kết quả từ 1 tới 17 trên 17

Ðề tài: Thần Quyền và Huyền Bí trong Đạo Phật

  1. #1

    Mặc định Thần Quyền và Huyền Bí trong Đạo Phật

    Những chuyện Thần Quyền và Huyền Bí trong Đạo Phật

    tác giả Bạch Liên


    VÀI LỜI NÓI ĐẦU


    Kính thưa chư quí độc giả thân mến.

    Những chuyện tích trích trong sử sách Phật mà tôi kể ra sau đây không lạ chi với các hàng Phật tử và các vị đã nghiên cứu Phật giáo. Tôi chỉ giải thích nó dưới một hình thức khác hơn ý nghĩa thông thường mà thôi.

    Điều nầy không có chi gọi là lạ, bởi vì Chơn lý hiện ra nhiều mặt, mỗi người nhận thức một mặt khác nhau tùy theo trình độ tiến hóa của mình.

    Chơn lý ở khắp nơi. Trên trời, dưới đất, giữa không trung, trong mình con người, thú vật, cây cỏ, sắt đá đều có Chơn lý ẩn tàng. Nó cũng hiện ra trong văn chương, mỹ thuật, khoa học chớ không phải riêng gì Tôn giáo mà thôi.

    Bây giờ ta hãy nêu ra câu hỏi nầy. Tại làm sao con người khát khao Chơn lý mà phải đi tầm nó ? Nó đem lại hạnh phúc gì cho con người ?

    Giải ra thì dài dòng lắm. Tôi xin nói tóm tắt rằng : Ta phải tìm Chơn lý để hiểu biết vì duyên do nào con người sanh ra trên cõi trần nầy ? Thật sự con người có phải là xác thân nầy không ? Con người phải làm những gì và phải tránh những gì ?

    Nếu con người sanh ra, lớn khôn, lo học tập đặng lập thân danh và gia đình, rồi già, kế chết; mà chết rồi thì hết chuyện thì cuộc đời không có mục đích gì cả.

    Bởi con người chưa nhận thấy được mục đích thật của cuộc đời cho nên mới có những việc xô xát nhau, hà hiếp nhau, sát hại nhau, chỉ vì bã vinh hoa phú quí, miếng ăn, đất ở, chỗ đứng, nơi ngồi, để chung qui cũng nắm hai tay trắng mà xuống mồ. Con người sống trong giấc mộng mà không ngờ chút nào, mà cũng không dè mình còn tồn tại đây chẳng những nhờ vật thực mà cũng nhờ Chơn lý nữa.

    Chơn lý đã hữu ích như thế thì ta phải tìm nó ở đâu ? Hiện giờ ta không thể nương theo khoa học vì khoa học chưa nói tiếng chót.

    Ta quay về Tôn giáo thì ta lại càng thêm thất vọng. Tôn giáo không thể giải thích nổi những sự ta đang thắc mắc đây, không làm cho ta được hài lòng. Tôn giáo dạy chúng ta phải :

    Lánh những việc ác

    Làm những điều lành

    Lo rửa lòng cho trong sạch.

    Thử hỏi làm mấy việc nầy ích lợi gì ?

    Người ta sẽ bảo : “Có thế mới hưởng hạnh phước kiếp sau và thác rồi khỏi sa Địa ngục”.

    Cứu cánh tôn giáo chỉ có thế thôi ư ?

    Phải chăng tôn giáo đã mất chơn truyền rồi nên không hiểu rằng việc tu tâm luyện tánh có một mục đích cao siêu hơn nữa, ấy là giúp cho con người học được khoa Huyền bí học. Khoa nầy dạy lý do sanh hóa một Thái dương hệ và chỉ phương pháp cho con người luyện mình đặng trở nên trọn sáng, trọn lành trong một thời gian ngắn ngủi, trước hạn kỳ của cơ trời đã định sẵn. Trong tôn giáo người ta gọi khoa nầy là “Mật” hay là “Hình nhi thượng học”.

    Thuở xưa hồi mới ra đời, mỗi tôn giáo lớn như Ai Cập giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đều có khoa Hình nhi thượng học để đào tạo những bậc Thánh nhân, Hiền Triết. Ngày nay khoa Hình nhi thượng học trong các tôn giáo không còn nữa. Vì lý do nào ? Người học đạo đều biết nhưng không tốt chi mà đem nói ra tất cả những sự thật về mấy việc ấy. Luôn luôn chúng ta chỉ nên nhớ câu nầy của Shakespeare :

    “Xin lắng nghe cho êm thấm.

    Xét đoán cho nhơn từ.

    “Écoutez avec douceur

    Jugez avec bonté.

    Thật ra sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn một ít lâu và các vị đệ tử lớn đều nối gót mà qui vị thì khoa Hình nhi thượng học của Phật giáo cũng theo thời gian mà lẫn khuất trong đám sương mù.

    Hiện giờ những di tích Hình nhi thượng học của Phật giáo còn thấy trong nhiều cuốn kinh Phật, nhưng nếu không nhờ ánh sáng của Huyền bí học thì khó mà thật hiểu được nghĩa lý của chúng nó.

    Thử hỏi một chuyện nhỏ mọn nầy. Muốn thành Phật phải có những điều kiện nào thì không một ai trả lời nổi ? – vì không một người nào biết việc đó. Không biết thì làm sao tu cho thành Phật bây giờ.

    Đạt được quả vị Phật không khác nào việc thi đậu Thạc sĩ ở dưới trần. Muốn tới trình độ nầy thì phải trải qua nhiều cấp, từ Sơ học, Tiểu học cho đến Trung học và Đại học, phải thi đậu văn bằng Tiểu học, Tú Tài và Cử nhân.

    Tin rằng chỉ niệm Lục Tự Di Đà hay là tụng kinh gõ mõ và ngồi thiền vài năm thì đắc đạo, được về Tây phương Cực lạc, ngự trên tòa sen thì không khác việc tin rằng một đứa bé mới biết đọc, biết viết, chưa học qua hết chương trình Tiểu học, nói chi đến Trung học và Đại học mà thình lình lại thành một vị Thạc sĩ. Nếu quả vị Phật đạt được như trở bàn tay thì nó không có giá trị gì cả.

    Không nói tới luật trời; ở trần thế nầy đây, mỗi người phải ở một ngôi vị xứng đáng với tài và đức của mình. Thiên Địa chí công, không có một sự tư vị nào cả. Chúng ta phải diệt những thành kiến cũ kỹ trước đây và lo dọn mình cho trong sạch như lời Phật dạy đặng bước tới thềm Thánh Điện mà trên ngưỡng cửa có khắc hai chữ thật to “ PHỤNG SỰ ”.

    Thí sanh phải qua năm cửa, mỗi cửa đều có những điều kiện nhứt định và khác nhau, nhứt là về các đức tánh. Qua khỏi một cửa nào rồi thì một bức màn vô minh vén lên, thí sanh mở rộng tâm và trí một lượt và thành một người mới; khác hơn trước. Vào cửa thứ năm rồi, toàn thể Chơn lý ở dãy Địa cầu nầy hiện ra. Con người thành một vị Siêu phàm. Đó là con đường Đạo cũng gọi là Minh Triết thiêng liêng, con đường duy nhứt, trường tồn với thời gian, không bao giờ hư hoại, mà từ ngàn xưa các vị tu hiền đều phải noi theo đặng đi tới bực Chánh đẳng, Chánh giác. 2.500 năm trước, nhiều vị đệ tử của Phật như Ma Ha Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Kiều Trần Như, A Nan Đa, U Ba Li, Chullapanthaka v. v. . . đã nối gót các bực tiền bối và nhờ đó mới đắc quả La Hán.

    Trong cuốn Những chuyện Thần Quyền và Thần Bí trong Đạo Phật tôi cố gắng thuật lại cho quí bạn nghe, nhứt là những bạn ái mộ Chơn lý và những bạn thanh niên nam nữ, mặc dầu một cách vụng về, những lời châu ngọc của các vị Đại Sư Huynh tôi đã chỉ dạy về con đường Minh Triết thiêng liêng nầy. Cầu xin chúng nó giúp ích quí bạn tu hiền phần nào và được góp công vào công việc chấn hưng Phật Giáo nước nhà.

    Lành thay ! Lành thay !

    Châu đốc ngày mùng bốn tháng chạp năm Canh Tý

    nhằm ngày 20 tháng giêng dương lịch năm 1961 (20-1-1961).

    I

    Tây phương nghe nói những trông mong,

    Bến giác thuyền từ đáy vốn không,

    Ai biết Tây phương là cảnh đó ?

    Đèn linh một ngọn chiếu trong lòng.

    II

    Phật tại lòng ta chớ có lầm,

    Tây phương đâu nữa nhọc công tầm,

    Khéo vun cội phúc gìn tâm ý,

    Tám Chánh, Năm Hằng pháp diệu thâm.

    III

    Tám Đường, Năm Cấm Phật phân rành,

    Dưỡng tánh tu tâm khá tập tành,

    Đến hội Bàn Đào nên quả vị,

    Mau đem thuyền giác độ nhơn sanh.

    BẠCH LIÊN

    --------------------------------------------------------


    CHƯƠNG DẪN NHẬP



    ĐẠO PHẬT CŨNG NHƯ CÁC TÔN GIÁO KHÁC CHỨA ĐẦY NHỮNG CHUYỆN THẦN QUYỀN VÀ THẦN BÍ TỪ ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC PHẬT GÔ TA MA CHO ĐẾN GIÁO LÝ CỦA NGÀI.

    Nhiều bạn thường nói với tôi : Đạo Phật không công nhận Thần quyền tức là không tin có Đức Thượng Đế và trong giáo lý cũng không có chi gọi là Thần bí cả. Luôn luôn tôi vẫn đáp : Tôn giáo là gạch nối giữa con người và Đức Thượng Đế. Nói đến Tôn giáo tức là nói đến chuyện Thần quyền và Thần bí. Chỉ tại người ta không phân biệt thế nào là “Công nhận Thần quyền” và thế nào là “Ỷ lại Thần quyền”. Tất cả những người học Đạo đều công nhận Thần quyền mà không bao giờ ỷ lại Thần quyền. Khi con người hiểu được Bản Tánh Thiêng Liêng của mình và mục đích sự sanh hóa một Thái dương hệ thì con người mới biết được cứu cánh của các tôn giáo và tại sao có những tôn giáo khác nhau sanh ra trên Địa cầu. Con người cũng sẽ hiểu rằng Thần quyền tức là sự áp dụng Luật Trời và những quyền năng còn tiềm tàng trong mính con người, ấy là những Thần quyền vậy.

    Tôi xin đem hai thí dụ nầy để chứng minh :

    Một là : vỗ tay sấm nổ.

    Hai là : con mắt thần.

    I: VỖ TAY SẤM NỔ.

    Đọc chuyện Tàu, nhứt là truyện Phong Thần và Phong Kiếm Xuân Thu, ta thấy nói Thần Tiên vỗ tay sấm nổ.

    Người xưa cho rằng việc đó có thật. Người đời nay lại bảo đừng tin dị đoan như thế. Vậy thì ai trúng, ai trật ?

    Còn người học Đạo biết rằng : không phải là chuyện hoang đường, nó đúng với Chơn lý.

    Tôi xin thử cắt nghĩa ra đây để quí bạn xem xét coi như thế nào.

    Phân nửa bên mặt của đàn ông chứa đầy dương điện, còn phân nửa bên trái thì chứa đầy âm điện. Trái lại, đàn bà bên mặt thì chứa đầy âm điện, còn bên trái thì chứa đầy dương điện. Theo luật vật lý thì điện theo mấy chỗ nhọn mà ra. Nếu ta biết cách làm cho dương điện và âm điện theo mười đầu ngón tay xẹt ra ngoài tức thì ta vỗ tay sấm nổ.

    Bí quyết thành công là ở tại chỗ biết cách làm cho điện xẹt ra. Không ai chỉ mối thì vỗ tay lốp bốp chớ không có gì lạ.

    Mà tại sao trong mình con người lại có điện ? Muốn hiểu tại sao thì phải phân tách nguyên tử.

    Mỗi nguyên tử gồm có hai phần :

    Chính giữa là Nhân, chứa dương điện tử (protons) và trung hòa tử (neutrons).

    Ở ngoài thì những âm điện tử (électrons) xây tròn, không khác nào những hành tinh xây chung quanh mặt trời.

    Ta cũng biết da, thịt, gân, xương con người làm bằng những tế bào hiệp lại, mà mỗi tế bào là sự kết hợp nhiều nguyên tử.

    Chung cuộc thì thân thể con người, thú vật, cây cỏ, sắt đá toàn là những bầu điện lực, những máy biến điện; chỉ tại chúng ta chưa biết dùng nên không thâu được những luồng sóng điện do các đài phát thanh hay là Vũ trụ tuyến phát ra.

    Những loài bướm, loài ong đều có cách truyền tin tức cho nhau, do những luồng điện của chúng nó phát ra, những vòi của chúng giống như cột “giây thép gió” của mình dùng. Loài cá ông cũng có phương pháp cảm thông với nhau vậy.

    VỀ VIỆC CON NGƯỜI BIẾT DÙNG SẤM SÉT

    TÔI XIN KỂ BA CHUYỆN

    1/ - Trong bộ giáo sử của Sozomène ( Histoire ecclésiatique de Sozomène) (L. IX, ch VI) có thuật chuyện vua Alaric tới công phá thành Narnia bị những giáo sĩ Etrusques dùng sấm sét đánh lui. Thành Narnia khỏi bị thất thủ.

    2/ - Lucius Pison cũng nói Đệ nhị Quốc Vương La Mã hồi thế kỷ thứ 7 là Numa Pompilius xuất thân từ một tu viện biết dùng sấm sét đặng giết thú rừng. Pline cũng công nhận việc nầy là đúng với sự thật.

    3/ - Bà Alexandra David Néel cũng có nói một vị Lạt Ma ở Tây Tạng dùng sấm sét giết một đứa chăn chiên vì nó phá khuấy ông.

    II : CON MẮT THẦN

    Người ta nói rằng Thần Thánh biết lòng dạ con người ra sao. Hồi chưa học Đạo thì chúng ta lấy làm lạ lắm. Về sau chúng ta biết rằng tư tưởng và ý muốn của con người đều có hình dạng.

    Thần Thánh có thần nhãn, thiên nhãn nên thấy được ý muốn của con người, điều nầy rất dễ hiểu.

    Hiện giờ những vị tu hành đắc Đạo có thần nhãn, thiên nhãn cũng đọc được tư tưởng và ý muốn của con người vậy.

    Tôi đem hai thí dụ nầy ra cho quí bạn thấy rằng càng ngày nhơn loại càng tiến hóa thì khoa Huyền bí học càng được phổ biến và thiên hạ sẽ không còn cho câu chuyện Thần quyền và Thần bí là lạ lùng hay dị đoan nữa.

    Tôi xin chia Những chuyện Thần quyền và Thần bí trong đạo Phật ra làm hai phần :

    Phần thứ nhứt – Trong đời sống của đức Phật.

    Phần thứ nhì – Trong giáo lý hay là Thuyết Luân Hồi và Nhân Quả.

  2. #2

    Mặc định

    PHẦN THỨ NHỨT


    TRONG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC PHẬT.

    CHƯƠNG THỨ NHỨT

    CÔNG NHẬN THẦN QUYỀN

    Trong lịch sử Phật giáo có thiếu chi việc chứng tỏ Phật giáo mặc nhiên công nhận Thần quyền, tôi xin kể 7 chuyện thôi.

    1.- Chuyện Thứ Nhứt

    THIÊN THẦN MỞ CỬA.

    Sách Phật nói rằng : lúc Thái tử trốn đi, nhờ Thiên thần làm cho các cửa thành tự nhiên mở ra và quân canh ngã lăn ra ngủ mê man không nghe có vó ngựa Kantaka sải đi.

    (La Lumière de l’Asie – Ánh Sáng Á Châu trương 125 – 116)

    2.- Chuyện Thứ Nhì

    ĐẤT RUNG CHUYỂN.

    Sau khi Đức Bồ Tát đắc quả Phật thì đất rung chuyển 12 lần. Quả Địa cầu giống một cái bông. (Đời sống của Đức Phật theo kinh sách cổ Ấn Độ trương 91)

    (La vie du Bouddha d’après les textes de l’Inde ancienne par Hérold page 91).

    Về việc đất rung chuyển, sách Phật có ghi hai lần nữa.

    Một lần là lúc Phật nói với Ma Vương : “Ma Vương ơi ! từ đây tới ba tháng nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn”. Phật vừa dứt lời thì đất rung chuyển và sấm sét vang rền.

    Khi Phật nhập Niết Bàn tại Kusinara, đất cũng rung chuyển và sấm sét vang rền một lần nữa, ấy là lần chót.

    3. - Chuyện Thứ Ba.

    MƯA HOA.

    Trong kinh sách Phật có thuật nhiều chuyện Mưa Hoa. Tôi xin kể vài vụ mà thôi.

    a/ Lúc Đức Phật trở về Ka bi la hoát tu (Kapilavastu) Ngài ở trong một cái vườn xoài. Khi Ngài vừa bước lên ngồi trên ngai của người ta làm sẵn cho Ngài thì một trận mưa hoa rơi xuống; người ta thấy toàn là bông hường.

    Vua Tịnh Phạn và Hoàng Thân Quốc Thích rất kinh ngạc và kính phục vô cùng.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách cổ Ấn Độ trang 144).

    b/ Lúc Phật gần bỏ xác đặng nhập Niết Bàn thì cũng có một trận mưa hoa rơi xuống và trên không có tiếng tiêu thiều nhạc trổi để tiển đưa Đấng Trọn Lành từ giả cõi trần.

    (Le Bouddha, sa vie, sa doctrine, sa communauté par Oldenberg page 223)

    c/ Ông Sư Nghiêm đời Đường ngồi tụng kinh tại chùa Vân Hoa thì có một trận mưa hoa rớt xuống. Vì thế trong cuốn “Quan Âm Thị Kính” có mấy câu nầy :

    311 - Cửa thiền sẽ lén chân coi,

    Trông lên Sư Cụ vừa ngồi tụng kinh.

    313 – Mưa hoa rải khắp bên mình,

    Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.

    315 - Mới hay đạo Phật rất mầu,

    Nghĩ đây cũng dễ đổi sầu làm vui.

    Câu chuyện Mưa Hoa, Vụ Hoa và chuyện học trò Sư La Thập giảng kinh Niết Bàn tại núi Hổ Khưu và khi ông hỏi mấy hòn đá ở chung quanh nghe lời ông nói có hạp với lòng Phật hay không thì mấy hòn đá gật đầu. Có thật hay không ? Dám chắc đời nay không ai hiểu rõ điều ấy. Nhưng bây giờ đây, trong cuốn Chơn Sư và Đường Đạo, chương thứ 14, Đức Leadbeater có nói về Đức Phật và hai cuộc lễ : lễ Huê Sắc tức là ngày Vía của Đức Phật và lễ A Sa La là lễ kỷ niệm ngày Phật Chuyển Pháp Luân.

    Đức Leadbeater thuật lại rằng : lúc Phật hiện ra và giơ tay ban ân huệ tức thì một trận mưa hoa rơi xuống giữa đám đông quần chúng. ( . . . en même temps qu’il élève la main droite en l’attitude de bénédiction, tandis qu’une grande pluie de fleurs tombe sur le peuple).

    (Xin xem cuốn Chơn Sư và Đường Đạo trương 288)

    (Les Maîtres et le Sentier page 288, Edition 1926)

    Nhưng tin hay không, quyền đó là ở nơi quí bạn.



    4. - Chuyện Thứ Tư

    THIÊN ĐẾ INDRA CHỨNG LỜI NGUYỆN VÀ BAN ÂN HUỆ

    CHO THÁI TỬ VICVANTARA.

    Đức Phật mới thuật cho vua Tịnh Phạn và Hoàng Thân Quốc Thích dòng Thích Ca nghe câu chuyện nầy :

    “Trong một kiếp trước, tôi đã thấy gia quyến tôi tụ họp chung quanh tôi và ca tụng tôi.

    Thuở ấy có một vị Vương đế ngự trị tại thành Jayatoura tên là Sânjaya.

    Vợ là Hoàng hậu Phousati và con là Thái tử Vicvantara. Vicvantara cưới Công chúa Madri và sanh được hai đứa con : một trai đặt tên Jâlin, một gái đặt tên là Krishnajâna.

    Thái tử có nuôi một con Bạch Tượng có tài kêu mưa hú gió giờ nào cũng được.

    Ngày kia xứ Kalinga bị hạn hán. Người và vật chết đói và chết khát rất nhiều. Vua xứ Kalinga nghe đồn tài phép của Bạch Tượng bèn sai một đoàn sứ giả qua yết kiến Thái tử và xin Bạch Tượng đem về Kalinga. Khi nghe đoàn sứ giả phân trần tự sự, Thái tử bèn nói : “Sao mấy vị không xin cặp mắt tôi, da thịt tôi”.

    Nói rồi Thái tử sai người dẫn Bạch Tượng ra cho đoàn sứ giả. Hay tin nầy dân chúng thành Jâyatoura đâm ra hoảng hốt. Họ sợ bị trời hạn thì họ sẽ chết đói. Họ bèn kéo nhau vào triều phản đối và xin vua xử tử Thái tử. Vua an ủi họ, hứa hẹn với họ đủ điều, hồi lâu họ mới dịu giọng và xin đày Thái tử ra chốn sa mạc xa xăm. Vua phải nghe theo.

    Thái tử bèn dẫn vợ con lên xe ngựa chở đồ đạc ra đi. Dọc đường Thái tử gặp ba thầy Bà la môn xin Ngài bố thí. Thái tử cho người thứ nhứt cặp ngựa, người thứ nhì cái xe, còn người thứ ba cây kiềng vàng của Công chúa.

    Vợ chồng con cái Thái tử phải đi bộ vô cùng khổ sở.

    Trên trời, Thiên Đế Anh Tra (Indra) thấy rõ mọi việc. Ngài bèn hóa ra thành trì rộng lớn, lầu đài tráng lệ, vườn tược sum sê rồi Ngài biến thành một ông già cỡi một con ngựa ra đón rước Thái tử và vợ con về cung điện của Ngài ở. Vợ chồng Thái tử ngồi trên ngai vàng. Yến tiệc dọn ra đầy cao lương mỹ vị. Ông già mới nói : “Thái tử hãy ở đây trọn đời với tôi”. Ăn uống xong xuôi, Thái tử ngồi suy nghĩ rồi bổng chốc đứng dậy nói : “Thưa Cụ ! Tôi đã cãi lịnh vua cha. Tôi bị đày ra sa mạc, tôi không có quyền ở đây hưởng hạnh phúc. Tôi xin từ giả cụ”.

    Ông già hết lòng cầm lại nhưng không được.

    Ra khỏi cửa thành vài bước, Thái tử dòm lại thì thành trì biến đi đâu mất, chung quanh toàn là cát trắng nóng nực. Thái tử và vợ con đi tới một cái núi, chung quanh rừng rú bao bọc gặp một cái chòi bỏ hoang, vợ chồng mới vô đó ở. Vợ chồng con cái ăn trái rừng, uống nước suối. Bảy tháng trôi qua, không một bóng người lai vãng. Bữa kia, một thầy Bà la môn đi ngang qua chòi thấy hai đứa nhỏ đang chơi giỡn trước sân; thầy bèn ngắm nghía chúng nó rồi mới nói với Thái tử : “Vợ tôi làm việc mệt nhọc quá, nó muốn có kẻ đỡ tay chân. Vậy ông cho tôi hai đứa con ông đi”. Thái tử nghe qua sửng sốt, hồi lâu mới trả lời :” Được, ông hãy dẫn chúng nó đi”. Lúc đó Công chúa đang hái trái trong rừng, thình lình trong lòng hồi hộp, như linh tính báo cho nàng biết có việc chẳng lành xảy ra, nàng bương bả chạy về. Nhưng đã trễ. Thầy Bà la môn dẫn hai đứa nhỏ đi mất rồi. Công chúa khóc than thảm thiết. Bổng đâu có một người Bà la môn khác bước đến. Ông đã già và đi đứng mệt nhọc. Ông dòm Công chúa rồi nói với Thái tử : “Ông hãy coi, tôi già quá mà lại bị bịnh tê. Tôi đi đứng khó khăn. Tôi không có người giúp đỡ. Vậy ông hãy cho tôi cô nầy. Cô sẽ săn sóc tôi. Ông làm một việc phước đức rất lớn, cả hoàn cầu sẽ ca tụng ông”. Thái tử nghe qua ngồi suy nghĩ rồi nói với Công chúa : “Em có nghe ông già nói hay không ? Tôi phải trả lời làm sao đây ?” Công chúa bèn đáp : “Anh đã cho hai đứa con yêu quí của chúng ta rồi, anh hãy ừ đi, em không phàn nàn đâu”. Thái tử bèn cầm tay Công chúa đặt vào tay ông già. Ông già cám ơn Thái tử rồi nói : “VINH DIỆU THAY THÁI TỬ VICVANTARA ! CẦU NGUYỆN XIN NGƯỜI SỚM ĐƯỢC THÀNH PHẬT”. Ông bước đi vài bước rồi trở lại nói : “Tôi còn phải qua xứ khác kiếm một con hầu nữa. Tôi để nàng nầy lại cho ông và từ đây ai xin nàng ông cũng đừng cho”. Nói rồi ông già biến hình thành một người rất xinh đẹp, mặt chiếu hào quang sáng rỡ. Thái tử và Công chúa nhìn ra là Thiên Đế (Indra) bèn cúi đầu làm lễ. Thiên Đế nói : “Thái tử và Công chúa mỗi người xin ta một ân huệ, ta sẽ ban cho”. Thái tử bèn nói : “Cầu xin một ngày kia tôi được thành Phật và giải thoát chúng sanh ở miền rừng núi”. Thiên Đế bèn đáp : “Thái tử sẽ được toại nguyện”.

    Tới phiên Công chúa : “Cầu xin thầy Bà la môn đã dẫn hai đứa con tôi đi đừng để chúng nó trong nhà mà đem bán chúng nó tại thành Jayatoura và người mua chúng nó là đức Vua Sanjaya”.

    Thiên Đế bèn đáp : “Công chúa sẽ được hài lòng”. Nói rồi Thiên Đế bèn bay lên trời. Công chúa bèn than : “Ước sao vua cha tha tội cho Thái tử”. Trên không có tiếng vọng lại : “Vĩệc ấy sẽ được”.

    Thái tử được vua cha tha tội. Thái tử trở về Jayatoura được dân chúng tiếp đón nồng hậu và đoàn tụ với hai con.

    Thuật xong chuyện nầy đức Phật bèn nói : “Thái tử Vicvantara là tôi đây. Quí Ngài hoan nghinh tôi bây giờ cũng như người ta đã hoan nghinh tôi thuở xưa. Hãy đi theo con đường giải thoát.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 144 – 159 tóm tắt).

    Rõ ràng Phật công nhận Thần quyền.



    5.- Chuyện Thứ Năm

    CINCA ĐỘN BỤNG VU CÁO PHẬT

    THIÊN ĐẾ ANH TRA GIẢI NGUY.

    Khi bọn đạo sĩ đấu phép thua Phật rồi (xin xem tới) thì họ đâm ra oán hận và tìm dịp báo thù. Họ lại ở gần vườn Kỳ Viên và rình mò những việc làm của Phật và các đệ tử Ngài. Họ toa rập với một cô gái đẹp tên Cinca, tánh nết rất lẳng lơ và xảo quyệt. Cinca độn bụng lên càng ngày càng lớn và đi rêu rao rằng : Vì ăn ở với Phật nên nàng đã thọ thai. Tới tháng thứ chín, Cinca bèn lại chỗ Phật đương thuyết pháp nói lớn tiếng rằng : “Vì Ngài mà tôi mang thai nghén, Ngài không đoái hoài đến tôi. Tôi không chỗ ở để sanh đẻ”.

    Phật điềm nhiên nói : “Cinca cô có nói láo không ? Chỉ có một mình tôi và cô biết mà thôi”. Cinca la lên : “Tôi không bao giờ nói láo”. Phật vẫn ngồi im lặng. Lúc đó trên trời, Thiên Đế Anh Tra thấy rõ mọi việc. Ngài xét rằng đã đến lúc phải gỡ mặt nạ của Cinca. Tức thì bốn vị Thiên thần được lịnh hóa ra bốn con chuột lắt chung vô áo Cinca cắn đứt dây. Một khúc cây tròn rớt xuống đất. Phật bèn cười và nói : “Cinca ! Đứa con của cô đó”. Các tín đồ nổi giận nguyền rủa Cinca, phun nước miếng vào mặt nàng. Cinca hoảng hồn chạy mất.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 206 – 209).

    Chuyện nầy chứng thật Phật nhờ Thần quyền giải nguy. Nhưng còn có chứa một ý nghĩa sâu xa về Huyền bí học. Người đắc đạo không bao giờ được phép dùng thần thông đặng minh oan cho mình khi mình bị vu cáo.

    Tới bực Phật, thần thông rộng lớn, đạo pháp cao cường, Phật làm cho khúc cây rớt xuống không được hay sao, lựa phải nhờ tới bốn vị Thiên thần xuống giúp. Nhưng Phật yên lặng để Nhân quả định đoạt. Những Đấng Chí Tôn cầm cân tội phước gọi là những Đấng Nam Tào Bắc Đẩu không khi nào để Phật bị hàm oan.



    6.- Chuyện Thứ Sáu.

    PHẬT BIẾT RÕ PHẠN VƯƠNG (BRAHMA) NHƯ MỘT NGƯỜI

    ĐÃ VÀO CÕI CỦA PHẠN VƯƠNG Ở VÀ SANH ĐẺ NƠI ĐÓ.

    Phật đi đến xứ CÔ SA LA (Kosala) vào một cái làng của người Bà la môn tên Manasâkrita và ngự trong một cái vườn xoài. Có hai thầy Bà la môn còn trẻ, một người tên Vâsichtha, một người tên Bhâradvâdja, học hai trường khác nhau, tới ra mắt Phật.

    Vâsichtha bèn thưa : “Bạch Phật ! chúng tôi mới cãi nhau về con đường chánh. Tôi nói con đường của thầy Bà la môn Panchkarasâdi chỉ là con đường ngay hơn hết, dắt đến sự hợp nhứt với Phạn Vương. Còn người bạn của tôi đây lại cho rằng con đường của thầy Târoukchya dặn dò mới thật con đường ngay hơn hết. Bạch Phật chúng tôi biết Phật là bực Toàn giác, giáo chủ các Thiên thần và con người. Chúng tôi mới tới đây hỏi Phật hai con đường đó có phải là những đường giải thoát hay không ? Chung quanh làng chúng tôi có nhiều con đường mà cả thảy đều dắt đến Manasâkrita. Những đường của mấy thầy Bà la môn dạy đều giống mấy con đường đó không ?

    Phật bèn hỏi : “Hai thầy có tưởng rằng hết thảy những con đường đều tốt hết không ?”

    - Bạch Phật ! chúng tôi đều tưởng như vậy.

    Phật nói tiếp : “Có thầy Bà la môn nào thông thạo kinh Phệ đà thấy tận mặt Đức Phạn Vương không”.

    - Bạch Phật không có vị nào thấy cả.

    Phật hỏi thêm . . . “Vậy trong những vị dạy mấy thầy Bà la môn có vị nào thấy Phạn Vương không ?

    - Bạch Phật cũng không ai thấy cả.

    Phật nói : “Bây giờ thí dụ một người kia làm một cái thang tại ngã tư đặng leo lên nhà. Người ta mới hỏi y : “Cái nhà anh ở đâu mà làm cái thang đặng leo lên ? Anh biết nó ở hướng đông hay hướng tây ? Hướng nam hay hướng bắc ? Nó cao hay thấp, hay là không lớn không nhỏ ?”

    Y trả lời : “Tôi không biết”. Người ta liền nói : “Anh làm một cái thang đặng leo lên một cái nhà mà anh không biết ra sao và anh cũng không thấy nó nữa ?” Y trả lời : “Quả thật tôi đã làm như thế”. Hai thầy nghĩ sao về người đó ?

    Hai thầy có cho lời của y là điên khùng hay không ?

    - Bạch Phật ! Những lời đó thật là điên khùng.

    - Vậy thì những thầy Bà la môn phải nói : “Chúng tôi chỉ cho anh con đường hiệp nhứt với cái mà chúng tôi không hiểu mà cũng không thấy nữa”. Nếu tục lệ của người Bà la môn như thế thì công việc của họ làm vô ích quá.

    Bharadvadja bèn thưa : “Bạch Phật ! Thật đúng như vậy”.

    Phật mới nói : “ Vậy thì không thế nào người Bà la môn thông thạo kinh Phệ đà có thể chỉ đường hiệp nhứt với cái mà họ không biết và cũng không thấy nữa. Thật là không khác nào một đoàn người mù níu nhau đi. Người đi đầu, người đi chính giữa, người đi chót đều không thấy đường. Theo ý Ta chuyện mấy thầy Bà la môn thuộc kinh Phệ đà thuật lại là chuyện của người mù. Nó thiệt là kỳ dị, thiệt là chuyện nói suông, không ích lợi vào đâu cả.

    Bây giờ thí dụ một người đi đến mé rạch, va có việc muốn qua bờ bên kia. Va bèn cầu khẩn cho bờ bên kia dời qua bên nây đặng cho va bước lên dễ dàng. Cái bờ bên kia vì có lời cầu khẩn của va mà dời qua bên nây không ?

    - Bạch Phật ! Không khi nào được bao giờ.

    - Đó là công việc của mấy thầy Bà la môn bấy lâu nay. Họ không tập luyện những tánh tình tốt để thành ra “thật một người Bà la môn” mà họ đã nói.

    Indra (Anh Tra) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Soma (Sô Ma) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Varouna (Hoa ru na) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Brahma (Phạn Vương) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Thật ra không thể nào nhờ sự cầu nguyện, nhờ sự van vái, nhờ sự xưng tụng công đức mà khi thác rồi họ được hiệp nhứt với Phạn Vương.

    Bây giờ ta hỏi hai thầy : “Người Bà la môn nói về đức Phạn Vương ra làm sao ! Ngài có ưa hoa nguyệt không ?”

    - Bạch Phật ! không .

    - Đức Phạn Vương có hung ác không ? Có kiêu căng không ? Có biếng nhác không ?

    - Bạch Phật ! không.

    - Còn mấy người Bà la môn có tránh khỏi mấy tánh đó không ?

    Vasichtha bèn thưa : “Bạch Phật ! Họ còn mấy tánh đó”.

    Phật bèn nói : “Người Bà la môn còn ưa khoái lạc, còn bị giác quan cám dỗ, họ say hoa đắm nguyệt, họ hung bạo, họ biếng nhác, họ kiêu hảnh, họ hoài nghi. Làm sao họ hiệp nhứt với cái không đồng bản tánh với họ được. Thế nên ba đức minh triết [1] của họ là một sa mạc khô khan, một cái rừng rậm rạp, một cảnh điêu tàn không thể nào tạo lập lại được.

    Khi nghe Phật nói xong thì Vasichtha liền thưa : “Bạch Phật ! người ta nói rằng Đức Thích Ca Mâu Ni biết con đường hiệp nhứt với Phạn Vương”. Phật mới nói : “Hai thầy nghĩ sao về việc một người kia sanh trưởng tại Manasâkrita, khi gặp con đường ngay hơn hết dắt từ đây đi thẳng đến Manasâkrita, y có ngần ngại gì mà không theo con đường đó chăng ?

    - Chắc chắn là va không hề ngần ngại chi cả.

    Phật bèn nói : “Vasichtha ! Cũng thế ấy, Như Lai biết con đường ngay thẳng dắt đến sự hiệp nhứt với Phạn Vương. Như Lai biết nó như một người đã vào cõi Phạn Vương và sanh đẻ tại đó. Như Lai không có nghi ngờ cái chi cả”.

    TEVIJJA SUTTA (Sacred Books XI 157 – 203).

    Nguyên văn chữ Pháp : “De Même, reprit le Bouddha, le Tathâgata connait le chemin direct qui conduit à l’union avec Brahma. Il le connait comme une personne qui est entrée dans le monde de Brahma, qui y est née. Il ne peut exister de doute en lui”.

    Xin quí bạn chú ý tới ba điểm nầy :

    Một là : Cuốn Tevejja Sutta là cuốn kinh Phật.

    Hai là : Nếu quả thật Phạn Vương không phải là Đấng Tạo Hóa Vũ Trụ nầy và sự hiệp nhứt với Ngài rất vô ích thì Đức Phật đã bảo hai thầy Bà la môn là lầm lạc rồi.

    Ba là : Ngài còn nói : Ngài biết rõ Phạn Vương và sanh đẻ tại đó. Ngài không có nghi ngờ chi cả.



    7.- Chuyện Thứ Bảy.

    PHẬT MẶC NHẬN PHẠN VƯƠNG LÀ ĐẤNG TẠO HÓA.

    Trong cuốn “Ánh Sáng Á Châu” (La Lumière de l’Asie) trương 202, có thuật những lời của Phật thuyết cho vua cha Tịnh Phạn nghe như vầy : “Om ! AMITAYA ! Chớ nên ướm thử dùng lời nói mà đo cõi vô biên, hay là nhúng dây tư tưởng vào cõi vô tận. Người hỏi cũng lầm mà người trả lời cũng lầm vậy. Đừng nói chi hết”.

    Kinh sách dạy rằng : Trước khi vạn vật sanh ra thì chỉ có một mình Phạn Vương trầm tư mặc tưởng mà thôi. Nhưng chớ nên suy gẫm đến Phạn Vương hay là một ánh sáng nào cả, cái trí người phàm cũng không hiểu được. Những màn lần lượt vén lên; cái nầy rồi tới cái kia. Phải có những bức màn và sau những bức màn nầy thì có những bức màn khác. Các ngôi tinh tú cứ vận hành mà không hỏi han chi cả. Miễn là sự sanh, sự tử, sự buồn vui, cái nguyên nhân và cái hậu quả còn lại là đủ rồi.

    Cuộc đời và ngày giờ cứ thay đổi và luân chuyển không ngừng cũng như giòng nước của con kinh chảy từ nguồn ra biển, dầu mau hay chậm, các lượn sóng cũng vẫn là một, mặc dầu coi khác nhau, cứ nối tiếp với nhau, cái sau nhồi cái trước.

    Tin có Đức Thượng Đế sanh hóa vũ trụ hay là không tin đó là quyền tự do của bạn, không ai xâm phạm được. Nhưng chắc chắn quí bạn dư biết tín ngưỡng không sửa đổi Chơn lý được.

    Cũng như rõ ràng ta thấy sớm mai mặt trời mọc ở phương Đông, chiều lặn về hướng Tây. Bây giờ, dầu hết thảy dân chúng trên địa cầu đều tin như vậy, sự tin nầy cũng không sửa đổi việc trái đất xây chung quanh mặt trời hay là bắt buộc mặt trời chìu theo ý mình phải xây chung quanh trái đất.

    Nếu không có thật ông Trời mà người ta tin rằng “có” đi nữa thì bất quá người ta tạo ra một ông Trời giả. Ngày nào người ta hết tin, ngày đó ổng tan mất.

    Trái lại, nếu ông Trời “có thật” mà thế gian không tin có Ngài thì Ngài cũng là Ngài. Ngài không có kém sút quyền năng chút nào. Có lẽ Ngài mỉm cười rằng : “Các con của ta còn khờ dại lắm vậy. Rồi đây chúng nó sẽ biết”.

    Người học đạo phải thận trọng và dè dặt từ chút trong việc tầm Chơn lý.

  3. #3

    Mặc định

    PHẦN THỨ NHỨT


    TRONG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC PHẬT.

    CHƯƠNG THỨ NHỨT

    CÔNG NHẬN THẦN QUYỀN

    Trong lịch sử Phật giáo có thiếu chi việc chứng tỏ Phật giáo mặc nhiên công nhận Thần quyền, tôi xin kể 7 chuyện thôi.

    1.- Chuyện Thứ Nhứt

    THIÊN THẦN MỞ CỬA.

    Sách Phật nói rằng : lúc Thái tử trốn đi, nhờ Thiên thần làm cho các cửa thành tự nhiên mở ra và quân canh ngã lăn ra ngủ mê man không nghe có vó ngựa Kantaka sải đi.

    (La Lumière de l’Asie – Ánh Sáng Á Châu trương 125 – 116)

    2.- Chuyện Thứ Nhì

    ĐẤT RUNG CHUYỂN.

    Sau khi Đức Bồ Tát đắc quả Phật thì đất rung chuyển 12 lần. Quả Địa cầu giống một cái bông. (Đời sống của Đức Phật theo kinh sách cổ Ấn Độ trương 91)

    (La vie du Bouddha d’après les textes de l’Inde ancienne par Hérold page 91).

    Về việc đất rung chuyển, sách Phật có ghi hai lần nữa.

    Một lần là lúc Phật nói với Ma Vương : “Ma Vương ơi ! từ đây tới ba tháng nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn”. Phật vừa dứt lời thì đất rung chuyển và sấm sét vang rền.

    Khi Phật nhập Niết Bàn tại Kusinara, đất cũng rung chuyển và sấm sét vang rền một lần nữa, ấy là lần chót.

    3. - Chuyện Thứ Ba.

    MƯA HOA.

    Trong kinh sách Phật có thuật nhiều chuyện Mưa Hoa. Tôi xin kể vài vụ mà thôi.

    a/ Lúc Đức Phật trở về Ka bi la hoát tu (Kapilavastu) Ngài ở trong một cái vườn xoài. Khi Ngài vừa bước lên ngồi trên ngai của người ta làm sẵn cho Ngài thì một trận mưa hoa rơi xuống; người ta thấy toàn là bông hường.

    Vua Tịnh Phạn và Hoàng Thân Quốc Thích rất kinh ngạc và kính phục vô cùng.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách cổ Ấn Độ trang 144).

    b/ Lúc Phật gần bỏ xác đặng nhập Niết Bàn thì cũng có một trận mưa hoa rơi xuống và trên không có tiếng tiêu thiều nhạc trổi để tiển đưa Đấng Trọn Lành từ giả cõi trần.

    (Le Bouddha, sa vie, sa doctrine, sa communauté par Oldenberg page 223)

    c/ Ông Sư Nghiêm đời Đường ngồi tụng kinh tại chùa Vân Hoa thì có một trận mưa hoa rớt xuống. Vì thế trong cuốn “Quan Âm Thị Kính” có mấy câu nầy :

    311 - Cửa thiền sẽ lén chân coi,

    Trông lên Sư Cụ vừa ngồi tụng kinh.

    313 – Mưa hoa rải khắp bên mình,

    Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.

    315 - Mới hay đạo Phật rất mầu,

    Nghĩ đây cũng dễ đổi sầu làm vui.

    Câu chuyện Mưa Hoa, Vụ Hoa và chuyện học trò Sư La Thập giảng kinh Niết Bàn tại núi Hổ Khưu và khi ông hỏi mấy hòn đá ở chung quanh nghe lời ông nói có hạp với lòng Phật hay không thì mấy hòn đá gật đầu. Có thật hay không ? Dám chắc đời nay không ai hiểu rõ điều ấy. Nhưng bây giờ đây, trong cuốn Chơn Sư và Đường Đạo, chương thứ 14, Đức Leadbeater có nói về Đức Phật và hai cuộc lễ : lễ Huê Sắc tức là ngày Vía của Đức Phật và lễ A Sa La là lễ kỷ niệm ngày Phật Chuyển Pháp Luân.

    Đức Leadbeater thuật lại rằng : lúc Phật hiện ra và giơ tay ban ân huệ tức thì một trận mưa hoa rơi xuống giữa đám đông quần chúng. ( . . . en même temps qu’il élève la main droite en l’attitude de bénédiction, tandis qu’une grande pluie de fleurs tombe sur le peuple).

    (Xin xem cuốn Chơn Sư và Đường Đạo trương 288)

    (Les Maîtres et le Sentier page 288, Edition 1926)

    Nhưng tin hay không, quyền đó là ở nơi quí bạn.



    4. - Chuyện Thứ Tư

    THIÊN ĐẾ INDRA CHỨNG LỜI NGUYỆN VÀ BAN ÂN HUỆ

    CHO THÁI TỬ VICVANTARA.

    Đức Phật mới thuật cho vua Tịnh Phạn và Hoàng Thân Quốc Thích dòng Thích Ca nghe câu chuyện nầy :

    “Trong một kiếp trước, tôi đã thấy gia quyến tôi tụ họp chung quanh tôi và ca tụng tôi.

    Thuở ấy có một vị Vương đế ngự trị tại thành Jayatoura tên là Sânjaya.

    Vợ là Hoàng hậu Phousati và con là Thái tử Vicvantara. Vicvantara cưới Công chúa Madri và sanh được hai đứa con : một trai đặt tên Jâlin, một gái đặt tên là Krishnajâna.

    Thái tử có nuôi một con Bạch Tượng có tài kêu mưa hú gió giờ nào cũng được.

    Ngày kia xứ Kalinga bị hạn hán. Người và vật chết đói và chết khát rất nhiều. Vua xứ Kalinga nghe đồn tài phép của Bạch Tượng bèn sai một đoàn sứ giả qua yết kiến Thái tử và xin Bạch Tượng đem về Kalinga. Khi nghe đoàn sứ giả phân trần tự sự, Thái tử bèn nói : “Sao mấy vị không xin cặp mắt tôi, da thịt tôi”.

    Nói rồi Thái tử sai người dẫn Bạch Tượng ra cho đoàn sứ giả. Hay tin nầy dân chúng thành Jâyatoura đâm ra hoảng hốt. Họ sợ bị trời hạn thì họ sẽ chết đói. Họ bèn kéo nhau vào triều phản đối và xin vua xử tử Thái tử. Vua an ủi họ, hứa hẹn với họ đủ điều, hồi lâu họ mới dịu giọng và xin đày Thái tử ra chốn sa mạc xa xăm. Vua phải nghe theo.

    Thái tử bèn dẫn vợ con lên xe ngựa chở đồ đạc ra đi. Dọc đường Thái tử gặp ba thầy Bà la môn xin Ngài bố thí. Thái tử cho người thứ nhứt cặp ngựa, người thứ nhì cái xe, còn người thứ ba cây kiềng vàng của Công chúa.

    Vợ chồng con cái Thái tử phải đi bộ vô cùng khổ sở.

    Trên trời, Thiên Đế Anh Tra (Indra) thấy rõ mọi việc. Ngài bèn hóa ra thành trì rộng lớn, lầu đài tráng lệ, vườn tược sum sê rồi Ngài biến thành một ông già cỡi một con ngựa ra đón rước Thái tử và vợ con về cung điện của Ngài ở. Vợ chồng Thái tử ngồi trên ngai vàng. Yến tiệc dọn ra đầy cao lương mỹ vị. Ông già mới nói : “Thái tử hãy ở đây trọn đời với tôi”. Ăn uống xong xuôi, Thái tử ngồi suy nghĩ rồi bổng chốc đứng dậy nói : “Thưa Cụ ! Tôi đã cãi lịnh vua cha. Tôi bị đày ra sa mạc, tôi không có quyền ở đây hưởng hạnh phúc. Tôi xin từ giả cụ”.

    Ông già hết lòng cầm lại nhưng không được.

    Ra khỏi cửa thành vài bước, Thái tử dòm lại thì thành trì biến đi đâu mất, chung quanh toàn là cát trắng nóng nực. Thái tử và vợ con đi tới một cái núi, chung quanh rừng rú bao bọc gặp một cái chòi bỏ hoang, vợ chồng mới vô đó ở. Vợ chồng con cái ăn trái rừng, uống nước suối. Bảy tháng trôi qua, không một bóng người lai vãng. Bữa kia, một thầy Bà la môn đi ngang qua chòi thấy hai đứa nhỏ đang chơi giỡn trước sân; thầy bèn ngắm nghía chúng nó rồi mới nói với Thái tử : “Vợ tôi làm việc mệt nhọc quá, nó muốn có kẻ đỡ tay chân. Vậy ông cho tôi hai đứa con ông đi”. Thái tử nghe qua sửng sốt, hồi lâu mới trả lời :” Được, ông hãy dẫn chúng nó đi”. Lúc đó Công chúa đang hái trái trong rừng, thình lình trong lòng hồi hộp, như linh tính báo cho nàng biết có việc chẳng lành xảy ra, nàng bương bả chạy về. Nhưng đã trễ. Thầy Bà la môn dẫn hai đứa nhỏ đi mất rồi. Công chúa khóc than thảm thiết. Bổng đâu có một người Bà la môn khác bước đến. Ông đã già và đi đứng mệt nhọc. Ông dòm Công chúa rồi nói với Thái tử : “Ông hãy coi, tôi già quá mà lại bị bịnh tê. Tôi đi đứng khó khăn. Tôi không có người giúp đỡ. Vậy ông hãy cho tôi cô nầy. Cô sẽ săn sóc tôi. Ông làm một việc phước đức rất lớn, cả hoàn cầu sẽ ca tụng ông”. Thái tử nghe qua ngồi suy nghĩ rồi nói với Công chúa : “Em có nghe ông già nói hay không ? Tôi phải trả lời làm sao đây ?” Công chúa bèn đáp : “Anh đã cho hai đứa con yêu quí của chúng ta rồi, anh hãy ừ đi, em không phàn nàn đâu”. Thái tử bèn cầm tay Công chúa đặt vào tay ông già. Ông già cám ơn Thái tử rồi nói : “VINH DIỆU THAY THÁI TỬ VICVANTARA ! CẦU NGUYỆN XIN NGƯỜI SỚM ĐƯỢC THÀNH PHẬT”. Ông bước đi vài bước rồi trở lại nói : “Tôi còn phải qua xứ khác kiếm một con hầu nữa. Tôi để nàng nầy lại cho ông và từ đây ai xin nàng ông cũng đừng cho”. Nói rồi ông già biến hình thành một người rất xinh đẹp, mặt chiếu hào quang sáng rỡ. Thái tử và Công chúa nhìn ra là Thiên Đế (Indra) bèn cúi đầu làm lễ. Thiên Đế nói : “Thái tử và Công chúa mỗi người xin ta một ân huệ, ta sẽ ban cho”. Thái tử bèn nói : “Cầu xin một ngày kia tôi được thành Phật và giải thoát chúng sanh ở miền rừng núi”. Thiên Đế bèn đáp : “Thái tử sẽ được toại nguyện”.

    Tới phiên Công chúa : “Cầu xin thầy Bà la môn đã dẫn hai đứa con tôi đi đừng để chúng nó trong nhà mà đem bán chúng nó tại thành Jayatoura và người mua chúng nó là đức Vua Sanjaya”.

    Thiên Đế bèn đáp : “Công chúa sẽ được hài lòng”. Nói rồi Thiên Đế bèn bay lên trời. Công chúa bèn than : “Ước sao vua cha tha tội cho Thái tử”. Trên không có tiếng vọng lại : “Vĩệc ấy sẽ được”.

    Thái tử được vua cha tha tội. Thái tử trở về Jayatoura được dân chúng tiếp đón nồng hậu và đoàn tụ với hai con.

    Thuật xong chuyện nầy đức Phật bèn nói : “Thái tử Vicvantara là tôi đây. Quí Ngài hoan nghinh tôi bây giờ cũng như người ta đã hoan nghinh tôi thuở xưa. Hãy đi theo con đường giải thoát.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 144 – 159 tóm tắt).

    Rõ ràng Phật công nhận Thần quyền.



    5.- Chuyện Thứ Năm

    CINCA ĐỘN BỤNG VU CÁO PHẬT

    THIÊN ĐẾ ANH TRA GIẢI NGUY.

    Khi bọn đạo sĩ đấu phép thua Phật rồi (xin xem tới) thì họ đâm ra oán hận và tìm dịp báo thù. Họ lại ở gần vườn Kỳ Viên và rình mò những việc làm của Phật và các đệ tử Ngài. Họ toa rập với một cô gái đẹp tên Cinca, tánh nết rất lẳng lơ và xảo quyệt. Cinca độn bụng lên càng ngày càng lớn và đi rêu rao rằng : Vì ăn ở với Phật nên nàng đã thọ thai. Tới tháng thứ chín, Cinca bèn lại chỗ Phật đương thuyết pháp nói lớn tiếng rằng : “Vì Ngài mà tôi mang thai nghén, Ngài không đoái hoài đến tôi. Tôi không chỗ ở để sanh đẻ”.

    Phật điềm nhiên nói : “Cinca cô có nói láo không ? Chỉ có một mình tôi và cô biết mà thôi”. Cinca la lên : “Tôi không bao giờ nói láo”. Phật vẫn ngồi im lặng. Lúc đó trên trời, Thiên Đế Anh Tra thấy rõ mọi việc. Ngài xét rằng đã đến lúc phải gỡ mặt nạ của Cinca. Tức thì bốn vị Thiên thần được lịnh hóa ra bốn con chuột lắt chung vô áo Cinca cắn đứt dây. Một khúc cây tròn rớt xuống đất. Phật bèn cười và nói : “Cinca ! Đứa con của cô đó”. Các tín đồ nổi giận nguyền rủa Cinca, phun nước miếng vào mặt nàng. Cinca hoảng hồn chạy mất.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 206 – 209).

    Chuyện nầy chứng thật Phật nhờ Thần quyền giải nguy. Nhưng còn có chứa một ý nghĩa sâu xa về Huyền bí học. Người đắc đạo không bao giờ được phép dùng thần thông đặng minh oan cho mình khi mình bị vu cáo.

    Tới bực Phật, thần thông rộng lớn, đạo pháp cao cường, Phật làm cho khúc cây rớt xuống không được hay sao, lựa phải nhờ tới bốn vị Thiên thần xuống giúp. Nhưng Phật yên lặng để Nhân quả định đoạt. Những Đấng Chí Tôn cầm cân tội phước gọi là những Đấng Nam Tào Bắc Đẩu không khi nào để Phật bị hàm oan.



    6.- Chuyện Thứ Sáu.

    PHẬT BIẾT RÕ PHẠN VƯƠNG (BRAHMA) NHƯ MỘT NGƯỜI

    ĐÃ VÀO CÕI CỦA PHẠN VƯƠNG Ở VÀ SANH ĐẺ NƠI ĐÓ.

    Phật đi đến xứ CÔ SA LA (Kosala) vào một cái làng của người Bà la môn tên Manasâkrita và ngự trong một cái vườn xoài. Có hai thầy Bà la môn còn trẻ, một người tên Vâsichtha, một người tên Bhâradvâdja, học hai trường khác nhau, tới ra mắt Phật.

    Vâsichtha bèn thưa : “Bạch Phật ! chúng tôi mới cãi nhau về con đường chánh. Tôi nói con đường của thầy Bà la môn Panchkarasâdi chỉ là con đường ngay hơn hết, dắt đến sự hợp nhứt với Phạn Vương. Còn người bạn của tôi đây lại cho rằng con đường của thầy Târoukchya dặn dò mới thật con đường ngay hơn hết. Bạch Phật chúng tôi biết Phật là bực Toàn giác, giáo chủ các Thiên thần và con người. Chúng tôi mới tới đây hỏi Phật hai con đường đó có phải là những đường giải thoát hay không ? Chung quanh làng chúng tôi có nhiều con đường mà cả thảy đều dắt đến Manasâkrita. Những đường của mấy thầy Bà la môn dạy đều giống mấy con đường đó không ?

    Phật bèn hỏi : “Hai thầy có tưởng rằng hết thảy những con đường đều tốt hết không ?”

    - Bạch Phật ! chúng tôi đều tưởng như vậy.

    Phật nói tiếp : “Có thầy Bà la môn nào thông thạo kinh Phệ đà thấy tận mặt Đức Phạn Vương không”.

    - Bạch Phật không có vị nào thấy cả.

    Phật hỏi thêm . . . “Vậy trong những vị dạy mấy thầy Bà la môn có vị nào thấy Phạn Vương không ?

    - Bạch Phật cũng không ai thấy cả.

    Phật nói : “Bây giờ thí dụ một người kia làm một cái thang tại ngã tư đặng leo lên nhà. Người ta mới hỏi y : “Cái nhà anh ở đâu mà làm cái thang đặng leo lên ? Anh biết nó ở hướng đông hay hướng tây ? Hướng nam hay hướng bắc ? Nó cao hay thấp, hay là không lớn không nhỏ ?”

    Y trả lời : “Tôi không biết”. Người ta liền nói : “Anh làm một cái thang đặng leo lên một cái nhà mà anh không biết ra sao và anh cũng không thấy nó nữa ?” Y trả lời : “Quả thật tôi đã làm như thế”. Hai thầy nghĩ sao về người đó ?

    Hai thầy có cho lời của y là điên khùng hay không ?

    - Bạch Phật ! Những lời đó thật là điên khùng.

    - Vậy thì những thầy Bà la môn phải nói : “Chúng tôi chỉ cho anh con đường hiệp nhứt với cái mà chúng tôi không hiểu mà cũng không thấy nữa”. Nếu tục lệ của người Bà la môn như thế thì công việc của họ làm vô ích quá.

    Bharadvadja bèn thưa : “Bạch Phật ! Thật đúng như vậy”.

    Phật mới nói : “ Vậy thì không thế nào người Bà la môn thông thạo kinh Phệ đà có thể chỉ đường hiệp nhứt với cái mà họ không biết và cũng không thấy nữa. Thật là không khác nào một đoàn người mù níu nhau đi. Người đi đầu, người đi chính giữa, người đi chót đều không thấy đường. Theo ý Ta chuyện mấy thầy Bà la môn thuộc kinh Phệ đà thuật lại là chuyện của người mù. Nó thiệt là kỳ dị, thiệt là chuyện nói suông, không ích lợi vào đâu cả.

    Bây giờ thí dụ một người đi đến mé rạch, va có việc muốn qua bờ bên kia. Va bèn cầu khẩn cho bờ bên kia dời qua bên nây đặng cho va bước lên dễ dàng. Cái bờ bên kia vì có lời cầu khẩn của va mà dời qua bên nây không ?

    - Bạch Phật ! Không khi nào được bao giờ.

    - Đó là công việc của mấy thầy Bà la môn bấy lâu nay. Họ không tập luyện những tánh tình tốt để thành ra “thật một người Bà la môn” mà họ đã nói.

    Indra (Anh Tra) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Soma (Sô Ma) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Varouna (Hoa ru na) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Brahma (Phạn Vương) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Thật ra không thể nào nhờ sự cầu nguyện, nhờ sự van vái, nhờ sự xưng tụng công đức mà khi thác rồi họ được hiệp nhứt với Phạn Vương.

    Bây giờ ta hỏi hai thầy : “Người Bà la môn nói về đức Phạn Vương ra làm sao ! Ngài có ưa hoa nguyệt không ?”

    - Bạch Phật ! không .

    - Đức Phạn Vương có hung ác không ? Có kiêu căng không ? Có biếng nhác không ?

    - Bạch Phật ! không.

    - Còn mấy người Bà la môn có tránh khỏi mấy tánh đó không ?

    Vasichtha bèn thưa : “Bạch Phật ! Họ còn mấy tánh đó”.

    Phật bèn nói : “Người Bà la môn còn ưa khoái lạc, còn bị giác quan cám dỗ, họ say hoa đắm nguyệt, họ hung bạo, họ biếng nhác, họ kiêu hảnh, họ hoài nghi. Làm sao họ hiệp nhứt với cái không đồng bản tánh với họ được. Thế nên ba đức minh triết [1] của họ là một sa mạc khô khan, một cái rừng rậm rạp, một cảnh điêu tàn không thể nào tạo lập lại được.

    Khi nghe Phật nói xong thì Vasichtha liền thưa : “Bạch Phật ! người ta nói rằng Đức Thích Ca Mâu Ni biết con đường hiệp nhứt với Phạn Vương”. Phật mới nói : “Hai thầy nghĩ sao về việc một người kia sanh trưởng tại Manasâkrita, khi gặp con đường ngay hơn hết dắt từ đây đi thẳng đến Manasâkrita, y có ngần ngại gì mà không theo con đường đó chăng ?

    - Chắc chắn là va không hề ngần ngại chi cả.

    Phật bèn nói : “Vasichtha ! Cũng thế ấy, Như Lai biết con đường ngay thẳng dắt đến sự hiệp nhứt với Phạn Vương. Như Lai biết nó như một người đã vào cõi Phạn Vương và sanh đẻ tại đó. Như Lai không có nghi ngờ cái chi cả”.

    TEVIJJA SUTTA (Sacred Books XI 157 – 203).

    Nguyên văn chữ Pháp : “De Même, reprit le Bouddha, le Tathâgata connait le chemin direct qui conduit à l’union avec Brahma. Il le connait comme une personne qui est entrée dans le monde de Brahma, qui y est née. Il ne peut exister de doute en lui”.

    Xin quí bạn chú ý tới ba điểm nầy :

    Một là : Cuốn Tevejja Sutta là cuốn kinh Phật.

    Hai là : Nếu quả thật Phạn Vương không phải là Đấng Tạo Hóa Vũ Trụ nầy và sự hiệp nhứt với Ngài rất vô ích thì Đức Phật đã bảo hai thầy Bà la môn là lầm lạc rồi.

    Ba là : Ngài còn nói : Ngài biết rõ Phạn Vương và sanh đẻ tại đó. Ngài không có nghi ngờ chi cả.



    7.- Chuyện Thứ Bảy.

    PHẬT MẶC NHẬN PHẠN VƯƠNG LÀ ĐẤNG TẠO HÓA.

    Trong cuốn “Ánh Sáng Á Châu” (La Lumière de l’Asie) trương 202, có thuật những lời của Phật thuyết cho vua cha Tịnh Phạn nghe như vầy : “Om ! AMITAYA ! Chớ nên ướm thử dùng lời nói mà đo cõi vô biên, hay là nhúng dây tư tưởng vào cõi vô tận. Người hỏi cũng lầm mà người trả lời cũng lầm vậy. Đừng nói chi hết”.

    Kinh sách dạy rằng : Trước khi vạn vật sanh ra thì chỉ có một mình Phạn Vương trầm tư mặc tưởng mà thôi. Nhưng chớ nên suy gẫm đến Phạn Vương hay là một ánh sáng nào cả, cái trí người phàm cũng không hiểu được. Những màn lần lượt vén lên; cái nầy rồi tới cái kia. Phải có những bức màn và sau những bức màn nầy thì có những bức màn khác. Các ngôi tinh tú cứ vận hành mà không hỏi han chi cả. Miễn là sự sanh, sự tử, sự buồn vui, cái nguyên nhân và cái hậu quả còn lại là đủ rồi.

    Cuộc đời và ngày giờ cứ thay đổi và luân chuyển không ngừng cũng như giòng nước của con kinh chảy từ nguồn ra biển, dầu mau hay chậm, các lượn sóng cũng vẫn là một, mặc dầu coi khác nhau, cứ nối tiếp với nhau, cái sau nhồi cái trước.

    Tin có Đức Thượng Đế sanh hóa vũ trụ hay là không tin đó là quyền tự do của bạn, không ai xâm phạm được. Nhưng chắc chắn quí bạn dư biết tín ngưỡng không sửa đổi Chơn lý được.

    Cũng như rõ ràng ta thấy sớm mai mặt trời mọc ở phương Đông, chiều lặn về hướng Tây. Bây giờ, dầu hết thảy dân chúng trên địa cầu đều tin như vậy, sự tin nầy cũng không sửa đổi việc trái đất xây chung quanh mặt trời hay là bắt buộc mặt trời chìu theo ý mình phải xây chung quanh trái đất.

    Nếu không có thật ông Trời mà người ta tin rằng “có” đi nữa thì bất quá người ta tạo ra một ông Trời giả. Ngày nào người ta hết tin, ngày đó ổng tan mất.

    Trái lại, nếu ông Trời “có thật” mà thế gian không tin có Ngài thì Ngài cũng là Ngài. Ngài không có kém sút quyền năng chút nào. Có lẽ Ngài mỉm cười rằng : “Các con của ta còn khờ dại lắm vậy. Rồi đây chúng nó sẽ biết”.

    Người học đạo phải thận trọng và dè dặt từ chút trong việc tầm Chơn lý.

  4. #4

    Mặc định

    CHƯƠNG THỨ NHÌ

    NHỮNG CHUYỆN THẦN BÍ.

    Những chuyện Thần bí cũng chia ra làm hai thứ : một thứ ở ngoài và một thứ ở trong mình.

    Thứ ở ngoài là những sự cám dỗ của Ma vương, điều đó các hàng Phật tử đều biết.

    Thứ ở trong là những thần thông biến hóa, tôi chỉ nói tới tài phép của Đức Phật và các đệ tử mà thôi.

    1.- Chuyện Thứ Nhứt.

    PHẬT BAY QUA SÔNG.

    Khi tìm được đường giải thoát cho chúng sanh rồi thì Đức Phật liền đi Bê na rết (Bénarès); tới sông Hằng, Phật kiếm anh lái đò xin nhờ anh đưa qua bờ bên kia. Anh lái đò bằng lòng với điều kiện là phải trả tiền đò. Phật đáp : “Ta không có tiền”. Nói rồi Ngài bay qua sông.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ - trương 105).

    2.- Chuyện Thứ Nhì.

    PHẬT BAN PHÉP LÀNH CỨU KHỔ CỨU NẠN.

    PHẬT CỨU CÔNG CHÚA VIROUPA.

    Trong cuốn “Đời sống của Đức Phật” có thuật hai lần Phật ban phép lành cứu khổ cứu nạn; lần thứ nhứt cho Công chúa Viroupa, con của Ba sê na đi (Ba tỉ nặc), lần thứ hai cho Kala, em của Ba tỉ nặc.

    Vua Ba tỉ nặc (Ba sê na đi) có một người con gái tên Viroupa, mặt mũi xấu xí lắm. Đã đến tuổi có chồng rồi mà không có một vị Vương Tôn nào dám đến hỏi. Vua mới lập thế gả Công chúa cho một người đại thương gia tên Ganga mới tới lập nghiệp tại Çravasti.

    Hôn lễ cử hành trong lúc ban đêm cho nên Ganga không biết mặt vợ. Sáng ra Ganga thấy Công chúa giống như Mẫu dạ xoa nên đâm ra hoảng hốt. Nhưng không dám đuổi Công chúa đi vì sợ vua cha bắt tội chém đầu. Chàng nhứt định nhốt Công chúa trong nhà, mặc dầu viện lẽ gì cũng không được ra khỏi cửa. Công chúa hết sức chìu chuộng chồng, nhưng Ganga không đoái hoài tới. Một bữa kia, bằng hữu Ganga tổ chức một bữa tiệc rất lớn, những khách tới dự phải dắt vợ theo, không thì bị phạt 500 đồng vàng. Ganga ra đi một mình.

    Công chúa ở lại nhà buồn rầu tủi hổ bèn treo cổ tự vận.

    Lúc ấy Phật ngự tại vườn Kỳ Viên. Ngài mới tự hỏi : “Hôm nay những ai ở Çravasti đương đau khổ; ta phải tế độ ai ? Cứu vớt ai ? Ngài dùng huệ nhãn xem xét thì thấy Công chúa Viroupa đương lâm nguy. Ngài bèn bay lại nhà Ganga, cắt dây đem Công chúa xuống. Công chúa tỉnh lại dòm chung quanh thấy Phật thì biết bèn lạy tạ ơn cứu mạng. Phật bảo : “Viroupa , con hãy lấy kiếng soi mặt”. Viroupa vâng lời. Nàng bèn la lên một tiếng, mừng rỡ vô cùng. Nàng đẹp như Tiên Nga. Nàng muốn tôn kính Đức Phật nữa nhưng Ngài đã biến mất.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 202).

    3.- Chuyện Thứ Ba.

    PHẬT SAI ANANDA ĐI CỨU KALA BỊ CHẶT TAY CHƠN.

    Vua Ba tỉ nặc (Ba sê na đi) có một người em rất đẹp trai tên Kala. Một hôm Kala đi ngang qua vườn Ngự Uyển gặp một bà phi của vua Ba sê na đi thảy cho một vòng hoa. Mấy vị đạo sĩ hay tin nầy bèn vô tâu với vua rằng Kala muốn quyến rủ Hoàng phi. Vua nghe qua nổi trận lôi đình sai tả đao bắt Kala đem chặt tay chơn. Kala kêu oan thế nào cũng không được. Bằng hữu Kala biết Kala vô tội nên thương xót vô cùng. Vừa gặp một đạo sĩ đi qua, họ bèn nói : “Xin Ngài dùng thần thông cứu Kala. Ngài cũng biết Kala không làm điều trái nghịch luân thường”. Đạo sĩ nói : “Kala tin Thích Ca thì để Thích Ca cứu va”. Kala bèn kêu lên : “Tại sao Đức Thế Tôn không thấy sự đau khổ của tôi. Hãy tôn sùng Đức Phật. Ngài đã trừ được dục vọng. Ngài rất thương xót chúng sanh”.

    Bỗng chốc Ananda hiện đến trước mặt Kala và nói : “Kala, Đức Phật dạy tôi một câu chơn ngôn để cứu anh”. Nói rồi niệm chú, tay chơn Kala lành lẽ như xưa. Kala bèn nói : “Từ đây tôi phụng sự Đức Phật luôn luôn. Dầu Ngài sai tôi làm những việc hèn hạ thế mấy đi nữa tôi cũng vâng lời Ngài”. Kala bèn tới vườn Kỳ Viên. Phật bèn thâu Kala làm đệ tử.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 195).

    Mới nghe qua thì dị đoan hết sức nhưng mà đời nay cũng có những việc tương tợ như thế.

    Nhớ lại từ 45 hay 50 năm về trước, lúc nào ôn dịch thạnh hành thì người ta cầu ông lên; ngồi nghinh, xiêng quai, cầm dao yếm chém ngược ra sau lưng liền liền nghe bịch bịch mà không thấy chảy máu. Tắm dầu sôi, đi hỏa than. Có khi cắt một khúc lưỡi vẽ bùa. Xong rồi đâu hai khúc lưỡi lại, dán vàng bạc lên, lưỡi dính liền như cũ, vài bữa lành. Khi rút cây sắt ra, chỗ bị đâm có quần đỏ, không chảy máu, dán bùa lên ít ngày thì không còn dấu vết, không bao giờ làm độc. Thuở đó mấy người Pháp cũng cho là chuyện phi thường.

    Trọn hai năm,1910 và 1911 có lần tại quận Tịnh Biên (Châu Đốc) rộn lắm, mỗi ngày đều có vài người chết về bịnh dịch tả.

    Tôi đã thấy “Ông”, ngồi nghinh, xiêng quai, lấy dao rạch lưỡi phun máu vẽ bùa. Mấy ông hương chức và những người khiên kiệu dọn đường hò hét, không cho đàn bà con gái ra ngoài dòm ngó vì sợ ô uế.

    Chắc chắn có nhiều vị lão thành trong nước từ 58 tuổi sấp lên đã chứng kiến mấy việc nầy. Nói ra dường như nói láo, mà sự thật như thế đó.

    Đây thuộc về những hiện tượng siêu hình như thư da trâu, thư gạo, cất nhà trong bụng, quỉ nhập tràng v. v. . . Không lấy những luật vật lý ở cõi trần mà cắt nghĩa được.

    Ngạn ngữ Pháp có câu “Savoir c’est pouvoir” “Biết thì làm được” thật đúng lắm vậy.

    Nhơn đọc báo Sài Gòn Mai số 700 xuất bản ngày Chúa nhựt 7 và thứ hai 8-4-63 nơi mục “Thế giới siêu hình”. Phóng sự sưu tầm của Hoàng Ly thấy có bài “Xiên Lình” tôi xin mạn phép trích đoạn trong bài đó ra đây đặng cho quí bạn xem.

    XIÊN LÌNH

    Những chiếc dùi nhọn hoắc xiên dọc xiên ngang khắp mặt mày, cả chùm móc sắt cắm loái sau lưng, dùi móc đều to như lưỡi kiếm tay xiên sâu vào da thịt. Không rỏ qua một giọt máu !

    Lúc xiên lình cơ thể con người như đã thoát ra ngoài những định luật về vật lý và như có một vạn năng vô hình nào đã chế biến thịt da thành cao su dẻo. Đây ! Mời các bạn vào sâu “Thế giới xiên lình” kỳ dị từ Á sang Phi.

    . . . Tôi ngó xuống ngực, biến sắc vì chỗ lình vừa rút ra, để lại một vết thép đâm, và có một giòng máu từ trong ứa ra đỏ lắm.

    Khán giả cả kinh, giương mắt tròn xoe, người bạn Nam Phi của tôi không nén được tiếng kêu lo ngại.

    Trời, sao thế nầy ! Bạn tôi có sao không ?

    Khalifa nghiêm sắc mặt, nhìn mọi người, chẫm rãi nói : “Ông bạn nầy còn yếu đức tin At La ! Miệng nói tay trỏ ông đặt luôn lên vết thương day nhẹ mấy cái, tay kia cầm khăn lau giòng máu chảy trên ngực tôi. Khi ông ta bỏ ngón trỏ ra, cả tôi lẫn khán giả tưởng mình mê ngủ vì . . . trên ngực tôi vết lình vừa đâm đã biến sạch, da thịt đã liền vào như vừa có phép mầu ban lại.

    Vết thương ! Trời ! Vết thương đâu rồi ! Rõ ràng vừa đây còn sâu hỏm, máu ra mà !

    Có thể thế được ư ! Kìa ! da thịt ông ta đã liền vào như trong thần thoại . . .

    Đến lượt cô gái da trắng để Khalifa xiên lình qua cặp má hồng !

    -------------

    . . . Đứng ngoài, đám khán giả chúng tôi nhìn mũi lình nhọn hoắc đặt trên làn da mịn như nhung tơ, lòng không khỏi bồi hồi lo ngại.

    Khalifa bất thần ấn mạnh tay lình một cái, rồi cứ thế từ từ đẩy mãi.

    Mũi lình cắm sâu vào má nàng, một đốt tay, rồi cả nửa gang tay, thoát cái đã thấy má bên kia phập phồng nhấp nhô, rồi mũi lình từ từ chui ra tới hơn đốt tay mới đứng lại.

    Cây thép đã đâm qua cặp má hồng. Tôi chăm chú quan sát sắc diện cô ta, tuyệt nhiên không thấy vẻ chi đau đớn, vẫn tươi tỉnh như thường, cặp mắt long lanh sáng ngời tin tưởng.

    Khalifa lại chọn cây lình lớn, xiên từ má bên kia sang. Rồi có lẽ đã tin tưởng nhiều về đức tin của cô gái da trắng nầy, ông ta quơ luôn hai ba cái móc cắm loài luôn vào hai bả vai của nàng.

    Cô ta như sai lình, mặt nàng đỏ gay, cứ để mặc cho Khalifa xiên dọc, xiên ngang. Và thân nhân cô ta chỉ còn nước tắt thở, đứng im xem trò thí nghiệm nổi da gà.

    Mãi tới lúc cô ta sắp biến thành con dím lủng lẳng đầy lình, Khalifa mới ngừng tay xiên và từ từ rút ra từng cái một.

    Cả chục chỗ thép đâm, không chỗ nào rỉ máu, lình rút đến đâu da thịt cô gái trắng nầy như liền ngay đến đó, rõ ràng có thứ gì huyền bí nhiệm mầu đã khiến xác thịt cô ta bỗng chốc thoát ra ngoài định luật về vật lý !

    Đức tin cô ta cao lắm, At La đã giúp cô vượt qua thử thách khó khăn.

    Khalifa cất tiếng khen và còn xiên thử cho hai kẻ nữa. Có một chàng trai lình vừa đi vào đã kêu oải oải, còn tệ hơn tôi, nhưng cũng như lần trước, Khalifa chỉ xoa nhẹ lên chỗ đó, da thịt lại như thường.

    Đọc bài nầy ta thử tự hỏi “nếu một người thường chỉ xoa nhẹ ngón tay lên vết thương mà da thịt liền lại, thì Đức Phật, một Đấng Chí Tôn quyền năng phi thường, há không có phép làm lành tay chơn được sao ?”

    4.- Chuyện Thứ Tư.

    PHẬT ĐẤU PHÉP VỚI CÁC ĐẠO SĨ.

    Vua Ba tỉ nặc (Ba sê na đi) cho cất một cái phòng rộng lớn đặng Phật đấu phép với các vị đạo sĩ.

    Đúng ngày kỳ hẹn, sáng sớm vua ngự đến phòng thì mấy vị đạo sĩ đã có mặt ở đó rồi. Họ ngó nhau cười. Một vị nói : “Tâu Bệ Hạ ! Chúng tôi tới trước. Không biết người mà chúng đợi sẽ đến hay không?”

    Đức vua bèn nói : “Quí vị chớ nên nhạo báng. Quí vị đã biết rằng Phật mới sai đệ tử của Ngài đến cứu em tôi là Kala bị tôi hành tội rất oan ức. Biết đâu Ngài đã có mặt tại đây rồi”. Vua vừa dứt lời thì hào quang rực rỡ bao phủ cái phòng. Phật hiện ra giữa những lằn hào quang chói sáng, sau lưng là hai đệ tử Ananda và Kala. Ananda cầm một cái bông đỏ. Kala thì cầm một cái bông vàng; tại vườn Thượng Uyển Çravasti không hề có những bông đẹp như hai cái bông nầy. Vua rất bái phục. Mấy vị đạo sĩ không cười nữa. Họ mắc cỡ cúi đầu xuống vì thấy vua tỏ dấu khinh bỉ họ.

    Bỗng chốc nóc nhà biến mất. Phật hiện lên trên không rồi bay một vòng từ đông sang tây.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 196 – 197).

    5.- Chuyện Thứ Năm.

    PHẬT ĐẬP NÁT CÁI BÁT BẰNG BẠCH ĐÀN.

    Djotichka, con của Subadra, là một vị phú hộ ở Vương Xá Thành (Rajagriha), ông đem một cái bát bằng bạch đàn nhận châu ngọc rất quí để trên chót vót một cột trụ cao, và ở dưới treo một tấm bảng có mấy hàng chữ “Thầy Sa Môn nào không dùng thang, không dùng móc mà chỉ dùng thần thông lấy được cái bát, xin cái chi ta cúng dường cái nấy.

    Ma ha Ca diếp (Maha Kasyapa) hay được, tới trước cây trụ, chắp tay lại, cái bát liền rớt xuống nằm trên tay. Ngài đem cái bát về tịnh xá. Thiên hạ tới trước mặt Phật khen ngợi rằng đệ tử của Ngài là Ma ha Ca diếp phép tắc cao cường. Phật hay tin nầy xách gậy lại tịnh xá đập nát cái bát và cấm đệ tử dùng phép thần thông đặng khoe khoang.

    (Phúc Âm của Đức Phật trương 129)

    (Evangile du Bouddha page 129 par Carus).

    6.- Chuyện Thứ Sáu.

    CHULLAPANTHAKA HÓA PHÉP PHÂN THÂN.

    Một bữa Phật sai một vị tín đồ tới tịnh xá đòi Chullapanthaka (một vị La Hán) đến cho Ngài dạy việc. Vị tín đồ tới tịnh xá gặp 300 vị tỳ kheo giống hệt nhau như khuôn đúc, vị nào cũng nói tôi là Chullapanthaka cả.

    Không biết làm sao, vị tín đồ mới trở về bạch với Phật tự sự. Phật bèn dạy : “Người trở lại tịnh xá, gặp người đầu tiên xưng mình là Chullapanthaka thì cứ nắm tay dẫn về đây”.

    (Giảng lý Pháp Cú – Commentaires sur Dhammapada – Catéchisme bouddhique par Colonel Olcott page 127).

    7.- Chuyện Thứ Bảy.

    XÁ LỢI PHẤT DÙNG THẦN NHÃN

    THẤY NHỮNG SANH VẬT TRONG NƯỚC.

    Xá Lợi Phất dùng thần nhãn dòm vô bầu lọc nước của Ngài thấy có nhiều sanh vật vì bình lọc của Ngài chưa được tinh vi. Ngài đành chịu chết khát chớ không uống nước. Phật hay vậy bèn nói : “Con kính trọng sanh mạng mà vì đó con sát hại sanh mạng”. Từ đó Phật cấm đệ tử dùng thần nhãn xem nước uống, phải xem bằng con mắt thường mà thôi.

    Beal Catena 56

    La Morale Bouddhique par Louis de la Vallée Poussin, page 56.

    Luân lý đạo Phật trương 56.

    NHỮNG PHÉP THẦN THÔNG CÓ THẬT HAY KHÔNG ?

    Tôi dám quả quyết có thật. Phép thần thông là những quyền năng còn tiềm tàng trong thân thể con người. Biết cách mở chúng nó thì dùng được chớ không có chi lạ.

    Trong cuốn : Những văn tập nguyên thủy của Phật giáo trương 71 (Les Ecrits primitifs du Bouddhisme par Eiward J. Thomas) có nói về bốn phép thần thông như sau đây :

    Les 4 pouvoirs psychiques

    1- Oreille dinine – Thiên nhĩ.

    2- La lecture du mental - Đọc trong tư tưởng.

    3- Connaissance des existences passées - Biết được kiếp trước.

    4- Vision divine - Huệ nhãn.

    Kinh phái Nam Tôn gọi phép thần thông là Iddhid, còn Bắc Tôn là Siddhis. Phương pháp luyện phép thần thông có chỉ trong cuốn Kinh Visuddhis Mârga. Khoa luyện phép thần thông gọi là Iddhi Vidhanâna.

    Có hai phương pháp :

    Phương pháp thứ nhứt gọi là Lankika, dạy người ta dùng ngải nghệ, bùa chú, thuốc men v.v. . . Cái hiệu quả tạm thời vì người ta nhờ những viện trợ ở ngoài.

    Phương pháp thứ hai gọi là Lokottara, dạy người ta mở những quyền năng còn tiềm tàng trong thân thể con người nhờ sự Thiền Định (Dhyâna). Luyện được thì thần thông rộng lớn và không hư hoại.

    Đức Phật có 80 vị đệ tử phép tắc cao cường, đứng đầu là Mục Kiền Liên (Mogallâna). Kế đó là Ma ha Ca diếp, Xá Lợi Phất, Kiều Trần Như . . . , trọn 25 năm Ananda không có một phép nào cả.

    Sau khi Phật bỏ xác rồi Ananda mới thành công trong lúc Phật giáo nghị hội lần thứ nhứt tại động Sattapanni. Chúng ta có thể nói những việc kể trước đây đã xảy ra 2.500 năm, thành ra xưa rồi, không ai kiểm soát được.

    Bây giờ xin nói những chuyện Thần bí trong đạo Phật ở thời cận kim và hiện đại.

    NHỮNG CHUYỆN THẦN BÍ Ở THỜI CẬN KIM VÀ HIỆN ĐẠI.

    Xác của Đức Huệ Năng, xác của Đại sư Hán Sơn, xác của Đại sư Đơn Điền khô rom và để thờ trong chùa bên Trung Hoa đã mấy trăm năm rồi giống như thây ướp bên Ai Cập.

    Mới đây, năm 1959, xác của Từ Hàng Đại Sư chôn đã 5 năm rồi mà không rã, người ta mới đem di hài sơn son thếp vàng thờ tại một ngôi chùa cất trên đỉnh đồi Cơ Lung ở Đài Bắc (Đài Loan).

    Nhưng chẳng riêng gì ở Trung Hoa, bên Tây Tạng cũng có những trường hợp như thế. Mấy chuyện nầy thuộc về chuyện Thần bí hay không bởi vì chúng nó nghịch hẳn với những luật tự nhiên bắt buộc các thứ thây, dầu thây con người hay thây thú vật, nội trong ba ngày cũng phải bắt đầu tan rã.

    Nếu cho rằng mấy vị ấy có phép luyện riêng thì phép đó có thuộc về huyền bí không ? Ngày nay nói đến việc có thần nhãn, tiếng Pháp gọi clairvoyance astrale, vision astrale, seconde vue, sixième sens (theo ông Charles Richet là quan thứ sáu) thì những nhà Âu Mỹ không còn cho là lạ lùng nữa vì đã thường thấy nhiều người có thần nhãn rồi. Xin đọc những cuốn sau nầy : Le sixième sens của ông Charles Richet. La clairvoyance par Leadbeater. Le troisième œil par Lossang Rampa (Lanna).

    Madame Fraya m’a dit par Simone Tervagne (Edition Adyar) và mới đây những bài trong báo Dân Chúng nói về bà Fraya, ông Croiset, Trạng Nguyễn, ông sãi cả Pramo Sarnin v.v. . .

    Đời nay cũng có nhiều người có những phép thần thông như thuở xưa. Tôi xin thuật hai chuyện thôi.



    CHO CHÔN SỐNG DƯỚI ĐẤT.

    Nhiều vị đạo sĩ Dô Ghi (Yogui) kiểm soát được các cơ quan trong mình một cách hoàn toàn. Họ muốn cho trái tim nhảy thì nhảy, ngừng thì ngừng mà họ không chết. Họ cho đem chôn sống họ trong một thời gian từ vài tháng cho đến vài năm, tùy theo công phu luyện tập. Đào lên họ sống dậy.

    Có người nằm trong hòm kiếng để cho thiên hạ đến coi. Các báo Âu Mỹ đã đăng nhiều sự thí nghiệm như thế rồi.



    BỊ CHÔN SỐNG DƯỚI ĐẤT TRÊN HAI NGÀN NĂM MÀ KHÔNG CHẾT.

    Trong cuốn “Les mystères de l’Etre” (Những sự mầu nhiệm của con người ) trang 289, ông Đốc Tơ Ely Star có thuật lại chuyện nầy hết sức kỳ lạ.

    Tôi xin dịch tóm tắt như sau đây :

    Năm 1898 trong một thành phố nhỏ kia bên Thiên Trước, có một cái đường rộng, song vắn quá, vì bị cái chùa nhỏ chận ngang đường.

    Chánh phủ Anh nhứt định nối con đường đó cho dài ra, nhưng muốn cho công việc hoàn thành thì phải phá cái chùa ấy rồi cất lại một bên.

    Sau khi cho ông Sãi già ở giữ chùa đó hay lịnh của Chánh phủ rồi, viên kỹ sư sai dân phu thi hành phận sự.

    Lúc đào tới nền, người ta gặp một cái tháp nhỏ ở dưới đất ngay chính giữa chùa. Có một cái cửa vô tháp, song bị lấp kín hồi đời nào. Ông kỹ sư coi sóc công việc đó mới dạy phá một phía vách tường rồi Ngài đích thân cầm đèn bin (pile) vô tháp xem coi. Ngài thấy chính giữa có một cái hòm đựng một cái xác người giống như thây ướp để dành vậy (momie). Ông kỹ sư mới kêu ông Sãi già lại xem. Ông Sãi nầy lại xem coi kỹ lưỡng rồi mới nói với viên kỹ sư : “ Ngài lầm rồi, không phải cái xác chết ướp đâu. Ngài hãy coi : con mắt, lổ tai, lổ mũi đều bịt sáp, cái miệng còn có vải băng. Tôi dám chắc người nầy chịu cho người ta thử mình.

    Đối với người Âu Châu thì sự nầy lạ lùng; còn đối với chúng tôi thì cũng như giấc ngủ thường vậy. Người nầy không chết đâu”.

    Viên kỹ sư sửng sốt mới nói : “Ông giả ngộ sao chớ !” Ông Sãi bèn đáp : “Không, tôi không giả ngộ với ông đâu. Chúng tôi dám quả quyết với ông rằng :“Người nào chịu cho thí nghiệm như vậy không có chết đâu, mà dầu va có chết là tại ý va muốn đó thôi.

    Xác va ở trong và ở ngoài đã rữa hết các sự nhơ bợn rồi. Người ta nhét sáp vào lổ tai, lổ mũi và con mắt đặng đừng cho sâu bọ chun vào, trước khi bịt miệng người ta uốn lưỡi lên ổ gà. Nếu quả người ấy chết, khi Ngài phá hòm ra thì Ngài sẽ thấy một bộ xương trắng mà thôi”. Đứng trước những câu trả lời hữu lý đó, viên kỹ sư lấy làm bối rối hơn nữa. Ngài mới hỏi ông Sãi :
    “Ông tưởng mấy phép cúng kiến của mấy ông có thể làm cho người nầy sống lại được chăng ?”

    - “Tôi tin chắc như vậy. Nếu ông cho phép, tôi sẽ thưa với các Đấng bề trên của tôi coi các Ngài định đoạt như thế nào rồi tôi sẽ cho ông hay”.

    Vài ngày sau các vị Trưởng lão trong chùa lớn ở gần đó tựu lại rồi người ta làm một cái lễ rất long trọng. Sau khi phá hòm một cách kỹ lưỡng, người ta mới đem cái xác đó ra ngoài. Quần áo của cái xác đều tan rã ra tro bụi. Người ta mới dùng một thứ dầu riêng đặng gỡ sáp ở lổ mũi, lổ tai, con mắt và lấy luôn miếng vải bịt miệng nữa. Xong rồi mới ngâm cái xác ở trong bồn nước thơm và ấm.

    Ông Sãi cả (Grand Lama) đứng đọc lớn những câu thần chú đặng trục hồn người đó về nhập xác. Trọn 12 giờ đồng hồ làm như vậy cái xác có mòi sống dậy, cái kiếng để trước miệng thấy hơi bay ra.

    Ông Sãi cả rán sức hơn nữa, Ngài để tay trên trán và trên ngực cái xác. Trong giây phút cái xác mở mắt ra dòm những người đứng chung quanh coi bộ lấy làm lạ lắm, dường như muốn hỏi thăm điều chi vậy. Nhờ đọc những chữ viết trong tấm lá buông (papyrus) để trong hòm, người ta mới biết anh nầy xuất hồn trên hai ngàn năm từ đời vua A Lịch Sơn Đại Đế (Alexandre le Grand). Có lẽ lúc anh nhập định, xứ anh bị loạn lạc, người ta lo chạy giặc nên quên phứt anh đi. Sau khi sống dậy, anh mới nghe theo các vị Đại sư vô ở chùa lớn gần đó. Trong hai năm phục hồi các năng lực và học tiếng bổn xứ rất làu thông. Anh thuật chuyện lại thì cũng giống in những chữ viết trong tấm lá buông cũ rích đó. Ngày kia anh lại nói với ông Sãi cả rằng anh ở trần tục buồn quá, xin để cho anh đi. Người ta bằng lòng. Đúng ngày kỳ hẹn các sãi tựu hội lại. Anh đứng trên nóc chùa, vấn một tấm da chiên trắng nõn, cột một sợi dây lưng bằng lông lạc đà rất dài. Sau khi từ giả các đạo hữu, anh niệm thần chú rồi quăng sợi dây lưng lên trên không, sợi dây nầy bay lên cao mãi rồi rút anh lần lần vô trong đám mây mù. Anh ra dấu từ giả lần cuối cùng rồi trong giây phút mất tăm dạng.

    Những tấm lá buông, sáp và vải bịt miệng nhờ có nhúng một thứ nước thuốc nên không bao giờ mục, mấy ngàn năm cũng không hề hư hoại. Những hột lúa mì để trong hòm vua Pharaon trót 5.000 năm đem ra gieo xuống đất cũng mọc lên cây lúa và trổ bông sanh quả như thường. Nếu quí bạn cho chuyện của đạo sĩ nầy là dị đoan thì trong đạo Phật còn một chuyện dị đoan hơn cả trăm lần chuyện nầy nữa, ấy là :

    CHUYỆN CỦA MỘT VỊ ĐỆ TỬ­ CỦA ĐỨC PHẬT CA DIẾP “KASYAPA”

    BAY BỔNG LÊN TRỜI

    (Do Đức Trần Huyền Trang thuật lại)

    Gần Oucha có ngọn núi cao luôn luôn mây mù bao phủ, trên đó có một cái tháp. Người ta thuật sự tích như sau đây :

    Mấy trăm năm trước, một bửa kia giông mưa nổi dậy, sấm sét ầm ầm, trời đánh sụp đổ một góc núi. Người ta mới lại đó xem thì thấy một người ngồi xếp bằng nhắm mắt lại. Hình thù cao lớn, da thịt khô rom, râu dài thậm thượt, tóc phủ tới vai và bao trùm cả mặt mày. Đức vua hay tin, bèn tới đó xem và kính cẩn vái chào ông ấy rồi Ngài mới hỏi dân chúng : “Ai đó vậy?”

    Các nhà tu hành đáp : “Tâu Hoàng thượng ! Ông ấy mặc áo cà sa, râu dài, tóc bay phất phơ, ấy là một nhà sư tham thiền nhập định. Người nào nhập định như thế, thì ở trong một trạng thái không nhứt định được một thời gian bao lâu, nhưng xác thân không chết và cũng không hư hại. Người thì nói phải đánh chiêng khánh lên cho Đức Ngài nghe, người thì nói phải nhờ vào ánh sáng mặt trời dọi vào mặt thì Đại Đức mới tỉnh lại liền, nhưng xác thân ngài sẽ ngã ra chết tức tốc. Vậy thì trước hết phải lấy bơ và dầu thoa đánh cùng mình đặng tay chân mềm dịu lại rồi tụng kinh trục hồn về. Vua khen phải. Sau khi làm y theo phép thì đại đức mở mắt ra, làm thinh một hồi lâu rồi mới hỏi lớn : “Mấy anh là ai, mà hình thù nhỏ bé như vậy”. Một nhà sư đáp : “Chúng tôi là những tăng lữ như Ngài vậy”. Đại Đức bèn hỏi nữa : “Thầy tôi là Đức Phật Ca Diếp (Kasyapa) bây giờ ở đâu ?” Người ta đáp : “Đức Phật Kasyapa nhập Niết Bàn đã lâu lắm rồi” – “Còn Đức Thích Ca Mâu Ni đã đắc quả Phật chưa ?” - “Đức Thích Ca đã thành đạo và sau khi khai sáng cho đời Ngài cũng tịch diệt rồi”. Nghe qua Đại Đức liền hét lên một tiếng đau thương. Ngài bèn nâng mái tóc rồi bay bổng lên trên không. Ngài vận dụng thần thông, tức thì thân hình Ngài biến thành một bầu lửa đỏ, còn xương cốt thì rớt xuống đất từng mảnh. Vua mới lượm đống xương này rồi đem chứa trong một cái tháp xây lên tại chỗ đó.

    (Cuộc hành hương của một nhà sư Trung Hoa nơi đất Phật – Voyage d’un pellerin chinois dans l’Inde du Bouddha – par Henri Valentino page 225).

    Đức Phật Kasyapa trước kia là một vị Thượng Tiên ở bầu Kim Tinh (Vénus) qua giúp nhơn loại ở địa cầu mình. Ngài là Đức Bồ Tát của giống dân thứ ba, giống Lê-mu-ri-den (Lémurien) tổ tiên của giống da đen bây giờ.

    Khi giống thứ tư là giống Ắt-lăn (Atlantes) tổ tiên giống da vàng sanh ra được ít lâu (người ta biết giống thứ tư sanh ra đã tám triệu năm rồi) thì đức Kasyapa giao quyền Bồ Tát cho Đấng Chí Tôn mà mình gọi là Đức Thích Ca. Ngài xuống thế dạy đạo một lần chót sau khi đắc quả vị Phật. Nếu Đức Phật Kasyapa là thầy của Đại Đức thì Đại Đức phải nhập định cả triệu năm rồi. Thật là quá sức tưởng tượng của con người : Thế thì trong hai trường hợp mới kể ra đây, trường hợp nào phi thường hơn, dị đoan hơn, có thể nói cả ngàn lần chớ không phải cả trăm lần mà thôi.

    ĐI HỎA THAN

    Năm 1938, tại Luân Đôn, kinh đô nước Anh, các nhà thông thái, các nhà bác học có tổ chức một cuộc đi hỏa than.

    Người chịu cho thí nghiệm là một vị giáo sĩ quê ở Cachemire tên Kudabux. Đạo sĩ mình trần chỉ vận một tấm vải, đi qua đi lại, đi tới đi lui trên lửa than. Một chập bước ra không bị phỏng và tấm vải cũng không bị xém.

    Lần sau đạo sĩ không đi mà đứng sửng trên than hồng. Đạo sĩ lấy một tấm nỉ trải trên lửa đỏ mà nó cũng không cháy. Đạo sĩ vẫn như thường. Khoa học vật chất không bao giờ cắt nghĩa nổi mấy việc nầy vì chúng nó thuộc về Huyền bí học.

  5. #5

    Mặc định

    PHẦN THỨ NHÌ


    CHƯƠNG THỨ NHỨT

    GIÁO LÝ ĐẠO PHẬT DẠY VỀ LUÂN HỒI , NHÂN QUẢ
    LẠI CÀNG VÔ CÙNG HUYỀN BÍ.


    TRƯỚC NHỨT LÀ LINH HỒN.

    Nếu chúng tôi hỏi : “Đạo Phật dạy thuyết Luân Hồi và Nhân Quả phải chăng ? Thì sẽ có bạn nói : “Sao ngớ ngẩn thế ? Ai ai lại không biết rằng đạo Phật giải về Luân Hồi và Nhân Quả rành rẽ hơn các đạo kia”. Vâng. Đúng vậy. Nếu dạy thuyết Luân Hồi Nhân Quả thì phải công nhận có một cái tồn tại không bao giờ chết, gọi nó là NGÃ hay là LINH HỒN hay cái chi cũng được phải chăng ?

    Chắc chắn người học đạo ai ai cũng muốn biết cái NGÃ hay là LINH HỒN ra sao ? Nó giống hình người không ? Ai sanh ra nó ? Lúc con người sống, nó ở tại đâu trong mình người da trắng ? Người da vàng ? Người da đen ? Chỗ nó ở có tùy theo giống dân mà khác nhau không ? Và tất cả những LINH HỒN đều giống nhau phải chăng ? Vậy thì chuyện có Linh Hồn rất là Thần bí.

    SAU KHI THÁC RỒI CON NGƯỜI RA SAO ?

    Sau khi bỏ xác con người ra sao ? Có bị bắt xuống âm phủ để xử tội không ? Nếu có thì âm phủ ở đâu ? Khi tin điều nầy người ta công nhận sự hiện hữu của Diêm Vương Thập Điện, quỉ sứ, dạ xoa, nhưng đồng thời khó giải quyết tại sao có hồn ma hiện về được. Lại còn một nỗi nữa, có một âm phủ chung cho tất cả các giống dân tộc trên địa cầu hay là nước nào có âm phủ nấy. Vua Diêm Vương sẽ dựa theo luật nào để xử tội ?

    Bằng không có âm phủ thì Linh Hồn đi đâu ? (xin gọi con người cho dễ hiểu). Về cõi nào ? Sao ta không thấy nó ? Cách sanh hoạt của nó ra sao ? Có học hỏi chi chăng ? Hay là mê man như ngủ, rồi tới chừng nào mới đi đầu thai

    SỰ ĐI ĐẦU THAI
    Tại sao linh hồn đầu thai làm con của người nầy chớ không làm con của người kia ? Vào gia quyến nầy chớ không vào gia quyến khác ? Ở xứ nầy chớ không phải ở xứ kia ? Tại Trung Hoa chớ không phải ở Nam Dương ? Làm dân nước Anh ở Bắc Đại Tây Dương chớ không phải là người xứ Ba Tây (Brésil) thuộc Nam Mỹ Châu ? Làm đàn ông chớ không phải làm đàn bà ? Làm đàn bà chớ không phải làm đàn ông ? Linh hồn muốn đi đầu thai chỗ nào thì tự ý phải chăng ? Hay là bị bắt buộc ? Nếu bị bắt buộc thì ai bắt buộc ?

    Còn như được tự do thì tại sao không đi đầu thai làm con nhà giàu sang, thông thái ở các nước văn minh mà lại thác sanh vào nhà nghèo nàn, dốt nát ở các nước nhược tiểu. Linh hồn sao dại dột quá vậy ?

    THỬ BÀN VỀ 6 NẺO LUÂN HỒI.

    Trong Phật giáo, nói đến chuyện Luân Hồi thì người ta liền nghĩ ngay đến việc con người đi đầu thai làm :

    a/ hoặc Thiên Thần,

    b/ hoặc thú vật,

    c/ hoặc ngạ quỉ,

    d/ hoặc A tu la.

    hay là con người hoặc bị phạt ở Địa ngục. Rồi cứ tương truyền như vậy từ thời đại nầy qua thời đại khác. Con người có sẵn thành kiến như thế rồi thì khi nghe chánh lý cũng không bao giờ cho là đúng với sự thật.

    Riêng tôi, tôi xin thú thật rằng : không khi nào tôi tin ở dưới đất có cái ngục để hành phạt Linh hồn. Tôi không tin có Diêm Vương, có Thập Điện, có quỉ sứ, có dạ xoa chi cả. Con người là Chơn Thần, xuống trần học hỏi và kinh nghiệm càng ngày càng nhiều, sau mới trở nên trọn sáng trọn lành. Phật đã dạy : chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh sẽ thành Phật. Như vậy có nghĩa là con người càng ngày càng tiến lên cao chớ không phải sụt xuống thấp. Đọc Túc Sanh Truyện ta thấy Linh hồn đầu thai trước ở trong loài thú dưới nước, kế đó làm loài thú ở trên bờ rồi mới thành người và cuối cùng mới tu và đắc quả Phật, chớ không hề gặp chỗ nào nói rằng con người trở xuống làm thú vật cả. Hơn nữa, Phật không để một chữ nào thì làm sao dám quả quyết Phật dạy : có 6 nẻo Luân Hồi ?

    Bây giờ ta hãy thử luận coi : Tội là gì ? Phước là gì ? rồi nhiên hậu mới biết nói rằng con người đầu thai làm súc vật hữu lý hay là phi lý ?

    Chung quanh ta là những luật trời hành động để giúp cho muôn loài vạn vật, chẳng những ở tại quả địa cầu nầy mà còn ở nhiều cõi khác nữa, tiến hóa cho đúng với Cơ Huyền Diệu của Đức Thượng Đế đã sắp sẵn. Đâu đâu cũng có một sự quân bình, không khác nào mặt nước phẳng lặng như tờ.

    Bây giờ ta hãy lấy một cục đá ném xuống nước; ta thấy một tia nước vọt lên cao hay thấp, mặt nước nổi sóng lớn hay nhỏ và làm một vòng tròn lan ra xa hay gần tùy theo sức ném mạnh hay yếu của ta và sức nặng hay nhẹ của cục đá.

    Ta sanh ra một tư tưởng, tư tưởng nầy xẹt ra trên không phá sự quân bình không khác nào ta ném một cục đá xuống nước. Nhưng trái với cục đá, cái vòng tư tưởng đi ra xa rồi tới một ngày kia nó không đi tới được nữa thì nó trở lại cho người đã sanh nó ra.

    Nếu tư tưởng nầy lành, nó gây ảnh hưởng tốt đẹp cho những người hay vật ở chung quanh thì cái hiệu quả trở lại cho ta là hạnh phúc. Người đời gọi là làm lành nên hưởng phước lành. Nhược bằng tư tưởng nầy ác, nó ảnh hưởng xấu cho những người và vật ở chung quanh ta thì cái hiệu quả trở lại cho ta là sự đau khổ. Người đời gọi là làm tội nên mắc họa.

    Nói một cách khác, khi ta làm mất quân bình của Thiên Nhiên thì Thiên Nhiên phản động đặng lập quân bình như trước. Sự phản động có ích hay có hại cho ta tùy theo mục đích việc làm của chúng ta thuận hay nghich với Cơ Trời.

    Cái lành hay là cái ác của chúng ta đều trở về với ta đúng với câu : “Hãy trả cho César cái gì thuộc về của César” – Nghĩa là Nhân nào Quả nấy.

    Thật sự con người giống như những đứa trẻ ở trong hang tối hễ thấy ánh sáng thì đâm đầu chạy ra, bất chấp chi cả, cho nên đụng cái nầy, chạm cái kia, té lên té xuống.

    Những sự lầm lạc là những bài học để dạy con người sau phải hành động khôn ngoan hơn trước. Có như thế thì con người mới tiến lên. Con người còn vô minh, con người không biết luật trời, hoặc có nghe nói mà không sợ nên mới lầm lỗi. Cái tội con người làm không có chi gọi là nặng nề cả đối với các Đấng Thiên Tôn cầm cân tội phước. Con người không có phạm tội gì lớn cho đến đỗi phải trở xuống đầu thai làm thú vật.

    Theo luật trời, con thú không có hồn riêng biệt như con người, nó không có cá tánh. Nó thuộc về Hồn Khóm, nghĩa là cả trăm, cả ngàn con thú đồng một loại thì có chung một Hồn lớn gọi là Đại Hồn, Hồn của một con thú là Tiểu Hồn. Chừng con thú chết, hồn của nó đem những sự kinh nghiệm của nó giao cho Đại Hồn rồi tan mất. Sau Đại Hồn cho một Tiểu Hồn nhập vô mình con thú đặng đầu thai. Trái lại, con người là một Hồn riêng biệt đi đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia.

    Con thú muốn đi đầu thai làm người phải có Thượng Trí. Một khi đã có Thượng Trí rồi nó tách ra khỏi Hồn Khóm của nó, không bao giờ nó trở về đó nữa (xin xem quyển Đời sống Huyền bí của Thái dương hệ của tôi).

    Con người không thể nào bỏ Thượng Trí trở nhập vô Hồn Khóm như trước đặng làm một con thú được.

    Vì mấy lẽ trên đây không khi nào những người biết Đạo tin rằng con người có thể đi đầu thai làm A tu la, ngạ quỉ, súc sanh v. v. . . Mà A tu la là gì ? Ngạ quỉ là gì ? không ai biết hay thấy nó ra sao cả. Con người cũng chưa làm Thiên thần đâu, con người thì đầu thai làm con người mà thôi. Trừ ra khi nào tu hành tới bực La Hán sắp lên mới vào hàng Thiên thần được.

    NHẬP VÀO MÌNH THÚ VẬT.

    Nhưng có vài trường hợp con người sau khi thác rồi hay là lúc trở xuống đầu thai nhập vào mình thú vật.

    Tỷ như bốn truyện sau đây :

    A/ Bị Quả Báo.

    Nếu một người nào đó không biết chế ngự sự thèm thuồng vật dục mà lại buông lung làm cho chúng nó được thỏa thích mãi thì y tạo ra một sự liên lạc chặt chẽ với một con thú nào có đặc điểm đó.

    Chúng ta biết rằng trên cõi Trung giới, những tư tưởng và những tình cảm đều hiện rõ ràng. Thế nên cái vía của y hóa hình giống như con thú đó.

    Tới khi trở xuống đầu thai, cái vía của y nhập vô cái vía của con thú loại đó. Y mắc kẹt vào thân mình của con thú không khác nào bị cầm tù. Y trở lại cõi Thiên Đường không được mà xuống trần thế cũng không được. Y tỉnh táo như thường, y giữ trọn vẹn những năng lực của con người mà y không dùng được. Những cơ quan của thú không phát ra được lời nói của con người. Y không thể sai khiến con thú theo ý muốn của y bởi vì nó còn hồn của nó. Y không đủ năng lực đuổi hồn nầy ra khỏi xác con thú. Y bực tức lắm. Y không biết làm sao cho người ta biết y mắc vào trường hợp nầy. Con thú đi đâu, y đi theo đó. Nó bị đánh, y cảm thấy y cũng bị đau vậy. Chừng con thú chết rồi y mới thoát ra ngoài được và sẽ đi đầu thai như thường. Trong lúc y ở trong mình con thú, sự tiến hóa của y bị ngưng trong một thời gian. Đây là một hình phạt cực kỳ ghê gớm và hết sức nặng nề của Thiên Nhiên để trừng trị những kẻ quên phứt bản tánh Thiêng Liêng, không kềm chế thú tánh mà ngày đêm cứ say hoa đắm nguyệt không nhớ tới phẩm giá của mình.

    B/ Tự ý nhập vào mình thú vật chớ không bị nghiệp quả.

    Mới nghe qua thì không ai tin rằng : Con người tự ý nhập vô mình thú vật, nhưng mà chuyện có thật mới là kỳ lạ.

    Theo lẽ thường vài giờ sau khi con người thác rồi thì cái phách lìa khỏi cái vía, nó rớt ra ngoài. Con người khởi sự đời sống của mình trên cõi Trung giới, lúc nầy con người ở trong cái vía và dùng nó như dùng xác thịt ở cõi trần [2] . Từ lúc con người tắt hơi cho tới khi cái phách rớt ra, con người sẽ mê man. Khi qua cõi Trung giới rồi con người mới bắt đầu tỉnh lại.

    Nhưng có một số người lầm tưởng xác thân là mình nên sợ chết lắm. Lúc tắt hơi rồi mà trong lòng họ còn núi nắm cõi trần hết sức.

    Chừng họ tỉnh lại thì họ ra sao ? Họ không lên cõi Trung giới được bởi vì cái vía của họ còn dính với chất dĩ thái của cái phách – nghĩa là cái phách không rớt ra. Họ trở lại cõi trần cũng không được bởi vì họ đã mất xác thân rồi. Vậy thì họ ở cõi nào ?

    Họ ở chính giữa cõi Trung giới và cõi Trần tức là ở trong bốn cảnh dĩ thái hồng trần (4 sous plan éthériques). Họ thông đồng với những người ở cõi Trung giới không được mà muốn giao thiệp với những người trần thế cũng không được. Họ ở hiu quạnh một mình, chung quanh thân mình họ là một đám sương mù dày đặc. Họ đâm ra hoảng hốt kinh sợ. Có khi họ thấy những người đồng cảnh ngộ với họ chạy như bay, họ muốn kêu lại mà không kịp, họ không chuyện vãn chi được. Một đôi khi tấm màn dĩ thái vén lên họ trông thấy mấy cảnh thấp của cõi Trung giới và họ không hiểu chi hết, họ tưởng đó là âm phủ. Cũng có lúc họ thấy một vài đồ vật quen thuộc ở cõi Trần, ấy là những hình tư tưởng mạnh mẽ hóa ra, nhưng chúng nó biến đi rất lẹ. Chung cuộc họ vẫn trơ trọi và thất vọng.

    Đó tại họ không biết rằng nếu họ cương quyết bỏ chốn đó thì cái phách sẽ rớt ra lần lần, họ hôn mê một ít lâu, chừng tỉnh lại thì họ qua cõi Trung giới.

    Có nhiều vị đệ tử và những linh hồn từ thiện ở cõi Trung giới đến chỗ nầy chỉ bảo phương pháp cho họ thoát ra khỏi cảnh đen tối, nhưng ít khi có hiệu quả bởi vì họ không có gan dạ và không tin cậy, họ tưởng rằng họ còn sống như thế mà làm theo lời khuyên bảo thì họ chết mất.

    Có khi vài người thất vọng quá nên nghĩ thà chết cho rồi đặng đỡ khổ, họ không còn tưởng tới cái chi cả. Nhờ vậy mà cái phách rớt ra và họ rất ngạc nhiên và rất vui sướng vì được ra khỏi cảnh hắc ám đó.

    Nhưng mà một tai hại nguy hiểm hơn hết là có nhiều người kiếm cách tiếp xúc lại với cõi trần. Họ tìm đồng cốt nhập vô. Nhưng họ thất vọng vì mỗi đồng cốt đều có một hồn ma tinh khôn theo giữ gìn. Hồn ma nầy đuổi họ đi – không cho họ léo lại gần đồng cốt. Hồn ma biết rằng : họ không khác nào kẻ gần chết đuối hễ vớ được cái chi thì đeo cứng cái đó. Nếu họ nhập vô mình đồng cốt rồi thì họ mừng lắm, họ không chịu xuất ra hoặc họ xuất ra rồi một hồi thì nhập vô nữa, mỗi ngày vài chục bận như vậy thì chẳng bao lâu đồng cốt sẽ hóa ra điên khùng.

    Túng thế quá họ mới nhập vô mình thú vật. Họ rán sức đuổi hồn con thú ra ngoài - dầu không được trọn vẹn thì cũng làm chủ được hai phần xác thân của nó. Họ nhờ con thú mà tiếp xúc lại với cõi trần. Con mắt con thú thấy thì họ thấy, lổ tai con thú nghe thì họ nghe, con thú bị đòn bọng thì họ cũng đau đớn vậy.

    Khác hơn trường hợp thứ nhứt là khi con thú thác rồi họ không đi đầu thai mà họ lại tìm những thú khác đặng ám ảnh. Họ chọn những con thú khờ khạo như bò, heo, trừu, còn những con thú khôn như khỉ, ngựa, chó, mèo thì ít bị họ chế ngự chúng được.

    Tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ.

    Đức Leadbeater đã thấy hồn của một người nhập vô mình của con mèo.

    Câu chuyện con khỉ ở Pandharpur tỏ ra thông thạo hết những cuộc hành lễ của Bà la môn giáo mà ở Ấn Độ người ta đều biết làm cho ta đau lòng nghĩ đến sự khờ khạo của những linh hồn ám ảnh thú vật như thế đó. Họ tự ý chuốc cái khổ vào mình, họ tự ý hành phạt họ, chỉ vì họ không hiểu ý nghĩa thật của đời sống con người.

    Tuy vậy, tới một ngày kia cái phách tự động rớt ra bởi vì chất dĩ thái rã lần, con người phải tuân theo luật thiên nhiên, bỏ chốn đó mà về Trung giới.

    Về câu chuyện con người nhập vô mình thú vật người ta có thuật cho Đức Leadbeater ba trường hợp sau đây :

    Trường hợp thứ nhứt:

    Một nhà Thông Thiên Học lão thành được nhiều người kính mến nói với Đức Leadbeater như vầy :

    Một ngày kia, một ông khách đến viếng tôi và tỏ cho tôi nghe một câu chuyện mà ông cho là lạ lùng lắm.

    Ông khách nói : “Trước kia tôi rất giàu có, nhưng chẳng may thời suy vận bỉ, sự nghiệp tan tành theo mây gió.Tôi rất khốn khổ nên phải chịu làm bất cứ là nghề hèn mọn nào miễn là có tiền đặng nuôi thân thì thôi. Người ta mướn tôi làm nghề đồ tể, đập đầu thú vật trong một cái lò sát sanh lớn. Lắm lúc tôi nghe những tiếng rên siết đau thương nói với tôi : Ông ôi ! đừng đập chết chúng tôi. Chúng tôi là người bị dính vào mình thú vật. Chúng tôi chia sớt những sự đau đớn của chúng nó . Thét quá tôi xin thôi không còn gan dạ nào làm cái nghề sát sanh hại mạng nầy nữa”.

    Nghe Hội Thông Thiên Học khảo cứu những câu chuyện kỳ lạ cho nên tôi mới đến hỏi ý kiến ông về việc nầy !

    Đức Leadbeater nói: Ông khách hoặc có thần nhãn hoặc ông là người nhạy cảm nên thấy được hình tư tưởng biến thành lời nói.

    Đó là chuyện ở Âu Tây, còn như ở bên xứ mình tôi dám chắc nhiều vị lão thành đã có nghe vài chuyện của những người thọc huyết heo thuật lại. Họ nói : khi cầm dao đâm vào cổ heo thì tôi nghe rõ ràng là tiếng người kêu la. Tôi cũng nghe một con heo nái nói với bầy con nó : Mai nầy người ta đem giết mẹ rồi mấy con ôi ! Thật là chuyện rùng mình rởn ốc.

    Bao nhiêu đây chứng rằng hồn người nhập vô mình thú vật ở chỗ nào cũng có.

    C/ Nhập vào mình thú vật vì bị dục tình thiêu đốt.

    Trường hợp thứ nhì:

    Một người kia hồi còn sanh tiền chỉ biết thú vui xác thịt. Chừng y thác rồi, những sự ham muốn quấy quá của y bồng bột sôi nổi dữ tợn. Y không chế ngự chúng nó được và bởi y mất xác thân rồi, y không biết làm sao cho chúng thỏa thích. Lòng y bứt rứt như bị thiêu đốt. Lâu lâu y phải nhập vào mình thú vật đặng trút đổ một phần gánh nặng đi.

    C/ Bị đạo sĩ bắt hồn cho nhập vào mình thú vật.

    Trường hợp thứ ba :

    Một bà kia hồi còn sanh tiền không rõ vì duyên cớ nào mà nhục mạ một giáo phái. Sau khi bà thác rồi, một vị đạo sĩ của giáo phái đó, người ở phương Đông, dùng phù phép bắt hồn bà cho nhập vào mình thú vật.

    Tiếc rằng câu chuyện tới đây chấm dứt nên có nhiều chi tiết chúng ta cần phải biết mà lại không có. Ta tự hỏi : “Tại làm sao lúc bà còn sanh tiền giáo phái đó lại không trả thù bà. Phải chăng bà là một nhà quí phái có thế lực lớn nên họ không làm chi bà được”.

    Một lẽ khác – không phải dễ mà làm trái nghịch lòng Trời : bắt một hồn người cho nhập vào mình thú vật. Chung quanh ta có những vị Thiên thần, những vị đệ tử hộ trì khuất mặt, mấy vị nầy đều thấy và biết việc của đạo sĩ làm. Tại làm sao mấy vị ấy không can thiệp, ra tay giải thoát bà ta. Có lẽ bà ta phạm một quả rất nặng cho nên vị đạo sĩ mới thành công. Chừng bà trả hết quả rồi thì tự nhiên có người tới giúp bà ra khỏi cảnh ngục tù đó.

    Dầu sao trong những trường hợp nầy không có trường hợp nào chứng nhận con người đầu thai làm thú vật cả.

    Đầu thai làm thú vật có nghĩa là :

    a/ Mất Thượng Trí.

    b/ Mất Hồn người.

    c/ Nhập vào Hồn khóm, không còn biết tư tưởng như con người và mất hết quyền năng của con người.

    Đầu thai làm thú vật khác hẳn với việc nhập vào mình thú vật một thời gian.

    Nói tóm lại, đối với tôi, riêng tôi thôi, thì trong 6 nẻo Luân hồi chỉ có :

    Nhơn, đúng với chơn lý; còn Thiên, A tu la, Ngạ quỉ, Súc sanh, Điạ ngục không có thật.

    Nhưng đối với quí bạn ai tưởng sao cũng được.

  6. #6

    Mặc định

    LẠI VẤN ĐỀ NGHIỆP QUẢ.

    Nếu nói cái đó là tại Nhân quả hay là cái Nghiệp lại càng rắc rối nữa. CÁI NGHIỆP QUẢ LÀ KẾT QUẢ NHỮNG TƯ TƯỞNG, Ý MUỐN, LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM CỦA CON NGƯỜI.

    Tư tưởng, ý muốn, lời nói đều vô hình; tư tưởng, ý muốn vẫn thầm kín, có khi việc làm và lời nói cũng thầm kín nữa thì cái Nghiệp ra sao ? Đâu có phải thoi một thoi có dấu bầm mà gọi dấu bầm là cái Nghiệp của cái thoi.

    Nếu nói cái luật thì khó giải thích lắm. Cái luật mà biết tư tưởng của ông X lành còn ý muốn của ông Y dữ, việc làm của ông A phải, còn sự hành động của ông B quấy mà cho ông X và ông A hưởng quả tốt còn ông Y và ông B hưởng quả xấu.

    Cái luật mà biết dẫn linh hồn từ xứ nầy qua xứ khác rồi cho nhập vào bào thai ở trong mình người đàn bà nước nào đó. Rồi đứa nhỏ sanh ra, lớn lên nó nói tiếng nước đó, và thông minh hay khờ khạo v. v . . . và nó phải trả quả của nó làm kiếp qua rồi hay mấy kiếp trước. Quả đó ghi ở đâu và ai biết được ?

    Thí dụ kiếp nầy nó làm người Việt Nam, theo luật Luân hồi thì nó không phải đầu thai làm người Việt Nam mãi, phải đầu thai làm người nước khác hoặc bên Trung hoa, bên Âu, bên Mỹ v. v . . . Rồi quả làm sao biết nó đầu thai làm giống dân nào, đến xứ đó bắt buộc nó phải trả ?

    Bây giờ xin nói chuyện về Nghiệp quả của hai người gây ra với nhau. Muốn trả quả nầy hai người phải đầu thai vào một nước và ở gần nhau, hoặc ở hai nước khác nhau nhưng phải gặp nhau mới thanh toán mối nợ nần được. Nếu người nầy đầu thai lên Bắc Âu, người kia ở Nam Mỹ, trọn đời không gặp nhau thì làm sao mà trả quả đặng ? Tục truyền rằng : Hai bên vai vác biên tội phước. Điều nầy thiệt không đúng với sự thật nhưng mà còn có lý hơn là nói : có cái luật và cái luật biết cho trả quả chớ không nói đến việc có người cầm cân luật pháp.

    Xin nói thêm vài lời nữa,

    Thí dụ hiện giờ dân số trên địa cầu là 3.654 triệu. Mỗi phút đồng hồ nhân loại sanh ra 3.654 triệu tư tưởng đủ thứ, dữ có, lành có, ý muốn lại chen lẫn tư tưởng và việc làm. Vậy thì trọn một ngày số tư tưởng với ý muốn, lời nói và việc làm không biết bao nhiêu mà kể. Làm sao luật Nhân quả biết ai tưởng bao nhiêu lần, làm bao lần và tánh cách của chúng nó ra sao; thiện hay ác đặng trả quả. Không khéo chỉ là hổn loạn chớ không phải là trật tự nữa. Ta từng nghe thấy trong một chuyến xe bị lật, chỉ có một hai người chết, vài người bị thương; nặng có, nhẹ có, còn bao nhiêu người khác không hề gì cả. Tại sao người nầy thì chết, người nọ bị thương nặng, người khác bị thương nhẹ, còn mấy người kia chẳng sao. Nếu nói là tại may rủi thì gạt bỏ vấn đề Nghiệp quả; còn nói về Nghiệp quả thì phải nói số mạng chớ không phải may rủi. Vậy ai định số mạng ? Có định mạng mà có tự do ý chí hay không ?

    Sao là định mạng ? Sao là tự do ý chí ? Cái luật làm sao định cho người nầy tới 35 tuổi mắc bịnh nặng, người kia 50 tuổi thì chết, còn người nọ 80 tuổi mới từ trần hay là tới năm nầy tháng nầy, người nầy bị tai nạn chớ không phải năm nọ, tháng nọ và ngày nọ. Vậy thì thuyết Luân hồi Nhân quả có phải là vô cùng Thần bí không ? Nhưng chưa phải bao nhiêu đó là hết đâu.

    NHỮNG ĐẤNG CHÍ TÔN CẦM CÂN TỘI PHƯỚC.

    Chúng tôi tin rằng : tư tưởng, ý muốn, lời nói và việc làm của con người đều có ghi hình ảnh trên chất Tiên Thiên Khí Akasa. Ấy là những hình ảnh sống, linh động, pháp môn gọi là clichés akasiques. Tới chừng nào ngôi mặt trời nầy tan rã chúng nó mới tiêu mất (xin tạm gọi chúng nó là Tiên Thiên Ký Ảnh – trong quyển Nhân Quả).

    Có những Đấng Thiên Tôn, bên Ấn Độ gọi là Lipikas, Tàu gọi là các vị Nam Tào Bắc Đẩu, cầm cân tội phước. Các Ngài coi những Tiên Thiên Ký Ảnh của mỗi người mà định phần số của y trong mỗi kiếp, nghĩa là từ ngày lọt lòng mẹ cho tới ngày y bỏ xác, y hưởng bao nhiêu quả tốt và trả bao nhiêu quả xấu. Muốn biết những quả liên lạc với người đã sanh chúng nó ra thế nào thì hãy xem lưới của con nhện giăng đối với nó thì rõ. Con người tự đươn một cái lưới đặng quấn mình lại, thì con người phải tự tháo ra. Tháo ra là trả quả. Mỗi kiếp con người trả quả cũ mà lại còn gây ra quả mới khác nữa. Thế nên phải đầu thai đi đầu thai lại cả ngàn kiếp mới mong thoát đọa luân hồi.

    Tín đồ các tôn giáo đều tin có Luân hồi Nhân quả, nhưng thử hỏi trong số cả ngàn triệu có bao nhiêu người tìm học luật Luân hồi và Nhân quả đúng với Cơ Trời.

    Không biết có bao nhiêu thứ quả, không biết vì đâu mà quả sanh ra và làm cách nào mà diệt nó cho mau lẹ thì làm sao sớm được giải thoát. Không khéo thì đụng đâu tin đó, và thành ra mê tín và tin dị đoan.

    BÀN QUA TÚC SANH TRUYỆN.

    Túc Sanh Truyện, Jataka Mala hay là cuốn Lalita Vistara có thuật 550 kiếp [3] của Đức Bồ Tát trước khi Ngài thành Phật.

    Đức Phật thường đem những chuyện kiếp trước của Ngài nói ra đặng dạy các đệ tử một bài học luân lý, hoặc từ bi bác ái hoặc hỉ xả, hi sinh, lấy ơn đáp oán v. v. . .

    Chúng tôi thấy 550 kiếp nầy chia ra làm 3 giai đoạn :

    Giai đoạn thứ nhứt : Đức Bồ Tát đầu thai làm cá, làm cua tức là làm những thứ ở dưới nước trước khi đầu thai làm thứ ở trên bờ.

    Giai đoạn thứ nhì : Đầu thai làm thú ở trên bờ trước khi đầu thai làm người.

    Giai đoạn thứ ba : Đầu thai làm người nhiều kiếp rồi mới tu hành, sau muôn năm đắc đạo mới thành Phật.

    GIAI ĐOẠN THỨ NHỨT.

    Đức Bồ Tát đầu thai làm chúa loài cá. Nhằm lúc trong xứ bị hạn hán, đồng đìa, ao hồ cạn khô. Ngài ngước mặt lên trời cầu khẩn thần Phong Bá tức thì trời mưa xuống dầm dề, nhờ vậy mấy con cá mới thoát chết (Thần quyền).

    Có kiếp Ngài làm con cua kẹp đứt cổ con xéo vì con nầy gạt mấy con cá mắc cạn ở trong ao, rồi gắp đem lên cây ăn tươi nuốt sống.

    GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con gà trống lột mặt nạ con mèo.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con chim gõ kiến lấy dùm xương mắc trong họng của con sư tử. Thay vì biết ơn, con sư tử lại nói với chim : “Ngươi vô miệng ta rồi trở ra còn sống thì là phước đức lắm rồi mà còn chưa vừa lòng sao ?” Thuật chuyện nầy rồi Phật nói chim gõ kiến là Ngài, còn con sư tử là Devadatta.

    Hết đầu thai làm chim chóc, Ngài đầu thai làm thú vật.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con bò u dùng trí khôn treo giò con lang muốn ăn thịt Ngài.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con nai chúa lội ra cứu một người nhảy xuống sông tự tử vì cờ bạc rượu chè tiêu tan sự nghiệp.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con voi bị một người thợ săn bắn một mũi tên gần chết. Thay vì trả thù, Ngài bẻ cặp ngà cho thợ săn.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con thỏ tự nhảy vào đống lửa đặng dâng thịt cho một thầy Bà la môn đương chết đói v . v . . .

    GIAI ĐOẠN THỨ BA.

    Thoát kiếp thú rồi, Ngài đầu thai làm người; nhiều kiếp làm đàn ông, nhiều kiếp làm đàn bà, có khi đầu thai vào dòng Thủ Đà La, có khi vào dòng lái buôn, có khi làm vua chúa. Sau mới tu hành lên tới bực Bồ Tát. Kiếp chót thành Phật.

    NHỮNG NGHI VẤN.

    Đọc những tiền kiếp của Đức Thích ca, chúng tôi tự hỏi :

    a/ Phải chăng có một cái Hồn trước làm con cá, con cua, sau làm con chim, con thú rồi mới tới làm con người. Cuối cùng thành một vị Phật gọi là Phật Thích Ca ? Nếu quả thật vậy thì Hồn con cá tiến hóa cách nào mà biến thành Hồn con người rồi tu hành tới bực Phật.

    b/ Ai sanh ra Hồn con cá ? Chẳng lẽ khi không mà có. Rồi ai cho Hồn con cá đi đầu thai từ loài nầy qua loài kia ? Có hỏi ý kiến nó không ? Hay là bắt buộc nó phải tuân theo mạng lịnh ?

    Phải chăng những việc nầy vô cùng Thần bí và gồm luôn cả Thần quyền trong ấy nữa.



    PHẬT CÓ DẠY LINH HỒN ĐI ĐẦU THAI

    TỪ LOÀI NẦY QUA LOÀI KIA KHÔNG ?



    Về câu hỏi nầy tôi xin trả lời liền : “Phật có dạy điều đó” , sau đây là bằng chứng

    Trong cuốn Phúc Âm của Đức Phật ( Evangile du Bouddha par Carus) trương 127 dưới bài Mục đích (Le but). Có đoạn nầy rút trong cuốn Mahavagga - Phạm Võng Kinh VI – 29 - “ Le Bouddha parla en ces termes aux Bikchous. L’âme émigre à travers toutes les formes depuis la pierre en passant par les plantes et toutes les espèces de corps animaux et dans les hommes de divers caractères jusqu’à ce qu’elle arrive à l’illumination parfaite dans le Bouddha”.

    Xin dịch nghĩa.

    “Phật nói với các Tỳ kheo như vầy :

    Linh hồn đi đầu thai từ loài nầy qua loài khác, xuyên qua tất cả những hình dạng : đá cát, cây cỏ, cầm thú và những người tánh tình riêng biệt cho tới khi nó lên đến bực toàn giác là Phật.”

    BÀN THỬ VỀ THUYẾT NGŨ UẨN.

    Theo thuyết Ngũ Uẩn thì không có Linh hồn đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia đặng lãnh lấy quả lành hay quả ác của mình đã gây ra. Con người chỉ là Ngũ Uẩn hợp thành mà thôi.

    Ngũ Uẩn là : Sắc Uẩn - Thọ Uẩn - Tưởng Uẩn – Hành Uẩn - Thức Uẩn.

    Sau khi thác rồi một ít lâu, Ngũ Uẩn tan rã, rồi tới một ngày kia sự tham sống và sự mến đời rút Ngũ Uẩn mới làm ra một người mới . . .

    Vậy ta hãy bàn thử coi . . .

    Lúc con người sống, Ngũ uẩn hoạt động. Sau khi con người thác một ít lâu, Ngũ Uẩn tan rã rồi tiêu mất chỉ còn cái Nghiệp mà thôi. Rồi một ngày kia sự tham sống (trishna ou tanha) và sự tríu mến đời (upadana) rút Ngũ Uẩn mới làm ra một một người mới. Người mới nầy không liên lạc chi với người cũ mà lại lãnh nghiệp quả của người cũ. Xin thí dụ rõ hơn. Ông Mít 50 tuổi chết. Ngũ Uẩn làm ra ông tan rã, chỉ còn nghiệp quả mà thôi.

    Rồi trong một thời gian sau, không nhứt định được bao lâu, hai ba chục năm; một hai trăm năm; năm sáu trăm năm không chừng, sự tham sống và sự tríu mến đời rút Ngũ Uẩn mới làm ra một người mới là ông Xoài. Ông Xoài không dính dấp chi với ông Mít mà lại lãnh nghiệp quả của ông Mít gây ra, chắc chắn là dữ nhiều lành ít rồi

  7. #7

    Mặc định

    THUYẾT NGŨ UẦN PHÂN NỬA DUY VẬT, PHÂN NỬA DUY TÂM.

    Tôi nhận thấy thuyết Ngũ Uẩn phân nửa duy vật, phân nửa duy tâm.

    Duy vật – là khi nói con người do Ngũ Uẩn làm ra, thác rồi Ngũ Uẩn tan mất.

    Duy tâm – là khi nói sự tríu mến đời rút Ngũ Uẩn mới làm ra một con người mới thọ lãnh nghiệp quả của người trước. Thật là Thần bí

    CHÚNG TÔI KHÔNG TIN THUYẾT NGŨ UẨN NHƯ THẾ ĐÓ.

    Chúng tôi không bao giờ tin thuyết Ngũ Uẩn như thế đó vì nó trái với chánh lý và không đúng với thật tế chút nào.

    Trái với chánh lý vì lúc con người còn sanh tiền, sự tham sống và sự tríu mến đời do Ngũ Uẩn sanh ra; việc đó cho là phải; chớ sau khi con người thác rồi thì chúng nó cũng phải theo Ngũ Uẩn mà tan mất. Nói chúng nó còn lại thì nương tựa chỗ nào ? vào đâu ? Sự tham sống và sự tríu mến đời đâu còn nữa mà rút Ngũ Uẩn mới đặng làm ra một người mới. Người mới nầy đối với người cũ rất xa lạ mà lại lãnh nghiệp quả của người cũ.

    Thật là vô cùng bất công.

    Còn nhiều lẽ khác nữa :

    a/ Theo thuyết Ngũ Uần thì đàn ông làm đàn ông mãi, còn đàn bà thì đàn bà mãi phải chăng ? Bởi vì không lẽ Ngũ Uẩn kiếp trước làm đàn ông rồi kiếp sau Ngũ Uần mới ráp thành đàn bà. Nếu đổ thừa tại nghiệp quả thì lại thêm rắc rối. Cái Nghiệp như chúng tôi đã nói; là kết quả của những tư tưởng, ý muốn, lời nói và việc làm lành hay dữ của một người. Cái Nghiệp làm gì biết tạo ra đàn ông hay đàn bà và có luật nào làm bao nhiêu điều lành được đầu thai làm đàn ông không ? Trọn một kiếp không phải người ta làm toàn là việc ác ? Cũng có làm những việc lành vậy. Như thế lành và dữ có bù trừ với nhau không ?

    b/ Nếu Ngũ Uẩn làm ra con người bây giờ thì cũng là Ngũ Uẩn làm ra con người thuở xưa. Ai sanh chúng nó ra và ráp lại một cách khéo léo hết sức có đủ mặt mũi tay chơn, biết đi đứng nói năng, biết tưởng tượng, biết ham muốn, biết học hỏi, biết chế tạo, nhứt là việc sanh ra đàn ông và đàn bà. Có tinh trùng đực, tinh trùng cái không ? Có noãn sào đực, noãn sào cái không ? Tại sao hai tế bào hợp lại thành ra một người đàn ông hay một người đàn bà khác nhau từ hai bộ phận sanh dục cho tới diện mạo, cử chỉ giọng nói, tướng đi và thân hình.

    Nhưng ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt thì Ngũ Uẩn làm ra những người da đen không tiến hóa bằng Ngũ Uẩn làm ra những người da vàng và Ngũ Uẩn làm ra người da vàng không văn minh bằng Ngũ Uẩn làm ra người da trắng. Toàn là những người đồng loại với nhau thì vì đâu có những sự bất công như thế đó ?

    c/ Phải chăng theo thuyết Ngũ Uẩn thì những người ở xứ nào thì cứ đầu thai ở xứ nấy, bởi vì những người ở một nước, một xứ gây nhân quả với nhau mãi mãi chớ ít có khi gây với những ngoại bang. Hơn nữa theo thuyết Ngũ Uẩn nầy thì dân số trên địa cầu cứ giữ mãi một mực từ đời nầy qua đời kia, không tăng một người mà cũng không giảm một người.

    Thí dụ dân số trên địa cầu là 3.864 triệu , nếu có 100.000 người chết thì sẽ có 100.000 Ngũ Uẩn khác thế vô chớ không có nguyên do nào để sanh thêm một người mới nữa, mang số 3.864 triệu lẻ một ( 3.864.000.001) cả. Mà đọc lịch sử thì ta thấy dân số thuở xưa ít hơn dân số ngày nay nhiều lắm.

    d/ Theo thuyết Ngũ Uẩn thì số phần của những người tự vận sẽ ra sao ? Họ không còn tham sống. Họ không còn tríu mến đời nên họ mới tự sát. Sau khi Ngũ Uẩn của họ tan rã rồi thì sự tham sống và sự tríu mến đời đâu còn nữa, chỉ còn có cái Nghiệp mà thôi ?

    Còn mấy đứa nhỏ sanh ra rồi chết, hoặc bỏ mình lúc 3-4 tuổi, 5-6 tuổi, chúng nó sẽ ra sao ?

    Chúng nó đâu biết tríu mến đời, vì chưa đủ trí khôn ? Nói về nghiệp quả của đứa nhỏ mới sanh hay là 3-4 tuổi thì vô lý. 3-4 tuổi biết gì là tội, là phước.

    Vịn theo thuyết Ngũ Uẩn thì phải giải quyết sự đầu thai của nó cách nào.

    Chúng nó sẽ được đầu thai hay không ? Vào nhà nào ? Nước nào ? Và tại sao như thế ?

    Còn nhìn vào thật tế thì quả là khí huyết cha mẹ tạo thành đứa nhỏ chớ không thấy sự ham sống, sự tríu mến đời hay là cái Nghiệp nào vô đó đặng rút Ngũ Uẩn làm ra một con người mới. Thế thì phải nghĩ làm sao bây giờ ?



    THEO THUYẾT NGŨ UẨN ĐẠO PHẬT KHÔNG GIẢI THOÁT CHO AI CẢ.

    Phải chăng theo thuyết Ngũ Uẩn, đạo Phật không giải thoát cho ai cả vì Ngũ Uẩn không cần giải thoát, chúng nó cũng tan rã. Còn nói giải thoát thì là giải thoát cho sự tham sống, sự tríu mến đời và cái Nghiệp thì đúng hơn. Mà chúng nó cần chi được giải thoát.



    NẾU THUYẾT NGŨ UẨN QUẢ THẬT LÀ ĐÚNG THÌ NHỮNG VỊ PHẬT MẤY ĐỜI TRƯỚC VÀ ĐỨC THÍCH CA NGÀY NAY KHÔNG CÒN NỮA VÀ NIẾT BÀN LÀ CON SỐ KHÔNG.

    Nếu quả thật thuyết Ngũ Uẩn là đúng với chơn lý thì quả vị Phật là con số không ( 0 ) và luôn mấy vị Phật đời trước và Đức Thích Ca ngày nay đâu còn nữa. Niết Bàn cũng là “không có gì hết”.

    Bởi vì : Sự tríu mến đời của các Ngài,

    Sự tham sống của các Ngài,

    Và luôn cái Nghiệp của các Ngài

    đã tiêu mất rồi.

    Thế thì còn cái chi rút lại Ngũ Uẩn mới đặng làm ra một người mới, Đức Phật bây giờ không phải là Đức Thích Ca hồi trước đâu mà chính là một người mới khác và người nầy hưởng công quả của Đức Thích Ca và lãnh ngôi vị của Đức Thế Tôn.

    Chắc chắn là các hàng Phật tử cũng như chúng tôi không công nhận điều nầy đúng với chơn lý.



    NHỮNG ĐOẠN KINH PHẬT PHẢN ĐỐI THUYẾT NGŨ UẨN.

    Sau đây là những đoạn kinh phản đối thuyết Ngũ Uẩn và mặc nhận có Linh hồn đi đầu thai.



    I

    LỜI TỶ DỤ VỀ CỤM RỪNG KỲ VIÊN.

    Hỡi các đệ tử ! Nếu có người nào vô trong cụm rừng, chỗ chúng ta đang ở bây giờ lấy củi, lấy nhành cây, lá cây và cỏ đem về đặng đốt chụm, các đệ tử có cho rằng người đó nắm lấy các đệ tử và đốt các đệ tử chăng ? Các đệ tử bèn thưa : “Bạch Phật ! Cây cỏ không phải là các con và chúng nó cũng không phải thuộc về các con nữa”. Phật mới nói : “Vậy thì các con hãy thảy bỏ những cái nào không phải là của các con. Cái đó là nghĩa chi vậy. Ấy là các con bỏ xác thịt, bỏ sự cảm động, bỏ cái quan niệm, bỏ sự nhiệt động của cái trí, bỏ sự hiểu biết”. Mấy cái nầy có phải là Ngũ Uẩn không ?

    Giáo lý và Triết lý đạo Phật trương 100.

    (Le dogme et la philosophie du Boudhisme par Louis de la Vallée Poussin page 100).

    II

    NGƯỜI TU TRÌ TẤM LÒNG TRONG SẠCH

    THÌ BIẾT ĐƯỢC MẤY KIẾP TRƯỚC CỦA MÌNH.

    Trong cuốn kinh Samannaphala Sutta du Digha Nikaya có thuật mấy lời Phật nói như vầy : “Nếu một người kia từ giả làng va ở đặng đi qua làng khác, rồi bỏ làng đó đi qua làng khác nữa; chừng va trở về làng cũ, va có thể nói trong lòng rằng : “Thật là tôi đi từ làng tôi ở cho tới làng kia. Tôi đi cách nầy, tôi ngồi cách kia, rồi từ làng đó tôi đi qua làng khác, tôi cũng ngồi đứng như vậy, rồi cũng chính là tôi trở về làng cũ của tôi”.

    Muôn tâu Đức Hoàng Thượng ! Người tu trì tấm lòng trong sạch rồi thì biết được mấy kiếp trước của mình. Va nhớ lại rằng : “Tôi sanh vào dòng nào, tôi tên chi, tôi ở chốn nào, tôi ăn uống làm sao, tôi chịu đau đớn hay là được vui vẻ cách nào. Rồi chính là tôi ở chỗ đó đầu thai lại đây vậy.

    III

    MỘT ĐOẠN KINH SAMYUTTA NÓI VỀ THỨC.

    Có một đoạn kinh Samyutta nói về Thức như sau đây :

    “Hỡi các đệ tử ! Cái mà người ta gọi là trí thức và tư tưởng hay là sự hiểu biết sanh ra rồi tan mất, ngày đêm thay đổi liền liền cũng như con khỉ nhảy nhót giỡn chơi trong rừng, buông nhánh nầy rồi bắt nhánh nọ vậy. (De même ô disciples, qu’un singe prenant ses ébats dnas une forêt ou dans un bois saisit une branche puis la laisse échapper et en saisit une autre, ainsi, disciples, ce qui est nommé l’esprit et la pensée ou la connaissance se produit et disparait dans un perpétuel changement de jour et de nuit).

    Theo đoạn kinh nầy “Thức” không phải là “bất di bất dịch”. Nó thay đổi liền liền, ngày đêm không ngớt, và không “quan trọng”.

    Theo khoa học hiện kim thì trong 7 năm xương cốt da thịt, tóc tai con người đều đổi mới hết. Còn máu huyết thì nội trong vài hôm đã biến ra khác, rồi do đồ ăn đem vô mình và luôn khí trời của ta thở nữa.

    Vậy thì hết 7 năm, Ngũ Uẩn làm ra con người đều đổi hết một lần, da thịt khác, ý muốn khác, việc làm khác; nghĩa là Ngũ Uẩn 21 tuổi không giống Ngũ Uẩn hồi 14 tuổi, Ngũ Uẩn hồi 28 tuổi chẳng in Ngũ Uẩn hồi 21 tuổi, nhưng mà chúng nó phải thọ lãnh những hậu quả của Ngũ Uẩn từ 14 tuổi tới 27 tuổi đã gây ra; mà chính là chúng nó không biết chi về mấy việc ấy cả. Không đợi kiếp sau, một kiếp nầy ta đã thấy sự bất công rồi. Còn một lẽ quan trọng nhứt là :

    Nếu Thức thay đổi liền liền thì Thức nào sanh ra danh sắc và làm cách nào sanh ra danh sắc trong thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên và vô minh khởi đầu hồi nào ?

    IV

    CHUYỆN BÚT GA LA (PUDGALA) HAY LÀ MỘT NGƯỜI MANG GÁNH NẶNG.

    Ta sẽ dạy người cho biết cái gánh nặng, người mang gánh nặng, khi cất gánh nặng lên vai và khi đặt gánh nặng xuống. Cái gánh nặng là Ngũ Uẩn. Người mang gánh nặng là Bút ga la (Pudgala); người nào đó hoặc một nhà sư, tên chi, thuộc dòng giống nào, sống bao nhiêu năm . . . Cất gánh nặng lên vai tức là khát khao, tức là ham muốn sự vui vẻ kiếp sống và lúc không còn sống nữa, để gánh nặng xuống tức là dứt hết sự khát khao. Để gánh nặng xuống và không cất gánh nặng mới khác, dứt được cội rễ sự khát khao, Bút ga la nhập vào cõi Niết Bàn.

    (Giáo lý và Triết lý đạo Phật trương 90).

    V

    PHÁP CÚ – CÂU THỨ 380.

    - Cái Ta là thầy của ta. Mỗi người đi trong con đường riêng của nó. Anh hãy tự điều khiển mình cũng như người lái buôn cầm cương con ngựa hung hăng.

    (Le Moi est le Maître du moi, chacun marche dans sa voie à lui. Tenez vous donc vous même en rênes comme un mạrchand tient en rênes un coursier impétueux).

    Cái Ta lớn nầy có phải là Linh hồn không ? Cái ta nhỏ có phải là Ngũ Uẩn hay là phàm nhơn không ?

    Tiện đây tôi xin bàn về :

    CHUYỆN VUA MILINDA VÀ ĐẠI ĐỨC NAGASENA
    hay là
    THUYẾT VÔ NGÃ.

    Trong cuốn “Đức Phật, Đời sống, Giáo pháp và Hội Tăng Già của Ngài” tác giả Ông M. Oldenberg (Le Boudha, sa vie, sa doctrine, sa communauté par Oldenberg) nơi trương 289 có thuật câu chuyện đối thoại giữa vua Milinda và Đại đức Nâgasena, xin tạm dịch như sau đây:

    Vua Hi Lạp Milinda [4] (tên thật là Ménandre) hỏi Đại đức Nâgasena [5] :

    - Bạch Đại đức ! Người ta biết Ngài dưới đạo hiệu nào ? Ngài tên chi ?

    Nâgasena đáp :

    - Tâu Bệ hạ ! Tôi tên Nâgasena. Nhưng Nâgasena chỉ là một cái tên, một tiếng gọi, một danh từ mà thật sự không có ai là Nâgasena cả.

    Đức vua hỏi :

    - A ! 500 vị Thượng tọa Javanas (Hi Lạp) và 80.000 tăng lữ hãy nghe Đại đức Nâgasena nói đó. Ngài cho rằng “không có Nâgasena”. Ai có công nhận điều đó không ?

    Bạch Đại đức, nếu không có Nâgasena thì ai dâng cho Ngài những đồ ăn cần dùng, quần áo, vật thực, nhà ở và ai cho thuốc men những kẻ bịnh hoạn ? Ai hưởng những vật đó ? Ai sống trong đức hạnh ? Ai trau dồi tánh nết ? Ai bước vào đường đạo và chứng quả Thánh ? Ai nhập Niết Bàn ? Ai sát sanh ? Ai trộm cắp ? Ai hưởng khoái lạc ? Ai vọng ngữ ? Ai uống rượu ? Ai phạm ngũ giới ? Vậy thì không có lành, không có dữ; không có người chủ động, không có ai bắt đầu làm những việc tốt, những việc xấu; những việc cao thượng, những việc hung bạo, không có sự ban thưởng, không có sự hành phạt nào cả. Bạch Đại đức ! Nếu ai giết Ngài, người đó cũng không phạm tội sát sanh.

    Bạch Đại đức, tóc tai có phải Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Hình hài có phải là Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Những sự cảm giác có là Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Những hành vi, ý thức có phải là Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Hay là Ngũ Uẩn hiệp lại, đó là Nâgasena ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Vậy thì ngoài Ngũ Uẩn có một Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không có !

    - Ủa ! Tôi hỏi Ngài đủ cách mà tôi không thấy ai là Nâgasena. Nâgasena là một tiếng trống không ? Vậy Nâgasena là cái gì ? Bạch Đại đức, Ngài nói sai, Ngài nói dối, không có Nâgasena.

    Nâgasena mới nói với vua :

    - Tâu Bệ hạ ! Bệ hạ quen sống theo bực Đế vương. Bây giờ tới đúng ngọ, Ngài đi ra đường chơn không, Ngài đạp lên những đá nhọn, cát nóng, chơn Ngài đau, thân thể Ngài mệt nhọc, tâm thần Ngài bấn loạn.

    Do đó sanh ra ý nghĩ về sự khổ não của hình hài.

    Tâu Bệ hạ ! Bệ hạ tới đây đi xe hay đi bộ ?

    - Tôi không đi bộ, tôi đi bằng xe.

    - Tâu Bệ hạ ! Nếu Ngài đi bằng xe, xin Ngài giải nghĩa cho tôi biết cái xe là gì ? Có phải là cái gọng không ?

    - Không.

    - Có phải là bánh không ? Có phải là cái ách không ?

    - Không phải.

    - Mấy vật đó ráp lại có phải là cái xe không ?

    - Không phải.

    - Ngoài mấy vật đó, có vật gì gọi là cái xe không ?

    - Cũng không có.

    - Tâu Bệ hạ ! Tôi hỏi Bệ hạ đủ cách mà tôi không thấy chỗ nào là cái xe cả ? Xe là cái tiếng trống không. Vậy xe là cái gì ? Bệ hạ nói sái, Bệ hạ nói dối. Không có cái xe. Bệ hạ là vua, cai trị toàn xứ Ấn Độ ! Ngài sợ ai ? Ngài lại không nói đúng với chánh lý. Vậy thì 500 Thượng tọa và 80.000 tăng lữ hãy nghe vua Milinda nói : Ngài tới đây bằng xe. Mà tôi xin Ngài giải nghĩa cái xe thì Ngài nói không xuôi. Có ai công nhận điều đó không ?

    500 Thượng tọa và 80.000 tăng lữ hoan hô Đại đức Nâgasena.

    Đại đức Nâgasena bèn nói : “Tâu Bệ hạ ! Nếu bây giờ Ngài nói được thì hãy nói đi”.

    Vua mới nói : “Bạch Đại đức ! Tôi không nói sai với chơn lý.

    Đối với gọng xe, ví xe, thùng xe, trục xe, người ta dùng một tiếng, một danh từ là xe.

    - Tâu Bệ hạ ! Thật vậy. Bệ hạ đã biết cái xe rồi đó. Đối với tóc tai tôi, da thịt tôi, xương cốt tôi, Ngũ Uẩn tôi, người ta dùng một tiếng, một danh hiệu là Nâgasena. Nhưng con người là Nâgasena đây không có thật. Ni cô Vajira [6] đã giải trước mặt Phật như thế đó.

    Chỗ nào có những phần của xe ráp lại, người ta gọi là xe, cũng thế đó, chỗ nào Ngũ Uẩn hiệp lại thì chỗ đó là con người, ấy là quan niệm chung như thế [7] .

    - Bạch Đại đức ! Thật là tuyệt diệu, thiệt là phi thường. Có nhiều nghi vấn quanh quẩn trong đầu óc tôi, Đại đức đã giải quyết, nếu Đức Phật còn sanh tiền chắc Ngài cũng tán thành. Hay thật ! Đại đức Nâgasena ! Nhiều nghi vấn quanh quẩn trong đầu óc tôi, Ngài đã giải quyết.

    ***

    Chúng tôi biết bài nầy đặt ra cố ý để làm sáng tỏ thuyết Ngũ Uẩn, nghĩa là có Ngũ Uẩn chớ không có Linh hồn hay là Bản ngã đi đầu thai.

    Nhưng cách bố cục không khéo léo, người có ý chỉ dòm vô thấy rõ ràng. Đây là nhược điểm :

    Khi vua Milinda nghe Đại đức Nâgasena nói : “Không có con người Nâgasena” thì Ngài hỏi : Ai trau đức mình ? Ai bước vào đường Đạo ? Ai chứng quả Thánh ? Ai nhập Niết Bàn ? Ai phạm ngũ giới ? Nếu có ai giết Nâgasena thì người đó không phạm tội sát sanh.

    Thì không thấy Đại đức trả lời làm sao cả, mấy câu hỏi nầy rất chánh đáng vậy. Tại sao Đại đức không đáp lại đặng hậu thế suy nghiệm coi những lời giải bày của Ngài có lý không ? Tại sao Đức Vua không đợi Đại đức trả lời coi thế nào mà lại vụt bắt qua câu hỏi khác ?

    Chúng tôi đã thấy rõ dụng ý của tác giả. Phải chăng tác giả bị mấy câu hỏi trên đây làm nghẹt lối, trả lời không nổi nên phải tìm lối thoát bằng cách thêm cho vua Milinda câu hỏi ; “Tóc tai có phải là Nâgasena ?” Nhờ vậy Đại đức mới bắt từ đó đề cập tới cái xe và Ngũ Uẩn được.

    Tác giả có ngờ đâu cách ngụy biện nầy làm hại tinh thần Phật giáo chẳng nhỏ.

    Sự thật là chúng tôi không rõ câu chuyện xảy ra giữa vua Milinda và Đại đức Nâgasena thuở xưa ra sao, nhưng lấy theo tài liệu nầy thì chúng tôi kết luận như vầy:

    Một là : Không có Nâgasena thì lẽ dĩ nhiên không có Milinda. Vậy ta hãy thử làm bài toán nầy, không có tức là “dê rô” (zéro) – Nâgasena nói chuyện với Milinda hay là dê rô nói chuyện với dê rô thì câu chuyện nầy cũng là dê rô. Đại đức không giải quyết cái chi cả. Ai giết Ngài cũng không phạm tội sát sanh vì không có con người Nâgasena.

    Hai là : Không có Đức Thích Ca cũng như không có Nâgasena. Vậy thì có ai đâu mà thành Phật ? Phật là một tiếng trống không và Đạo Phật cũng là Đạo trống rỗng.

    Ba là : Chúng tôi e cho những người trụy lạc đọc bài nầy họ sẽ mừng lắm. Họ sẽ bảo nhau : chúng không có thật. Thác rồi chúng rã tan mất. Tội tình gì phải nhọc xác tu hành, hãy chơi cho sung sướng cái đời. Chết rồi hết chuyện. Kiếp sau mình có lãnh quả gì đâu mà sợ. Rõ ràng bài nầy gián tiếp xúi giục họ làm thêm những việc tội lỗi chớ không chứng minh được cái chi cả.

    Tác giả của bài nầy có nghĩ đến cái quả khốc hại của nó chăng hay là lầm tưởng rằng mình đã bài bác được thuyết có Linh hồn đi đầu thai. Chúng tôi có đọc vài bài nói về chuyện vua Milinda và Đại đức Nâgasena, nhưng chúng tôi ngạc nhiên thấy mất trọn một giai đoạn từ “Bạch Đại đức ! Nếu không có Nâgasena thì ai dâng cho Ngài đồ dùng tới . . . Nếu ai giết Ngài thì người đó không phạm tội sát sanh.

    Đoạn nầy là đoạn cần ích lắm vì nó bắt được cái thuyết Ngũ Uẩn; vô tình hay cố ý người ta bỏ mất nó đi. Nhưng,

    Dầu sao chơn lý vẫn là chơn lý.

    Dầu sao cũng chớ nên làm cho đạo Phật biến thành anh em của phái Duy Vật.

  8. #8

    Mặc định

    THUYẾT VÔ NGÃ.



    Có người bảo : Bài nầy nói về thuyết Vô ngã ! Vô ngã đây là không có Bản ngã, không có cái Ta, tức là không có chi hết. Trống không. Nói cho đúng lý, chúng ta ở tại cõi Trần, tất cả những việc xảy ra đều tương đối. Vạn vật đều có hình dạng, tất cả đều sống, tức là Hữu ngã. Ta choán một chỗ trên không gian, ta với người khác nhau từ thân thể cho đến tư tưởng, ý muốn, lời nói và việc làm thì bảo là Hữu ngã mới đúng. Ta tu hành, ta tiến bộ, ta đắc đạo thành chánh quả trước bạn ta, trước nhiều người, sao gọi là Vô ngã được.

    Nhược bằng quan niệm rằng Vô ngã là không có gì hết, không có Linh hồn, không có Bản ngã, thì đừng có nói Đạo, đừng nói tới việc tu hành vô ích. Ta nên hiểu nghĩa Vô ngã như vầy : mặc dầu ta riêng biệt với người, nhưng Bản ngã của ta với Bản ngã của người vốn đồng bản tánh với nhau vì ở một gốc mà ra.

    Gốc đó gọi là Thượng Đế, là Trời, là Đại Ngã, là Chơn Như hay là cái chi chi cũng được. Ta phải quên phứt mình đi cũng như không có mình thì mới giúp ích cho người được. Nói một cách khác, Vô ngã là :

    Ta với người tuy hai mà một

    Người với ta tuy một mà hai.

    Ở dưới Trần không thể nào chứng minh điều nầy được, phải lên tới cõi Trực giác gọi là cõi Bồ Đề, mới hiểu Vô ngã là sao. Ở cõi nầy mới thấy sự chia rẽ ở dưới Trần là mộng ảo. Mình ở trong tâm của bạn mình, bạn mình ở trong tâm của mình. Trạng thái nầy rất kỳ lạ. Không phải giọt nước và biển cả, như thế giọt nước sẽ tan mất. Trái lại dường như tất cả biển cả chun vô giọt nước, chứa trong giọt nước. Không ai mất cá thể của mình. Phải tu hành tới bực La Hán, vào cõi Bồ Đề mới biết sao là Vô ngã, mặc dầu khi vào bực Tu đà Huờn tức là sau khi được Điểm đạo lần thứ nhứt cũng được lên tới cõi nầy một vài lần thôi. Câu chuyện Vô ngã nầy đem ra cãi vã ở dưới Trần với nhau thì làm mất ngày giờ. Người phàm như chúng ta chỉ thấy một khía cạnh nhỏ mà thôi, người thật hiểu Chơn lý chỉ nói một vài lời vì biết dầu đem ra dẫn giải cũng ít ai lãnh hội được Chơn lý nầy. Nó cao hơn trí tưởng tượng của con ngươi. Cầm cây viết tả cũng không bao giờ nổi.

    Nhưng mà ta cứ lo mở rộng lòng từ bi bác ái trước đi, hãy thương người như thương mình trước đi, thì một ngày kia sẽ có thể nhờ Trực giác hiểu được Vô ngã phần nào.

    Tôi xin thuật chuyện ngụ ngôn : “Ngài là Tôi ở xứ Ba Tư gọi là Parabolede Djanalou’ d-Dinow’ rscufi per san”, cho quí bạn nghe đặng biết rằng, ở nước nào cũng vậy : Chơn lý vẫn là một .



    NGÀI LÀ TÔI.



    Một người kia tới gõ cửa Thánh Điện. Ở trong có tiếng vọng ra hỏi : “Ai đó !”. Anh trả lời : “Tôi”. Tức thì anh nghe đáp lại :

    “Trong nhà nầy không có chỗ để cho tôi hay là để cho anh đâu. Cửa đóng chặt. Tức mình anh bèn ra sa mạc, tìm chỗ vắng vẻ, chay lạt và tham thiền. Một năm sau, anh trở lại gõ cửa nữa. Cũng tiếng ấy hỏi : “Ai đó !”. Anh bèn trả lời : “Anh”. Cửa bèn mở ra, anh bèn bước vào.

    --------------

    Bài nầy nói về Vô ngã, ý nghĩa sâu xa. Lần thứ nhứt người tìm đạo tới gõ cửa Thánh Điện và trả lời Tôi, tức là anh còn Bản ngã, còn chia rẽ. Cửa Thánh Điện không mở. Lần thứ nhì anh trả lời Anh, nghĩa là anh đã diệt được tánh chia rẽ ích kỷ, không còn anh là anh, tôi là tôi nữa, nên cửa Thánh Điện mới mở cho anh vô.

    Chúng ta muốn bước vào cửa Đạo cũng phải noi theo gương nầy.



    THUYẾT NGŨ UẨN ĐỐI VỚI BA THỂ :THÂN, VÍA, TRÍ CỦA CON NGƯỜI.

    Bây giờ đây chúng ta hãy xem xét thuyết Ngũ Uẩn theo ánh sáng của Huyền bí học đặng tìm hiểu vì lý do nào mà các bực tiền bối cho rằng Ngũ Uẩn làm ra con người.

    Theo Huyền bí học thì con người là Chơn Thần, xin nói là Linh hồn cho dễ hiểu. Con người có ba thể để dùng trong mỗi kiếp.

    Xác thân để hành động.

    Cái Vía để biểu hiện những tình cảm.

    Cái Trí để ghi nhớ học hỏi, phân biện, xét đoán, tưởng tượng v. v. . .

    Đối chiếu với Ngũ Uẩn thì :

    Sắc Uẩn là Xác thân.

    Thọ Uẩn là cái Vía.

    Tưởng Uẩn
    Hành Uẩn ba Uẩn nầy là cái Trí.
    Thức Uẩn



    Sau khi con người từ trần thì ba thể ra sao ?

    Sau khi thác rồi con người qua cõi Trung giới ở trong cái Vía và dùng nó hoạt động cũng như dùng xác thân ở cõi Trần vậy.

    Đúng ngày giờ thì cái Vía rã ra, con người bỏ nó, và ở trong cái Trí về cõi Thiên Đường đặng đồng hóa những sự kinh nghiệm của mình.

    Xong xuôi rồi thì con người bỏ cái Trí lên cõi Thượng Thiên tức là Quê Hương của Chơn Nhơn. Ở tại đây một ít lâu, con người trở xuống Trần đầu thai lại.



    BA THỂ THÂN – VÍA – TRÍ RA SAO ?

    Chúng nó có tiêu mất không ? Không, chúng nó rã ra nguyên tử và để lại mỗi thể một phần tử bất diệt ghi tất cả những sự kinh nghiệm của nó khi con người còn sống.

    VỀ XÁC THỊT - Phần tử đó là một hột nguyên tử trường tồn gọi là Nguyên tử trường tồn của Xác thân (atome physique permanent).

    VỀ CÁI VÍA - Phần tử đó là một hột nguyên tử trường tồn gọi là Nguyên tử trường tồn của cái Vía (atome astral permanent).

    VỀ CÁI TRÍ - Phần tử đó là một Phân tử trường tồn gọi là Phân tử trường tồn của cái Trí (unité mentale ou molecule permanent mentale).

    Ba phần tử nầy ở đâu ? Chúng nó xỏ xâu với nhau trong một sợi dây làm bằng chất Bồ Đề gọi là Sutrâma và rút vô nằm trong Thượng Trí.


    TẠI SAO CON NGƯỜI PHẢI TRỞ XUỐNG ĐẦU THAI ?

    Con người phải trở xuống đầu thai vì hai nguyên do :

    Một là : Thanh toán các nghiệp quả đã gây ra từ những kiếp trước.

    Hai là : Học hỏi và kinh nghiệm thêm cho tới khi trở nên trọn sáng trọn lành. Chừng đó con người mới thoát đọa Luân Hồi.

    Lúc xuống Trần, con người sẽ có ba thể mới đồng bản tánh với ba thể trước bởi vì các vị Thiên thần phải coi theo ba Phần tử trường tồn đặng lấy những chất khí một loại với chúng nó và làm ra Thân, Vía, Trí của con người mới.

    Nói rằng Ngũ Uẩn mới làm ra một con người mới không phải là sai ngoa, nhưng phải nói lý do các tín đồ mới hiểu.

    Còn Trishna (soif de vivre) lòng tham sống mà Phật giáo nói nó ở đâu. Nó không phải ở trong Ngũ Uẩn đâu, bởi vì Ngũ Uẩn đã tan rã rồi. Nó là tánh cố hữu của Linh hồn. Chánh nghĩa không phải là lòng tham sống, nhưng mà thật nghĩa là lòng khao khát những sự kinh nghiệm mới. Tôi xin giải vắn tắt ra đây.

    Có hai hạng Chơn Thần :

    Một hạng ở với Đức Thượng Đế tại cõi Đại Niết Bàn không chịu đi đầu thai.

    Một hạng nữa tình nguyện xuống năm cõi dưới : Niết Bàn, Bồ Đề, Thượng giới, Trung giới, Hạ giới (Hồng Trần) học hỏi và kinh nghiệm đặng ngày sau, khi vận dụng được tất cả những quyền năng còn tiềm tàng trong mình thì thành một vị Thượng Đế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ như Thái dương hệ nầy vậy. Thế nên ngày nào con người chưa thành chánh quả, chưa đạt đến cõi Niết Bàn thì ngày đó còn khát khao những sự kinh nghiệm chưa thực hiện được và phải Luân hồi đặng học hỏi. Nói cho đúng lý, sự khát khao nầy là sự ham muốn và sự ham muốn là cội rễ của sự Luân hồi dưới Trần thế. Chúng ta và tất cả nhân loại, toàn là những người tình nguyện. Nếu chúng ta ngày nay chịu các thứ đau khổ thì chúng ta phải tự trách chúng ta không tuân theo Thiên ý, bởi vì khi mỗi giống dân sanh ra thì có những vị Giáo chủ lâm phàm dạy Đạo, chỉ cho con người biết việc nào phải làm, việc nào phải tránh đặng tiến cho mau. Nhưng tại chúng ta bất tuân những lời giáo hóa cho nên mang những tai họa vào thân (xin xem chỗ bàn về 6 nẻo Luân hồi).

    Nói tóm lại, thuyết Ngũ Uẩn không công nhận có Linh hồn đi đầu thai trúng có phân nửa và không cắt nghĩa được sự tham sống ở đâu mà rút Ngũ Uẩn mới đặng làm ra một người mới.

    Tiện đây tôi xin hiến cho quí bạn một bài nói về thuyết Thập Nhị Nhân Duyên đối chiếu thuyết Ngũ Uẩn và thuyết Nhân Quả Báo Ứng của một nhà đạo học uyên thâm của phái Védanta là ông Çankara



    THUYẾT THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN ĐỐI CHIẾU VỚI

    THUYẾT NGŨ UẨN VÀ THUYẾT NHÂN QUẢ BÁO ỨNG.

    Trong bài giảng lý về những kinh Bâdarâyana, nhà đạo học uyên thâm của phái Védanta là ông Çankara có vạch rõ sự mâu thuẩn của thuyết Thập Nhị Nhân Duyên và sự xác nhận Ngũ Uẩn, nguyên văn như sau đây :

    “Le Grand penseur Véantin Çankara, relève dans son commentaire sur les Sûtras de Bâdarâyana une contradiction entre la théorie des nidanas et l’affirmation d’agrégats momentanés. Il dit aux bouddhostes : “Vous prétendez que l’existence s’explique tout entière par l’enchainement des douze nidanas, chacun étant l’effet du précédent et la cause du suivant. Òu est alors la cause qui produit les agrégats [8] ? Aucun des nidanas ne peut être cette cause, puisque, tous, ils ont besoin des skandhas pour se développer. Au surplus, la notion de momentanéité et celle de cause sont en soi contradictoires, ou bien il y a un lienentre la cause et le produit, et la momentanéité est inadmissible, ou bien il n’y en a pas et alors on n’a plus ni cause, ni effet, toute chose produit indifféremment toute chose.

    La théorie du Karman lui semble aussi bien compromise, puisque vous niez l’âme individuelle, puisque, selon vous, il n’y a pas de “jouisseur” en vue du quel s’accomplit le processus des douze causes, la jouissance reste en l’air, et le salut aussi.”

    - La formule bouddhique des douze de causes par Paul Oltramare, page 18.

    XIN TẠM DỊCH.

    Ông Çankara nói với các hàng Phật tử : Chư huynh quả quyết rằng thuyết Thập Nhị Nhân Duyên giải nghĩa được trọn cả kiếp sống của con người vì nhân nầy sanh ra duyên kia, rồi duyên kia lại sanh ra nhân nọ. Vậy thì nguyên nhân nào sanh ra những sự tập hợp nhứt thời (Ngũ Uẩn). Không có nguyên nhân nào cả, bởi vì 12 nhân duyên cần có Ngũ Uẩn mới phát triển được. Hơn nữa, quan niệm “Nhứt thời” và quan niệm “Nhân duyên” tự nó mâu thuẩn với nhau hoặc giả có một sự liên lạc giữa Nhân và Duyên thì không thế nào chấp nhận sự “Nhứt thời” được - hoặc giả không có sự liên lạc giữa Nhân và Duyên, như vậy thì không có Nhân mà cũng không có Duyên. Vật nầy sanh ra vật kia vẫn vô tình.

    Thuyết Nhân Quả Báo Ứng cũng vì lẽ đó mà bị hoại luôn. Không có giá trị, bởi vì chư huynh phủ nhận Linh hồn cá nhân, bởi vì theo chư huynh, không có người “Hưởng thụ”, nhờ đó 12 nhân duyên mới tiến triển và ứng nghiệm được thì sự hưởng thụ vốn là chuyện viễn vông, hão huyền và sự giải thoát cũng là chuyện viễn vông, hão huyền vậy.

    (Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên – tác giả : Giáo sư Paul Oltramare, xuất bản tại Genève 1909) [9].

    Bây giờ chúng ta hãy lấy công tâm mà xem xét đoạn văn của ông Çankara.

    Trong bài nầy có nhiều điểm cần phải giải nghĩa như :

    1/ Vì lý do nào ông Çankara viết bài nầy.

    2/ Không có nguyên nhân nào sanh ra những sự tập hợp nhứt thời (Ngũ Uẩn).

    3/ 12 nhân duyên cần có Ngũ Uẩn mới phát triển được.

    4/ Quan niệm “Nhứt thời” mâu thuẩn với quan niệm “Nhân Duyên”.

    5/ Không chấp nhận sự có Linh hồn cá nhân thì sự hưởng thụ và giải thoát là chuyện hão huyền.

    ---------------

    1/Vì lý do nào Ông Çankara viết bài nầy ?

    Ông Çankara đã trình bày lý do đó ngay trong câu đầu : Vì nhiều bạn Phật tử quả quyết rằng : thuyết Thập Nhị Nhân Duyên giải nghĩa được trọn cả kiếp sống của con người.

    Xin lập lại Thập Nhị Nhân Duyên là :

    1- Vô minh 7- Thọ

    2- Hành 8- Ái

    3- Thức 9- Thủ

    4- Danh sắc 10- Hữu

    5- Lục nhập 11- Sanh

    6- Xúc 12- Lão tử.

    Vô minh sanh ra Hành, Hành sanh ra Thức v. v. . .

    Theo Bouddhagosa thì :

    Hai Nhân Duyên đầu : Vô minh và Hành thuộc về kiếp quá khứ.

    Tám Nhân Duyên kế đó : Thức – Danh sắc - Lục nhập – Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu thuộc về kiếp hiện tại.

    Hai Nhân Duyên chót : Sanh – Lão tử thuộc về kiếp vị lai.

    Còn theo ông Oldenberg thì :

    Ba Nhân Duyên chót : Hữu – Sanh – Lão tử thuộc về kiếp vị lai. Mà hai chữ Vô minh có phải của Phật giáo bày ra không ? Không. Vô minh vốn Tàu dịch Avidya [10] bên Thiên Trước, mà chữ Avidya đã có từ ngàn xưa. Phái Védanta đã dùng nó từ lâu lắm rồi.

    Phái Sankhya cũng cho rằng Vô minh là cội rễ của đời sống hiện tượng.

    2/ Không có nguyên nhân nào sanh ra sự tập hợp.

    Những sự tập hợp đây là Ngũ Uẩn. Theo một phái của Phật giáo thì Ngũ Uẩn làm ra con người, và nên hiểu con người đây là con người đầu tiên, con người kiếp trước. Nói cho đúng lý, phải có một người kiếp trước, người nầy vì vô minh nên mới hành động không đúng phép mà vì đó gây ra quả. Kiếp sau phải đầu thai lại đặng thanh toán những món nợ nần.

    Xin thí dụ đặng dễ hiểu hơn.

    Anh X làm một việc không lành và việc nầy gây ra hậu quả không tốt cho anh và cho nhiều người khác. Ta hãy nêu ra 2 câu hỏi :

    1- Ai làm việc không lành ?

    2- Vì sao lại làm việc không lành đó ?

    Thì tự nhiên câu trả lời là :

    Anh X làm việc không lành, bởi vì anh còn vô minh.

    Sự thật là không ai nói : vô minh làm việc không lành cả.

    Bây giờ ta hỏi thêm một câu nầy nữa.

    Ai sanh ra anh X ? Có anh X rồi mới có việc vì vô minh mà làm điều không lành. Không có anh X thì có việc làm không lành chăng ? Không bao giờ có.

    Trong thuyết Thập Nhị Nhân Duyên thì Vô minh sanh ra Hành – Hành sanh ra Thức mới sanh ra Danh sắc và Lục nhập.

    Như vậy thì Vô minh sanh ra anh X, mà Vô minh là cái gì ?

    Vô minh là sự không thông luật Trời, hoặc dùng danh từ của Phật giáo; là sự không thông Tứ Diệu Đề.

    Sự không thông luật Trời mà lại sanh ra con người được ư ?

    Nói Vô minh sanh ra Hành cũng là khó hiểu nữa. Bởi vì sự không thông luật Trời làm cách nào mà hành động. Phải có kẻ chủ động mới có sự hành động được như tôi đã đưa ra một thí dụ anh X trước đây.

    Vì mấy lẽ trên, cho nên ông Çankara mới nói : “Không có nguyên nhân nào sanh ra Ngũ Uẩn cả”.

    3/ Mười hai Nhân Duyên cần có Ngũ Uần mới phát triển được.

    Câu nầy có nghĩa là : Trước nhứt phải có con người rồi 12 nhân duyên mới nương tựa theo đó đặng phát triển. Không có con người thì không có việc lành, không có việc ác, không có việc vô ích và cũng không có kiếp tái sanh đặng trả quả. Không có con người Đạo Bát Chánh đem dạy ai ?

    4/ Quan niệm “Nhứt thời” mâu thuẩn với quan niệm Nhân Duyên.

    Quan niệm “Nhứt thời” là quan niệm nào. Ấy là quan niệm về Ngũ Uẩn, bởi vì Ngũ Uẩn dùng có một đời mà thôi. Con người thác rồi thì chẳng bao lâu Ngũ Uẩn tan mất. Kiếp sau Ngũ Uẩn mới ráp lại thành một người mới khác hẳn người trước mà lại lãnh những quả của người trước đã gây ra.

    Như thế thì không có sự liên lạc giữa Nhân và Duyên, nói một cách khác không có Nhân mà cũng không có Duyên. Ngũ Uẩn tự nó sanh ra rồi cũng tự nó tiêu diệt.

    Còn quan niệm Nhân Duyên là sao ?

    Theo quan niệm nầy thì Nhân và Duyên cứ nối tiếp nhau mãi, không bao giờ dứt đoạn.

    Nhân kéo dài ra tới cái Duyên của nó sanh ra rồi sống trong cái Duyên đó. Cái Duyên nầy trở thành cái Nhân mới rồi sanh ra một cái Duyên khác nữa. Chúng nó làm thành một cái vòng tròn đóng kín cứ lăn tới mãi, không nghỉ không ngừng, vô cùng vô tận.

    Thế thì có sự liên lạc giữa Nhân và Duyên. Như vậy ta thấy rõ ràng quan niệm Ngũ Uẩn mâu thuẩn với quan niệm Nhân Duyên.

    Quan niệm Nhân Duyên đi đôi với thuyết Nhân Quả Báo Ứng mà không thỏa hiệp với quan niệm Ngũ Uẩn.

    5/ Không chấp nhận có Linh hồn cá nhân thì sự Hưởng thụ và sự Giải thoát là chuyện hão huyền.

    Mấy lời nầy giống như đoạn đầu của vua Milinda hỏi ông Nagasena Na Tiên. Nếu không có Nagasena thì ai bước vào đường Đạo ? Ai chứng quả Thánh ? Ai nhập Niết Bàn ? Ai trộm cắp, ai say sưa ?

    Ai giết Nagasena cũng không phạm tội sát sanh.

    Tu hành đắc đạo giải thoát cho ai ?

    -----------

    Tôi giải thích bài nầy theo chỗ hiểu biết của tôi, còn quyền xét đoán ở nơi quí bạn.

    Nhưng thiết nghĩ Thuyết nào cũng vậy, tùy theo tánh cách của nó, hoặc đúng với Chơn lý hoặc không đúng. Ta có bổn phận phải suy nghĩ kỹ lưỡng xét đoán nó dưới tất cả những phương diện, nhứt là phải giàu kinh nghiệm và mở rộng lòng từ bi bác ái.

    Xin lập lại.

    Phải vứt bỏ những thành kiến cũ kỹ, chúng nó là những kiếng xanh, đỏ, đeo vô thì thay đổi màu sắc của mọi vật, không cho thấy được màu trắng của Chơn lý. Phải có tinh thần khoa học, phải phân tích tỉ mỉ trước khi tin như các nhà thông thái thì sẽ tiến mau.

    Điều tốt hơn hết là nên lấy lời của Phật dạy những người Kalama làm tiêu chuẩn thì ắt tránh được nhiều điều không hay có thể xảy ra vì cái họa mê tín.

  9. #9

    Mặc định

    CHƯƠNG THỨ NHÌ



    GIÁO PHÁP CỦA ĐỨC PHẬT ĐÃ TRẢI QUA BA GIAI ĐOẠN.



    Những việc trái nghịch về thuyết Ngũ Uẩn suy ra cũng dễ hiểu vì chúng tôi thấy giáo pháp của Đức Phật đã trải qua ba giai đoạn.

    GIAI ĐOẠN THỨ NHỨT .- Lúc Đức Phật còn tại thế. Ngài chỉ thuyết pháp mà thôi.

    GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ .- Từ lúc Phật nhập Niết Bàn cho tới Phật giáo Hội Nghị lần thứ ba. Giai đoạn nầy là thời kỳ hổn loạn, xin tóm tắt ra sau đây :

    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ NHỨT.

    Vì có sự bất tuân kỷ luật của phe SU BA TRA (Subhadra) nổi lên vài ngày (có chỗ nói 7 ngày) sau khi Phật bỏ xác, cho nên mới có Phật giáo Hội nghị lần thứ nhứt mở tại động Satapani trong rừng Nigrodha gần Vương Xá thành (Rajagriha) dưới quyền chủ tọa của Đức Ma Ha Ca Diếp, lối năm 544 trước Tây lịch kỷ nguyên, trọn 7 tháng với 500 tăng đồ theo cách vấn đáp, người nầy hỏi người kia trả lời.

    Đức Ananda lập lại những đoạn kinh của Phật nói về Pháp (Dharma).

    Đức Upali kể lại những giới luật.

    Đức Ma Ha Ca Diếp giải về phần triết lý cao siêu.

    Ba Ngài chỉ nói miệng.

    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ NHÌ.

    Lối 20 năm sau lại có cuộc Phật giáo Hội nghị lần thứ nhì, gồm 700 tăng đồ mở ra tại thiền viện Balukarama gần Hoai Sa Ly (Vaisali) dưới quyền chủ tọa của vua xứ Magadha là Đức Kalaçoka, trọn 8 tháng đặng giải quyết 10 điều xin “khoan hồng” như sau đây :

    1. Được phép để dành muối luôn luôn chớ không phải nội trong 7 ngày qui định mà thôi.

    2. Được phép ăn thêm một lần nữa sau buổi ăn ngọ.

    3. Các tăng đồ ở trong làng được phép giảm bớt sự giữ gìn giới luật, như các tăng đồ trong thiền viện.

    4. Được phép hành lễ trong liêu một mình khỏi tới phòng chung hay là chỗ công cộng.

    5. Được phép làm vài chuyện khỏi phải xin phép trước.

    6. Được phép hành động theo các vị Thượng Tọa, Trưởng Lão.

    7. Được phép uống sữa buổi chiều.

    8. Được phép uống rượu nếu mấy thứ nầy trong như nước lã.

    9. Được phép ngủ trên giường nệm ấm áp, ngồi trên ghế có phủ vải sồ gấm vóc.

    10. Được phép nhận tiền bạc và quần áo của người ta cho.



    Sự đấu khẩu kịch liệt, có khi vua phải can thiệp và cho phần phải về phe Bảo thủ. Chung cuộc 10 điều thỉnh cầu bị bác bỏ, phe đối lập bị trục xuất ra khỏi Giáo hội (tất cả là 20.000 tăng đồ và 60.000 cư sĩ). Lúc đó Phật giáo đã chia ra làm 18 phái khác nhau và chắc chắn mấy vị đệ tử lớn đã từ trần rồi.

    Có sách nói một phần của Kinh Tàng và Luật Tàng đã chép ra thành sách. Sự tranh chấp nói trên đây không phải xảy ra lần thứ nhứt đâu. Hồi Phật còn sanh tiền đã có một sự bất tuân giới luật chia các tăng đồ làm hai phe chống báng nhau rất dữ dội. Phải mất một thời gian mới đem sự hòa khí lại như cũ.

    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẤN THỨ BA.

    Sự tranh chấp không ngừng và phe đối lập thắng thế cho đến đỗi khi vua A Dục mới lên ngôi thì có không biết bao nhiêu thiền viện; có bao nhiêu thiền viện thì có bao nhiêu phái; có bao nhiêu phái là có bao nhiêu tôn giáo. Muốn chấm dứt tình trạng hỗn loạn nầy vua A Dục [11] mới triệu tập Phật giáo Hội nghị lần thứ ba tại thiền viện Açokarama gần Pataliputra (ngày nay là Patna) lối năm 252 hay 254 trước Chúa Giáng sinh (có sách nói 244 hoặc 242, cũng như năm sanh của Đức Phật các sách đều nói khác nhau) dưới quyền chủ tọa của Đức Tshya Maudgalapoutra, 72 tuổi, kéo dài tới 9 tháng đặng thống nhất các môn phái. Mỗi phái đều được phép trình bày và binh vực giáo lý của mình. Chung cuộc 8 phái bị liệt vào hạng Tà giáo và bị trục xúat ra khỏi Giáo hội không được phép mặc áo cà sa. Xong rồi Hội nghị xem xét và sửa đổi bản văn của Kinh Tàng và Luật Tàng, có lẽ của Luận Tàng nữa, rồi mới chép ra thành sách tức là 300 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn.

    GIAI ĐOẠN THỨ BA.- Sau cuộc Hội nghị nầy, Phật giáo chia ra hai phái lớn Nam Tôn và Bắc Tôn rõ rệt.

    Bắc Tôn dùng chữ Bắc Phạn (sanscrit) đặng chép kinh sách, còn Nam Tôn thì dùng chữ Nam Phạn Ba Li (Pâli).

    Bắc Tôn tiến lên miền Bắc, Nam Tôn lại xuống miền Nam.



    CÔNG ĐỨC VUA A DỤC VÀ SỰ BÀNH TRƯỚNG ĐẠO PHẬT.

    Vua A Dục cho xây dựng cả ngàn chùa tháp [12] trong đó có nhiều tháp để kỷ niệm những Phật tích, nhứt là bốn chỗ hành hương có danh tiếng và đã được ghi vào lịch sử Phật giáo, ấy là :

    1.- Vườn Lumbini (Lâm tỳ Ni), chỗ Đức Bồ Tát giáng sanh.

    2.- Bồ Đề Đạo Tràng – Bodhi Gaya - chỗ Đức Bồ Tát chứng quả Phật.

    3.- Vườn Isipatana - Lộc giả, chỗ Đức Phật chuyển Pháp luân.

    4.- Vườn Kusinara, chỗ Phật bỏ xác nhập vào Niết Bàn.

    Ngài cho ban hành tám mươi bốn ngàn sắc lịnh, và cho khắc vào những bia đá và những thạch trụ dựng lên khắp phía Bắc xứ Ấn Độ để tán dương công đức Phật.

    Sau cuộc Hội nghị Phật giáo lần thứ ba, vua A Dục sai sứ giả đem kinh Phật qua năm vị vua của những nước đã giao hảo với Ngài dưới đây :

    Antiochus, de Syrie (Antiochus II)

    Ptolémée, d’Egypte.

    Antigonus, de Macédoine.

    Margas, de Cyrène.

    Alexandre, d’Epire.

    Năm vị nầy ký hiệp ước với Ngài cho phép những vị Trưởng Lão và Thiền sư được tự do truyền bá đạo Phật trong nước mình. Các nhà sư cũng đi truyền bá Phật giáo khắp 14 nước của xứ Bắc Ấn Độ



    ĐẠO PHẬT TRUYỀN QUA TÍCH LAN.

    Vua A Dục sai hai đứa con yêu quí của Ngài là hoàng tử Ma hanh Đa (Mahinda) và công chúa Săn ga mít ta (Shangamita) qua Tích Lan truyền bá đạo Phật.

    Công chúa Săn ga mít ta đem trồng tại A nu ra đa bu ra (Anurâdhapura) một nhánh cây Bồ Đề tự tay vua A Dục chiết ra [13] lối năm 306 trước Tây lịch kỷ nguyên. Ấy là cây lịch sử xưa nhứt trên đời. Hiện giờ cây nầy còn sống. Những cây Bồ Đề nhỏ của Đại Đức Narada hiến cho các chùa Việt Nam, Cam Bốt và Ai Lao vốn là cháu chắt của cây Bồ Đề nầy.

    Hoàng hậu Anulâ, vợ của vua Tích Lan, Devanampiyatissa, xin công chúa lập phái Tỳ Khưu Ni (Bikkhounis). Chẳng bao lâu Hoàng hậu, nhiều vị Hoàng phi và 500 trinh nữ xin qui y thế độ.



    PHẬT GIÁO TRUYỀN QUA TRUNG HOA, CAO LY, NHỰT BỔN, VIỆT NAM,

    ĐÀI LOAN, MIẾN ĐIỆN, THÁI LAN, CAM BỐT, NAM DƯƠNG.

    Hai cuốn kinh Nam Tôn, Sa măn ta Ba sa đi ca (Samanta Pasadika) và Sa rát ta Đi ba ni (Sarattha Dipani) có chép rằng : lối thế kỷ thứ ba trước Chúa giáng sinh, vua A Dục sai năm vị Thiền sư đem kinh Phật qua Trung Hoa, mỗi vị đi đến một vùng khác nhau.

    Từ Trung Hoa đạo Phật truyền sang qua Cao Ly lối năm 372 sau Chúa giáng sinh, rồi từ Cao Ly qua Nhựt Bổn, lối năm 552 đạo Phật thâm nhập vào Việt Nam, Đài Loan, Mông Cổ, Yarkan, Balk, Bokhara, A Phú Hãn (Afghanistan) và nhiều nước khác ở Trung Bộ Á Châu lối thế kỷ thứ tư hay thứ năm.

    Từ Kashmir (Cachemire) đạo Phật truyền qua Nê bôl (Népal) lối thế kỷ thứ nhứt và Tây Tạng lối thế kỷ thứ hai.

    Phật giáo của mấy nước nầy thuộc về Bắc Tôn hay là Đại Thừa. Còn phái Nam Tôn hay là Tiểu Thừa trụ tại Tích lan rồi từ đó truyền bá qua Miến Điện lối năm 450 và sang Arakan, Cam Bốt, Thái Lan. Người ta còn tìm thấy di tích Phật giáo ở Nam Dương như đền Borobudur.



    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ TƯ

    Có sách nói 10 năm sau, vua A Dục triệu tập Hội nghị Phật giáo lần thứ tư để xác định qui luật của giáo hội. Hội nghị nầy thanh minh rằng : Có những ngụy kinh kết nhiều đoạn kinh lại làm một bổn và làm nhiều thứ kinh giả đặng hòa hợp giáo lý của Đức Phật với những chuyện Thần thoại địa phương.



    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM.

    Lối 500 năm sau khi Phật bỏ xác, nhằm thế kỷ thứ nhứt Tây lịch kỷ nguyên, vua Kanisha (Già nhị sắc đà) triệu tập Phật giáo Hội nghị lần thứ năm (có sách nói là lần thứ tư) tại Jolandhara, trung tâm xứ Cachemire dưới quyền chủ toạ của hai vị Đại Đức Vasumitra và Pârcya. Cũng như bốn lần trước kết quả không được tốt, song phái Đại Thừa được công nhận là Quốc Đạo.



    PHẬT NGỪA TRƯỚC.

    Trước khi lìa trần, Phật kêu Ananda lại dặn : “Mỗi lần thuyết pháp thì phải khởi đầu bằng câu nầy :

    “Đây là bài kinh của tôi đã nghe hay là những điều tôi đã nghe một lần :

    Đức Thế Tôn ngự tại . . . , trong xứ . . . , trong thiền viện . . . chung quanh có 500 hoặc một số đông tỳ kheo đã được hoàn toàn giải thoát.

    Thuyết xong thì dùng một trong hai thể thức nầy :

    Hoặc : Phật dạy như thế. Các thính giả đều vui mừng và đồng ca tụng công đức Phật.

    Hoặc : Hai chữ : Saddha ! Saddha !

    (C’est bien ! C’est bien !)

    Lành thay ! Lành thay !

    Câu “Bài kinh tôi đã nghe” khác nghĩa câu “Phật nói như vầy” . Dùng câu Phật nói như vầy là quả quyết mình lập lại y lời của Phật đã nói, không thêm không bớt một tiếng. Cái trí con người đâu phải là máy ghi âm, hễ nghe một lần rồi thì nói lại không mất một tiếng nào cả. Nếu quả quyết Phật đã nói như vậy mà mình lập lại sai một lời hay không đúng là mắc tội Vọng ngữ.

    Chúng tôi vẫn biết hiện nay có nhiều nhà sư, nhứt là ở Miến Điện thuộc lòng ba tạng kinh, lập lại không sai một chữ. Nhưng mà họ thuộc lòng trong sách và nghe thuyết pháp là hai việc khác nhau rất xa. Sau nhiều năm chịu khó nhọc có thể học thuộc lòng một cuốn sách. Nhưng mà nghe một bài thuyết pháp rồi lập lại không sót một tiếng là điều không thể có được. Hễ nhớ khúc đầu là quên khúc giữa, nhớ khúc giữa thì quên khúc đuôi, khúc đầu. Phật thuyết pháp trọn 45 năm không biết bao nhiêu lần, ai dám bảo : “Tôi nhớ hết những lời thuyết pháp đó, không quên một tiếng nào”.

    Trái lại câu : “Bài kinh tôi đã nghe” có ẩn nghĩa. Đây là những điều tôi đã nghe, không biết có thiếu sót điều chi chăng ? Như vậy dầu mình có quên đoạn nào, mình cũng vô tội.

    Thật Phật đã ngừa trước vậy, chẳng những riêng cho các đệ tử của Ngài mà luôn cho các hàng Phật tử đời sau nữa

  10. #10

    Mặc định

    QUAN NIỆM TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO.

    Còn một điều tưởng phải nói là : chúng ta đừng quên rằng Phật giáo phát sanh ở Thiên Trước thì những quan niệm của nó về Triết học và Xã hội học vốn thuần túy và hoàn toàn Thiên Trước chớ không có chịu ảnh hưởng ngoại lai. Những quan niệm triết học của Phật giáo người ta vẫn thấy ở trong kinh Upanishads [14] , những kinh sách dạy ở các trường Nyâya, Védânta và nhứt là Sankhya của Kapila (xin xem đoạn Sáu phái triết học của Ấn Độ).

    Phần nhiều những giới cấm, những lời khuyên răn vẫn giống những lời dạy trong cuốn Luật của Đức Bàn Cổ (Lois de Manou). Một lẽ khác, ba đức tánh trọng yếu của người Bà la môn là :

    Tư tưởng trong sạch,

    Lời nói trong sạch,

    Việc làm trong sạch.

    Ba sợi dây mà người Bà la môn nịt luôn trong mình tượng trưng ba đức tánh đó để trong Đạo Bát Chánh, sau Chánh kiến, tức là :

    Chánh Tư duy,

    Chánh Ngữ,

    Chánh Nghiệp.

    Trong cuốn Pháp Cú (Dammapada), chương chót, chương XXVI “Người Bà la môn” nói toàn là đức tánh của người “thật là Bà la môn”. Ngoài ta còn vài câu khác cũng nói về người Bà la môn như câu thứ 294 – 295 – 332.

    Chúng ta phải tự hỏi tại sao trong kinh sách Phật lại có nói về người Bà la môn nhiều quá vậy. Vì lý do nào ? Phải có chớ. Nhưng ngày nay ít ai đoán trúng được.

    ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO.

    Trong cuốn Phật pháp (Le Dharma du Bouddha) xuất bản năm 1947, tác giả là ông Jagdish Katvapa (Ca Diếp) nơi chương V. trương 64, có đoạn nói về “Đặc sắc của Phật giáo”, tôi xin trích ra đây cho quí bạn xem.

    ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO.

    1.- Đối với các hàng Phật tử thì ba tạng kinh không nên xem như chiếm được một địa vị quan trọng in như Thánh kinh Bíp (Bible - Cựu Ước và Tân Ước) đối với tín đồ Cơ Đốc giáo hay là cuốn Cơ răn (Coran) đối với tín đồ Hồi giáo, hay là những cuốn Phệ Đà đối với dân chúng Ấn.

    2.- Vị Phật tử không hề nô lệ ba tạng kinh. Y không nhắm mắt tin chúng một cách mù quáng như là Chơn lý tuyệt đối do một Đấng Thần minh tiết lộ hay chúng là mục phiêu của sự tín ngưỡng.

    3.- Đức Phật không đòi hỏi đức tin của một ai, dù y không hiểu giáo lý của Ngài ra sao ?

    KALAMA SUTTA (Kinh Kalama).

    4.- Có một lần những người Kalama tới tìm Phật và nói “Bạch Phật ! mấy vị Bà la môn và những vị lãnh đạo nhiều phái khác tới viếng chúng tôi và thuyết đạo, ai ai cũng nói giáo lý của mình đều đúng với Chơn lý. Chúng tôi lấy làm bối rối, không biết phải tin cái nào và phủ nhận cái nào.

    5.- Để trả lời câu hỏi nầy, Đức Phật không nói : mấy anh hãy tin tôi. Tôi là con của Trời. Tôi sẽ dắt mấy anh lên cõi Thiên đường. Ngài cũng không bài xích giáo lý của mấy đạo khác, Ngài không cho nó là tà thuyết dị đoan và phạm thượng.

    6.- Lời khuyên của Ngài rất nhơn đạo và rất khôn khéo. Ngài nói : “Mấy anh đừng tin điều nào chỉ vì tại mấy anh nghe người ta lập lại; đừng tin một điều nào đó bởi vì nó là một truyền thống xưa và đã trải qua từ thời đại nầy tới thời đại khác; đừng tin những tiếng phong vân, những tin đồn đãi bởi vì tại người ta đã nói đến mấy việc đó rất nhiều; đừng tin một điều nào bởi vì tại người ta chỉ cho mấy anh coi một bài của một vị hiền triết thuở xưa viết ra để chứng minh điều đó; đừng tin một điều nào bởi vì tại có sự suy định tán thành lý luận đó, hay là có một phong tục lâu đời làm cho anh có ý tin rằng điều đó đúng với sự thật; đừng tin điều nào chỉ vì tại uy tín Thầy của mấy anh hay là của mấy vị mục sư. Nhưng sau khi kinh nghiệm riêng và suy xét sâu xa rồi thì điều chi hạp với lý trí của mấy anh, đem lại hạnh phúc cho mấy anh và luôn cho các sanh linh khác, thì mấy anh hãy công nhận điều đó là Chơn lý và hãy sống với nó”.

    7.- Người ta có thể khảo cứu giáo lý của Đức Phật và xem xét nó một cách bình tĩnh với trí sáng suốt rồi công nhận nó nếu nó ứng đáp với sự kêu gọi của nội tâm, hoặc phủ nhận nó nếu người ta không hiểu nó.

    Phật giáo không bắt ai phải nhắm mắt tin càn nó, bởi vì một đức tin mù quáng luôn luôn là một chướng ngại cản trở sự tiến bộ trên đường đời.

    Tinh thần Phật giáo vẫn hoàn toàn hợp lý.

    ---------

    Chí lý thay những lời trên đây ! Nhưng nó được mấy người tuân theo.

    Trước nhứt ta nên hiểu, Đức Phật không để một chữ nào cả và lối 300 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, ba tạng kinh mới viết ra thành sách sau cuộc Hội nghị Phật giáo lần thứ ba. Thế thì ai dám nói không có sự sửa đổi trong bản chánh và hơn nữa người mới học đạo không bao giờ có một tiêu chuẩn để nhận thức được lời nầy vốn thiệt của Phật nói, còn lời khác thì không phải. Vì vậy đụng đâu tin đó.

    Đoạn kinh trên đây rất hữu ích cho các hàng Phật tử đi tìm chơn lý. Nó thuộc về chánh kiến tức là phải mở trí phân biệt cái nào chơn, cái nào giả, cái nào tạm thời, cái nào vĩnh viễn trường tồn.

    Nó không hề bảo : Không nên xem kinh kệ. Chẳng phải như thế đâu. Đọc kinh nào thì phải tìm hiểu kinh đó muốn dạy con người làm cái chi, rồi suy nghĩ nếu đem áp dụng vào đời sống hằng ngày thì có hiệu quả nào. Sự thật là không có một cuốn kinh sách công truyền nào diễn tả được phân nửa tư tưởng của tác giả. Tác giả có những ý kiến tốt đẹp mà chừng đem viết ra thì thấy không bao giờ được hay như lúc mình đã suy nghĩ. Ấy tại cái óc chúng ta chưa được mảnh mai, chưa ứng đáp được với nhiều làn rung động mau lẹ của những tư tưởng cao siêu.

    Thật sự, chơn lý ở khắp mọi nơi, trên trời, dưới đất, trong gió mây, sương tuyết, sông biển, núi non; trong mình con người, thú vật, thảo mộc, kim thạch đều có chơn lý.

    Cảnh vật thiên nhiên là một cuốn sách lớn chứa đầy chơn lý. Nếu học được phương pháp đọc và hiểu rõ cuốn sách nầy thì còn hay hơn là đọc kinh kệ cả trăm bận.

    Nhưng tất cả những điều bí mật của sự sanh hóa Thái dương hệ thâu gọn trong mình con người bởi vì con người là Tiểu Thiên Địa. Trong con người có :

    Tiểu Thượng Đế là Chơn thần . . . và tất cả những chất khí đã lập ra những cõi Trời. Học hỏi ở ngoài thì lâu lắc, nhọc nhằn mà cái kết quả của ta mong muốn lại thường không được tốt đẹp lắm. Con người phải học hỏi thân mình mới mau lẹ và dễ dàng.

    Vì mấy lẽ trên đây nên thuở xưa mới có câu châm ngôn : “Ngươi hãy biết ngươi [15] rồi ngươi sẽ biết Vũ trụ và các vị Thượng Đế”.

    Một mặt khác chúng ta cũng nên hiểu kinh sách đạo đức công truyền cũng như những tấm bảng để chỉ đường ngay nẻo thẳng cho ta đi đặng tránh những cạm bẫy và hầm hố chông gai.

    Nếu mỗi ngày ta cứ xem mấy tấm bảng ấy và đọc những hàng chữ ghi trên đó rồi ta đứng một chỗ dậm cẳng mãi mà không cất bước ra đi thì đừng nói vài chục năm, mà ba chục ngàn năm nữa ta cũng chưa đi đến mục tiêu mà ta đã định. Thật đúng với câu : “Người được kêu gọi thì nhiều, mà người được chọn lựa thì ít” (Beaucoup d’appelé, peu d’élus).

    Ông Jagdish Kasyapa nói rất đúng. Nếu người Phật tử không nô lệ ba tạng kinh thì chẳng bao giờ nhắm mắt tin càn những kinh sách khác ngoài ba tạng. Thật vậy, tất cả những kinh sách không phải toàn là do những vị đắc đạo viết ra. Ngày nay ta thấy có nhiều cuốn sách đề Phật dạy cái nầy, Phật dạy cái kia. Tổ nầy bàn như thế nầy, Tổ kia bàn như thế kia. Người đời sau sanh đồng thời với chúng ta làm sao biết được chỗ nào hư, chỗ nào thật mà tin, bởi vì không phải mỗi người mới học đạo mở được Trực giác nên không lầm. E cho không phải Phật nói hay là Chư Tổ nói mà chính là tác giả nói, và như thế họ phạm hai tội : Vọng ngữ và Vu cáo Phật và Chư Tổ một cách trắng trợn.

    Thầy Mạnh có nói : “Tận tín thư bất như vô thư”.

    Đức Lục Tổ Huệ Năng há chẳng bảo :

    Lòng mê Pháp Hoa chuyển

    Lòng ngộ chuyển Pháp Hoa

    Châm ngôn đạo đức Tây phương có nói :

    Văn tự giết chết mà Tinh thần dưỡng sanh.

    (La lettre tue mais l’Esprit vivifie)

    Ông Vivekananda – Ngài tên thật là Narendranath Dutt, Ngài lấy tên là Vivekananda lúc Ngài đi qua Mỹ châu năm 1893. Ngài bỏ xác lúc 39 tuổi – đệ tử của đức Ramakrishna, cũng có nói : “Hãy đọc những cuốn Phệ Đà, nhưng khi anh hiểu chúng nó rồi thì hãy dẹp chúng nó qua một bên và hãy tự kinh nghiệm riêng lấy mình”.

    Tất cả những người biết Đạo và hành Đạo vẫn đồng một quan điểm với nhau.

    Phật giáo muốn cho các tín đồ khỏi mắc cái họa mê tín dị đoan , tức là phải tự giác và mở rộng lòng khoan dung, cho nên mới căn dặn : “Điều nào mà các hàng Phật tử sau khi đã kinh nghiệm và suy xét sâu xa thấy nó đem hạnh phúc cho mình và cho những kẻ khác thì hãy công nhận nó là chơn lý và sống với nó”.

    Chắc chắn là sau khi đem áp dụng những lời dạy trong đoạn kinh Kalama Sutta vào đời sống đạo đức của mình thì các hàng Phật tử tiến rất mau.

    PHẬT ĂN CHAY HAY ĂN MẶN ?

    Còn một vấn đề phải giải quyết là : Phật ăn chay hay ăn mặn ? Nêu câu hỏi nầy ra thì sẽ có nhiều bạn đưa ra hai lý lẽ sau đây :

    Một là : Khi đi bát, người ta cho cái chi thì mình dùng cái nấy, đừng phụ lòng người. Miễn là mình đừng sát sanh thì thôi.

    Hai là : Bằng chứng cụ thể là Phật ăn thịt heo của anh thợ rèn Cung Đa (Counda) đãi nên bỏ mình. Nói trắng ra là Phật ăn mặn.

    Nhưng sự thật là hai lý lẽ nầy không có cái nào đứng vững cả.

    Tôi xin trưng những bằng cớ sau đây :



    I

    Trong quyển thứ nhì của bộ sách Đời sống của Đức Phật theo kinh Trung Hoa, tác giả là ông cố đạo Léon Wieger nơi trương 170 có bài nầy :

    ĐỘ BỔ LẠP NHƠN

    Pháp Cú kinh vân : La duyệt chi quốc (Rajagriha) hữu sơn. Sơn hạ nhơn sinh trưởng sơn lâm, sát lạp vi nghiệp. Phật chỉ kỳ sở, tọa ư thọ hạ. Phật phóng quang minh chiếu diệu sơn trung mộc thạch, giai kim sắc. Sơn trung nam tử câu xuất hành lạp; duy hữu phụ nữ kiến Phật quang minh, lai chỉ Phật sở, tất giai lễ bái. Phật tức vi chư mẫu nhơn thuyết sát sinh chi tội, hành từ bi chi phước. Ân ái nhứt thời hội hữu biệt ly. Chư mẫu nhơn bạch Phật ngôn; sơn nhơn vụ lạp dĩ nhục vi thực. Dục thuyết vi cung nguyện đương nạp thọ.

    Phật ngôn : “Chư Phật, chư pháp, bất dĩ nhục thực, bất tu phục biện. Nhân cáo chi viết: Phù nhơn sinh thế, sở thực vô số, hà dĩ bất tác hữu ích chi thực, nhi tàn hại quần sinh dĩ tự tễ hoạt tử đọa ác đạo, tổn nhi vô ích. Nhơn thực ngũ cốc tăng diên thọ mạng, sát sinh thực nhục đa bịnh yểu vong. Sát bỉ hoạt kỷ tội nghiệp vô lượng. Từ nhân bất sát sở thích vô hoạn.

    Nam tử lạp hoàn, kiến chư phụ nữ giai tọa Phật tiền, sân khuê loan cung dục đồ hại Phật. Chư phụ gián viết : Thử thi Thánh nhơn, vật hưng ác ý, tức các hối quá, vi Phật tác lễ. Phật trùng vi thuyết bất sát chi phước, tàn hại chi tội. Nhơn giai bất sát hành đại nhân từ, đương mẫn chúng sinh bác ái tế chúng, phước thường tùy thân, tại sở đắc lợi, tử thăng Phạn thiên. Lạp nhơn văn dĩ, hoan hỉ tín thọ, giai thọ ngũ giới.
    (Trích ở quyển Les vies chinoises du Boudha par Léon Wieger trang 170 tome II.)

    PHẬT ĐỘ THỢ

    Kinh Pháp Cú nói : “Ở nước La duyệt Chi (Rajagraha) có nhiều núi non. Người sanh trưởng ở chơn núi đểu chỉ chuyên nghề săn bắn.

    Phật đến nước đó, ngồi dưới gốc cây đại thọ. Hào quang Phật phóng ra một màu vàng chói chiếu khắp rừng núi, cây đá. Đàn ông ở đây đều vào non săn bắn, chỉ có đàn bà con gái ở nhà. Những người nầy thấy hào quang sáng chiếu của Phật, mới tìm đến nơi ngồi, đồng làm lễ bái Phật. Phật nhơn đó giải cho các phụ nữ ấy nghe rằng : “Hễ giết hại sanh vật thì mắc tội, còn làm lành thì được hưởng phước và sự ân ái cũng chỉ một thời, chung cuộc rồi cũng phải biệt ly nhau v. v. . .” . Các phụ nữ ấy nghe xong bạch với Phật rằng : “Dân ở núi đây chỉ chuyên nghề săn bắn nuôi sống nên phải sát sanh”.

    Phật nói : “Các vị Phật xưa đều dạy không nên dùng thịt, nên ta không còn khuyên gì khác nữa”. Phật lại giảng : “Người sanh trên thế, vật nuôi sống vô số, tại sao không ăn những vật bổ ích cho mình mà phải sát sanh hại vật để nuôi sống, rồi khi chết phải bị đọa vào ác đạo. Con người nên ăn ngũ cốc để mạnh khỏe, lại sống lâu. Giết thú vật lấy thịt ăn phải mang nhiều bịnh lại còn chết yểu. Sát sanh mang tội không lường, còn có lòng nhân không thích sát sanh thì được hưởng phước lành vậy”. Lúc đó các thợ săn đều về đến, thấy đám phụ nữ đang ngồi trước mặt Phật, liền nổi giận, giương cung chực bắn Phật. Song các vợ con họ đều ngăn lại và bảo rằng : “Đây là bực Thánh nhơn, đừng nóng lòng ác đối với Ngài. Tất cả thợ săn nghe vậy đều đến xin lỗi Phật và đảnh lễ Ngài. Phật mới giảng lại những điều Phật đã giảng cho các phụ nữ khi nảy cho các thợ săn nghe rằng sự không sát hại sanh linh là phước, mà sát sanh là tội. Người không còn sát sanh tức là lập hạnh đại từ bi, biết lân mẫn rộng thương giúp đỡ chúng sanh nên phước liền theo thân, rất là lợi ích, lúc thác được về cõi Trời Phạm Thiên. Các thợ săn nghe Phật thuyết xong đều hoan hỉ tuân theo, đồng thọ ngũ giới.

    (Tạm dịch theo “Độ bổ lạp nhơn” trong quyển Les vies chinoises du Boudha của éon Wieger trang 170 - cuốn thứ II.)

    Bài nầy chứa đựng ba ý nghĩa sâu xa.

    Một là : Các vị cổ Phật đều dạy con người không nên dùng thịt, cho nên Đức Thích Ca không còn khuyên gì khác hơn nữa.

    Hai là : Ăn ngũ cốc, thân thể khỏe mạnh lại sống lâu.

    Ba là : Giết thú vật lấy thịt ăn, phải mang nhiều bịnh, thác yểu lại còn mắc tội.

    Nó chứng chắc Đức Thích Ca không bao giờ ăn mặn. Nếu Ngài dùng thịt thì không phải là Phật nữa vì Ngài làm trái với những vị Phật đời trước. Ngài khuyên người ta không nên dùng thịt khi Ngài còn ăn thịt thì những lời dạy dỗ của Ngài không có giá trị chi cả. Lời nói và việc làm của Ngài không đi đôi với nhau. Như vậy còn ai tin Ngài nữa, còn ai nghe Ngài nữa. Ngài không làm gương cho người ta bắt chước theo và chẳng khác nào những kẻ đã bảo : “Anh hãy làm theo những lời của tôi nói mà đừng làm những điều tôi đương làm đây”.

    Bài nầy rành rẽ lắm, không có chi gọi là mờ ám : “Người tu hành không nên dùng thịt”.



    II

    Chuyện thứ Nhì

    Bà Ambapâli (cũng có một tên nữa là Amra) thỉnh Phật và các đệ tử của Ngài về nhà dùng bữa. Bà dọn ra cơm trộn mật và bánh ngọt mà đãi.

    Nguyên văn chữ Pháp

    Alors Ambapâli, la courtisane, plaçe le riz sucré et les gâteaux,, devant les moines, le Bouddha étant à leur tête les servit jusqu’à ce qu’ils refusassent de manger davantage.

    (Avangile du Bouddha par Carus page 268).

    -------------

    Bà Ambapâli giàu sang tột bực, bà dư sức mua 100 ngàn con heo làm thịt dâng đãi Phật và các đệ tử. Nhưng tại sao mà bà không dọn đồ mặn. Vì lẽ bà biết Phật và các đệ tử trường chay. Thử hỏi, người ta biết mình tu hành ăn chay thì lúc mình đi bát, người ta có dám đem thịt cá dâng cho mình ăn không ? Bởi tại mình không kiêng cữ thịt nên người ta mới đem mấy thứ món đó độ mình.

    40 năm nay, đọc nhiều sách Phật chữ Pháp, tôi chỉ thấy người ta dâng cho Phật sữa, cơm trộn mật và bánh ngọt mà thôi. Tôi chưa gặp đoạn nào nói Phật dùng thịt cả.

    Người thường còn ở trong vòng trần tục hay là người học đạo mà chưa hành đạo thì được quyền tự do, muốn ăn uống cách nào cũng được. Trái lại, một người tu trì, một người đã được vào hàng đệ tử rồi thì phải trường chay. Đó là luật đạo, đúng theo cơ trời, bên chánh đạo không ai dám cãi. Không một nhà Huyền bí học nào tin rằng : “Phật ăn mặn cả”.

  11. #11

    Mặc định

    CHÚNG TÔI KHÔNG BAO GIỜ TIN RẰNG

    ĐỨC PHẬT ĂN THỊT HEO NÊN NGÀI BỎ XÁC.

    Chúng tôi không bao giờ tin rằng tại Đức Phật ăn thịt heo nên Ngài bỏ xác do những lý lẽ sau đây :

    Một là :Theo bài “Phật độ thợ săn” thì không bao giờ Ngài dùng mặn. Anh thợ rèn Cung Đa (Counda) đâu dám dọn thịt heo ra đãi, mà dầu anh không biết nên mới làm như vậy, Phật cũng không ăn đâu.

    Hai là : Theo ông Oldenberg thì chữ Phạn dịch là thịt heo có nhiều nghĩa khác nhau, như là xương ngực của con heo; hoặc nấm của con heo đào. Nói rằng Phật ăn nấm của con heo đào thì còn có lẽ đúng hơn.

    Ba là : Không bao giờ đồ ăn hay là bịnh làm hại xác thân Ngài được. Tới bực Chơn Tiên, dưới Phật ba bực mà còn cầm được quyền sanh tử trong tay, huống chi là Ngài. Bằng chứng là đoạn nầy “. . . Đức Phật qua sông. Ngài đi về Vaisali. Nhưng tới làng Bailva, Ngài phát bịnh nặng. Ngài đau đớn dữ dội. Ananda khóc lóc tưởng Ngài chết. Nhưng Ngài dùng nghị lực trị lành bịnh và mạnh như thường.

    Bốn là : Tới Vaisali rồi Ngài vô ngồi nghỉ trong thánh điện Tchapala. Ma vương hiện ra nói : “Bạch Phật; đã đúng ngày giờ rồi, Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn đi”. Phật đáp : “Ma vương ơi ! chưa đến lúc đó đâu. Ta biết hơn Ma vương ngày giờ nào ta lìa cõi thế. Ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết Bàn”.

    Năm là : Trong lúc ở tại thánh điện Tchapala, Phật nhứt định bỏ xác tại Kousinagara [16] . Phật bèn tỏ cho Ananda biết ý định của Ngài. Ananda bèn cầu khẩn xin Ngài ở lại trong Kalpa (Đại kiếp) nầy. Phật mới nói : “Ananda ơi ! lời cầu khẩn của con đã trễ rồi. Ta nhứt định nhập Niết Bàn”. Ananda nài nỉ Phật ba lần như vậy. Phật ở lại Bhagagama một ít lâu rồi Ngài đi Pâvâ.

    Sáu là : Tới Pâvâ, anh thợ rèn Cung Đa mới thỉnh Phật về nhà anh. Sau khi dùng bữa, Ngài ra đi. Khỏi Pâvâ một đỗi thì bịnh kiết nổi lên dữ dội. Phật rất mệt mỏi, nhưng Ngài làm cho sức lực phục hồi rồi tiếp tục ra đi. Tới mé rạch Kakoutsha Ngài xuống tắm, uống nước rồi mới đi vô một cái vườn xoài. Ngài bảo Cung Đa Ka ( Coundaka) lấy áo cà sa xếp làm tư trải xuống đất cho Ngài nằm ngủ. Vài giờ sau Ngài thức dậy rồi đi nữa. Tới Kousinagara Ngài mới bảo Ananda làm một chỗ nằm chính giữa hai cây Sala đầu day về hướng Bắc.

    Đoạn nầy chứng chắc một lần nữa Ngài đã thắng phục được bịnh. Nếu thịt heo làm hại xác thân của Ngài được thì khi ra khỏi Pâvâ một đỗi Ngài đã nằm liệt rồi ? Ngài bỏ mình tại đó chớ đâu còn sức lực xuống dưới rạch tắm và tiếp tục đi tới Kousinagara được. Từ Pâvâ tới Kousinagara có lẽ cũng xa cho nên Ngài đã nghỉ hai chặng đường.

    Hiểu mấy đoạn trên đây ta thấy rõ, nếu hai phen Ngài đã dùng quyền năng trị lành bịnh thì Ngài cũng có thể dùng quyền năng kéo dài sanh mạng tới bao lâu cũng được. Mà tại sao xác Ngài chết. Ấy tại Ngài nhứt định bỏ nó. Ngài đã nói điều đó với Ma vương và Ananda ba tháng trước rồi. Bằng cớ còn rành rành đó. Đời sau đổ lỗi cho anh thợ rèn Cung Đa thì rất là oan cho anh. Tội nghiệp cho anh lắm. Ta nên giải oan cho anh.

    Sự thật là dầu không dùng bữa tại nhà anh thợ rèn đúng kỳ hạn Phật cũng từ giả cõi trần vậy.

    Thế thì riêng phần tôi, câu chuyện Phật ăn mặn và bị thịt heo rừng làm cho Ngài bỏ mình đã giải quyết xong. Nó không đúng với sự thật, nhưng tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng.



    NGHĨA BÓNG CỦA CÂU CHUYỆN PHẬT ĂN THỊT HEO MÀ BỎ MÌNH.

    Theo thần thoại Ấn Độ, Đức Thượng Đế VISHNOU hóa hình heo rừng dẫy đất trên không gian mà lập ra quả địa cầu của mình, đạo Bà la môn thờ đức VISHNOU.

    Câu chuyện Đức Phật ăn thịt heo rừng mà chết có nghĩa bóng là đạo Bà la môn tiêu diệt đạo Phật.

    Quả thật, bắt đầu từ thế kỷ thứ V đạo Phật đã suy đồi. Nếu tôi nhớ không lầm thì sau khi nể lời cầu khẩn của Ananda, Đức Phật thâu nhận bà “Dì” là Mahaprajapati vào giáo hội, Ngài có nói câu nầy : “Ananada ơi ! giáo pháp của ta chỉ còn giữ được có 500 năm mà thôi”. Thật đúng như vậy.

    Qua thế kỷ thứ XI, đạo Bà la môn đã quét sạch đạo Phật ra khỏi xứ Ấn Độ, không còn dấu vết của một cái chùa nào cả. Cảnh vật điêu tàn.

    Ta hãy thử tìm hiểu nguyên nhân làm cho Phật giáo mau tàn tạ ở Ấn Độ, là chỗ Đức Phật giáng sanh và truyền đạo. Nói truyền đạo thì e sái một chút bởi vì đạo Phật có ý cải cách Ấn Độ giáo hơn là lập một đạo mới, nhưng điều đó không thuộc về phạm vi cuốn nầy.

    NGUYÊN NHÂN LÀM CHO PHẬT GIÁO MAU TÀN TẠ Ở ẤN ĐỘ.

    Có ba nguyên nhân kết cấu lại làm cho Phật giáo mau tàn tạ trên đất Ấn. Nguyên nhân đầu tiên thuộc về Huyền bí, còn hai nguyên nhân sau vốn thông thường.

    NGUYÊN NHÂN HUYỀN BÍ.

    Theo luật Trời, mỗi Đức Bồ Tát sau khi thành Phật thì phải xuống thế dạy đạo một lần chót.

    Thế nên, trước khi lâm phàm lần cuối cùng, Đức Bồ Tát mà ngày nay mình gọi là Đức Phật Thích Ca, sắp đặt cách nào cho các vị đệ tử của Ngài mấy kiếp trước đi đầu thai, hoặc một lượt với Thái tử Sĩ Đạt Ta, hoặc một vài năm sau hay trước. Chừng Phật ra truyền đạo thì mấy vị nầy trở về với Ngài.

    Một mặt nhờ từ điện của Ngài sau khi Ngài thành Phật, một mặt nhờ công phu luyện tập theo chánh pháp cho nên nhiều vị đệ tử của Ngài đắc quả La Hán như Ma Ha Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Kiều Trần Như, Xá Lợi Phất, A Nan Đa, Chullapanthaka v. v. . .

    Lúc nầy đạo Bà la môn phải lu mờ trước Phật giáo. Sau khi Phật nhập Niết Bàn một ít lâu thì các vị đệ tử lớn cũng lần lượt nối gót nhau mà qui vị. Mặt trời đã chen lặn và các ngọn đèn pha đã tắt hết rồi thì cảnh vật chìm đắm trong đêm tối, con người phải lần mò mà đi.

    NGUYÊN NHÂN THỨ NHÌ

    Nguyên nhân thứ nhì là sự chia rẽ của các giáo phái, bởi những chỗ bất đồng ý kiến. Vì vậy các giáo phái bị cô lập và yếu thế. Lời xưa nói không lầm. Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.

    Trước sự tấn công mãnh liệt và liên tiếp của đạo Bà la môn, mỗi giáo phái phải tìm cách tự vệ và tự nhiên không giáo phái nào đủ sức ngăn chống nổi. Giáo phái nầy bị hạ rồi thì tới giáo phái khác. Đây là một cái gương để cho đoàn hậu tấn soi chung.

    NGUYÊN NHÂN THỨ BA

    Ở cõi trần, nguyên nhân thứ ba nầy rất quan trọng. Nó là chướng ngại hết sức lớn lao mà tất cả các tôn giáo từ xưa tới nay đều vấp phải và không khéo thì phải sụp đổ. Ấy là sự quá ư sung sướng về vật chất làm mất tinh thần sùng bái đạo đức và tăng cường sức mạnh của tánh ích kỷ tham lam, kiêu căng tự phụ của các tín đồ. Họ không giữ giới hay là giữ cho có lệ chớ không phải thật là dọn mình cho trong sạch đặng xứng đáng thọ lãnh chơn truyền.

    Vì vậy cho nên cửa Đạo đóng kín từ thế kỷ nầy qua thế kỷ nọ để chờ những người có thiện căn, những người có đủ những đức tánh cần thiết tới chứng đó thì Đạo sẽ mở cửa đặng rước vào. Mấy lời trên đây có đúng hay không xin quí bạn đọc đoạn bình luận sau nầy về sự suy đồi của Phật giáo của ông L. de Milloné tác giả cuốn Đạo Phật trên thế gian trương 216. ( Le Bouddhisme dans le monde page 216).

    On croit généralement que le Bouddhisme est mort d’épuisement, énervé par la richesse des monastère, ruiné par le manque d’énergie du clergé abandonné par ses fidèles séduit par le culte éminemment populaire du Dieu Homme Krishna inventé ou tout au moins présenté par les Brahmannes afin de contre balancer l’homme Dieu Bouddha.

    XIN TẠM DỊCH.

    Đại để người ta tưởng rằng đạo Phật chết mòn vì bị sự giàu sang của chùa chiền làm cho suy nhược, sụp đổ bởi vì Giáo hội Tăng già mất hết khí phách nghị lực, bị bỏ rơi bởi vì các tín đồ say mê sự tôn thờ Đấng Krishna, là Đức Thượng Đế hóa thân làm người, được phổ biến khắp dân chúng, vốn của người Bà la môn bịa đặt hoặc giả đề xướng để đối phó với Đức Phật là con người thành Đức Thượng Đế.

    --------

    Người học đạo và hành đạo không phê bình mà cũng không xét đoán ai cả vì biết rằng trên đường tu hành sẽ gặp những cảnh ngộ éo le, khắc nghiệt. Chưa ai dám tự phụ rằng mình sẽ đứng vững trước những sự thử lòng mà không sa ngã. Tốt hơn cứ lặng thinh mà đi tới. Cười người tháng trước, tháng sau người cười. Luật Nhân quả Báo ứng không bao giờ dung tha một ai.

    Nhưng xe trước gãy, xe sau phải tránh. Ta thấy gương người xưa, rồi thì ta phải thận trọng, dè dặt từ chút không dám buông lung và phải luyện ý chí cho cứng cỏi. Sắt không đem nung lửa đỏ, không đem trui nhiều bận thì không bao giờ trở nên thép cứng rắn để dùng vào những việc hữu ích cho đời.

    Mà cũng đừng bao giờ quên rằng đời là một cái trường học lớn, nếu ham học và biết học thì tiến mau, nhược bằng lười biếng không cố gắng thì phải rớt sau xa lắc trong khi các bạn đồng hành vượt tới trước cả chục cây số rồi.

  12. #12

    Mặc định

    CHƯƠNG THỨ BA


    MỘT VẤN ĐỀ NAN GIẢI :

    AI LÀM CHỨNG RẰNG ĐỨC THÍCH CA THÀNH PHẬT ?

    VÀ PHẬT KHÔNG PHẢI CÓ NGHĨA “GIÁC” MÀ THÔI –

    HUYỀN BÍ HỌC HAY LÀ KHOA HÌNH NHI THƯỢNG HỌC CỦA CÁC TÔN GIÁO.



    Bây giờ có một vấn đề nan giải là : Ai làm chứng rằng Đức Thích Ca thành Phật ? Cũng như ai làm chứng rằng Đức Jésus Christ là con của Đức Thượng Đế và là Đấng Cứu Thế ? Ai làm chứng rằng Moise và Mahomet là hai nhà tiên tri được Jéhovah và Allah phò hộ ?

    Nói rằng ông Asita thấy Thái tử có 32 tướng nên biết Ngài thành Phật thì chưa đúng với chánh lý. Thử hỏi nếu hai ông : Ru trà Ca (Roudraka) và Arata Kâlâma, mỗi ông đều nói khác nhau : ông X sẽ thành Phật, ông Y sẽ thành Phật, trong ba vị ta phải tin vị nào bây giờ ? Ai là Phật thiệt, ai là Phật giả ?

    Có một tiêu chuẩn nào để chứng chắc rằng mình không lầm chăng ? Cũng như người ta nhờ nước át xít nên mới biết vàng nào thiệt vàng nào giả.

    Nói rằng Đức Thích Ca ngồi dưới gốc cây Bồ Đề tri ra thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên nên đắc quả Phật thì lý do đó không vững. Thành Phật có đâu dễ dàng như thế. Trong kinh nói rằng trước phải làm Bồ Tát sau mới thành Phật. Vậy thì phải có những điều kiện nào mới được thành Phật ? Không một ai biết cả . . .

    Trong kinh cũng nói Đức Phật vị lai thế cho Đức Thích Ca là Đức Di Lạc Bồ Tát (Maîtreya). Thế thì từ 2.500 năm đã trải qua từ lúc Đức Phật ra đời cho tới ngày nay, Đức Di Lạc vẫn còn ở ngôi Bồ Tát chớ chưa thành Phật. Vậy bây giờ Ngài ở đâu ? Tới chừng nào mới thành Phật ? Vấn đề nầy thuộc về thần bí không ?

    Nếu kiếp chót Đức Thích Ca thành Phật thì kiếp trước Ngài đã làm một vị Bồ Tát. Đã làm một vị Bồ Tát mà không biết vô minh là cội rễ của Luân hồi, phải đợi ngồi dưới gốc cây Bồ Đề tham thiền 6 năm trời mới tri ra thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên và nhờ đó mới thành Phật ư ? Chúng tôi không bao giờ tin như vậy.



    TẠI LÀM SAO CHÚNG TÔI KHÔNG TIN RẰNG ĐỨC THÍCH CA

    NHỜ TRI RA THUYẾT THẬP NHỊ NHƠN DUYÊN NÊN THÀNH PHẬT.

    Vì hai lý do sau đây :

    1.- Lý do thứ nhứt : Đức Thích Ca nhớ chuyện kiếp trước.

    Thầy của Thái tử là ông Vicvamitra, dạy Thái tử viết, Thái tử bèn hỏi : “Bạch Thầy ! Thầy dạy tôi chữ nào ?”, hỏi rồi Ngài kể 64 thứ chữ khác nhau và hỏi thêm : “Trong 64 thứ chữ nầy, Thầy dạy tôi thứ chữ nào ?”

    Vicvamitra lặng thinh sửng sốt, nhưng ông cũng rán nói : “Thái tử kể cho nghe những thứ chữ mà tôi chỉ nghe tên thôi, Ngài cũng kể cho tôi nghe những thứ chữ mà tôi chửa nghe tên nữa. Tôi còn cái chi mà dạy Thái tử bây giờ”.

    (Đời sống của Đức Phật theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 25).

    Trong cuốn Ánh Sáng Á Châu trương 34 cũng có thuật chuyện Thái tử viết câu thần chú Gayatri :

    Om Tatsaviturvarenyam . . . ra nhiều thứ chữ như Nagri, Dakshin, Nî, Mangal Parousha, Yava, Tirthi, Oûk, Darad, Sikhyani, Mana, Madhyachar . . . và đếm tên từ đơn vị cho tới cả tỷ tỷ.

    Kiếp nầy Thái tử không học mà biết tức là nhớ lại những điều đã học kiếp trước. Vậy thì tại sao Ngài lại quên phứt ngôi vị của Ngài là Đức Bồ Tát nên phải thất công đi tìm lại Đạo ? Một người thường, trong câu chuyện “Thay hồn đổi xác”, hồn ma còn nhớ những chuyện kiếp trước của mình thay, huống chi là Ngài, một Đấng Chí Tôn chủ tể các Thần tiên.

    2.- Lẽ thứ nhì : Từ ngàn xưa người ta đã biết vô minh là cội rễ của các tội lỗi và sự Luân hồi rồi.

    Theo lẽ những điều người ta phát minh phải mới mẻ, khác hẳn những điều mà thiên hạ đã biết xưa nay.

    Nói rằng Đức Bồ Tát tri ra thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên thì có nghĩa Đức Thích Ca là người thứ nhứt từ ngàn xưa biết được vô minh là cội rễ của sự Luân hồi . . . , và trước Ngài không ai rõ được điều nầy cả.

    Sự thật thế nào ? Đọc sách nói về Ai Cập giáo, tôi thấy 16.000 năm trước (có thể nói 80.000 năm trước vì theo Huyền bí học, Kim Tự Tháp Khéops đã xây dựng 80.000 năm rồi; sau Khéops mới khắc tên mình vô đó). Các Chơn Sư bên Ai Cập đã dạy vô minh là cội rễ của Luân hồi và những người học đạo từ thời Át lăn tích, cả triệu năm trước cho tới nay đều phải trừ khử vô minh mới đắc đạo thành chánh quả.

    Xin quí bạn đọc ba đoạn dưới đây.

    I

    Lời Pimandre dạy Hermès.

    Trong cuốn Pimandre, ông Hermès là đệ tử còn đương học đạo, Pimandre là ông Thầy dạy Hermès như vầy :

    Avant tout, il faut déchirer cette robe que tu portes, ce vêtement d’Ignorance, principe de la méchanceté, chaîne de corruption,enveloppe ténébreuse, mort vivant, cadavre sensible, tombeau que tu portes avec toi, voleur domestique, ennemi dans l’amour, jaloux dans la haine. Tel est le vêtement ennemi don’t tu es revêtu, il t’attire en bas vers lui de peur que le spectacle de la vérité et du bien ne te fasse haïr sa méchanceté. Découvrir les embûches qu’il te dresse. Obscurcissant pour toi ce qui nous semble clair, t’étouffant sous la matière, t’enivrant d’infâmes voluptés afin que tu ne puisses entendre ce que tu dois entendre, voir ce que tu dois voir.

    (Pimandre)

    Xin tạm dịch

    Trước hết phải xé cái áo của con đương bận đây : cái áo vô minh nầy là nguyên nhân của sự hung ác, nó cám dỗ, nó lung lạc để buộc trói, nó là lớp vỏ tối tăm, một kẻ chết mà sống, một cái thây ma còn biết cảm động, một cái mồ mà con mang theo mình, nó là tên ăn trộm trong nhà, kẻ tình địch trong sự yêu thương, kẻ ghen ghét trong sự thù hận. Cái áo thù nghịch mà con đương mặc vẫn như thế đó, nó lôi kéo con xuống thấp đặng ở với nó vì nó sợ một khi con thấy được Chơn lý và điều thiện rồi thì con oán ghét sự hung ác dữ tợn của nó; nó sợ con khám phá được cạm bẫy của nó gài con; nó làm cho con thấy đen tối cái điều mà đối với chúng ta thật là minh bạch, nó đem những sự khoái lạc nhơ nhớp mê hoặc con; nó bóp nghẹt con ở trong vật chất đặng con không nghe được cái điều con phải nghe, không thấy được cái điều con phải thấy.

    Pimandre

    II

    Lời Hermès dạy Tat về vô minh

    Sau Hermès đắc đạo rồi dạy lại đệ tử tên Tat như vầy :

    Hermès – Les sens perçoivent ce qui s’élève comme le feu, ce qui descend comme la terre, coule comme l’eau, souffle comme l’air : mais comment pourrais tu saisir, par les sens, ce qui n’est ni liquide, ni dur, ni mou, ce qui se conçoit seulement en puissance et en énergie ? POUR COMPRENDRE LA NAISSANCE EN DIEU IL TE FAUT L’INTELLIGENCE SEULE – Tat demandèa son père “J’en suis donc incapable” ? et le Père lui répond avec bienveillance et douceur.

    Ne désespère pas, mon fils, ton désir s’accomplira, ta volonté aura son effet, endors les ensations corporelles et tu NAITRAS EN DIEU. Purifie toi des bourreaux aveugles de la matières.

    - J’ai donc des bourreaux en moi ? S’étonne Tat.

    - Ils sont redontables et nombreux répond Hermès. Le premier, dit Hermès,est l”Ignorance, le second est la tritesse, le troisième, l’Intempérance, le quatrième, la Concupiscence, le cinquième, l’Injustice, le sixième, l’avarice, le septième, l’Erreur, le huitième, l’Envie, le neuvième, la Ruse, le dixième, la Colère, le onzième, la Témérité, le douzième, la Méchanceté. Ils sont douze et ont sous leurs ordres un plus grand nombre intérieur aux passions des sens. Ils s’éloignent peu à peu de celui que Dieu a pris en pitíe et voilà en quoi consistent le Mode et la Raison de la Renaissance.



    Xin tạm dịch

    Cái nào bay lên như lửa, cái nào rớt xuống như đất, cái nào chảy như nước, thổi như gió thì giác quan nhận thức được, Chớ con có thế nào dùng giác quan để hiểu biết được cái gì không phải là chất đặc, không phải là chất lỏng, cái gì không cứng, không mềm, cái gì mà chỉ biết được bằng Đại hùng, Đại lực mà thôi. MUỐN HIỂU ĐƯỢC SỰ SANH VÀO CÕI TRỜI (của Đức Thượng Đế) phản bổn hoàn nguyên là thế nào thì con phải dùng một mình trí huệ mà thôi.

    Tát bèn bạch với Sư phụ : “Con không đủ sức hiểu điều đó sao” ?

    Hermès bèn trả lời một cách dịu ngọt rằng : “Con chớ ngã lòng, con sẽ đắc kỳ sở nguyện, nghị lực của con sẽ có kết quả. Con hãy làm tê liệt những sự cảm giác của xác thịt thì con sẽ được sanh vào cõi Trời.. Con hãy quét sạch những kẻ tả đạo mù quáng của vật chất ở trong mình con.

    Tat lấy làm lạ bèn thưa : “Trong mình con có những kẻ tả đạo sao” ?

    Hermès bèn đáp : “Chúng nó đáng sợ và đông lắm”.

    Đứa thứ nhứt là vô minh, đứa thứ nhì là sự buồn bực, đứa thứ ba là vô độ, đứa thứ tư là dâm dục, đứa thứ năm là sự bất công, đứa thứ sáu là sự bỏn sẻn rích róng, đứa thứ bảy là sự lầm lạc, đứa thứ tám là sự ganh hiền ghét ngỏ, đứa thứ chín là mưu kế, đứa thứ mười là nóng giận, đứa thứ mười một là tánh táo bạo, hữu dõng vô mưu, đứa thứ mười hai là sự hung ác. Cả thảy là mười hai đứa mà bọn thủ hạ của chúng còn đông lắm. Do cái ngục của giác quan chúng nó làm cho linh hồn (hay chơn nhơn) say mê những tình dục của giác quan.

    Nhưng người nào được trời thương thì chúng nó dang xa người đó lần lần. Ấy là cách thức và nguyên nhân của sự Luân hồi.



    III

    Lời của Hermès nói với những kẻ say mê vật dục.

    Où courez vous, hommes ivres ? Vous avez bu le vin de l’Ignorance et vous ne pouvez pas le supporter, vous le rejetez déjà. Devenez sobres et ouvrez les yeux de votre cœur, sinon tous, au moins ceux qui le peuvent. Car le Fléau de l’Ignorance inonde toute la terre, corrompt l’âme enfermée dans le corps et l’empêche d’entrer dans le port du Salut. Ne vous laissez pas emporter par le courant, renenez si vous le pouvez, au port du salut, cherchez un pilote pour vous conduire vers les portes de la Gnose où brille l’éclatante lumière, pur de ténèbres, où nul ne s’énivre, où tous sont sobres et tournent les yeux du cœur vers ce lui qui veut être contemplé, l’Inoui l’Ineffable invisible aux yeux, visible à l’Intelligence et au cœur.

    (Hermès Trismégiste)

    Xin tạm dịch

    Hỡi mấy kẻ say sưa ! Các anh chạy đi đâu, các anh đã uống rượu vô minh, các anh chịu không nỗi nên hất đổ nó đi rồi. Bây giờ hãy có tiết độ và hãy mở tâm các anh, nếu không phải là tất cả thí ít ra những ai có thể làm được thì làm. Bởi vì cái tai họa của vô minh đã lan tràn khắp địa cầu, cám dỗ linh hồn ở trong xác thịt và ngăn cản linh hồn không cho vào bến giác. Chớ nên để dòng nước lôi cuốn, nếu có phương tiện thì hãy quay về bến giác. Hãy kiếm một người hoa tiêu đặng dắc các anh vào cửa đạo nơi đó ánh sáng chiếu rực rỡ, không chút tối tăm, nơi đó không có ai say sưa, cả thảy đều có tiết độ và hướng tâm hồn về Đấng Cao cả muốn cho con người chiêm ngưỡng Đấng Phi Thường, Đấng Chí Tôn mà không có cây viết phàm nào tả nổi, không thấy được bằng con mắt nhưng thấy được bằng Tâm và Trí

    Ba bài nầy nói về Vô minh, giải rõ Vô minh là cội rễ của các tội lỗi và nguyên nhân của sự Luân hồi, ai ai đọc đến cũng hiểu cả.

    Vì mấy lẽ trên đây, chúng tôi không bao giờ tin rằng nhờ khám phá lại những điều từ ngàn xưa các vì giáo chủ Ai Cập đã dạy các đệ tử mà Đức Thích Ca thành Phật. Thành Phật đâu có phải là việc nhờ tri ra một cái thuyết. Ngôi vị cao cả của một Đấng Chí Tôn không nên để bị giảm giá trị của nó một cách vô ý thức.

    Còn một điều khác nữa, nếu Phật chỉ có một nghĩa là “giác” mà thôi thì tại làm sao, vì duyên cớ gì mà Pimandre, Hermès và luôn các vị giáo chủ của các Tôn giáo đều không được gọi là Phật. Thế có phải là bất công hay không ?

    Luôn dịp tôi xin quí bạn chú ý tới hai câu nầy :

    a/ - Câu của Hermès nói với Tat trong bài thứ hai “Muốn hiểu được sự sanh vào cõi Trời” (La naissance en Dieu).

    b/ - Và câu của Phật trả lời với Vasichtha như một người đã vào cõi Phạn Vương và sanh đẻ nơi đó ( . . . comme une personne qui est entrée dans le monde de Brahma qui y est née). Tại sao 16.000 năm trước đã có câu chuyện sanh vào cõi Trời rồi; và Ai Cập giáo và Phật giáo hai tôn giáo khác nhau, ở hai nước cách nhau, rất xa về không gian và thời gian mà lại có một quan niệm chung như thế.

    Lý do là Chơn lý vẫn một.

    Đó là riêng về Ai Cập, còn ở Ấn Độ cũng có sáu phái Triết học dạy những phương pháp trừ khử vô minh, giải thoát cho con người vậy.

  13. #13

    Mặc định

    SÁU PHÁI TRIẾT HỌC CỦA ẤN ÐỘ

    Mục đích của Triết học là giải thoát cho con người vậy. Sự đau khổ ấy liên quan tới kiếp sống trên trần thế khi linh hồn đầu thai lấy xác phàm.

    Bên Ấn Độ có sáu trường triết học, mỗi trường dạy một giáo lý độc lập và đầy đủ; con người luyện mình theo đó, đến lúc thành công thì thoát đọa Luân hồi.

    Sáu trường nầy chia ra làm hai phái :

    A/ - Phái PRAKRITI : thiên về vật chất, con người phải hiểu biết vật chất và thống trị nó. Nhờ vậy con người sẽ thoát ra khỏi nó; phái nầy gồm ba trường [17] :

    1) Thắng Luận – La Vaysheshika : Hệ thống của những đặc điểm (particularités)

    2) Chánh Lý – La Nyâya : Hệ thống của Luận lý học.

    3) Di Man Tác - La Mimâmsa : Nguyên tắc chỉ huy.

    B/ - Phái PURUSHA : thuộc về tinh thần, dạy phải làm cho tinh thần tiến hóa mới thoát đọa Luân hồi. Nó gồm ba trường :

    1) Số Luận – La Sankhya : Hệ thống của Số.

    2) Du Già - La Yoga de Patanjali : Hệ thống hiệp nhứt với Thượng Đế.

    3) Phệ Đàn Đà – La Védanta : Sự hiểu biết cùng tột.



    NHỮNG QUAN NIỆM CHUNG CỦA HAI PHÁI

    Tuy vậy hai phái vẫn có quan niệm chung như sau đây :

    1) Có một nguyên nhân đầu tiên sanh hóa Vũ trụ, người ta gọi là Trời, hay Thượng Đế, hay Brahma, Thái Cực Thánh hoàng, Dieu v. v. . .

    2) Ba căn nguyên của Vũ trụ là :

    a.- Atma : Cội rễ của Bản Ngã.

    b.- Purusha : Cội rễ của Tinh thần.

    c.- Prakriti : Cội rễ của Vật chất

    3) Sự tiến hóa của con người nhờ ba luật :

    a.- Luân hồi

    b.- Nhân quả

    c.- Đạt ma (Dharma : Pháp)

    Giáo lý của mỗi trường phái tóm tắt như sau đây :

    Phái Vật Chất.

    Trường Thắng Luận Vaysheshika

    Giáo chủ là Rishi Kanâda.

    Theo trường nầy : Vũ trụ chia ra làm bảy hạng bao gồm hết thảy những điều mà người ta có thể hiểu. Cái quan trọng hơn hết là Vaysheshika hay là đặc điểm, nó làm ra dòng giống cá nhân.

    Giáo lý nguyên tử là căn bản của phương pháp nầy, vì mọi vật trong vũ trụ sanh ra đều do sự kết hợp của những nguyên tử.

    Những nguyên tử thì không thể chia ra được, chúng nó nhỏ lắm; con mắt không thấy được.

    Theo thuyết nguyên tử nầy, Kanâda trạng tả vạn vật rất tỉ mỉ. Mục đích của khoa triết học của Ngài là đạt tới chỗ tận thiện tận mỹ và sự giải thoát tuyệt đối của linh hồn, nhờ sự hiểu biết chắc chắn về thế giới hữu hình nầy. Khoa triết học nầy tuy là duy vật nhưng nó đi tới mục đích tinh thần. Nó làm cho linh hồn tiến hóa, đại để là nhờ sự học hỏi vật chất nhứt là sự hiểu biết cái xác thân nầy.

    Trường Chánh Lý Nyâya

    Giáo chủ là Rishi Gautama.

    Nyâya nghĩa là Luận Lý học.

    Nó có thể xem như là khoa học của lý trí, bởi vậy nó quan hệ nhứt là tới cái trí của con người, Gautama công nhận giáo lý nguyên tử của Kanâda, nhưng mục đích cốt yếu của hệ thống Ngài là lập những phương pháp lý luận đúng đắn nhờ phép Tam đoạn luận (syllogisme) hoàn bị gồm có :

    a) Đại tiền đề (La majeur).

    b) Tiểu tiền đề hay là Hậu đề (La mineur) và

    c) Đoán án (La conclusion).

    Thí dụ : Đại tiền đề : Tất cả con người đều chết,

    Tiểu tiền đề : Anh là con người.

    Đoán án : Thì anh sẽ chết.

    Đó là đường đi đến sự đoạt được chơn lý. Sau khi giải bày phương pháp luận lý học rồi, Nyâya kết luận rằng : Con người giải thoát là nhờ sự suy luận chính chắn và ngay thẳng, con người lìa khỏi sự hiểu biết sai lầm, mập mờ. Thâu thập được chơn lý toàn vẹn rồi, con người trở xuống trần vô ích, con người đã thoát kiếp Luân hồi.


    Trường Di Man Tác Mimâmsa

    Giáo chủ Rishi Jaimini.

    Hệ thống nầy xem xét khoa học Nhân quả và xác định coi mỗi việc làm có sự phản động trong thế giới vô hình và hữu hình như thế nào và sanh ra nơi đó những hiệu quả chắc chắn làm sao.

    Đức Jaimini cũng giải nghĩa tại sao những nghi lễ tôn giáo có ảnh hưởng đến nhân quả con người.

    La Mimâmsa cũng gọi là triết học của Luân lý và Việc làm, nghĩa là triết học của sự Hành động và Bổn phận. Sau khi giải thích luật Nhân quả và Đạt Ma, nó trạng tả bản tánh thật của Bổn phận và những Việc phải làm mỗi ngày. Nó có quan hệ nhứt là tới cái Vía, nó giúp cho thể nầy tiến hóa. Nhờ làm những việc bác ái càng ngày càng nhiều chung cuộc con người không bị bắt buộc đi đầu thai nữa, giờ giải thoát đã đến.

    Người học đạo để ý đến cách dạy dỗ của ba trường nầy thì thấy :

    Trường Thắng Luận Vaysheshika dạy con người học rành rẽ về xác thịt.

    Trường Chánh Lý Nyâya dạy con người luyện cái Trí cho linh hoạt.

    Trường Di Man Tác Mimâmsa dạy con người mở mang cái Vía cho nó trở nên tinh khiết.

    Phái Tinh Thần

    Trường Số Luận Sânkhya

    Giáo chủ là Rishi Kapila

    Sânkhya chú trọng đến Chơn nhơn. Chơn nhơn là tinh thần trong con người. Trường nầy dạy rằng Chơn nhơn ngồi xem vật chất Prakriti tiến hóa vì vật chất chứa sẳn tinh lực trong mình. Chơn nhơn tuy ngồi xem vật chất tiến hóa mà nó cũng tiến hóa và tăng trưởng mãi mãi. Sự tiến hóa của Chơn nhơn vẫn tự nhiên và dễ dàng từ kiếp nầy qua kiếp kia không cần sự cố gắng cho tới khi nào nó chấm dứt. Tới lúc đó Chơn nhơn trở nên trọn lành, nó tách ra khỏi vật chất cũng như trái chín muồi lìa cây. Sự tiến hóa của Chơn nhơn chấn dứt thì không còn Luân hồi nữa.

    Trường Du Già Yoga

    Giáo chủ là Patanjali.

    Patanjali công nhận thuyết của Sânkhya là đúng, nhưng Ngài cho rằng muốn Chơn nhơn lìa khỏi vật chất thì phải có sự cố gắng.

    Sự cố gắng đó thế nào ? Phải cố gắng thống trị cái Trí bằng cách Định trí, Tham thiền, Nhập định và vài phương pháp luyện tập đặng mở và dùng những quan tinh vi khác hơn ngũ quan.

    Với phương pháp đó, người ta đi tới chỗ Đại định (Samâdhi) lúc nầy Chơn nhơn lìa vật chất trong chốc lát đặng hiệp nhứt với Thượng Đế (Yoga : Union à Dieu). Sự hiệp nhứt nầy sẽ vĩnh viễn sau khi con người bỏ xác và chấm dứt sự tiến hóa của Chơn nhơn ở cõi Trần.

    Trường Phệ Đàn Đà Védanta

    Giáo chủ là Rishi Vyâsa.

    Védanta chỉ thích hợp với những người tiến hóa đã cao. Trường nầy nói với con người như vầy : Sự hiểu biết cùng tột, ngươi hãy tìm trong mình ngươi, ngươi sẽ gặp, ngươi đừng tìm kiếm ở ngoài ngươi. Nếu ngươi muốn biết Đức Thượng Đế thì “Ngươi hãy tự biết ngươi trước đã” bởi vì Chơn nhơn và Đức Thượng Đế vẫn là một. Sự phân tách một giọt nước biển đủ làm cho ta biết biển cả làm bằng chất chi hợp lại, Chơn nhơn đối với Đức Thượng Đế cũng thế. Nếu ngươi muốn tự biết ngươi thì phải lìa khỏi vật chất và thắng phục nó.

    Muốn thành công, con người phải nhờ phương pháp Yoga (Dô Ga).

    Dô Ga nầy khác với Yoga của Patanjali dầu rằng nó trùng tên.

    Yoga hay là sự hiệp nhứt với Đức Thượng Đế chia ra làm 5 nhánh :

    Hatha Yoga (theo con đường luyện hô hấp)

    Bhakti Yoga (theo con đường tín ngưỡng)

    Karma Yoga (theo con đường hành động)

    Jnana Yoga (theo con đường trí tuệ)

    Râja Yoga (Chúa tể các Yoga)

    Học hết sáu hệ thống nầy rồi suy nghĩ, chúng ta phải công nhận sáu vị giáo chủ toàn là những bực Đại giác ngộ. Mấy ngàn năm trước người ta đã biết vạn vật do những nguyên tử cấu thành; thật là đáng cho người đời nay bái phục.

    Tại sao sáu vị giáo chủ nầy không dám tự xưng là Phật ? Nếu mấy vị khoe mình là Phật, thì người đời cũng không có phương pháp nào kiểm soát được đặng, biết mấy Ngài là Phật thật hay Phật giả. Tại sao người ta cứ nói đến ba Đức Phật nầy :

    Phật Đỉnh Quang – Dipankara

    Phật Ca Diếp – Kasyapa

    Phật Thích Ca.

    Bởi vì Phật không có nghĩa Giác mà thôi, mà có một nghĩa nữa, nghĩa chánh là Một ngôi vị ở Thiên đình trong Quần Tiên Hội. Phải ở trong Quần Tiên Hội mới biết ông nào là Phật, ông nào là Chơn Tiên, ông nào là La Hán.

    Sáu vị giáo chủ nầy đều biết ngôi thứ trên Thiên đình và mình ở vào địa vị nào nên không bao giờ dám tự xưng là Phật cả.

    Trong sáu hệ thống, có hai hệ thống Yoga và Védanta dạy cách hiệp nhứt với Đức Thượng Đế, cũng giống như lời của Hermès dạy bảo Tat và câu của Phật trả lời cho Vasichtha.

    Tất cả sáu hệ thống nầy đều thuộc về Huyền bí học. Thế nên tôi tưởng phải nói vài lời về Huyền bí học trước khi bàn đến những di tích Hình nhi thượng học trong Phật giáo. Không vậy e cho những đoạn sau nầy sẽ làm cho nhiều bạn thắc mắc.

  14. #14

    Mặc định

    CHƯƠNG THỨ TƯ


    HUYỀN BÍ HỌC LÀ GÌ ?

    Theo nghĩa từ chữ thì Huyền bí học là khảo cứu những sự Huyền bí. Nhưng sự thật Huyền bí học là khoa dạy về sự sanh hóa một Thái dương hệ. Nó giải rành rẽ về Đạo hay là toàn thể Chơn lý.

    Nó chia ra làm hai phần :

    a) Phần lý thuyết

    b) Phần thực hành

    Huyền bí học luôn luôn khẩu khẩu tương truyền, nhứt là về phần thực hành, rất khó khăn và rất nguy hiểm.

    Về phần lý thuyết, dầu người ta có đem mấy chương đầu viết ra thì cũng dùng toàn là lời lẽ bóng dáng. Không có chìa khóa, không bao giờ mở cửa bí mật đó được.


    AI ĐEM KHOA HUYỀN BÍ HỌC RA DẠY LẦN ĐẦU TIÊN

    TRÊN CÁC DÃY HÀNH TINH CỦA THÁI DƯƠNG HỆ NẦY.

    Nếu khoa Huyền bí học vốn do người phàm dạy thì nó không có giá trị, vì con người còn mắc trong vòng thất tình lục dục, chưa thoát khỏi đọa sanh tử luân hồi, thì làm sao thấu rõ được những sự bí mật của Tạo Công.

    Từ đời nầy qua đời kia, người ta đưa ra những giả thuyết, chúng nó có một giá trị tương đối, nghĩa là dùng trong một thời gian thôi. Rồi không bao lâu, có những thuyết mới sanh ra thay thế giả thuyết cũ. Cứ tiếp tục như thế, vì con người càng ngày càng tiến hóa. Chính là những Đấng Thiên Tôn, trường sanh bất tử, đã góp công vào sự sanh hóa Thái dương hệ nầy, đem khoa Huyền bí học dạy lại loài người ở khắp các dãy hành tinh của Thái dương hệ đặng giúp con người tiến hóa mau.

    Muốn hiểu được lẽ nầy phải biết chút ít về Thái dương hệ trên không gian.


    NHỮNG THÁI DƯƠNG HỆ TRÊN KHÔNG GIAN.

    Những ngôi tinh tú trên không gian đều xếp thành những hệ thống gọi là những Thái dương hệ. Mỗi hệ thống hay Thái dương hệ gồm một ngôi mặt trời ở chính giữa và những hành tinh xây chung quanh.

    Mỗi Thái dương hệ đều có một Đấng Thiên Tôn sanh ra, xin gọi Ngài là Đức Thái dương Thượng Đế (Logos d’un système solaire). Còn Đấng Độc Nhất Vô Nhị sanh hóa hết thảy các Đức Thái dương Thượng Đế. Người ta gọi Ngài dưới nhiều danh từ khác nhau : Ông Trời, Đấng Tạo Hóa, Hóa Công, Thái Cực Thánh Hoàng, Dieu, Logos Cosmique, Brahman, Allah, Ahura Mazda v . v. . . Ấy là Đấng không sanh mà có, trí người phàm tưởng tượng không nỗi.

    Về Thái dương hệ có ba điều ta nên ghi nhớ là :

    a) Mỗi ngôi tinh tú cũng như xác thân làm bằng vật chất, nhưng nó có sự sống là tinh thần.

    Lấy con mắt phàm mà xem thì lầm ngay.

    Muốn hiểu cho trúng, thấy cho đúng thì phải dùng Huệ nhãn hoặc ra ngoài trái đất, lên không gian - hoặc dùng bề đo thứ tư (4è dimension).

    b) Trên mỗi hành tinh của những Thái dương hệ đều có những nhân vật như chúng ta, chẳng những sanh sanh hóa hóa mà lại còn tiến hóa nữa. Nhưng có một điều chắc chắn là hình thù và ngôn ngữ không giống chúng ta, mặc dầu có thể hiểu nhau bằng tư tưởng.

    c) Có nhiều Thái dương hệ lớn hơn Thái dương hệ của chúng ta, xin kể vài thí dụ thôi.

    Bề trực kính của ngôi mặt trời chúng ta đo được lối 1.391.000 cây số ngàn.

    Bề trực kính của tinh cầu Antarès 478 lần lớn hơn bề trực kính ngôi mặt trời chúng ta và dung tích của nó bằng 113 triệu dung tích mặt trời.

    Bề trực kính của tinh cầu Hercule 400 lần lớn hơn,

    Bề trực kính của tinh cầu Bételgeuse 300 lần lớn hơn, dung tích của nó bằng 27 triệu dung tích mặt trời của chúng ta.

    Bề trực kính của tinh cầu Mira Ceti cũng 300 lần lớn hơn.

    Bề trực kính của tinh cầu Pégase 140 lần lớn hơn.

    Bề trực kính của tinh cầu Aldélaran 38 lần lớn hơn.

    Bề trực kính của tinh cầu Arcturus 27 lần lớn hơn.

    Sau rốt tinh cầu Canopus 1 triệu lần lớn hơn ngôi mặt trời chúng ta.

    Đây tôi không có ý so sánh về mặt vật lý. Tôi muốn kính cẩn nói rằng : Các vị Thượng Đế của những tinh cầu nói trên cao hơn Đức Thượng Đế của ta nhiều lắm. Các Ngài đã từng sanh hóa những ngôi mặt trời, ban đầu nhỏ cũng như ngôi mặt trời của chúng ta rồi sau lớn hơn, và trước ngôi mặt trời của chúng ta không biết mấy trăm tỉ năm rồi, nghĩa là các Ngài cũng tiến hóa thêm mãi. Ngôi mặt trời của chúng ta mới sanh ra trên hai ngàn triệu năm nay. Nói tóm lại, không biết đâu là nấc cuối cùng của thang tiến hóa.

    Đối với chúng ta 100 năm thật lâu lắm, nhưng đối với không gian và thời gian vô cùng, vô tận thì 100 ngàn năm chỉ là một chớp mắt thôi.


    SỰ SANH HÓA THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA.

    Trên một Thái dương hệ sanh trước Thái dương hệ của chúng ta lâu đời, có bảy Đấng Thiên Tôn toàn năng toàn thiện đủ sức sanh hóa một Thái dương hệ. Một trong những vị ấy chọn một chỗ trên không gian đặng sanh hóa Thái dương hệ của chúng ta. Hào quang của Ngài dứt tới đâu thì chỗ đó là giới hạn Tiểu giang san của Ngài.

    Trong công việc khó khăn nầy, Ngài nhờ nhiều vị phụ tá. Mấy vị nầy là những vị mà mình gọi là những vị Thiên Đế, những vị Thiên Tôn, những vị Ngọc Đế, những vị Phật, những vị Bồ Tát, những vị Đại Thánh, những vị Đại Tiên và những Đại Thiên Thần. Những vị nầy đồng ở một Thái dương hệ với Ngài, có vị là bạn thân với Ngài dưới Ngài một bực, người ta gọi là Hành Tinh Thượng Đế (Logos planétaire). Có vị là đệ tử của Ngài, có vị là đệ tử của đệ tử của Ngài v. v. . .

    Đối với chúng ta Ngài là Đấng Tạo Hóa chúng ta, ông Trời chúng ta.

    Trên mỗi hành tinh đều có một đoàn thể thay mặt cho Ngài để cai trị và coi sóc sự sanh hóa của sự tiến hóa của muôn loài vạn vật. Tại quả địa cầu của mình, Đoàn thể đó là Quần Tiên Hội (xin xem tới). Chính là những nhân viên trong Quần Tiên Hội đem khoa Huyền bí học dạy lại thế gian như tôi đã nói.

    CỘI RỄ CON NGƯỜI VÀ MỤC ĐÍCH CUỘC ĐỜI.

    Huyền bí học dạy rằng :

    Con người là Chơn Thần, một Điểm Linh Quang của Thượng Đế, có đủ những quyền năng như Ngài – nhưng mà chúng nó chưa phát triển. Con người phải đầu thai xuống trần đặng học hỏi những luật sanh hóa muôn loài vạn vật trong cõi hữu hình là địa cầu nầy và những cõi vô hình khác ở chung quanh chúng ta nữa. Tới một ngày kia người sẽ vận dụng được tất cả những quyền năng siêu việt ở trong mình, con người sẽ thành một vị Thượng Đế và sanh hóa một Thái dương hệ như Thái dương hệ của mình đây. Nhờ Huyền bí học giải rõ về cội rễ của con người nên tín đồ Phật giáo, Thiên Chúa giáo mới hiểu được ẩn nghĩa của mấy câu nầy.

    Phật Giáo

    a) Chúng sanh đều có Phật tánh.

    b) Ta là vị Phật hiện tại còn các ngươi là những Phật vị lai.


    Thiên Chúa giáo

    a) Đức Jésus trả lời với họ :

    Trong luật pháp của các ngươi há không có chép rằng : “Các ngươi là những vị Thượng Đế” (Vous êtes des Dieux) Saint Jean X,34 – 36.

    b) Các ngươi không biết rằng các ngươi là đền thờ của Đức Chúa Trời và Đức Thánh Linh ở trong mình của các ngươi sao. Corinthiens I, 3 -16.

    Nói trắng ra duy có Huyền bí học mới giải được cội rễ của con người và mục đích cuộc đời, tức là : Con người là ai ? Xuống cõi Trần làm chi ? Nó cắt nghĩa rành rẽ luật Luân Hồi Nhân Quả, và chỉ cho con người những phương pháp luyện mình đặng trở nên trọn sáng trọn lành trong một thời gian ngắn, thay vì theo luật tiến hóa bình thường, con người phải mất cả trăm triệu năm luân hồi từ kiếp nầy qua kiếp kia.


    NHỮNG DI TÍCH HÌNH NHI THƯỢNG HỌC TRONG PHẬT GIÁO.

    Những di tích Hình Nhi Thượng Học của Phật giáo là :

    1.- Những phép thần thông.

    2.- Chuyện những lá cây Huê mộc.

    3.- Bốn bực điểm đạo.


    1.- Những phép thần thông.

    Những phép thần thông tôi đã bàn đến rồi. Nay xin nói về chuyện Những lá cây Huê mộc và bốn bực điểm đạo mà thôi.

    2.- Chuyện Những lá cây Huê mộc (Çinçapas)

    Phật ngự tại Cô sam bi (Kauçambi) trong vườn cây Huê mộc. Ngài nắm trong tay vài lá cây rồi mới hỏi mấy vị đệ tử : “Các trò tưởng thế nào ? Những lá cây nầy nhiều hay là lá ở trên cây trong cụm rừng nầy nhiều ?” Các đệ tử bèn thưa : “Bạch Phật, lá của Phật nắm trong tay thì ít, còn hết thảy những lá cây trong rừng thì nhiều.” Phật mới nói : “Hỡi các đệ tử ! cũng thế ấy. Những điều Ta học hỏi thì nhiều, còn những điều Ta đem dạy cho các con thì rất ít”. Nhưng Ta không làm như mấy ông sư, họ nắm bàn tay lại và giữ làm của riêng những sự bí mật của họ, bởi vì Ta dạy cho các con những điều hữu ích cho các con. Ta dạy cho các con Tứ Diệu Đề mà không dạy các con những điều nào vô ích.

    (Giáo lý và Triết lý của đạo Phật. Tác giả : Louis de la Vallée Poussin trương 64)

    Bây giờ ta hãy tìm hiểu Đức Phật muốn nói cái chi trong bài nầy qua những câu sau đây chứa đầy ý nghĩa sâu xa :

    “Cũng thế ấy ! Những điều Ta học hỏi thì nhiều, còn những điều Ta đem dạy các con thì rất ít.

    Ta dạy các con Tứ Diệu Đề mà Ta không dạy các con những điều nào vô ích”.


    PHẬT HỌC HỎI CÁI CHI ?

    Phật học hỏi cái chi ? Trừ ra nhân viên trong Quần Tiên Hội thì không một ai ở trần thế hiểu được điều đó. Cũng không một ai hiểu rằng Đức Thích Ca làm những công việc nào trọn 6 năm trong chốn rừng sâu Hi Mã Lạp Sơn. Nói rằng Ngài tham thiền, nhịn ăn, có lần té xỉu ngất đi sau tỉnh lại, không đúng với sự thật. Nói một câu: “Những điều Ta học hỏi rất nhiều” đã chứng minh mấy lời trên đây rồi. Những chi tiết đó nói ra cũng không ích chi, ai muốn tin sao cũng được. Nhưng có một điều ta nên nhớ rằng “Phật học hỏi” đây có nghĩa là nhiều điều Phật chưa rõ biết. Thật vậy, Vũ trụ vô tận vô biên. Càng lên cao càng thấy cơ Trời vô cùng mầu nhiệm.

    Những luật Trời ở chung quanh ta đây, nhưng tại ta không đủ sức hiểu chúng nó, chớ chẳng phải chẳng có chi cả.

    PHẬT HỌC VỚI AI ?

    Chắc chắn là không phải với hai ông U Trà Ca (Oudraka) và A Ra Ta (Arâta), trọn chữ là Arâta hay là Arata Kâlâma, vì Ngài đã bỏ hai ông nầy mà đi. Lẽ tự nhiên Phật phải học với những người cao hơn Phật, giỏi hơn Phật, tiến hóa hơn Phật. Câu nầy có nghĩa là trên Phật còn nhiều bực nữa và Huyền bí học có kể ra mấy vị đó không phải ở tại cõi trần nầy, trừ ra Đức Ngọc Đế.


    NÊN PHÁ TAN THÀNH KIẾN PHẬT CAO HƠN HẾT

    Nội hai câu của Phật thốt ra cũng đủ phá tan thành kiến xưa nay : Phật cao hơn hết. Ý niệm nầy đúng là khi nào so sánh nhơn loại trên địa cầu với Đức Thế Tôn, vì Ngài là Người đầu tiên của nhơn loại đắc quả Phật. Mà sự thật là Phật không hề khi nào nói rằng Ngài cao hơn hết. Trong kinh Phật có một câu nầy mà ít ai để ý tới : “Ta đã thành Phật còn ngươi đang thành Phật” . Chúng sanh đều có Phật tánh, sẽ thành những Phật vị lai. Vâng ! đúng vậy. Chúng sanh sẽ tiến hóa tới bực Phật là ngôi vị của Đức Thế Tôn đương giữ ngày nay. Nhưng sự tiến hóa nầy đòi hỏi một thời gian khá lâu. Người thường không tích đức tu hành phải đầu thai đi đầu thai lại cả trăm triệu năm chưa tới mức đó.

    Nếu đinh ninh rằng : “Bực Phật là cao hơn hết”, bực chót của đường tiến hóa của con người thì hãy nêu ra hai câu hỏi sau đây :

    a) Tại sao trong thời gian cả trăm triệu năm, chúng sanh tiến mà Phật không tiến ?

    b) Tại sao Phật ở một chỗ chờ cả trăm triệu năm, sao bánh xe tiến hóa nầy lăn tới bực Phật rồi ngưng lại đó. Rồi cả trăm triệu năm sau nữa, bánh xe tiến hóa khác cũng lăn tới bực Phật rồi ngưng lại đó nữa. Cứ tiếp tục như thế mãi vì sự sanh sanh hóa hóa cứ tiếp nối nhau không nghỉ, không ngừng trong một đại kiếp Manvantara.

    Lấy theo Túc Sanh Truyện mà nói : Chẳng lẽ hồn con cua, con cá, biến thành hồn con nai, con voi, sau rốt đầu thai làm người tu tới bực Phật là Đức Thích Ca rồi không đi tới nữa. Ai sanh hồn đó ra rồi làm kỳ lạ như thế ?

    Thế nên, tin Phật cao hơn hết là trái với chánh lý.

    Nên phá tan những thành kiến cũ kỹ, chúng nó là những kiếng màu đeo vô mắt thì biến đổi sự thấy của con người, làm sai lạc tất cả sự thật.


    TẠI SAO PHẬT KHÔNG ĐEM NHỮNG ĐIỀU PHẬT ĐÃ HỌC HỎI

    DẠY LẠI CÁC ĐỆ TỬ ?

    Điều nầy rất dễ hiểu, các đệ tử giống như học trò lớp ba, lớp nhì, còn Phật là Khoa Trưởng Trường Đại học. Đem những bài của Phật học hỏi giảng lại cho các vị đệ tử nghe thì các vị nầy sẽ ngơ ngác, không biết chi cả, vì không đủ sức lãnh hội.

    Tại sao Phật dạy các đệ tử Tứ Diệu Đề và Đạo Bát Chánh ?

    Bởi vì Đạo Bát Chánh là phép mầu diệt khổ, ai ai cũng có thể thực hành được, tùy duyên, tùy phận.

    Những câu của Phật trả lời cho ông Ma lum ky da bút ta (Maloumkyâboutta) chứng minh điều nầy :

    “Ma lum ky da bút ta ơi ! Một người kia bị một mũi tên tẩm thuốc độc. Cha mẹ và thân bằng cố hữu va lật đật đi rước một lương y đại tài tới. Nếu bịnh nhơn nói : Tới chừng nào tôi biết người bắn tôi là Bà la môn hay là Tỷ xá (Vaisyas) hay là Thủ đà la (Chandala) tôi mới chịu bó thuốc. Như thế tánh mạng va sẽ ra thế nào ? Hay là va nói : chừng nào tôi biết người bắn tôi tên chi, họ chi, gia quyến nó sang hay hèn, tác nó bao lớn, cây cung nó dùng ra sao tôi mới chịu cho bó thuốc, thì va lành bịnh hay không ? Va ắt phải chịu chết.

    Tại sao Ta không dạy cõi đời vô tận, vô biên hay là nó sẽ hư hoại; sau khi thác rồi Ta còn hay là không còn. Bởi vì sự hiểu biết mấy việc ấy không giúp con người tiến hóa trong đàng đạo đức, bởi vì mấy việc ấy không làm cho con người được giác ngộ và tịnh tâm, tịnh trí.

    NHỮNG ĐIỀU NÀO GIÚP CON NGƯỜI ĐƯỢC GIÁC NGỘ VÀ TỊNH TRÍ, TỊNH TÂM, TA ĐÃ DẠY CÁC ĐỆ TỬ RỒI ĐÓ, ẤY LÀ TỨ DIỆU ĐỀ : KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO.

    Ma lum ky da bút ta ơi ! Bởi vậy cho nên cái chi ta không chỉ bảo thì cái đó hãy ẩn khuất đi, còn cái chi ta chỉ bảo thì cái đó hãy bày tỏ ra rõ ràng.

    Đọc bài : “Những lá cây Huê mộc” ta có thể kết luận :

    a) Còn nhiều bực cao hơn Phật.

    b) Phật không nói những việc siêu hình cho người thường biết vì không ích chi cho sự tu tâm luyện tánh của họ chớ không phải mấy thế giới huyền bí không có.

    c) Phật dạy con người tu tắt, không có con đường nào tắt hơn Đạo Bát Chánh nữa. Phật đã khai con sông lớn là Đạo Bát Chánh. Các môn phái sanh ra sau nầy là những con kinh đào theo hai bên bờ sông. Ghe thuyền trong kinh đi được là nhờ nước chảy vô đầy tràn. Không nước sông, kinh cạn, chúng nó nằm một chỗ không đi đâu được cả.

    d) Không phải cái chi Phật không có nói là không có thật. Nên phá tan những thành kiến đó đi. Vũ trụ vô tận, vô biên. Phải đọc hết các kinh thánh, những sách văn chương, triết lý, khoa học, mỹ thuật đặng coi chơn lý hiện ra dưới bao nhiêu mặt khác nhau; nó cản đến tánh tình và mở mang trí hóa con người đến bực nào. Như thế mới mở rộng kiến thức và tránh được cái họa mê tín, cuồng tín và dị đoan.

    đ) Phật không bao giờ nói : “Không có Đức Thượng Đế, không có hạng Thiên Thần, không có những Đấng Chí Tôn cầm cân tội phước coi sóc sự Luân hồi Báo ứng (không phải các vua Diêm Vương đâu, mấy vị nầy không có thật) v .v . . .

    e) Nói cho đúng lý không phải Phật không công nhận Thần quyền mà Phật bảo : Không nên ỷ lại Thần quyền, đừng cầu đảo mà phải tự mình giải thoát cho mình. Phật chặt đứt những dây xiềng xích buộc trói con người vào bánh xe luân hồi.




    --------------------------------------------------

    CHƯƠNG THỨ NĂM


    MƯỜI DÂY XIỀNG XÍCH TRÓI BUỘC CON NGƯỜI VÀO BÁNH XE LUÂN HỒI

    (THEO KINH NAM TÔN) SAMYOJANA.

    Phật dạy rằng có mười dây xiềng xích trói buộc con người vào bánh xe luân hồi. Phải chặt đứt chúng nó mới vào cõi Niết Bàn được. Chúng nó là :

    1.- Sakkkâyaditthi – L’illusion du moi

    Phàm nhơn mộng ảo.

    2.- Vichikichcha – Le doute ou l’incertitude

    Sự hoài nghi hay không chắc ý.

    3.- Silabbatapârâmâsa – La supersition

    Sự mê tín dị đoan.

    4.- Kâmarâga – Passions qui viennent des sens

    Dục tình do giác quan sanh ra.

    5.- Vyâpada ou Patigha – La collère

    Sự giận dữ.

    6.- Rouparâga – Le désire de vivre dans un monde de formes

    Muốn sống trong cõi có hình dạng.

    7.- Arouparâga – Le désire de vivre dans un monde sans formes

    Muốn sống trong cõi không có hình dạng.

    8.- Mâna – L’orgueil

    Sự kiêu căng.

    9.- Ouddhatchcha – L’incapacité de sérénité mentale

    Cái trí còn xao động.

    10.- Avidjdjâ – L’ignorance

    Vô minh.


    ĐƯỜNG ĐẠO VÀ MỤC ĐÍCH CỦA NÓ

    Mười dây xiềng xích nầy mới nghe qua thấy dễ quá, nhưng sự thật là cực kỳ khó khăn. Người đời theo đuổi những công việc làm ăn, còn chìu theo dục vọng, chưa biết tự trị là sao, khi nghe nói đến Phàm nhơn, Chơn nhơn thì không khỏi bật lên những tiếng cười ngạo nghễ vì không hiểu chi cả.

    Ít ra biết rằng cõi đời là một cái trường học lớn và mỗi người là một sinh viên. Con người xuống đây, mỗi kiếp phải học cho xong một bài và mở một đức tánh. Nhưng mấy ai làm được việc nầy. Không khác nào những trẻ thơ ham chơi hơn là ham học, con người bỏ mồi theo bóng, không chịu làm bổn phận, cứ nhứt quyết thỏa thích cho kỳ được sự ham muốn của mình, gặp ai cản trở thì oán giận và thù hiềm liền.

    Chừng nào đoạt được mục đích rồi thì biết những điều mình ước ao bấy lâu nay không khác nào mây khói. Tưởng là nắm chúng nó trong tay được mãi, không dè chúng nó lỏn đi đâu mất hồi đời nào rồi.

    Sè tay ra thì không còn thấy chi cả. Con người khinh thường luật Nhân quả, cho nên phải đầu thai đi đầu thai lại, cả ngàn kiếp như vậy, đau khổ ê chề thì mới chịu tìm hiểu coi mình sanh ra ở cõi trần làm chi đây ? Tới chừng đó con người mới chịu quay về cửa đạo. Vậy thì ta có thể nói những người đi tìm chơn lý là những linh hồn có tuổi tác, đã già rồi và có nhiều kinh nghiệm. Trái lại, những linh hồn còn thơ ấu mới đi đầu thai vài trăm kiếp, rất tham luyến hồng trần, ít chịu nghe theo lẽ phải. Dầu biết đường đạo cũng không thích vô đó.

    Đường đạo cũng như cái thang, bắt đầu từ dưới đất lên cõi Niết Bàn. Mục đích của nó là để đào tạo con người trở nên trọn sáng trọn lành trong một thời gian ngắn ngủi, vài chục kiếp, thay vì con đường tiến hóa bình thường phải kéo dài cả trăm triệu năm mới đưa con người qua tới bờ giác, như tôi đã nói khi nãy.

    Nó chia ra làm năm bực mà Phật giáo ngày nay kể có bốn bực :

    Bực thứ nhứt là : Sotapatti ou Sohan. Bực Tu đà Huờn.

    Bực thứ hai là : Sakagadami. Bực Tư đà Hàm.

    Bực thứ ba là : Anagami. Bực A na Hàm.

    Bực thứ tư là : Arahat. Bực La Hán.


    THỜI KỲ CHUẦN BỊ HAY LÀ THỜI KỲ DỌN MÌNH CHO TRONG SẠCH

    CŨNG GỌI LÀ CON ĐƯỜNG NHẬP MÔN.

    Không phải mỗi người bước vô đường tu hành được vào hàng Tu đà Huờn liền. Đâu có dễ dàng như thế. Ai ai cũng phải trải qua một thời kỳ dọn mình hay thời kỳ chuẩn bị, bởi vì lòng tuy muốn làm những việc lành, việc phải, nhưng thân, ý, trí còn xúi dục thật hành những điều chúng nó ưa thích. Phải sửa trị chúng nó, buộc phải nghe theo mạng lịnh của mình, không vậy chúng nó lôi cuốn mình xuống bùn lầy mắc dính cứng đó [18].

    Thời kỳ chuẩn bị rất cần thiết cho tất cả sinh viên Huyền bí học.

    Nó gồm có bốn giai đoạn :

    Giai đoạn thứ nhứt :

    Manodvaravajjana [19] (L’ouverture des portes de l’intelligence

    ou peut être la fuite par les portes de l’intelligence).

    Mở cửa của trí khôn hay là có lẽ sự thoát ra do những cửa của trí khôn.

    Giai đoạn thứ nhì :

    Parikamma (La préparation à l’action)

    Chuẩn bị đặng hành động.

    Giai đoạn thứ ba :

    Upacharo (L’attention ou la conduite)

    Chủ ý hay là tánh hạnh.

    Giai đoạn thứ tư :

    Anuloma (L’ordre direct ou la conduite)

    Thứ tự trực tiếp hay là liên tục.

    I.- Manodvaravajjana. Mở cửa cái trí.

    Mở cửa cái trí tức là trở nên khôn ngoan. Nhờ học hỏi và suy nghĩ sâu xa, sinh viên thấy rõ ràng những quyền lợi vật chất dưới thế gian có một cái giá trị tương đối. Chúng nó dùng tạm thời, nhiều lắm là trong một đời người mà thôi. Chúng nó không được vĩnh viễn trường tồn.

    Giai đoạn nầy cũng gọi là phân biệt sự chơn và sự giả. Sinh viên phải trải qua một thời gian khá lâu, phải học nhiều bài học khó khăn mới thấy mình tiến bộ. Sự chiến đấu giữa tinh thần và vật chất bắt đầu diễn ra luôn luôn và dữ dội. Con người vấp ngã nhiều lần trước khi bước đi vững. Bước đầu tiên nầy Ấn Độ gọi là : Viveka ou Discernement : Tánh phân biện.


    II.- Parikamma. Chuẩn bị đặng hành động.

    Trong thời kỳ nầy sinh viên tập tánh lãnh đạm với kết quả những việc lành, việc phải của mình đã làm, nghĩa là làm lành vì chưng mến cái lành chớ không phải trông mong hưởng phước đức hay được tiếng người khen.

    Đức tánh thứ nhì là kết quả của đức tánh thứ nhứt. Sinh viên đã thấy cái chơn giá trị của mọi việc, đã thấy cả thảy đều vô thường thì chỉ lo làm bổn phận chớ không còn luyến tiếc hay ước ao cái chi cho mình cả.

    Ấn Độ giáo gọi đức tánh thứ nhì là Vairagya étachement, tức là Dứt bỏ, đoạn tuyệt.



    III.- Upacharo. Chủ ý hay tánh hạnh.

    Trong giai đoạn nầy sinh viên phải tập cho được 6 đức tánh kể ra như sau đây :

    1/ Samo : Le calme. La pureté et le calme de la pensée.

    Sự yên tịnh. Tư tưởng yên tịnh và trong sạch.

    Cái trí của con người rất lao chao, nó tưởng cái nầy rồi bắt qua cái kia. Các hàng Phật tử gọi là Tâm viên ý mã . Đấy là cái Thức chớ không phải là cái Tâm đâu. Phải làm chủ cái trí, tư tưởng mới trong sạch và yên lặng được. Phải biết cách diệt trừ tư tưởng xấu, phải biết định trí và tham thiền mỗi giờ, mỗi phút, nghĩa là trọn đời chớ không phải chỉ trong một khoảng thời gian nhứt định mà thôi. Nói một cách khác là phải kiểm soát tư tưởng luôn luôn, không bao giờ gián đoạn. Kiểm soát tư tưởng là lo xây dựng tương lai và luôn sửa đổi phần số kiếp nầy và kiếp sau nữa. Có ai ngờ tư tưởng là một khí cụ vô cùng lợi hại. Nó làm lành cũng được, làm ác cũng được. Thế nên phải sanh sản những tư tưởng tốt và diệt trừ những tư tưởng xấu. Người ta tưởng cái chi thì sẽ thành cái đó.

    2/ Damo. Contrôle des sens et du corps.

    Kiểm soát giác quan và thân thể.

    Kiểm soát cái trí được thì kiểm soát lời nói và việc làm được, vì luôn luôn người ta tưởng trước, muốn trước và mới nói và làm sau. Có khi người ta vụt làm liền không ngăn cản được, là vì người ta nghĩ tới việc đó mấy tháng trước, mấy năm trước rồi, có khi hồi kiếp trước nữa.

    Tư tưởng nầy ghi trong hột lưu tánh phân tử, cũng gọi là phân tử trường tồn (molécule permanente) của cái trí.

    Người đời chú trọng về việc làm, trái lại trong đạo đức người ta chú trọng về tư tưởng trước nhứt.

    3/ Uparati : Cessation. La meilleure traduction serait une tolérance large, noble et soutenue.

    Chấm dứt.( Xin dịch là Sự khoan dung rộng rãi, cao thượng và bền vững.(có lẽ là đúng hơn hết.)

    Chấm dứt đây là không còn mê tín và tin dị đoan nữa vì biết rằng : những sự cúng kiến, lễ bái không làm cho tâm con người trở nên trong sạch được, nhưng mà trong những bước đầu tiên chúng nó cũng giúp ích cho con người được đôi chút.

    Còn sự khoan dung rộng rãi, cao thượng bắt buộc phải đủ hai điều kiện nầy:

    Một là : Thật biết người và biết hoàn cảnh.

    Hai là : Hiểu chơn lý.

    Thật biết người và biết hoàn cảnh thì mới tha thứ được những việc làm lầm lỗi, sơ sót và những tội lỗi của người gây ra mà cũng không đòi hỏi cái gì quá sức con người. Tùy theo trình độ tiến hóa, mỗi người cố gắng làm tròn bổn phận thì tốt rồi.

    Hiểu chơn lý mới khoan dung những tín ngưỡng bất đồng mà ra.

    4/ Titiksha : Endurance : Nhẫn nại.

    Nhẫn nại đây là bền chí chịu đựng các khổ não do Nhân quả đưa đến, không than van, không rên siết, cũng không oán hờn, không trả thù những kẻ làm hại mình mặc dầu gặp trường hợp tự vệ thì phải tự vệ. Nói tóm lại là vui lòng trả quả.

    5/ Samâdhâna : La force d’attention : Sức mạnh của sự chú ý.

    Luôn luôn để tâm vào đường đạo, không có sự cám dỗ nào làm cho con người quên được mục đích của mình.

    6/ Shraddhâ : La foi. La confiance en son Maître et en soi même.

    Đức tin. Sự tin cậy Thầy mình và sự tin cậy mình nữa, tự tin.

    Tới giai đoạn nầy sinh viên thấy rằng bấy lâu nay mình thực hành những lời Thầy chỉ bảo, cái kết quả rất tốt đẹp nên đặt hết đức tin vào Thầy mình và cũng tin rằng tới một ngày kia mình đắc đạo thành chánh quả thì cũng sẽ làm được những việc mà hiện giờ Thầy mình đang làm đây.

    Giai đoạn thứ ba nầy Ấn Độ giáo gọi là Shatsampatti gồm 6 đức tánh là :

    1.- Shâma

    2.- Dâma

    3.- Uparati

    4.- Titiksha

    5.- Shraddhâ

    6.- Samâdhâna

    Ấn Độ giáo để đức tánh Đức tin trước sự Chú ý



    IV.- Anuloma. L’ordre direct ou la succession.

    Thứ tự trực tiếp hay là liên tục.

    Đức tánh thứ tư là qui kết ba đức tánh trước. Tới giai đoạn nầy trong lòng sanh ra sự ham muốn thoát đọa Luân hồi và trở về sống với Thiêng Liêng.

    Ấn Độ giáo gọi là Mumukshâ hay là Moumoukshoutva : le désir de la libération : Muốn được giài thoát.

    Quí bạn hãy so sánh bốn giai đoạn của thời kỳ chuẩn bị nầy với bốn đức tánh của Ấn Độ giáo và bốn đức tánh kể trong cuốn Dưới Chơn Thầy.

    a) Phân biện

    b) Đoạn tuyệt

    c) Hạnh kiểm tốt

    d) Lòng từ bi.

    Thì thấy chúng nó giống hệt nhau vì cả thảy đều ở một gốc mà ra. Gốc đó là Thiên Đình, là Quần Tiên Hội. Chúng nó là luật lệ của Thiên Đình ban ra do ý muốn của Đức Thượng Đế.

    Luôn luôn chơn lý vẫn một.

    Lá xanh ngó trắng bông sen thắm,

    Tam giáo xưa nay vẫn một nhà.

    Phải có đủ bốn đức tánh kể ra trên đây mới bắt đầu học được Huyền bí học, rồi từ đó đi lần lên cao.

  15. #15

    Mặc định

    BỐN BỰC ĐỆ TỬ ĐƯỢC ĐIỂM ĐẠO

    Bốn bực đệ tử được điểm đạo là bốn quả vị đầu tiên trong Quần Tiên Hội cũng gọi là Thiên Đình.

    Muốn được vào hàng đệ tử được điểm đạo, sinh viên phải qua một cuộc thi gồm hai điều kiện : Đạo đức và Tài trí.

    Về mặt đức hạnh : Sinh viên phải có những đức tánh và phải chặt đứt những dây chướng ngại do luật trời đã qui định cho mỗi cấp bực.

    Về mặt tài trí : Có những câu hỏi và những sự thí nghiệm để chứng minh khả năng của sinh viên, bởi vì sinh viên không xứng đáng với nhiệm vụ sẽ được giao phó cho mình. Sinh viên cũng phải trưng những bằng cớ cụ thể chứng rằng mình đã dùng những quyền năng của mình đã khai mở để giúp đời tới một mức nào đó rồi. Luôn luôn phải có sự chuẩn y của Đức Ngọc Đế sinh viên mới được điểm đạo và vào Quần Tiên Hội.

    ĐIỂM ĐẠO LÀ GÌ ?

    Điểm đạo là chỉ máy Huyền vi hay là giao chìa khóa mở cửa cõi Trời. Điểm đạo cũng có nghĩa là khởi đầu một cuộc đời mới trong đó Phàm nhơn lần lần trở nên phản ảnh của Chơn nhơn, và Chơn nhơn bắt đầu vận dụng quyền năng của Chơn Thần.

    ĐIỂM ĐẠO Ở ĐÂU ?

    Tại quả Địa cầu nầy chỉ có một Đấng Chí Tôn, Đấng Duy Nhứt được phép Điểm đạo mà thôi; ấy là Đức Ngọc Đế (xin xem tới chỗ tiểu sử của Ngài).

    NHỮNG NGHI VẤN.

    Chúng ta đã biết thời kỳ chuẩn bị, bốn bực Điểm đạo, mười dây chướng ngại. Bây giờ nêu ra hai câu hỏi sau đây :

    1.- Lấy bằng cớ nào chứng chắc rằng vị đệ tử có đủ những đức tánh của thời kỳ chuẩn bị đặng cho vào bực Tu đà Huờn.

    2.- Làm sao biết được vị Tu đà Huờn đã dứt ba dây chướng ngại nên được lên bực Tư đà Hàm.

    Hai câu hỏi đây giải quyết không xong thì làm sao phân biệt được ai là Tu đà Huờn giả, ai là Tu đà Huờn thiệt. Các vị tăng đồ đều có thể tự xưng mình, ông nầy là A na Hàm, ông kia là La Hán, rồi ai là người có thẩm quyền để kiểm soát mấy điều đó.

    Như tôi đã nói khi nãy, duy có nhân viên trong Quần Tiên Hội mới trả lời được và đúng với sự thật mà thôi.

    Trước hết ta nên biết cách Chơn Sư tầm kiếm và thâu nhận đệ tử.


    CÁCH CHƠN SƯ TẦM KIẾM VÀ THÂU NHẬN ĐỆ TỬ

    Để giải quyết những sự thắc mắc của quí bạn, tôi xin thuật sự kinh nghiệm của Đức Leadbeater hồi Ngài mới vào hàng đệ tử cho quí bạn nghe. Quí bạn suy ra thì rõ. Đức Leadbeater nói (đại ý như sau) :

    “Tôi nhớ một việc xảy ra hồi tôi mới được Chơn Sư thâu nhận. Tôi biết một người học lực uyên thâm, một nhà đại bác học, đời sống rất trong sạch. Anh tin chắc Chơn Sư có thật và hiến thân cho công việc của Ngài. Theo tôi thì anh cao hơn tôi nhiều phương diện và anh chuẩn bị đủ cách để làm một người đệ tử hoàn toàn. Nhưng mà tôi chẳng hiểu sao giá trị của anh chưa được nhìn nhận. Bởi vì còn mới và chưa hiểu cách làm việc trong Huyền bí học, nên một ngày kia có có dịp đưa đến, tôi kính cẩn xin lỗi Chơn Sư cho phép tôi đem tên anh nầy tỏ bày cho Ngài nghe và ngỏ ý rằng anh sẽ là một khí cụ rất tốt. Chơn Sư mỉm cười vui vẻ nói : “Con chớ sợ người bạn con bị bỏ rơi. Không có một người nào mà chúng ta quên đâu. Nhưng trong trường hợp con nói đây, người bạn con còn phải trả một thứ quả nên không thể thâu nhận được. Chẳng bao lâu đây y sẽ bỏ cõi trần, rồi chẳng bao lâu y sẽ đầu thai lại. Chừng nó nợ trả xong xuôi, thì điều mà con mong mỏi cho y sẽ thực hiện được”.

    Nói rồi, với lòng từ bi luôn luôn sẵn sàng biểu lộ ra, Ngài cho tâm tôi nhập vào tâm Ngài một cách mật thiết hơn trước nữa và đem nó lên một cõi cao hơn cõi tôi mới đi đến rất nhiều, nơi đó Ngài chỉ cho tôi coi những Đấng Chí Tôn quan sát cõi trần cách nào. Quả Địa cầu hiện ra trọn vẹn dưới mắt chúng tôi với cả ngàn triệu linh hồn, phần đông chưa mở mang, nên thấy lờ mờ. Nếu trong đám đông linh hồn đó, có một linh hồn nào đi gần tới mức có thể dùng được, dầu là việc ấy còn xa vời, thì linh hồn đó phân biệt với mấy linh hồn kia cũng như ánh sáng của ngọn đèn pha trong đêm tăm tối. Chơn Sư mới nói : Bây giờ con thấy chưa ? Không thể quên được một người nào mặc dầu còn lâu lắm va mới được vào hàng đệ tử nhập môn.”

    Bao nhiêu đây đủ chứng minh rằng : Chơn Sư tìm chúng ta chớ chúng ta khỏi thất công đi tìm Ngài.

    Ngài biết chúng ta, trước khi chúng ta biết Ngài.

    Còn một câu hỏi : “ Làm sao Chơn Sư biết con người có đủ những đức tánh cần thiết”. Tưởng cũng phải giải ra cho minh bạch. Mỗi tánh tình của con người đều biểu lộ ra trong cái vía bằng một hình dạng có màu sắc. Màu sắc là cái phẩm của tánh tình. Tánh tình tốt, màu sắc tươi đẹp; tánh tình xấu, màu sắc đen tối.

    Còn sự tiến bộ của con người về mặt trí thức cũng hiện ra trong cái trí bằng hình dạng có màu sắc như tánh tình vậy. Người có thần nhãn thấy cái vía. Người có thiên nhãn thấy cái trí. Chơn Sư mở tới huệ nhãn cao hơn hai lần thiên nhãn. Ngài ghé mắt vào người nào thì biết trình độ tiến hóa của y tới đâu, tánh tình thế nào, khỏi cần phải dùng tới sắc đẹp, tiền tài hay chi chi đặng thử lòng như phương pháp của chúng ta thường áp dụng. Các Ngài đã đọc trong lòng của chúng ta như xem một cuốn sách giở ra. Không bao giờ các Ngài lầm lạc.

    Vậy thì chúng ta cứ lo trau dồi tánh nết, tìm dịp giúp đời không bao giờ vụ lợi thì chắc chắn Chơn Sư sẽ sai đệ tử đến chỉ cách cho chúng ta luyện tập và sẽ thâu chúng ta làm đệ tử khi chúng ta có đủ những điều kiện của Thiên Đình đã định. Trong Quần Tiên Hội không bao giờ có tư vị hay sự bất công.

    Nếu chúng ta chưa dập tắt lửa lòng thì dầu qua Tây Tạng hay là leo lên tới đỉnh Hi Mã Lạp Sơn cũng không hể gặp được Chơn Sư. Hoài công vô ích.



    1.- BỰC THỨ NHỨT - SOTAPATTI HAY SOHAN.

    ----------

    BỰC TU ĐÀ HUỜN (hay là sự Điểm đạo lần thứ nhứt)

    PHẢI CÓ NHỮNG ĐIỀU KIỆN NÀO ?

    Điểm đạo lần thứ nhứt : Muốn được điểm đạo lần thứ nhứt phải có đủ bốn đức tánh của thời kỳ nhập môn kể ra trước đây.

    Mỗi đức tánh phải hơn mức trung bình. Nhưng lấy theo cách chấm điểm dưới thế gian mà nói, nếu tánh Phân biện có 4 điểm mà lòng Từ bi tới 7 điểm thì thí sinh được chấm đậu. Bởi vì không lòng Từ bi Bác ái, các tánh tốt kia giống như nước đổ xuống cát bị rút đi mất hết. Người được điểm đạo lần thứ nhứt, Ấn Độ giáo gọi là Parivrajaka, nghĩa là Người đi ta bà trong ba cõi (L’homme errant dans les trois mondes) tức là vô trú.

    Sinh viên tới trình độ nầy Phật giáo gọi Sowani hay là Sotapanna, Tàu dịch là Tu đà Huờn. Sawani có nghĩa là đã vào trong dòng sông, nhập lưu. Vị Tu đà Huờn đã vào dòng tiến hóa của những bực siêu phàm. Từ đây mặc dầu anh có bị những cám dỗ tế nhị xúi dục làm những chuyện tà thuật và phạm tội lỗi, nhưng anh không thể bỏ dứt đường đạo, trở thành một người phàm phu tục tử như xưa. Anh đã vượt hơn người thường một cuộc tuần huờn, nghĩa là hơn sự tiến hóa của nhơn loại đi một vòng gồm bảy bầu hành tinh làm ra dãy địa cầu nầy. (Tôi có nói trong cuốn Đời sống huyền bí của Thái dương hệ của tôi). Anh nhờ Thầy hay là một vị Đại sư huynh tới bực La Hán đem anh lên tới cõi Bồ Đề một vài lần thôi, đặng cho anh thấy rõ ràng trước mắt : “Vạn vật nhứt thể” chỉ có một sự sống duy nhứt trong thiên hình vạn trạng – nói một cách khác : “Ta với chúng sanh là một” và lên đây mới biết lòng Từ bi Bác ái của Đức Phật là như thế nào . . .


    BA DÂY TRỞ NGẠI.

    Ba dây trở ngại nầy là :

    1/ Sakkayadithi – Phàm nhơn là mộng ảo.

    2/ Vitchikitchtchha - Sự hoài nghi hay là mơ hồ.

    3/ Silabbataparamâsa – Mê tín, tin dị đoan.


    1.- PHÀM NHƠN LÀ MỘNG ẢO.

    Trừ phi những người có học đạo thì thiên hạ đều không biết bản tánh thiêng liêng của mình là Chơn Thần . . . nên cứ lầm xác thân là mình, ý muốn là mình, trí tưởng là mình, nên thường làm những điều của chúng nó muốn, hầu hết là những việc không lành. Như thế mới có việc lương tâm trách móc, ăn năn hối hận mà phải muôn kiếp luân hồi đặng trả quả.

    Con người cũng ngỡ là mình không liên lạc chi với kẻ khác nên xây dựng một bức tường chia rẽ : “Ta là Ta, Anh là Anh”, ai có dè sự thất bại của mình là sự thành công của người. Sự thành công của người là sự thành công của mình. Nhân quả buộc chặt chẽ tất cả các giống dân tộc trên địa cầu làm một khối duy nhứt. Không ai sống riêng cho một mình mình được. Một người tiến thì tất cả tiến, một người thối thì tất cả thối.

    Phàm nhơn mộng ảo cũng có nghĩa là ta dùng nó có một kiếp mà thôi. Kiếp sau ta sanh ra rồi sẽ có một phàm nhơn mới. Nó không được vĩnh viễn trường tồn.

    Nhờ lên được cõi Bồ Đề mà vị đệ tử mới thật biết Phàm nhơn là mộng ảo. Nó giống như một giọt nước trong biển cả nhơn loại. Người ta cũng gọi Phàm nhơn là Bản ngã. Nói thì nghe rất dễ nhưng phải nhiều phen kinh nghiệm mới không còn lầm mình là Phàm nhơn. Quả thật hồi mới đi đầu thai làm người, sự ích kỷ giúp cho Phàm nhơn phát triển cá tánh của mình, nhưng tới một thời kỳ kia tánh ích kỷ phải nhường chỗ lại cho tánh vị tha. Cũng như trước khi cất nhà, ta phải dựng giàn trò - một khi cái nhà hoàn thành thì phải giở giàn trò, nếu để nó mãi không phá đi thì coi sao cho được.

    Trong bài chuyện vua Milinda và Đại đức Nagaséna tôi đã bàn về thuyết Vô ngã rồi, tưởng khỏi phải lập lại nữa.

    Nói cho đúng lý, chẳng những Phàm nhơn là mộng ảo, mà là tất cả những hiện tượng xảy ra cho chúng ta thấy đều là mộng ảo cả. Chúng chỉ khác nhau là tại bản tánh và thời gian sau hay trước, kỳ hạn lâu hay mau mà thôi.

    Nhưng ta phải nương theo cái giả mà tìm cái Chơn đặng thoát ra khỏi vòng mộng ảo.


    2.- SỰ HOÀI NGHI HAY LÀ MƠ HỒ.

    Về chướng ngại thứ hai nầy có một điểm tưởng cần phải giải rõ.

    Thường thường theo giáo phái bắt buộc những người muốn nhập môn phải nhắm mắt thừa nhận vài tín điều. Khi nghe nói Huyền bí học xưa xem tánh hoài nghi hay mơ hồ là một chướng ngại thì người ta liên tưởng rằng ở đây người học đạo cũng bị bắt buộc tin một cách mù quáng như thế. Không bao giờ có điều đó. Nên bỏ ý nghĩ sai lầm ấy đi.

    Quả thật trong Huyền bí học có vài vấn đề, nếu nghi ngờ hay không tin chắc có những điều đó thì sẽ tạo ra những chướng ngại ngăn cản sự tiến hóa về đường tinh thần của mình.

    Sự hoài nghi hay là mơ hồ đây là không chắc cơ Trời là sự tiến hóa và không tin có sự Luân hồi, Nhân quả.

    Con người cho mấy điều nầy là mơ hồ thì làm sao học đạo. Nếu nói : “Phải thấy linh hồn đi đầu thai hay là cách Nhân quả hành động mới tin” thì biết tới chừng nào con người mới tu hành. Cũng như một đứa nhỏ không tin bản cửu chương thì làm sao nó làm toán nhơn và toán chia được. Ta chỉ nên tin những điều ta học hỏi và kinh nghiệm mà thôi. Nhưng trong Huyền bí học có nhiều giáo lý do các vị Sư huynh dạy lại một cách tổng quát như những cõi Trời, những giống dân, những cuộc tuần huờn, những dãy hành tinh v. v. . . Hiện giờ mặc dầu ta chưa thí nghiệm được, nhưng ta vẫn tin bởi vì ta đã biết địa vị của mấy Sư huynh ấy rồi. Điều nầy không khác nào những học sanh ở cấp bực Trung học khi học môn Lý Hóa đều tin tưởng những lời các vị giáo sư đã dạy - mặc dầu mấy em chưa phân tách được nước hay là nhiều chất toan (acide) như lưu toan (acide sulfurique) và lục toan (acide chlorhydrique), nhưng không bao giờ mấy em nói rằng công thức của chúng nó OH2 , SO4H2 , CLH – ghi trong sách là sai. Mấy em biết rằng khi qua ban Đại học rồi mấy em sẽ chứng minh được những công thức ấy. Tới chừng đó đức tin càng thêm vững chắc.

    Trong Huyền bí học cũng thế.

    Nói về cơ tiến hóa thì ta phải chú ý tới sự tiến hóa tinh thần và sự tiến hóa của hình dạng hay vật chất một lượt, vì vật chất vốn là một lớp áo của tinh thần mặc đặng biểu lộ. Tinh thần tiến hóa thì hình dạng phải tiến hóa. Hình dạng nào tiến hóa không kịp với tinh thần thì tinh thần bỏ nó đặng lấy hình dạng mới khác hợp với mình.

    Chính là Túc Sanh Truyện chỉ cho ta thấy sự tiến hóa của tinh thần và sự tiến hóa của hình dạng. Hai cái vẫn đi đôi với nhau luôn luôn, nhưng không giải thích tại làm sao; bởi đó thuộc về khoa bí truyền và thuở xưa chưa được phép tiết lộ ra.

    Con cua, con cá biến thành con chim, con thú, đầu thai làm người là sự tiến hóa vô hình dạng. Hồn con cua, con cá thành ra hồn con chim, con thú rồi biến ra thành hồn người. Hồn người tu thành Phật tức là tiến hóa về mặt tinh thần . . . Điều nầy rất rõ rệt và ta có thể kết luận như vầy :

    “Bởi Đức Thích Ca là người và tu thành Phật; và trước khi làm người, Ngài đã trải qua nhiều kiếp từ con cua, con cá tới thú vật thì ta đây cũng là người như Ngài, ta đã trải qua những kiếp như thế và sau ta sẽ thành Phật như Ngài vậy.”


    LUẬT LUÂN HỒI VÀ NHÂN QUẢ

    Vạn vật đều luân hồi và đồng phục tùng một luật là luật Nhân quả. Trừ ra phái Duy vật không tin có Luân hồi và Nhân quả thì các đạo trên thế gian đều dạy rằng : Luật Trời chí công, làm lành lành tới, làm dữ dữ tới, không bao giờ sai chạy. Thật vậy, ai có kinh nghiệm đều thấy như thế, mặc dầu không biết được luật Nhân quả hành động thế nào vì có cái tới mau, có cái tới chậm và có cái nặng, có cái nhẹ, luôn luôn khác nhau.

    Có nhiều người hỏi : “Nếu quả thật tôi đi đầu thai lại thì tại sao tôi không nhớ kiếp trước tức là : tôi sanh ra ở nước nào, nhà nào, và làm những việc chi, gia quyến bao nhiêu người và tới mấy tuổi mới từ trần v. v. . .”

    Thật vậy, ai lại không muốn biết mấy điều đó. Nhưng nếu biết được lý do thì người ta sẽ biết không nhớ mấy kiếp trước là một việc rất hay cho con người khi chưa tiến hóa cao. Nói trắng ra, nếu nhớ kiếp trước thì con người sẽ trả thù những kẻ đã hãm hại mình, hà hiếp mình, làm đau khổ gia quyến mình, hư hại cả đời vợ con mình v. v. . . Đã quên kiếp luân hồi, mà con người cũng còn làm cho cõi trần thành ra bãi chiến trường, mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết. Những nỗi oan khuất chồng chất tới tận mây xanh, cắn cỏ kêu trời không thấu. Nếu nhớ kiếp luân hồi thì cõi trần sẽ biến ra bãi sa mạc.

    Bây giờ tôi xin cắt nghĩa tại sao không nhớ chuyện mấy kiếp trước.

    Lúc ta còn sanh tiền, ta nhờ cái trí để học hỏi, xét đoán, phân biện và ghi nhớ. Sau khi bỏ xác trần một ít lâu thì cái trí tan rã. Những sự kinh nghiệm học hỏi đều ghi vào hột lưu tánh phân tử hay là hột phân tử trường tồn của cái trí bằng những lằn rung động. Khi đi đầu thai đứa nhỏ sanh ra không có một cái trí trọn vẹn như kiếp trước mà nó chỉ có những chất khí đồng bản tánh với những chất khí đã làm cái trí của kiếp trước nó.

    Những chất khí nầy bị những tập quán, những giáo dục của gia đình, xã hội và luôn những sự học hỏi và kinh nghiệm riêng của nó kiếp nầy biến đổi rất nhiều.

    Vì thế, trừ ra vài trường hợp đặc biệt như những vị thần đồng, những vì thay hồn đổi xác, những vì thác rồi đầu thai lại liền, thì bao nhiêu con người đều quên hết kiếp trước. Nói tóm lại là cái trí mới khác với cái trí cũ khi đứa nhỏ lần lần lớn lên.

    Tới một ngày kia khi con người tiến tới một mức khá cao trên đường đạo. Con người sẽ học được phương pháp tri ra những kiếp trước.


    3.- SỰ MÊ TÍN VÀ TIN DỊ ĐOAN.

    Sự tin dị đoan gồm những tín ngưỡng vô lý và lầm lạc như đinh ninh rằng nhờ cúng kiến, lễ bái mà tâm con người trở nên trong sạch. Các tôn giáo quả có dạy con người cầu nguyện, tiết thực, cúng kiến, sám hối, dâng hương v . v . . . Nhưng chúng nó là những phương pháp phụ thuộc, cũng có những sự ích lợi riêng vậy và giống như hàng đôi giúp cho trẻ con mới tập viết, viết cho ngay hàng, hoặc cũng như cái ghế để đứa bé hai tuổi vịn đặng tập đứng cho vững. Một khi nó viết giỏi hoặc cứng gối rồi thì không cần hàng đôi và cái ghế nữa.

    Quả quyết rằng nhờ nghi lễ mà con người được giảm tội hay là niệm A Di Đà Phật lúc lâm chung, chết được về Tây phương Cực lạc là tin dị đoan. Cái chi ở ngoại giới chỉ giúp ích cho con người trong một thời gian mà thôi. Trông cậy mãi ở sức bên ngoài thì sẽ thất vọng. Tới một ngày kia nó sẽ mất hết, mình phải tự tin mình, phải dùng sức mình để chặt đứt những dây xiềng xích đã buộc chơn mình vào bánh xe luân hồi. Không ai làm chuyện đó cho mình được.

    Chặt đứt dây chướng ngại thứ hai rồi thì thấy không có một hình thức tôn giáo nào hạp cho tất cả mọi người. Ai ai cũng có thể đi đến cửa đạo hoặc theo một tôn giáo, hoặc không theo một tôn giáo nào cả, miễn là có đủ những đức tánh cần thiết. Đó là điều kiện tối cần.

    Ngoại trừ tận diệt ba trở ngại kể trên đây, vị Tu đà Huờn còn phải biết dùng cái trí đặng hoạt động ở bốn cảnh thấp của cõi Thượng giới tức là cõi Hạ thiên và làm những công việc nhứt định cũng như dùng xác thân ở cõi Hồng trần. Tới kỳ thi điểm đạo lần thứ nhì cũng phải trưng những bằng cớ chứng rằng từ khi mình được điểm đạo lần thứ nhứt cho tới ngày nay mình vẫn chỉ dùng pháp lực để độ đời mà thôi.


    KHOẢNG GIỮA HAI BỰC HAY LÀ

    KHOẢNG GIỮA HAI KỲ ĐIỂM ĐẠO.

    Trong mỗi khoảng đường điểm đạo nghĩa là khoảng giữa hai bực hay là hai kỳ điểm đạo đều chia ra làm bốn giai đoạn.

    a) Giai đoạn thứ nhứt gọi là Ma go (Maggo), lúc nầy vị đệ tử rán sức diệt trừ các dây trở ngại.

    b) Giai đoạn thứ nhì gọi là Pha la (Phala), nghĩa đen là kết quả tốt đẹp của mình lần lần hiện ra tỏ rõ.

    c) Giai đoạn thứ ba gọi là Ba hoắc ga (Bhavagga). Sự kết quả đã trọn vẹn, vị đệ tử đã đứng vững tại địa vị của mình và làm công việc đắc lực.

    d) Giai đoạn thứ tư gọi là Gô tra bu (Gotrabhu), vị đệ tử với trình độ xứng đáng được điểm đạo lần kế đó, tức là lên một bực.


    2.- BỰC THỨ NHÌ – SAKADAGAMI



    BỰC TƯ ĐÀ HÀM (hay là sự Điểm đạo lần thứ hai)

    Vị đệ tử tới bực thứ nhì nầy gọi là Sakadagamin. Nghĩa là người chỉ trở lại một lần nữa mà thôi. Tàu dịch là Tư đà Hàm. Sao gọi là trở lại một lần nữa ? Đây có nghĩa là vị Tư đà Hàm chỉ đầu thai một kiếp thì tới bực La Hán. Vị La Hán ở cõi Bồ Đề tu hành thêm, chừng tới bực A Sơ Ca hoàn toàn giải thoát, khỏi bắt buộc luân hồi như người thế nữa . . . Nhưng nếu Ngài trở lại cõi trần mang cái xác phàm nặng trĩu nầy đặng độ đời thì là tự ý. Trong giai đoạn thứ nhì nầy, vị Tư đà Hàm không có dây chướng ngại nào phải chặt đứt, nhưng phải cố gắng làm giảm bớt sức đè nặng của 7 dây chướng ngại còn lại sau nầy.

    Anh phải lo tinh luyện tâm tánh vì trong thời kỳ nầy cái trí mở rộng và dùng những phép thần thông. Nếu trổ tánh kiêu căng tự phụ thì sẽ rớt. Rớt có nghĩa là đầu thai nhiều kiếp mà không tiến hóa. Phải lên tới bực thứ ba mới vững bước.

    Ấn Độ giáo gọi người được hai lần điểm đạo là Koutichaka, nghĩa là người cất một cái chòi, người đã tới chỗ yên tịnh.

    3.- BỰC THỨ BA – ANAGAMI



    BỰC A NA HÀM (hay là sự Điểm đạo lần thứ ba)

    Người lên bực thứ ba là Anagamin – A na Hàm – Anagamin nghĩa là không trở lại nữa. . . nội trong kiếp đó phải lên tới bực La Hán. Nhưng trước hết phải dứt cho được hai dây chướng ngại thứ tư và thứ năm là :

    4/ Kemaraga – Dục tình do giác quan sanh ra.

    5/ Vyapada ou Patigha - Sự giận hờn hay thù oán.

    Tới bực nầy đâu còn say đắm dục tình hay là múa tay trợn mắt, vỗ bàn đập ghế như kẻ thường nhơn – nhưng mà hai tánh nầy có những hình thức tế nhị, ẩn hiện không chừng. Vật chất có những quyền năng quyến rủ phi thường. Không khéo thì phải sa vào cạm bẫy, bị cám dỗ, chơn vướng vào vòng nhưng cứ ngỡ là mình được tự do, hoàn toàn trong sạch. Người biết đạo rồi lo giữ mình từ chút mà còn phải sợ vấp té không biết giờ phút nào, nếu ỷ mình buông lung thì làm sao khỏi bị sa ngã . . .

    Nhưng chớ nên lầm lạc rằng không nên thương ai hết. Không phải như thế . . . Đó là trạng thái của kẻ bàn môn tả đạo.

    Tình thương trong sạch và cao thượng không hề vì sự phát triển Huyền bí học mà bị dập tắt hay là giảm đi. Trái lại nó cũng mạnh mẽ và càng mở rộng cho tới một ngày kia nó bao trùm tất cả chúng sanh. Như thế tránh được sự bất công và sự thiên vị thường hay xảy ra trong tình yêu eo hẹp thường tình. Hơn nữa, tình thương riêng biệt một người càng thêm đậm đà thâm thúy chớ không phải lạt lẽo. Tỷ như tình thương Đức Phật đối với Ananda, tình thương của Đấng Christ đối với thánh Jean, tình thương Chơn Sư đối với đệ tử càng ngày càng thêm khắn khít không có chi làm tan rã được.

    Ấn Độ giáo gọi vị A na Hàm là Hamsa, con Hạc, vì tục truyền rằng con hạc đứng trước một cái chậu đựng sữa pha nước, nó phân biệt được cái nào là nước, cái nào là sữa; cũng thế ấy, hiền nhơn đánh đúng giá trị mọi việc ở đời.

    Trước khi làm vị La Hán thí sanh phải vào một chỗ kia đặng thí nghiệm một trạng thái gọi là A quít si (Avitchi), Tàu dịch là A Tỳ. A quít si nghĩa là không rung động.

    A Tỳ không phải là một cái ngục ở dưới đất đâu. A Tỳ là trạng thái của người cảm thấy mình lẻ loi, trơ trọi và bị loại ra ngoài vòng Trời Đất. Đây là trạng thái của mấy vị Bàn Môn Tả Đạo, lúc còn sanh tiền ỷ mình phép tắc cao cường làm trái nghịch lòng Trời không ăn năn chừa cãi. Nhiều kiếp va hành động ác nghiệp cho nên kiếp chót bị bắt bỏ vào đây không được đi đầu thai nữa. Phàm nhơn, cái vía và cái trí tan rã lần lần, sự đau đớn không bút nào tả cho đúng với sự thật. Ở chốn nầy một phút có lẽ bằng một trăm năm ở ngoài, vì không biết có không gian và thời gian.

    Có vị đệ tử chịu không nổi trạng thái nầy nên phải bước ra ngoài. Thế thì đã bị rớt. Phải trở về luyện tập để kỳ sau thi lại.

    Đức Leadbeater có nói :

    “Sự kinh nghiệm nầy ghê tởm hơn hết trong những sự kinh nghiệm mà con người phải trải qua, chịu được thì có hai điều hay.

    Một là : Chia sớt số phần của những kẻ sa vào chốn nầy vì bởi những việc làm tàn ác của họ. Không vậy làm sao người đệ tử mở rộng lòng từ bi của mình được.

    Hai là : Nó dạy cho con người thấy rằng phải đủ sức đứng vững một mình mình, lìa hết ngoại giới, tự biết chắc mình với Đức Thượng Đế vẫn là một. Sự cảm thấy mình lẻ loi là mộng ảo”



    4.- BỰC THỨ TƯ – ARAHAT

    BỰC LA HÁN (hay là sự Điểm đạo lần thứ tư)

    La Hán có nghĩa là : Đại Đức, Tôn Giả (Vénérable – Parfait).

    Tới trình độ nầy đệ tử đã đi được phân nửa đường đạo vì mới dứt được 5 chướng ngại. Còn 5 chướng ngại chót phải chặt đứt mới được hoàn toàn giải thoát về cõi Niết Bàn.

    Ấy là :

    6/ Rouparâga - Muốn sống trong cõi có hình dạng,

    7/ Arouparâga - Muốn sống trong cõi không có hình dạng.

    8/ Mâna – Kiêu căng.

    9/ Ouddhatchtcha – Cái trí còn xao động. Tâm chưa yên tịnh hoàn toàn.

    10/ Avidjja – Vô minh.

    Phải diệt trừ ý muốn sống ở cõi trần dầu đời sống cao thượng hay vĩ đại tới đâu cũng vậy, hay là sống ở cõi Thiên Đường hoặc cõi Bồ Đề vô cùng vinh quang.

    Cũng phải diệt tánh ưa thích và gần gũi cái đẹp, “chê bai và tránh cái xấu” , dầu người hay vật trong khi làm việc, không còn một ý nghĩ thoáng qua rằng mình cao hơn người, thấy xa hiểu rộng hơn người và được mau giải thoát hơn người.

    Chế phục được Ouddhatchtcha thì dầu xảy ra việc chi, tâm trí người đệ tử vẫn hoàn toàn yên tịnh không bao giờ xao xuyến, không bao giờ nao núng, giống như mặt nước phẳng lặng như tờ, phản chiếu tất cả mà không pha lẫn bất cứ là cái chi. Từ đó học hỏi rất mau.

    Sự tiến hóa trong con đường đạo không giống như ở ngoài đời chút nào. Nó không phải như toán học cấp số, 2 rồi đến 4, 6, 8, hay là kỷ hà cấp số, 2, 4, 8, 16 v. v. . . mà phải tính như vầy mới đúng, 2 rồi lên 4, kế đó 16 rồi 256, 5.536, bực thứ năm là 4.294.967.296, nghĩa sự tiến bộ ban đầu kể có 2 mà bốn bực sau lên tới bốn ngàn hai trăm chín mươi bốn triệu, chín trăm sáu mươi bảy ngàn hai trăm chín mươi sáu, cao hơn trước biết là dường nào. Nhờ như vậy mới dứt được vô minh mau chóng, biết rõ sự sanh hóa dãy địa cầu nầy, và sự tiến hóa của nó trong thời kỳ quá khứ, hiện tại và vị lai. Vị La Hán tới bực nầy thì được điểm đạo lần thứ năm làm một vị A sơ Ca.

    Ấn Độ giáo gọi vị La Hán là Ba ra ham sa (Parahamsa) nghĩa là trên Hamsa một bực, có thể gọi là Đại ham sa. Con Hạc lớn.

    Vị La Hán phải trả tất cả những quả báo còn sót lại, nếu tới bực A na Hàm mà chưa thanh toán hết. Ban đầu vị đệ tử được thiên hạ hoan nghinh nhiệt liệt, nhưng không bao lâu có kẻ phản bội đứng lên công kích phao vu. Họ trưng ra những lý lẽ đứng đắn làm cho thiên hạ nghe theo, áp lại sỉ nhục đủ điều, ai ai cũng khinh bỉ, cho đến đỗi nhiều người đã thọ ơn dạy dỗ trước kia bây giờ cũng trở mặt bài xích. Có vị La Hán mang bịnh hoạn nặng nề, ít ai đoái hoài tới.

    Cái gương của Đức Pythagore bị Cylon thù hận, Đức Jésus bị Iscariote Judas phản bội đủ chứng minh rồi. Đó là số phần của kẻ xả thân cứu đời.

    Ở cõi Trần là sự nhục nhã, còn ở mấy cõi trên là sự vinh quang. Vị đệ tử đã thắng được sự chết và đã phục sinh.



    5.- BỰC THỨ NĂM – A SƠ CA (ASEKA)



    A sơ Ca có nghĩa là không còn làm đệ tử nữa, không còn học hỏi nữa (về dãy địa cầu nầy mà thôi chớ trong Vô cực còn không biết bao nhiêu sự nhiệm mầu khác).

    Tới bực A sơ Ca mới có quyền thâu đệ tử, vị La Hán chưa được phép làm thầy. Như thế thật là đúng lý. Mình độ mình rồi thì mới độ kẻ khác được, mình độ mình chưa xong thì độ ai bây giờ.

    Người đệ tử hồi mới làm vị Tu đà Huờn thì gọi là nhập lưu, tới khi đắc đạo thành chánh quả thì gọi là qua tới bến.

    Theo trình độ tiến hóa hiện thời của chúng ta, chúng ta chưa quan niệm được vị A sơ Ca là thế nào. Nhưng mấy vị cao đồ, mấy vị La Hán nói rằng : Lòng người mẹ thương yêu đứa con duy nhứt của mình và hi sanh tánh mạng để che chở cho nó thế nào thì vị A sơ Ca cũng thương yêu chúng sanh và hi sanh cho nhân loại thế ấy.

    Ngài ghé mắt vào vấn đề nào thì liền hiểu rõ hết vấn đề đó, từ nguyên nhân cho đến tất cả các chi tiết.

    Ấn Độ giáo gọi Ngài là Jivamoukta : Linh hồn đã được giải thoát.


    BẢY ĐƯỜNG TIẾN HÓA TRƯỚC VỊ A SƠ CA.

    Vị A sơ Ca mới thành một vị Siêu phàm, bên Đông phương gọi là Chơn Tiên. Nếu thành Tiên rồi :

    Sớm chơi Bắc Hải, tối về Thương Ngô.

    Thì rất ích kỷ và kéo dài đời sống như thế mãi không chán ư !

    Sự thật là trước vị A sơ Ca có 7 đường tiến hóa khác nhau, Ngài có quyền chọn lựa đường nào cũng tùy ý.

    1.- Hoặc là - Ở lại cõi trần, lấy xác phàm đặng giúp nhơn loại và lãnh một chức vụ trong Quần Tiên Hội. Đường nầy khổ cực hơn hết; người ta gọi mấy vị ấy là những Chơn Sư từ bi bác ái. Trong lúc độ đời, Chơn Sư phải tu luyện thêm đặng lên những bực cao nữa.

    2.- Hoặc là - Ở giúp nhơn loại, song không giữ xác phàm và cũng không lãnh một chức vụ trong Quần Tiên Hội, mấy vị nầy gọi là những vị Nirmanakaya. Các Ngài sanh ra những thần lực để Quần Tiên Hội dùng đặng độ đời.

    3.- Hoặc là - Nhập vào hàng các Đại Thiên Thần đặng tiến hóa nữa.

    4.- Hoặc là – Vào Bộ Tham Mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế đem chỉ dụ của Ngài khắp mười Dãy hành tinh của Thái dương hệ nầy.

    5.- Hoặc là - Dự vào việc tạo lập Dãy hành tinh thứ năm để sau thế cho Dãy Trái đất của mình là Dãy thứ tư.

    6.- Hoặc là - Nhập vào Niết Bàn đặng tiến hoá, sau qua Thái dương hệ khác làm một vị Thiên Đế Avartar (Incarnation divine). Người ta gọi là mặc áo Dharmakya.

    7.- Hoặc là - Nhập vào Niết Bàn đặng tiến hóa và người ta gọi là mặc áo Sambhogakya.

    Nấc thang tiến hóa vô cùng vô tận, không biết sao mà diễn tả nổi. Tôi xin nói thêm, ngoài sự tiến hóa của con người còn sự tiến hóa của các loài khác, trong đó các hàng tinh tú (Esprits de la nature) và các hàng Thiên Thần, nhưng không phải là phạm vi cuốn nầy.


    QUẦN TIÊN HỘI VÀ SỰ CAI TRỊ THẾ GIAN.

    Nói đến bốn bực Điểm đạo thì phải nói đến Quần Tiên Hội và sự cai tri thế gian.

    Ta nên biết trên mỗi bầu hành tinh trong Thái dương hệ của chúng ta đều có một Đoàn thể gồm những bực Siêu phàm, những Đấng Chí Tôn mà ta gọi là Phật, là Đại Thánh, Đại Tiên (không liệt vào đó những hạng Thiên Thần) giúp Đức Thái Dương Thượng Đế để dìu dắt các loài vật tiến đến khuôn mẫu, đúng theo ngày giờ của Ngài đã định sẵn cho chúng. Chúa tể của Đoàn thể đó là một Đấng Chí Tôn, vua một cõi, vua một thế giới (Le Seigneur du Monde) - ấy là Đức Ngọc Đế được 9 lần điểm đạo.

    Chẳng rõ ở các hành tinh khác, dưới Đức Ngọc Đế, những vị được 8 lần, 7 lần, 6 lần, 5 lần điểm đạo . . . gọi là chi, chớ danh từ vua một cõi, vua một thế giới được áp dụng cho tất cả các hành tinh trong Thái dương hệ nầy.

    Tại Địa cầu chúng ta, Đoàn thể đó gọi là Quần Tiên Hội hay là Thiên Đình và ngôi thứ phân ra như sau đây :

    1.) Chúa tể là Đức Ngọc Đế được 9 lần điểm đạo.

    2.) Dưới kế đó là những vị Phật. Hiện giờ có bốn vị Phật được 8 lần điểm đạo.

    3 vị Độc Giác Phật và một vị Phật Đạo Đức là Đấng Chí Tôn mà mình gọi là Đức Thích Ca.

    3.) Dưới Phật là ba vị Tam Thanh được 7 lần điểm đạo. Đức Bàn Cổ - Đức Bồ Tát - Đức Văn Minh Đại Đế.

    4.) Dưới Tam Thanh là 7 vị Đế Quân được 6 lần điểm đạo.

    5.) Dưới Đế Quân là những vị Chơn Tiên (S sơ Ca) được 5 lần điểm đạo.

    6.) Dưới Chơn Tiên là 4 hạng đệ tử :

    - Những vị La Hán được 4 lần điểm đạo.

    - Những vị A na hàm được 3 lần điểm đạo.

    - Những vị Tư đà Hàm được 2 lần điểm đạo.

    - Những vị Tu đà Huờn được 1 lần đểim đạo.

  16. #16

    Mặc định

    BẢY CUNG CỦA THÁI DƯƠNG HỆ.

    Bảy cung của Thái dương hệ là :

    Cung thứ nhứt là cung Hành Chánh

    Cung thứ nhì là cung Đạo Đức và Giáo Dục.

    Cung thứ ba là cung Thích Nghi và Đồng Hóa coi về Chiêm tinh.

    Đúng với câu của ông Thánh Phao Lồ (Saint Paul) đã nói “Tất cả mọi vật cho tất cả mọi người” (toutes choses pour tous les hommes)

    Cung thứ tư là cung Điều Hòa và Mỹ lệ - Cung Kỹ Thuật.

    Cung thứ năm là cung Quan sát tỉ mỉ - Cung Khoa Học.

    Cung thứ sáu là cung Sùng Đạo.

    Cung thứ bảy là cung Pháp môn Phù thủy.

    ---------

    Mỗi người trên thế gian đều thuộc về một cung chánh, hoặc cung thứ nhứt hoặc cung thứ nhì v. v. . . và cũng chịu ảnh hưởng của 6 cung kia nữa. Tiện đây tôi xin nói : Không phải khoa Chiêm tinh học để dành coi số mạng như Tử vi của mình thường thấy đâu. Nó khảo cứu sự sống của các hành tinh, ảnh hưởng lẫn nhau của chúng, ảnh hưởng của chúng đối với con người cũng như đối với loài vật khác. Nó liên lạc với các vị Tinh Quân (Esprits Stellaires), các Đại Thiên Thần. Còn khoa Thiên văn chỉ xem xét về hình thể của các hành tinh mà thôi, tức là vật chất làm ra vũ trụ hữu hình chớ chưa biết đến tinh thần hay là sự sống của các thế giới trên không gian. Thuở xưa các nhà Chiêm tinh Chadée nổi tiếng khắp hoàn cầu, nhưng ở Ai Cập, Trung Hoa, Ấn Độ cũng có những nhà Chiêm tinh học trứ danh vậy.

    Vấn đề cung cực kỳ khó khăn, từ bực Chơn Tiên trở lên mới hiểu nhiều, còn các hàng đệ tử chỉ biết chút đỉnh mà thôi.

    Tôi xin nói tóm tắt là : Từ những Thái dương hệ cho tới những hạt nguyên tử, nghĩa là từ loài tinh chất, kim thạch, thảo mộc, thú cầm cho tới con người và các bực Siêu phàm, cả thảy đều chia ra làm 7 nhóm. Mỗi nhóm thuộc về một cung chánh, hoặc cung thứ nhứt hoặc cung thứ nhì, cung thứ ba v. v. . . và cũng chịu ảnh hưởng của 6 cung kia nữa.


    CHỦ TỂ CỦA BẢY CUNG.

    Chủ tể của Cung thứ nhứt là Đức Ngọc Đế.

    Chủ tể của Cung thứ nhì là Đức Phật Đạo Đức.

    Chủ tể của 5 Cung còn lại, từ Cung thứ ba đến Cung thứ bảy, là Đức Văn Minh Đại Đế.


    TAM THANH.

    Tam Thanh là :

    Đức Bàn Cổ - Đức Bồ Tát - Đức Văn Minh Đại Đế.

    Công việc của Đức Ngọc Đế chỉ xuống tới cõi Niết Bàn, các vị Độc Giác Phật phụ tá với Ngài. Ngài giao cho Đức Bàn Cổ thay mặt cho Ngài ở mấy cõi dưới.

    Công việc của Phật chỉ xuống tới cõi Bồ Đề. Ngài nhờ Đức Bồ Tát thay mặt cho Ngài ở mấy cõi dưới.

    Đức Bàn Cổ coi sóc sự sanh hóa một giống dân. Ngài sửa đổi cục diện của Địa cầu cho đúng với Cơ Trời. Đức Bồ Tát lãnh phần giáo hóa một giống dân. Ngài chăm nom những tôn giáo đã có và lập những tôn giáo mới tùy theo sự nhu cầu của dân chúng. Có khi Ngài sai một vị Chơn Sư thay mặt cho Ngài.

    Đức Văn Minh Đại Đế coi sóc sự văn minh tiến bộ của dân chúng. Đối với Ngài tương lai của nhơn loại là cuốn sách giở ra trước mắt Ngài.


    BẢY VỊ ĐẾ QUÂN COI SÓC BẢY CUNG.

    Bảy vị Đế Quân coi sóc 7 cung. Công việc của mỗi cung rất nhiều và rất phức tạp, người thường như chúng ta đây không sao hiểu nổi.


    SỰ THAY ĐỔI NGÔI VỊ TAM THANH CỦA GIỐNG DÂN CŨ.

    Khi một giống dân chánh gần tàn rồi thì Đức Bàn Cổ của giống dân đó lên làm một vị Độc Giác Phật. Đức Bồ Tát của giống dân đó lên làm một vị Phật Đạo Đức. Ngài xuống trần dạy đạo một lần chót rồi từ đó không còn dính dấp chi tới thế tục nữa.

    Đức Văn Minh Đại Đế muốn làm một vị Độc Giác Phật thì phải đổi qua cung thứ nhứt, muốn làm một vị Phật Đạo Đức thì phải đổi qua cung thứ nhì.

    Mỗi vị trước phải qua một kỳ điểm đạo nữa là kỳ thứ tám.

    Còn vị Độc Giác Phật và vị Phật Đạo Đức thế nào ?

    Vị Độc Giác Phật tu hành thêm nữa đặng một ngày sau làm một vị Ngọc Đế cai trị một bầu hành tinh.

    Còn vị Phật Đạo Đức muốn làm một vị Ngọc Đế thì phải đổi qua cung thứ nhứt, hoặc là lãnh một nhiệm vụ khác; như Phật Đỉnh Quang Dipânkara vốn là một nhân viên của Bộ Tham Mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế.

    Muốn làm một vị Ngọc Đế phải được 9 lần điểm đạo. Kỳ thứ chín nầy không ai điểm đạo cho mình cả, mình tự điểm lấy, chắc chắn là có những Đấng Cao Cả chứng minh.

    Trước hết phải lãnh trách nhiệm cai trị một bầu hành tinh trong một kỳ hạn vắn (vài triệu năm) với địa vị Ngọc Đế thứ nhứt hay thứ nhì. Nhiệm vụ nầy xong rồi thì qua bầu hành tinh khác làm một vị Ngọc Đế thứ ba. Trách nhiệm nặng nề hơn. Thế nên trên mỗi bầu hành tinh phải có 3 vị Ngọc Đế.



    TAM THANH CỦA GIỐNG DÂN MỚI.

    Đức Đế Quân chưởng cung thứ nhứt sẽ lên ngôi Bàn Cổ và coi sóc sự sanh hóa giống dân mới.

    Đức Đế Quân chưởng cung thứ nhì sẽ lên giữ địa vị Bồ Tát dạy dỗ giống dân mới nầy.

    Một vị Đế Quân trong 5 vị còn lại sẽ lãnh chức Văn Minh Đại Đế.

    Ba vị nầy trước phải qua một kỳ điểm đạo nữa là kỳ thứ bảy.

    Thuở xưa, 5 vị Đế Quân còn lại thay phiên nhau mỗi vị lãnh chức Văn Minh Đại Đế trong một kỳ gian sau khi được 7 lần điểm đạo.

    Mới đây có sự thay đổi, có một vị Văn Minh Đại Đế khác hơn 5 vị Đế Quân.

    Bốn vị Đế Quân còn lại cũng được 7 lần điểm đạo, song lãnh nhiệm vụ khác.


    NHỮNG VỊ ĐẾ QUÂN CỦA GIỐNG DÂN MỚI.

    Bảy vị Chơn Tiên lên ngôi Đế Quân coi sóc 7 cung, song phải qua một kỳ điểm đạo nữa, là kỳ thứ sáu. Còn những vị Chơn Tiên khác thì được 6 lần điểm đạo rồi lãnh những nhiệm vụ mới, tùy theo Thiên cơ.

    Nói tóm lại : từ khi nhơn loại qua ở bầu Trái đất cho tới lúc bỏ nó mà về bầu Thủy tinh (Mercure) đặng tiếp tục sự tiến hóa của mình thì có 7 giống dân chánh (Race mère).

    Mỗi giống dân chánh sanh ra 7 giống dân phụ (Sous race) tức là có 49 giống dân phụ (không kể các chi nhỏ nữa).

    Giống dân thứ nhứt và giống dân thứ nhì tàn đã lâu rồi, không còn để di tích nào cả.

    Giống dân da đen bây giờ là con cháu của nhánh nhóc thứ bảy của giống dân thứ ba là giống Lê mu ri dien (Lémuriens). Giống da vàng và giống da đỏ là con cháu của nhánh nhóc thứ bảy của giống thứ tư là giống Ắt lăng (Atlantes).

    Giống da trắng bây giờ là con cháu của giống dân phụ thứ tư và thứ năm của giống dân chánh thứ năm là giống A ri dien (Aryens). Giống dân phụ thứ sáu đã ra đời, nhưng ở rải rác khắp nơi chưa thành lập một nước.

    Khi giống dân chánh thứ bảy tàn rồi thì sự hoạt động của bầu trái đất của chúng ta đã chấm dứt. Nhơn loại bỏ quả địa cầu về Niết Bàn nghỉ ngơi một ít lâu. Đúng ngày giờ thì qua bầu hành tinh thứ năm là bầu Thủy tinh đặng học hỏi và kinh nghiệm hơn nữa. (Xin xem quyển Đời sống huyền bí của Thái dương hệ của tôi).

    Bởi mỗi giống dân chánh thì có :

    Một vị Bàn Cổ.

    Một vị Bồ Tát.

    Một vị Văn Minh Đại Đế.

    Thế nên có tất cả :

    3 vị Ngọc Đế.

    7 vị Độc Giác Phật.

    7 vị Phật Đạo đức.

    7 vị Bàn Cổ.

    7 vị Văn Minh Đại Đế.

    49 vị Đế Quân.

    Một số Chơn Tiên và

    Một số đệ tử được từ một đến bốn lần điểm đạo.



    VÀI LỜI VỀ TIỂU SỬ CỦA ĐỨC NGỌC ĐẾ HIỆN KIM

    Đức Ngọc Đế hiện kim là Đức thứ ba. Mười sáu triệu rưỡi năm trước, Ngài và ba vị Độc Giác Phật đệ tử của Ngài, từ Kim tinh qua cai trị quả địa cầu mình. Thân thể Ngài và ba vị đệ tử do phép thần thông hóa ra, cả triệu năm không ăn không uống, mà cứ trẻ đẹp mãi không hề hư hại. Thật là vóc ngọc mình vàng, trường sanh bất tử.

    Ngài thay mặt cho Đức Thượng Đế đặng điều khiển sự tiến hóa của con người, các Thiên Thần và những loài vật khác. Hào quang Ngài bao trùm quả địa cầu nầy, không có một con kiến nào chết hay là sự bất công nào xảy ra mà Ngài không hay không biết. Trái đất nầy tuy lớn song ở trong lòng bàn tay của Ngài. Ngài dùng được trọn vẹn thần lực Fohat và những lực của vũ trụ ngoài dãy địa cầu.

    Những lực đó có thể nhận chìm xuống đáy biển những châu thế giới và làm cho quả địa cầu tan rã từ mảnh.

    Duy có một mình ngài cầm quyền điểm đạo, nhưng trong hai kỳ điểm đạo đầu tiên, lần thứ nhứt và lần thứ nhì, Ngài cậy Đức Bồ Tát hay Đức Đế Quân chưởng cung thứ nhứt hoặc cung thứ nhì thay mặt cho Ngài. Có khi lần thứ ba và lần thứ tư, Ngài cũng giao cho một vị Độc Giác Phật nhơn danh Ngài đặng điểm đạo. Ngài thật là Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi. Nhiều thí sanh tới bực A na Hàm rồi mà khi quì trước mặt Ngài thì nắm nắm nớp nớp không dám ngó lên, vì Ngài rất oai nghi lẫm liệt.

    Ngày sau nhơn loại sẽ bỏ bầu trái đất nầy mà qua bầu Thủy tinh đầu thai đặng tiến hoá nữa. Ba vị Độc Giác Phật sẽ thay phiên nhau lãnh ngôi vị Ngọc Đế đặng cai trị và lo lắng cho sự mở rộng đường tinh thần của chúng sanh.


    BA VỊ ĐỘC GIÁC PHẬT

    Tiện đây tôi xin nói vài lời về ba chữ Độc Giác Phật theo chỗ hiểu của tôi.

    Tôi thấy thường thường người ta tưởng là những vị Độc Giác Phật chỉ lo khai sáng cho một mình mình chớ không đoái hoài tới kẻ khác, nói trắng ra là có tánh ích kỷ. Hiểu như thế e cho sự lầm lạc rất lớn.

    Các vị Độc Giác Phật thuộc về cung thứ nhứt, là cung Hành chánh. Ngài lo việc quản trị, còn chuyện giáo hóa nhơn loại thuộc về phần trách nhiệm của vị Phật Đạo Đức. Các Ngài không thể nào bỏ bổn phận của mình mà đi làm những công việc khác. Hơn nữa, từ khi khởi sự tu hành được vào hàng đệ tử cho đến lúc thành chánh quả và lên tới ngôi vị Bàn Cổ thì Đấng Chí Tôn mà mình gọi là Đức Độc Giác Phật đã độ đời không biết được mấy trăm triệu lần rồi.

    Một lẽ khác, ba vị Độc Giác Phật thuộc về hệ thống tiến hóa khác, hệ thống Kim tinh, chớ không phải hệ thống địa cầu của chúng ta. Chúng ta không hiểu được các Ngài ra sao.

    Hiện giờ, trong nhơn loại của chúng ta, chưa có một vị nào lên tới bực Độc Giác Phật cả. Chỉ có một mình Đấng Chí Tôn mà người ta gọi là Đức Thích Ca thành Phật Đạo Đức mới có 2.500 năm nay.

    600 năm nữa, khi giống dân chánh thứ sáu sanh ra rồi, thì Đức Bàn Cổ của giống dân thứ năm bây giờ là Đức Vaivasvata Manou mới lên ngôi Độc Giác Phật.

    Còn Đức Di Lạc, Đức Bồ Tát của giống dân thứ năm, cũng gọi là Đức Mết Trai Da (Maîtreya) mới làm một vị Phật Đạo Đức thế cho Đức Phật Thích Ca.


    ĐỨC PHẬT THÍCH CA LÀ ĐỨC PHẬT ĐẠO ĐỨC THỨ TƯ.

    Vị Phật Đạo Đức hiện nay là Đấng Chí Tôn mà người ta gọi là Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài là người thứ nhứt của nhơn loại đạt được quả vị Phật. Ngài điều khiển công việc đặc biệt của cung thứ nhì ở mấy cõi cao và giao cho Đức Bồ Tát công việc thế cho Ngài ở mấy cõi thấp.

    Ngài là Đức Phật của giống dân thứ tư, giống Ắt lăng (Atlantes) hay là vị Phật thứ tư. Ba vị Phật trước vốn ở Kim tinh qua giúp đỡ nhơn loại.

    Đức Phật thứ ba là Đức Kasyapa (Ca Diếp).

    Cả triệu năm trước, khi đúng ngày giờ mà nhơn loại phải sản xụất những vị Bồ Tát, những vị Phật riêng cho mình thì chỉ có hai Chơn Sư đồng bực tiến hóa với nhau. Ấy là Đức Thích Ca và Đức Di Lạc Bồ Tát hiện nay. Vì lòng thương nhơn loại nên Đức Thích Ca tình nguyện xuống trước. Ngài còn thiếu những điều kiện nào, không ai rõ. Nhưng Đức Thích Ca nổ lực tu hành từ kiếp nầy qua kiếp kia, mỗi kiếp phải lập vài đại hạnh cần thiết cho địa vị cao cả sau nầy . . .

    Đây mới thiệt là sự hi sinh cao cả của Ngài.

    Còn việc Thái tử Sĩ đạt Ta, lìa ngai vàng điện ngọc, bỏ cung phi mỹ nữ và vợ yêu con quí vào rừng sâu tu luyện, có một ý nghĩa khác. Sánh nó với việc hi sinh cao cả kia thì nó chỉ là một góc nhỏ đường tơ.

    Lúc còn ở ngôi Bồ Tát, Đức Phật có lâm phàm dạy đạo. Người ta biết được những tiền kiếp sau đây :

    1.- Vyasa - ở Ấn Độ.

    2.- Hermès Trismégiste ở Ai Cập.

    3.- Zoroastre đầu tiên trong 29 vị ở Ba Tư.

    4.- Orphée ở Hi Lạp.

    Kiếp chót Ngài mượn xác Thái tử Sĩ đạt Ta [20] .

  17. #17

    Mặc định

    CHƯƠNG THỨ SÁU


    NHỮNG VIÊN NGỌC QUÍ VÔ GIÁ BỊ VÙI LẤP 2.500 NĂM NAY.

    Những viên ngọc quí bị vùi lấp dưới đất cát lâu ngày thì dính bùn dơ và lẫn lộn với đá sỏi, khi ta nhìn biết thì phải lập tức lượm lên đem chúng nó rửa sạch và lau chùi kỹ lưỡng; chúng nó sẽ sáng chói như xưa. Cũng thế đó, bốn giai đoạn của thời kỳ nhập môn đặng vào hàng đệ tử được điểm đạo và mười dây chướng ngại trên đường đạo là những viên kim cương vô giá. Tiếc thay, 2.500 năm nay nó bị chôn lấp dưới đám rừng sâu kinh kệ. Thật sự một đôi khi người ta cũng có nói đến nó; nhưng nói đến để mà nói chớ không nói đến để mà hành, hay là chỉ cho kẻ khác hành.

    Xét cho tột lý, các bực tiền bối đã theo con đường đó mà thành chánh quả, nếu chúng ta muốn lên tới địa vị của các Ngài thì cũng phải noi theo gương các Ngài mà đi, vì nó là con đường duy nhứt, không thể nào làm khác hơn được.


    NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHI THƯỜNG CỦA ĐẠO BÁT CHÁNH.

    Trong chu kỳ tiến hóa nầy, nhơn loại say mê vật chất ít lo đến phần tinh thần. Phật thấy rõ điều đó nên lo cứu vớt chúng sanh được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ngài bèn vạch ra một con đường rất dễ đi, ở chính giữa thời xa hoa phóng túng của cuộc đời, và sự khổ hạnh của đạo tu hành, dung hòa cả hai bên. Ấy là con đường Trung đạo hay là Đạo Bát Chánh. Nó là nền tảng của Phật giáo và gồm ba điểm tối quan trọng.

    Một là : Thích hợp với tất cả các hạng người, các giai cấp, cao hành theo cao, thấp hành theo thấp.

    Hai là : Nó diệt được các sự đau khổ nếu nhơn loại cố gắng đem ra thật hành.

    Ba là : Nó bao hàm bốn thời kỳ chuẩn bị hay là con đường nhập môn.

    Nói một cách khác, Đạo Bát Chánh có một đặc điểm phi thường là nó áp dụng vào đường đời và đường đạo một lượt.

    1.- Về đường đời : - Các sự đau khổ diễn ra trên cõi Trần hằng ngày đều do những sự bất chánh, những sự gian tà của con người gây ra, dù trong kiếp nầy hay kiếp trước cũng vậy. Bây giờ đổi mục đích lại. Mỗi người ăn ở theo 8 lẽ chánh (không đợi tới 8 điều, nội trong 4 điều đầu tiên cũng đủ) thì cái xấu sẽ hóa ra cái tốt, cái dữ sẽ thành cái lành. Non nước sẽ thanh bình, nhà nhà đều no ấm, đâu còn cái nạn chiến tranh giặc giã, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt nữa. Nói Đạo Bát Chánh là đạo mầu diệt khổ, thật đúng lắm vậy.

    2.- Về đường đạo : - Hành Đạo Bát Chánh tức là dọn mình cho trong sạch để xứng đáng được điểm đạo lần thứ nhứt. Và từ đó cho đến ngày đắc đạo thành chánh quả làm một vị Chơn Sư, người đệ tử bất câu giờ phút nào cũng phải sống với 8 lẽ chánh luôn luôn.

    Nói tóm lại, Đức Phật dạy con người phương pháp tu tại gia dễ dàng, có một không hai. Khỏi cần vào chốn non cao động cả, người cư sĩ cũng có thể tự cứu được mình ra khỏi chốn khổ hải trầm luân. Con đường nầy pháp môn gọi là Cạt ma Dô ga. Dô ga của con người Hành Động (Karma Yoga); nhưng nó cũng gồm đủ ba việc lập Hạnh – Tham Thiền và Hành Động một lượt.


    SO SÁNH ĐẠO BÁT CHÁNH

    VỚI BỐN ĐỨC TÁNH CỦA CON ĐƯỜNG NHẬP MÔN



    Đạo Bát Chánh



    I

    1./ Chánh Kiến : Sự thấy chơn chánh. Tín ngưỡng chơn chánh.



    Muốn được chánh kiến thì phải làm thế nào? Trước hết thì phải mở trí tức là phải học hỏi. Trí mở rộng rồi thì mới phân biệt được cái nào chơn cái nào giả, cái nào bất thường, cái nào vĩnh viễn trường tồn.

    Chưa mở trí thì làm sao hiểu được lẽ tà chánh, điều thiện ác đặng hành động cho đúng với cơ Trời. Thế nên trí càng mở rộng thì càng dễ tiến bước trên đường đạo (xin nhớ tôi nói dễ tiến chớ không phải tiến mau; bởi vì có tài mà thiếu đức, vô hạnh thì không khi nào bước tới cửa Đạo được).

    Vì mấy lẽ trên đây mà Chánh Kiến gồm 2 đức tánh của con đường nhập môn là :



    I

    Manodvaravajjana = Mở trí và

    Parikamma = Chuẩn bị đặng hành động.



    II

    2./ Chánh Tư duy : Tư tưởng chơn chánh

    3./ Chánh Ngữ : Lời nói chơn chánh

    4./ Chánh Nghiệp : Việc làm chơn chánh

    5./ Chánh Mạng : Nghề nghiệp chơn chánh

    6./ Chánh Tinh tiến : Thành thật tiến tới.

    Năm đức tánh nầy thuộc về giới : “Sila”

    Tư tưởng chơn chánh, Lời nói chơn chánh, Việc làm chơn chánh là ba đức tánh quan trọng đầu tiên; các thí sanh trên con đường nhập môn bị bắt buộc phải thực hiện cho được.

    Ba sợi dây cột lưng của người Bà la môn tượng trưng ba đức tánh nầy. Nhưng chúng nó không phải thuộc riêng về Ấn Độ giáo, Phật giáo hay là Ai Cập giáo, Hỏa Thần giáo. Chúng nó do luật trời qui định mà tất cả những sinh viên Huyền bí học muốn thành công thì phải luyện tập cho kỳ được. Chúng phải thấm nhuần máu huyết xương thịt của kẻ học Đạo, vì chúng là ba món ăn tinh thần chánh; không tiêu hóa được thì tinh thần sinh viên không khi nào phấn chấn và phát triển bao giờ.





    7./ Chánh Niệm : Sự tưởng nhớ chơn chánh





    8./ Chánh Định.
    Bốn đức tánh của con đường nhập môn



    I

    1./ Manodvaravajjana : mở trí.



    2./ Parikamma : chuẩn bị đặng hành động.



    II

    Upacharo của Phật giáo hay là Shatsampati của Ấn Độ giáo. Hạnh kiểm.



    1./ Samo - Sự yên tịnh.

    Tư tưởng yên tịnh và trong sạch đối chiếu với Chánh Tư Duy.

    2./ Damo - Kiểm soát giác quan và thân thể. Đối chiếu với :

    Chánh Ngữ

    Chánh Nghiệp.

    Chánh Mạng.

    3./ Uparati : Chấm dứt hay là một sự khoan dung rộng rãi.

    4./ Titiksha : Nhẫn nại.

    Hai đức tánh nầy đối chiếu với Chánh Tinh tiến. Bởi vì không cố gắng chấm dứt sự tin tưởng dị đoan, không khoan dung, không nhẫn nại thì không bao giờ tiến mau được.

    5./ Samadhana : Để tâm vào đường đạo. Chẳng có sự cám dỗ nào làm mình quên được mục đích của mình. Đối chiếu với Chánh Niệm.

    6./ Shaddha : Đức tin. Tin Sư Phụ của mình và cũng tự tin mình nữa. Tức là trụ vào một chỗ. Đối chiếu với Chánh Định.

    -----------------------------------------

    Bốn đức tánh của con đường nhập môn



    I

    1./ Manodvaravajjana : mở trí.



    2./ Parikamma : chuẩn bị đặng hành động.



    II

    Upacharo của Phật giáo hay là Shatsampati của Ấn Độ giáo. Hạnh kiểm.



    1./ Samo - Sự yên tịnh.

    Tư tưởng yên tịnh và trong sạch đối chiếu với Chánh Tư Duy.

    2./ Damo - Kiểm soát giác quan và thân thể. Đối chiếu với :

    Chánh Ngữ

    Chánh Nghiệp.

    Chánh Mạng.

    3./ Uparati : Chấm dứt hay là một sự khoan dung rộng rãi.

    4./ Titiksha : Nhẫn nại.

    Hai đức tánh nầy đối chiếu với Chánh Tinh tiến. Bởi vì không cố gắng chấm dứt sự tin tưởng dị đoan, không khoan dung, không nhẫn nại thì không bao giờ tiến mau được.

    5./ Samadhana : Để tâm vào đường đạo. Chẳng có sự cám dỗ nào làm mình quên được mục đích của mình. Đối chiếu với Chánh Niệm.

    6./ Shaddha : Đức tin. Tin Sư Phụ của mình và cũng tự tin mình nữa. Tức là trụ vào một chỗ. Đối chiếu với Chánh Định.

    -----------------------------------------------------------------------

    Trong Đạo Bát Chánh không có đức tánh thứ tư của con đường nhập môn là Anuloma của Phật giáo hay là Mumukshâ hoặc Moumoukshoutwa của Ấn Độ giáo bởi vì nó thuộc về Công truyền, còn bốn đức tánh của con đường nhập môn thuộc về Bí truyền và thuở Phật ra đời 2.500 năm trước, bốn đức tánh nầy chưa được công bố ra như ngày nay.

    Bốn đức tánh trên đây có giải trong cuốn Dưới Chơn Thầy và nhứt là nên xem quyển Giảng lý (Commentaires sur aux Pieds du Maître) mới hiểu rành rẽ hơn và cuốn Con đường của người đệ tử (Le Sentier du disciple).


    GIỚI ĐỊNH HUỆ

    Có những vị Phật tử chia 8 lẽ chánh ra làm ba giai đoạn.



    1.- Chánh Kiến thuộc về Huệ

    2.- Chánh Tư duy thuộc về Giới

    3.- Chánh Ngữ thuộc về Giới

    4.- Chánh Nghiệp thuộc về Giới

    5.- Chánh Mạng thuộc về Giới

    6.- Chánh Tinh tiến thuộc về Giới


    7.- Chánh Niệm thuộc về Định -

    8.- Chánh Định thuộc về Định -



    Còn theo vài vị khác thì :

    I. Sila giới gồm 4 đức tánh

    1.- Chánh Ngữ

    2.- Chánh Nghiệp

    3.- Chánh Mạng

    4.- Chánh Tinh tiến.

    II. Samadhi : Định gồm 2 đức tánh

    5.- Chánh Niệm

    6.- Chánh Định.

    III. Panna (Haute sagesse)

    7.- Chánh Kiến

    8.- Chánh Tư duy.

    Vậy ta hãy bàn thử coi.

    Thường thường thì :

    Trước phải giữ giới

    Kế đó là Định

    Sau mới phát Huệ.

    Hiểu như vậy người ta mới đem hai đức tánh đầu tiên là Chánh Kiến và Chánh Tư duy để xuống dưới. Chúng thành ra đức tánh thứ 7 và thứ 8.

    Vậy làm như thế có ý nghĩa chi chăng ?

    Rõ ràng người ta đã sửa tới Phật. Phải chăng vô tình hay cố ý người ta đã chê Phật dốt, Phật lầm nên mới để Chánh Kiến trước hết, tức là Huệ trước Giới và Định. Vì vậy người ta mới đảo lộn lại. Trên đem xuống dưới, dưới đặt lên trên. Hành động như thế rõ ra con người không sáng suốt và không khiêm tốn chút nào.

    Người ta đâu có biết Phật dạy đúng với Huyền bí học là trước khi mở trí sau mới phân biệt được lẽ tà chánh, và noi theo cái chánh lìa bỏ cái tà.

    Nếu cho Chánh Kiến thuộc về Huệ thì bảy cái Chánh sau : Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tiến, Chánh Niệm, Chánh Định cái nào cũng thuộc về Huệ cả, bởi chưng hành Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp tức là đã sáng suốt rồi.

    Thiết tưởng người ta cũng nên biết : không phải giữ giới và định cho nó có lệ mà phát Huệ đâu. Phải giữ giới cho chính chắn, định cho đúng phép và bền chí thật hành lâu ngày thì mới có Huệ. Hơn nữa, Giới, Định, Huệ, mỗi thứ còn chia ra nhiều bực tùy theo trình độ tiến hóa của sanh viên. Mỗi người phải tự kinh nghiệm rồi tự hiểu lấy chớ không sao cắt nghĩa cho người khác hiểu được.

    Đừng bao giờ quên rằng học Đạo thì phải hành động, không hành đạo thì không bao giờ đắc đạo. Nhưng chứng bịnh thông thường của người mới học Đạo là đi tìm cái khó chớ không chịu thực hành trước cái dễ, dường như không biết rằng muốn lên ngồi trên cao thì phải đi từ nấc thang chót cho đến nấc thang thứ nhứt. Mà dầu có học được thuật đề khí đi nữa, trước hết cũng phải tập sao cho thân thể trở nên nhẹ nhàng (khinh thân). Luôn luôn người ta cho rằng tập rèn tánh nết là việc nhỏ mọn, dễ ợt, ai lại không biết. Nhưng cái dễ nầy lại là chuyện khó làm hơn hết, dòm lại cả muôn cả triệu người học Đạo thử hỏi được mấy chục người thành công trong việc luyện tập tánh tình.

    Nội tám chữ : Lánh dữ,

    Làm lành,

    Rửa lòng trong sạch.

    đem ra thực hành, nếu không biết phương pháp thì trong 30 kiếp cũng chưa xong, nói chi chỉ trong một đời người vắn vỏi sống có mấy chục năm mà phải chịu những đau ốm bịnh tật và mắc đủ các thứ chướng ngại. Muốn đương đầu phải có gan vàng dạ sắt, ý chí cương quyết mới vững bước được. Đừng ham vừa chạy vừa ngó theo phi cơ đang bay liệng trên trời với ý nghĩ “Muốn làm một vị phi công tung mây lướt gió” mà quên mình chưa đủ những điều kiện và dưới đất dẫy đầy những hầm hố chông gai. E cho sụp chơn vấp té, lổ đầu gãy tay mà phải vỡ tan mộng đẹp.

    Mình phải tự biết mình là việc hay hơn hết, vì nó là điều kiện tối cần để thành công trong mọi việc, dầu về mặt đời hay về mặt đạo cũng vậy. Mình tự thắng mình còn khó gấp trăm lần việc chiến thắng muôn vạn hùng binh. Mà mình không thắng được mình thì chưa có thể học đạo đươc.

    Nói tóm lại, vì lòng Từ bi vô lượng, Đức Phật mới vạch ra và mở rộng lối vào con đường Huyền bí học. Ai ai cũng có thể bước vào lối đó dễ dàng và tiến mau nếu cố gắng. Nhưng mà ngày nay người ta đã quên phứt nó đi và ngõ vô cũng bị gai gốc bít rồi.

    Quí bạn có quyền tự do, muốn bước vào cũng được hay là ở ngoài tùy ý. Nhưng mà đừng quên rằng bánh xe tiến hóa cứ chậm chậm lăn tới mãi và lôi cuốn chúng ta theo nó trong khi đó ngày tháng trôi qua như chớp nháng. Dầu muốn dầu không, chúng ta không thoát ra ngoài vòng đó được và cũng không dừng bước được lâu, chúng ta phải đi tới và tốt hơn là nên đi ngay bây giờ, càng đi mau càng hay.

    14 năm nữa, năm 1975, một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Huyền bí học sẽ mở màn. Từ đó về sau người ta sẽ giải thích được nhiều vấn đề siêu nhiên. Người ta sẽ biết và sẽ tin rằng xung quanh chúng ta còn nhiều thế giới vô hình cũng có những nhân vật ở như trên mặt địa cầu nầy. Sở dĩ chúng ta không thấy mấy cõi đó là tại chúng nó làm bằng những chất tế nhị, tinh vi hơn chất hồng trần và cũng bởi chúng ta chưa dùng được những quan năng còn tiềm tàng trong mình gọi là thần nhãn, thiên nhãn v. v. . .

    Những chuyện Nhân quả, Luân hồi, Hồn ma hiện hình là những chuyện có thật. Chúng nó tuân theo những luật thiên nhiên kỳ diệu mà hiện nay con người chưa khám phá ra được nên chưa hiểu, chớ không phải những chuyện dị đoan phi lý.

    3 năm nữa ! không lâu đâu. Quí bạn, nhứt là những thanh niên nam nữ chờ xem.


    HAI CUỘC LỄ LỚN CỦA PHẬT GIÁO.

    Phật giáo có hai cuộc lễ lớn, mỗi năm được Quần Tiên Hội tổ chức và cử hành một cách long trọng nhưng người ngoài ít ai biết được.

    Ấy là lễ Huê Sắc (Vesak), Vía Phật và lễ A sa la (Asala), lễ chuyển Pháp Luân.


    LỄ HUÊ SẮC (VESAK)

    Theo kinh sách Phật tại Tích Lan, thì Đức Bồ Tát :

    a/ Giáng sanh nhằm ngày trăng tròn của tháng Huê Sắc (Vesak).

    b/ Đắc đạo làm một vị Phật cũng nhằm ngày trăng tròn của tháng Huê Sắc.

    c/ Nhập Niết Bàn cũng nhằm ngày trăng tròn tháng Huê Sắc.

    Tháng Huê Sắc của Thiên Trước luôn luôn chạy nhằm tháng năm dương lịch (mois de Mai) thường thường là tháng tư âm lịch.

    Nhưng nói cho đúng là giờ trăng tròn của tháng Huê Sắc chớ không phải là ngày trăng tròn [21] .

    Thế nên mỗi năm tới ngày trăng tròn tháng Huê Sắc, các hàng Phật tử ở Tây Tạng, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Nê Bôn, Âu Châu đều cử hành một cuộc lễ rất long trọng để kỷ niệm ba đại sự trong đời sống của Đức Phật Thích Ca tại thế.

    Tạp chí Phật giáo La Pensée boudhique bắt đầu từ số tháng Juillet 1951 có nói tới cuộc lễ nầy do các vị thân hữu Phật giáo ở Ba Lê tổ chức và thường có những đại diện Phật giáo các xứ Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Nê Bôn đến dự.

    Tôi không rõ thuở xưa các nhà sư bên Trung Hoa tính toán ngày giờ cách nào mà nói Đức Bồ Tát giáng sanh nhằm mồng 8 tháng tư âm lịch, hoặc giả thuở đó ngày trăng tròn nhằm ngày mồng 8 chăng ? Còn ngày thành đạo lại là mồng 8 tháng chạp. Ngày giáng sanh và ngày thành đạo khác nhau.

    VÍA PHẬT LÀ NGÀY HẠNH PHÚC NHỨT CỦA NHƠN LOẠI.

    Ngoài đời không ai tin rằng Vía Phật là ngày hạnh phúc nhứt của nhơn loại, bởi vì không ai biết rằng ngày đó Đức Phật lìa khỏi cõi Đại Niết Bàn xuống trần thế hiện ra đặng ban ân huệ cho ba ngàn sáu trăm triệu linh hồn trên địa cầu nầy. Đây có phải là Ngài noi gương mấy vị Phật quá khứ chăng ?

    Không phải thế, như tôi đã nói khi nảy, một khi chứng quả Phật rồi thì Đức Bồ Tát giao quyền chưởng giáo lại cho Đức Đế Quân chưởng quản cung thứ nhì, lên kế vị cho Ngài còn Ngài thì về cõi trên làm Chủ tể cung thứ nhì coi sóc sự tiến hóa của con người và các Thiên Thần, song không hề khi nào trở xuống thế gian nữa.

    Nhưng trường hợp của Đức Thích Ca thì khác hơn mấy vị Phật quá khứ. Các Ngài nầy ở bầu thế giới khác (Kim tinh) qua giúp đỡ chúng ta lúc nhơn loại còn trong thời kỳ ấu trỉ.

    Không hiểu vì lẽ nào mà công việc của Đức Phật Thích Ca có vài điểm Ngài không có đủ ngày giờ làm cho hoàn thiện (xin quí bạn chú ý, đây là một vài điểm trong công việc của Ngài làm chớ không phải Tài hay Đức của Ngài còn kém. Ngài đã tới bực toàn giác của dãy địa cầu nầy).

    Có lẽ tại những cố gắng trong nhiều thế kỷ qua, lúc Ngài tu luyện đặng xứng đáng với địa vị cao cả sau nầy, cho nên Ngài tự nguyện để dính dấp một chút với hồng trần đặng khi Đức Di Lạc Bồ Tát gặp trường hợp cấp bách khẩn cầu Ngài thì Ngài xuống chỉ bảo và giúp đỡ nếu cần. Ngoài ra, mỗi năm đúng giờ bỏ xác phàm tức là giờ trăng tròn tháng Huê Sắc, Ngài giáng phàm một lần, dùng một phương pháp nhiệm mầu giúp chúng sanh bớt khổ trong tâm hồn một phần nào, người ta gọi đó là Phật ban ân huệ cho chúng sanh.



    ÂN HUỆ CỦA PHẬT BAN LÀ CÁI CHI ?

    Đức Phật có một thần lực riêng biệt của Ngài mà Ngài rải ra khi ban phép lành cho đời. Sự ban phép lành nầy là một việc duy nhứt và vô cùng huyền diệu. Mỗi Đức Phật nhờ quyền năng và địa vị của mình cho nên vào ra được những cảnh giới cao siêu của vũ trụ mà chúng ta chưa lên tới. Vì vậy, Ngài có thể biến đổi những thần lực ở mấy cõi đó và đem chúng nó xuống tới mức của chúng ta. Không có sự trung gian của Ngài thì những thần lực nầy không hữu ích cho chúng ta chút nào trong đời sống hằng ngày. Những sự rung động của chúng nó thật là phi thường và mau lẹ cho đến đỗi chúng nó đi ngang qua mình chúng ta mà chúng ta không hay, không biết, mặc dầu trình độ tiến hóa của chúng ta tới mực nào. Nhưng thay vì điều đó, khi Đức Phật ban phép lành thì những thần lực đó gặp các vận hà chuyển đi cũng như nước gặp liền những ống dẫn; chúng nó thêm sức cho những việc lành, việc phải và đem sự yên tịnh cho những tâm hồn nào đủ sức thụ lãnh chúng nó. Khi Phật giơ tay mặt ban phép lành thì một trận mưa hoa rớt xuống in như lúc Ngài trở về Kapilavastu thuyết pháp cho vua Tịnh Phạn nghe. Đây tôi chỉ nói ý nghĩa của lễ Huê Sắc, quí bạn muốn rõ về cách hành lễ xin đọc chương XIV của cuốn Chơn Sư và Thánh Đạo (Les Maîtres et le Sentier) bạn Nguyễn văn Lượng có dịch ra và đề tên cuốn sách là Đức Phật hiện.



    LỂ A SA LA

    HAY LÀ LỂ CHUYỂN PHÁP LUÂN.

    Ngoài lễ Huê Sắc còn có một lễ nữa mà ít nghe ai nói tới, bởi vì nó cử hành ở tại cung của Đức Di Lạc Bồ Tát, không có tánh cách công khai như lễ Huê Sắc. Đây cũng là một dịp để cho Tiên Thánh trong Quần Tiên Hội chánh thức gặp gỡ nhau mỗi năm một lần nữa. Lễ nầy là lễ A Sa La chạy nhằm giờ trăng tròn tháng bảy dương lịch để kỷ niệm ngày Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên tại Sạt Nát (Sarnath) gần Bénarès, giải về Tứ Diệu Đề và Đạo Bát Chánh.

    Vì lòng thương mến và tôn kính Đức Như Lai cho nên Đức Di Lạc mới nhứt định mỗi năm đúng giờ trăng tròn tháng A Sa La thì Ngài lập lại bài Chuyển Pháp Luân cho Quần Tiên Hội nghe.

    Gần tới buổi nhóm thì Tiên Thánh và các đệ tử (trừ 3 vị Độc Giác Phật) lần lượt xuất vía đến hoa viên ở trước mặt tiền cung của Đức Di Lạc, nhằm về triền phía Nam núi Hi Mã Lạp Sơn. Những người thuộc về giáo phái khác biết ngày lễ nầy, xuất vía đến dự đều được tiếp đón niềm nỡ.

    Đức Di Lạc ngồi trên chiếc ghế cẩm thạch bao vòng cây cổ thụ mọc trước cung của Ngài. Gần bên Ngài là Đức Bàn Cổ và Đức Văn Minh Đại Đế.

    Tiên Thánh, các đệ tử và thính giả phân ngôi thứ an tọa hai bên, tại sân cỏ trên những chiếc ghế đặt dưới ngai vài thước.

    Đức Di Lạc nói bằng tiếng Ba Li (Pali) mà các thính giả nghe là tiếng mẹ đẻ, tiếng nước mình, nghĩa là người Anh nghe Ngài thuyết pháp bằng tiếng Anh. Người Mỹ, người Pháp, người Ý nghe Ngài giảng đạo bằng tiếng Mỹ, Pháp, Ý v. v . . . Mới nghe qua có người hoài nghi hay lấy làm lạ lắm. Đây là sự thật một trăm phần trăm. Ai có đọc Công vụ của các sứ đồ thì biết đó là chuyện không phải sai ngoa.

    Nhưng tự do tín ngưỡng.

    Mặc dầu bài Chuyển Pháp Luân đã lập lại cả ngàn lần rồi, mà với tài hùng biện phi thường của Đức Bồ Tát, mỗi năm các thính giả đều nghe như là một bài mới và dường như Ngài nói riêng cho mỗi người nghe mà thôi.

    Tiếng Ngài như chuông ngân, thanh tao và dịu dàng vô cùng, cây viết phàm làm sao tả nổi tài hoạt bát và lập lại những lời châu ngọc của Ngài.


    TẠI SAO ĐỨC DI LẠC BỒ TÁT GIẢNG BẰNG TIẾNG BA LI

    Có một nghi vấn cần phải giải quyết là tại sao Đức Di Lạc Bồ Tát giảng bằng tiếng Ba Li chớ không dùng tiếng Sancrit. Bởi vì thuở xưa Đức Phật thuyết pháp bằng tiếng Magadhi là tiếng thổ âm của xứ Magadha, có chỗ nói là tiếng Prakrit[22]. Magadhi sanh ra tiếng Ba Li. Tiếng Ba Li để dùng về văn chương, còn Magadhi cũng như chữ Nôm của mình thuở xưa. Người ta nói tiếng Magadhi còn dùng tới Hội Nghị Phật giáo lần thứ nhì và lần thứ ba. Người Jaina, thuộc phái Hỏa Thần giáo cũng dùng tiếng Magadhi đặng viết kinh.

    Những sắc chỉ của vua A Dục (Asoka) khắc vào những thạch trụ và những bia đá mà người ta mới khám phá ra ở Kapourdagarhi, Girmâr, Delhi, Aiderhabbad v. v. . chứng thật những lời trên đây. Người da trắng đầu tiên đọc được chữ Magadhi là ông James Prinsep và ông E. Senart có dịch ra đủ hết.

    CÓ BẰNG CỚ NÀO XÁC NHẬN

    NGÀY LỄ HUÊ SẮC ĐỨC THÍCH CA HIỆN RA CHĂNG ?

    Kinh sách Phật Trung Hoa không có nói đến việc Đức Thích Ca hiện ra ngày lễ Huê Sắc nầy, còn các hàng Phật tử bên Tây Tạng và Trung Bộ Á Châu đều công nhận điều đó là sự thật. Cho nên mới có những lời sau đây :

    Trong cuốn Cải cách Ấn Độ giáo - Tiểu luận về Phật giáo (Réforme Hindoue – Essai sur le Bouddhisme) par V. Reynaud nơi trương 112, sau khi nói về Đức Phật bỏ xác có đoạn nầy :

    “A ce propos, il est utile d’indiquer ici que l’anniversaire de son entrée au Nirvana est céléblé par une grande fête qui a lieu au Thibet à la pleine lune de Mai de chaque année : c’est la fête du Vésac qui rassemble un très grand nombre de Buddhiste et de hauts dignitaires des Monastères Thibétaine. Un service religieux compotant des invocations au Buddha a lieu et d’après les traditions buddhiques, le maître apparait à ses fidèles revétant pour ce jour là l’apparence qu’il avait eue autrefois. Quittant pour un momet son état Nirwanique, il entre en contact avec les plans matériels et vient bénir la terre. Il apparait dans un corps subtil, mais visible pour les sensitifs légèrement clairvoyants. Il est entouré d’une aura lumineuse, que l’on reproduit dans les statues qui le représentent, assis à l’orientale, et placé sur un socle à triple étage, symbolisant les trois mondes . . .”



    XIN THOÁT DỊCH.

    Nhơn dịp nầy thấy rất hữu ích mà tỏ ra đây rằng : một cuộc lễ lớn được tổ chức mỗi năm tại Tây Tạng lúc trăng tròn tháng Năm dương lịch để kỷ niệm ngày Phật nhập Niết Bàn, ấy là lễ Huê Sắc. Nó tập hợp một số Phật tử rất đông đảo và những vị Thượng tọa, Trưởng lão ở các tu viện Tây Tạng. Người ta cúng kiến và khấn vái Đức Phật và theo truyền thống Phật giáo thì ngày đó Đức Phật hiện ra cho các tín đồ thấy, giống in như lúc Ngài còn tại thế. Lìa cõi Niết Bàn trong chốc lát, Ngài tiếp xúc với những cõi vật chất và đến ban ân huệ cho địa cầu. Ngài hiện ra trong một thể tinh vi, nhưng mà những người xúc cảm lẹ làng và có chút ít thần nhãn đều ngó thấy hào quang Ngài rực rỡ, và người ta lấy màu sắc hào quang đó vẽ vào hình tượng của Ngài ngồi trên ngai kê trên ba từng, tượng trưng ba cõi.

    -----------

    V. Reynaud là người Pháp. Bà cho độc giả biết hào quang của những tượng Phật vốn vẽ theo hào quang của Phật lúc Ngài hiện ra chớ không phải tự ý của thợ họa hay là các nhà sư muốn cho màu nào cũng được.

    Tác giả quyển Chơn Sư và Thánh Đạo là Đức Leadbeater, người Anh, chương XIV của Ngài viết khác hơn đoạn của bà V. Reynaud mới kể ra trên đây . . . Không thể nào nói bà V. Reynaud vịn theo ý kiến của Đức Leadeater mà tả lại cuộc lễ đó.



    CHUYỆN ĐỨC PHẬT HIỆN CÓ PHẢI LÀ CHUYỆN DỊ ĐOAN HAY KHÔNG ?

    Những việc ma hiện hình, Thần Thánh vô cơ, ông lên bà xuống, đi hỏa than, tẩm dầu sôi, xiêng quai, là những việc có thật (trừ phi những đồng cốt lên giả) khoa học giải chưa được vì chúng nó không tùy thuộc những luật vật lý ở cõi trần mà tuân theo những luật của mấy cõi khác.

    Như chuyện Đức Phật hiện, người học Đạo biết rằng có thật, người chưa biết Đạo không tin cho là việc dị đoan và bảo : “Ai làm chứng rằng quả thật mình thấy Đức Phật hiện ra”. Thật là không biết phải trả lời làm sao. Nhân chứng là những người có dự lễ như những nhân viên của Quần Tiên Hội, các đệ tử, mấy vị Lạt Ma ở Tây Tạng và những khách hành hương ở Trung Bộ Á Châu . . . Dầu mấy vị Lạt Ma, mấy vị khách hành hương nói có thật, chúng ta thấy cũng không được bao nhiêu người tin vì đâu có những bằng chứng cụ thể đặng trưng ra. Tin hay không tin là quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người, nhưng mà những việc sau đây có dị đoan hay không ?

    Đọc Kinh Thánh Tân Ước chúng ta thấy Đức Chúa Jésus làm nhiều việc phi thường như :

    a.- hóa ra nhiều bánh.

    b.- đi trên mặt biển

    c.- cải tử hoàn sanh Lazare, v. v. . .

    Ngài bị đóng đinh trên cây Thánh giá rồi Ngài sống lại hiện ra với Marie Madeleine và các môn đồ . . . rồi bay lên trời. Thử hỏi có ai bảo tín đồ Cơ Đốc giáo phải đem những bằng chứng ra mới chịu như câu chuyện Đức Phật hiện chăng. Đó là việc xưa còn việc đời nay.

    ----------

    Đức Mẹ hiện ra ở thành Lourdes, cô gái nhà quê tuổi trẻ tên Bernadetta thấy. Khắp hoàn cầu người ta đều tin chuyện nầy có thật.


    Lời tiên tri của Đức Mẹ ở Fatima còn giữ bí mật.

    Trong bài Từ động đất đến địa cầu nứt năm đường, đăng trong báo Chuông Mai số 224, ngày 23 tháng 3 năm 1960, có đoạn nầy nói về lời tiên tri của Đức Mẹ ở Fatima.

    . . . Tới ngày nay người ta được biết rằng văn kiện đựng trong bao thơ là đoạn chót của những bí mật do Đức Bà ở Fatimađã phát giác với em bé Lucia des Santos khi Đức Bà hiện ra cho em thấy. . .

    Hôm mới rồi, một tu sĩ cao cấp ở Bồ Đào Nha đã ngầm cho biết những sự phát giác đó không được công bố vì lý do có những tin đồn đáng ngại hiện đang loan truyền khắp thế giới về vấn đề bí mật ấy.

    Một phần lời tiên tri đã được ứng nghiệm.

    Em bé nữ mục đồng 10 tuổi mà Đức Mẹ xuất hiện cho thấy 6 lần, đã không bao giờ trở lại Fatima nữa. Nhưng về sau em bé đã trở thành bà phước Marie bảy mối đau khổ, đi tu ở viện Coiinbra và tại đó ngay hồi 1930 bà đã bắt đầu viết lại những điều tiên tri mà bà đã được Đức Mẹ nói : “Chiến tranh giữa các nước sẽ chấm dứt năm 1919, một trận giặc khác kinh khủng hơn sẽ bùng nổ 20 năm sau.

    Những việc xảy ra đã xác nhận những điều tiên tri, thành thử giới Công giáo xao xuyến muốn biết đoạn cuối (còn giữ bí mật) dự đoán những gì . . .



    HIỆN TƯỢNG SIÊU PHÀM ĐƯỢC CHỨNG THẬT.

    Bàn tay Chúa Jésus đã cử động trong một bức tranh

    và người ta đã chụp hình được rõ ràng.



    TIN Ý ĐẠI LỢI

    Một chuyện vô cùng huyền bí và siêu nhiên vừa xảy ra trong một trường học Công giáo ở Rosolini (Ý) thuộc thành phố nhỏ gần hải cảng Raguse.

    Hải cảng Raguse có nơi viết là Dubrovik thuộc vùng Dalmatie của Ý, nằm trên bờ biển Adriatique.

    Trong trường học ở Rosolini có treo một tượng Đức Chúa. Thình lình người ta lại thấy hai tay của Chúa biết cử động nhiều lần, nhứt là bàn tay mặt.

    Người ta quan sát và chụp được hình mà chúng tôi cho làm bản kẽm trên đây, coi trong ảnh nầy cho kỹ, so sánh bức tranh chúng ta thấy bàn tay mặt (trong hình phía trái) các ngón tay giơ lên khác với sự giơ lên của các ngón tay trong hình phía mặt, nhứt là ngón trỏ và ngón giữa.

    Nhiều người đều trông thấy sự cử động của các ngón tay, có tháng cử động 2 lần.

    Đem cho các nhà chuyên môn ở Catane giảo nghiệm các ảnh đã chụp người ta hoàn toàn tin là một sự có thật chớ không phải thợ chụp ảnh đã tìm các sửa đổi bức ảnh.

    (Dân Nguyện thứ tư ngày 19 – 8 – 59)



    Những chuyện nầy cũng như chuyện Đức Phật hiện là những hiện tượng siêu phàm. Duy có Huyền bí học mới cắt nghĩa được mà thôi. Ai bàn tán cách nào cũng được.



    K Ế T L U Ậ N

    Ông Thánh Phao Lồ (Saint Paul) có nói như vầy :

    “Hỡi thế nhơn ! dầu các anh đồng thanh phủ nhận sự hiện hữu của Ngài đi nữa, tôi cũng bỏ các anh và giữ lấy đức tin tôi”.

    Sau đây là lời của Đức Leadbeater :

    “Tôi biết rằng khi tôi đem mấy điều đó nói ra thì tôi sẽ bị người ta khinh bỉ, người ta sẽ nói với tôi, anh là ai mà nói những chuyện như thế đó ? Nhưng tôi đã thấy, tôi sẽ phạm tội khiếp nhược nếu không dám chứng nhận mấy việc ấy”.

    Tôi xin lấy hai câu trên đây để kết luận và xin lập lại một lần nữa là tự do tín ngưỡng.

    H Ế T

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •