguy hiểm là 20 Tùy phiền não. Chính bọn giặc cướp này, từ vô thỉ đến nay phá hoại chúng ta vô cùng vô tận, làm cho chúng ta điêu đứng và trầm luân trong biển khổ sanh tử luân hồi. Nếu ngày nay biết được sự tàn phá của chúng, quyết tâm diệt trừ, không cho chúng hoành hành,chắc chắn cuộc đời chúng ta an cư lạc nghiệp (xong cuốn tu tâm).

    Hơn nữa, bên cạnh những bọn giặc cướp ấy, chúng ta còn có những anh hùng nghĩa sĩ, chuyên làm các việc thiện là 11 món tâm sở thiện. Với những vị hảo hán này, chúng ta phải luôn luôn ân cần trọng đãi, khuyến khích cổ võ để cho họ càng thêm hăng hái và mạnh mẽ làm các việc lành (xem quyển Dưỡng Tánh).

    Một khi các tâm niệm xấu xa hoàn toàn tiêu diệt, các đức hạnh tốt hoàn toàn đầy đủ, chúng ta sẽ thành Phật quả. Cầu mong quý vị thành công.

  6. #6

    Mặc định

    5.- MẬT TÔN


    --------------------------------------------------------------------------------

    1.-DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

    Tôn này thuộc về Đại-thừa, thờ Đức Đại Nhựt Như Lai (Tì Lô Giá Na) làm giáo chủ. Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ quán đảnh, kế thừa pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là Mật Tôn hay Chơn ngôn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).

    Ngài Kim Cang Bồ tát truyền cho Ngài Long Thọ; Ngài Long Thọ truyền cho Ngài Long Trí; Ngài Long Trí truyền cho Ngài Thiện Vô U﹠Tam tạng và Ngài Kim Cang Trí Tam tạng.

    Vào đầu đời Đường, hai Ngài Vô U﹠và Kim Cang sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật tôn.

    Ngài Vô U﹠truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài Nhất Hạnh Thiền sư sớ thích kinh Đại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rõ rệt ở Trung Hoa. Còn Ngài Kim Cang Trí thì truyền giáo pháp cho Ngài Bất Không Tam tạng. Ngài sau này truyền cho Ngài Huệ Quả Hòa thượng, Ngài Huệ Quả truyền cho Ngài Không Hải là một Đại sư người Nhật. Ngài Không Hải về sau trở thành vị tổ Mật tôn ở Nhật.

    Mật tôn có nhiều phái: a) Mật tôn ở Trung Hoa; b) Mật tôn ở Nhật thường gọi là Đông mật; c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay là Tạng Mật.

    Kinh điển của Mật tôn.- Tôn này nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc bộ kinh đại Nhật và kinh Kim Cang Đảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh Tô tất địa, Du ký và Yếu lược niêm tụng, thì thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.

    Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đã thấy ở đoạn đầu, Tôn này thờ Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm Giáo chủ và Ngài Kim Cang Bồ Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Đỏa) băng phương pháp quán đảnh đã nhận lãnh pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai để truyền thừa Tôn này.

    Nhưng Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào?

    - Như chúng ta thường nghe nói Phật có 3 thân là: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.

    1.-Pháp Thân, hay từ tánh thân là pháp giới chơn tịnh của các đức Như Lai, làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân; Pháp Thân tức là thể tánh thân tịnh có đầy đủ công đức, thật tánh bình đẳng của hết thảy các pháp.

    2.-Bảo Thân, hay thọ dụng thân, là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu hành trãi qua ba đại kiếp mà được.

    3.-Ứng Thân, hay biến hóa thân, là thân chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sanh mà hóa độ. Như đức Phật Thích Ca là ứng thân của Phật trong cõi Ta-bà này. Vậy đại Nhựt Như Lai (hay Tỳ Lô Giá Na), không phải là đức Phật Thích ca như một số người lầm tưởng, mà chính là pháp thân Phật.

    Theo các tôn phái khác thì pháp thân không có hình tướng, không thuyết pháp chỉ báo thân và ứng thân, như đức Phật Thích Ca mới có hình tướng và nói pháp.

    Theo Mật tôn thì có chia ra làm hai loại giáo pháp; Hiển giáo và Mật giáo.

    Những lời dạy của ứng thân Phật, như đức Phật Thích Ca thì tủy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy, tức là pháp môn quyền thiệt hay là Hiển giáo.

    Còn Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà chỉ những vị đại Bồ tát, nhờ trí huệ sáng suốt, mới cảm thông, họ lãnh được của pháp thân Phật, như Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na).

    Tóm lại, Mật tôn thuộc về Mật giáo. Vị Giáo chủ bí mật là Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay pháp thân Phật). Còn vị sơ tổ của tôn này là Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa là vị Bồ tát đã chép lại kinh Đại Nhựt và kinh Kim Cang Đảnh.

    II.-TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

    1.-Lục đại: Mật tôn chủ trương Lục đại là chơn thật thể của vũ trụ. Lục đại đà: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại. Lục đại là bản nguyên của các tánh năng sinh (sinh ra), năng lưu (lưu xuất ra).

    Trong lục đại thì năm đại trước thuộc về vật, đại cuối cùng (thức đại) thuộc về tâm. Sau đại này mỗi mỗi đều dung thông, không ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà sinh ra các pháp.

    Lục đại bao hàm 3 phương diện

    Thể đại, tức là bản thể chung cùng của vũ trụ;

    Tướng đại, tức là hình tướng của sự vật và chúng sanh

    Dụng đại, tức là ngôn ngữ, động tác, cong dụng của mỗi sự vật.

    Vũ trụ vạn hữu không có cái gì ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại.

    Thể, tướng, dụng là chúng ta dùng trí lực chia chẽ ra như thế để dễ quán sát; chứ thực ra ba phương diện ấy không thể rời nhau, không thể tồn tại riêng rẽ được. Ngoài thể đại, thì tướng đại và dụng đại cũng không thể có được; ngoài tướng đại thì thể đại và dụng đại cũng không thể có được. Vì vậy xét một phương diện thì rõ được cả ba.

    Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên: sáu đại dung thông, thâu nhiếp lẫn nhau, và ba phương diện: thế, tướng , dụng cũng không thể rời nhau, nên vũ trụ vạn hữu, mặc dù muôn hình vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có lý dung thông vô ngại, châu biến khắp tất cả. Cái đó gọi là lý tánh hay chơn như. Lý tánh hay chơn như là nồng cốt của sự tướng nhưng nếu không có sự tướng, thì chơn như hay lý tánh cũng không thể biểu dương được. Lý tánh và sự tướng là hai khía cạnh tịnh và động của nhất như. Nói tóm lại, có lý tức có sự, có sự tức có lý. Lý tánh của vũ trụ vạn hữu cũng tức là Phật tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn có trong mọi chúng sanh, trong mọi hình thức.

    Muốn chứng ngộ Phật tánh, muốn thể nhập chơn như, trước tiên phải quan sát sự tướng, sự tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây tức là bốn Mạn trà- la.

    2.- Bốn Mạn trà- la: Mạn trà- la nghĩa là tròn trịa đầy đủ, rộng lớn không lường. Bốn pháp Mạn trà- la, hay gọi tứ Mạn tưởng đại, là bốn tướng rộng lớn, đầy đủ của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn trà- la là:

    đại Mạn trà- la.- nghĩa rộng là thân của các loài hữu tình trong mười pháp giới, là sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, các sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, y theo lục đại mà hiện.
    Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật, Bồ tát được thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẽ.v.v...

    Tam muội gia Mạn trà- la.- nghĩa rộng là hết thải các cơ khí trong vũ trụ, những vật dụng thường ngày của chúng sanh, hay rộng hơn nữa là cái đặc tánh riêng biệt của mỗi pháp, núi, sông, cây cỏ...nghĩa hẹp là chỉ những vật mà Phật và Bồ tát thường cầm như hoa sen, ngọc bửu châu, cành dương liễu để tiêu biểu cho lời thề nguyện hay cái đặc tánh thù thắng riêng của quý Ngài trong việc cứu độ chúng sanh.

    Pháp Mạn trà- la. -nghĩa rộng là hết thảy âm thanh, lời nói, hình ảnh, tên gọi, ký hiệu trong vũ trụ. Nghĩa hẹp là chỉ cho những chủng tử hay chơn ngôn của các đức Phật hay Bồ tát. Chủng tử ở đây tức là chữ cái. Chữ tiêu biểu cho bản thể của Phật và Bồ tát, như chủng tử của đức Đại Nhựt Như Lai (đọc là A), chủng tử của Ngài Kim Cang Tát đỏa (đọc là Hùm). Còn chơn ngồn tức là Mật chú, và danh hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả văn nghĩa trong các kinh điển.

    Yết ma Mạn trà- la:- Yết ma là cử động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết ma Mạn trà- la là chỉ cho hết thảy động tác của chúng sanh và môn vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho hết thảy oai nghi động tác của chư Phật và Bồ tát để làm các sự nghiệp độ sinh.
    Bốn Mạn trà- la này đồng thời tồn tại, đã có một Mạn trà- la, tức phải có ba Mạn trà- la kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ tát và chúng sanh đều có. Bốn mạn của Phật không lìa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của chúng sanh không lìa bốn mạn của Phật. Vì thế, kinh thường gọi là bốn mạn không lìa nhau.

    III.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

    Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, sự tu hành của Phật tôn có hai pyương diện: Sự và Lý, hay nói theo danh yừ của Mật tôn là Giáo tướng và Sự tướng.

    Sự tướng là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập đàn ...Tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không thể dùng ý riêng mà làm càn được.

    ‘’Giáo tướng’’ là tất cả những ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút ra trong sự tướng để dạy chúng ta.

    Người tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương diện ấy,không được thiên bỏ bên nào. Không học giáo tướng thời không lãnh hội được ý nghĩa của sự tướng để làm cho đúng. Không học sự tướng thì hết thảy đều là nói suông. Giáo tướng thì có thể nương theo kinh điển mà học hỏi; còn sự tướng thì phải có các bậc A xà lê, tức các vị truyền đạo của Mật tôn, truyền cho mới biết được.

    Ngoài sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành trọng yếu của Mật tôn là Tam mật.

    Tam mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân. Ngữ, ý. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu mậy ) và ý mật.

    Như trên đã nói , chúng sanh và đức Như Lai đều có sáu đại làm thẻ, bốn pháp Mạn tà la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và chúng sanh thì thể tướng mật. Như đức Đại Nhựt Như Lai đều có tam pháp giới là thân mật, hết thảy tiếng tăm là ngữ mật,. Cái thức lớn bao khắp tất cảlà ý mật. Còn chúng sanh , thì tay băý aán là thân mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ mật, tâm chuyên vào tam-ma-địa (thiền định) là ý mật.

    Nhưng Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnhvà nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậýc muốn được như Phật , phải tu hành theo phép tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được thaan nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà tịnh được khẩu nghiệp, trs quán tưởng đức Đại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng tưởng, ý nghiệp được thanh tinh. Sự tu hhành tam mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn.

    Giai đoạn đầu gọi làtam mật gia trì. Trong giai đoạn này, sau khi hành-giả đã làm chủ được thân, ngữ, ý rồi thìtâm thủy ( tâm vắng lặng như nước đứng yên ) cả mình được ánh sáng mầu nhiệm của Địa Nhựt Như Lai chói rọi vào, tức là "Gia"; Và tâmthùyminh cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng mầu nhiệm ấy tức là "Trì". Một bên thì "Gia", một bên thì"Trì", hai bên thừa tiếp nhau nên gọ là Tam mật gia trì.

    Giai đoạn thứ hai gọi là Tam mật du già. Khi giai đoạn Tam mật gia trì đã thuần thục, thì ánh sángcủa đưc Đại Nhựt Như Lài là ánh sáng ttrong tâm thủy của hành-giả hiệp nhau ( du già) không sai không khác, thì gội là "Tam mậu du già". Đến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đã thành tựu .

    IV.-QUẢ VỊ TU CHỨNG

    Hành-giả sáu khi đã thành tựuTam-mật hữu tướng, thông suốt được ýnghĩa mầu nhiệmcủa bốn mạn-trà-la, thì nhất cử, nhaạt động đều rập khuốnđung theo oai nghi của Phật , làm lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên, có làm tất cả mọi việc lợi ích mà như không làm. Đó tức là vô tướng tam mật.

    Đến độ vô tướng tam mậtthì mọi hành vi cử động đều tòan là ấn cả, hết thãy lời nói đều là chú và chơn ngôn, hết thãy ý nghĩ đều là diêu quán cả. Do đó mà trong kinh có câu nói sau đây để hình dung hạng người đã chứng được vô tướng tam mật: "mỡ miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội; dơ tay động chân, đều thành mật ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán tự thành".

    Đó cũng là ý nghĩa của bốn chữ"tức thân thành Phật "; nghĩa là hiện đời thành Phật.

    V.-KẾT LUẬN

    Sự lợi ích tu về Mật tôn, đến khi kết quả cùng tộtcũng đồng một mục đích như các pháp môn khác; nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh. Thaan ngồi trì chú, tay bắt ấn, nên thân không làm các việc tội ác, vì thế mà thân nghiềp được thân tịnh (thân mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói các điều tội lỗi, vì thế mà khẫu nghiệp được thanh tịnh (nhữ mật). Tâm tưởng chú hoặc quán tưởng những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng những điều tội lỗi, vì thế nên ý nghệp được thanh tịnh ( ý mật) Kinh chép: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Taay phương".nghĩa là:nếu ai ba nghiệp chướng thanh tịnhthì được về tây phương đồng ở với Phật .

    Trì chú có rất nhiều lợi ích, như trì chú vãng sánhẽ nhỗ sạch hết gốc rễ của nghiệp chướngvà được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bản, đắc sanh Tịnh độ Đà-la-ni); trì chú lăng nghiêm sẽ được tiêu trừ các oan gia nghiêp chướng và tình ái-dụcnặng nề từ nhiều kiếp trước, như ông A-nan và bà Ma-Đăng-Già ( xin quý vị xem quyển Đại cương Lăng nghiêm về đoạn nói lớiich trì chú Lăng nghiêm); trì chú phổ am sẽ tiêu trừ được phục thi cốt khí các yêu tinh quỷ quái trong gia trạch; triều ttrì Ngủ bộ chú hay Đaị bi thập chú sẽ được phước huệ tăng long, tùy tâm hành-giả cầu như thế nào, sẽ được mãn nguyện như thế ấy.

  7. #7

    Mặc định

    6. PHÁP HOA TÔN ( THIÊN THAI TÔN)

    --------------------------------------------------------------------------------

    I.-DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

    Thiên thai tôn được khởi xướng từ Bắc tế. Do Ngài Huệ văn Thiền sư dựa vào bộ tríd độ luận mà lập ra pháp ‘’Mhứt tâm quan quán’’. Pháp quán này được truyền cho Ngài Nam Nhạc Huệ Tự Thiền sư. Ngài Huệ Tự lại truyền cho Ngài Trí Giả ở núi Thiên Thai. Ngài Trí Giả là một bậc đại sư , y theo kinh pháp hoa, bổ yúc thêm cho pháp ‘’Mhứt tâm quan quán’’ được hoàn bị và lâop thành một tôn pháp có uy thế ở núi Thiên Thai. Dooó mới có tên là Thiên Thai tôn (hoặc gọi Pháp hoa tôn). vị đại đệ tử của Ngài Trí Giả là Ngài Chương An Đại sư ghi chép lại những lời của Thầy, làm ra nhiều bộ luận có giá trị, để làm cơ sở cho Thiên Thai tôn, như bộ Pháp hao huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma ha chỉ quán. từ Ngài Chương An, giáo nghĩa củ tôn này được hoằng truyền mãi cho các vị Đại đệ tử, thứ tự như sau: Ngài Trí Oai, Ngài Huệ Oai, Ngài Huyền Minh Và Ngài Trạm Nhiên.

    Đến đời Ngài Trạm Nhiên, cũng gọi là kinh Khê tôn giả, giáo-lý và tôn chỉ của Thiên Thai tôn lại được rộng truyền và thêm nhiều thanh thế, vì Ngài Trạm Nhiên là một vị cao tăng, học rộng, biết nhiều, bổ túc thêm các bộ luận căn bản của tôn được hoàn bị, tù Ngài Trạm Nhiên về sau, đời nào cũng có những vị đệ tử có tài đứ rộng truyền giáo nghĩa của tôn này.

    Kinh sách của Thiên Thai tôn rất nhiều, trong số này có thể lựa ra ba bộ sách lớn làm căn bản cho tôn này là: Pháp hoa huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma hoa chỉ quán. ngoài ra có thể thêm năm bộ nhỏ, tuy không quan trọng bằng ba bộ trên, nhưng củng rất cần thiết cho người tu học là: Quán âm huyền nghĩa, Quán âm nghĩa sớ, Kim quang kim huyền nghĩa, Kim cang minh văn cú và Quán kinh sớ.

    II.- TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

    Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, Thiên thai tôn không đi ra ngoài giáo-lý căn bản của đức Phật. Đó là: ‘’Chư pháp duy nhứt tâm’’. Cái công lớn nhất của Thiên thai tôn là làm sáng tỏ giáo-lý trên bằng một phương-pháp diễn dịch rất là minh bạch tinh vi.

    Sao gọi là ‘’Chư pháp duy nhứt tâm’’?. Theo Thiên thai tôn thì ngoại tâm không có các pháp , ngoài các pháp không có tâm. Tâm tức là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là tâm. Hai cái không phải là khác, nhưng cũng không phải là một. Tâm bao trùm tất cả. Tâm tức là chúng sanh, tâm cũng tức là Bồ tát, Phật. sinh tử cũng ở nơi tâm ấy.

    Nhưng làm sao để nhận chân được những phương diện của tâm, mà mới nghe qua hình như là trái ngược, mâu thuẩn với nhau.

    Muốn thấy được toàn diện của tâm, người quan sát phải đứng nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm khác nhau mà nhìn:

    -nếu chúng ta đứng về phương diện truyệt đối mà xét sự vật (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện chơn đế), thì thấy sự vật trong vũ trụ, không có một sự vật gì nó đứng vững một mình và tồn tại, mọi vật không có thể tự riêng biệt, mọi vật đều do nhân duyên mà thành. Cái ‘’có’’ của sự vật là một cái có tạm bợ giả dối, ‘’có ‘’ mà cũng như ‘’không ‘’. Đứng về phương diện tuyệt đối mà xét thì không có một pháp nào là tuyệt đối cả. Cho nên gọi là ‘’không’’.

    Nhưng nếu đứng về phương diện tương đối mà xét (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện tục đế), thì không thể bảo mọi pháp là hoàn toàn ‘’không ‘’ được. Trước mắt chúng tánh, đành rành có đủ mọi vật, và mỗi vật có một giới hạn, một đời sống riêng biệt, sao lại bảo là hoàn toàn ‘’không ‘’? Cho nên đứng về phương diện đối đãi, thì mọi vật không thiếu một vật gì.

    Đứng về phương diện tuyệt đối, thì vạn pháp là ‘’không ‘’?; Đứng về phương diện tương đối thì vạn pháp là ‘’có’’. ‘’ Không’’ và ‘’có ‘’ đấy là hai phương diện của tâm. Lấy phương diện này mà bỏ phương diện kia, hay trái lại lấy phương diện kia mà bỏ phương diện này, đều là thiên chấp, thiếu sót. Một giáo lý hoàn toàn là phải chấp nhận cả hai phương diện ấy. Đó là trung đạo. Phải là trung đạo, mới có thể tuyên bố: ‘’Tâm là nhứt thiết pháp, nhứt thiết pháp là tâm; tâm là sanh tử luân hồi, mà cũng là Niết bàn tịch tịnh’’.

    Như thế tâm có đầy đủ các tánh: thiên và ác, tịnh và bất tịnh, Phật và chúng sanh. Trong cỏi sanh diệt vô thường, vẫn có cái lý bất sanh bất diệt; trong cỏi ta ba, vẫn có cảnh giưói củ Phật. đó là ý nghĩa của câu ‘’ pháp môn tánh cụ’’ nghĩa là bản tánh bao giờ cũng có đủ các pháp, như lành và dữ, tịnh và bất tịnh...Do có đủ các pháp, nên hành động như thế nào thì kết quả như thế ấy. Muốn thành Phật, còn muốn làm chúng sanh thì tạo nhơn chúng sanh. Chúng sanh muốn thành Phật chỉ nhứt trừ ác nghiệp và chuyển lại tu thiện nghiệp

    Và cũng vì có đủ các pháp, nên trong mỗi pháp giới là sáu loại phàm phu (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Tu la, Nhơn, Thiên) và bốn thánh bậc (Thanh văn, Duyên giác, ồ tát và Phật).

    Do chủ trương: ‘’pháp môn tánh cụ’’, và mỗi pháp giới đều có đủ mười pháp giới, nên quan niệm tu hành của Thiên thai tôn cũng lạc quan hơn các tôn phái khác. Ơí trong pháp giới nào cũng dù tối tăm, khổ sở bao nhiêu cũng có thể tu hành và thành tựu được. Như thế không cần từ bỏ một cảnh giới này, cầu sanh vào một cảnh giới khác mới có thể tu hàng và thành Phật.

    III.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

    Phần chủ trương của Thiên thai tôn như đã trình bày ở trên, có phần lạc quan và dễ dàng: trong cảnh giới hiện tại có đủ cảnh giới phàm và thánh muốn thành Phật, Bồ tát thì cứ gieo nhơn (tu hành) thành Phật, Bồ tát. Đó là nói về lý thuyết. Nhưng trong thực hành không phải dễ dang như thế.

    Trước tiên, chúng ta phải nhận định hoàn cảnh thực tế của chúng sanh là một hoàn cảnh bị che phủ rất nhiều mê lầm, hay nói theo thuật ngư nhà Phật thì là ‘’chướng’’ hay ‘’hoặc’’. Dứt trừ được những ’chướng’’ hay ‘’hoặc’’ ấy là công việc chính của người tu hành. Nhưng muốn dứt trừ những tên giặc nguy hiểm ấy, trước tiên phải tìm hiểu tướng trạng, hành tung, phạm vi họat động của chúng ta như thế nào đã. Những chướng ngại, mê lầm hay những hoặc nói trên nhiều vô số, nhưng có thể phân chia làm ba loại, từ cạn đến sâu, từ hẹp đến rộng. Đó là kiến tư hoặc, trần sang hoặc và vô minh hoặc.

    3.- Vô minh hoặc: Chử vô minh nghĩa chung là mê lầm. Mê lầm cũng có niều bậc cạn và sâu, hẹp và rộng, thô thiển và vi tế. Hàng Tiểu-thừa cũng dùng chữ vô minh, mà hàng Đại-thừa cũng dùng chữ vô minh. Nhưng vô minh theo quan niệm của Tiểu-thừa là sự mê lầm che lấp không cho chúng sanh thấy được cái cội gốc của đau khổ, phiền não, nguyên nhân của sanh tử luân hồi. Còn theo nghĩa của Đại-thừa và đặc biệt của Thiên thai tôn là sự mê lầm che lấp chơn lý thật tướng của Trung đạo. Vô minh hoặc ở đây có một nghĩa bao quát rộng rãi như thế, nên cũng gọi là giới ngoại đạo hoặc; và chỉ có hàng Bồ tát mới dứt trừ được , nên cũng gọi là biệt hoặc.

    Đối vị với ba hoặc này, Thiên thai tôn lập ra ba pháp quán là: Không quán, Giả quán và Trung quán.

    Ba Pháp Quán: Ba pháp này nguyên Ngài Tuệ Văn rút từ những phẩm kệ trong bộ Trung luận của Ngài Long Thọ Bồ tát mà lập ra. Phẩm kệ ấy như sau:

    Nhân duyên sở sanh pháp
    Ngã thuyết thức thị không
    Diệc danh vi gỉa danh
    Diệc thị trung đạo nghĩa.
    (các pháp do danh duyên sanh, nên tánh bảo là không, mà cũng là giả danh, đó cũng là nghiã lý của Trung đạo).

    Đối với Thiên thai tôn thì ba pháp quản này là phần nòng cốt trong sự tu hành. Nếu không thực hành ba pháp quán này thì không làm sao thành tựu được . ba pháp quán này, như trên đã nói; Không quán, Giả quán và Trung quán.

    1.- Không quán: Không quán là đứng về phương diện chơn đế mà quan sát sự vật. Theo chơn đế thì các pháp là không, nhưng chúng sanh vì mê lầm không rõ, chấp là có thật. Do đó mà có kiến thức hoặc, và cứ mãi quay cuồng trong sanh tử luân hồi của tam giới. nay phải dùng Không quán mà phá trừ sự mê lầmchấp trước trên, cắt đứt tất cả tình chấp (trừ kiến và tư hoặc) mới thoát khỏi sanh tử luân hồi.

    2.- Giả quán: Giả quán là đứng về phương diện tục đế mà quan sát sự vật. Các Phật tuy không và không sở đắc nhưng đứng về thế tục mà nhìn, thì thấy bản tánh vốn đủ các pháp , muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Giả quán này có thể dứt trừ được trần sang hoặc, vì hành giả biết rằng hoặc tuy nhiều như cát bụi, nhưng đều là giả cả, nên không lo sợ trước số nhiều ấy, và cứ tâm phát nguyện độ sanh khắp tất cả.

    3.- Trung quán: Trung quán là đứng về phương diện trung đế để quan sát các pháp. Trung đế hay đệ nhất nghĩa đế là sự thật đúng đắn nhất, không gì hơn, sự thật trung chánh, tóm thâu bao gồm tất cả sự thật khác. Khi đứng về chơn đế hay tục đế mà quan sát sự vật thì không phải là không đạt đến sự thật; nhưng sự vật ấy mới chỉ được vén lên ở một khía cạnh nay hay một khía cạnh khác mà thôi. Và những sự thật ấy, nếu không có trung quán, thì trở thành mâu thuẩn, đối chọi nhau. Nhờ Trung quán mà nhìn cùng một lần cả hai khía cạnh Có và Không, mới nhận chân được rỏ ràng các pháp không phải chơn mà cũng không phải tục, tức chơn, tức tục, dung thông cả hai, không có chướng ngại. Pháp quán này sẽ trừ được vô minh hoặc một cách rốt ráo, cùng tột.

    Ba pháp quán này có tể thực hành bằng nhiều lối:

    Hoặc quán theo thứ lớp, hết Không đến Giả đến Trung. Lỗi quán này gọi là quán ba đế về lối cách lịch, thứ đệ, hay về biệt tướng, hay biệt giáo.

    Hoặc quán theo lối thông tướng. Theo lói sau nay thì quán một đế mà ba đế đều đủ, ba tức là một. Thí dụ: quán pháp Không thời hết thãy đều Không; Giã, Trung cũng đều Không; quán pháp Giã, thời hết thảy đều Giả; Không , Trung cũng đều Giã; quán pháp Trung, thời hết thảy đều Trung; Không; Giả cũng đều Trung.

    Hoặc quán theo lối Viên dung; nghĩa là đầy đủ, Dung nghĩa là dung hòa. Theo pháp qúan này, thì dùng một tâm mà đồng thời tu ba pháp quán, nghĩa là trong một tâm niệm mà ba pháp quán đều đủ và không ngăn ngại nhau. Quán như thế gọi là ‘’nhất tâm tam quán’’, một pháp quán của viên giáo. Nhất tâm tam giáo là pháp quán vi diệu nhất. nhờ pháp quán này mà hành giả trực nhận được trong một lúc nhiều khía cạnhcu tâm ( mà cũng tức là vạn pháp ), rõ ràng như khi chúng ta soi vào gương, mà vừa nhận thấy được ánh sáng của gương (dụ cho không), những bóng phản chiếu trong gương (dụ cho trung). Ba thứ: ánh sáng, bóng phản chiếu và thể tánh của gương đều đầy đủ, đều thể hiện cùng một lúc mà vẫn viên dung, không trở ngại nhau. Cái lý ba đế viên dung là đức tánh sẵn có trong mười pháp giới, không một sự vật, một pháp gì, là không viên dung cả ba đế, cho nên thông thường gọi là: ‘’ Một cảnh ba đê ꦣ146;’.

    Hành giả khi quán thuần thục, sẽ đi đến kết luận sau đây:

    Chân như, Tâm và Vật, quan hệ mật thiết như tánh ướt, nước và sóng. Chân như dụ cho tánh ướt, Tâm dụ cho nước , Vật dụ cho sóng. Ngoài tánh ướt không có nước; ngoài nước không có sóng. Ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật. Chân như, Tâm và Vật không rời nhau, mà cũng không phải là một, mà cũng không khác.

    IV.- QUẢ VỊ TU CHỨNG

    Như trên đã nói, do sự khám phá của ‘’Nhất tâm tam quán’’, Thiên thai tôn có một quan niệm lạc quan về sụ tu chứng. Thật vây, khi đã nhận rõ chân-như nằm ngay trong sụ vật, phàm, thánh không hai, uế độ tức tịnh độ, thì hành giả không cần phải cầu sanh ở một cảnh giới thanh tịnh nào khác mới tu hành được, cũng không cần phải tu hành lâu đời, lâu kiếp mới thành Phật được. Ngay trong hiện tiền, nếu hiểu rõ được nghĩa lý của Trung đạo và khởi công tu luyện thì cũng là Phật rồi. Â깠là ý nghĩa của Thiên thai tôn đã đề xướng trong chủ trương ‘’Lục tức Phật’’.

    1.- ’Lục tức Phật, gồm có: Lý tức Phật, danh dự tức Phật, quán hạnh tức Phật, Tương trợ tức Phật, Phần chứng tức Phật, Cứu kính tức Phật.

    a) Lý tức Phật: Lý tức là nghĩa lý. Hiễu rõ được nghĩa lý của Đức-Phật đã dạy trong câu ‘’ Chúng sanh vốn đủ Phật tánh , cùng các đức Như Lai không hai không khác’’; hay trong câu: ‘’Hết thảy chúng sanh đều là Phật’’; hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.

    b) Danh tự tức Phật: Danh tự ở đây tức là những kinh điển, hay những lời thuyết pháp mà mình đã học hay đã nghe được, và đã hiểu được thông suốt rằng: ‘’Hết thảy các pháp đều là Phật pháp ‘’. Danh tự tức Phật nghĩa là lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật.

    c) Quán hạnh tức Phật: Quán hạnh là quán tưởng. Hạnh là tu hành, hành động; nói một cach tổng quát: quán hạnh tức Phật nghĩa là thực hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.

    d) Tương trợ tức Phật: Chử tương trợ ở đây có nghĩa là trong lúc mình tu hành, tuy chưa có thể thực chứng được lý tánh , nhưng tâm mình đã được yên lặng, nơi lý đã mường tượng như tuồng đã chứng được, nên gọi là tương trơ 촦#7913;c Phật. đến đây tức là Phật thập tín, thuộc về nội phàm (phàm phu trong nọi giáo).

    e) Phần chứng tức Phật: Theo Thiên thai tôn, thì vô minh như là tấm màn dày đặc, gồm có 41 lớp; mỗi khi nhờ công phu tu hành, phá được một lớp, tức là chứng được một phần Trung đạo. Đó là ý nghĩa của phần chứng tức Phật. đến nay tức là đã lên đến các bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẵng giác.

    f) Cứu cánh tức Phật: Cứu cánh tức là đạt đến bực cuối cùng, chứng được chổ mầu nhiệm cực điểm, nghĩa là đến bực Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn. Đến đây tức là đến bực Diệu giác hay Phật.

    chúng ta nên nhớ rằng ‘’Lục tứ Phật’’ này có phân biệt Lý và Sự khác nhau. Về lý thì mới bắt đầu bước lên bực thứ nhất và vị đã đến từng bực thứ sáu, đều bình đẳng như nhau, không hơn không kém, vì thể tánh vẫn là một và mọi chúng sanh đều là Phật. cái Lý này đem lại cho hành giả và sự phấn khởi, trên đường tu hành, không sanh lòng chán nãn, không buồn trách mình chậm thành đạo quả mà thối tâm.

    Nhưng về sự thì vị thứ cao thấp đều có trật tự, kẻ mới tu hành và vị đã chứng quả Phật, không thể như nhau và ngang nhau được. Người tu hành hiểu rõ như thế mới không sanh lòng tăng- thượng-mạn, tự xưng là Phật là Thánh trên bước đường tu hành của mình.

    Về Sự thì chỉ những vị đã đạt đến bực thứ sáu, tức là bực Cứu-cánh, mới đúng danh nghĩa là Phật, vì chỉ có Phật mới có đủ ba Trí, ba Đức.

    2.- Ba trí: Ba trí tức là Nhất-thiết -trí, Đạo-chủng-trí và Nhất-thiết-chủng-trí.

    Nhất-thiết-trí: Trí này rõ biết hết thảy các pháp đều không sanh; biết rỏ danh, tướn các pháp của nội tâm và ngoại cảnh, biết rõ không có ngã và ngã-sở. Trí này các bậc tu theo Tiểu-thừa, sau khi đã chướng quả đều có được. Còn theo Thiên Thai tôn thì do tu Không quán mà có được.

    Đạo-chủng-trí: Trí này rỏ biết nhất thiết pháp đều là Có nhưng có một cách giả dối, do nhân duyên hòa hợp mà thành. Cái trí ở trên (nhất thiết trí) chỉ thông suốt được các pháp không sanh. Chứ không phân biệt được các pháp do duyên khởi. Vì không rỏ được nguyên nhân sanh-khởi, các pháp như thế, nên không thể dùng đạo pháp của các Đức-Phật để phát khởi các giống lành cho hết thảy chúng sanh, và không dám phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh. Vậy phải có Đạo-chủng-trí này mới phá tan được trần-sa-hoặc, có tâm dũng-mãnh để cứu độ chúng sanh. Trí này chỉ có các bậc Bồ Tát mới có được, và do Giả-quán mà thành.

    Nhất-thiết-chủng-trí: Trí này rõ biết được hết thảy pháp đều là trung đạo, biết được đạo pháp của các Đức-Phật và hết thảy nhơn-chủng (chủng-tử khi tạo nhơn) của các loại chúng sanh, phá tan được vô-minh hoặc, thông-suốt thật-tướng của các pháp. Trí này tức là trí của Phật, do thành tựu Trung-quán mà có.

    Chứng được ba trí trên này là nhờ tu ba pháp quán: không, giả, trung. Vì ba pháp quán này có cách-lịch, viên-dung khác nhau, nên khi chứng được ba trí cũng có thứ lớp và không thứ lớp khác nhau. Ba trí có thứ lớp, nghĩa là thành-tựu tuần-tự từ Nhất-thiết-trí, đến Đạo-chủng trí, cuối cùng đến Nhất-thiết-chủng trí.

    Ba trí không thứ lớp tức là ba trí đồng thời thành-tựu, do tu pháp ‘’Nhất tâm viên quán’’.

    Đoạn văn sau đây, trong bộ Ma-Ha-Chỉ quán có thể tóm tắt một cách đầy đủ ý nghĩa của ba trí nói trên:

    ‘’ Trí-huệ Phật soi rõ lý Không, như chổ nhận thấy của bực Tiểu-thừa, gọi là Nhất-thiết trí. Trí huệ Phật soirõ lý Giả, nhưng sự nhận thấy của các bực Bồ Tát, gọi là Đạo-chủng trí. Trí-huệ soi rõ cả lý Không, Giả, Trung, thông suốt thật tướng các pháp, gọi là Nhất-thiết-chủng trí ....Ba trí do một tâm đồng thời tu ba pháp quán mà thành, biết rõ ba cảnh bất-tư-nghị, trí ấy do tu quản mà đặng, nên gọi là trí. Trí ấy cũng tức là Phật-trí.

    3.- Ba đức: Kết quả tu chứng của Thiên-thai tôn, không phải chỉ có được ba Trí mà còn được ba Đức nữa. Chữ ‘’Đức’’ ở đây không phải hiểu theo nghĩa thông-thường ở trên thế-gian, mà là Đức của cảnh-giới Niết-bàn, nghãi là có đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Ba đức ấy là:

    a). Đức Pháp-thân: Pháp tức là khuôn phép đúng với chơn-tướng của vũ-trụ. Các Đức-Phật nhờ nương theo khuông phép ấy mà tu hành thành Phật, thể chứng được chơn-tướng vũ-trụ, cho nên gọi là pháp-thân.

    b). Đức Bát-nhã: Tức là cái sáng-suốt về thỉ-giác của Phật, rõ biết các Pháp không sanh không diệt, vắng-lặng siêu-hình, một mực bình-đẳng, không thêm không bớt.

    c).Đức Giải-thoát: Giải là không bị ràng buộc; Thoát và không vượt ra ngoài, là tự tại vô ngại. Ơí đây muốn nói các Đức-Phật đã lìa bỏ các phiền-não nghiệp-chướng ràng buộc, chứng được cảnh-giới đại tự-tại, Giải-thoát vậy.

    V.- KẾT LUẬN

    Bốn phần trình bày trên này về Thiên-thai tôn (duyên khởi lập tôn, tôn-chỉ và giáo-lý căn-bản, phương pháp tu hành, và quả vị tu chứng) tuy không nói lên được một cách tỉ-mỉ về mọi khía cạnh của tôn, nhưng thiết tưởng cũng đem lại cho quý vị độc giả một ý-niệm tổng-quát về Thiên-thai tôn, một tôn đăbiệt thành-lập ở Trung Hoa và đã lan tràn ảnh-hưởng sang các nước Mông-Cổ, Nhật-Bản, Cao-Ly, Việt-Nam.

    Điểm đặc-sắc của tôn này chính là ở pháp "nhất tâm tam quán". Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân được một cách rõ ràng ba khía cạnh của vũ-trụ vạn-hữu: Vât, Tâm, và Chân-như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước và tánh ướt, mà nước cũng là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba phương-diện có thể quy về một; nếu đứng về một phương-diện mà xét, thì vẫn có thể thấy cả ba. Đó là ý-nghĩa sâu sắc của Thiên-thai tôn mà cũng tức là lý-nghĩa chung của Viên-giáo.

    Mong rằng quý độc-giả sẽ nghiền-ngẫm cho thấu đáo, để nhận rõ được cái lẽ ‘’tam tức nhứt, nhức tức tam’’ ấy. Và như thế tức cũng đi dần vào pháp ‘’nhứt tâm tam quán’’ rồi đó.

  8. #8

    Mặc định

    6. PHÁP HOA TÔN ( THIÊN THAI TÔN)

    --------------------------------------------------------------------------------

    I.-DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

    Thiên thai tôn được khởi xướng từ Bắc tế. Do Ngài Huệ văn Thiền sư dựa vào bộ tríd độ luận mà lập ra pháp ‘’Mhứt tâm quan quán’’. Pháp quán này được truyền cho Ngài Nam Nhạc Huệ Tự Thiền sư. Ngài Huệ Tự lại truyền cho Ngài Trí Giả ở núi Thiên Thai. Ngài Trí Giả là một bậc đại sư , y theo kinh pháp hoa, bổ yúc thêm cho pháp ‘’Mhứt tâm quan quán’’ được hoàn bị và lâop thành một tôn pháp có uy thế ở núi Thiên Thai. Dooó mới có tên là Thiên Thai tôn (hoặc gọi Pháp hoa tôn). vị đại đệ tử của Ngài Trí Giả là Ngài Chương An Đại sư ghi chép lại những lời của Thầy, làm ra nhiều bộ luận có giá trị, để làm cơ sở cho Thiên Thai tôn, như bộ Pháp hao huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma ha chỉ quán. từ Ngài Chương An, giáo nghĩa củ tôn này được hoằng truyền mãi cho các vị Đại đệ tử, thứ tự như sau: Ngài Trí Oai, Ngài Huệ Oai, Ngài Huyền Minh Và Ngài Trạm Nhiên.

    Đến đời Ngài Trạm Nhiên, cũng gọi là kinh Khê tôn giả, giáo-lý và tôn chỉ của Thiên Thai tôn lại được rộng truyền và thêm nhiều thanh thế, vì Ngài Trạm Nhiên là một vị cao tăng, học rộng, biết nhiều, bổ túc thêm các bộ luận căn bản của tôn được hoàn bị, tù Ngài Trạm Nhiên về sau, đời nào cũng có những vị đệ tử có tài đứ rộng truyền giáo nghĩa của tôn này.

    Kinh sách của Thiên Thai tôn rất nhiều, trong số này có thể lựa ra ba bộ sách lớn làm căn bản cho tôn này là: Pháp hoa huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma hoa chỉ quán. ngoài ra có thể thêm năm bộ nhỏ, tuy không quan trọng bằng ba bộ trên, nhưng củng rất cần thiết cho người tu học là: Quán âm huyền nghĩa, Quán âm nghĩa sớ, Kim quang kim huyền nghĩa, Kim cang minh văn cú và Quán kinh sớ.

    II.- TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

    Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, Thiên thai tôn không đi ra ngoài giáo-lý căn bản của đức Phật. Đó là: ‘’Chư pháp duy nhứt tâm’’. Cái công lớn nhất của Thiên thai tôn là làm sáng tỏ giáo-lý trên bằng một phương-pháp diễn dịch rất là minh bạch tinh vi.

    Sao gọi là ‘’Chư pháp duy nhứt tâm’’?. Theo Thiên thai tôn thì ngoại tâm không có các pháp , ngoài các pháp không có tâm. Tâm tức là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là tâm. Hai cái không phải là khác, nhưng cũng không phải là một. Tâm bao trùm tất cả. Tâm tức là chúng sanh, tâm cũng tức là Bồ tát, Phật. sinh tử cũng ở nơi tâm ấy.

    Nhưng làm sao để nhận chân được những phương diện của tâm, mà mới nghe qua hình như là trái ngược, mâu thuẩn với nhau.

    Muốn thấy được toàn diện của tâm, người quan sát phải đứng nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm khác nhau mà nhìn:

    -nếu chúng ta đứng về phương diện truyệt đối mà xét sự vật (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện chơn đế), thì thấy sự vật trong vũ trụ, không có một sự vật gì nó đứng vững một mình và tồn tại, mọi vật không có thể tự riêng biệt, mọi vật đều do nhân duyên mà thành. Cái ‘’có’’ của sự vật là một cái có tạm bợ giả dối, ‘’có ‘’ mà cũng như ‘’không ‘’. Đứng về phương diện tuyệt đối mà xét thì không có một pháp nào là tuyệt đối cả. Cho nên gọi là ‘’không’’.

    Nhưng nếu đứng về phương diện tương đối mà xét (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện tục đế), thì không thể bảo mọi pháp là hoàn toàn ‘’không ‘’ được. Trước mắt chúng tánh, đành rành có đủ mọi vật, và mỗi vật có một giới hạn, một đời sống riêng biệt, sao lại bảo là hoàn toàn ‘’không ‘’? Cho nên đứng về phương diện đối đãi, thì mọi vật không thiếu một vật gì.

    Đứng về phương diện tuyệt đối, thì vạn pháp là ‘’không ‘’?; Đứng về phương diện tương đối thì vạn pháp là ‘’có’’. ‘’ Không’’ và ‘’có ‘’ đấy là hai phương diện của tâm. Lấy phương diện này mà bỏ phương diện kia, hay trái lại lấy phương diện kia mà bỏ phương diện này, đều là thiên chấp, thiếu sót. Một giáo lý hoàn toàn là phải chấp nhận cả hai phương diện ấy. Đó là trung đạo. Phải là trung đạo, mới có thể tuyên bố: ‘’Tâm là nhứt thiết pháp, nhứt thiết pháp là tâm; tâm là sanh tử luân hồi, mà cũng là Niết bàn tịch tịnh’’.

    Như thế tâm có đầy đủ các tánh: thiên và ác, tịnh và bất tịnh, Phật và chúng sanh. Trong cỏi sanh diệt vô thường, vẫn có cái lý bất sanh bất diệt; trong cỏi ta ba, vẫn có cảnh giưói củ Phật. đó là ý nghĩa của câu ‘’ pháp môn tánh cụ’’ nghĩa là bản tánh bao giờ cũng có đủ các pháp, như lành và dữ, tịnh và bất tịnh...Do có đủ các pháp, nên hành động như thế nào thì kết quả như thế ấy. Muốn thành Phật, còn muốn làm chúng sanh thì tạo nhơn chúng sanh. Chúng sanh muốn thành Phật chỉ nhứt trừ ác nghiệp và chuyển lại tu thiện nghiệp

    Và cũng vì có đủ các pháp, nên trong mỗi pháp giới là sáu loại phàm phu (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Tu la, Nhơn, Thiên) và bốn thánh bậc (Thanh văn, Duyên giác, ồ tát và Phật).

    Do chủ trương: ‘’pháp môn tánh cụ’’, và mỗi pháp giới đều có đủ mười pháp giới, nên quan niệm tu hành của Thiên thai tôn cũng lạc quan hơn các tôn phái khác. Ơí trong pháp giới nào cũng dù tối tăm, khổ sở bao nhiêu cũng có thể tu hành và thành tựu được. Như thế không cần từ bỏ một cảnh giới này, cầu sanh vào một cảnh giới khác mới có thể tu hàng và thành Phật.

    III.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

    Phần chủ trương của Thiên thai tôn như đã trình bày ở trên, có phần lạc quan và dễ dàng: trong cảnh giới hiện tại có đủ cảnh giới phàm và thánh muốn thành Phật, Bồ tát thì cứ gieo nhơn (tu hành) thành Phật, Bồ tát. Đó là nói về lý thuyết. Nhưng trong thực hành không phải dễ dang như thế.

    Trước tiên, chúng ta phải nhận định hoàn cảnh thực tế của chúng sanh là một hoàn cảnh bị che phủ rất nhiều mê lầm, hay nói theo thuật ngư nhà Phật thì là ‘’chướng’’ hay ‘’hoặc’’. Dứt trừ được những ’chướng’’ hay ‘’hoặc’’ ấy là công việc chính của người tu hành. Nhưng muốn dứt trừ những tên giặc nguy hiểm ấy, trước tiên phải tìm hiểu tướng trạng, hành tung, phạm vi họat động của chúng ta như thế nào đã. Những chướng ngại, mê lầm hay những hoặc nói trên nhiều vô số, nhưng có thể phân chia làm ba loại, từ cạn đến sâu, từ hẹp đến rộng. Đó là kiến tư hoặc, trần sang hoặc và vô minh hoặc.

    3.- Vô minh hoặc: Chử vô minh nghĩa chung là mê lầm. Mê lầm cũng có niều bậc cạn và sâu, hẹp và rộng, thô thiển và vi tế. Hàng Tiểu-thừa cũng dùng chữ vô minh, mà hàng Đại-thừa cũng dùng chữ vô minh. Nhưng vô minh theo quan niệm của Tiểu-thừa là sự mê lầm che lấp không cho chúng sanh thấy được cái cội gốc của đau khổ, phiền não, nguyên nhân của sanh tử luân hồi. Còn theo nghĩa của Đại-thừa và đặc biệt của Thiên thai tôn là sự mê lầm che lấp chơn lý thật tướng của Trung đạo. Vô minh hoặc ở đây có một nghĩa bao quát rộng rãi như thế, nên cũng gọi là giới ngoại đạo hoặc; và chỉ có hàng Bồ tát mới dứt trừ được , nên cũng gọi là biệt hoặc.

    Đối vị với ba hoặc này, Thiên thai tôn lập ra ba pháp quán là: Không quán, Giả quán và Trung quán.

    Ba Pháp Quán: Ba pháp này nguyên Ngài Tuệ Văn rút từ những phẩm kệ trong bộ Trung luận của Ngài Long Thọ Bồ tát mà lập ra. Phẩm kệ ấy như sau:

    Nhân duyên sở sanh pháp
    Ngã thuyết thức thị không
    Diệc danh vi gỉa danh
    Diệc thị trung đạo nghĩa.
    (các pháp do danh duyên sanh, nên tánh bảo là không, mà cũng là giả danh, đó cũng là nghiã lý của Trung đạo).

    Đối với Thiên thai tôn thì ba pháp quản này là phần nòng cốt trong sự tu hành. Nếu không thực hành ba pháp quán này thì không làm sao thành tựu được . ba pháp quán này, như trên đã nói; Không quán, Giả quán và Trung quán.

    1.- Không quán: Không quán là đứng về phương diện chơn đế mà quan sát sự vật. Theo chơn đế thì các pháp là không, nhưng chúng sanh vì mê lầm không rõ, chấp là có thật. Do đó mà có kiến thức hoặc, và cứ mãi quay cuồng trong sanh tử luân hồi của tam giới. nay phải dùng Không quán mà phá trừ sự mê lầmchấp trước trên, cắt đứt tất cả tình chấp (trừ kiến và tư hoặc) mới thoát khỏi sanh tử luân hồi.

    2.- Giả quán: Giả quán là đứng về phương diện tục đế mà quan sát sự vật. Các Phật tuy không và không sở đắc nhưng đứng về thế tục mà nhìn, thì thấy bản tánh vốn đủ các pháp , muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Giả quán này có thể dứt trừ được trần sang hoặc, vì hành giả biết rằng hoặc tuy nhiều như cát bụi, nhưng đều là giả cả, nên không lo sợ trước số nhiều ấy, và cứ tâm phát nguyện độ sanh khắp tất cả.

    3.- Trung quán: Trung quán là đứng về phương diện trung đế để quan sát các pháp. Trung đế hay đệ nhất nghĩa đế là sự thật đúng đắn nhất, không gì hơn, sự thật trung chánh, tóm thâu bao gồm tất cả sự thật khác. Khi đứng về chơn đế hay tục đế mà quan sát sự vật thì không phải là không đạt đến sự thật; nhưng sự vật ấy mới chỉ được vén lên ở một khía cạnh nay hay một khía cạnh khác mà thôi. Và những sự thật ấy, nếu không có trung quán, thì trở thành mâu thuẩn, đối chọi nhau. Nhờ Trung quán mà nhìn cùng một lần cả hai khía cạnh Có và Không, mới nhận chân được rỏ ràng các pháp không phải chơn mà cũng không phải tục, tức chơn, tức tục, dung thông cả hai, không có chướng ngại. Pháp quán này sẽ trừ được vô minh hoặc một cách rốt ráo, cùng tột.

    Ba pháp quán này có tể thực hành bằng nhiều lối:

    Hoặc quán theo thứ lớp, hết Không đến Giả đến Trung. Lỗi quán này gọi là quán ba đế về lối cách lịch, thứ đệ, hay về biệt tướng, hay biệt giáo.

    Hoặc quán theo lối thông tướng. Theo lói sau nay thì quán một đế mà ba đế đều đủ, ba tức là một. Thí dụ: quán pháp Không thời hết thãy đều Không; Giã, Trung cũng đều Không; quán pháp Giã, thời hết thảy đều Giả; Không , Trung cũng đều Giã; quán pháp Trung, thời hết thảy đều Trung; Không; Giả cũng đều Trung.

    Hoặc quán theo lối Viên dung; nghĩa là đầy đủ, Dung nghĩa là dung hòa. Theo pháp qúan này, thì dùng một tâm mà đồng thời tu ba pháp quán, nghĩa là trong một tâm niệm mà ba pháp quán đều đủ và không ngăn ngại nhau. Quán như thế gọi là ‘’nhất tâm tam quán’’, một pháp quán của viên giáo. Nhất tâm tam giáo là pháp quán vi diệu nhất. nhờ pháp quán này mà hành giả trực nhận được trong một lúc nhiều khía cạnhcu tâm ( mà cũng tức là vạn pháp ), rõ ràng như khi chúng ta soi vào gương, mà vừa nhận thấy được ánh sáng của gương (dụ cho không), những bóng phản chiếu trong gương (dụ cho trung). Ba thứ: ánh sáng, bóng phản chiếu và thể tánh của gương đều đầy đủ, đều thể hiện cùng một lúc mà vẫn viên dung, không trở ngại nhau. Cái lý ba đế viên dung là đức tánh sẵn có trong mười pháp giới, không một sự vật, một pháp gì, là không viên dung cả ba đế, cho nên thông thường gọi là: ‘’ Một cảnh ba đê ꦣ146;’.

    Hành giả khi quán thuần thục, sẽ đi đến kết luận sau đây:

    Chân như, Tâm và Vật, quan hệ mật thiết như tánh ướt, nước và sóng. Chân như dụ cho tánh ướt, Tâm dụ cho nước , Vật dụ cho sóng. Ngoài tánh ướt không có nước; ngoài nước không có sóng. Ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật. Chân như, Tâm và Vật không rời nhau, mà cũng không phải là một, mà cũng không khác.

    IV.- QUẢ VỊ TU CHỨNG

    Như trên đã nói, do sự khám phá của ‘’Nhất tâm tam quán’’, Thiên thai tôn có một quan niệm lạc quan về sụ tu chứng. Thật vây, khi đã nhận rõ chân-như nằm ngay trong sụ vật, phàm, thánh không hai, uế độ tức tịnh độ, thì hành giả không cần phải cầu sanh ở một cảnh giới thanh tịnh nào khác mới tu hành được, cũng không cần phải tu hành lâu đời, lâu kiếp mới thành Phật được. Ngay trong hiện tiền, nếu hiểu rõ được nghĩa lý của Trung đạo và khởi công tu luyện thì cũng là Phật rồi. Â깠là ý nghĩa của Thiên thai tôn đã đề xướng trong chủ trương ‘’Lục tức Phật’’.

    1.- ’Lục tức Phật, gồm có: Lý tức Phật, danh dự tức Phật, quán hạnh tức Phật, Tương trợ tức Phật, Phần chứng tức Phật, Cứu kính tức Phật.

    a) Lý tức Phật: Lý tức là nghĩa lý. Hiễu rõ được nghĩa lý của Đức-Phật đã dạy trong câu ‘’ Chúng sanh vốn đủ Phật tánh , cùng các đức Như Lai không hai không khác’’; hay trong câu: ‘’Hết thảy chúng sanh đều là Phật’’; hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.

    b) Danh tự tức Phật: Danh tự ở đây tức là những kinh điển, hay những lời thuyết pháp mà mình đã học hay đã nghe được, và đã hiểu được thông suốt rằng: ‘’Hết thảy các pháp đều là Phật pháp ‘’. Danh tự tức Phật nghĩa là lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật.

    c) Quán hạnh tức Phật: Quán hạnh là quán tưởng. Hạnh là tu hành, hành động; nói một cach tổng quát: quán hạnh tức Phật nghĩa là thực hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.

    d) Tương trợ tức Phật: Chử tương trợ ở đây có nghĩa là trong lúc mình tu hành, tuy chưa có thể thực chứng được lý tánh , nhưng tâm mình đã được yên lặng, nơi lý đã mường tượng như tuồng đã chứng được, nên gọi là tương trơ 촦#7913;c Phật. đến đây tức là Phật thập tín, thuộc về nội phàm (phàm phu trong nọi giáo).

    e) Phần chứng tức Phật: Theo Thiên thai tôn, thì vô minh như là tấm màn dày đặc, gồm có 41 lớp; mỗi khi nhờ công phu tu hành, phá được một lớp, tức là chứng được một phần Trung đạo. Đó là ý nghĩa của phần chứng tức Phật. đến nay tức là đã lên đến các bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẵng giác.

    f) Cứu cánh tức Phật: Cứu cánh tức là đạt đến bực cuối cùng, chứng được chổ mầu nhiệm cực điểm, nghĩa là đến bực Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn. Đến đây tức là đến bực Diệu giác hay Phật.

    chúng ta nên nhớ rằng ‘’Lục tứ Phật’’ này có phân biệt Lý và Sự khác nhau. Về lý thì mới bắt đầu bước lên bực thứ nhất và vị đã đến từng bực thứ sáu, đều bình đẳng như nhau, không hơn không kém, vì thể tánh vẫn là một và mọi chúng sanh đều là Phật. cái Lý này đem lại cho hành giả và sự phấn khởi, trên đường tu hành, không sanh lòng chán nãn, không buồn trách mình chậm thành đạo quả mà thối tâm.

    Nhưng về sự thì vị thứ cao thấp đều có trật tự, kẻ mới tu hành và vị đã chứng quả Phật, không thể như nhau và ngang nhau được. Người tu hành hiểu rõ như thế mới không sanh lòng tăng- thượng-mạn, tự xưng là Phật là Thánh trên bước đường tu hành của mình.

    Về Sự thì chỉ những vị đã đạt đến bực thứ sáu, tức là bực Cứu-cánh, mới đúng danh nghĩa là Phật, vì chỉ có Phật mới có đủ ba Trí, ba Đức.

    2.- Ba trí: Ba trí tức là Nhất-thiết -trí, Đạo-chủng-trí và Nhất-thiết-chủng-trí.

    Nhất-thiết-trí: Trí này rõ biết hết thảy các pháp đều không sanh; biết rỏ danh, tướn các pháp của nội tâm và ngoại cảnh, biết rõ không có ngã và ngã-sở. Trí này các bậc tu theo Tiểu-thừa, sau khi đã chướng quả đều có được. Còn theo Thiên Thai tôn thì do tu Không quán mà có được.

    Đạo-chủng-trí: Trí này rỏ biết nhất thiết pháp đều là Có nhưng có một cách giả dối, do nhân duyên hòa hợp mà thành. Cái trí ở trên (nhất thiết trí) chỉ thông suốt được các pháp không sanh. Chứ không phân biệt được các pháp do duyên khởi. Vì không rỏ được nguyên nhân sanh-khởi, các pháp như thế, nên không thể dùng đạo pháp của các Đức-Phật để phát khởi các giống lành cho hết thảy chúng sanh, và không dám phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh. Vậy phải có Đạo-chủng-trí này mới phá tan được trần-sa-hoặc, có tâm dũng-mãnh để cứu độ chúng sanh. Trí này chỉ có các bậc Bồ Tát mới có được, và do Giả-quán mà thành.

    Nhất-thiết-chủng-trí: Trí này rõ biết được hết thảy pháp đều là trung đạo, biết được đạo pháp của các Đức-Phật và hết thảy nhơn-chủng (chủng-tử khi tạo nhơn) của các loại chúng sanh, phá tan được vô-minh hoặc, thông-suốt thật-tướng của các pháp. Trí này tức là trí của Phật, do thành tựu Trung-quán mà có.

    Chứng được ba trí trên này là nhờ tu ba pháp quán: không, giả, trung. Vì ba pháp quán này có cách-lịch, viên-dung khác nhau, nên khi chứng được ba trí cũng có thứ lớp và không thứ lớp khác nhau. Ba trí có thứ lớp, nghĩa là thành-tựu tuần-tự từ Nhất-thiết-trí, đến Đạo-chủng trí, cuối cùng đến Nhất-thiết-chủng trí.

    Ba trí không thứ lớp tức là ba trí đồng thời thành-tựu, do tu pháp ‘’Nhất tâm viên quán’’.

    Đoạn văn sau đây, trong bộ Ma-Ha-Chỉ quán có thể tóm tắt một cách đầy đủ ý nghĩa của ba trí nói trên:

    ‘’ Trí-huệ Phật soi rõ lý Không, như chổ nhận thấy của bực Tiểu-thừa, gọi là Nhất-thiết trí. Trí huệ Phật soirõ lý Giả, nhưng sự nhận thấy của các bực Bồ Tát, gọi là Đạo-chủng trí. Trí-huệ soi rõ cả lý Không, Giả, Trung, thông suốt thật tướng các pháp, gọi là Nhất-thiết-chủng trí ....Ba trí do một tâm đồng thời tu ba pháp quán mà thành, biết rõ ba cảnh bất-tư-nghị, trí ấy do tu quản mà đặng, nên gọi là trí. Trí ấy cũng tức là Phật-trí.

    3.- Ba đức: Kết quả tu chứng của Thiên-thai tôn, không phải chỉ có được ba Trí mà còn được ba Đức nữa. Chữ ‘’Đức’’ ở đây không phải hiểu theo nghĩa thông-thường ở trên thế-gian, mà là Đức của cảnh-giới Niết-bàn, nghãi là có đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Ba đức ấy là:

    a). Đức Pháp-thân: Pháp tức là khuôn phép đúng với chơn-tướng của vũ-trụ. Các Đức-Phật nhờ nương theo khuông phép ấy mà tu hành thành Phật, thể chứng được chơn-tướng vũ-trụ, cho nên gọi là pháp-thân.

    b). Đức Bát-nhã: Tức là cái sáng-suốt về thỉ-giác của Phật, rõ biết các Pháp không sanh không diệt, vắng-lặng siêu-hình, một mực bình-đẳng, không thêm không bớt.

    c).Đức Giải-thoát: Giải là không bị ràng buộc; Thoát và không vượt ra ngoài, là tự tại vô ngại. Ơí đây muốn nói các Đức-Phật đã lìa bỏ các phiền-não nghiệp-chướng ràng buộc, chứng được cảnh-giới đại tự-tại, Giải-thoát vậy.

    V.- KẾT LUẬN

    Bốn phần trình bày trên này về Thiên-thai tôn (duyên khởi lập tôn, tôn-chỉ và giáo-lý căn-bản, phương pháp tu hành, và quả vị tu chứng) tuy không nói lên được một cách tỉ-mỉ về mọi khía cạnh của tôn, nhưng thiết tưởng cũng đem lại cho quý vị độc giả một ý-niệm tổng-quát về Thiên-thai tôn, một tôn đăbiệt thành-lập ở Trung Hoa và đã lan tràn ảnh-hưởng sang các nước Mông-Cổ, Nhật-Bản, Cao-Ly, Việt-Nam.

    Điểm đặc-sắc của tôn này chính là ở pháp "nhất tâm tam quán". Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân được một cách rõ ràng ba khía cạnh của vũ-trụ vạn-hữu: Vât, Tâm, và Chân-như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước và tánh ướt, mà nước cũng là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba phương-diện có thể quy về một; nếu đứng về một phương-diện mà xét, thì vẫn có thể thấy cả ba. Đó là ý-nghĩa sâu sắc của Thiên-thai tôn mà cũng tức là lý-nghĩa chung của Viên-giáo.

    Mong rằng quý độc-giả sẽ nghiền-ngẫm cho thấu đáo, để nhận rõ được cái lẽ ‘’tam tức nhứt, nhức tức tam’’ ấy. Và như thế tức cũng đi dần vào pháp ‘’nhứt tâm tam quán’’ rồi đó.

  9. #9

    Mặc định

    7.- HOA-NGHIÊM TÔN ( HIỀN-THỦ TÔN)


    --------------------------------------------------------------------------------

    I.- DUYÊN-KHỞI LẬP TÔN

    Tôn này thuộc về Đại-thừa, căn cứ theo giáo-nghĩa trong kimh Hoa-nghiêm là một bộ kinh cao nhất mà Đức-Phật đã nói ra, nên gọi là Hoa-nghiêm tôn.

    Người sáng lập ra tôn này là Ngài Đỗ-thuận một vị Hòa-thượng đời Đường. Ngài đã thâu góp ý-nghĩa mầu-nhiệm của kinh Hoa-nghiêm, làm ra ba bộ "Pháp-giới quán".

    Người kế vị Ngài Đỗ-thuận là Ngài Trí-nghiễm, ở chùa Trí-tướng. Ngài Trí-nghiễm đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị để giải bày nghĩa lý của tôn này như các bộ: ‘’Sưu huyền ký’’, ‘’thập huyền môn’’, ’’Ngũ thập yếu vấn đáp’’.

    Vị thừa kế Ngài Trí- nghiễm và đã có nhiều công nghiệp lớn đối với Tôn này là Ngài Pháp tạng, cũng gọi là Hiền-Thủ quốc sư. Ngài đã làm ra bộ ‘’Thám huyền ký’’ và nhiều chương số khác, khiến cho Hoa nghiêm tôn rất được thạnh-hành và phát triển trong đời Ngài. Do đó, Tôn này cũng thường gọi là Hiền thủ tôn. Sau khi Ngài Hiền thủ qua đời được ít lâu, kinh Hoa nghiêm được dịch lại bằng tiếng Hán văn bộ mới, Ngài Trừng quán, tức là Thanh lương quốc sư, dựa theo ý nghĩa bộ Hoa nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ ‘’Hoa nghiêm số sao’’, bày giải nghĩa lý rộng rãi, sâu xa mầu nhiệm của kinh Hoa nghiêm. Vì thế, Hoa nghiêm tôn lại càng được người đời sùng mộ, nhất là trong giới thượng lưu trí thức nước Tàu.

    II.-TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

    Trong các bộ kinh của Đức Phật, kinh Hoa-Nghiêm là bộ kinh có ý nghĩa cao siêu, mầu nhiệm nhất. Chỉ những vị đại đệ tử, căn cơ minh mẫn, lanh lẹ mới có thể hiểu thấu được. Do đó, Hoa-Nghiêm tôn chỉ thích hợp với những ai đã có một căn bản Phật pháp vững chắc và đã quen với lối suy luận trừu tượng của giáo lý nhà Phật. Đem một giáo lý uyên thâm của Phật pháp ra trình bày trong một tập sách phổ thông như thế này, thật khó mà nói cho rõ ràng, đầy đủ nghĩa lý của Hoa-Nghiêm tôn. Tuy thế, để có một bộ sách gồm đầy đủ mười tôn phái của Phật giáo Trung Hoa, và để quý độc giả có đủ tài liệu để so sánh sự sai khác của mỗi tôn, chúng tôi không thể không nói đến Hoa-Nghiêm tôn trong khi điểm qua tôn chỉ và giáo lý căn bản của mười tôn. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách giản dị, gọn gàng về giáo lý đặc sắc của tôn này, và cũng mong mõi quý độc giả theo dõi một cách chăm chú sự trình bày này, ngõ hầu vấn đề được sáng tỏ.

    Tôn này được gọi là ‘’Viên giáo’’, nghĩa là giáo lý Viên dung hoàn toàn đầy đủ.

    Tôn của chủ trương ‘’pháp giới duyên khởi’’ , nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự vật trong vũ trụ bao la, là một vật nhỏ như hạt bụi, cho đến một vật lớn như trăng sao, đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp không cùng tột, dung thông nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có. Mỗi pháp, trong vũ trụ không thể tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà tự có được. Cái này có là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái này. Cái này và cái kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không cùng tột, cho nên gọi là ‘’vô tận duyên khởi’’ hay ‘’trùng trùng duyên khởi’’.

    Vì là trùng trùng duyên nhau, nên một là hết thảy, hết thảy là một, mọi sự vật trong vũ trụ đều dung thông nhau. Và do đó, trong kinh Hoa-Nghiêm đã nêu lên pháp môn ‘’sự sự vô ngại pháp giới’’.

    Để hiểu rõ nghĩa lý của pháp môn này, chúng tạnh hãy đi theo pháp quy nạp gồm có 4 giai đoạn sau đây, cũng gọi là 4 pháp giới:

    1.- Sự pháp giới: Sự là nói về các hình tướng sai biệt các pháp trong vũ trụ, trong vũ trụ, các pháp đều có giới hạn rõ ràng như nước lạnh, nước đá, nước sôi, hới nước, đều có tướng trạng khác nhau. Đó là đứng về sự mà quan sát vũ trụ vạn hữu hay nói theo danh từ đạo Phật là "Sự pháp-giới ".

    2.- Lý pháp-giới: Lý là nói về các phần bên trong, vô hình của sự vật. Đây tức là lý tánh bìmh đẳng, chổ nương tựa cho tất cả sự tướng; lý dung thông cho khắp tất cả, nước lạnh, nước đá, hới nước, tuy tướng trạng khác nhau, nhưng thể tánh vẩn là một (nghĩa là gồm H2+O). vũ trụ vạn hữu không chỉ có phần sự tương mà còn phần lý tánh nữa. Đó tức là "Lý pháp-giới".

    3.- Lý sự vô ngại pháp-giới: Như trên chúng tạnh đã thấy, mỗi pháp đều có Sự và Lý do nơi Sự mà rõ, sự nương vào Lý mà thành. Lý và Sự dung thông, như nước tức là sóng, sóng tức là nước. Lý, Sự trong pháp-giới cũng dung thông, vô ngại. Đó là lý nghĩa của "Lý, Sự vô ngại pháp-giới ".

    4.- Sự vô ngại pháp-giới: Trong pháp-giới, có hằng hà sang sôsự vật, hình tướng tuy khác nhau, giới hạn tuy bất đồng nhưng lý tánh dung thông bình đẳng, không có phân chia ngăn cách. Nhờ lý, mà sự sự được dung thông vô ngại. Như các vật dụng bằng điện, nào quạt điện, đèn điện, máy lạnh, ủi điện, lò xo .v.v...tuy mỗi vật đều có hình dáng, công dụng sai, nhưng đều thông nhau qua luồng điện chi phối lảnh nhau, ảnh hưởng qua lại. Một thí dụ khác: nhiều hồ chứa nước, hình dáng, rộng hẹp khác nhau, nhưng ăn thông với nhau bằng những ống nước, do đó sự đày vơi, nhớp sạch của một hồ này đều liên quan mật thiết đến tất cả các hồ khác.

    Trên đây là những thí dụ vô cùng thô hiển, cốt để gợi lên một ý niệm về "Sự sự vô ngại Pháp-giới " thôi, chứ không đúng hẳn. Trong hai thí dụ trên, chúng ta thấy những vật dụng điện khí hay những hồ nước để hình cung cho Sự Sự trong pháp giới; và lấy những luồng điện hay luồng nước để hình dung cho Lý của pháp-giới; thí dụ như thế, người tạnh sẽ tưởng rằng Sự và Lý là hai loại khác nhau, có thể phân tách ra được. Nhưng thật ra Lý và Sự không thể phân tách ra được: trong Sự có Lý, trong Lý có Sự. Sự ,Lý chẳng qua là hai phương diên của một vấn đề vô cùng tế nhị, mà lý trí của chúng ta đã phân tách ra để tạm nghiên cứu đó thôi.

    Để tóm tắt ý nghĩa của 4 pháp-giới này, chúng tôi xin nói một cách giản dị như sau:

    Pháp-giới gồm có triệu sự vật khác nhau, như A, B, C ...(Sự pháp-giới ).

    Trong mỗi sự vật đều có lý tánh bình đẳng, mà chúng tôi hình dung là L (lý pháp-giới).

    Lý tánh bình đẳng ấy dung thông với tất cả mọi sự vật, như A=L; B=L; C =L. (Lý, Sự vô ngại pháp-giới).

    Nhờ lý tánh dung thông với mọi sự vật, mà mọi sự vật trong vũ trụ trở thành dung thông nhau, vô ngại đối với nhau, như A =C ...(Sự sự vô ngại pháp-giới).

    SÁU TƯỚNG VÀ 10 LÝ HUYỀN DIỆU CỦA CÁC PHÁP

    Trong pháp-giới, sở dỉ Sự sự được vô ngại, dung thông là đều do các pháp có đủ ‘’sáu tướng’’ và "mười lý huyền diệu" sau đây:

    SÁU TƯỚNG VIÊN DUNG

    Dựa theo bộ kinh Hoa-Nghiêm, Ngài Bồ Tát Thế Thân đã làm ra bộ "Thập địa luận" để giải thích nghĩa lý của sáu tướng (Lục tướng). Sáu tướng này được gọi là Viên-dung, vì nó có những đức tính viên mản, dung-thông vô-ngại. Sáu tướng của sự vật trong vũ trụ ấy là:

    1.- Tổng tướng: tổng tướng là cái tướng bao trùm tất cả, tổng cộng tất cả các tướng sai biệt. Như khi tạnh nói đến cái nhà, là gồm tất cả cột-kèo, tường mái, đá, gạch ...vậy cái nhà tức là tổng tướng.

    2.- Biệt tướng: biệt tướng là nói các tướng riêng biệt; nhiều biệt tướng cộng lại thành tổng tướng. Như các biệt tướng trong cái nhà là: cột, kèo, mái, tường, gạch ...Đã có Tổng tức là phải có Biệt; nếu không có biệt thì cũng không thể lấy cái gì mà gọi là tổng.

    3.- Đồng tướng: Đồng tướng là cái tướng chung cùng, dung hòa với nhau, không ngăn ngại nhau, không trái chống nhau. Như kèo, cột, tường, mái, tuy khác nhau, nhưng không ngăn ngại nhau mà vẩn đồng hướng chung về một cái nhà.

    4.- Dị-tướng: Dị-tướng là các tướng riêng biệt, cái này, cái kia, hình tướng không giống nhau, mặc dù vẫn cùng nhau dung hòa để gánh vác một nhiệm vụ chung; như cột, kèo, tường , mái trong một cái nhà, không cái nào giống cái nào, dị tướng không phải là biệt tướng, cũng như đồng tướng không phải là tổng tướng.

    Như một trăm đồng bạc là tổng tướng. Tổng tướng này là tổng cộng của các tờ bạc: một tờ 50 đồng, hai tờ 20 đồng, một tờ 10 đồng (50+40+10=100). Những tờ giấy bạc 50, 20,10 là biệt tướng. Những tờ giáy bạc này to, nhỏ, hình ảnh, màu sắc khác nhau, là dị tướng. Mặc dù hình tướng khác nhau, nhưng cũng là những tờ bạc cả, tánh chất "bạc" là đồng tướng.

    5.- Thành tướng: Thành-tướng là tướng thành tựu. Sự chung cùng đễ thành ra một cái gì, đó là thành-tướng. Như cái nhà là sự thành tựu của các cái cột, kèo, tường, mái ...vậy cái nhà, đứng về phương diện công dụng đễ ở, là thành tướng của các cột, kèo, tường, mái...nếu lấy thí dụ 100 đồng, thì số tiền này là thành tướng của những tờ 50 đồng, 20 đồng và 10 đồng. Nhờ sự kết họp của những số tiền này mà có được số bạc 100 đễ mau được một vật gì đó, như thế là thành tướng.

    6.- Hoại tướng: Hoại tướng là cái tướng độc lập của các pháp. Như cột, kèo, tường, mái trong khi hợp tác với nhau, đễ thành cái nhà, thì vẫn giữ cái địa vị riêng của nó là cột, kèo, tường, mái chứ không phải vì thành cái nhà mà chúng nó không con là cột, kèo, tường, mái nữa. Cũng như trong khi hợp thành số bạc 100 đồng, các tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng vẫn là những tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng vẫw giữ cái giá trị riêng của mổi thứ.

    Sáu tướng này phân ra làm ba đối, gọi là "Tam đối lục tướng ".

    -Tổng, Biệt cùng đối nhau thuộc về Thể.

    - Đồng, Dị cùng đối nhau thuộc về Tướng.

    - Thành, Hoại cùng đối nhau thuộc về Dụng.

    Nếu chúng tạnh lấy con sư tử bằng vàng làm ví dụ thì toàn thể thanh hình của nó là tổng tướng; mỗi bộ phận riêng lẽ như tai, mắt, mũi lưỡi là biệt tướng; chất vàng của nó là đồng tướng; mỗi bộ phận có hình dáng riêng khác là dị tướng; mỗi bộ phận cộng tác hòa hiệp với nhau để hìmh thành một con sư tử là Thành tướng; nhưng mỗi bộ phận đều có phạm vi riêng biệt, tự lập của nó là Hoại Tướng.

    Khi chúng tạnh nói đến Tổng, Đồng, Thành là nói về phương diện toàn thể, Viên-dung bình đẳng của bản thể vũ trụ; khi chúng ta nói đến Biệt, Dị, Hoại là nói về phương diện hiện tượng giới, trong ấy mỗi mỗi sự vật đều phơi bày riêng rẽ lẽ khác nhau. Theo trong kinh Hoa-Nghiêm thì Tổng, Đồng, Thành, Tướng thuộc về môn viên dung; còn Biệt, Dị, Hoại, Tướng thuộc về môn hàng bố (nghĩa là hiễn lộ, phơi bày la liệt). Một bên là bình đẳng, một bên là sai biệt. Nhưng bình đẳng và sai biệt là tướngtưc, tương nhập, viên dung không. Tương tức nghĩa là cái này tức cái kia, như nước tức là sóng; tương nhập nghĩa là ăn nhập với nhau, dung thông nhau, như mặt gương này và mặt gương kia phản chiê鵠vào nhua không cùng mà không cản trở gì nhau. Vì tương ức, tương nhập, nên lìa tổng tướng thời không biệt tướng, lìa đồng tướng thì không dị tướng, lìa thành tướng thì không hoại tướng. Tóm lại, viên dung không lìa hàng bố, hàng bố không lìa viên dung, viên dung tức hàng bố hàng bố tức là viên dung. Hết tháy các pháp đều đủ 6 tướng ấy, không một pháp nào là không viên dung tự tại, tức, nhập không ngại. Vì thế cho nên gọi là 6 tướng viên dung. Đấy là ý-nghĩa huyền diệu cúa Hoa-Nghiêm nhất thừa viên giáo.

    MƯỜI LÝ HUYỀN DIỆU CỦA CÁC PHÁP HAY MƯỜI HUYỀN MÔN

    Ngoài sáu tướng nói trên, các pháp còn có mười lý huyền diệu, hay mười đức tính huyền diệu, mà bộ kinh Hoa-Nghiêm sớ sao và bộ Tham Huyền Ký của Ngài Hiền Thủ có giải thích như sau:

    1.- Môn ‘’ đồng thời đầy đủ các pháp tương ứng’’ (đồng thời cụ túc tương ương)

    nghĩa là trong mỗi một pháp nào đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Như một giọt nước có đủ khí vị của muôn ngàn,sông, biển.

    2.- Môn ‘’ rộng và hẹp tụ tại không ngại ‘’ (quảng hiệp tự tại vô ngại): Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn, vật gọi là nhỏ chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mải lông, có thể chứa được thái hư mà còn rộng một vật như thái hư , có thể nằm gọn trong đầu mải lông, mà không chật. Đây muốn nói rằng, trong pháp giới, sự sự đã vô ngại, dung thông, thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông, không có biên giới nhất định giữa một vật này với một vật khác: Một vật nhỏ như vi trần có liên quan đến vũ trụ; một vật lớn như vũ trụ có liên quan đến một vi thành. Cho nên kinh Hoa-Nghiêm có chép: ‘’trong một mảy trần, hết thảy cỏi nước rộng rải an tụ’’.để giải thích ý nghĩa này, kinh thường dạy: "Sự Lyw mà được dung thông, tự tại không ngăn ngại".

    3.- Môn "một và nhiều dung nhau không đồng" (nhất, đa tương dung bất đồng): Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá hoại cái tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật. Như muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng trong một gian nhà, ngọn này ngọn kia lẫn hiệp với nhau, nhưng ngọn nào vẫn có ánh sáng riêng của nó

    4.- Môn "các pháp tương tức tụ tại" (chư pháp tương tức tự tại): Nghĩa là các pháp cùng dung, cùng tức, không ngăn ngại nhau. Như một pháp khi bỏ mình đồng với các pháp khác, thì toàn thể đều nơi pháp kia; nếu một pháp nhiếp thâu các pháp đồng về mình, thì hết thảy các pháp kia lại vè một nơi pháp thâu nhiếp ấy. Cũng ví như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.

    5.- Môn "ẩn mật tỏ rõ đều thành" (bí mật ẩn hiện câu thành): Nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiển thì phương diện kia ẩn; khi phương diện kia ẩn , thì phương diện này hiển; trong ẩn có hiển; hiển ẩn đắp đổi nhau mà thành tựu. Sự ẩn hiển cũng không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngăn ngại, chống đối nhau. Như một pho tượng bằng vàng, khi chú ý đến vàng thì không thấy cái đẹp của pho tượng, khi chú ý đến pho tượng thì không thấy vàng. Tóm lại, khi cái đẹp hiển thì vàng ẩn, khi vàng hiển thì cái đẹp ẩn.

    6.- Môn "vi tế dung nhau, an lập" (vi tế tương dung an lập): Vi tế nghĩa là nhỏ nhiệm mà rõ ràng. Môỵ vật nhỏ nhiệm này mà bao trùm một vật nhỏ nhiệm khác, mà không cản trở nhau, không phá hoại cá tướng của nhau. Như một hạt nước bao gồm nhiều hạt nước, mỗi hạt nước gồn nhiều hóa chất, mỗi hóa chất gồm nhiều nguyên tử, mỗi nguyên tử gồm nhiều điện tử, giữa những điện tư có cái nhân: Mỗi thứ đều dung nhau và an lập trong nhau.

    7.- Môn "cảnh giới tướng võng nhơn-đà-la" (Nhơn đà la võng cãnh giới): Nhơn đà la tức là phiên âm chử Indra là cỏi trời Đế Thích. Theo Bà la môn , thì trên cỏi trời Nhơn đà la , có cái man lưới bằng bửu châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này hạy khác phản chiếu nhau, chói sáng nhau, lớp lớp không cùng tận. Môn này cũng như vậy: trong mỗi pháp có nhiều pháp khác, trong nhiều pháp khác lại có nhiều pháp nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng tận. Kinh Hoa-Nghiêm có chép; "Hết thảy thếgiới đều như màn lưới Nhơn đà la".

    8.- Môn ""nhơn sự rõ pháp, sanh trí hiểu biết" ( pháp sự hiểu pháp sanh giải): Nghĩa là nhờ sự mà hiểu được lý; nhưng khi lý đã rõ, thì lý lại lan rộng làm cho chụng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Đây muốn nói trí hiểu biết lan rộng dung thông qua sự vật, như vết dầu lan trên mặt nước, chỉ một tia lửa bừng cháy rất xa.

    9.- Môn "mười đời cách pháp dị thành" (thập thế cách pháp dị thành): Đây muốn nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một cách dễ dàng. Tại sao chia thời gian thành mười đời mà không chia làm ba đời? Đánh lẽ chỉ nói quá khứ, hiện tại và tướng lai là đủ. Nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi, trong kinh chia mười đời như sau; trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện tại và tướng lai; trong hiện tại cũng gồm như thế và trong tướng lai cũng vậy: ba đời mỗi đời chia nhỏ thành chín. Nhưng nếu chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau thì cũng không có được ý niệm về thời gian. Vì thế cho nên về chín niệm ấy, còn cộng thêm một niệm tổng (tổng quát) nữa, thành ra mười.

    10.- Môn "chủ và ạn nương nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn" (chủ, bạn, viên minh cụ đức): Như chúng ta đã thấy ở các phần trên: các pháp nương nhau mà thành. Nếu ta lấy một pháp làm chủ, thì các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức, lớp lớp không cùng tận, như mặt trăng sáng trên không, chung quanh đoanh vây những vì sao nhấp nháy, rồi trên mặt đất bao nhiêu sông ngòi, ao hồ lại phản chiếu ánh sáng trăng sao ở trên không, làm cho cảnh vật ở khắp nơi rạng rỡ.

    Tóm lại, mười lý huyền diệu này cộng với sáu tướng nói trên của các pháp là nguyên nhân giải thích vì sao "sự sự được vô ngại" trong pháp giới, và cách nghĩa một cach đầy đủ giáo lý "trùng trùng duyên khởi" mà Hoa-Nghiêm tôn chủ trương.

    III.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

    Giáo lý căn bản của Hoa-Nghiêm tôn đã sâu xa mầu nhiệm, thì phương pháp tu hành tất nhiên củng phải cao siêu, mầu nhiệm mới đưa hành-giả đến chổ cứu cánh tu hành. Tựu trung, trong các phương pháp tu hành ấy, ba pháp quán về pháp giớ sau đâyđược xem là các pháp môn trọng yếu và có hiệu quả rốt ráo nhất:

    1.-Chơn không quán:"Chơn" có nghĩa là chơn thật, không hư vọng; "không "

    nghĩa là không bị sắc tướng chi phối, ngăn ngại.

    Pháp quá này dựa trên"lý pháp giới" mà lập ra. Mục đích của pháp quán này là dứt vọng tình, rõ chơn tánh , khiến cho hành-giả thấy sắc mà không bị sắc ngăn ngại và nhận được rằng toàn thể là chơn không; thấy không , mà nhận được rằng đó không pphải là không hẳn ( đoạn không ) mà toàn là chơn tánh. Tóm lại, pháp quán này nhìn thấuqua được sự đói đãigiã dối của cái không và cái có, để nhận rõ được cái "lý của vũ trụ (lý pháp giới) là chơn không " (đã giãi ở trên)

    2.-Lý sự vô ngại quán: Pháp quán này y theo " lý sự vô ngại pháp giới" mà lập ra." Lý" là thể tánh thanh tịnh sáng suốt; " Sự" là hình tướng phận hạn của các pháp. Lý, Sự vô ngại, như trong phần giáo lý căn bản đã có nói ở trước, nghĩa là Lý và Sự không phải hai loại chống nhau, ngăn cách nhau, mà trái lại, dung thông nhau. Lý, Sự thấu suốt, viên dung không ngại nên gọi là " Lý, Sự vô ngại quán".

    Theo pháp quán này, hành giả quan sát cái sắc tướng của một mảy trần mà khám phá ra được cái lý của vũ trụ. Tức là qua cái tướng hư giả của sự vật mà thấy được cái tánh sáng suốt của nhứt chơn.

    3. Châu biến hàm dung quán: Pháp quán này dựa trên cái lý " Sự sự vô ngại pháp giới" mà lập ra. " Châu biến" mà lan ra, biến hóa cùng khắp tất cả; " Hàm dung" là bao gồm, thâu nhiếp hết, dung thông tất cả. " Châu biến hàm dung quán" là pháp quán nhằm mục đích nhận chân được rằng: cái pháp một và nhiều không ngại nhau, lớn và nhỏ trùng nhau, dung nhiếp lẫn nhau, lớp lớp không cùng tột, ẩn hiện tự tại, đồng thời tương tức tương nhập, thâu nhiếp, dung thông nhau cho đến vô cùng vô tận, trùm chứa cả vũ trụ bao la.

    Theo pháp quán này, hành giả quan sát cái Lý nơi một Sự, rồi do một Sự ấy mà mỗi mỗi Sự khác cũng đều thấy rõ. Hành giả lại quán mọi Sự tức nơi Lý, rồi theo Lý ấy mà mỗi mỗi Sự đều dung thông.

    IV. QUẢ VỊ TU CHỨNG

    Theo Hoa Nghiêm tôn, giải-thoát vẫn không phá hoại thế-gian tướng; nói một cách khác, không phải phủ nhận tế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Ngay trong thế gian này, nếu hành giả phân biệt được chân vọng, khử trừ điên đảo, khiến cho tâm thanh tịnh để cùng thật tại nhất trí: Đó là giải thoát.

    Quan niệm về giải thoát của Hoa-Nghiêm tôn này không khác với Thiên Thai tôn, nghĩa là đều chủ trương một cách lạc quan rằng chúng sanh và Phật không sai cách: không nhận chân được lý trùng trùng duyên khởi, sự sự vô ngại pháp giới, là chúng sanh; giác ngộ được chân lý trên là Phật.

    V.- KẾT LUẬN

    Hoa-Nghiêm tôn vì y theo bộ kinh cao nhất của Phật mà thành lập, nên được liệt vào hạng viên giáo, nghĩa là giáo lý hoàn toàn viên mãn. Và cũng vì là viên giáo cho nên phải cần một căn trí thông lợi mới tu theo được.

    Vậy hành giả, trước khi muốn lựa con đường này để tiến bước cần phải cân nhắc cho kỹ lưỡng, nhất là cần phải tìm nghiên cứu thêm cho thấu đáo. Nếu thấy nó khó hiểu quá cao đối với căn cơ của mình, thì tốt hơn, nên tìm một con đường khác, bởi vì con đường nào, cuối cùng cũng đưa đến giải thoát cả.

    Nhưng nếu quý vị nào nhận thấy căn cơ của mình có thể theo kịp giáo lý huyền diệu của tôn này,thì đó cũng là một diễm phúc lớn. Trí tuệ quý vị sẽ nếm được hương vị thanh cao nhất của đạo nhiệm mầu, và sự tu hành của quý vị cũng mau đến đích, vì quý vị đã trèo theo con đường thẳng đứng để lên đỉnh núi "giải thoát". Bao giờ con đường thẳng đứng cũng khó trèo, nhưng mau đến đích hơn những con đường vòng quanh cọ. Trong vấn đề tu hành cũng vậy.

  10. #10

    Mặc định

    8.- TAM LUẬN TÔN (TÁNH KHÔNG TÔN)


    --------------------------------------------------------------------------------

    I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

    Tôn này căn cứ vào ba bộ luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tâm Luận tôn.

    1.- Bộ Trung luận, gồm có bốn quyển, do Ngài Bồ tát Long Thọ làm ra, mục đích chính phá chấp của Tiểu Thừa và kèm một phần phụ đã phá sai lầm của ngoại đạo.

    2.- Bộ Bách luận, gồm có hai quyển do Ngài Bồ tát Đề Bà làm ra, mục đích chính là phá chấp của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của Tiểu Thừa.

    3.- Bộ Thập Nhị Môn luận, gồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra, mục đích phá cả Tiểu Thừa và ngoại đạo.

    Tóm lại, ba bộ luận trên đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu Thừa và ngoại đạo và mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của Đại Thừa.

    Tôn này được thạnh hành ở Trung Hoa trong đời Dao Tần do công đức hoằng dương của ngài Cưu Ma La Thập, và trong đời Đường do công đức của ngài Đại sư Gia Tường.

    II.- TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

    Như chúng ta đã thấy trong nội dung của ba Bộ luận căn bản nói trên, chủ trương của tôn này là phá các điệu tà chấp, nêu bày chánh lý.

    Theo Tam luận tôn, là chấp có bốn loại:

    1. Tà chấp của ngoại đạo: ngoại đạo tức là những học phái hay tôn giáo khác với Đạo Phật. Ngoại đạo vị không thấu rõ lý ngã không và pháp không, nên theo chấp chặt tà kiến, như tà nhơn, tà quả, không nhơn mà có quả, có nhơn mà không quả...những cái chấp nầy cần phải đả phá.

    2. Chấp trước của Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn: Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn tức là Câu xá tôn. Tôn này chủ trương lý ngã không, pháp hữu, nghĩa là cho rằng cái ngã nơi thân người là không có, nhưng các pháp là có. Quan niệm sai lầm về pháp hữu ấy cần phải phá trừ.

    3. Chấp trước của Thành thật tôn: Tôn này, tuy chủ trương ngả pháp đều không, nhưng lại chấp cái "không" ấy là thật "có" ( thật có một cái không), chứ không biết rằng cái "không " ấy cũng không hoàn toàn là không, cho nên cần phải phá trừ.

    4. Chấp trước của người tu về Đài thừa: Người tu về Đại Thừa không còn những chấp trước mê lầm về ngã, pháp của ngoại đạo và Tiểu Thừa,đã đoạn trừ những thành kiến chấp có, chấp không, chấp đoạn, chấp thường, nhưng còn có một số người ôm chặt cái sở đắc của mìmh, nghe nói "có" thì sa vào có, nghe nói "không " thì trệ vào không, nghe nói "trung đạo" thì chấp trước về trung đạo. Cho nên cần phải phá trừ những chấp trước ấy.

    Có người hỏi: Tam luận tôn chủ trương phá tà như trên, có thể gọi là đầy đủ lắm, nhưng còn phần hiển chánh thì như thế nào?

    - Xin thưa: Phá hết tà, tức là hiển chánh. Phá cũng tức là lập. Trừ mê tức là ngộ. Như vậy tà chấp đã bị phá, thời chánh lý tự bày, ngoài sự phá tà, không có chánh lý nào riêng nữa.

    Trong bộ "tam luận huyền nghĩa" có nói: Sự phá tà hiển chánh phân làm bốn loại:

    1. Phá mà không thâu, nghĩa là trước một đối thủ nói không hợp đạo, thì chỉ phá mà không thâu.

    2. Thâu mà không phá, nghĩa là đối với người chủ trương hợp với chân lý thì chỉ cần thâu mà không phá.

    3. Cũng phá mà cũng thâu, nghĩa là đối vơi người học đạo mà còn đầy lòng mê chấp, thì phải phá trừ chỗ mê chấp và thâu lại giáo nghĩa mà họ đã hiểu lầm.

    4. Không thâu mà cũng không phá, đây là trường hợp khi đã tiêu trừ ba loại nói trên, quy về một chơn thật tướng: đến đây thì đã xa lìa nói phô, bặt dứt niệm lự, không thể nói rằng phá, không thể nói rằng thâu.

    Chủ trương phá phá tà hiển chánh trên này có thể cô đọng trong bốn chử sau đây:"Trung đạo bát bất".

    Trung đạo tức là đao lý viên dung cũng gọi là đệ nhứt nghĩa đế, nghĩa là cái chơn lý cùng tột, không gì hơn.

    Bát bất tức là tám cái "Bất" ( chẳng phải):

    Bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Hiểu rõ tám cái "Bất" ấy, tức là nhận chân được nghĩa lý cảu Trung đạo. Chúng ta hãy nghe bài kệ sau đây trong "Trung đạo" thì rõ:

    Bất sinh, diêbất diệt
    Bất thường, diệc bất đoạn
    Bất nhất, diệc bất dị
    Bất lai, diệc bất xuất
    Năng thuyết thị nhân duyên
    Thiện diệt chư hý luận
    Ngã khể thủ lễ Phật
    Chư thuyết trung đêhất
    Giảng rộng đoạn văn trên này, ông Phan Văn Hùm, trong quyển Phật Giáo triết học đã viết như sau:

    "Nhất thiết vạn hửu trong hiện giới đều sinh diệt vô thường". Sinh diệt vô thường như thế, nguyên là vì không có tự tánh, mà bởi nhân duyên mê vọng nên sinh ra giả hữu.

    Thế tục vì vọng kiến, nên chấp lấy cái giả hữu đó. Chân trí thời phủ định giả hữu mà nhận thấy là không ...siêu việt được tất cả hữu và vô là cái quan niệm tuyệt đối ấy, phải biết rằng chư pháp đều do nhân duyên sinh ra.

    Chư pháp tuy là hữu nhưng mà là phi thường hữu. Hữu, mà phi thường hữu là giả hữu. Giả hữu tuy là hữu mà phi hữu. Hữu mà phi hữu, thời cùng với vô có khác gì? Cho nên chư pháp tuy là vạn hữu, nhưng uyển nhiên là không .

    Lý thể của chân như, tuy là không tịch, bất sinh diệt, mà bởi nó sanh ra chư pháp, cho nên nó là căn của giả hữu. Đã là căn của gỉa hữu, thời mặc dù lý thể của chân như là không, thật ra nó là phi không. Như thế, chân như là không mà không thật là không cho nên cùng với hữu có khác gì? Vì thế, rô鴠lại, chân như tuy là không tịch, mà nó uyển nhiên là hữu.

    Hữu, không, hai cái toàn nhiên cùng nhau hỗn hiệp.

    Trung đạo ra ngoài chổ chấp hữu cùng chấp không.

    III.- BA THỜI GIÁO LÝ

    Trong phần tôn chỉ và giáo lý căn bản nói trên, chúng ta thấy Tam-luận tôn bác tất cả các tôn phái của Tiểu Thừa và một phần của Đại -thừa. Nhưng dù Tiểu Thừa hay Đại -thừa, cũng là dựa trên Giáo lý của Đức Phật cả. Vậy, bác các tôn phái trong các đạo Phật, tức là gián tiếp, bác giáo lý của Phật chăng?

    Thật ra, không phải thế. Tất cả lời dạy của Đức Phật chỉ có một chất chung là sự giải thoát, như tất cả nước đại dương chỉ có một mùi vị là mặn. Phật nói ra các pháp môn, đều để đối trị những phiền nảo của chúng sanh. Người lương y dõi tùy theo chứng bịnh mà cho thuốc, thuốc không cao cấp, lành bịnh là hay. Cũng thế, căn cơ chúng sanh không đồng nhau, cho nên pháp môn cũng tùy theo đó mà có sai biệt.

    Theo Tam-Luận tôn, thì giáo lý của Đức Phật chia làm ba thời kỳ:

    -Thời kỳ thứ nhứt, tại vườn Lộc-Giả vì các bậc căn trí hẹp hòi, Phật nói pháp Tiểu Thừa, tâm cảnh đều có. Trong thời kỳ này vì cần phải phá cái chấp về tự tách, thần ngã của ngộ đạo, nên Phật nói "pháp duyên sanh", xác định là thật có.

    -Thời kỳ thứ hai, Phật vị các bậc căn trí bậc trung, nói "pháp tướng Đại -thừa", chỉ rõ đạo lý Duy-thức "cảnh không tâm có" (thế giới hiện tượng không thật có nhưng tâm thức thật có). Cũng trong thời kỳ này, Phật lần hồi phá trừ chổ chất của Nhị-thừa về lý duyên sanh thật có, mà nói lý duyên sanh ấy chỉ là giả dối như tuồng có mà thôi, vì họ sợ về chổ chơn không , nên phải để "giã hữu" lại đễ dìu dắt họ.

    -Thời kỳ thứ ba, Phật vị các bậc thượng căn thượng trí nói ra giáo lý "vô tướng Đại -thừa ", biện bạch tâm cảnh đều không, một mực bình đẳng là chơn liểu nghĩa. Đến thời kỳ này mới thật là chổ rốt ráo của Đại -thừa, chủ trương duyên sanh ấy tức là tánh không, một mực bình đẳng, viên dung cả hai đế (chơn đế, tục đế) không ngại.

    Tóm lại, thời ký thứ nhất, phá trừ ngoại đạo, chỉ dạy Tiểu-thừa với giáo lý tâm cảnh đều có. Thời kỳ thứ hai, thông cả Tiểu-thừa và một phần của Đại -thừa, (Tam thừa) với giáo lý cảnh không, tâm có. Thời kỳ thứ ba, chỉ có Nhất thừa, với giáo lý tâm cảnh đều không, nhưng cái không đây tức là chơn "chơn không, diệu hữu".

    IV.- PHƯƠNG PHÁP TU-HÀNH

    Chúng ta đã thấy ở các phần ở trên, chủ trương của Tam-luận tôn là phá tà, và do chổ phá tà ấy là hiển chánh. Vậy thì phương pháp tu hành của tôn này là làm sao nhận rõ được những chổ sai làmm chấp trước của ngoại đạo là các tôn phái khác, tức là chứng ngộ. Muốn vậy, tức phải thực hành pháp quán "bát bất trung đạo".

    Bát bất tức là: Bất sinh, bất diệt; Bất đoạn, bất thường; bất nhứt, bất dị; bất khứ, bất lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chơn đế và tục đế; mà không rõ được chơn đế và tục đế thì cũng không thể nào nhận thấy được ý nghĩa của trung đạo.

    Pháp quán này có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của "bát bất "; chẳng hạn giai đoạn thứ nhứt quán về "bất sinh, bất diệt"; giai đoạn thứ hai quán về "bất đoạn, bất thường..." .

    Trong mỗi giai đoạn như thế phải quán năm câu:

    1.- Câu thứ nhứt: "thật có sinh, thật có diệt". AṠlà giả thiết thật có sanh diệt như thế gian thường chấp, để mà bát. Chấp như thế gọi là đơn tục ( đứng riêng về mặt thế tục), tức nhiên là thiên chấp (chấp một bên), chưa hiệp với trung đạo.

    2.- Câu thứ hai: "không sanh không diệt". AṠlà chấp không sanh không diệt làm thật, để mà bát. Chấp như thế gọi là đơn chơn, cũng là thiên chấp, không hiệp với trung đạo.

    3.- Câu thứ ba: "giả sanh giả diệt". Aṍ là giả lập có sự sanh diệt phát xuất từ nơi bất sanh bất diệt. Đây tức là trung đạo về thế tục.

    4.- Câu thứ tư: "giả bất sanh giả bất diệt". Nếu sanh diệt đã giả, thời sự bất sanh bất diệt cũng là giả. AṠlà trung đạo về chơn đế.

    5.- Câu thứ năm: "không phải sanh diệt, mà cũng không phải là không sanh diệt". Đây là dung hiệp cả tục đế và chơn đế mà tìm ra lý trung đạo. Thật vậy, thật tướng của pháp giới không sanh diệt , mà cũng không phải không sanh diệt. Đến đây là băﴠdứt lời nói phô, tâm niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới.

    Trong năm câu này, thì ba câu cuối ( từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi là tam trung (ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong pháp qúan này, người ta thường nói: dùng năm câu và ba lý trung đạo để quan sát.

    Trên đây là chỉ đưa ra một số thí dụ về một giai đoạn trong pháp "pháp trung đạo bát bất". Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất "bất sinh, bất diệt", hành giả tiếp tục giai đoạn thứ hai là "bất đoạn, bất thường". Và cứ như thế mà quán cho đến hết tám cái "bất".

    Đây là pháp quán riêng biệt của tam luận tôn. Ngoài ra trên đường tu hành, hành giả còn tùy theo căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục độ vạn hạnh.

    V. QUẢ VỊ TU CHỨNG

    Giáo lý đã có phân chia thành chơn đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng đứng về hai phương diện mà xét.

    1. Chơn đế: Nếu đứng về phương diện chơn đế mà xét thì không có vấn đề chứng hay không chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn không, nhiễm tịnh đều bình đẳng, hết thảy chúng sanh xưa nay là Phật rồi.

    2. Tục đế: Nếu đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sanh không giống nhau, nên sự tu chứng cũng có chậm có mau. Với những căn cơ rất lanh lợi, thì trong một niệm có thể thành tựu "chánh quán bát bất", chứng được quả Phật. Trái lại, với những căn cơ chậm lụt, thì trải qua ba đại kiếp tu hạnh lục độ vạn hạnh, mới được thành Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị. Trong các tôn khác quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả vị, nhưng chúng tôi chỉ nêu danh mà không nói rõ nội dung, đến Tam luận trong này, nên chúng tôi tưởng nên trình bày rõ một lần về các quả vị ấy, và để sau nầy, khi qua các tôn khác, nếu quý độc giả có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ. 52 quả vị ấy là:

    Thập tín (mười bậc lấy đức tin làm gốc):

    1. Tín tâm 2. Tinh tấn tâm

    3. Niệm tâm 4. Định tâm

    5. Huệ tâm 6. Thí tâm

    7. Giới tâm 8. Hộ tâm

    9. Nguyện tâm 10. Hồi hướng tâm

    Thập trụ: Trụ là an trụ. Các vị Bồ tátkhi mới phát tâm, an trụ nơi mười bực này mà tu hành, trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ chúng sanh. Thập trụ là:

    1. Pháp tâm trụ 2. Trị địa trụ

    3. Tu hành trụ 4. Sanh quý trụ

    5. Phương tiện trụ 6. Chánh tâm trụ

    7.- Bất thối trụ 8. Đồng chơn trụ

    9. Pháp vương tử trụ 10. Quán đảnh trụ

    Thập hạnh: Mười bực này chú trọng tu hạnhlục độ nhiều hơn các hạnh khác,. Nên gọi là hạnh. Mười hạnh là:

    1. Hoan hỷ hạnh 2. Nhiêu ích hạnh

    3. Vô nhuế hạnh 4. Vô tận hạnh

    5. Ly si loạn hạnh 6. Thiện hiện hạnh

    7. Vô trước hạnh 8. Tôn trọng hạnh

    9. Thiện pháp hạnh 10. Chơn thiện hạnh



    Thập hồi hướng: Hồi nghĩa là xoay về, Hướng tức là xu hướng. Hành giả đem mười hạnh này mà quy hướng về ba nơi sau đây:

    a/ Xoay sự về lý, lấy chơn như thật tế mà làm chỗ chứng.

    b/ Xoay nhơn về quả, lấy đạo vô thượng Bồ đề làm chỗ sở cầu.

    c/ Xoay mình về nơi người, một lòn bình đẳng, phổ độ chúng sanh.

    Mười hồi hướng là:

    1- Cứu độ chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng; nghĩa là cứu giúp chúng sanh mà không chấp trước về sự cứu giúp.

    2- Bất hoại hồi hướng; nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sanh.

    3- Dẳng chư Phật hồi hướng: nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sanh cúng bằng chư Phật.

    4- Chí nhứt thế xứ hồi hướng; nghĩa là lòng cứu giúp chúng sanh mỗi việc đều chu đáo.

    5- Vô tận công đức tạng hồi hướng; nghĩa là chất chứa công đức vô tận.

    6- Tùy thuận nhứt thiết kiên cố thiện căn hồi hướng; nghĩa là thuận theo hết thảy căn lành bền chặt.

    7- Đẳng tâm tùy thuận nhứt thế chúng sanh hồi hướng; nghĩa là đem tâm bình đẳng tùy thuận hết thảy chúng sanh.

    - Như tướng hồi hướng; nghĩa là các công đức hồi hướng về tự tánh chơn như.
    - Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng; nghĩa là không chấp trước không ràng buộc, một lòng giải thoát.
    - Pháp giới vô lượng hồi hướng; nghĩa là hướng về pháp giới không cùng tận.
    Bốn mươi quả vị trên này ( Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) nói về thơig gian tu tập tùy thuộc vào Kiếp A-tăng kỳ thứ nhứt.

    Thập địa: Mười bực này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm tự tánh, cùng làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hạnh, nên gọi là Địa. Mười địa là:

    1. Hoan hỷ địa 2. Ly khổ địa

    3. Pháp quan địa 4. Diệm huệ địa

    5. Nan thắng địa 6. Hiện tiền địa

    7. Viễn hành địa 8. Bất động địa

    9. Thiện huệ địa 10. Pháp vân địa

    Trong thập địa, mỗi địa còn có ba tâm: Nhập, Trụ, Xuất. Khi vừa bước vào một bực nào, gọi là nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bực ấy mà tu, gọi là trụ tâm. Sau khi tu tập lâu rồi, cần bước qua bực khác gọi là xuất tâm. Batâm ấy đều phải trải qua trăm ngàn số kiếp. Từ khi nhập tâmvề sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa (tức Viễn hành địa) phải trải qua suốt một kiếp A-tăng kỳ thứ hai. Từ Bát địa ( tức Bất động địa) đến Thập địa (tức Pháp vân địa) thuộc về kiếp A-tăng kỳ thứ ba.

    Đẳng giác: Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Đẳng giác, là địa vị đã gần đến quả Phật.

    Diệu giác: Tức là Phật quả, tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người, trí giác ngộ và công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu gíac. Bực này vì các lậu nghiệp đã hết sạch và không còn pháp gì phải học nữa, nên gọi là Vô-học đạo.

    VI.- KẾT LUẬN

    Như chúng ta đã thấy ở các phần trên, Tam-luận tôn chủ trương "lấy phá làm tập", phá tất cả những sự chấp trước của đạo ngoại, của Tiểu-thừa Tỳ-đàm, của thành Phật tôn và của cả một số người tu theo Đại -thừa. Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức là ngộ rồi đấy. Con đường đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường mình đi. Nhưng muốn khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải dẹp tất cả những hình bóng phỉnh-phờ và những chướng ngại vật trên đường đi ấy. Một khi sự phá dẹp hoàn thành thì chân lý tự nhiên hiện bày.

    Theo thiển kiến chúng tôi. Tam luận tôn không phải là một con đường Tu như các tôn khác, mà đúng hơn là một cữa A멺 Những hành-giả muốn đi từ Tiểu-thừa hay Đại -thừa Đốn giáo, hay Viên giáo thì phải đi ngang cữa Ải Tam luận tôn. Đến cửa A멠này, hành-giả bị lục soát một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý "chấp trước" gì, thì không thể qua cửa A멍 này được. Hành-giảkhi đi qua cửa A멠này là phải thông suốt các vấn đề: có, không, sanh, diệt, thường, đọan, nhất, dị v.v...

    Vậy chúng tôi mong mỏi quý vị Phật-tử muốn đi xa vào thế giới Trung-đạo hay Viên giáo thì hãy nghiên cứu cho kỹ Tam luận tôn.

    Chúc quý độc giả thánh công.

  11. #11

    Mặc định

    9.- CÂU XÁ TÔN ( HỮU TÔN)


    --------------------------------------------------------------------------------

    I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

    Tôn này thuộc về Tiểu-thừa, phát xuất từ bộ luận Câu xá của Ngài Thế-Thân. bộ luận Câu xá lại dựa theo ý-nghĩa của bộ kinh Đại Tỳ-Bà-Sang (Mahavibhasacastra) mà thành lập. Bộ luận Câu xá được Ngài Trần-Chân-Đế dịch và truyền sang Tàu rất sớm, nhưng về sau bị thất truyền. Trong giai đoạn đầu nầy, Câu-xá tôn chưa thành một tôn phái riêng biệt ở Trung Hoa. Chỉ đến khi Ngài Huyền-Trang đi thỉnh kinh ở Ấn Độ trở về, đem dịch lại bộ luận. Câu xá và đệ tử của Ngài là Đại sư Phổ Quang dựa theo bộ luận nói trên mà ra bộ "Câu xá thuật ký", và Ngài Pháp bảo làm bộ "câu xá luận sớ" thì Câu xá tôn mới thành một tôn và được thạnh hành ở Trung Hoa. Nhưng hết đời Đường (từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ thứ IX) thì tôn này lại dần dần suy tàn và nhường địa vị quan trọng cho phái Đại -thừa khác, thích hợp với triết học và tâm lý của nhưng Trung Hoa hơn.

    II.- TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN-BẢN

    1.- Tôn chỉ: Tôn này chủ trương "ngã không pháp hữu", nghĩa là không có thật ngã nhưng có thật pháp.

    Đối với các tôn giáo khác thì chủ trương có một cái thật ngã, chủ tế thường nhất, một cái linh hồn trường tồn bất biến, mặc dù mọi sự vật đổi thay, sống hay chết. Theo Câu xá tôn thì một cái ngã như thế không thể có được, vì mọi sự vật trong vũ trụ, kể cả con người đều giả hợp mà thành, chứ không có một vật gì đồng nhất và bất biến. Đây cũng là chủ trương chung của các giáo phái khác trong Phật giáo. Điểm sai khác giữa Câu xá tôn với các tôn phái khác là: Câu xá tôn thì chủ trương Pháp hữu, trong khi các giáo phái khác thì bảo rằng pháp không. Pháp hữu, nghĩa là bản thể thật tại của các pháp, hay nói một cách dễ hiểu hơn, nguyên liệu sanh ra các sự vật trong vũ trụ, là thường có, là có thật. Thí dụ: con người không có thật ngã, nhưng những nguyên liệu làm ra con người, như ngũ uẩn, tứ đại là thật có.

    2.- Vũ trụ quang: Câu xá tôn phân biệt vũ trụ vạn hữu ra làm hữu vi pháp và vô vi pháp. Hữu vi pháp chỉ về hiện tượng trong hiện tượng giới, có sanh diệt, chuyển biến. Vô vi pháp chỉ về cảnh giới thường trụ, không sanh diệt, chuyển biến, cũng tức là chỉ về lý thể.

    Hữu vi pháp gồm có 72 món, và vô vi pháp gồm có 3 món, cộng tất cả là 75 món, hay 75 pháp.

    Trong phạm vi nhỏ hẹp của tập sách, chúng tôi không thể đi sâu đễ giải thích từng pháp một được. Tuy thế đễ có một ý-niệm về các loại pháp ấy, chúng tôi xin sơ lược đại khái sau đây:

    Sắc pháp: phàm cái có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại đều thuộc về sắc pháp. Trong 11 nhóm thuộc về sắc pháp, gồm có năm căn và năm cảnh, thì độc giả cũng biết rồi, không cần phải giải nữa; còn món thứ 11 là vô biểu sắc cần phải giải thích. Vô biểu sắc là cái sắc pháp không biểu hiện ra ngoài (pháp trần), đó làđối tượng của ý căn.

    Tâm pháp: Cũng gọi là Tâm Vương, vì nó có năng lực chủ động như ông vua có quyền chủ trương trong một nước. Tâm vương có ba tên: Tâm, ý và thức. Theo câu xá luận thì: "nhóm góp các tập quán mà khởi ra gọi là tâm; nghĩ ngợi gọi là ý; phân biệt gọi là thức".

    Tâm sở pháp:là cái pháp sở hữu phụ thuộc của tâm vương, như các ông quan phụ thuộc vào quyền sai sử của ông vua, hay các nhân viên phụ thuộcdưới sư điều khiển của ong chủ.

    Bất tương ưng hành pháp:Có thể gọi tắt làcái pháp bất tương ưng, nghĩa là các pháp không thuộc về sắc, mà cũng không hẵn thuộc về tâm, nhưng là kết quả của sự tiếp xúc giữa tâm và sắc.thí dụ như sự "sự được "

    Là một pháp bất tương ưng. Khi ta được một cái gì, "sự được " áy không thuộc vêăsc pháp , cũng không thuộc về tâm pháp . "Cái mà ta được " là sắc pháp , "cái nỗi nỗi vui mừng " khi được là tâm pháp , còn "sự được" không thể liệt vào sắc pháp hay tâm pháp được , vì thế cho nên gọi là bất tương ưng hành pháp .

    Vô-vi-pháp: nghĩa là những pháp không sanh diệt, chuyển biến, vượt ra ngoài ự dối đãi.Vô vigôm có ba pháp là:trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vivà hư không vô vi.

    Bảy mươi lăm pháp này bao gồmtất cả sự vật trong vữ trụ.

    Sự vật trong vũ tru ia ra làm hai loại lớn là:hữu tình thế gian và khí thế gian.

    -Hữu tình thế giántưc là toàn thể chúng sanh , có sự sống.

    -Khí thế giántưc là hoàn cảnh mà chúng sanh nương vào để sống như đất cát, núi, sông, nhà, cửa v.v ..

    Xét về phương diện thời gian, thì vũ trụ là vô thỉ vô chung, nghĩa là không có lúc bắt đầu và củng là không có lúc chung cục, mà chỉ có sự thay đổi, biến chuyển thôi. Trong vũ trụ có hằng hà sang thế giới, thế giới này thành, thì thế giới kia hoại, đắp đỗi cho nhau. Tuy thế, riêng mỗi thé giới, từ khi danh thành cho đến khi tiêu diệt, phải qua bốn giai đoạn ( thành, trụ, hoại, không) gồm một đại kiếp, tức là một ngàn hai trăm tám chục triệu năm (1.280.000).

    Xét về phương diện không gian,thì vũ trụ rộng lớn không thể tưởng tượng được .Trước tiên đon vị nhỏ nhấtcủa vũ trụlà thế giới(như thế giới nhỏ mà ta đang ở đây).

    Họp một ngàn thế giới mới thànhd một tiểu thiên thế giới; họp một ngàn tiểu thiên thế giới mới thành một trung thiên thế giới;họp một ngàn trung thiên thế giới mới thành một đại thiên thế giới. Như thế một đại thiên thế giới gồm(1.000*1.000*1.000) một ngàn triệu thế giốwi nhỏ (như thế giới chúng ta đang ở dây) . nhưng trong vũ trụ không phải có mđại thiên thế giới mà có vô lượng vô số đại thiên thé giới; cho nêntong kinh thường nòila:thập phương vi trần thế giới ( mười phương thế giới nhiều như cát bụi ) hay thập phương hằng hà sang thế giới ( mười phương thế giới nhiều như cát sông hằng ).

    Xét về phương diện phẩm chất thì vũ trụ chia làm ba tầng bấc cao tháp khác nhau, củng gọi là tam giới, hay ba cõi là: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.

    Dục giới là cõi của loài hữu tình chư Ấn Độ xa lìa được dâm dục và thực dục. Trong dục giới có sáu loại chúng sanh là thiên, nhơn, atula, súc sinh, ngạ quỷ,địa ngục.

    Sắc giới là cõi của loài hữu tình có hình sắc tốt đẹp, đã rời bỏ được dâm dục và thực dục. Cõi này có bốn bậc là:Ly sanh hỹ lạc địa, Định sanh hỷ dục địa, Ly hỷ diệu lạc địa và Xã niệm thanh tịnh địa.

    Vô sac giới là cõi không có hình sắc . các loài hữu tình sanh trong cõi này chỉ có tâm thức màthôi. Cõi này củng chia làm bốn từng bậc cao thấp, thông thường gọi là tứ không thiên: không vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.

    3.- Nhân sanh quan: chúng sanh nói chung, và con người nói riêng, do đâu mà có? Và đời sống chúng sanh có giá trị như thế nào?

    a)Theo câu xá tôn, thì chúng sanh sở dĩ bị xoay chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, là do "nghiệp cảm duyên khởi", nghĩa là do mê hoặc mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà cảm thọ các quả báo.

    Thế nào gọi là hoặc? Họăc nghỉa là mê mờ, không sáng suốt, không biết đâu là phải, đâu là trái tức là vô minh, mê vọng. Hoặc có hai loại: bổn hoặc và tùy hoặc, Bổn hoặc là sự mê lầm cội gốc, củng gọi là căn bản phiền não, như tham, sân,si,mạn, nghi, ác kiến. Tùy hoặc là những mê lầm dựa theo bổn hoặc mà phát sinh, cũng gọi là tùy phiền não.

    Trong sáu bổn-hoặc nói trên, thì năm hoặc đầu: tham, sanh, si, mạn, nghi, vì tánh chất chậm-lụt, ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm chúng ta, rất khó dứt trừ, nên gọi là ngũ-độn-sử (sử là sai sử, xúi sử; những hoặc này sai khiến một cách tiềm tàng, sâu kín loài hữu tình làm cho chúng sanh cứ luẩn quẩn trong chổ mê lầm nên gọi là độn-sử).

    Còn hoặc thứ sáu là ác kiến, vì tánh chất nó lanh lẹ, không ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm và dễ dứt trừ, nên gọi là lợi sử. A飭kiến hay lợi sử gồm có năm thứ là: Thâm kiến, Biên kiến, Tà kiến, kiến thủ, và giới cấm thủ.

    Thân kiến: là chấp một cách sai lầm rằng cái thân do ngũ uẩn giả hiệp này là có thật ngã.

    Biên kiến: là chấp sai lầm rằng cái thân này chết rồi thì tiêu diệt hẳn, không còn gì cả (đoạn kiến) hay trái lại, chấp cái thân này chết rồi, linh hồn vẫn còn mãi mãi (thường kiến). Những sự chấp ấy làm mất hẳn lý trung đạo, nên gọi là biên-kiến.

    Tà-kiến: là chấp những đạo lý mơ hồ tà bậy và bài bác những lý nhơn quả chơn chánh.

    Kiến-thủ: là chấp chặt kiến giải sai lầm của mình, mà không chịu theo đời các bậc hiển thánh.

    Giới cấm-thủ: là giữ giới sai-lầm như những giới khổ hạnh của ngoại đạo v.v...

    Do những bổn-hoặc và ác kiến nói trên sai sử, chúng sanh tạo ra các nghiệp, làm nhân quả cho nhau và khiên sau khi cho chúng sanh phải xoay vần mãi trong sanh tử luân hồi. Nghiệp có ba thứ: ý-nghiệp, tức là tự suy nghĩ, hành đọng của ý niệm; ngữ-nghiệp, tức là sự nói năng; thân nghiệp, tức là những hành động về thể xác.

    Nghiệp có ba tánh là: lành, dữ và vô ký (nghĩa là trung bình, không lành, không dữ). Nghiệp lành thì có quả báo lành, nghiệp dữ thì có quả báo dữ. Còn nghiệp vô-ký thì có quả báo không lành không dữ.

    Nghiệp lành, cũng như nghiệp dữ, đều có mười thứ:

    Mười nghiệp dữ là: giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối gạt, nói thiêu dệt, nói chia rẽ, nói độc ác, tham lam, giận giữ, si mê.

    Mười nghiệp lành là: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối gạt, không nói thiêu dệt, không nói chia rẽ, không nói độc ác, không tham lam, không giận giữ, không si mê.

    Quả-báo của mười nghiệp lành và mười nghiệp dữ có mau và chậm, nghĩa là có khi xảy ra trong một đời, có khi hai ba đời sau mới thọ quả-báo.

    Khi thời kỳ cảm quả chịu báo đã xác định, thì gọi là định nghiệp. Trái lại, htì gọi là bất định nghiệp. Bất định nghiệp có hai thứ: một là quả báo đã định mà thời kỳ chịu quả báo chưa định; hai là cả quả báo và thời kỳ chịu quả báo đều chưa định.

    b). Trên đây là nói lý do vì sao có sự hiện diện của chúng sanh trong thế giới này. Dưới đây, chúng tôi sẽ nói đến giá trị của sự hiện diện ấy theo quan niệm của Câu xá tôn, tức cũng là quan niệm của Tiểu-thừa Phật giáo.

    Quan niệm ấy, không xa lạ gì đối với chúng ta. Đó là cõi đời là một bể khổ, trong ấy, chúng sanh đang lặn hụp, trôi lăn, sống chết. Con người khổ vì sanh, lão, bệnh, tử. Con người khổ vì yêu nhau mà phải xa lìa, ghét nhau mà phải chung sống, muốn một đàng mà thực tế đưa đi một nẻo. Con người khổ vì tai trời, nạn nước: bão, lụt, chiến-tranh, trộm cướp v.v...Con người khổ vì sống trong một hoàn cảnh mê mờ, tối tăm, không biết đâu là thật, đâu là giả, đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là ảo ảnh giả dối. Con người khổ vì mong được trường tồn àm cõi đời lại vô thường, luôn luôn biến đổi, có đó không đó, có đó mất đó, như một trò mộng huyễn. Con người khổ vì tưởng rằng có một cái thật-ngã làm nồng cốt cho sự sống, thuần nhất, tự tại, ngờ đâu cái Ngã ấy là giả dối, không có thật vì bị hoàn cảnh chi phối làm cho điêu đứng, đảo điên.

    Tóm lại, cõi đời là một bể khổ làm bằng nước mắt của tất cả chúng sanh.

    III.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

    1.- Tứ-diệu-đế

    Muốn giải thoát ra ngoài bể khổ mênh mông của cõi đời, Câu xá tôn chủ trương phải tu theo pháp "Tứ-diệu-đế". Tứ diệu đế tức là bốn lẽ chân thật đưa người tu hành từ cảnh mê đến cảnh ngộ, từ cõi Ta bà đau khổ, đến cảnh giới Niết bàn tịch tịnh.

    - Diệu đế thứ nhất chỉ rõ cho người tu hành thấy cõi đời là đau khổ.

    - Diệu đế thứ hai chỉ rõ cho người tu hành thấy được nguyên nhân của sự đau khổ trong cõi Ta-bà.

    Diệu đế thứ ba chỉ rõ cảnh giới an lạc sau khi ra khỏi cõi đời đau khổ.
    Diệu đế thứ tư chỉ rõ con đường tu hành để đi đến cảnh giới an lạc Niết bàn.
    Bốn Diệu đé ấy tức là: khổ, tập, diệt, đạo vậy.

    2.- Thập nhị nhân-duyên

    Với những căn cơ lanh lợi, thì có thể tu theo pháp Thập-nhị-nhân-duyên. Thập-nhị-nhân-duyên là 12 nhân duyên kế tiếp theo nhau, làm nhân, làm quả, khiến cho chúng sanh phải mãi mãi xoay vần trong bể khổ sanh tử luân hồi. Mười hai nhân duyên ấy là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục thập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Mười hai nhân duyên này như mười hai vòng xích nối liền với nhau làm thành một chuổi xích, không biết đâu là đầu, đâu là cuối. Nếu cắt đứt được một vòng xích thì chuổi xích ấy tất phải phải đứt đọan. Đối với kẻ tu hành, muốn chấm dứt sanh tử luân hồi, thì cái mắc xích cần phải bị cắt đứt là ‘’ái’’. A驠ở đây tức là luyến ái. Vì luyến ái nên mới có thủ cho mình, rồi ‘’thủ’’ sanh ra ‘’hữu’’. Và từ đó, cái vòng sanh tử lại tái diễn. Vậy không có ‘’ái’’, thì không có ‘’hữu’’, không có ‘’hữu’’ thì không có ‘’sanh’’, không có ‘’sanh’’ thì không có ‘’lão tử’’, nghĩa là không có khổ đau.

    IV.- QUẢ-VỊ TU CHỨNG

    1.- Người tu theo pháp Tứ-diệu đế, nếu mau lắm thì cũng phải trải qua qua ba đời, còn nếu chậm, thì phải tải qua 60 kiếp, mới chứng được A-la-hán, la fcõi cao nhất của hàng Thanh Văn.

    Trước khi chứng được quả vị A-la-hán, hành-giả tuần tự chứng các quả dưới đây:

    Tu-đà-hoàn, Tàu dịch là Nhập lưu, hay Dự lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng Thánh.

    Tư-đà-hàm, Tàu dịch là Nhất lai, nghĩa là còn phải đầu thai vào cõi Dục-giới một lần cuối cùng nữa, để tu hành cho rốt ráo, trước khi vĩnh viễn xa rời cõi này.

    A-na-hàm, Tàu dịch là Bât-lai, nghã là không còn phải đầu thai vào cõi Dục-giới nữa. Hết bực này là đến quả vị A-la-hán.

    A-la-hán, Tàu dịch là Ứng-cúng hay Vô-sanh, nghĩa là dứt bỏ được cái điều mê lầm trong cõi Sắc giới và Vô- sắc giới, không còn phiền não, không còn chịu sanh tử luân hồi, vượt ra khỏi ba cõi, hưởng sự cúng dường của thiên và nhân. Bậc này gọi là bậc Vô-học, nghĩa là không phải tu học pháp gì nữa.

    2.- Đối với lối tu Duyên-giác, nghĩa là tu theo lối quán 12 nhân duyên, thì quả vị không có chia ra nhiều tầng bậc, chẳng qua khi đang tu hành thì gọi là Duyên-gíac hướng, nghĩa là đi lần tới mục đích của sự tu hành là quả Duyên-giác. Còn khi tu được đầy đủ, dứt mối mê lầm, chứng được chân lý, thường hưởng được cái vui giải thoát trong cảnh Niết-bàn, thì gọi là Duyên-giác quả. Vị chứng được quả này thì gọi là Bích-chư-Phật, tức là vị Phật tự giải thoát cho mình, nhưng chưa có thể giác tha. Từ khi bắt đầu tu hành cho đến khi chứng quả Duyên-giác, thời gian dài ngắn khác nhau tùy theo căn cơ của kẻ tu hành: vói căn cơ lanh lợi thì ít ra cũng phải trải qua bốn đời tu luyện; với căn cơ chậm lụt thì phải trải qua 100 kiếp tu hành.

    V.- KẾT LUẬN

    Câu xá tôn, mặc dù chỉ là một tôn phái trong nhiều tôn phái của Tiểu-thừa, nhưng có thể đại diện một cách gần đấy đủ cho phái Tiểu-thừa Phật giáo. Bởi thế , Câu xá tôn, chúng ta có thể hiẻu một cách khá tường tận giáo lý căn bản và phương pháp tu hành của hàng Tiểu-thừa trong quá khứ xa xưa.

    Nhưng từ khi tôn này được thành lập ở Trung Hoa đến bây giờ, thời gian đã trôi qua hơn một ngàn năm. Trong thời gian ấy, chắc cũng có nhiều sự biến đổi trong chi tiết. Chúng tôi rất tiếc không có nhiều tài liệu để nghiên cứu một cách đầy đủ những biến chuyển của tôn này qua thời gian và sự tồn tại của nó trong hiện tại như thế nào. Do đó, chúng tôi thành thật đề nghị với quý độc giả hãy xem bài này như một bài nghiên cứu về một trong mười tôn phái ở Trung Hoa, chứ chưa phải một ‘’con đường’’ hoàn bị, hướng dẩn trực tiếp quý vị vào sự tu luyện. Chúng tôi muốn nói, nếu quý vị thấy căn cơ mình thích hợp với giáo lý Tiểu-thừa, mà muốn bắt tay vào sự tu luyện, thì cũng cần tìm đọc thêm nhiều nữa và nghiên cứu cho đến nơi đến chốn, để khỏi lạc hướng sai đường.


    =====================================


    10.- THÀNH-THẬT TÔN


    --------------------------------------------------------------------------------

    I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

    Tôn này thuộc về Tiểu Thừa, y cứ vào ý nghĩa của bộ thành thật luận, do đó gọi là Thành thật tôn.

    Bộ Thành thật luận do ngài Ha-lê-bạt-ma ( Harivarman, Tàu dịch là Cưu-ma-la-đà (Kumaraladha) thuộc phái Tiểu Thừa Tát-bà-đa làm ra, vào khoảng 900 năm, sau khi đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Như chúng ta đã biết qua trong phần lịch sử truyền giáo ở Aᮠđộ, sau khi đức Phật nhập niết bàn, phái Tiểu Thừa chia ra thàngh nhiều nhóm, giải thích kinh điển của Phật không giống nhau. Nhận thấy nguy cơ có thể làm cho Phật giáo suy đồi vì sự không đồng quan điểm`về giáo lý của các tôn phái ấy, ngài Ha-lê-bạt-ma đã đem hết tâm lực và trí tuệuyên bác của mình, rút ra lý tinh tủytong các bộ kinh luậncủa Tiểu Thừa, làm ra bộ thành thật luận. Sở dĩ ngài dùng hai chữ "Thành thật"để đặt tên cho bộ luậncủa mình là hàn ý muốn nói rằng: những lý nghĩa trong bộ luận của minhlaf chân thật, đúng đắn hoàn toàn với giáo lý căn bản trong ba tạng kinh điển của Phật . mà thật như thế, bộ Thành thật luận là bộ luận có thể tiêu biểu một cách trung thựcgiáo lý của Tiểu Thừa.

    Và củng vì giá trị chân chính ầy màbộ Thành thật luận được truyền sang Trung Hoa và được Ngài Cưu-ma-laThập trong đời giao tần dịch ra văn Tàu, gồm có tất cả 16 cuốn, chia ra làm 202 phẩm. Nhưng mặc dù được người đời hâm mộ, bộ luận này phải đợi đến đời Nam Bắc triều mới thành lập một tôn riêng tức là" Thành thật tôn".

    II.-TÔN CHỈ VÀ GIÁP LÝ CĂN BẢN

    Tôn này chủ trương "nhân không , Pháp không ".

    Như chúng ta đã biết, theo Câu-xá-tôn thì nhơn không nhưng pháp lại có. Thành thật tôn, đi xa hơn, cho rằng nhơn không thật, mà pháp củng không thật.

    Để giải thích chủ trương "hai không" này, Thành thật lập ra hai môn là: Thế giwói môn và Đệ nhất nghĩa môn.

    1.- Thế giới môn: Môn nghĩa đen là cửa; Thế giới môn tức là cửa của Thế giới; nói một cách thông thường như ngày nay thường nói, "thế giới môn" tức là đứng về "phương diện thế tục, phương diện tương đối" mà quan sát suy luận.

    Xát về phương diện tương đối, thì nhơn cũng có mà pháp cũng có. Thật vây, theo sự nhận xét thông thường, thì ta có một cái thân; ta đi, đứng, nằm, ngồi; ta có một cái tâm để suy xét, phân biệt, nhớ chuyện quá khứ, tính chuyện tương lai? Thế mà bảo mà không có ngã thì thật là vô lý. Lại trong kinh cũng thường nói: ta thường tự ngăn ngừa và tụ giữ lấy ta, làm lành tự mình được hưởng điều lành, làm dữ, tự mình chịu hưởng quả dữ. Vậy nếu bảo rằng không có người, không có ta, thì thật là trái với nhận xét và lý luận thông thường.

    Xét về các pháp cũng vậy, bảo rằng không thì cũng là vô lý. Nếu không có sắc pháp thì làm sao có thân ta, có cảnh giới chung quanh ta? Ừ, thì thân ta, do ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giả hợp mà thành. Những thứ này cũng là pháp cả. Thí dụ nếu ta chia chẻ cái sắc pháp ra thành nhỏ mãi, thì cuối cùng, dù nhỏ đến không thể chia chẻ được nữa, cũng vẫn là sắc, chứ sắc không thể chia ra mà thành "không" được . Ngược lại, nếu đã là không , thì không thể đem cái "không" ấy nhân lên mãi mà thành "có" được. Cũng như trong toán học, dù có nhân bao nhiêu lần với con số không ( dero), thì không cũng vẫn là không .

    2.- Đệ nhất nghĩa môn: Đệ nhất nghĩa môn, hay chơn đế, là nói về phương diện tuyệt đối. Đứng về phương diện này mà xét, thì Ngã và Pháp điều là giả có, chứ không thật có. Khi năm uẩn hòa hợp thì tạm gọi là ta; khi năm uẩn tan ra thì cái ấyy không còn nữa. Vã lại cái ta ấy, trong lúc còn sanh tiền, thì mõi phút, mỗi giây cũng đều có thay đổi, biến chuyển chứ không thuần nhất là bất biến.

    Các pháp cũng vậy, tương đối mà nói thì có, nhưng tuyệt đối mà xét thì cũng không thật có. Các pháp cũng do nhân duyên hòa hiệp mà tạm gọi là có, chứ không thể có một cách tuyệt đối, nghĩa là không thuần nhất và bất biến. Vì thế cho nên Phật dạy: "các pháp đều là như huyễn như hóa". Kinh Bát nhã cũng nói: "sắc chẵng khác gì không , không chẵng khác gì săc, sắc tức không , không tức sắc"...Tóm lại, đứng về đệ nhất nghĩa môn mà xét, các pháp rốt ráo là chơn-không . Chơn-không là thế nào? Chơn-không có nghĩa là: chơn pháp của các pháp trong vũ trụ vốn là chơn thật, nhưng không phải là có các hình tướng như các hình tướng giả dối mà người đời thường thấy ở chung quanh. Cái "có" và cái "không " ở trong đời, đối với chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế, đều giả dối, không thật.

    Nên biết cái "không " hiểu theo nghĩa chơn đế, khác với "không" hiểu theo nghĩa tục đế. Cái "không" của Chơn đế thì gọi là Chơn không; còn cái không của Tục đế là cái "không" đối đãi với cái "có" mà thành, đó là không giới. Chơn không thường vắng lặng tịch diệt ra ngoài cái đối đãi của "có"và "không" phàm tục. Còn không giới chẳng qua là cái sắc đối với nhãn căn đó thôi. Chơn không không phải là sắc; không giới mới là sắc. Chơn không, không thấy được. Choan không không đối tượng; không giới thuộc về đối tượng. Chơn không là vô lậu. Không giới là hữu lậu. Chơn không là vô vi, Không giới là hữu vi.

    3.- Tương quan giữa Thế giới môn(Tục đế) và Đệ nhất nghĩa môn(Chơn đế): Theo để nhất nghĩa môn thì chơn lý của vũ trụ vốn Chơn không tịch diệt,vắng lặng; theo thế giới môn thì có ta và người, có sắc và không, nghĩa là có ngã và pháp. Vậy thì giữa Thế giới môn và Đệ nhất môn có tương quan gì với nhau không? Làm sao mà Chơn không tịch tịnh lại pháp sanh ra ngã và pháp, nghĩa là từ chổ Chơn không lại phát sanh ra chúng sanh và sơn hà đại địa?

    Thành thật tôn cắt nghĩa: đó là vô minh. Các pháp trong vũ trụ, thể tánh vốn vắng lặng, tịch diệt, nhưng vì do tâm vọng tưởng phân biệt mà có rối loạn, lăng xăng. Nói một cách rõ ràng hơn, bản tánh của vũ trụ vốn là không có ngã, không có pháp nhưng vì "hai món chướng"mà thấy có ngã và pháp. Hai món chướng ầy là:

    a) Phiền não chướng, tức là các nghiệp chướng về Kiế鮍 hoặc Tư hoặc. Chướng này vì chấp cái ta mà thiệt có, nên mới sanh các phiền não, rối loạn thâm tâm,chướng ngại đạo Niết bàn tịch tịnh. Chướng này, trong Câu xá luận, thì gọi là "tánh nhiễm ô vô tri".

    b) Sở tri chướng: cũng gọi là trí chướng. Căn bản của chướng này, là chấp các pháp thật có, làm che lấp cái tánh vô điên đảo đối với các cảnh mình hay biết, làm chướng ngại đạo Bồ đề. Chướng này trong câu xá luận gọi là "bất nhiễm ô vô tri" ( không nhiễm ô nhưng vẫn thuộc về si mê không biết, vì làm cho mình không chứng rõ được chơn lý).

    4.- 84 pháp: Như chúng ta đã thấy trong Câu xá tôn, những hiện tượng của nhơn sanh và vũ trụ, được phân thành 75 pháp. Theo Thành thật tôn, thì nhân sanh, vũ trụ lại được chia thành 84 pháp. Còn Pháp tướng tôn lại chia thành 100 pháp. Như thế, chúng ta nên hiểu rằng sự phân chia ra ít hay nhiều pháp chỉ là một vấn đề tương đối, chứ không có nghĩa nhất định. Sự phân loại các pháp này, chỉ có một mục đích là để nghiên cứu cho rõ ràng nhân sanh, vũ trụ mà thôi. 84 pháp mà Thành tật tôn đã phân loại là:

    14 Sắc pháp: 5 Căn, 5 Trần, 4 Đại.

    50 Tâm pháp: 1 Tâm vương, 49 Tâm sở (so với Câu xá tôn, thì coa ba Tâm sở là Hân ( tánh hớn hở), Yểm (tánh nhàm chán) và Thùy miên và Câu xá tôn ghép thành một Tâm sở, con Thành thật tôn thì chia làm hai là Thùy và Niêm).

    17 Phi sắc phi- tâm pháp (tức là Bất tương ưng hành pháp). Về loại này, Thành thật tôn hơn bên Câu xá tôn ba pháp: Thành thật tôn hợp ""Mạng căn " và "Đồng phận" lại là một, nhưng lại thêm: Lão, Tử, Phàm phu và Vô tác (tức là Vô biểu sắc bên Câu xá tôn).

    3 Vô-vi pháp( như bên Câu xá tôn) Trạch diệt vô-vi, Phi trạch diệt vô-vi và Hư không vô-vi.

    III.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

    Phương pháp tu hành của Thành thật tôn cũng gần giống như của Câu xá tôn; nhưng vì Câu xá tôn chủ trương "nhơn không pháp hữu"; còn Thành thật tôn thì chủ trương "nhơn không pháp không ", nen về phưpưng pháp tu hành của Thành thật tôn,đặc biệt có hai pháp quán là: Ngã không quán và Pháp không quán.

    1.- Ngã không quán và Pháp không quán

    a) Ngã không quán: như quán trong cái bình không có nước, thì gọi là Không. Quán thân ta do năm uẩn hòa hợp giả tạm mà có, chứ không có một cái ta chân thật. Pháp quán này mục đích là nhận rõ lý ngã (nhơn) không, nên gọi là " Ngã không quán".

    b) Pháp không quán: như sau khi quán cái bình không có nước, lại quán thêm một tầng nữa để thấy rằng, thể chất của bình cũng không chân thật. A鰠dụng pháp quán này trong thân người, hành giả đi đến kết luận rằng: không những cái ta là không thật, do ngũ uẩn tạo thành; mà chính các pháp tạo ra ngũ uẩn cũng không chơn thật. AṠlà pháp quán về pháp không.

    2.- Ba tâm và diệt đế

    Phương pháp này cũng gần giống như hai pháp quán trên, nhưng đi xa hơn một tầng, nghĩa là không chấp có, nhưng cũng không chấp không. Ba tâm là:

    a) Giả danh tâm, tức là cái tâm chấp những giả danh, như chấp người ta là có thật. Đối với sự chấp trước này, hành giả dùng trí huệ mà quan sát, biết nó đều là nhơn duyên hòa hợp mà sanh, tức chứng được lý nhơn không.

    b) Pháp tâm, là cái tâm chấp pháp thể năm uẩn là thực có. Đối với sự chấp trước này, hành giả dùng trí Chơn không mà trừ bỏ, thấy được pháp không.

    c) Không tâm là cái tâm chấp cái "không " là thật có, nghĩa là đã quán biết được nhơn ngã, Pháp ngã đều không, mà lại chấp cái "không " là thật. Như thế, chấp "có" đã là sai, mà chấp "không" lại càng sai hơn. Vậy phải quán Ngã, Pháp đều không, mà cái không ấy cũng không có tướng nắm bắt, nhận thấy được, như không giới. Rốt lại chỉ còn cái"Chơn không " là chơn lý tuyệt đối, ngoài ra "có" và "không" của phàm tục. Đến đây tức là Diệt đế.

    IV.- QUẢ VỊ TU CHỨNG

    Về quả vị tu chứng, tôn này cũng giống như Câu xá tôn, có 27 từng bực, tức là 27 vị Hiền Thánh.

    a) Dự lưu hướng: Dự lưu hướng, nghĩa hướng tới dòng thánh; nói một cách nôm na, hành giả đang đi dần đến để nhập vào dòng thánh, như chiếc thuyền dang đi trên dòng sông con, để vào con sông cái. Dự lưu hướng gồm có 3 bực sau đây:

    1.- Tùy tín hành: Tùy tính nghĩa là nghe theo lời dạy của các bậc đã chứng quả, rồi tin và tu tập theo.

    2.- Tùy pháp hành: Vị này không còn đợi có những lời dạy bảo của các bực thánh hiền, nhưng chỉ thuận theo chánh pháp mà tự tu hành.

    3.- Vô tướng hành: Là bậc kiến đạo, thấy được chơn lý của lý diệu đế, trí vô lậu đã phát sanh.

    b) Dự lưu quả: Tức là quả tu đà hoàn. Bực này đã dứt hết những kiến hoặc trong ba cõi, dự vào dòng thánh đạo.

    c.) Nhứt lai hướng: Bực này đã dứt được năm phẩm tư hoặc ở cõi Dục giới, đang hướng đến quả Nhứt lai.

    d.) Nhứt lai quả: Bực này đã dứt được phẩm tư hoặc thứ sáu ở cõi Dục giới, nhưng còn phải trở lại một cõi lần cuối cùng (nhứt lai) ở cõi Dục giới.

    đ) Bất hoàn hướng: Bực này đã dứt được hai phẩm tư hoặc thứ bảy và thứ tám ở cõi Dục giới, và đang tu hành để hướng đến quả Bất hoàng, là quả thoát ra vòng Dục giới và không còn trở về Dục giới nữa.

    e) Bất hoàn quả: Bực này đã hoàn toàn dứt được 9 phẩm tư ở cõi Dục giới, cho nên không trở về cõi Dục giới nữa. Quả này gồm có 11 bực như sau:

    1.- Trung ban: Bực này, sau khi ở cõi Dục giới vừa cheết, sắp sanh lên cõi Sắc giới, cái thân trung ấm tuy còn ở vào khoảng trung gian mà đã dứt trừ các mê lầm phiền não của cõi Sắc giới, nên vào ngay Niết bàn.

    2.- Sanh ban: Bực này sau khi lên cõi Sắc giới, chẳng bao lâu thì vào Niết bàn; ấy là do sự siêng năng về đường tu đạo mà mau tới vậy.

    3.- Hứu hành ban: Bực này sau khi sanh về cõi Sắc giới, tu hành tinh tánh mãi không nghỉ, mà vào được Niết bàn.

    4.- Vô hành ban: Bực này trái lại, sau khi sanh vào cõi Sắc giới, vì trễ nãi đường tu hành, nên thành quả dù chậm đến, nhưng cuối cùng cũng vào Niết bàn.

    5.- Lạc huệ ban: Bực này sau khi sanh vào cõi Sắc giới, lại lần được sanh vào Sắc cứu kính là cõi cao nhất ở cõi Sắc giới mới vào Niết bàn. Cõi trời Sắc giới có định, có huệ, bực này làm huệ làm vui nên gọi là "Lạc huệ".

    6.- Lạc định bàn: Bực này không chịu vào Niết bàn nơi cõi Sắc giới, mà còn muốn chuyển sanh lên cõi Hữu đảnh là cõi cao của Vô sắc giới, mà vào Niết bàn. Trong cõi Vô sắc giới này, chỉ có định mà không có huệ, hành giả lấy định làm vui, cho nên gọi là Lạc định.

    7.- Chuyển thể: Bực này sau khi ở cõi Dục giới, chứng được quả Dự lựu và Nhất lai, đáng lẽ sanh về cõi Sắc giới hay Vô sắc giới, nhưng hành giả lại chuyển sanh vào cõi Dục giới mà tu hành, chứng được quả Bất hoàn rồi vào thẳng ngay Niết bàn.

    8.- Hiện ban: Bực này không sanh vào cõi Sắc giới, Vô sắc giới, cũng không cần chuyển sanh, chỉ tu tập trong một thời kỳ, chứng luôn ba quả, rồi đi thẳng từ cõi Dục giới vào Niết bàn.

    9.- Tín giới: Bực này, vì căn cơ hơi chậm lụt, nên chỉ tin theo lời dạy bảo của kẻ khác mà tu hành, chứng được quả Bất hoàn.

    10.- Kiến đắc: Bực này, trái lại với bực Tín giới ở trên, chứng được quả Bất hoàn là nhờ có căn cơ lanh lợi, tự nương theo trí huệ của mình mà thôi.

    11.- Thân chứng: Bực này là bực lợi căn tột độ, chứng được Diệt tận định.

    Mười một bực Bất hoàn quả kể trên này, không phải có thứ bậc tuần tự mà hành giả phải vượt qua. Đây chỉ là 11 trường hợp khác nhau trong quả Bất hoàn, do căn cơ lanh lẹ, hay chậm lụt, do sở nguyện hay hoàn cảnh, tâm tính khác nhau mà ra. Nhưng dù sao, thì cũng là ở trong quả Bất hoàn cả, không có cao và thấp hơn và kém, và đều gọi là A la hán hướng, nghĩa là đang hướng đến quả A la hán.

    Nếu kể từ bậc đầu tiên là: Dự lưu hướng cho đến bậc Bất hoàn quả, gồm cả thảy 18 bậc, thì gọi là bậc Hữu học.

    Còn chín bậc cuối cùng sau đây là chín bậc A la hán quả, cũng gọi là bậc Vo học.

    g) A la hán quả: Quả vị này gồm có 9 bậc, cũng gọi là Vô học, nghĩa là không cần phải học hỏi gì nữa.

    1.- Thối pháp tướng: Thối nghĩa là thối lui. Thối lui ở đây không có nghĩa là thối lui về sanh tử, làm chúng sanh, mà thối lui về cảnh thiền định đã đặng, như các bậc độn căn La hán.

    2.- Thủ hộ tướng: Thủ hộ là gìn giữ bảo hộ. Thủ hộ tướng tức là bậc La hán gìn giữ bảo hộ cảnh thiền định đã được, không mất.

    3.- Tử tướng: Là bực La hán rất nhàm chán thế gian, lại sợ thối mất chỗ chứng ngộ của mình, nên muốn vào liền cõi Niết bàn.

    4.- Trú tướng: Là bực La hán, căn cơ không thể tu tới mà cũng không đến nỗi thối lui, chỉ giữ về bực trung mà thôi.

    5.- Khả tấ鮠tướng: Khả tấn là có thể tiến thêm nữa. Đây là bực La hán đã chứng được bực thiền định, mà còn tu tới mãi.

    6.- Hoại tướng: Đây là bực La hán,căn cơ chậm lụt, nhưng vẫn giữ được không thối lui, mặc dù gặp phải duyên trở ngại.

    7.- Huệ giải thoát: Bực La hán này đã chứng được Diệt tận định, được chơn trí vô lậu, đã giải thoát các phiền não, nhưng chưa ly được sự chướng ngại về cảnh thiền định.

    8.- Cầu giải thoát: Đây là bực La hán đã giải thoát được cả huệ chướng và định chướng; nghĩa là không còn bị trí huệ hay thiền định làm chướng ngại nữa.

    9.- Bất thối tướng: đây là bực La hán có căn cơ lanh lợi, bao nhiêu công đức trí huệ đã tu tập đều không thối lui hay là tiêu mất được .

    Tóm lại, mặc dù quả vị tu chứng của yôn này có chia ra đến 27 bậc, nhưng đó là muốn chia chẻ một cách rốt ráo của từng trường hợp, chứ đại khái cũng giống như quả vị tu chứng trong Câu xá tôn. Thật vậy, nếu chúng ta đem so sánh quả vị của hai tôn Câu xá và Thành thật, thì sẽ thấy như sau:

    CÂU XÁ TÔN: THÀNH THẬT TÔN:

    1.- Tu-đà-hoàn 1.- Dự-lưu-hướng

    (hay Nhập-lưu) và Dự-lưu-quả.

    2.- Tu-đà-hàm 2.- Nhứt-lai-hướng và

    (hay Nhứt-lai). Nhứt-lai-quả

    3.- A-na-hàm 3.- Bất-hoàn-hướng

    (hay Bất-lai). Và Bất-hoàn-quả

    4.- A-la-hán 4.- A-la-hán (Vô-sanh,

    (hay Vô-sanh Vô-học) Vô-học).

    V.- KẾT-LUẬN

    Thành-thật tôn, cũng như Câu xá tôn, đều thuộc các tôn phái của Tiểu-thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của hai tôn cũng gần giống nhau, chỉ có khác ở điểm: Câu xá tôn thì chủ trương "nhơn không pháp hữu" , còn Thành-thật tôn thì chủ trương "nhơn không pháp không ". Như thế, Thành thật tôn đã bước thêm một bước lại gần Đại -thừa Phật giáo hơn. Đó là một điểm chứng-minh rằng theo với thời gian, Tiểu-thừa và Đại -thừa càng xích lại gần nhau hơn. Với cái đà ấy, chúng ta hy vọng rồi đây, giữa giên giới hai phái lớn của Phật giáo sẽ được xóa hết, chỉ còn lại một danh từ, một cái đạo chung cho cả thế giới là Đạo Phật.

    Hoài bảo ấy, hiện tổng hội Phật giáothê giới đang cố gắng thực hiệnqua nhiều quyết nghị trong các đại hội Phật giáothê giới. Và ở Việt namhoài bảo ấy được thể hiện trong những ngày đầu năm 1964, dưới danh hiệu Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất. Trong giáo hội này, các giáo phái Đại Thừađều thề nguyện chung sức chung lòng để phát huy nền Phật giáo Việt nam mỗi ngày thêm rạng rỡ.


    --------------------------------------------------------------------------------

    TỔNG KẾT VỀ MƯỜI TÔN

    Chúng ta đã có một cái nhìn tổng quàtvê mười tôn. Chúng ta đã hiểu sơ quạư thành lập tôn chỉ và giáo lý căn bản, sự tu hành váự chứng quả của mười tôn. Vì đay là những bài học phổ thông, nên chúng ta không thẻ đi sâu vào chi tiết,và phạm vi cũng như thời không cho phép chúng tôi nói nhiều hơn nữa. Nếu quý vị đọc giả nào muốn hiểu rõ ràng hơn, hãy tìm các kinh sách nói về mười tôn ấy.

    Mặc dù vắn tắt, qua những bài học này, chúng ta có thể nắm được những điểm chính căn bản của mỗi tôn.

    Mỗi tôn, tuy có một tôn chỉ một chủ trương riêng, nhưng tôn nào cũng thờ đức Phật Thích ca làm giáo chủ, và dựa trên các kinh điển của ngài đã nói mà lập tôn.

    Sự sai khác chẵng qua là cách giải thích vũ trụ hữu hạn và phương pháp tu hành. Chứ còn những điểm chính căn bản, thì mọi tôn phái công nhận giống nhau,là: có một chân như trong suốt , linh diệu bên trong vũ rụ vjn hữu, làm nền móng cho mọi hiện tượng ở thế gian này. Chúng sanh không công nhận được cái chân như ấy, vì chúng sanh bị vô minh che ám; nhưng với phương pháp tu hành mà đức Phật Thích ca đã dạy bảo, chúng ta sẽ giác ngộ và thể nhập với các chân như ấy.

    Nếu sự giải thích vũ trụ vạn hữu có nhiều cách, và phương pháp tu hành có nhiều lối là vì xu hướng và trìnhđộ và căn cơ của chúng sanh không đều; cũng như phương pháp chữa bệnh, phải tùy bệnh nặng nhẹ, phải tùy người mà cho thuốc . làm sao cho bệnh nhân lành bệnh là lương y giỏi.

    Chúng ta rất không may, ở vào thời kỳ mạt pháp , không có lương y giỏi. Nhưng sự giải thích căn bệnh và phương pháp chữa bệnh của các bậc đại lương y là giáo lý của các tôn phái, đang còn đó. Chúng ta hãy tụ nghiên cứu lấy căn bệnh của chúng-ta, và hãy lựa phương thuốc nào thích hợp với bệnh của chúng ta mà uống thì chắc chắn chúng ta sẽ lành bệnh.

  12. #12

    Mặc định

    2. TỊNH ĐỘ TÔN

    --------------------------------------------------------------------------------

    Tôn này thuộc về Đại- thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật đẻ được cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A-DI-Đà. Do đó, tôn này mới có tên là Tịnh độ tôn.

    Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, củng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi, thì tôn này là môt đại lộ bằng phẵng ,rộng rãi, mát mẽ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường.

    Bởi những lẻ ấy, nên từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt nam chúng ta, ngày xưa củng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tôn này. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài này để giới thiệu " con đường tu thứ hai" trong mười tôn phái của Phật Giáo.

    1.-DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

    Tịnh độ căn cứ vào những kinh điền gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tôn đã y- cứ thì rất nhiều. Ơí đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Đó là các bộ:

    1.-Kinh vô lượng thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thề nguyên của đức A-Di-Đà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương Thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãn sanh về cõi tịnh độ của Ngài.

    2.- Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.

    3.- Kinh tiểu bổn A-Di-Dà:Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp môn ‘’trì dân niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn’’ để được vãng sanh về cõi ấy.

    Ba kinh trên này là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là ‘’ ba kinh Tịnh độ’’. Ngoài ra còn có các kinh khác như:

    Kinh Bửu tích chép việc đức Phật vì vua Tịnh phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn ‘’trì dân niệm Phật’’ để cầu sanh về Thế giới Cực lạc.

    Kinh đại bổn A-Di-Dà, Kinh Thập lục quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa, kinh Phương Đẳng, kinh Hoa nghiêm.v.v..

    Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Đông-tấn nhờ Ngài Huệ-viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Đàm loan, ngài Đạo Xước, ngài Thiện-đạo.v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.

    II. BỐN CÕI TỊNH ĐỘ

    Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Đứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:

    1.- Thường tịch quang Tịnh độ: đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. ‘’Thường’’ là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân Phật; ‘’Tịch’’ là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; ‘’Quang’’ là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ‘’Thường tịch quang Tịnh độ’’.

    Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác ‘’thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh’’, nên gọi là ‘’Thường tịnh quang Tịnh độ’’. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thanh và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Độ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là ‘’Pháp Thân’’, còn về độ, thì gọi là ‘’Thường tịch quang Tịnh độ’’.

    Kinh Tinh danh, về lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ‘’Thường tịch quang Tịnh độ’’.

    2.- Thất-báo trang nghiêm Tịnh đo亠hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn- thật nên gọi là ‘’Thật-báo trang nghiêm Tịnh độ’’. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán-vô-lượng -thọ về lời sớ có chép: ‘’Tu-tập chơn-thật’’, cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là ‘’Thật báo trang nghiêm’’. Bên Đại-thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Đại-thừa Biệt-giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Đẳng giác Bồ Tát.

    3.-Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Đây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến-hoặc và tư-hoặc trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới và Vô-sắc-giới ), nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô-minh hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là ‘’hữu-dư ’’. Đã là ‘’hữu-dư ‘’ tức là chưa phải hoàn toàn cứu-cánh, nên gọi là cõi Tịnh độ này là ‘’ Phương-tiện hữu-dư Tịnh độ ‘’.

    4.- Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Đây tức là cõi Tịnh độ của Đưc Phật A-di-đà ở Tây-phương. Đã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bón ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng-sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ‘’Phàm thánh đồng cư Tịnh độ ‘’.

    Vì phần đông tín-đồ Phật Giáo Việt-Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực-lạc của Phật A-Di-Đà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh ‘’Tiểu bổn A-Di-Đà’’ thuật lại lời Đức-Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ‘’...Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực-lạc. Vị Giáo-chủ ở Thế-giới ấy là Phật A-di-đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn (tường-hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Đáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.

    Trên không trung hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật họa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng phát nhiệm mầu.

    Cảnh giới Cực-lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A-Di-Dà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành chữ A-Di-Dà người Trung Hoa dịch là ‘’Vô lượng thọ’’, hay ‘’Vô lượng quang’’, nghĩa là đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chiếu sáng cũng không lường.

    *** Chữ A-Di-Đà, người Trung Hoa dịch là "vô lượng thọ" hay "vô lượng quang", nghĩa là Đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chói sáng cũng không lường

    III.- BA YẾU TỐ ĐỂ CẦU SANH VỀ TỊNH ĐỘ¼/font>

    Muốn được vãng-sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giã phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư-luơng (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu một món ăn nào, hành-giả củng không thể tu hành có kết quả được.

    1.-Thế nào là ‘’Tín’’? -Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được Đức tin rất quan trọng va fcần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa-Nghiêm có dạy: ‘’ Tin là mệ sanh ra các công đức ’’. Nhờ đức tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu được.

    Tin có ba phần:

    a). Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các viẹc sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sang thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin răng fdo lòng từ-bi muốn cứu khổ sanh-tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo người mà được chúng sanh vãng-sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Đức-Phật Thích- ca không hư đối, Đức-Phật A-Di-Đà và cảnh Tịnh độ đều có thật.

    b). Tin Pháp: Tin rằng pháp-môn niệm Phật là pháp-môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyền của Phật A-Di-Đà có đầy đủ hiệu lực để ccứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng-sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Đà.

    c). Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp-môn này. Tin rằng nếu mình thực-hành đúng như lời Phật Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A-Di-Đà, chuyên trì danh hiệu Phật A-Di-Đà cho đến ‘’ nhất tâm bất loạn’’ thì khi lâm-chung chắc chắn thế nào mình củng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.

    2.-Thế nào là ‘’nguyện’’? Nguyện là lời hứa-hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, àl cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đêá mục đích.

    Nguyện quan trọng như thế, nên hành-giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp-môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Đà.

    Để có một ý-niệm về chữ ‘’ nguyện ’’, chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A-Di-Đà, khi còn làm Pháp-tạng Tỳ-Kheo:

    -‘’ Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh-pháp ‘’.

    -‘’ Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp-giới phát tâm Bồ-Đề, tu các công đức, một lòng phát-nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, gia như ta không cùng với đại chúng đoanh vây hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh-giác ‘’.

    ‘’ Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác ‘’.

    3.-Thế nào là ‘’Hành’’?- Hành là thực-hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ ước ao, mong muốn ảo-huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện,Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ củng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng-sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đúng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.

    IV.-PHƯƠNG PHÁP TU VỀ TỊNH ĐỘ

    Sau kh đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rỏ phương pháp tu hành. Vvẫn biết rằng pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật củng có nhiều cách, nhiều loại, mà chúng tôi xin dẫn một ìt phương phát sau đây:

    1.-Trì-danh niệm Phật: -Trong lối niệm Phật này, hành-giả chỉ chuyên tâm trì-niệm danh hiệu của Phật A-Di-Đà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngũ, hành-giả phải chớ niệm luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngũ, hành-giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả cần phải xem phương pháp ‘’ Kinh hành niẹm Phật ‘’ (xem nghi thức kinh hành niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành-giả đều hồi hương cầu sanh Tịnh độ.

    2.- Tham-cứu niệm Phật: -Trong lối tu này, hành-giả phải tham khảo cứu-xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm ‘’ Nam-mô A-Di-Đà Đà Phật ‘’, hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai v.v..? Nhờ sự chuyên tâmchú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng-tưởng dần dần chìm lặng, nước hiện tâm hiện bày, hành-giả được ‘’ nhất tâm bất loạn ‘’, đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh-giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu ‘’ thoại đầu ‘’ bên Thiền-tôn, nên gọi là ‘’ tham-cứu niệm Phật ‘’.

    3.- Quán-tương niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật.

    Hành-giả ngồi trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt mà liên tưởng các đức-tánh của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ-xã của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành-giả phai dần; nhờ quán từ-bi của Phật mà tánh Sanh của hành-giả bớt dần ...Hễ quán thêm một đức-tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành-giả được bớt đi. Tánh của Đức-Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành-giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiêìu va fcàng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ-bi, hỷ-xả, bình-dẳng, lợi tha được huân-tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành-giả sẽ thanh-tịch, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng-sanh về cõi Phật.

    4.-Quán-tưởng niệm Phật:- Trong lối tu này, hành-giả ngồi yen một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành-giả quán tưởng như có Đức-Phật A-Di-Đà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành-giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, củng tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp dẫn. Hành-giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi củng không dừng nghĩ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là páhp quán đã thuần-thục. Khi lâm chung, hành-giả chắc chắn sẽ được vãng-sanh về Tịnh độ.

    Trong kinh Quán Phật tam-muội chép rằng: ‘Phật vì Phụ-vương, nói pháp quán-tưởng bạch hào ...’’. Quán-tưởng bạch-hào nghĩa là quán-tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Đây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.

    5.-Thật tướng niệm Phật:- Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là"thật tướng ".

    Trong năm pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm ( thật tướng niệm Phật ) là thuộc về lý: không còn, niệm còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.

    Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bi thử, không hữu, khong vô. Đến chỗ này, kinh Di-Đà gọi là"được nhất tâm bất loạn". Kinh Tứ thập nhi chương chép; "niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm".

    Trong năm pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, củng đều có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.

    V.-LỢI ÍCH CỦA PHÁP NIỆM PHẬT

    Lợi ích của pháp niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về Lý.

    1.-Lợi ích về Sự:
    a) Niệm Phật sẽ trừ được các phiền não.

    Những người gặp các cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất thường v.v ..sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khỗ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại có kết quả tốt đẹp như thế? Vì taam ta củng như dòng nướcluôn luôn tuôn chảy. Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở thành đục bẩn; nếu chúng ta pha vào những chát thơm tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ nhớ nhgĩ đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên đau khổ. Đémự nhớ Phậtnày thế cho câí nhơá sự đau khổ; một giờ niệm Phật thì sẽ đổi được một giòpw sầu khổ, một ngày niệm Phật thìđổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm Phật được tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ gỉam đi chừng âý. Cho nen cổ nhân có câu"Một câu niệm Phật giải oan khiên".

    Trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm Phật nảychi cho một số người sầu khổ gần như điên cuồng, vì sự nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết quả rất là tốt đẹp.

    b)Niệm Phật sẽ trừ được niệm chung sanh. -Chúng sanh hằng ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v ..miệng thốt ra những điều tội ác, thân làm những việc xấu xa. Đó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng ta niệm Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc tội lỗi nừava thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế là niệm Phậtsẽ trừ được niệm chúng sanh. Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì niệm chúng sanh dứt sạch.

    c.-Niệm Phật sẽ làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn.-Bệnh tật của chúng ta, một phần do thể xác, nhưng một phần củng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v.. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng lên tâm can chúbg ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thâm tâm ta được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sựhồi hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được,ngủ yên và bệnh mau bình phục.

    d.-Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ:-Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được.nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng vậy.

    đ) Niệm Phật, khi lâm chúngẽ được sanh về Tịnh độ.-Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thẻ chât lãn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến " nhất tâm bất loạn" thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ,được luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên để tiếp tụctu hành cho đến quả Phật.

    2.-Lợi ích về Lý

    Khi hành giả niệm Phật được "nhất tâm bất loạn", thì các vọng tưởng hết, chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là "Thường",chơn tâm thanh tịnh vắng lặnglà "Tịch", chơn tâm sáng suốt vô cùng là " Quang".cảnh "Thường-Tịch-Quang Tịnh-độ" chỉ ở nơi chơn tâm ta, chứ không nơi đâu khác.

    Lại nữa, chơn tâm không hoại diệt là"Phật Vô-lượng-thọ"; chơn tâm chiếu soi vô tận là "Phật Vô-lượng-quang" và đó củng tưc là "Thanh -tịnh diệu pháp thân của Phật A-Di-Đà".

    Tóm lại, người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật A-Di-Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép:"Tự tánh Di-Đà, duy tâm Tịnh độ" là vậy.

    Xuyên qua các đoạn trên, chúng ta thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng. Nếu những người không tin có Phật A-Di-Đà, có cảnh Tịnh độ mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như trên.

    VI.- SỰ QUY NGƯỠNG VÀ CẦU SANH VỀ TỊNH ĐỘ
    CỦA CÁC VỊ BỒ TÁT VÀ TỔ SƯ Chúng ta đừng tưởng rằng Pháp môn Tịnh độ là một Pháp môn tầm thường, giản dị chỉ dành riêng cho những người căn trí thấp-thỏi, hẹp hòi tu hành. Thật ra, mặc dù Pháp môn này không đòi hỏi hành-giả có một sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng, nhưng vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ tát và Tố sư đã được thực hành pháp-môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Văn thù là vị Bồ tát có một trí tuệ tối-thắng, không ai sánh kịp, thế mà Ngài cũng phát nguyện sanh về nước Cực-lạc của Phật A-Di-Đà như sau:

    Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
    Tận trừ nhất thế chư chướng- ngại
    Diện kiến bị Phật A-Di-Đà
    Tức đắc vãng-sanh An-lạc sát.
    (Tôi nguyện đến khi lâm- chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy được Phật A-Di-Đà, liền được vãng -sanh về cõi Cực-lạc).

    Các vị Bồ tát như Ngài Phổ Hiền, Quán-Âm, Đại-Thế-Chí cũng đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ.

    Các vị Tổ ở các tôn khác, mặc dù hoằng truyền tôn mình, nhưng cũng vẫn tu về Tịnh độ. Như Ngài Thiên-Thân, tổ của Duy- thức tôn; Ngài Trí-giả đại- sư, tổ của Thiên -Thai tôn; Ngài Hiền-thủ, tổ của Hoa -nghiêm tôn; Ngài Nguyên -Chiếu luật sư, tổ của Luật tôn; Ngài Mã-Minh, Long -Thọ, tổ của Thiền-tônv.v.. .cũng đều thực hành pháp môn Tịnh độ.

    Sau nữa, các vị Đại sư danh tiếng ở Trung Hoa, như Ngài Đàm Loan, Ngài Đạo Xước, Ngài Thiện đạo, Ngài Thừa Viễn, Ngài Pháp-Chiếu, Ngài Thiếu-Khương, Ngài Tĩnh-Am v.v..đều dùng pháp-môn này để tự độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay.

    VII.- KẾT LUẬN

    Chúng ta đã biết qua tôn-chỉ, đặc điểm phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh- độ tôn. Đến đây chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ lưỡng, xem phương pháp tu về Tịnh độ tôn này, có thiết thực lợi ích và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta nhận thấy phương pháp tu này rõ ràng không thích hợp với chúng ta, thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một phương pháp khác. Nhưng chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi ích chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và mai sau, thì chúng ta đừng chần chừ gì nữa, hãy hạ thủ công- phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món tư-lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh-tấn thực-hành các phương pháp niệm Phật.

    Với thái độ thiết tha chân thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ ‘’Nhất tâm bất loạn’’.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •