Bản làng thờ cúng thần... chuột

Những người Dao Tiền ở bản Bương, Tân Pheo, Đà Bắc, Hòa Bình coi chuột như một vị thần cứu mạng, họ còn lập hẳn một ngôi miếu để thờ thần chuột.


Vốn được nghe kể về chuyện những người Dao Tiền có một ngôi miếu thờ thần chuột, tôi rất hiếu kỳ, không hiểu vì sao những người dân nơi đây lại có phong tục kỳ lạ đến vậy. Tôi đã tìm đến bản Bương thuộc xã Tân Pheo để tìm hiểu về nét văn hóa độc đáo này.

Cả bản sống nhờ…chuột

Từ trung tâm huyện Đà Bắc phải đi gần 60 cây số mới đến bản Bương, nơi cư ngụ của người Dao Tiền ở Hòa Bình. Bản nằm biệt lập ở một bên của sườn núi, đường đi vào bản Bương rất dốc và khó đi, đầy rẫy những tảng đá to người ôm không xuể.

Giữa đường còn có nhiều dòng suối nhỏ cắt ngang đường mà theo những người dân ở đây cho biết, hiện đang là mùa cạn nên còn đi qua được chứ đến mùa lũ thì dòng suối bỗng hóa thành cả một con sông lớn chảy xiết khiến chẳng ai dám liều lĩnh để lội qua.

Qua sự hỏi thăm, tôi được người dân chỉ tới nhà ông Bùi Đình Nghệ năm nay đã gần 70 tuổi, ông là người am hiểu về lịch sử của bản Bương cũng như phong tục tập quán của người dân nơi đây.

Ông Nghệ cho biết, tục thờ thần chuột ở bản Bương đã có từ rất lâu đời. Theo truyền thuyết xưa kia tổ tiên của người Dao Tiền khi mới di cư đến vùng đất này thường xuyên phải chịu đói vì thức ăn vô cùng khan hiếm. Do chưa có đủ lương thực cho mọi người nên nhiều người đã phải bỏ mạng, rồi bỗng một ngày những người bản Bương phát hiện ra ở khu rừng quanh bản chuột nhiều vô số kể. Chính vì vậy, họ đã nảy sinh ra việc bắt chuột làm thức ăn chống lại cái đói, cái rét để duy trì sự sống.


Thịt chuột là món ăn giúp người dân bản Bương vượt qua cái đói


Hằng ngày, phụ nữ và trẻ nhỏ ở nhà làm rẫy để chờ mùa thu hoạch, còn các thanh niên trai tráng người dùng bẫy, người dùng nỏ cùng nhau đi săn chuột để làm thức ăn vượt qua cơn hoạn nạn. Ông Nghệ cho biết: "Giống chuột rừng ở bản Bương rất đặc biệt, hầu hết đều có trọng lượng to gấp đôi thậm chí gấp 3 lần chuột bình thường và chẳng hề mắc dịch bệnh gì cả. Làm thức ăn cũng ngon miệng và bổ dưỡng chẳng kém gì các loại thịt thú rừng khác".

Chuột rừng sau khi bị các thợ săn bắt được đem về, dùng nước sôi làm sạch lông, đốt rơm thui vàng rồi mổ bụng, moi lòng và treo nơi gác bếp cho thịt khô lại rồi chế biến thành món ăn dùng dần, có nhà còn treo thịt gác bếp suốt cả một mùa đông giống như món thịt trâu gác bếp của các dân tộc người vùng cao vậy.


Thịt chuột được treo lên gác bếp để làm thức ăn dự trữ


Đến bữa có khách, chủ nhà chỉ cần gỡ xuống, thái miếng, rắc muối, ướp gừng cho thịt ngấm gia vị rồi băm nhỏ. Gạo nếp nương nấu sôi lên, cho thịt chuột vào, khuấy đều cho đến khi sánh lại thì bắc xuống, bỏ hành lá và rắc bột ngọt vừa phải.

Đặc biệt những khi vào thời điểm giáp hạt vào mùa khô (thời điểm cuối năm) dân bản phải vào rừng để săn thú sống qua ngày, dần dần thú rừng cạn kiệt, ở bản Bương chỉ còn loài chuột là nhiều và dễ bắt. Thế nên, thịt chuột càng trở thành “lộc trời” đối với người Dao Tiền.

Sau này, khi đời sống đã phát triển, người dân không còn phải ăn thịt chuột để sống nữa, nhưng để tỏ lòng thành kính trước sự “hi sinh” của con chuột để mọi người được sống sót, bản Bương đã tôn con chuột thành “thần” và tổ chức tế lễ thờ cúng thần chuột. Nghi lễ này cũng nhằm tưởng nhớ đến tổ tiên khai bản lập làng. Sau này người dân cúng các “ma làng, ma sông, ma suối”, cũng dùng thịt chuột để tế lễ.

Hằng năm, người Dao Tiền có 3 ngày lễ lớn: lễ cầu mùa vào rằm tháng 5, lễ ăn cơm mới sau vụ thu hoạch vào tháng 9 và lễ Tết Nguyên đán. Trong Lễ cầu mùa và Lễ ăn cơm mới, người Dao vẫn thường dùng gà, lợn để tế lễ nhưng với Tết Nguyên đán thì ngoài gà, lợn, không thể thiếu món thịt chuột. Nhà nào không đi bắt được chuột rừng để về làm lễ thì phải đi mua không thì năm đó sẽ không được tổ tiên phù hộ, làm ăn thất bát.

Vào đêm giao thừa nhà nào cũng tự cúng thần chuột nhưng cứ sang ngày mồng hai tết thì thầy mo bản phải đến miếu cúng thần chuột, tỏ lòng thành kính cầu thần một năm mới tốt lành và đừng phá phách mùa màng của dân bản, lâu dần thành lệ, thành một tín ngưỡng đặc biệt của người dân xứ này.

Miếu thờ thần chuột

Sau khi ngồi nghe kể về nguồn gốc của tục lệ kỳ lạ của người Dao Tiền ở bản Bương, ông Nghệ dẫn tôi đi thăm ngôi đền thờ thần chuột. Đền được xây ở tận cuối bản, nằm cách biệt với các ngôi nhà sàn của người dân nơi đây.

Ông Nghệ cho biết: “Miếu làng phải được làm ở chỗ cao ráo, thoáng mát, ít người qua lại, không được chặt cây cối quanh miếu, như thế các “ma làng” mới có chỗ nghỉ ngơi yên tĩnh, không bị quấy nhiễu.


Miếu thờ thần chuột ở bản Bương


Ngày ông cha dựng miếu, ngôi miếu được dựng bằng đá, đến thời điểm hiện tại, người dân bản Bương vừa mới chung tiền để xây thành bê tông, rộng chừng 2m2 và được lợp mái xi măng".

Vào ngày mồng 2 và mồng 4 tết hằng năm, sau khi các gia đình đã nộp đủ lễ (mỗi gia đình tối thiểu là 3 con chuột) thì mỗi hộ cử ra 1 người đàn ông trong gia đình đến miếu để tế lễ.

Sau khi mọi người dân đã tế lễ xong, người chủ làng là chủ lễ sẽ cầu thần linh phù hộ cho làng xóm mạnh khoẻ, yên lành, làm ăn năm mới phát đạt hơn năm cũ. Cuối cùng thì hạ thịt chuột xuống, để cả làng cùng tập trung ăn uống vui vẻ.


Trước kia miếu được dựng lên bằng đá, hiện mới được người dân bản Bương chung tiền để xây cất lại


Không chỉ thờ thần chuột ở ngôi miếu này, các hộ dân trong bản Bương ở mỗi nhà cũng có một ban thờ thần chuột cùng với bàn thờ ông cha, tổ tiên. Theo tục lệ thì vào đêm giao thừa, đúng 8h, hai con chuột được sấy khô được các gia chủ trịnh trọng bày lên bàn thờ. Đúng thời khắc giao thừa năm cũ sang năm mới, người chủ gia đình (thường là đàn ông) sẽ cúng những người đó khuất và các ma làng, mời tất cả về cùng thưởng thức món thịt chuột trong những ngày Tết. Theo những người dân ở đây không có loài thịt gì có thể thay thế được thịt chuột để cúng trong đêm giao thừa. Các ma làng và những người đó khuất chỉ chấp nhận loại đặc sản “truyền thống” này của dân mình.

Hiện nay, dù đời sống ở bản Bương đã được cải thiện đáng kể, ít hộ đói nhưng tục lệ đi săn chuột và thờ cúng thần chuột vẫn không bị mai một.

Kinh Vân

Theo Bưu Điện Việt Nam