Thăng Long: Đất Đài Càn Long Đại Long Mạch


1. LONG MẠCH

Long mạch được tạo nên do sự vận hành của âm dương, thiên địa, ngũ hành, can chi, bát quái đầy vẻ huyền bí nhưng các nhà phong thủy nhìn qua có thể biết được đất nào là đất long mạch? Long mạch loại đại địa cuộc cao quý đứng đầu địa linh được chia ra can long (thân), chi long (cành), cước long (nhánh)...

Can long: đất đế vương, đất kinh sư (nơi đóng đô).
Chi long: đất lập tỉnh, phủ lỵ.

Cước long: đất lập huyện, quận lỵ. Đại can long có hình thế khúc chiết vững vàng là yếu tố tiên quyết để lập quốc, hình thành một quốc gia.

Long mạch tạo nên sự vận hành của khí, tương quan với trời, đất, chòm sao, địa hình... Khí có chỗ bế, chỗ mở, chỗ phát tán, nơi ngưng tụ, có khi hung, khi kiết, biến đổi tùy thời. Long mạch là địa linh, đại can long là cực địa linh, muốn gắn bó lâu dài với nó phải lấy nhân nghĩa làm nền tảng bởi "Đức trọng quỷ thần kinh". Nếu chỉ biết bạo lực, hung tàn, đàn áp và khủng bố thì sợ e không bền bởi: "Thiện tất thọ lão, ác tất tảo vong".

Sau đây chúng tôi xin ghi lại đôi nét lịch sử qua các triều đại, để chúng ta có thể nhìn thấy quy luật lịch sử rất công bằng đã và đang vận hành chi phối mọi sự tồn vong của các triều đại mà không hề miễn trừ bất cứ một triều đại nào.

2. ĐÔI NÉT LỊCH SỬ QUA CÁC TRIỀU ĐẠI:

Nhà Hồng Bàng:(2879 TTL-258 TTL): 2621 năm 20 đời vua:

Lộc Tục Kinh Dương Vương cháu 4 đời Vua Thần Nông làm vua nước Xích Quỷ, truyền ngôi cho con là Sùng Lãm Lạc Long Quân. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên bây giờ, truyền ngôi được 18 đời. Họ Hồng Bàng bắt đầu từ vua Kinh Dương Vương đến vua Hùng Vương thứ 18 gồm 20 đời kéo dài 2.621 năm. Như vậy 18 đời Vua Hùng Vương nước Văn Lang đóng đô ở Phong Châu phải có ít nhất 2.000 năm? Một con số huyền sử không xác thực, nhưng ý nghĩa mà huyền sử muốn nói là nguồn gốc Rồng Tiên cao quý của dân tộc, thời đại lập quốc của nước Văn Lang thái bình thịnh trị qua hàng nghìn năm và kinh đô Phong Châu là một đại can long, đại long mạch.

Nhà Thục (257 TTL-207 TTL) 50 năm 1 vua 1 đời:

Thục Phán An Dương Vương đặt tên nước là Âu Lạc đóng đô ở Phong Khê (thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc An, Bắc Việt) hiện còn dấu tích thành Cổ Loa.

Nhà Triệu (207 TTL-111 TTL) 96 năm 5 vua 5 đời:

Triệu Đà Triệu Vũ Vương đặt tên nước là Nam Việt đóng đô tại Phiêng Ngung trên bờ Tây Giang gần Quảng Châu, Trung Hoa bây giờ.

Trưng Nữ Vương (40-43): 3 năm 1 vua 1 đời: đóng đô ở Mê Linh (làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên bây giờ).

Nhà Tiền Lý (544-602): 58 năm: 3 vua:

* Lý Bôn xưng Nam Việt Đế (544-548) đặt tên nước Vạn Xuân đóng đô ở thành Long Biên làm vua 4 năm.
* Triệu Việt Vương: (549-571) 22 năm: 1 vua 1 đời: tức Triệu Quang Phục xưng vương đóng đô ở thành Long Biên.

Hậu Lý Nam Đế: (571-602) 31 năm: 1 vua 1 đời: tức Lý Phật Tử xưng đế hiệu đóng đô ở Phong Châu (huyện Bạch Hạc tỉnh Hưng Yên).

Đời nhà Đường (618-907) bên Tàu, nước ta bị đô hộ:

Vua Đường đổi An Nam thành Tĩnh Hải phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền trị dân có phép tắc nên được kính phục gọi tôn lên là Cao Vương. Cao Biền cho đắp lại thành Đại La 4 mặt cao hơn 2 trượng ở bờ sông Tô Lịch, 4 mặt có đường đê bao bọc dài hơn 2.000 trượng, cao 1, 5 trượng, dày 2 trượng. Trong thành cho dân làm nhà hơn 400.000 nóc. Ông là người ưa dùng phép phù thủy, sách VNSL ghi: "Tục lại truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất đế vương, thường cứ cỡi diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch. "

Nhà Ngô: (939-965): 26 năm: 4 vua:

* Tiền Ngô: Ngô Quyền (939-944) xưng vương mở đầu thời đại tự chủ, đóng đô ở Cổ Loa (huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên) làm vua 5 năm: đặt quan chức, chế triều nghi, định sắc phục, chỉnh đốn chính trị, vua mất thọ 47 tuổi.
* Dương Tam Kha (945-950) cướp ngôi xưng là Bình Vương làm vua 5 năm
* Hậu Ngô (950-965): Ngô Xương Văn xưng là Nam Tấn Vương (15 năm) mời anh là Ngô Xương Ngập cùng làm vua xưng là Thiên sách vương (4 năm). Nhà Ngô rơi vào loạn thập nhị sứ quân.

Nhà Đinh (968-980) 12 năm 2 vua 2 đời:

Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng Đế (làm vua 11 năm) đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư cho xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn võ.

Nhà Tiền Lê (980- 1009) 29 năm 3 vua 2 đời: Lê Hoàn xưng là Đại Hành Hoàng Đế, đóng đô ở Hoa Lư.

Nhà Lý: (1010-1225) 215 năm gồm 9 vua 9 đời:

Lý Công Uẩn lên ngôi Lý Thái Tổ, tháng bảy năm Thuận Thiên nguyên niên (1010) dời đô về thành Đại La, đổi Đại La thành Thăng Long tức Hà Nội bây giờ, cải Hoa Lư làm Trường An Phủ, và Cổ Pháp làm Thiên Đức Phủ.

Vua Lý Thái Tổ sùng đạo Phật, trọng đãi người tu hành, lấy tiền kho làm chùa đúc chuông. Năm 1018, vua sai quan Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng. Vua Tống phong làm Giao Chỉ quận vương, sau gia phong Nam Bình Vương. Chiêm Thành và Chân Lạp đều sang triều cống, việc bang giao được yên trị. Trong nước có đôi ba nơi làm loạn, nhà vua phải thân chinh đi dẹp mới yên. Các hoàng tử đều phong tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc. Các công chúa thì coi việc thu thuế. Nhà vua lưu tâm việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê, chia nước ra làm 24 lộ. Định ra 6 hạng thuế. Vua trị vì được 18 năm, thọ 55 tuổi.

Năm 1044 Vua Lý Thái Tông đánh chiếm kinh đô Phật Thệ (làng Nguyệt Bậu, xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên) bắt Vương phi Mị Ê, các cung nữ cùng 5.000 người và 30 con voi đem về. Vua Lý Thánh Tông làm vua 18 năm, đổi tên nước là Đại Việt, năm 1069 đánh Chiêm bắt vua Chiêm là Chế Củ, Chế Củ dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (Quảng Bình, Quảng Trị) để chuộc tội. Vua Lý Nhân Tông khởi đầu đắp đê Cơ Xá, năm 1075 Lý Thường Kiệt sang đánh Tàu giết 10 vạn người, bắt người lấy của mang về. Chiêu Thánh Công Chúa mới 7 tuổi lên ngôi là vua Lý Chiêu Hoàng chỉ hơn 1 năm thì bị ép nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.

Nhà Trần: (1225-1400) 175 năm 12 vua 8 đời:

Năm 1225 Trần Cảnh lên ngôi Trần Thái Tông làm vua 38 năm đóng đô ở Thăng Long chia nước làm 12 lộ, đắp đê 2 bên bờ sông Hồng gọi là Đỉnh Nhĩ Đê đặt quan chánh phó coi việc đê. Thời Trần Thánh Tông năm 1272 Lê Văn Hưu làm xong bộ Đại Việt Sử 30 quyển chép từ Triệu Võ Vương đến Lý Chiêu Hoàng, nước ta có quốc sử từ đấy. Năm 1257, 1284, 1287 quân Mông Cổ sang đánh nước ta. Năm 1383 Chế Bồng Nga đánh chiếm Thăng Long.

Năm 1396, Hồ Quý Ly bắt vua Trần Thuận Tông dời đô vào thành Tây Đô (thuộc xã Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, hiện còn di tích) . Thành Thăng Long gọi là Đông Đô. Hồ Quý Ly bắt vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho con mới 3 tuổi làm vua là Trần Thiếu Đế đi tu tiên ở cung Bảo Thanh, núi Đại Lại (Thanh Hóa), sau Quý Ly sai người giết vua Trần Thuận Tông, năm 1400 bỏ Trần Thiếu Đế tự xưng làm vua.

Nhà Hồ: (1400-1407) 7 năm 2 vua 2 đời:

Năm 1400 Hồ Quý Ly xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, đổi quốc hiệu là Đại Ngu (Hồ thuộc dòng dõi nhà Ngu bên Tàu) làm vua được 1 năm nhường ngôi cho con để làm Thái Thượng Hoàng.

Nhà Hậu Trần: (1407-1413) 6 năm 2 vua 2 đời: Giản Định Đế và Trần Quý Khoách kháng chiến chống giặc Minh thất bại.

Nhà Hậu Lê (1428-1527) 99 năm 10 vua 6 đời:

Sai giết Trần Cao chết rồi, Bình Định Vương Lê Lợi có công dẹp giặc Minh lên ngôi vua là Lê Thái Tổ năm 1428, đặt quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long làm vua được 5 năm: chia nước làm 5 đạo. Xã 10 người gọi là tiểu xã, xã 50 người gọi là trung xã, xã 100 người gọi là đại xã. Nước ta xưa nay không có bản đồ, đến đời vua Lê Thái Tông, vua sai quan các đạo vẽ địa đồ núi sông, ghi chép sự tích gởi về bộ Hộ để làm quyển địa dư nước ta. Đến đời Vua Lê Thánh Tông (vị minh quân) vua sai Ngô Sĩ Liên làm bộ Đại Việt Sử ký chia làm 2 bản 15 quyển chép từ đời Hồng Bàng đến đời vua Lê Thái Tổ. Cuối đời Hậu Lê loạn lạc: Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dục lập vua Lê Chiêu Tông rước vào Tây Đô; Nguyễn Hoằng Dụ đem binh về đốt phá kinh thành Thăng Long, Trần Cao đem quân sang chiếm Đông Đô tự xưng làm vua, triều đình họp binh đánh, Trần Cao bỏ chạy... Vua Lê Chiêu Tông nhờ Mạc Đăng Dung dẹp loạn, Mạc Đăng Dung chuyên quyền, vua bỏ chạy lên Sơn Tây, Mạc Đăng Dung lập vua Lê Cung Hoàng rước về ở Gia Phúc tỉnh Hải Dương. Năm 1524 Mạc Đăng Dung đem quân vào Thanh Hóa đánh Trịnh Tuy bắt vua Chiêu Tông về Đông Hà sai người giết đi, năm 1527 bắt các quan nhà Lê thảo chiếu truyền ngôi cho mình, Cung Hoàng và bà Hoàng Thái Hậu đều bị giết.

Bắc Triều Nhà Mạc (1527-1592) 65 năm 5 vua 5 đời:

Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi lên làm vua là Mạc Thái Tổ được 3 năm thì nhường ngôi cho con về Cổ Trai làm Thái Thượng Hoàng. Nhà Mạc đến năm 1592 thì bị Trịnh Tùng dứt, nhưng Mạc Kính Cung và con cháu 2 đời được nhà Minh bênh vực còn giữ được đất Cao Bằng.

Nam Triều Nhà Lê Trung Hưng: (1532-1599) 66 năm, 4 vua:

Năm 1532 Nguyễn Kim tôn Lê Duy Ninh lên ngôi là Lê Trang Tông ở Ai Lao về đóng ở Sầm Châu (Thanh Hóa), năm 1543 chiếm Tây Đô (Thanh Hóa), năm 1545 lập hành điện ở đồn Vạn Lại (huyện Thụy Nguyên, tỉnh Thanh Hóa), Trịnh Kiểm giữ binh quyền.

Nhà Hậu Lê thời Trịnh Nguyễn phân tranh: (1600-1788) 188 năm 12 vua 8 đời:

Vua Lê Kính Tông lên ngôi làm vua được 19 năm thì bị Trịnh Tùng giết. Đến đời vua Lê Mẫn Đế niên hiệu Chiêu Thống năm 1788 bị Tây Sơn đánh bại chạy sang Tàu cầu cứu.

Đời Nhà Trịnh (Chúa Trịnh): (1592-1786) 194 năm 10 chúa 8 đời:

Trịnh Tùng tranh quyền của anh nối nghiệp Trịnh Kiểm, năm 1592 dứt nhà Mạc lấy lại thành Thăng Long, rước vua Lê ra. Năm 1599 thông sứ tốt với nhà Minh chịu nhường đất Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc, tự xưng Bình An Vương phù Lê lập nên nghiệp chúa Trịnh. Nhà Trịnh đánh nhau với chúa Nguyễn 7 lần, năm 1775 sai Hoàng Ngũ Phúc vào đánh chiếm Phú Xuân, Quảng Nam, chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Năm 1786 Nguyễn Huệ ra đánh Bắc Hà bắt được Chúa Trịnh Khải, Khải tự vẫn.

Nhà Nguyễn (Chúa Nguyễn): (1558-1777) 219 năm 9 chúa, 9 đời:

Năm 1558, Chúa Tiên Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa đóng dinh tại xã Ái Tử, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Năm 1570 dời vào làng Trà Bát cùng huyện gọi là Cát Dinh, làm Chúa được 55 năm. Năm 1626 chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời vào làng Phúc An huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên đổi chỗ tư sở thành phủ. Năm 1636, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan dời phủ vào làng Kim Long huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn dời phủ về làng Phú Xuân tức Cố Đô Huế bây giờ gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ làm Thái Tông Miếu thờ chúa Hiền. Năm 1702, chúa Nguyễn Phúc Chu sai người sang cống vua Thanh để xin phong, nhưng Thanh triều nói rằng nước Nam còn họ Lê nên không phong được. Nguyễn Phúc Chu tự xưng là Quốc Chúa đúc ấn Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo để truyền quốc bảo đến đời vua Gia Long mới thôi. Năm 1744 Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu, đổi phủ ra điện, sửa sang phép tắc, đổi lại chế độ, định triều nghi, chia nước thành 12 dinh.

Đất Đàng Trong tuy độc lập nhưng Họ Nguyễn chỉ xưng chúa và không đặt quốc hiệu nên người ngoại quốc thường gọi là Quảng Nam Quốc. Năm 1692, lấy hết đất Chiêm, năm 1757 lấy hết đất Thủy Chân Lạp.

Nhà Nguyễn Tây Sơn (1778-1802) 24 năm 3 vua 2 đời:

Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng đế ở Qui Nhơn làm vua từ Quảng Nam trở vào, từ Phú Xuân trở ra thuộc nhà Lê. Năm 1784, Nguyễn Huệ đánh tan quân Tiêm La ở đất Gia Định. Năm 1786, Nguyễn Huệ lấy thành Phú Xuân ra Bắc Hà diệt họ Trịnh. Năm 1788, quân Thanh sang đánh chiếm thành Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế đặt niên hiệu Quang Trung dẫn quân ra Bắc đánh tan quân Thanh, sau cho người sang dâng biểu xin phong, vua nhà Thanh sai sứ sang phong Ngài làm An Nam Quốc Vương, làm vua 4 năm thì mất.

Nhà Nguyễn: (1802-1945) 143 năm 12 vua 7 đời:

Vua Nguyễn Thế Tổ Gia Long khởi binh tại Gia Định năm 1778, năm 1780 xưng vương, năm 1801 chiếm thành Phú Xuân, dứt nhà Tây Sơn. Năm 1802 lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Việt Nam đóng đô ở Phú Xuân tức nội thành Huế bây giờ. Năm 1804, vua Thanh sai sứ sang phong vương, năm 1806 làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Hòa, định triều nghi cứ rằm mùng một thiết đại triều, mồng 5, 10, 20, 25 thiết tiểu triều, không đặt ngôi hoàng hậu chỉ có hoàng phi và các cung tần, bỏ chức tể tướng, mọi việc đều do lục bộ trông coi, chia nước làm 23 trấn 4 doanh. Đến đời Vua Minh Mạng đổi quốc hiệu là Đại Nam, năm 1836 đặt Tôn Nhân Phủ, đặt quan chức coi mọi việc trong họ nhà vua, đặt 7 miếu thờ tiên tổ, miếu bên tả gọi là chiêu, miếu bên hữu gọi là mục, con cháu dòng chiêu hay mục phải phân biệt chi nào ra chi nấy. Mọi người trong hoàng tộc đều được nuôi nấng cấp tước lộc.

Năm 1858 chiến thuyền Pháp và I-Pha-Nho đánh Đà Nẵng. Năm 1862 ký hòa ước Nhâm Tuất 12 khoản cắt 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp. Năm 1867, quân Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử. Năm 1873, quân Pháp hạ thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương tử tiết. Năm 1882 quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội, Hoàng Diệu thắt cổ tự tử.

Nhà Nguyễn truyền ngôi đến năm 1883 là năm vua Tự Đức mất cũng mất quyền tự chủ, tuy ngôi vua còn nhưng đất nước bị Pháp đô hộ. Năm 1884 Hòa ước Patenôtre định thể lệ bảo hộ.

Từ năm 1945 đến nay nước ta có 3 thủ đô:

* Huế: Thủ đô của Chính phủ Thủ tướng Trần Trọng Kim, Quốc trưởng Bảo Đại.
* Sài Gòn: Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa: (1954-1975): 21 năm gồm các thời chính: Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại tướng Dương Văn Minh, Đại tướng Nguyễn Khánh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
* Hà Nội: Thủ đô của Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đến nay là 60 năm gồm 1 đời Chủ tịch Hồ Chí Minh, và 6 đời Tổng bí thư: Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh.

Trong suốt lịch sử, nước ta có nhiều quốc hiệu: Văn Lang, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Ngu, Việt Nam, Đại Nam...

Nhiều kinh đô, thủ đô: Phong Châu (Vĩnh Yên), Phong Khê (Phúc An), Mê Linh (Phúc Yên), Long Biên, Vạn Xuân, Đại La (Hà Nội), Cổ Loa (Phúc Yên), Hoa Lư, Thăng Long (Hà Nội), Tây Đô (Thanh Hóa), Đông Đô (Hà Nội), Vạn Lại (Thanh Hóa) Ái Tử (Quảng Trị), Phú Xuân (Huế), Qui Nhơn (Bình Định), Gia Định, Sài Gòn, Huế, Hà Nội.

Nước Văn Lang và kinh đô Phong Châu kéo dài hàng ngàn năm.

Nước Đại Việt: xuất hiện từ thời nhà Lý do vua Lý Thánh Tông (1054-1072) đặt, đến hết đời nhà Lý (171 năm) đời Trần (175 năm), đời Hậu Lê (255 năm), đời Tây Sơn (14 năm) tổng cộng trên 600 năm.

Thủ đô Hà Nội xuất hiện từ thời Lý Nam Đế gọi là Long Biên (4 năm), thời Triệu Quang Phục gọi là Long Biên (22 năm), thời nhà Đường đô hộ bắt đầu từ Cao Biền xây thành Đại La khoảng năm 866 đến hết thời Đường đô hộ khoảng 40 năm, năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long đến năm 1788 Tây Sơn diệt nhà Hậu Lê khoảng 700 năm, Hà Nội từ năm 1945 đến nay: 60 năm, tổng cộng thời gian Hà Nội được sử dụng làm kinh đô khoảng trên 800 năm.

Tóm lại trải qua hàng ngàn năm lịch sử có 3 quốc hiệu được dân tộc ta sử dụng lâu dài nhất là Văn Lang, Đại Việt, Việt Nam. Có 3 kinh đô được sử dụng lâu dài nhất là Phong Châu, Hà Nội, Huế. Phong Châu, Huế đã trở thành cố đô, Hà Nội hiện đang là thủ đô.

3. THĂNG LONG ĐẤT ĐẠI CAN LONG, ĐẠI LONG MẠCH

Nếu Thủ đô Hoa Thịnh Đốn là đất đại can long, đại long mạch của Hoa Kỳ nằm trên bờ sông Potomac, thì Hà Nội tức Thăng Long xưa là đất đại can long, đại long mạch của Việt Nam nằm trên bờ sông Hồng Hà. Người Hoa Kỳ không biết có học phong thủy không nhưng khi xây Tòa Nhà U.S. Capitol họ đã xây trên ngọn đồi nhìn về hướng Tây trông ra dòng sông Potomac, nơi có Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington, Đài Kỷ Niệm Washington, Đài Tưởng Niệm A. Lincoln, Đài Tưởng Niệm T. Jefferson, Đài Tưởng Niệm F.D. Roosevelt, (những biểu tượng của hồn thiêng sông núi) và thực hiện đúng câu "Tiền đê hậu cao" (trước thấp sau cao) trong phong thủy.

Mùa Thu năm Canh Tuất (1010) từ kinh đô Hoa Lư, Vua Lý Thái Tổ ban lệnh dời đô, thuyền ngược dòng Hồng Hà cập bến Đại La nơi đô cũ của Cao Biền lúc trước. Khi ra đến La Thành, Vua Thái Tổ lấy cớ nằm mộng trông thấy rồng vàng hiện ra bèn đổi thành Đại La thành thành Thăng Long. Việc xây dựng kinh thành theo Giáo sư Phan Huy Lê: "Buổi đầu đã sử dụng tòa thành này cùng một số kiến trúc có sẵn rồi sửa sang xây dựng thêm những cung điện mới".

Kinh thành đại thể được giới hạn bằng ba con sông: mặt Đông là sông Hồng, mặt Tây mặt Bắc là sông Tô Lịch, mặt Nam là sông Kim Ngưu. Kinh thành chia 2 phần:

Hoàng Thành nằm trong lòng kinh thành, gần Hồ Tây nơi có cung điện hoàng gia và chỗ thiết triều, cấm thành nơi ở của hoàng gia gọi là Long thành. Điện Kiền Nguyên là điện chính nơi vua làm việc, hai bên tả hữu là điện Tập Hiền, Giảng Vũ. Bên trái mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân. Bên phải mở cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn. Chính Bắc dựng điện Cao Minh, đằng sau là cung Thúy Hoa nơi các cung phi ở. Bao bọc các cung điện là một bức tường thành bảo vệ gọi là Long Thành với 10 cấm quân canh gác ngày đêm. Các công trình thổ mộc đẹp đẽ, cách chạm trổ trang sức khéo léo.

Qua các triều đại sơ lược trên đây, chúng ta thấy Nhà Lý là một triều vua nhân đức hơn hết, do đó cũng được thịnh trị hơn hết, lâu dài hơn hết.

Lý Công Uẩn lên ngôi không giết một sinh mạng, trong khi Nhà Trần, Trần Thủ Độ giết gần hết hoàng tộc nhà Lý. Nhà Hồ, Hồ Quý Ly giết vua Lê Thuận Tông, công thần: Trần Khát Chân cùng 370 người. Nhà Lê, Lê Lợi giết Trần Cao, công thần Trần Nguyên Hãn, Phạm văn Xảo. Nhà Mạc, Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông, vua Lê Cung Hoàng, bà Hoàng Thái Hậu và vô số triều thần Nhà Lê khác. Nhà Nguyễn, Vua Gia Long tùng xẻo vua tôi Nhà Tây Sơn, đào mồ cắt đầu anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc bỏ giam trong ngục tối, giết hại công thần Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường.

Hoàng tộc nào được ngồi không hưởng bổng lộc xa hoa? Riêng hoàng tộc nhà Lý thì hoàng tử phải đi đánh giặc, công chúa phải đi thu thuế, cung nữ phải học nghề thêu dệt gấm vóc.

Vua Lý Thái Tổ lên ngôi cho xây chùa thỉnh kinh.

Vua Lý Thái Tông "bao giờ cũng để lòng thương dân. Hễ năm nào đói kém hay là đi đánh giặc về, thì lại giảm thuế cho hàng hai ba năm - VNSL" nhà vua không giết hai người em phản nghịch mà còn phục lại chức cũ, nhà vua hạ chiếu cấm không cho ai được mua người để làm nô lệ. Còn Lý Thánh Tông là "một ông vua nhân từ, có lòng thương dân; một năm trời rét, Thánh Tông bảo những quan hầu gần rằng: "Trẫm ở trong cung ăn mặc như thế này còn rét, nghĩ những tù phạm giam trong ngục, phải trí buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm." Nói rồi truyền lấy chăn chiếu cho tù nằm và mỗi ngày cho hai bữa ăn. Lại có một hôm Thánh Tông ra ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên Công Chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng: "Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi." Vua Thánh Tông có nhân như thế cho nên trăm họ mến phục, trong đời Ngài làm vua ít có giặc giã. Ngài lại có ý muốn khai hóa sự văn học, lập văn miếu, làm tượng Chu Công Khổng Tử và 72 tiên hiền để thờ. Nước ta có văn miếu thờ Khổng Tử và chư hiền khởi đầu từ đấy. - VNSL ".

Việc binh chính, binh pháp nhà Lý thời Lý Thánh Tông "có tiếng là giỏi, nhà Tống bên Tàu phải bắt chước, ấy là sự vẻ vang cho nước mình bao nhiêu? - VNSL" Nhà Lý đem binh đánh tới Quảng Đông Quảng Tây nước Tàu là lần duy nhất trong lịch sử và cũng là triều đại mở đầu cuộc Nam Tiến chiếm đất bắt vương phi Chiêm Thành. Trần Trọng Kim viết:

"Nhà Lý có công làm cho nước Nam ta nên được một nước cường thịnh: ngoài thì đánh Tàu, bình nước Chiêm, trong thì chỉnh đốn việc võ bị, sửa sang pháp luật, xây vững cái nền tự chủ."

Vua Lý Thái Tổ là một vị minh quân nhân đức mới 3 tuổi đem cho nhà sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn làm con nuôi đặt tên là Lý Công Uẩn, sau theo học sư Vạn Hạnh. Lớn lên vào Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê đến chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi lên ngôi ngài thấy Hoa Lư chật hẹp và cũng sáng suốt nhìn thấy thành Đại La đô cũ của Cao Biền khi xưa nằm trên bờ sông Hồng Hà là một đại can long, một "thắng địa" thuộc hàng đại long mạch lý tưởng:

"Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.... - Chiếu dời đô - Lý Công Uẩn".

Càng đắc địa hơn, trước khi chảy đến Thăng Long, dòng Hồng Hà ngoằn ngoèo uốn khúc để tạo nên một vùng cát địa có đại long mạch tầm cỡ "thượng đô kinh sư". Và trước khi ra biển, dòng sông ngoái lại nhìn rồi tỏa ra tạo thành những chi long, cước long, bàng long lung linh như một bức gấm thêu giữa vùng non nước hữu tình. Địa huyệt kết nơi cao nhất có tên là núi Nùng. Thiên huyệt kết chỗ thấp nhất có tên là Hồ Hoàn Kiếm nơi Thần Kim Quy hiện ra báo hiệu điềm lành. Tuy nhiên khác với Hoa Lư, địa thế Thăng Long trống trải, đã bao lần bị quân Tàu, quân Pháp đánh chiếm, ngay Chế Bông Nga vua Chiêm cũng đã 3 lần ra chiếm Thăng Long đốt phá lấy sạch vàng bạc châu báu và bắt con gái mang về.

Muốn đại can long, đại long mạch lưu phúc trạch lâu dài cho con người, con người phải có đại nhân đại đức, lấy đức báo oán, lấy đức đối đãi với bá tánh và mưu cầu cho bá tánh có một đời sống xứng đáng là con người đúng với hai chữ hạnh phúc ấm no. Hễ đức càng nhiều thì vận càng dài, đức cạn thì vận tuyệt.

4. CON SỐ 8 HUYỀN BÍ

Niên hiệu Thuận Thiên năm 1010, Vua Lý Thái Tổ thỉnh Thiền sư Vạn Hạnh về làm Quốc sư, sau khi dời đô về Thăng Long, Ngài nhanh chóng thiết lập nền tảng cơ sở đạo đức và tôn giáo: xây 8 ngôi chùa tại phủ Thiên Đức, năm 1018 sai người sang Tàu thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng. Các nhà phong thủy cho rằng Ngài đã thông hiểu những bí mật của đại can long đại long mạch Thăng Long. Con số 8 huyền bí như một lời khẩn cầu cho quốc thái dân an tu nhân tích đức và cũng là con số giới hạn đối với chủ nhân của đại can long đại long mạch Thăng Long. Quả là một con số 8 huyền bí nếu chúng ta chịu khó lược qua sự tồn vong của các triều đại:

Nhà Lý do Vua Lý Thái Tổ dựng lên đóng đô trên đất đại can long đại long mạch Thăng Long 215 năm tính từ đời Ngài cho đến đời Lý Huệ Tông bỏ cung vàng đi tu vừa đúng 8 đời thì cơ nghiệp triều chính lọt vào tay Nhà Trần. Tính thêm đời vua Lý Chiêu Hoàng là 9 đời, nhưng đời vua này trên thực tế có cũng như không, vì do Trần Thủ Độ đạo diễn đưa lên làm vua mới có 7 tuổi và chỉ 14 tháng sau thì bị ép phải nhường ngôi.

Nhà Trần làm chủ Thăng Long từ đời Trần Thái Tông đến Trần Thiếu Đế được 175 năm gồm 12 vua 8 đời.

Nhà Hồ 7 năm 2 vua 2 đời
Nhà Hậu Lê 99 năm 10 vua 6 đời
Nhà Mạc 65 năm 5 vua 5 đời
Nhà Lê Trung Hưng 66 năm 4 vua 4 đời
Nhà Hậu Lê Thời Trịnh-Nguyễn: 188 năm 12 vua 8 đời
Nhà Trịnh 194 năm 10 chúa 8 đời

Đại can long đại long mạch là gì mà có một sự tác động ghê gớm như thế? Và con số 8 kể từ thời Lý Thái Tổ đến nay đã gần 1.000 năm mà vẫn chưa có một triều đại nào (đóng đô trên đất Thăng Long) vượt qua kể cả những triều đại hiễn hách trong lịch sử?

Phải chăng sự tác động của đại can long đại long mạch là điều có thật? Phải chăng kiến thức huyền bí về long mạch đã bị chiến tranh thiêu hủy hay thất truyền nên ngày nay chúng ta không thể lý giải nổi dù chúng ta vẫn tin vào quy luật nhân quả đang hiện hữu và chi phối con người từng giờ từng phút.

5. DẤU XƯA XE NGỰA HỒN THU THẢO

Nhắc đến hai chữ Thăng Long, người ta ngậm ngùi nhớ đến Bà Huyện Thanh Quan thời Nhà Nguyễn với bài thơ trầm buồn Thăng Long Thành Hoài Cổ:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Và mới đây trên báo Trẻ Florida số 83A ngày 21/10/2005 có đăng bài viết "Cổ Thụ, Dấu Vết Của Lịch Sử" của tác giả Dương Quốc Trung, khi đọc đoạn văn viết về Thăng Long xưa-Hà Nội nay sau đây chắc chúng ta không khỏi thấm thía bùi ngùi:

"Chùa Một Cột hay đình Diên Hựu xưa sử sách chép niên đại có từ rất sớm gắn với triều Lý thịnh Phật, những kiến trúc hôm nay chứng kiến mới chỉ được dựng lại chưa đầy nửa thế kỷ, sau khi đã bị phá hủy hoàn toàn vào năm 1954. Thành Thăng Long xây từ đời Lý qua đời Trần, Lê... sử sách mô tả bề thế mà đến cuối thế kỷ trước, đầu thế kỷ này bị chiến tranh tàn phá không còn gì. Một mảnh tường ngoài cổng thành cửa Bắc còn lưu vết đạn (...)

Gở tấm bản đồ xưa của Thăng Long-Hà Nội, ta sẽ thấy hình vẽ, tên gọi những con sông. Tô Lịch, Kim Ngưu, Lũ, Thiên Phù, Sét... mà nay đã biến mất hoặc chỉ còn dấu tích tàn tạ. Những dấu vết kiến trúc của nơi tụ cư xưa nhất mà ta hay gọi là "36 phố phường" còn lại là bao?".

Tài liệu tham khảo:
* Việt Nam Lược Sử, Trần Trọng Kim, Bộ Giáo Dục Trung Tâm Học Liệu Xuất Bản năm 1971
* Thăng Long Lược Phong Thủy Ký, Vũ Phong Lưu (VNN)
* Thăng Long Hà Nội Cổ Xưa - Dấu Vết Bản Đồ

Vĩnh Hồ
Xuân Bính Tuất 2006