Tiếp theo đây, Bảo Đăng tôi xin kể hầu cho quý vị nghe thêm một vài chuyện nữa có liên quan đến hai vị "Kim Xà Vương" này và "Kim Xà Thánh Giả", Vô Nhất Đại Sư của chúng ta:
Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Hòa Thượng còn nhập thất ở Bến Tre, ngài có quen với một vị tu sĩ tên là "Ông sư Mỏ Cày". Sở dĩ gọi là ông sư Mõ Cày vì vị này tuy có hình tướng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên luyện điển theo phương pháp xuất hồn, địa danh (tên của vùng đất) nơi ông sư này ở tu tên Mõ Cày, không ai biết được tên thật của ổng là chi hết. Ông sư này rất kính quý cố Hòa Thượng qua phong cách và đạo hạnh của ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm. Hòa Thượng cũng có chỉ dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ túc, vì vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa Thượng.
Lúc ngài về Sàigòn và làm Đốc giáo ở Phật Học Viện Huệ Nghiêm rồi thì sư cũng có đến thăm một lần, đến khi cố Hòa Thượng lìa Huệ Nghiêm để ẩn tu thì hai đàng biệt nhau. Mãi đến mấy năm sau, sư mới tìm được lên Đại Ninh (trước sau hai lần) để thăm cố Hòa Thượng - và rồi sư qua đời vào mấy năm sau đó.
Lần đầu tiên sư lên thăm cố Hòa Thượng vào năm 1970 (lúc đó thì ngài không còn ở Hương Quang thất nữa, mà đã dời về thất mới là Phương Liên tịnh xứ rồi) và được Hòa Thượng cho phép ở lại thất của ngài vài ba hôm để đàm đạo giáo lý và tu tập (Sư thọ giáo mật tông từ nơi cố Hòa Thượng).
Qua đêm đầu tiên, sáng lại sư có thưa với cố Hòa Thượng rằng thất của ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn "Kim Xà" rất lớn và xin Hòa Thượng hãy cẩn thận vì đây là các loại rắn thần con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết...
Cố Hòa Thượng gật đầu, nói với sư là ngài đã biết việc đó từ lâu rồi và cũng có kể lại cho sư nghe về vài ba chuyện của các Kim Xà này.
Qua ngày kế đó, sư nằm ngủ và xuất hồn ra đi "thăm" xà động này, khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau: Nguyên từ mặt đất của nền thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới (lòng đất) sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đó có khoảng 200 "ông dài" đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường (hầm) thông qua 3, 4 động khác nữa - Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà Vương (rắn chúa) màu nửa đen, nửa vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi rồi - Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền thất của cố Hòa Thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm có đều nghe ngài niệm Phật, trì chú và tu theo cho nên biết biến hóa và đồng thờ cố Hòa Thượng làm thầy để nương theo tu tập.
Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất hồn ra gặp hai vị Xà Vương động chúa này rồi thì mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài là họ muốn được quy y Tam Bảo cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn, họ cũng nói rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi chớ không biết phương cách tu hành (vì rắn lột da cho nên sống lâu lắm), cứ ban ngày thì ngó mặt trời, ban đêm thì ngó theo trăng, sao (tu theo phép luyện âm dương nhị khí) nên mặc dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không sao biến hóa được. Từ khi cố Hòa Thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ nương theo oai lực chú ấn và câu niệm Phật của Hòa Thượng mỗi đêm, cho nên nay đã bắt đầu biến hóa được rồi và thân mình cũng đã đổi từ màu đen ra màu hơi vàng (tức là từ Hắc Xà vương chuyển dần sang Kim Xà vương). Hiện thời thì hai vị đó đang cùng với các quyến thuộc đều ẩn hình ở tại đây để tu và ngầm bảo vệ cho ngài là bậc đại sư của họ.
Hòa Thượng gật đầu và nhờ sư xuất hồn ra chuyển lời lại cho các vị Xà Thần này biết là hôm sau Hòa Thượng sẽ truyền phép Tam Quy (Quy Y Phật, Pháp, Tăng - Tam Bảo) để cho họ được dự vào hàng Phật Tử.Hôm sau, Hòa Thượng đắp y, hậu ngồi trên pháp tòa bày sẵn giữa tịnh thất, trì chú và bắt ấn triệu thỉnh, chỉ đích danh 2 vị Xà Vương chúa động Huỳnh Xà thôn (với sự hiện diện của Sư Mõ Cày) gọi về...
Liền sau đó ngài thấy trước mặt mờ ảo ẩn hiện ra hai vị xà thần bò vào và hiện hình ra hai người một nam, một nữ trong lứa tuổi khoảng ngoài 60, cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng luốc, quỳ trước mặt chắp tay cúi đầu phụng mạng.
Hòa Thượng mới thuyết Tam Quy cho nghe và kế đó là quy y cho họ cùng các quyến thuộc, đốt chú ấn (mà ngài đã vẽ sẵn trên giấy vàng) để pháp thí cùng rải nước cam lồ xoáy tịnh, chú nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn đều được sanh thiên, y như Phật Pháp tu hành...
(Kể từ đây ngoài các đệ tử thuộc về nhơn đạo ra, ngài còn có thêm các đệ tử thuộc về thần đạo và súc đạo nữa - việc làm này những tăng ni (lục lục thường tài) chỉ biết tụng kinh niệm Phật, cầu phước qua ngày, không lòng tin, không tu Mật Tông và không có cảm ứng đạo giao với cảnh giới vô hình đều không thể nào hiểu thấu được cả). Ngoài ra cố Hòa Thượng cũng còn có quy y cho chư thần địa phương như thổ thần, sơn thần, thọ thần v.v... Các vị này cũng đều đồng nương theo ngài để tu tập hết...
Đến năm 1974, Sư Mõ Cày có lên thăm cố Hòa Thượng một lần nữa và ở cùng với ngài một tuần lễ - Sư có thưa cùng với cố Hòa Thượng mấy điều sau:
1/- Về tình hình đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự "đổi đời" rất lớn, vô số người chết... (tức là biến cố tháng 4 năm Ất Mão 1975).
2/- Sư có xuất hồn ra gặp lại các Xà Thần, điều đặc biệt nhất mà sư thưa cùng với cố Hòa Thượng là cặp Xà Vương Động Chúa Huỳnh Xà thôn, mấy năm qua nhờ được quy y Tam Bảo và tu theo phép của ngài truyền cho (đốt nghi thức tu để pháp thí) khi trước nên bây giờ đều được biến hóa linh thông, từ nơi Hắc Xà Vương nay đã chuyển ra thân Kim Xà Vương (Rắn Chúa màu vàng) và thường hay biến thành hình sư tăng mặc áo vàng, mỗi đêm đều có đi kinh hành niệm Phật chung quanh thất của Hòa Thượng hầu hạ và bảo vệ cho ngài trong tất cả mọi hoàn cảnh (để báo đức tôn sư).Mấy đêm sau, qua sự trung gian của vị sư Mõ Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa Động này về. Đêm đó, cố Hòa Thượng chiêm bao, thấy như sau:
Bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni đều mặc áo vàng đi theo sau sư Mõ Cày vào trong thất quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Ngài hỏi là ai và từ đâu đến?
Hai vị ấy thưa là:
- Bạch tôn sư chúng đệ tử là động chúa Huỳnh Xà thôn, nghe lịnh triệu thỉnh nên về phục mạng.
Hòa Thượng truyền cho đứng dậy thì thấy hai vị ấy thân tướng cũng quang minh, thần sắc sáng sủa, nghiêm chỉnh, trên trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi lóng lánh hào quang.Ngài hỏi vì sao hai con lại có được các món pháp bửu này?
Hai vị ấy thưa:
- Bạch tôn sư, chữ Vạn này là nhờ nơi quy y Tam Bảo mà có, còn xâu chuỗi này là do công tu tập mà thành - Bất cứ người nào (ý nói là xà thần) ở gần và tu theo tôn sư 3 năm đều cảm hiện ra được cả. Trong hàng quyến thuộc của con hầu hết đều được chuỗi này. Kể từ khi chúng con có 2 món bửu bối này (chữ Vạn là một, xâu chuỗi pháp bảo là hai) thì mỗi khi chúng con đi dạo chơi đến nơi nào cũng đều được chư thần ở địa phương đó kính trọng, nhường đường và gọi chúng con là Phật Tử...Hòa Thượng gật đầu thuyết pháp cho nghe cùng khuyến nhắc tu hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất.
Mấy hôm sau "Sư ông Mỏ Cày" ra về và có thưa với cố Hòa Thượng rằng: Lần này là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng núi Thất Sơn ẩn tu và sẽ tịch vào năm 1980, không còn có dịp gặp lại ngài được nữa.
*** Còn Hòa Thượng Thiện Tâm thì tịch 18 năm sau.
Ngày mở cửa mả của ngài, hai vị Kim Xà đệ tử này có đến hiện hình ra là hai con rắn màu vàng rực rỡ bò lại trước đầu mộ của ngài một chốc rồi mới bò vào trong đám cỏ tranh và biến mất, tất cả mọi người hiện diện trong buổi lễ hôm đó đều thấy rõ ràng - Bên Việt Nam chỉ trừ có độc nhất một mình ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt (và bên Mỹ là Đại Đức Bổn Sư Thích Hải Quang) là biết rõ căn cột của cặp rắn này mà thôi - ngoài ra không một ai hiểu thấu vì sao mà lại có đôi kim xà này xuất hiện đúng vào ngày "mở cửa mả" của cố Hòa Thượng - nên đều có ý nghi ngờ). Đây là chuyện sau. ***Sau năm 1975, có một vài vị tăng sinh của Phật Học Viện Huệ Nghiêm lên Đại Ninh thăm cố Hòa Thượng và ngụ ở ngoài tu viện Hương Nghiêm. Nửa đêm thức giấc (đi tiểu) ở phía sau (nhà cầu), sáng dậy nói với mấy thầy nơi tu viện rằng:
- Cha chả, ông già của tụi mình tu hành tinh tấn ác ôn!
Mấy thầy Tu Viện hỏi:
- Sao biết là ông già tu hành tinh tấn?
Khách tăng trả lời rằng:
- Hồi hôm này lúc 2 giờ khuya, tôi thức dậy đi tiểu, lúc trở vào, ngó qua bên thất của ông già thấy ổng vẫn còn mặc hậu đi kinh hành ở ngoài lan can trên lầu thất của ổng, nên biết rằng ông già tu hành suốt cả đêm, tụi mình thiệt không bằng.
Thật ra thì người mặc áo vàng đi kinh hàng chung quanh lầu đó không phải là ngài đâu, mà chính là một trong hai vị Kim Xà Vương đệ tử hiện hình tăng tướng đi vòng quanh thất để bảo vệ cho "Sư Phụ" của mình được an lành nghỉ ngơi và tu niệm.*
Đến đây, trước khi qua một chương khác, Bảo Dăng tôi xin kể hầu quý vị thêm một vài chuyện ngắn khác nữa (trong số rất nhiều chuyện mà Bảo Đăng được nghe từ nơi Đại Đức bổn sư) như sau:
Một lần khác, quý thầy bên Tu Viện (Hương Nghiêm) dọn đất trồng lúa, bắp - nên gom các cỏ tranh, chà, bổi vừa mới làm xong... lại thành một đống lớn để trên gò mối gần đó, đốt bỏ. (Hôm ấy cố Hòa Thượng ngó qua, thấy thế ngài mới rầy, bảo là đốt như vậy lỡ chết côn trùng mang tội - sau này Đại Đức bổn sư cũng bị ngài rầy hết mấy lần (về việc tương tợ như vậy) vì đốt rác ẩu ở trên gò mối).
Khuya lại, sau khóa lễ (gần 1 giờ sáng) ngài chuẩn bị đi ngủ thì nghe có tiếng khóc ở phía trước cửa. Ban đầu ngài tưởng đâu vì mình xớn xác nên nghe lầm, nhưng khi lắng tai nghe kỹ lại thì rõ ràng là tiếng con nít khóc chớ không sai chạy chút nào hết, ngài mới mở cửa ra đứng bên ngoài nhìn chung quanh để tìm. Đêm đó nhờ có trăng tỏ cho nên chỉ một chút sau thì ngài thấy ở dưới gốc mít phía trước thất có một đứa nhỏ đang ngồi khóc và có vẻ đau đớn lắm. Ngài lại gần hỏi con là ai, sao ngồi khóc vậy, lại đây thầy biểu coi.
Đứa nhỏ đứng dậy bước ra, đó là một em bé trai khoảng 5, 6 tuổi gương mặt cũng dễ coi, mặc áo màu xanh (chắc là rắn lục), lại gần cố Hòa Thượng nói con bị phỏng hết cả lưng, đau rát lắm.
Ngài hỏi vì sao mà bị như vậy?
Bé đáp:
- Hồi trưa này con đang nằm ngủ thì bị lửa ở đâu đốt cháy, vì ngủ mê nên không hay, đến khi nóng quá, giật mình thức dậy thì chạy không kịp nên cả lưng bị phỏng hết (lửa của mấy thầy đốt gò mối, xin tôn sư từ bi cứu độ).
Cố Hòa Thượng vừa nghe nói vậy thì ngài biết "Bé" này thuộc về giống gì rồi, nên ngài có lòng thương, dẫn nó vào trong cốc, lấy chung nước cúng Phật trên bàn thờ xuống trì chú "A Di Đà Cam Lộ Chơn Ngôn" vào nước một hồi rồi rải lưng của nó, xong ngài mới bảo bé rằng thôi con về đi, không sao đâu mai sẽ lành.
"Bé" lạy tạ ơn, ra khỏi cửa rồi biến mất.
Đêm sau ngài nằm chiêm bao thấy có một người đàn bà chắc là "má-mì" dắt nó đến cám ơn, trong mơ thấy nó hết khóc rồi và cười nói vui vẻ...
Một câu chuyện khác:
Nơi cố Phương Liên 2 (có hai thất Phương Liên, thất 1 là của cố Hòa Thượng ở - thất 2 là của ni sư Thanh Nguyệt cất cho thân phụ ở - Còn ni sư thì ở tại thất Bạch Vân), phía sân trước có một gò mối lớn bằng 5, 6 chiếc đệm, trên có tre gai mọc, choán cả một khoảng đất rộng. Đã mấy lần ni sư muốn đốn bỏ, dọn dẹp cho có đất trống để trồng bắp, đậu, nhưng hễ ai vừa tới gần gò mối, định đốn cây, phát cỏ thì đều cảm thấy xây xẩm mặt mày và nhức đầu hết. Riết rồi mấy người Thượng (làm mướn) sợ quá, đứng ngoài xa chắp tay xá xá vào gò mối thôi, chớ không dám đến gần nữa. Họ nói chúng tôi không dám đâu, trong đó có thần thánh ở đừng đụng chạm đến mà chết...
Mấy năm trôi qua rồi mà gò mối cũng không sao phá được. Đối cùng ni sư mới đem chuyện này trình lên cố Hòa Thượng xin giúp đỡ vì rất cần đất trống để trồng trọt hoa màu. Lúc ấy cố Hòa Thượng chưa bế quan, nghe vậy nên ngài mới vào xem tự sự... Sau khi làm phép và chú nguyện xong rồi, đêm đó ngài nằm mơ, vía thầy đi vào trong thất Phương Liên 2, lại gần chỗ gò mối, chỉ tay vào trong bụi tre, bảo:
- Vị nào trong đó hãy đi chỗ khác ở, để đất trống cho chư ni trồng trọt, sinh sống và tu hành.
Nói xong một lát sau thì ngài thấy từ trong gò mối và bụi tre gai có một con rắn màu đỏ, to bằng cây cột nhà (chắc là rắn lục lửa) bò ra ngoài ngó ngài một hồi, đoạn gật đầu mấy cái rồi xuống sông đi mất.
Sáng ra ngài nói cho ni sư nghe và bảo rằng gò mối nay đã phá được rồi... Trước sự hiện diện của ngài mấy người Thượng mới dám đến đốn tre và bang bằng gò mối. Bấy giờ mới khám phá ra một việc hi hữu, ấy là... trong gò mối này có một bụi "Đơn Quy" rất lớn (là một vị thuốc bắc đặc biệt bổ máu - bồi bổ tổng quát) rất quý báu, củ to bằng bắp tay, bắp chân (mấy trăm năm rồi nên củ mới lớn như vậy) - nhiều đến nỗi đem về phơi cả mấy chiếc đệm mới hết.
Cố Hòa Thượng nói với ni sư rằng:
- Hèn chi mà không ai phá được cái gò mối này hết. Té ra vì trong đó tàng ẩn vị thuốc quý này nên mới có rắn thần canh giữ. Đây cũng là cái duyên của con đó, hãy giữ kỹ mấy củ đơn quy này mà dùng từ từ. Sau này con còn nhờ nó lắm.
Quả thật vậy, nhờ uống đơn quy này mà ni sư từ từ hết bịnh phong thấp và sốt rét rừng, sau phát ra tướng mập mạp, hồng hào tựa như Di Lặc Bồ Tát - Đây là lời của một Phật tử từ bên Mỹ về thăm ni sư, khi trở qua kể lại cho Bảo Đăng nghe như vậy.
.
Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM
Viện chủ Hương Nghiêm Tịnh Viện, Pháp chủ Phương Liên Tịnh Xứ Mật Tịnh đạo tràng, tại Đại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng VN.
Đã an lành thị tịch vãng sanh vào lúc 6g15 sáng ngày 21-11 Âl năm Nhâm Thân. (Nhằm ngày thứ hai 14-12 dl năm 1992). Hưởng thọ 68 tuổi.
Ngài là một vị Đại Tăng chói rực phần danh đức, được xem như là một thánh tăng đương kim và là con mắt của Phật giáo Việt Nam trong hiện tại.
Đêm đó (20 rạng 21), Hòa Thượng ngồi trước bàn Phật (ở trên lầu) trì niệm suốt buổi. Đến 3 giờ sáng, ngài biết thời khắc vãng sanh sắp đến nên mở mắt ra, truyền lịnh cho ni sư trưởng tử triệu chúng vào trong tịnh thất hộ niệm. Kế đó Hòa Thượng bước xuống lầu rửa tay, mặt, nghiêm chỉnh y hậu xong ngài an tọa vào trên chiếc ghế nơi mà ngài vẫn thường ngồi để tịnh niệm thường nhật, tay trái kết ấn "Di Đà định", tay mặt lần chuỗi niệm Phật.
Trước mặt Đại Sư là ni sư trưởng tử và các đồ chúng nơi Phương Liên tịnh xứ vân tập đầy đủ. Đồ Tôn là Tỳ Kheo ni Thích Nữ Bảo Đàn thỉnh bức tượng tranh của đức A Di Đà Thế Tôn đứng trong vị thế tiếp dẫn đặt nơi trước mặt ngài. Các môn đồ, pháp quyến vừa rơi lệ khóc thầm, vừa cất cao tiếng hộ niệm...
Đại Sư mỉm cười thốt lời an ủi rằng:
- Hãy bình tâm lại, đừng có khóc nữa. Ta được về Tây là điều hân hạnh, các con hãy theo đó mà cố gắng niệm Phật. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng hạnh ngộ nhau nơi miền An Dưỡng.
Còn các việc thành, bại, vinh hư trên cõi đời này, chẳng phải là chỗ quan tâm đến của ta.

Đoạn ngài đọc bài kệ rằng:

Đời ta chí gởi chốn Liên Trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A Di.
Tuyên xong lời kệ sau cùng này, ngài ngồi yên trên ghế, nhắm mắt như vào trong định. Đại Chúng biết chắc Đại Sư sắp sửa quy Tây, nên đồng cất cao tiếng hộ niệm, mỗi lúc càng thêm khẩn thiết.
Đến 6 giờ 15 phút (giờ Mẹo) Đại Sư bỗng mở mắt ra, chắp tay nói: "Ta đi đây. Đại chúng nên bảo trọng."
Đoạn nhắm mắt lại, tay trái ngài vẫn kết ấn Di Đà Định, tay mặt buông xuôi xuống, xâu chuỗi từ trên tay ngài rơi xuống chiếu và ngài lặng im, an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.
Ni sư trưởng tử và các môn đồ pháp quyến cố gắng dằn lòng xúc động, nén nỗi bi thương, vẫn để yên di thể ngài ngồi trên bản tọa như vậy và tiếp tục hộ niệm thêm hai giờ đồng hồ nữa. Đến 9 giờ sáng mới cùng nhau nhẹ đỡ pháp thể ngài lên, đặt nằm ngay ngắn trên đơn (của ngài), đắp mền lại kỹ lưỡng trông y như ngài vẫn còn đang ngủ vậy.
Toàn thân của Đại Sư vẫn mềm, ấm, dịu dàng và dung sắc vẫn hồng hào, tươi nhuận y như còn sống. Đỉnh đầu ngài nóng hực như tưới nước sôi.
Đại Sư hưởng thọ tuổi đời được 68 - Tuổi đạo 48 (Tăng lạp 42).
Về phần của các chúng nơi Phương Liên Tịnh Xứ thì sau khi an pháp thể của Đại Sư ở trên đơn xong rồi, đồng nhau khấu đầu lễ tứ bái vĩnh biệt, kế đó đóng cửa thất của ngài lại, cùng bước ra ngoài để chuẩn bị lo tiếp các phần hậu sự...
Đến 9 giờ 30 phút, đại chúng ở ngoài Hương Nghiêm Tịnh Viện hay tin, đồng nhau kéo vào, dùng đa số và cường lực phá cửa thất ra "thỉnh ngang" di thể của ngài đưa thẳng về chùa...
Lễ di quan, nhập tháp hoàn tất vào khoảng 8 giờ sáng ngày 25-11 Âl năm Nhâm Thân (18-12-1992 dl) tại Hương Nghiêm Tịnh Viện.
Đại Sư có lưu lại một viên NGŨ SẮC KIM CANG NHA XỈ XÁ LỢI (một răng cấm năm màu còn nguyên vẹn) cứng như kim cương, được bảo toàn kỹ lưỡng.
Ba ngày sau (21/12 dl 1992), trong lễ khai mộ của ngài, tất cả mọi người hiện diện đều trông thấy có một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây bò đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt rồi bò đi vào trong đám cỏ tranh gần đó biến mất. Các hình ảnh về đôi Kim Xà này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video.

http://www.buddhismtoday.com/viet/pg...chthientam.htm