THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG
Chân – Thiện - Mỹ

The Energy Of The Universe

Trần Mạnh Hùng


CHƯƠNG MỘT

Biểu tượng

Hình Thể:

Bảy vòng tròn tượng trưng cho bảy mạch đạo theo thứ tự số một đến số bảy từ ngoài vào trong, nằm trong hình thể hình vuông tựơng trưng cho bản thể, và được bao bọc một khung hình chữ nhật lớn tượng trưng cho vũ trụ thiên nhiên cao cả. Khi 7 mạch đạo được khai thông , tiếp nhận trực tiếp nguồn năng lượng huyền năng của vũ trụ ( Energy ) đó là ba nguồn ánh sáng được khai phóng từ trung tâm mạch đạo số 7. Ba nguồn ánh sáng này biểu tượng cho TINH, KHÍ, THẦN. Mỗi nguồn ánh sáng được kết hợp ba tia sáng nhỏ biểu tượng cho CHÂN, THIỆN, MỸ. Và, cứ như thế phân chia kết hợp khôn cùng.
7 Vòng tròn nằm trong cơ thể, dọc xương sống,lên đỉnh đầu, xuống vị trí hai lông mày giao nhau, theo thứ lớp từ ngoài vào trong:

- Vòng mạch đạo số một ở vị trí giữa đốt xương sống cuối cùng và hậu môn.
- Vòng số 2 ở vị trí đốt xương sống ngang thắt lưng.
- Vòng số 3 ở vị trí đốt xương sống giữa lưng.
- Vòng số 4 ở vị trí đốt xương sống ngang vai.
- Vòng số 5 ở vị trí đốt xương sống gáy chỗ tiếp nối cổ và đầu.
- Vòng số 6 ở vị trí hai lông mày giao nhau.
- Vòng số 7 ở vị trí giữa đỉnh đầu.

Mầu sắc:

• Mầu xanh, trắng tượng trưng sự sáng ngời tuyệt đối của Thiên Nhiên
• Mầu vàng tượng trưng cho sự nhiệm mầu của huyền năng Thiên Nhiên Khí Công.
• Mầu đen tượng trưng cho sự huyền bí, sâu thẳm,quân bình tuyệt đối của vũ trụ.

CHƯƠNG HAI

Thái Thượng Huyền Công ( TTHC ) là một môn khí công, với mục đích tạo cho hành gỉa có một năng lực huyền năng siêu phàm , thu nhận năng lượng của vũ trụ để khai mở tâm linh.
Thái Thượng Huyền Công không đặt nặng trong việc trị bịnh, khoa trị bịnh là khoa ngoại vi của TTHC, được khai triển và phổ biến dưới danh xưng THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG cho một nhu cầu hướng thiện.
Mặc dù là khoa ngoại vi, khoa trị bịnh vẫn có đầy đủ huyền năng siêu phàm dưới hình thức:

•Tự cứu, chữa lấy mình.
•Chữa bịnh cho gia đình, cho thân bằng quyến thuộc .
•Chữa bịnh cho những người mình yêu thích.
•Chữa bịnh cho bạn hữu.
•Chữa bịnh cho tha nhân.

Thiên Nhiên Khí Công chữa trị ở trong những trường hợp cấp bách nhất, triệt tiêu những đau đớn về thể xác khi bị va chạm gây thương tổn, hoặc do giải phẫu, hoặc do cơ thể suy yếu, rối loạn, lão hóa tạo thành .
Thiên Nhiên Khí Công có đầy đủ khả năng xoa dịu thần kinh trong những tình huống căng thẳng, tảy sạch những u uất, tạo cho tâm thân an lạc trong giấc ngủ êm đềm của tuổi thơ ở trong mọi lứa tuổi. Tái tạo trật tự trong cơ thể khi bị xáo trộn, bởi những nguyên nhân nào đó, tác động trên hai lãnh vực :

*Bệnh về thân hay thể chất
* Bệnh về tâm hay thể tâm linh

Bao gồm hai thể loại:

º Thể loại hữu hình.
º Thể loại vô hình.

Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta đã và đang chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn tai nạn lớn nhỏ, và vô vàn bịnh tật do siêu vi, vi trùng, ký sinh trùng . . . tác hại , hoặc cơ thể suy yếu, hoặc rối loạn vì nội tiết, hoặc lão hoá, hoặc những hành động bất thường trái với trật tự thiên nhiên. Bệnh phát sinh không phải tự nhiên bất ngờ mà do một quá trình ủ bịnh lâu dài phức tạp. Và, cũng do rất nhiều nguyên nhân khác nhau ( Ở thể hữu hình, và vô hình ) Khi bịnh lộ ra ngoài là ở giai đoạn cuối cùng. Phần lớn chúng ta bắt đầu khởi sự chữa trị một khi đã rõ nguyên nhân gây bịnh bằng những phương pháp thông thường của nền Y Khoa tân tiến hiện tại như :

Chẩn bịnh.
Giải phẫu.
Cắt bỏ.
Thay ghép.
Chiếu điện.
Chạy điện.
Thư giãn.
Xoa bóp.
Châm cứu.
Dược chất thuốc men v.v. . .

Tuy nhiên có rất nhiều nhiều chứng bịnh mà giới Y Khoa không tìm ra được nguyên nhân gây bịnh, thì cũng không có phương pháp trị liệu. Ở trong những hợp này Y Khoa hoàn toàn bó tay, không trị được, bịnh nhân chỉ được cấp toa cho uống những viên thuốc cầm đau cho suốt quãng đời còn lại. Bởi vì nguyên nhân gây bịnh ở thể loại THỂ VÔ HÌNH tác động ảnh hưởng trên THỂ HỮU HÌNH. Căn bịnh thành hình chủ yếu do cơ thể tạo thành là do sự xáo động vô trật tự trong cơ thể, là do những tín hiệu hoá học thần kinh sai lạc, là do những tín hiệu nội tiết suy giảm, lão hóa, hay những kháng thể không còn tác dụng với cơ thể, hoặc là do rối loạn những rung động không hòa đồng một nhịp với sự rung động của thiên nhiên vũ trụ. Vì những sự rối loạn, xáo trộn , vô trật tự này căn bịnh nảy sinh từ thể vô hình bộc phát trên thể hữu hình.
Đây không phải là đối tượng nghiên cứu, và vượt ngoài tầm hiểu biết của Y Khoa. . . Chỉ cần tái tạo lại trật tự, quân bình được sự rối loạn, hoà đồng với nhịp rung động của thiên nhiên , thì các triệu chứng THỂ VÔ HÌNH tác trên THỂ HỮU HÌNH cũng chấm dứt. Căn bịnh tự nhiên biến mất.
Thiên Nhiên Khí Công có đủ khả năng siêu phàm đó, là dùng năng lượng huyền năng Energy cao cả của thiên nhiên ổn định lại trật tự, quân bình các thể vô hình và hữu hình. Đó là đối tượng của khoa trị bịnh ngoại vi của TTHC. Tuy nhiên tuỳ theo nguồn gốc căn bịnh, THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG chỉ giúp được an lành trong một thời gian tương đối, để cho người bịnh hiểu rằng , căn bịnh mình đang mang, không phải là ngẫu nhiên, mà là một quá trình ủ bịnh lâu dài, là những chuỗi phản ứng của đời sống cá nhân trong quá khứ và hiện tại, không hợp với trật tự định luật thiên nhiên , và có thể là nguồn gốc căn bịnh phát xuất từ nhiều ký ức của nhiều đời sống khác nhau, đã ứng nghiệm trong đời sống hiện tại của người bịnh.
Với hy vọng một phần trong muôn một, cách chữa bịnh này như tiếng chuông cảnh thức giúp người bịnh khai ngộ về tâm linh – “ Luôn
luôn tự đặt câu hỏi vì lẽ gì căn bịnh tôi mang đã nhiều
năm tháng được chữa khỏi trong vòng ít phút bởi năng lực Huyền Năng Thiên Nhiên Khí Công, mặc dù tôi đã cố gắng chữa chạy tổn phí không biết bao nhiêu tiền của và thời gian “
Câu hỏi này được đặt ra, và câu trả lời chính xác nhất đã được thực hiện trên bản thân người bịnh – Điều quan trọng hổ trợ cho việc chữa trị là biết mở rộng tâm hồn mình trong tôn giáo, biết sửa chữa những sai lầm từ thể chất lẫn tâm hồn thì căn nguyên nguồn gốc của căn bệnh mới được tiêu trừ. Đó là phần thưởng vô cùng quý báu, là ta tự chữa cho chính mình bằng niềm tin tôn giáo. Ở trong giai này chữa bịnh bằng năng lực huyền năng Thiên Nhiên Khí Công không còn cần thiết nữa.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG KHOA CHỮA BỊNH
º Không có giáo lý, giáo điều.
º Không có quy ước.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG KHOA CHỮA BỊNH
Được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp xã hội.

° Không phân biệt giàu sang, nghèo hèn.
° Không phân biệt giới tính tuổi tác.
° Không phân biệt chủng tộc.
° Không phân biệt tôn giáo.
° Không có đặc quyền hay bí truyền.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG KHOA CHỮA BỊNH

° Không có đệ tử chọn lọc chân truyền.
° Chỉ có học viên được hướng dẫn bởi Thiên Nhiên Khí Công, trong giờ
đầu tiên cho đến ngày mãn khóa , học viên không bị ràng buộc theo một điều kiện nào của Thiên Nhiên Khí Công.
° Mỗi học viên đều có tự do riêng , hành sử theo đức hạnh và đạo hạnh
trong khuôn mẫu CHÂN, THIỆN, MỸ , đây là tôn chỉ của THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG cũng là điều kiện bắt buộc duy nhất.
° Trong quan niệm mỗi học viên là hạt giống được gieo trồng, mọc thành
cây, tuỳ theo giống loại, tuỳ theo sức sống vươn lên, tự do phát triển, nảy mầm, trổ lá, đơm bông kết trái, đều ở ngoài tầm ảnh hưởng THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG.
° Ngay giờ đầu tiên, và sau khi mãn khoá THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG
toàn không áp đặt ảnh hưởng trên học viên từ vật chất lẫn tinh thần.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG KHOA CHỮA BỊNH

Vì khoa trị bịnh là khoa ngoại vi của TTHC, nên khoá học hết sức đơn giản, hoàn tất trong vòng bảy ngày. Mỗi ngày từ bốn đến năm giờ luyện tập
trong phương pháp TTHC/Thiên Nhiên Khí Công.
Học viên được khai mở mạch đạo và huyệt đạo trong bảy lần, mỗi ngày một lần.
Sau mỗi lần khai mở, học viên có đầy đủ khả năng tiếp nhận được năng lượng của vũ trụ, và đủ khả năng trong phương pháp trị bịnh bằng năng lực huyền năng Energy cách không truyền lực.
Tuy nhiên không phải tất cả học viên đều hấp thụ giống nhau, mà tùy theo khả năng khai mở, luyện tập, kể cả yếu tố nhân duyên của mỗi cá nhân.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG KHOA CHỮA BỊNH

Cách không đả tật.
Xử dụng lượng huyền năng Thiên Nhiên Khí Công để chữa bịnh.
Không đụng chạm vào cơ thể bịnh nhân.
Không dùng thuốc men.
Không châm cứu.
Không thôi miên.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG KHOA CHỮA BỊNH

( Nhữ ng điều cần thiết bắt buộc phải ghi nhớ )

° Không phải là bác sỹ hành nghề.
° Không có ý kiến về chẩn bịnh, chỉ trị bịnh theo lời yêu cầu của
bịnh nhân đau đâu chữa đó.
° Không có ý kiến về bịnh lý.
° Không có ý kiến về lời khuyên kiêng, cữ.
° Không có ý kiến về thuốc men ( thuốc tây, thuốc ta, thuốc bắc,
thuốc dân gian, thuốc mẹo dân tộc v. v và v.v . . . )
° Không châm cứu, đả huyệt, xoa bóp.
° Không đụng chạm vào cơ thể bịnh nhân trong bất hoàn cảnh
nào.
° Hoàn toàn được quyền từ chối trong việc chữa trị cho bất cá nhân nào, mà mình cảm thấy không được thoải mái vui vẻ.


THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG KHOA CHỮA BỊNH

Không dẫn giải về lý thuyết, chỉ có phần thực hành, vì thế khoá học hết sức đơn giản, không gò bó về chữ nghĩa, kiến thức, mỗi học viên điều lãnh hội một cách dễ dàng.
Sau đây là sơ lược khoá học gồm bảy ngày, mỗi ngày năm giờ hay dài hơn tuỳ theo nhu cầu.

CHƯƠNG TRÌNH KHÓA HỌC

Ngày thứ nhất :

* Giờ đầu trả lời những câu hỏi của học viên liên quan đến TTHC/
Thiên Nhiên Khí Công trong phạm vi trị bịnh
* Giờ thứ hai khai mở mạch đạo, và huyệt đạo trực tiếp cho từng
học viên một ( cách không khai mở mạch đạo ).
* Giờ kế tiếp thực hành luyện tập, tiếp nhận nguồn năng lượng của
vũ trụ.
* Thảo luận, trao đổi, chia sẻ những ấn chứng trong những giờ
giờ luyện tập.

Ngày thứ hai:

* Trả lời những thắc của học viên sau một ngày tu tập.
* Giờ thứ hai khai mở mạch đạo, cùng huyệt đạo.
* Những giờ kế tiếp luyện tập tiếp nhận năng lượng Energy
của vũ trụ, và thảo luận chia sẻ những ấn chứng đã thu nhận được
sau những ngày giờ luyện tập.

Ngày thứ ba đến ngày thứ sáu

* Khai mở mạch đạo, huyệt đạo.
* Trả lời thắc mắc của học viên.
* Nhũng giờ kế tiếp tu tập, chia sẻ, trao đổi những ấn chứng đã
cảm nhận được.

Ngày thứ bảy

* Khai mở mạch đạo lần cuối.
* Lễ mãn khoá.



CHƯƠNG BA

THÁI THƯỢNG HUYỀN CÔNG

Phương pháp tu luyện

Công pháp:

Thái Thượng Huyền Công phương pháp tu luyện về tâm linh bao gồm 5 bộ công pháp phổ, đó là:

a/ HẠNH NGỘ ĐẠO PHÁP.
b/ BỔN TÁNH QUY NGUYÊN.
c/ HOÀN NGUYÊN THIÊN KHÍ.
d/ MÃN THIÊN HUYÊN CÔNG.
c/ THÁI THƯỢNG HUYỀN CÔNG.

Riêng khoa trị bịnh THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG, học viên chỉ cần luyện tập công pháp HẠNH NGỘ ĐẠO PHÁP là đủ.
Khái niệm sơ quát năm bộ công pháp trong phần tu luyện tâm linh, gồm các thế pháp phổ như sau:
a/ Hạnh Ngộ Đạo Pháp :
Gồm sáu thế pháp phổ
1-Thái cực thường chuyển.
2-Âm dương thường chuyển.
3-Pháp luân thường chuyển.
4-Pháp luân chiếu minh.
5-Tụ đỉnh tam hoa.
6-Hạnh ngộï đạo pháp.
+ Hạnh Ngộ Đạo Pháp là một công pháp rất quan trọng, đó là thước đo nguồn năng lực Energy của vũ trụ, giúp ta biết nguồn năng lực huyền năng ở trong ta dồi dào hay suy yếu.
+ Hạnh Ngộ Đạo Pháp còn là công pháp bồi bổ công lực, phát huy huyền năng của đạo pháp.
+ Hạnh Ngộ Đạo Pháp cũng là thước đo công phu luyện tập.

b/ Bổn Tánh Quy Nguyên :
Gồm sáu thế pháp phổ
1-Thái cực thường chuyển.
2-Âm dương thường chuyển.
3-Thọ ân hồng điển.
4- Thanh lọc tâm, thân.
5-Chiếu minh tâm thân.
6-Bổn tánh quy nguyên.

c/ Hoàn Nguyên Thiên Khí
Gồm năm thế pháp phổ
1-Thái cực thường chuyển.
2-Âm dương thường chuyển.
3-Lưỡng cực hợp nguyên.
4-Vô lượng huyền công.
5-Hoàn nguyên thiên khí.

d/ Mãn Thiên Huyèân Công
Gồm năm thế pháp phổ
1-Thái cực thường chuyển.
2-Âm dương thường chuyển.
3-Lưỡng cực quy tâm.
4-Tam hoa quy nguyên.
5-Mãn thiên huyền công.

c/ Thái Thượng Huyền Công

° Vô lượng thế pháp phổ.
° Khởi tại tâm.
° Chung tại tâm.

Điều khí

Lưu khí ở đan điền, chuyển đến mạch đạo số một . . .( chỉ dẫn trong lớp học, cùng động tác thiên nhiên của bản thể )
Giữ hơi thở bình thừơng.
Tuỳ theo phương tiện đứng ngồi đều được cả.
Không phân biệt phương hướng, giờ giấc ngày đêm.
Lưỡi co lên, chạm vào chân răng cửa hàm trên.

CHƯƠNG BỐN

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG

I- ĐẠI CƯƠNG

Thiên Nhiên Khí Công là khoa ngoại vi của Thái Thượng Huyền Công, được khai triển cho một nhu cầu khuyến tu, giúp mọi người hiểu rõ được huyền năng thiên nhiên cao cả, bởi đã chứng nghiệm vô cùng chính xác trên bản thân của mình, đẩy lui những căn bệnh trong vòng ít phút, bằng năng lượng huyền năng Thiên Nhiên Khí Công, mà trước đó ( có thể thời gian rất dài ) không thể chữa khỏi bởi nền Y Khoa tân tiến hiện tại.
Học viên tiếp nhận năng lượng huyền năng Thiên Nhiên Khí Công, không thông qua quá trình khổ luyện, không giống bất cứ môn khí công nào hiện tại trên thế gian này, không có trong sách vở, không tài liệu tham khảo, và ở ngoài tầm hiểu biết, trí tưởng tượng của các thầy khí công từ xưa đến nay.
Khi được trực tiếp cách không khai mở mạch đạo, học viên được ân ban, đốt giai đoạn tu tập có thể từ mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm . . . Mỗi học viên được trang bị hoàn hảo về năng lượng Thiên Nhiên Khí Công, và khởi đầu từ bậc thang này, học viên dễ dàng luyện tập công pháp phổ.
Tuỳ theo khả năng tu luyện, yếu tố nhân duyên, đức hạnh, đạo hạnh. Năng lượng huyền năng Thiên Nhiên Khí Công được phát triển lên cao tầng, hay xuống cấp, khả năng chữa bịnh là đều do mỗi cá nhân định đoạt.
Thiên Nhiên Khí Công mở con đường mới cho học viên , con đường tu tắc, khởi đầu cho công trình tu luyện tâm tinh là được khai mở năng lực huyền năng Thiên Nhiên Khí Công nhiệm mầu, với mục đích khuyến tu, khai mở tâm từ bi, bác ái.
Do đó học viên không thể tự mình khai mở mạch đạo, năng lượng huyền năng cho bất cứ ai.
Chỉ có những đệ tử chân truyền được hướng dẫn bởi Thái Thượng Huyền Công mới đủ khả năng khai mở mạch đạo, khai phóng năng lượng Thiên Nhiên Khí Công với mục đích cao cả hoà nhập vào cõi CHÂN NHƯ.

1- PHƯƠNG THỨC LUYỆN TẬP

Phần lý thuyết
Phần lý thuyết không cần thiết trong việc dẫn giảng, lý luận về khoa ngoại vi chữa bệnh Thiên Nhiên Khí Công.
Vì là khoa ngoại vi chữa bịnh Thiên Nhiên Khí Công danh hiệu của những công pháp, của những thế pháp phổ, nên hiểu chỉ là tên gọi để phân biệt công pháp này, công pháp nọ, thế pháp phổ này, thế pháp phổ nọ, hầu giúp học viên dễ dàng phân biệt trong lúc luyện tập.
Phần thực hành
Vì được khai mở mạch đạo, và huyệt đạo học viên có đầy dủ khả năng trong việc trị bịnh. Từ bậc thang Thiên Nhiên Khí Công này, muốn phát triển năng lượng huyền năng lên cao tầng, học viên cần phải hội đủ những điều kiện bắt buộc sau đây;
º Chân.
º Thiện.
º Mỹ.
Biểu tượng cho đức hạnh và đạo hạnh.
Và, trân trọng, chăm chỉ luyện tập công pháp.
Thiên Nhiên Khí Công phương pháp luyện tập hết sức đơn giản, chú trọng tập trung vào phần thực hành.
Phương pháp duy nhất để luyện tập là công pháp Hạnh Ngộ Đạo Pháp.

HẠNH NGỘ ĐAỌ PHÁP là phương pháp căn bản tu luyện của TTHC

Tiếp thu nguồn năng lượng của vũ trụ.
Thước đo công phu luyện tập.
Thước đo nguồn năng lượng trong bản thân.

Phương pháp Hạnh Ngộ Đạo Pháp , gồm sáu thế pháp phổ:
° Thái cực thường chuyển.
° Âm dương thường chuyển.
° Pháp luân thường chuyển.
° Pháp luân chiếu minh.
° Tụ đỉnh tam hoa.
° Hạnh ngộ đạo pháp.

Từng thế một luyện tập hết sức chậm rãi, thời gian mười phút cho mỗi một chu kỳ sáu thế pháp phổ, cứ như thế tiếp tục, cùng với cách điều khí phối hợp từng thế – được hướng dẫn thực tập trong khoá học –

2- PHƯƠNG PHÁP TRỊ BỊNH

A-/ PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG có đầy đủ khả năng chữa bịnh khi bịnh bộc phát bởi hai thể vô hình và hữu hình tác động vào nhau ở trạng thái rối loạn chuyển hóa, mất cân bằng của cơ thể, trong một cố gắng lập lại thế quân bình.
THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG dùng năng lượng huyền năng của Thiên Nhiên cao cả, là phương pháp trị liệu duy nhất của THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG. Vì tính cách siêu linh đó, THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG trong khoa trị bịnh không còn tính cách cá nhân, bản ngã riêng tư. Người trị bịnh chỉ là công cụ trung gian trực tiếp thu nhận nguồn năng lượng Energy của vũ tru.
Mỗi con người chúng ta đều có năng lượng huyền năng Energy thiên nhiên của bản thể riêng biệt, trong lúc trị bịnh, quá trình trao đổi giữa hai luồng Energy của người bịnh và người trị bịnh, nếu đặt nặng tính cách cá nhân chủ động trong việc chữa trị, thì năng lượng Energy phát xuất chính trong bản thể của người trị bịnh chuyển qua cơ thể của người bịnh , và người trị bịnh cũng nhận được năng lượng từ bản thể người bịnh truyền sang, vô hình trung người trị bịnh nhiễm căn bịnh của người bịnh mà không hay biết.
Cũng vì lý do tối quan trọng này. THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG trị bịnh trong tôn chỉ CHÂN, THIỆN, MỸ được chi phối bởi HUYỀN NĂNG THIÊN NHIÊN VŨ TRỤ NHIỆM MẦU.
Trong cách trị liệu không còn phân biệt giữa người trị bịnh và người bịnh, mà là sự hổ trợ lẫn nhau trong quá trình trị bịnh, sự phối hợp này là tối cần thiết, vì nếu một trong hai người có sự xung đột bất hoà về tư tưởng. hay bất an về nội tâm, hay bị chia chí vì ngoại cảnh, thì cách trị liệu này hoàn toàn bế tắc, không có kết quả, bởi vì hai người không còn tính cách cá nhân nữa, vì việc trị bịnh ảnh hưởng trực tiếp năng lực huyền năng thiên nhiên .

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG VIỆC CHỮA TRỊ

1./ Cách không trị bệnh. ( cách không đả tật )
º Không đụng chạm vào cơ thể bịnh nhân.
° Giữ khoảng cách 1’’ đến 2 “á từ lòng bàn tay của người trị bịnh đến
chỗ bị đau của người bịnh.
° Đồng thời vận hành hơi thở xuống đan điền và chuyển lên mạch
đạo số bảy và số sáu mục đích khai mở toàn bộ mạch đạo.
° Hơi thở thoát ra từ mũi.
° Miệng ngậm lại, lưỡi co lên đụng vào hàm lợi răng cửa hàm trên.
° Giữ hơi thở nhẹ nhàng, bình thường, cứ như vậy cho đến hết thời
gian trị bịnh.
º Không dùng thuốc men.
º Không châm cứu, điểm huyệt xoa bóp.
2./ Đau đâu chữa đó:
Bịnh nhân đau chỗ nào chữa ngay chỗ đó
Ví dụ
-Bệnh nhân đau ở cổ tay trái, thì trị bịnh cách không đả bịnh ở cổ tay trái ( cách cổ tay từ 1’’ đến 2’’ ).
-Bệnh nhân đau ở tay phải , thì trị bịnh ở tay phải.( cách tay phải từ 1’’ đến 2’’ ).
-Nhức đầu, cách không đả bịnh ở đỉnh đầu (cách đỉnh đầu từ 1’’ đến 2’’ ). . .

B./ CẢM ỨNG CỦA NGƯỜI TRỊ BỊNH
Cảm nhận một luồng khí công phát ra từ lòng bàn tay:
Có lúc nóng, ấm.
Có lúc lạnh.
Có lúc như một lực mạnh phát xuất từ lòng bàn tay đè xuống.
Có lúc như một giòng điện chạy lăn tăn.
Những cảm ứng này không nhất thiết những người trị bịnh phải giống nhau, không nhất thiết phải hội đủ những cảm ứng nêu trên. Mỗi người một vẻ, không nên đặt nặng, quan tâm vào những cảm ứng. Cảm nhận chỉ là biểu tưởng, ấn chứng .

C./ THEO DÕI
Muốn biết trong lúc chữa bịnh có hiệu quả tốt hay không ? bằng cách :
Theo dõi phản ứng, cảm nhận của bệnh nhân trong lúc truyền lực .
Nếu bịnh nhân không cảm nhận được phải ngưng ngay việc chữa trị,
vì không hiệu nghiệm, không nên thử mất thời giờ vô ích.

D./ CẢM ỨNG CỦA BỊNH NHÂN
Những cảm nhận của bịnh nhân bắt buộc phải có trong lúc chữa trị tryền lực như sau:
Cảm ứng rất rõ : Nóng, hoặc lạnh, hoặc có gió thổi nhẹ ngay cơ phận
đang chữa trị.
Cảm ứng rất rõ : Như có giòng điện chạy vào cơ thể.
Cảm ứng rất rõ : Như có áp xuất đề lên chỗ bị đau.
Cảm ứng rất rõ : Cơ thể bị giựt bắt lên tù những ngón tay, ngón chân, tay, chân, hoặc cả thân thể.
Cảm ứng rất rõ : Những chân tóc chuyển động, nhúc nhích.
Cảm ứng rất rõ : Chóng mặt, buồn nôn, tim đập mạnh – trường hợp này giải thích rõ ở trong đề mục NHỮNG TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ

Bệnh nhân chỉ cần cảm nhận một trong nhiều trường hợp nêu trên, thì cuộc chữa trị cách không truyền lực có kết quả tốt.

E./ THỜI GIAN TRỊ LIỆU

Thời gian trị liệu tối thiểu ba phút, đối đa bảy phút
Số lần chữa trị cho một bịnh nhân trong một ngày : Một lần trong ngày.
Ngoại trừ nhũng trường hợp đặc biệt có thể chữa trị cho một người hai ba lần trong ngày.
“ Trong trường hợp đặc biệt. Sau khi chữa trị, nếu bịnh nhân cảm thấy bịnh thuyên giảm từ 50%, 70% hoặc 100%, ( xét hoàn cảnh của người bịnh ) người bịnh nên ngồi chờ thêm một thời gian từ 30 phút đến 45 phút để xem có đau trở lại hay không ? Nếu đau thì chữa thêm 1, 2 lần nữa căn bệnh có thể khỏi hẳn 100%.”
Khoảng cách mỗi lần truyền lực 45 phút.
Cố gắng tuân theo giới hạn thời gian chữa trị cho một bịnh nhân một lần một ngày, vì nếu chữa nhiều lần liên tiếp bịnh nhân không chịu đựng nổi năng lực huyền năng khí công truyền vào, cơ thể phản ứng bằng cách xuất mồ hôi, hoặc mất ngủ trong đêm , gây hoang mang vô ích cho bịnh nhân.

II - QUYỀN TỪ CHỐI
Hoàn toàn được quyền từ chối trong việc chữa trị cho bất cứ cá nhân nào, mà mình cảm thấy không được thoãi mái, vui vẻ.

III – LỆ PHÍ
- Không đòi hỏi lệ phí.
- Không ngăn cấm nhận tài vật trong tấm lòng tuỳ hỉ ( Donation ) để trang trải chi phí.

IV – NHỮNG ĐIỀU LƯU Ý
Một khi đã chữa trị khỏi, hoặc giảm hẳn những cơn đau nhức bằng phương pháp THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG có nghĩa là căn bịnh bắt đầu khỏi
bịnh. Muốn hết bịnh tận gốc bịnh nhân phải tuyệt đối kiêng cữ, tránh những cử động gây tổn hại đến chỗ bị đau mới được chữa lành, nên thư giản nghỉ ngơi. Hoặc tham khảo bác sỹ gia đình của mình để có những lời chỉ dẫn của bác sỹ những phương thức tốt nhất trong việc kiêng cữ những cơ phận đã được phục hồi ( lành bệnh ) để tránh những tổn thương đau trở lại,
bệnh tái phát.Và cũng vì lý do siêu linh, căn nguyên nguồn gốc của các căn bệnh cần phải phân định rõ ràng trong phương thức riêng của THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG.

3- BỊNH

Bịnh là gì ?
Bịnh có mấy loại ?

Nhận định riêng của THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG.
Bịnh của con người, cũng như muôn loài động, thực vật sống trên quả địa cầu, được cấu tạo bởi những nguyên nhân sâu xa, và thầm kín.
Trong cơ thể con người những bộ phận không hoạt động bình thừơng gây nên đau đớn, hơặc gây trở ngại trong việc sinh hoạt hàng ngày đều được gọi là bịnh.
Bịnh gây ra bởi 2 nguyên tác chính: Ngoại, và nội.

NGOẠI :
Là do ký sinh trùng, vi trùng, siêu vi trùng, nấm v.v... đột nhập làm tổn hại những cơ phận trong cơ thể, hoặc ngoài da, hoặc do sự ăn uống thiếu dinh dưỡng, hoặc quá độ mất quân bình về dinh dữơng.

NỘI :
Là do cơ phận trong cơ thể bị suy yếu, hao mòn – lão hóa – hoặc do phản ứng rối loạn sinh hoá của hệ thần kinh, của nội tiết, của kháng thể không còn thích nghi với cơ thể, hoặc do cuộc sống trái nghịch với trật tự thiên nhiên nên sinh ra bịnh. Bịnh cũng nằm trong sự phát triển không đúng cách của tế bào, hoặc do tế bào hư hại từ trong nguyên thủy, hoặc do di truyền, hoặc do những nguyên nhân kéo dài từ nhiều ký ức sâu thẳm khác nhau vì đời sống này là sự tiếp nối không gián tiếp qua những cõi giới khác nhau của kiếp sống.
Những nguyên nhân trên tác động chia bịnh làm hai thể loại:
1-/ Bịnh về thể chất.
2-/ Bịnh về tâm.
Bao gồm hai hình thức:
- Thể xác hay thể hữu hình.
- Thể tâm linh hay thể vô hình.

Ngoài ra những thương tật do tại nạn gây ra làm tổn thương cho cơ thể không được gọi là bịnh, trừ những trường hợp bị tổn thương ( do tại nạn ) về thần kinh – trong não bộ, trong cột sống – hoặc sợ hãi kinh hoàng về tâm lý.
Cơ thể con người là tổng hợp thực thể phức tạp, gồm nhiều thể vô hình khác nhau, như năng lượng Energy, linh hồn, cũng như thể vô hình ở dưới dạng tế bào, những hợp chất hoá học do nội tiết tạo ra.

Cơ thể được nuôi dưỡng và điều khiển bởi năng lượng Energy, bởi hoá chất, bởi mệnh lệnh hoá học phản ứng sinh hoá do tế bào tạo ra.
Căn bịnh thành hình là do những mệnh lệnh vô hình sai lạc, hoặc suy yếu không còn chính xác, hoặc do ngoại vật đột nhập tiết những chất hoá học làm hư hại , xáo trộn trật tự của mệnh lệnh, hoặc do nhiều nguyên nhân khác như sống và hành động trái với trật tự thiên nhiên gây nên tổn hại, vô trật tự ở thể vô hình, ảnh hưởng trực tiếp trên thể hữu hình, sau một thời gian dài bịnh chín mùi trên thể vô hình, căn bệnh mới lộ diện tác động vào thể hữu hình, đó là kết quả cuối cùng của căn bịnh.
Hầu hết chúng ta cần đến sự trợ giúp của Y Khoa khởi sự chữa trị trong giai đoạn cuối cùng này là quá trễ, cơ may khỏi bịnh chiếm tỷ lệ nhỏ nhoi kiêm nhường.
Ở thể hữu hình:
Các căn bệnh gây ra thành tật, khuyết tật, hoặc mọc ra dư thừa như vôi, xương mọc nhánh, hoặc mất một phần cơ thể ( như mất sụn, lòi đĩa sụn . . . ) v.v. . . năng lực huyền năng THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG không thể tái tạo, tiêu huỷ được.
Ở thể vô hình:
Các căn bệnh bẩm sinh, hay nghiệp qủa, có thể chữa được tuỳ theo công năng huyền năng khí công THIÊN NHIÊN cao hay thấp , nhưng điều này rất khó, căn bịnh có thể chữa khỏi bởi chính người bịnh bằng niềm tin tôn giáo.
THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG trong khoa chữa bịnh ( bịnh bẩm sinh, nghiệp quả ) nếu có thể chữa được chỉ là tạm thời, đẩy lùi căn bịnh trong một thời gian nào đó, để giúp bịnh nhân suy ngẫm về đạo đức của mình trong dĩ vãng, trong hiện tại và những tính toán tương lai, để sửa đổi cách sống từ vật chất đến tinh thần.
Bịnh là kết quả cuối cùng của những chuỗi phản ứng xấu ở hai thể hữu hình và vô hình. Để vô hiệu hoá những phản ứng trên ta cần phân biệt hai hình thức :

º Thế nào là thể hữu hình ảnh hưởng trên thể vô hình.
º Thế nào là thể vô hình tác động vào thể hữu hình.

A -/ THỂ HỮU HÌNH ẢNH HƯỞNG TRÊN THỂ VÔ HÌNH.
Ví dụ:
Như ta ném viên đá xuống hồ nước phẳng lặng tạo thành những gợn sóng đồng tâm hết lớp này đến lớp khác lan rộng đến tận cùng của hồ ( khi một lực phát ra đều có một lực ngược lại đó là định luật bất biến của thiên nhiên ) những gợn sóng đồng tâm này tạo ra một lực phản hồi trở lại thành những gợn sóng đối đầu cực kỳ trật tự cân bằng, tạo ra một thế trật tự quân
Bình, do đó mặt hồ vẫn êm ả, sóng gợn nhỏ lăn tăn, cứ như thế liên tu bất
tận, cho đến một thời gian cần thiết nào đó, những gợn sóng mới lắng động, mặt hồ trở nên yên tĩnh – Một quy luật trật tự của vũ trụ – Tuy nhiên nếu gợn sóng nãy bị cản trở bởi đáy hồ, hoặc bờ hồ một cách bất thường, hoặc một vật thể nào đó cản lại gợn sóng, tức thì thế quân bình trật tự bị phá vỡ, làn sóng bị xáo trộn, sẽ trở nên mãnh liệt, năng lực tăng lên đột ngột, và một hậu quả đương nhiên phải có.
Tuy vậy, tuỳ theo viên đá lớn hay nhỏ, sức ném mạnh hay yếu, hồ rộng hay hẹp, sâu hay cạn, thì cường độ của những ngợn sóng to hay bé, và yếu tố thời gian cũng vì đó mà biến đổi. Ta có thể trợ giúp bằng cách lấy lại sự trật tự cân bằng, nếu hồ hẹp thì nới hồ rộng ra, hồ cạn đào thêm sâu, thì tác động của những gợn sóng giảm bớt, hoặc không còn ảnh hưởng bao nhiêu. Đó là những hình ảnh tiêu biểu cho ta thấy sự phức tạp mất quân bình của thể vô hình chịu ảnh hửơng của thể hữu hình.

ª Thể hữu hình : gồm hai thể loại.
° Thể loại thứ nhất :
Cơ phận bị tổn thương ( thể hữu hình ) đã phá vỡ thế quân bình, gây xáo trộn vô trật tự ở thể vô hình, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của tế bào, làm sai lạc những mệnh lệnh hoá học của hệ thần kinh, của hệ nội tiết
Khi nguồn năng lượng bị rối loạn, phân tán, hoặc thất thoát theo vết thương bốc hơi ra ngoài, cơ thể không còn đủ khả năng bảo vệ cơ phận bị thương, gây nên đau đớn. Sau một thời gian cần thiết, năng lượng Energy lấy lại quân bình, ổn định lại trật tự, thì cơn đau nhức cũng biến mất ( do cơ thể dồi dào sinh lục tự chữa lấy ).
Khi bị thương do tai nạn dù nặng hay nhẹ, dù ngoại thương hay nội thương ( ngoại thương là vết thương nhìn thấy bằng mắt, nọâi thương là vết thương không thể nhìn thấy bằng mắt, chìm trong cơ thể ) phản ứng tức khắc trong giây phút đầu tiên khi cơ thể bị thương, là sự đau đớn nhức nhối.
Sự đau đớn nhức nhối ở dưới hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất
Đau đớn do bị gẫy xương, rách da, cắt thịt chảy máu.
Sự đau đau đớn, nhức nhối biến thiên theo thời gian, càng về sau càng đau cho đến tận cùng thì giảm xuống, có khi hết hẳn vài giờ sau đó, có khi kéo dài đôi ba ngày, có khi đôi ba tuần, đến khi vết thương lành xương, lành da thì khỏi hẳn – do năng lượng Energy của cơ thể tự chữa lành -
Trường hợp thứ hai
Bầm dập sưng u
Vết thương bị bầm dập, sưng u, khi ta lấy tay đụng chạm nhẹ vào vết thương, ta cảm thấy nhức nhối đau đớn, sự đau có thể kéo dài đôi ba tháng, có khi đôi ba năm tự nhiên khỏi, hoặc lâu hơn thế nữa mười năm, hai mươi
năm. . . . hay vẫn còn đau đến tận . . . giờ hấp hối, và vết thương vẫn bầm
dập, sưng u vẫn còn hiện hữu như lúc mới bị thương.
Đó là kết quả xáo trộn của thể hữu hình tác động vào thể vô hình trên một vị thế mất quân bình của thể vô hình. ( Khi vết thương thành hình trên thể hữu hình phản ứng cấp thời của tế bào, của hệ thần kinh, của hệ nội tiết, của năng lượng kháng thể tự nhiên của cơ thể , tạo ra những mệnh lệnh, những tín hiệu hoá học để lập lại quân bình đã rối loạn với mục đích để bảo vệ, và tự chữa những cơ phận bị thương ) . Chỗ bị thương năng lượng bị tản mác, những tín hiệu hoá học của tế bào, của hệ thần kinh bị rối loạn mất quân bình, năng lượng thiên nhiên của bản thể không thể tự phục hồi, không thể tái lập được trật tự trong khoảng khắc vì năng lực không đủ lực, và thời gian cần thiết để tự chữa vết thương, vì vậy tiến trình phục hồi làm lành vết thương mất thế đối tác. Liền tức khắc cơ chế kháng sinh tạo một đối tác mới, để lập lại vị trí quân bình mới, bao gồn tế bào, hệ thần kinh, hệ nối tiết lại tạo ra những mệnh lệnh mới, những tín hiệu hoá học mới cho nhu cầu cân bằng trật tự mà vết thương đã tạo ra , nhưng năng lượng này không lực để làm lành vết thương từ từ tan đi để lại sự rối loạn, mất quân bình . . . Và cứ . . . như thế lập đi, lập lại. Một chu kỳ đựơc thành lập, liên tu bất tận, có thể kéo dài đến hết cuộc đời trong cơn đau bất tận, không có thuốc chữa. Dù cho thời gian kéo dài đến bao lâu, tình trạng vết thương vẫn như lúc ban đầu không hề thuyên giảm.
Cơn đau nhức do tại nạn ( bầm dập, sưng u ) có thể lành khỏi, sau một vài ngày bị thương, nếu cơ thể tạo ra một năng lực đối tác quân bình được trật tự, rối loạn, tái tạo những mệnh lệnh bị hư hại. Nhưng người bịnh không thể tìm ra được năng lượng đó. Cơn đau nhức như một bản án treo vô hạn định, lăm le chờ cơ hội được ân xá trong tư thế sản sàng, nhưng cơ hội không bao giờ đến. Bệnh nhân chỉ được cấp những toa thuốc giảm đau, mà họ phải chịu suốt đời còn lại.
THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG có đầy đủ huyền năng siêu phàm trấn áp được những cơn đau nhức do tín hiệu của hệ thần kinh bị rối loạn, mất quân bình, hay cơ chế kháng sinh mệnh lệnh của tế bào bị hao tổn, suy thoái không thể hồi sinh.
Năng lực THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG là năng lượng xúc tác, khí mồi, khí dẫn giúp cơ thể người bệnh xúc tiến tự chữa, hồi sinh lại trật tự cân bằng những rối loạn, phục hồi chức năng, đả thông tắc nghẽn trong kinh mạch.
° Thể loại thứ hai
Đau lưng ( trong phạm vi thần kinh tọa )
Đau thần kinh tọa là do hư hại bất thường về cấu trúc đĩa đệm trượt ra ngoài khớp đốt xương sống, cảm giác đau ở mông lan xuống đùi, bàn chân, do can rễ thần kinh toạ từ coat sống. Những cử động bình thường như: nói, hắt hơi, ho, hoạt động cơ bắp khi chuyển động, di chuyển đã đụng chạm,

chèn ép giây thần kinh do đĩa đệm thoát ra ngoài làm cho đau đớn .
Xương mọc nhánh, gai xương
Vôi mọc ra ở rìa xương, khi di chuyển cử động, những cơ giây thần kinh ở chung quanh chạm vào gây đau đớn.
Năng lực THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG không hiệu quả trong những trường hợp nêu trên.

ª Thể vô hình
Thể vô hình bị xáo trộn mệnh lệnh tế bào bị rối loạn, mất quân bình, vô trật tự ở trong tình trạng tự nhiên của cơ thể :
Vì siêu vi trùng, vi trùng, vi khuẩn đột nhập
Vì lão hoá.
Vì suy nhược ( xáo trộn những tín hiệu của nội tiết, của tế bào, của hệ thần kinh hay của hệ kháng thể không còn thích ứng với cơ thể, thiếu dinh dưỡng, quá độ dinh dưỡng, quá độ lao trí lực).
Vì cuộc sống trái với định luật thiên nhiên.
Đã bộc phát ra nhiều chứng bịnh đau nhức từ nhẹ đến nặng, từ thông thường đến nan y ( như ung thư chẳng hạn ).
Thực ra những bế tắc này có thể hoá giải, nếu có một nguồn năng lượng ENERGY bên ngoài trợ giúp.
Tuy nhiên sự lành bịnh nhanh hay chậm tuỳ theo tuổi tác, tuổi càng cao hiệu quả lành bịnh chậm hơn tuổi trẻ. Cơ thể khoẻ mạnh sự lành bịnh cao hơn cơ thể suy yếu.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG trong khoa trị bịnh có khả năng siêu phàm trấn áp được cơn đau tức khắc sau vài phút ( từ 3 đến bảy phút )sử dụng công năng khí công, kích thích nguồn năng lực tự nhiên trong bản thể của người bịnh được phục hồi nhanh chóng lấy được thế quân bình, ổn định lại trật tự.
THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG trong khoa trị bịnh, có tác dụng mạnh vào đau nhức do dây thần kinh bị thiệt hại, suy yếu hoặc những rối loạn về sinh hoá vô trật tự ở thể vô hình phản ứng trên thể hữu hình, hay ngược lại như:

Nhức đầu kinh niên.
Đau nhức hai bán tay.
Cứng ngón tay.
Tê tay.
Chứng run rảy hai tay.
Tê chân.
Nóng (lạnh) lòng bàn chân.
Đau đầu gối ( ngồi xổm và đứng lên rất đau đớn, khó khăn).
Đau xương sống.
Đau bao tử, đau gan, đau thận.
Đau nhức vì ung thư.
Đau nhức bị chấn thương do va chạm, bị đánh đập, tai nạn.
Đau nhức bị bầm dập.
Đau nhức bong gân, trân gân.
Đau nhức sau lần giải phẫu.
Phỏng lửa, phỏng nước sôi.
Cắt da, đứt thịt.
KIÊNG THUỐC LÁ.
CAI NGHIỆN MA TÚY
Cảm cúm
Mất ngủ, mất ngủ kinh niên.
O Nhức mắt, mắt mờ vì bị cườm.
O Nhức đầu, nhức mắt vì bị glucoma
Hội chứng trầm cảm
° U uất, sầu muộn.
° Vui buồn, lo âu.
° Hồi hộp, sợ hãi vô cớ.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG TRONG PHƯƠNG CÁCH CHỮA TRỊ

Cách trị bịnh duy nhất của THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG là:
- CÁCH KHÔNG ĐẢ BỊNH ( ĐẢ TẬT ) :
- Không đụng chạm vào cơ thể bệnh nhân.
- Không dùng thuốc men . ( dược chất hoá học, hay dược thảo cây cỏ )
- Không châm cứu, điểm huyệt.
Sau khi tiếp nhận cách không truyền lực từ ba đến bảy phút, tuyệt đại đa số người bịnh cảm thấy dễ chịu, thoải mái, giảm đau tức khắc. Căn bệnh có thể thuyên giảm từ 50% đến 90% hoặc khỏi hẳn 100%, nên duy trì tiếp tục chữa trị thêm ba đến bốn lần, vì có những trường hợp riêng lẻ cơn đau nhức trở lại, có thể cơ thể người bịnh không đủ sức tự chữa.

CẢM ỨNG CỦA NGƯỜI BỊNH TRONG LÚC CHỮA TRỊ
Cảm ứng của người bịnh trong lúc trị bịnh tiếp nhận nguồn năng lượng THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG.
Tuỳ theo căn bịnh, người bịnh có cảm ứng như sau:

º Nhức đầu kinh niên :
• Cảm thấy nóng ở đỉnh đầu.
• Cảm thấy chân tóc di chuyển.
• Cảm thấy nhột từ cổ đến thắt lưng.

º Đau nhức hai bàn tay, cứng ngón tay, tê tay, tay run rảy, tê chân:
• Cảûm thấy ấm, nóng.
• Cảm thấy có giòng điện chạy vào chỗ bị đau.

º Đau lưng:
• Cảm thấy hơi nóng chạy dài trên xương sống.
• Cảm thấy giòng điện chạy lăn tăn trên xương sống.
• Cảm thấy thoải mái dễ chịu, giảm đau tức khắc.

º Đau bao tử , dồn hơi, đau gan, đau thận:
• Cảm thấy nóng rang ở chỗ đau.
• Cảm giác như kim châm đầy người.
• Cảm thấy thoải mái, dễ chịu.

º Đau nhức vì ung thư:
• Cảm thấy ấm, nóng cơn đau nhức tan biến ngay tức khắc.
• Đi vào giấc ngủ dễ dàng.

º Đau phong thấp :
• Cảm thấy giòng điện chạy vào cơ thể.
• Cảm thấy có một sức ép, áp xuất nặng đè vào chỗ đau nhức.

º Đau nhức vì tai nạn, giải phẫu, trật, bong gân, phỏng:
• Cảm thấy cơn đau tăng lên cao rồi từ từ giảm xuống .
• Cảm thấy có giòng điện chạy lăn tăn.
• Cảm thấy ấm , thoải mái dễ chịu, cơn đau tan biến sau một lần truyền khí công.

º Kiêng thuốc lá:
• Cảm thấy chóng mặt.
• Cảm thấy buồn nôn.
• Cảm thấy miệng đắng, chát, thuốc lá hút vào không còn ngon nữa.
• Sợ mùi khói thuốc.

º Cai nghiện ma tuý:
• Cắt cơn nghiện.
• Giảm tức khắc đau nhức tay chân từ những khớp xương.
• Cảm thấy giòng điện chạy thẳng từ đỉnh đầu đến tận lòng bàn chân.
• Cơ thể nhẹ nhàng, thoải mái.

º Hội chứng trầm cảm:
• Cảm thấy giòng điện dựt nhẹ từ đầu chạy đến chân.
• Cảm thấy nỗi buồn tiên tan tức khắc, tâm trí thảnh thơi.

º Mât ngủ:
° Cảm thấy giòng điện chạy từ đầu đến chân nhột như kiến bò.
• Nóng ở trên trán, hai thái dương.
• Không còn thấy nặng đầu.
• Bộ đầu nhẹ nhàng, thoải mái dễ chịu.

THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG trong khoa chữa bịnh, đôi khi có những trường hợp ngoại lệ, có những trường hợp không chữa đựơc, hoặc có những trường hợp không thể chữa lành bịnh 100% trong một thời gian vài phút, cần có sự kiên nhẫn, liên tục, vì những phức tạp tinh tế của những nguyên nhân sâu xa gây nên chứng bịnh.
Những cảm nhận nêu trên của người bịnh chỉ là biểu tượng, không nhất thiết phải đúng theo khuôn mẫu của từng trường hợp. Nhưng người bịnh bắt buộc phải có những cảm nhận trong lúc chữa trị bằng phương pháp THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG, nếu không có cảm ứng được khí công , phải ngưng ngay truyền lực, vì cuộc chữa trị không có hiệu quả .

4- TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ

Có hai trường hợp ngoại lệ điển hình
Trường hợp ngoại lệ thứ 1
Trong trường hợp được truyền khí lực, người bịnh không cảm nhận, không tiếp thu được nguồn năng lực siêu nhiên bởi những nguyên nhân sau đây:
- Đau nhức bắp thịt : Bắp chuối, bắp thịt đùi, bắp thịt lưng, bắp thịt tay, cổ, bụng . . . phần nhiều là do phản ứng hoá học cũa cơ thể tạo thành, khi ta sử dụng cơ bắp nhiều hơn bình thường như chạy, nhảy, kéo, vác, khiêng, đẩy. . . Sau một thời gian thích ứng chất hoá học này tan đi, thì cơn đau nhức cũng tự nhiên hết không cần phải điều trị bằng phương pháp THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG.
- Đau nhức cơ bắp bị tổn thương:
Gồm hai nguyên nhân
Nguyên nhân thứ 1:
Khi vận động quá mức kiến cho bắp thịt bị giãn ra không còn tính chất đàn hồi , hoặc bị nhão, hoặc bị đứt.
Trường hợp này không thể chữa trĩ bằng phương pháp THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG truyền lực.
Nguyên nhân thứ 2 :
Khi cơ thể bị thương bởi
ª Đau nhức bị va chạm
ª Đau nhức bị trật gân , bong gân.
ª Đau nhức bị phỏng lửa, phỏng nước sôi.
ª Đau nhức bị rách da, cắt thịt
º Nếu được chữa trị trong vòng ba mươi phút trở lại, tỷ lệ làm lành
vết thương, hết đau nhức có thể lên tới 100%, cơn đau tan biến ngay tức khắc, sau khi được cách không truyền lực.

º Nếu để lâu - sau hơn một tiếng đồng hồ, hay một vài ngày – vết thương đã thành hình bởi thể vô hình tác động vào thể hữu hình tạo ra những mệnh lệnh sinh hoá đối kháng ( năng lượng Energy thiên nhiên của bản thể ) khiến vết thương sưng tấy lên trong phản ứng tự nhiên của cơ thể để bảo vệ cơ phận bị thương , và cũng là để tự chữa.
Sau một thời gian thích ứng mệnh lệnh kháng thể tan đi, thì chỗ sưng, đau nhức cũng tan theo. Có nhiều trường hợp mặc dù vết thương đã khỏi, nhưng đôi khi sự đau đớn vẫn còn, và có khả năng kéo dài rất lâu. Trường hợp này cơn đau nhức sẽ hết, nếu có một nguồn năng lực THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG trợ giúp.

ª Đau nhức vì xương mọc nhánh, mọc rẽ, vôi.
ª Đau nhức vì mất chất sụn ở giữa hai đốt xương.
ª Đau nhức vì bịnh trĩ.
ª Đau nhức vì xương bị gâõy, nứt, mẻ.
ª Đau nhức, khó chịu vì dị ứng
ª Đau nhức vì tâm lý.
ª Đau nhức bất thường.
- Thỉnh thoảng bị đau nhức, không đau bây giờ tối mới đau,
hoặc mấy ngày sau mới đau.
- Thay đổi thời tiết trời nóng, trời lạnh mới đau.
Những nguyên nhân nêu trên Năng Lực THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG không công hiệu trong việc chữa trị, nếu có giảm đau chỉ là nhất thời. Cần sự trợ giúp của Y Khoa trong việc điều trị.

Trường hợp ngoại lệ thứ 2
Trong khi truyền lực chữa bịnh trong khoảng mươi giây đến hơn một phút, cơ thể ngừơi bịnh không chịu nổi năng lực THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG có những phản ứng như sau:
- Người bịnh cảm thấy ngộp thở.
- Tim đập mạnh.
- Chóng mặt.
- Mồ hôi vã ra như tắm.
- Thất sắc mặt tái xanh.
- Hoặc mặt đỏ ửng, đỏ như gấc, như đổ lửa.
- Mệt muốn xỉu.
Những phản ứng trên rất rỏ nét, người bịnh cảm thấy liền.

Biện Pháp cấp thời:
- Nhưng ngay công phu cánh không trị bịnh
- Người bịnh chỉ cần tịnh dưỡng mươi phút sức khoẻ được phục hồi, những phản ứng nêu trên giống như làm việc lao động bị mệt, chỉ cần nghỉ ngơi ít phút.

Để tránh những sự kiện không hay xảy ra:
- Trong khi cách không truyền lực, người chữa bịnh phải tập trung quan sát, theo dõi biến chuyển phản ứng của cơ thể của người bịnh.
- Nơi chữa bịnh phải là nơi riêng biệt, yên tĩnh, trang nghiêm.
- Bịnh nhân phải hợp tác hoàn toàn với ngưởi truyền lực bằng cách:
° Không được nói chuyện trong lúc được chữa bịnh.
° Những biến chuyển khác thường của cơ thể người bịnh
phải thông báo liền
Có như thế chúng ta mới tránh được những trở ngại vô duyên.

NHỮNG ĐIỀU CẦN PHẢI LƯU Ý
SAU KHI ĐÃ CHỮA KHỎI BỊNH BẰNG PHƯƠNG PHÁP THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG, NGƯỜI BỊNH NÊN THAM KHẢO VỚI BÁC SỸ GIA ĐÌNH CỦA MÌNH , ĐỂ CÓ NHỮNG PHƯƠNG THỨC TỐT NHẤT TRONG VIỆC KIÊNG CỮ NHỮNG CƠ PHẬN ĐÃ ĐƯỢC PHỤC HỒI ( LÀNH BỆNH ), ĐỀ TRÁNH TỔN THƯƠNG, ĐAU TRỞ LẠI

B -/ THỂ VÔ HÌNH TÁC ĐỘNG VÀO THỂ HỮU HÌNH
Con người là tiểu vũ trụ, chi phối bởi đại vũ trụ bao trùm lên vạn vật trong định luật quân bình tuyệt đối.Mọi sự thay đổi đều có những phản ứng đối đầu thích ứng để duy trì quân bình và trật tự. Chính vì con người chứa đựng bản chất vũ trụ bao gồm bốn nguyên tố ( tứ đại ): Đất, Nước, Gío, Lửa và hai nguyên tố ngũ hành Kim, Mộc. Nếu một trong những nguyên tố này thay đổi, sẽ làm mất vị trí quân bình, ảnh hưởng trực tiếp đến các nguyên tố kia bắt buộc phải thay đổi theo để duy trì vị trí quân bình – một quy luật bất khả thay đổi –
Ở bản thể con người cũng vậy, khi căn bệnh đã lộ diện trên thể hữu hình, có nghĩa là mầm bịnh đã khởi phát từ thể vô hình (như suy yếu, thoái hoá về hệ thần kinh, hệ nội tiết không còn hữu hiệu, hoặc do ngoại vật đột nhập tạo ra những hoá chất đã huỷ hoại, làm suy yếu hệ kháng thể ) ảnh hưởng trực tiếp trên cơ thể, đó là một quá trình của những chuỗi phản ứng gay gắt của thể vô hình đòi hỏi để tái tạo trạng thái quân bình, trật tự lúc ban đầu. Nhưng cơ thể ( vì một lý do nào đó ) không đủ những phản ứng tương xứng mà thể vô hình đòi hỏi, để cân bằng những rối loạn, vì thế căn bệnh mớiä xuất đầu lộ diện trong vị trí mất quân bình của thể hữu hình, có thể do những nguyên nhân sâu xa như:
º CUỘC SỐNG TRÁI VỚI ĐỊNH LUẬT THIÊN NHIÊN.
º BỊNH BẨM SINH, BỊNH NGHIỆP QUẢ.
º LÃO HOÁ , hoặc DO VI TRÙNG, VI KHUẨN, SIÊU VI TRÙNG
ĐỘT NHẬP VÀO CƠ THỂ, hoặc CƠ THỂ BỊ XÁO TRỘN SINH
HOÁ NỘI TIẾT.
A-/ Cuộc sống trái với định luật thiên nhiên
Gồm hai thể loại:
Thể chất.
Thể tâm linh.

I-/ Thể chất
Trong phạm vi :
º Nghiện ngập : Ma túy, thuốc lá, rựơu bia.
º Quá độ về dinh dưỡng.
º Suy thoái hệ thần kinh; hoặc ảnh hưởng đến hệ thần kinh do tai nạn
Con người biết sống hài hoà với thiên nhiên, hoà hợp với vạn vật thì cuộc sống sẽ yên vui, an nhiên tự tại trong trời đất.
Những sự áp đặt bất bình thường, không đồng thuận với lẽ sống tự nhiên, là đi ngược lại luật quân bình của vũ trụ, phần nhiền là do sự lạm dụng về dục vọng như : hút sách, cần sa, ma tuý, bia rựơu, quá độ về dinh dưỡng, và không biết trân quý đời sống của chính mình từ vật chất đến tinh thần, đều có những hậu quả vô cùng khốc liệt, làm sai lạc những phản ứng đối kháng của hai thể vô hình và thể hữu hình, không đáp ứng hữu hiệu để vô hiệu hoá những xáo động, mà tạo ra một chu kỳ mất quân bình , lập đi lập lại liên tu bất tận, là do nhu cầu của hai thể vô hình và hữu hình tác động vào nhau trong một cố gắng lập lại trật tự, quân bình, nên đã bộc phát ra căn nguyên nghiện ngập, béo phì . . .

a- Nghiện ngập: MA TUÝ; THUỐC LÁ; RƯỢU BIA

ª CAI KIÊNG MA TÚY

1- Lý do tại sao ghiền ma túy
Nhận định riêng của THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG
Khi ta đưa chất ma túy chẳng hạn như cocaine, heroine vào trong cơ thể qua những phương tiện như chích, hút hoặc hít, sẽ gây ra những phản ứng kích thích hoá học do ma túy gây ra và phản ứng tự nhiên của cơ thể là tự động tạo ra những kháng tố để triệt tiêu hay vô hiệu hoá những hoá chất kích thích đó. Thời gian triệt tiêu hay vô hiệu hoá những kích thích đó mau hay lâu tùy theo số lượng ma túy đưa vào và tùy theo tình trạng sức khoẻ của người dùng ma túy. Khi cơ thể trở lại trạng thái quân bình, chất ma tuý trong người đã tiêu tan có nghĩa là người dùng ma tuý trong lúc này không còn thèm ma túy ( không lên cơn ghiền ) nhưng kháng tố vẫn chưa tan hết và vẫn còn tồn tại. Chính sự tồn tại này làm mất thế quân bình vì kháng tố không còn đối tác nên kích thích ngược trở lại tạo thành những cơn khát khao thèm muốn vì vậy người dùng ma túy lại lên cơn thèm ghiền. Muốn lấy lại thế quân bình ( thoả mãn cơn ghiền ) thì lượng ma túy cần thiết phải được đưa vào cơ thể , mà khi lượng thuốc ma tuý đưa vào cơ thể thì các chuỗi phản ứng ban đầu lại tiếp diễn như trước, trở thành một chu trình kín và đó là đầu giây mối nhợ của sự nghiện ngập ( ma túy; rựơu bia; thuốc lá; bịnh béo phì . . . ).
2- Cách chữa trị, cai ghiền ma túy:
THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG có khả năng vận dụng huyền năng của vũ trụ để chữa dứt bịnh ghiền ma túy, dùng cách không đả tật, không đụng chạm vào thân thể bịnh nhân, không dùng thuốc men và không châm cứu.

Điều kiện
- Người ghiền ma túy trước tiên phải thành tâm tình nguyện cai bỏ ma túy, cùng với sự hỗ trơ tinh thần của gia đình và của những người thân yêu.
- Phải tuân hành nghiêm chỉnh những điều kiện trong chương trình cai ghiền ma túy.
- Phải liên tiếp được chữa trị bằng THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG cho đến khi hết bịnh.
Cách chữa trị
Dùng THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG ( TNKC ) để cấp thời làm dịu và trấn áp cơn ghiền, gíup cơ thể trở lại trạng thái quân bình, sau mỗi lần điều trị không còn bị cơn thèn thuốc hành hạ, khiến người ghiền không còn nhu cầu dùng ma túy nữa.
Chỉ hiệu nghiệm khi người dùng ma tuý đang lên cơn ghiền,
Nghĩa là phải được chữa trị bằng TNKC mỗi khi lên cơn ghiền. Nếu dùng ma tuý trước để thỏa mãn cơn ghiền rồi mới đi trị bịnh bằng TNKC thì sẽ không hiệu nghiệm
Thời gian điều trị.
- Tối thiểu là 15 ngày
- Mỗi ngày 2 giờ, 2 lần truyền khí công.
- Mỗi lần 10 phút.
- Mọi sinh hoạt của bịnh nhân vẫn bình thường, không kiêng cữ trong việc ăn uống hay sinh lý.
Cảm nhận của bịnh nhân trong lúc chữa trị bằng TNKC.
Trong và sau thời gian truyền khí lực, bịnh nhân cảm thấy:
- Một luồng điện chạy từ đỉnh đầu xuống bàn chân, làm ấm lòng bàn chân.
- Một sự chuyển động trên từng sợi tóc.
- Một sự thư giãn dễ chịu trong tất cả các khớp xương.
- Một sự thoải mái nhẹ nhàng trong cơ thể.
- Cơn ghiền giảm đi rất nhanhva2 không còn cảm thấy thèm muốn ma túy nữa.
Nên nhớ những cảm nhận nêu trên chỉ có tính cách biểu tượng, không nhất thiết mọi người phải cảm ứng hoàn toàn giống nhau. Nếu tiếp tục chữa trị như thế trong suốt 15 ngày, bịnh nhân cảm thấy cơn ghiền giảm dần cường độ và rồi sẽ hết, không còn thèm ma túy nữa. Cùng với TNKC, sự an ủi và trợ giúp ưu ái về tinh thần của gia đình và người thân rất cần thiết đối với bịnh nhân, nhu vậy cơ may thoát khỏi cảnh nghiện ngập ma tuý coi như đạt đựơc tỷ lệ tối cao và dứt hẳn bịnh.

ª CAI KIÊNG THUỐC LÁ

I/ TẠI SAO GHIỀN THUỐC LÁ ?

Nhận định riêng của THIÊN NHIÊN KHÍ CÔNG
Khi ta hút thuốc lá, khói thuốc đựơc đưa vào trong phổi, hàng nghìn hoá chất cùng với nicotine của thuốc lá sẽ gây ra những phản ứng kích thích hoá học, và phản ứng tự nhiên của cơ thể là tự động tạo ra những kháng tố để vô hiệu hóa khói thuốc lá . Khi cơ thể trở lại trạng thái quân bình, có nghĩa là người hút thuốc lá trong lúc này không còn thèm hút
( không lên cơn ghiền ) nhưng kháng tố vẫn chưa tan hết và vẫn còn tồn tại. Chính sự tồn tại này làm mất thế quân bình vì kháng tố không còn đối tác nên kích thích ngược trở lại tạo thành những cơn khát khao thèm muốn vì vậy người hút thuốc lại lên cơn thèm ghiền. Muốn lấy lại thế quân bình
( thoả mãn cơn ghiền ) thì lượng khói thuốc cần thiết phải được đưa vào phổi , mà khi lượng khói thuốc đưa vào phổi thì các chuỗi phản ứng ban đầu lại tiếp diễn như trước, trở thành một chu trình kín và đó là đầu giây mối nhợ của sự nghiện ngập ( thuốc lá; ma túy; rượu bia; bịnh béo phì . . . ).
Cơn ghiền thuốc lá cũng giống như ghiền ma túy, chỉ khác là hậu quả vật vã của nó nhẹ nhàng hơn và ghiền thuốc lá không gây ra những tệ trạng xã hội . Riêng trong lãnh vực y khoa, ghiền thuốc lá có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe mà tiêu biểu nhất, ghiền thuốc lá là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ ung thư phổi.
Ghiền thuốc lá không phải là một căn bịnh, mà là một tật, một thói quen, một thú vui. Muốn bỏ thuốc lá, điều tiên quyết là người hút thuốc phải thành tâm tự ý nguyện cai thuốc, nếu không thì dù là cha mẹ vợ con, cũng khó mà khuyên bảo được.

II/ LÀM SAO CAI KIÊNG THUỐC LÁ? LÀM SAO CHỮA TRỊ ?

Thiên Nhiên Khí Công có khả năng vận dụng huyền năng của vũ trụ để chữa dứt bệnh ghiền thuốc lá, dùng cách không đả tật, không đụng chạm vào cơ thể bệnh nhân, không dùng thuốc men và không châm cứu.

1)Điều kiện.
a) Trước tiên người ghiền thuốc lá phải thành tâm tự nguyện bỏ hút thuốc.
b) Người hút thuốc phải mang theo gói thuốc mình vẫn quen hút

2) Cách chữa trị và thời gian chữa trị.
Thiên Nhiên Khí Công có khả năng truyền huyền năng của vũ trụ vào cơ thể người hút thuốc và trong những trường hợp nhẹ, chỉ cần 3 đến 5 phút là có thể chữa khỏi tật ghiền.
Người ghiền thuốc lá trong và sau khi trị bằng TNKC:
a/ Không bị phản ứng, không bị hành khi thiếu thuốc lá
b/ Không còn thèm thuốc

3) Cảm nhận hay phản ứng có thể có:

Từ 3 đến 5 phút điều trị, người ghiền hút thuốc có thể có những phản ứng như sau:
- Cảm thấy chóng mặt như say sóng
- Cảm thấy buồn nôn hay ói mửa
- Cảm thấy miệng đắng
- Cảm thấy hơi thuốc mình hút vào không còn ngon nữa, hay nói một cách khác, thấy thuốc lạt phèo, chán ngắt
- Trường hợp ngoại lệ là người ghiền thuốc không cảm thấy


sưu tầm