kết quả từ 1 tới 15 trên 15

Ðề tài: Thầy là ngọn hải đăng

  1. #1

    Mặc định Thầy là ngọn hải đăng

    TÌNH THẦY TRÒ




    Ngày xưa, chịu ảnh hưởng Nho giáo, người Việt Nam ta rất kính trọng thầy, tôn thầy lên địa vị thứ hai sau nhà vua, trên cả cha và mẹ, theo tinh thần Quân - Sư - Phụ. Ngày lễ tết, học trò thường đến nhà thầy chúc mừng, thể hiện tấm lòng biết ơn của mình đối với người đã giúp cho mình hành trang cần thiết để bước vào đời một cách tự tin và vững chãi.

    Không những học trò tôn kính thầy, các bậc phụ huynh cũng xem thầy là người ơn của gia đình dòng họ. Học trò thi đậu, lúc vinh quy bái tổ cũng đến tạ ơn thầy, vì nhờ thầy mà mình được hiển đạt như ngày nay. Ông Chu Văn An, một nhà giáo lẫy lừng về kiến thức, về đạo đức và về phong cách sống, đã được môn sinh vô cùng tôn trọng. Học trò cũ của ông đã làm quan lớn trong triều đình, khi phạm sai lầm vẫn bị ông gọi về nghiêm khắc dạy bảo; người học trò một mực cúi đầu nhận lỗi, không dám cãi lại một lời.

    Có câu chuyện kể về một người đã thành đạt, một hôm cùng đứa con trai về làng thăm thầy cũ. Đến một căn nhà tranh đơn sơ, hai cha con gặp một ông lão mắt đã lòa, chống gậy dò từng bước quanh sân. Người cha vội tiến đến cầm tay ông lão, thưa rằng:

    - Thưa thầy, thầy còn nhớ con không ?

    Ông lão bỡ ngỡ:

    - Xin lỗi ngài, ngài là ai ?

    Người cha ứa nước mắt, ôm chầm ông lão:

    - Thưa thầy, con chính là X, đứa học trò ngỗ nghịch của thầy. Ngày xưa, thầy nhiều lần phạt con về tội trốn học rong chơi, quậy phá làng xóm. Nhờ thầy nghiêm khắc dạy dỗ, nay con đã thành danh. Con không dám quên ơn thầy, nên tìm dịp về đây thăm viếng thầy.

    Nói xong, người cha quay lại bảo con trai:

    - Nếu không có thầy, cha không thể nào được như ngày nay. Công ơn thầy như trời biển, không những cha phải nhớ suốt đời, mà con cũng phải khắc ghi mãi mãi.

    Những câu chuyện cảm động như trên, chúng ta đọc thấy rất nhiều trong văn học Việt Nam và thế giới. Chỉ đáng buồn là trong thời đại bây giờ, tình thầy trò không còn sâu đậm thiêng liêng như thế nữa. Báo chí đã đăng tải nhiều trường hợp học trò đánh thầy cô giáo, thậm chí có nhiều phụ huynh bênh con cháu mình, đón đường hành hung thầy. Tại một lớp học bên Mỹ, một học sinh mới 12 tuổi đã dùng súng bắn thầy thiệt mạng, chỉ vì một nguyên nhân rất nhỏ: thầy đã phê bình em trước cả lớp, vì trong giờ thầy giảng bài, em lại đem truyện ra đọc!

    Hai mặt trái và phải của tình thầy trò, thật ra trong thời nào và ở đâu cũng có, tùy trình độ đạo đức của xã hội, sự giáo dục của gia đình và sự tự kỷ của bản thân. Việt Nam ta có Ngày Nhà Giáo 20/11, một ngày để các bậc phụ huynh và học sinh nhớ nghĩ đến công ơn thầy cô, để thể hiện lòng biết ơn ấy bằng nhiều hình thức. Tuy nhiên, không phải đợi đến ngày nầy ta mới nghĩ đến thầy, cũng không phải tượng trưng tình cảm thầy trò bằng vài món quà nhiều khi chỉ mang tính hình thức, mà sự biết ơn ấy phải được biểu hiện trong suốt cuộc đời, bằng tất cả tấm lòng chân thật của ta. Nếu cha mẹ có ơn sinh thành dưỡng dục, thì thầy cô có công dạy dỗ ta trở thành người có ích cho xã hội. Từ khi ta còn là đứa trẻ trong trắng như tờ giấy mới, chính thầy đã cầm tay ta, uốn nắn từng nét chữ đầu đời; chính thầy đã dạy cho ta những bài học vỡ lòng, giúp ta tiếp cận với tri thức thế gian. Dù sau này ta trở thành một nhà bác học, một thương gia giàu có, hay một chính trị gia lỗi lạc, ta cũng nên nhớ về người thầy đầu tiên với lòng kính trọng và biết ơn tha thiết. Có dịp gặp lại thầy ta vẫn là đứa học trò nhỏ ngày nào; và đồng thời phải dạy cho con cháu ta hiểu rằng, nếu không có những ông giáo già mộc mạc ở mái trường tiểu học đơn sơ cũ kỹ, ta đã không trở thành nhân vật có địa vị trong xã hội hôm nay.

    Đối với người Phật tử, bên cạnh tình thầy trò ngoài đời, chúng ta còn cảm nhận sâu sắc ân nghĩa của thầy dạy đạo. Cha mẹ và thầy giáo thế học có công nuôi dưỡng thân xác, đào luyện tâm hồn và nâng cao trình độ kiến thức cho ta; nhưng đó chỉ là thân ngũ uẩn sinh diệt nay còn mai mất, chỉ là kiến thức vay mượn khi đúng khi sai. Còn người chỉ cho ta phương pháp tu hành thoát khổ và vĩnh thoát sinh tử, nuôi lớn thân huệ mạng bất sinh bất diệt, chính là vị thầy đạo học. Công ơn ấy gẫm ra còn nặng gấp bao lần những ân tình ân nghĩa nói trên.

    Thông thường, chúng ta hay xem trọng ngày sinh, xem lễ sinh nhật là một trong những ngày lễ lớn của gia đình. Ít có ai nhớ kỹ ngày mình quy y Tam Bảo, thời điểm đầu tiên sinh ra thân huệ mạng của mình. Lẽ ra, ngày chúng ta trở về nương tựa ba ngôi báu Phật – Pháp – Tăng phải là ngày quan trọng nhất của một người Phật tử, vì đó là ngày chúng ta thật sự sinh ra một cách có ý nghĩa. Và cũng vì thế, vị Bổn sư truyền giới đại diện Tăng Bảo khai sinh cho ta, phải được tôn kính, biết ơn trong suốt cuộc đời.

    Có người thích quy y một vị tu sĩ đạo cao đức trọng, có danh tiếng, và lấy đó làm điều hãnh diện. Có người trước đã từng quy y, sau thấy thầy khác nổi tiếng hơn, lại tìm đến xin quy y lần nữa. Có người trong quá trình theo Bổn sư tu học, thấy thầy mình có biểu hiện nào đó làm mình không hài lòng, quay ra chê bai phỉ báng. Đây là hành vi không nên có đối với người Phật tử. Chúng ta quy y Tam Bảo vì không muốn làm kẻ cùng tử lang thang, nguyện từ nay trở về nương theo Phật, theo giáo pháp của Phật tu hành. Đức Phật đã nhập diệt, giáo pháp của Ngài được truyền trao qua trung gian những vị tu sĩ là những Trưởng tử Như Lai. Khi đối trước một vị thầy phát nguyện thọ tam quy ngũ giới, chúng ta không chỉ quy y với cá nhân vị ấy, mà là quy y với cả ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng. Cho nên, một mặt ta có quyền lựa chọn Bổn sư là người tài đức có thể hướng dẫn ta tu hành theo chánh pháp; nhưng mặt khác, ta không nên so sánh thầy mình với các thầy khác theo ý nghĩa hơn thua. Thật ra, duyên thầy trò không phải chỉ một vài đời mà được thiết lập. Phật dạy, người cùng đi chung một chuyến đò là đã có duyên với nhau 500 kiếp, huống gì duyên sư đệ, phải sâu đậm thế nào để thầy trò hạnh ngộ ở kiếp này.

    Vì sao chư Tăng ni được tôn xưng là Tăng Bảo, chỉ sau hai ngôi báu Phật và Pháp, trong khi các vị ấy cũng là những người bình thường với đầy đủ hai thuộc tính hướng thượng và hướng hạ của một con người ? – Bởi vì các vị là những nhân vật cụ thể mà ta có thể tiếp xúc được, học hỏi được; và thông qua các vị, ta tiếp cận với giáo lý nhà Phật, theo gương Đức Phật tu hành, một ngày nào đó nhận ra Phật tâm sẵn đủ. Các vị là những sứ giả trao truyền chánh pháp của Đức Phật, nên là đại diện cho cả ba ngôi báu. Bằng thân giáo và khẩu giáo, các vị có thể tác động trực tiếp vào tâm thức chúng ta, dắt dẫn chúng ta đi theo con đường sáng Đức Phật đã đi và đã đến đích.

    Hiểu theo sự tướng, Tăng-già (Sangha) là tập thể những vị tu sĩ xuất gia, sống trong tinh thần thanh tịnh và hòa hợp. Hiểu theo lý, tăng chúng gồm những vị đã thành tựu chánh tri kiến, tức có cái thấy biết như thật về tất cả pháp thế gian và xuất thế. Nói khác đi, Tăng-già được hình thành từ nội dung tâm chứng của từng cá thể trong đời sống tập thể. Hiểu sâu thêm một mức, Tăng-già chính là biểu tượng tôn quý nhất trong chiều sâu thẳm vô ngôn của bản thân chúng ta, nghĩa là tự tánh thanh tịnh vốn đủ của muôn loài. Cho nên, chúng ta quý kính Tăng Bảo không chỉ là tôn trọng một cá nhân nào đó trong tập thể Tăng-già, mà còn là nhớ lại và sống với bản tâm hằng hữu của chính mình. Đảnh lễ một vị tu sĩ với tất cả lòng thành, chúng ta đã đảnh lễ cả Tam Bảo và đảnh lễ chính ngay bản tâm hằng hữu ấy. Ngược lại, buông lời chê bai phỉ báng chư vị Tăng ni, chúng ta đã tự phỉ báng chính bản tâm mình, và vô tình đóng kín cánh cửa dẫn đến giác ngộ giải thoát.

    Đức Phật có bài kệ:

    Nói nhiều lời hư vọng

    Thêm huyễn hoặc cuồng si

    Học ít nhưng tâm đắc

    Mới là bậc hộ trì.


    Nhiều vị cư sĩ tại gia có trình độ kiến thức thế gian, có địa vị cao trong xã hội, lại nghiên cứu nhiều về Phật pháp và phát tâm hộ trì Tam Bảo. Đây là điều rất đáng quý, vì các vị ấy có đủ điều kiện hơn ai hết để hỗ trợ quý thầy trong công cuộc hoằng truyền chánh pháp. Tuy nhiên, càng đi chùa nhiều năm, càng làm nhiều Phật sự và càng là hộ pháp đắc lực, chúng ta càng nên cẩn trọng, luôn tự phản tỉnh và cảnh giác với tư tưởng công thần. Bởi vì, khi làm được nhiều việc lợi ích cho đạo, được mọi người kính nể, được quý thầy trân trọng, chúng ta đôi khi tự cho mình có phước duyên hơn người khác. Từ đó, ngã chấp ngày càng lớn, thấy mình hơn các bạn đồng tu, thậm chí tài giỏi hơn cả quý thầy. Từ ý nghĩ đưa đến lời nói cống cao ngã mạn, tạo khẩu nghiệp cuồng si huyễn hoặc như khoe mình chứng đắc, vô tình đường tu ngày càng đi xuống mà không hay. Đây là điều rất đáng tiếc. Cho nên, thà rằng học ít, biết mình kém cỏi, luôn khiêm cung gắng tu gắng học, gắng làm tất cả công việc được giao một cách chu toàn; những người ấy mới đúng là bậc hộ trì chánh pháp.

    Tăng sĩ được phân ra ba hạng: Thánh tăng, Hiền tăng và Phàm phu tăng. Chúng ta không thể dùng nhục nhãn và sự hiểu biết giới hạn của mình mà nhận định và phân biệt được hành trạng và nhân cách của các vị. Nhìn chung, trong thời mạt pháp này, các vị tu sĩ vẫn chỉ là những chúng sanh vẫn còn tập khí của phàm phu; chỉ khác ở chỗ các vị đang từng bước đẩy lùi phiền não ma chướng, từng bước đi trên lộ trình hướng đến lý tưởng Giác ngộ – Giải thoát mà các vị đã từng thệ nguyện lúc mới xuất gia. Chúng ta không nên đòi hỏi thầy mình phải hoàn hảo như Hiền như Thánh, vì liệu chúng ta có đủ phước duyên làm đệ tử của các bậc Hiền Thánh Tăng chăng? Chúng ta cũng không nên nhìn vào một số biểu hiện tập khí nơi thầy mà đánh giá phê bình, vì quá trình tu tập của thầy vẫn còn đang tiếp diễn; miễn thầy dạy ta đúng chánh pháp, ta theo lời dạy ấy tu hành được nhiều kết quả tốt. Thầy trò cùng tu, cùng sống trong đạo tình đạo vị dưới hào quang của chư Phật Bồ-tát, có phải hay hơn là cứ mãi soi mói lỗi lầm của người mà quên mất những khuyết điểm của chính mình. Phật đã dạy: “Trạng thái xấu xa mà ta nhìn thấy nơi người khác chỉ phản ảnh bản chất của chính ta”. Nếu tâm ta thanh tịnh trong sáng, vạn pháp dưới mắt ta đều toát ra vẻ an bình, mọi người chung quanh ta đều tốt đẹp dễ thương. Nếu tâm ta nhiều phiền não cấu uế, ta sẽ thấy trên đời nầy không có gì đẹp cả, không một ai tốt cả - ngoài ta. Mặt khác, người cư sĩ tại gia dù giữ giới nghiêm cẩn bao nhiêu, dù kiến thức bác lãm cỡ nào, dù tinh tấn công phu đến mấy, cũng không thể có môi trường sống thanh tịnh như trong các tự viện, không thể cởi bỏ những ràng buộc lo toan cho sinh kế, không thể vượt thoát những hệ lụy tình cảm gia đình quyến thuộc; và nhất là không thể giữ hạnh tu như người xuất gia. Vì thế, bằng thái độ hiểu biết, khiêm cung và quí kính chư Tăng ni, bằng sự phản tỉnh thường xuyên để nhận diện và chuyển hóa những ý niệm lệch lạc xấu ác, chúng ta sẽ có một sức mạnh tự nội để giải thoát khỏi những định kiến phân biệt hẹp hòi, ngã chấp dần dần giảm thiểu, và chúng ta có thể sống hòa hợp thanh tịnh trong bất cứ tập thể nào.

    Thiền sư Ajahn Chah, Cố Viện chủ Thiền viện Wat Pah Pong Thái Lan và một số Thiền viện khác ở Âu Mỹ, có lối dạy môn sinh rất kỳ đặc. Nhất là đối với những đệ tử xuất cách, Ngài thường chê bai thậm tệ trước mặt mọi người. Một lần, trước đông đảo Phật tử Tây phương và bản xứ, Ngài phê bình Đại đức Thitappo – đệ tử thân cận của Ngài - là “Người đần độn nhất”. Vài hôm sau, Ngài hỏi Đại đức:

    - Hôm trước tôi nói vậy, ông có giận tôi không?

    Đại đức cung kính đáp:

    - Làm sao con có thể giận Ngài ? Giận Ngài thì có khác chi nổi giận với một ngọn núi ?(*)

    Đây là một bài học lớn dành cho người xuất gia trong quan hệ giữa thầy và trò. Nếu người cư sĩ chỉ mang ơn dạy bảo của thầy, thì những tu sĩ còn mang thêm trọng ân nuôi nấng. Công ơn giáo dưỡng của Bổn sư - vừa dưỡng dục thân ngũ uẩn sinh diệt, vừa nuôi lớn thân huệ mạng cho ta, quả là nghĩa ân cao trọng khó đền. Chúng ta khi bái sư làm lễ thí phát là đã trao trọn đời mình cho Bổn sư, một lòng hiếu kính quy thuận Người, nguyện luôn tinh tấn tu hành theo lời Người chỉ dạy; khi có kết quả lại nối nghiệp Bổn sư mà tiếp tục truyền trao cho người kế tiếp, để mạng mạch Phật pháp mãi mãi trường tồn.

    Ngày xưa, mỗi vị thầy có một cách dạy đệ tử khác nhau, nhất là những vị Thiền sư xuất cách. Nhưng dù thầy nghiêm khắc quở phạt bao nhiêu, các đệ tử cũng vẫn một lòng thờ kính thầy, không dám khởi niệm oán trách. Nhờ vậy, các vị ngộ đạo nhanh chóng, và lúc ấy càng thấy công ơn thầy quả bao la như trời biển. Môn sinh của Thiền sư Lâm Tế thường bị thầy cho ăn gậy và nghe hét điếc tai, thế mà hội chúng luôn đông đảo, tinh cần tu học, nên trãi qua hơn 40 đời, dòng Thiền Lâm tế vẫn còn tươi nhuận luân lưu cho đến bây giờ. Quý thầy ngày nay do khế thời khế cơ, không thể giáo dục đồ chúng bằng những phương tiện kỳ đặc như thế; nhưng nhiều khi muốn đệ tử mau tiến bộ nên cũng phải la rầy quở phạt, có lúc phải trấn áp bằng khẩu lệnh. Nếu người đệ tử khiêm cung quy thuận, sẽ mau tăng tiến trên đường đạo vì đã biết dẹp bỏ ngã chấp. Ngược lại, nếu người đệ tử còn thấy tự ái bị tổn thương, còn khởi niệm trách hờn bội bạc, ấy là đã gieo nhơn xấu. Chưa nói đến những người, vì giận thầy không thoả mãn một điều ước muốn của mình nên rời chùa bỏ chúng đi nơi khác, lại còn đặt chuyện bôi nhọ chống đối thầy. Người đệ tử ấy, dù ôm ấp điều ước muốn hợp lý, cũng vì tạo nghiệp bất thiện mà đóng bít cánh cửa giải thoát. Trọng thầy mới được làm thầy; chúng ta muốn làm thầy nhưng đối với Bổn sư không trọn tình trọn nghĩa, làm sao ta có thể nhận được quả tốt về sau?

    Khoa học ngày nay tiến bộ vượt bậc, con người cần có kiến thức và tri thức để hòa nhập với xã hội, với cộng đồng. Người xuất gia cũng cần có số vốn thế học và đạo học khả dĩ mới có thể hướng dẫn Phật tử - vốn có nhiều người trí thức - tu hành theo chánh pháp, mới có thể thăng tòa thuyết giảng. Chúng ta cần phân biệt hai hạng người: Học giả và hành giả. Học giả là người có sự nghiên cứu sưu tầm công phu trên sách vở, có kiến thức uyên bác về một lĩnh vực thuộc phạm vi chuyên môn của mình. Nhà Phật gọi kiến thức ấy là Trí hữu sư, trí tuệ nhờ thầy mà có, vay mượn góp nhặt từ bên ngoài. Nó có tính chất sinh diệt và hạn cuộc, vì có thể đúng trong thời điểm này, ở địa phương này, nhưng lại sai trong thời điểm khác, địa phương khác, nên gọi là Chân lý tương đối. Người tu Phật có thể không phải là học giả nhưng luôn luôn phải là Hành giả - người thực hành công phu tu tập. Khi vị ấy công phu đắc lực theo tiến trình Tam vô lậu học sẽ phát sinh trí tuệ - Ấy là Trí vô sư, trí tuệ không nhờ thầy mà nhờ tự thân dụng công, nhờ giữ Giới mà có Định, nhờ Định mà phát Tuệ. Chính Trí Vô Sư mới là sự nghiệp cao cả và đích thực của đời tu, vì nhờ đó ta mới nhận rõ chân lý tuyệt đối, mới có cái nhìn thấu thể về bản chất thật sự của muôn pháp. Điều này giải thích tại sao Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền trao y bát cho cư sĩ Huệ Năng, một người không biết chữ nhưng ngộ đạo làm Lục Tổ; mà không truyền cho Thượng toạ Thần Tú, một bậc có kiến thức thế học và đạo học cao siêu, Giáo thọ sư của 500 đồ chúng. Hiểu rõ sự quan trọng và thiết yếu của sự thực hành công phu, chúng ta nên thầm hội ý Bổn sư nếu Người không cho phép ta theo đuổi việc học bên ngoài. Các vị Thầy thường xét khả năng và căn tánh của môn đồ để hướng dẫn việc tu học và hướng đi đúng đắn cho từng người, nhưng không ai không muốn cho học trò mình đạt nhiều kết quả tốt. Không hiểu thâm ý thầy, tình thương của thầy, lại đâm ra giận trách, vô ơn; tội lỗi như thế thì bao nhiêu học vị, bao nhiêu bằng cấp có thể nào hoá giải được chăng?

    Ngày Vu Lan được xem như một lễ hội văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, vì nhắc nhở tinh thần báo hiếu báo ân, những tình nghĩa không thể thiếu trong cuộc sống mỗi người. Trong đó, có những ân nghĩa của những người thầy dạy ta từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành, từ những kiến thức thế gian đến lộ trình tu tập xuất thế gian. Có thể nói, tuy mỗi người chúng ta chỉ có cha và mẹ, nhưng thực ra ta có đến 4 vị thầy: Một là những bậc sinh thành, hai là những người nuôi dưỡng ta khôn lớn, ba là những vị thầy dạy ta từ việc đời đến việc đạo, và bốn là tất cả những người đã từng tiếp xúc với ta, hơn một lần vô tình hay hữu ý đã dạy ta cách đối nhân xử thế. Làm người có đạo đức, chúng ta không thể quên ơn của bốn vị thầy ấy; và bằng mọi cách trong khả năng của mình, phải báo đền ân nghĩa của các Người, dù chỉ trong muôn một.


    --------------------------------------------------------------------------------

    Đường đời để mặc đi hay ở
    Thế gian là cuộc lãng du thôi...

    (sưu tầm)

  2. #2

    Mặc định

    Ngày xưa, có một chàng trai mang nhiều tâm sự u uất về đời, một sớm lên đường đi tìm Sự Thật.

    Anh nghe ở ngôi đền nọ có vị đạo sĩ chân tu luyện được nhiều phép nhiệm mầu, thông đạt nhiều lẽ tinh vi huyền diệu bèn quyết tìm đến cầu học. Ðường đi muôn nỗi khó khăn nhưng nhờ chí người sắt đá nên không quản ngại hiểm nghèo. Từ chân trời xa, một hôm, đền Thiêng lồ lộ hiện ra, uy nghi, rạng rỡ. Lòng người trai trẻ bừng lên bao nỗi hân hoan.

    Tìm đến biệt phòng đạo sĩ, anh quỳ mọp dưới chân người :

    - Thưa thầy, kẻ hèn này từng ngưỡng mộ uy danh của thầy, tin tưởng ở phép nhiệm mầu của đạo, nên từ xa xôi muôn dăm đến đây để cầu mong thầy chỉ cho con đường đi tìm chân lý.

    Ðạo sĩ bảo rằng :

    - Cửa đền không hẹp với ai, lòng đền rộng chứa mọi người. Con đường chân lý xuất phát từ nơi đền Thiêng. Ấy vì Sự Thật bắt đầu tìm thấy bằng sự tin yêu và lòng trân trọng. Từ đây cho đến chót đền, con đường chia làm ba bậc : Bậc nhất của sự Khổ Hạnh, bậc nhì của lòng Vô Tư, bậc ba của tình Nhân Ái. Ba bậc dạy rằng : Không chịu dày công khổ nhọc để biết rõ đời, không rứt bỏ được riêng tư để xét sự vật, không thiết tha vì thương người mà đòi Sự Thật thì không bao giờ tìm thấy Sự Thật. Sự Thật là của mọi người, nhưng phải được tìm đến bằng con đường ba bậc.

    Người trai khôn xiết vui mừng, vội hỏi :

    - Thưa thầy, vậy Chân Lý hiện ở trên chót đền ?

    Ðạo sĩ ôn tồn đáp lại :

    - Chính thế. Ta biết chắc rằng đi đến cuối cùng bậc ba, ở nơi chót vót đền Thiêng, sẽ gặp tượng thần Chân Lý. Tượng ấy thế nào, ta chưa biết được, vì ta mới đi khỏi đường Khổ Hạnh và vừa xong bậc Vô Tư. Khó nhất là bậc thứ hai vì gạt bỏ được tư ý là điều hết sức nhọc nhằn đối với mỗi người. Còn qua đọan đường cuối - đoạn đường Nhân Ái - sẽ chiêm ngưỡng được Chân Lý huy hoàng, nhưng đường Nhân ái khá gần mà cũng khá xa, bởi con người thường lầm lạc yêu mình với yêu kẻ khác, nên chỉ cách khoảng ba mươi bước nữa mà ta vẫn chưa thoát khỏi những nỗi lụy phiền.

    Ðạo sĩ lại tiếp :

    - Hiện nay trong đền có vô số người tìm học. Có kẻ xong bậc thứ nhất, có kẻ đang bước lên bậc thứ hai, có kẻ loay hoay khởi sự đầu, và biết bao kẻ thối lui, trở về, chối từ tìm hiểu, vì không còn đủ thiết tha để mà chịu đựng bao nhiêu thử thách đang đợi chờ mình. Cửa đền vẫn luôn rộng mở, con hãy tìm lối mà đi.

    Chàng trai bắt đầu bước lên con đường Khổ Hạnh để cảm thông những nổi khổ người đời. Với anh, từ đây cảnh sắc chung quanh đã có đổi thay. Tiếng khóc, lời reo, nước mắt, nụ cười cũng đượm vẻ gì khác lạ hơn xưa. Anh không tiếp xúc sự vật bằng các giác quan hời hợt mà bằng rung động từ trong não tủy, thấy được chiều rộng, chiều sâu và cả chiều cao của mỗi âm thanh, càng ngày như gần gũi hơn được với loài người.

    Nhưng vào mỗi sớm, nhìn lên đỉnh đền chót vót, anh thấy đường đi quá sức xa vời. Lòng anh không định nên đường ba bậc tuy ngắn mà dài mênh mông. Anh nhìn những bức tường ngăn cùng những bậc cấp cheo leo và muốn rút ngắn đoạn đường. Một hôm, anh bỗng nảy ra một ý ...

    Thừa một đêm trăng lạnh lẽo, anh đã dùng dây leo tường.

    Vốn quen luyện tập từ nhỏ nên anh không mất bao nhiêu công phu để vượt qua những tường dày lởm chởm, cheo leo. Lên cao, nhìn xuống, anh thấy mình làm được một kỳ công. Khi đến được chót vót đền thì trăng về khuya, rọi dài hình bóng anh trên vách đá như một con người to lớn dị thường. Anh tự thấy mình xa cách hẳn với loài người và cao hơn cả mọi vật. Anh tự nhủ rằng: " Ði tìm Sự Thật không phải chỉ có một đường ba bậc. Với óc thông minh, với lòng dũng cảm và trí quyết đoán, ta vẫn tìm được Chân Lý mau chóng hơn là mọi người ".

    Anh bước vào đền, nơi đặt tượng thần Chân Lý. Ði giữa đêm khuya, trên chốn thượng tầng im lặng, dọc theo các dãy hành lang hun hút gió lạnh, anh chỉ thầy bóng của mình lủi thủi bên cạnh, chỉ nghe chân mình vang trên sân đền gây những âm hưởng dị kỳ.

    Anh vào bên trong, cảm thấy như mỗi bước đi dội lại một sự tịch mịch nặng nề. Khi mảnh trăng khuya khuất hẳn ngoài đền, anh thấy rúng động, nhưng kiêu hãnh về kỳ công của mình khiến anh dẹp hết ý nghĩ lo âu. Anh lại tự nhủ : " Bây giờ chỉ còn Ta và Sự Thật ". Tượng thần Chân Lý chỉ ở sau cánh cửa kia. Và anh lại gần, thu hết can đảm để xô cửa vào ... Bỗng anh rú lên một tiếng thất thanh.

    Một hình tượng thật kỳ quái, to lớn lạ thường, đỏ tươi sắc máu trợn trừng cặp mắt nhìn anh, phóng tỏa muôn ngàn tia lửa. Chiếc miệng há hoác, như một huyệt sâu thăm thẳm xông mùi khí nặc nồng, với hai vành môi mấp máy chừng muốn nuốt lấy muôn ngàn sinh thể. Hơi thở từ trong lỗ mũi khìn khịt tuôn ra, vang rền, như là sấm chuyển rồi biến dần thành đủ loại âm thanh hỗn loạn như tiếng thét gào, những lời nguyền rủa, văng vẳng mơ hồ như đến từ trong quá khứ muôn xưa, vọng về tương lai nghìn thuở. Và khuôn mặt tượng biến hiện sắc màu chớp nhoáng ; như sự tang thương của những cảnh đời.

    Người trẻ tuổi khiếp đảm đến cùng độ, hai tay vội ôm lấy mặt, tưởng máu cạn chảy trong người, cố gắng chạy ra khỏi đền trên đôi chân muốn rời rụng, luống cuống húc đầu vào các cột đá, vấp trên bục cửa, ngã trên nền gạch, nhưng sự kinh hoàng quá độ đã khiến anh phải ngượng dậy tìm cách thoát thân .. Anh bám vào tường, tìm sợi dây leo, vội vàng tụt xuống. Nhưng vì vội vàng, anh rơi từ nơi vách cao xuống dưới chân đền.

    Mờ sáng hôm sau, ở dưới chân đền, người ta tìm thấy xác anh cứng lạnh, nét mặt còn co rúm lại trong vẻ hãi hùng.

    Ðạo sĩ trầm ngâm đứng nhìn kẻ đã vĩnh viễn giã từ cõi sống, rồi quay bảo những học trò : " Ðây là kẻ không muốn tìm Sự Thật bằng con đường chính. Y đã theo con đường tà, vì cho rằng con đường ấy mau hơn và chỉ có tài năng mới giúp cho y toại nguyện. Y đã quên rằng cái tâm mới là chính yếu trong mọi tìm kiếm trên thế gian này.

    Cái tâm đã chính, tài năng sẽ là chiến công, thành tích rỡ ràng. Cái tâm đã tà, tài năng chỉ là thủ đoạn, mưu mô hèn hạ. Kết quả tìm thấy là một sự thật gớm ghiếc làm y khủng khiếp đến phải hủy diệt đời mình. Các con hãy ghi nhớ lấy : Sự Thật tốt đẹp, Sự Thật an ủi và nâng cao được lòng người chỉ có thể đến bằng con đường ba bậc, là điều Khổ Hạnh, là sự Vô Tư, là Lòng Nhân Ái. Kẻ nào không chịu đi bằng ngả ấy mà muốn dùng những mưu mô, thủ đoạn, đàn áp, phỉnh lừa thì phải chịu sự hủy diệt thảm khốc. Ðó là những kẻ bá đạo lấy xương máu người lập nên ngai vàng, những lớp gian thương dùng óc xảo trá xây nên sự nghiệp, những bọn tham nhũng tìm đến giàu sang bằng lối cửa quyền và sự trấn lột, những hạng chỉ muốn đi con đường tắt làm bằng lừa lọc, ngụy trang, cốt sao thỏa mãn riêng mình mà không lường đến những sự trừng phạt của đời luôn đợi chờ mình ở những bước ngoặc ".

    Ðạo sĩ ngừng lời, đảo đôi mắt còn sáng rỡ nhìn chăm vào đám đệ tử vây quanh, rồi nghiêm nghị bảo :

    - Từ lâu ta đã nhắc nhở các con điều đó, bây giờ đây là chứng cớ hiển nhiên. Hãy đem chôn xác của y ở trước cửa đền, đồng thời tạc trên mộ y nét mặt kinh hoàng, khủng khiếp của kẻ tìm gặp Sự Thật bằng lối tà tâm để làm gương cho bao nhiêu kẻ khác.

  3. #3

    Mặc định

    @6789000,
    Đọc bài của sư huynh thì những người muốn một bước vượt vũ môn phải nhìn lại bản thân và tăng thêm sự cẩn trọng kẻo thành trái cây non dzú ép cho chín.

    Nhưng cho KTG hỏi, vậy tại sao sư huynh không là 0123456 mà lại là 6789000 !

    Kính
    KTG
    Last edited by khachtrangian; 09-07-2008 at 03:55 PM.

  4. #4

    Mặc định



    Đệ nghĩ chắc giống như huynh không muốn làm "chủ trần gian" mà chỉ thích làm "Khách trần gian".


  5. #5

    Mặc định

    lẽ đời ,mỗi cái tên đều được người đặt gửi gắm ý nghĩa của mình trong đó
    ai có duyên với mình thì hiểu ,hiểu rồi thì cười ,cười vì cái hiểu
    ________
    tôi chẳng dám làm chủ trần gian ,cũng chẳng phải là khách trần gian
    nhà là nhà chung ,đâu có ai là chủ ai là khách đâu
    điều quan trọng là có vào được nhà hay không thôi
    vài dòng tâm sự cỏn con..


    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.
    Last edited by 67890000; 09-07-2008 at 08:45 PM.

  6. #6

    Mặc định

    6789000
    tất cả mọi thứ dù có tích lũy cho nhiều rốt cục cũng về số 0

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    6789000
    tất cả mọi thứ dù có tích lũy cho nhiều rốt cục cũng về số 0
    :votay: trên cả sự tuyệt vời

  8. #8

    Mặc định

    6789000
    tất cả mọi thứ dù có tích lũy cho nhiều rốt cục cũng về số 0
    Có lẽ là Ngộ đời (có mặt trên đời) năm 67, Ngộ đạo năm 89, sau đó Ngộ không (tất cả chỉ là Vô vi):icon_rolleyes::p

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi khachtrangian Xem Bài Gởi
    @6789000,
    ...

    Nhưng cho KTG hỏi, vậy tại sao sư huynh không là 0123456 mà lại là 6789000 !

    Kính
    KTG
    Cho KC sì pam một tí ti nhé :D

    Trong dãy số từ 01234 đến 5 ...biểu trưng là cuộc đời con người bắt đầu sinh ra cho đến nửa đời người :04: và từ số 6789 đến 0 là nửa còn lại và lại trở về với tự nhiên...000 là tầng trời mơ ước của Huynh ấy đó mà :"...sắc chẳng khác không...không chẳng khác sắc..."

    Hì...nói một tý cho nó xả u buồn...mong cả nhà hoan hỉ nhé ? :p

    Có gì hok phải mong pác 67890000 hỉ xả nhé ?
    心燈

  10. #10

    Mặc định

    người học phật chân chính nguyện không phát nguyện sinh về cõi trời, cảnh sắc chư thiên tuy thù thắng vi diệu, hưởng đủ mọi lạc thú nhưng đó chỉ là sự thọ hưởng theo phước báo, do công đức tu tập mà có. nên do đó cảnh trời sắc cứu cánh hay phi tưởng, phi phi tưởng vẫn còn chưa thoát khỏi tam giới. khi phước báu đã cạn vẫn cọn bị đọa vào chốn ác trược. do đó phật nói nêu không phát nguyện vãng sinh thì công đức tu hành đờinày sẽ là cái họa đời sau.
    ở đây xin lấy ví dụ để dễ hiểu. giống như công tử bạc liêu vậy, được thừa hưởng một gia tài đồ sộ giàu có nhất vùng lúc bấy giờ, ruộng đất phì nhiêu rông lớn không ai sánh kịp. ỷ mình giàu có, không lo làm ăn, suốt ngày đàn đúm ăn chơi, sài tiền như nước (nổi tiếng bởi câu chuyện "lấy tiền nấu trứng") rốt cục khuynh gia bại sản, chết trong nghèo đói. người tu học không khéo dụng tâm, không cầu xuất li ta bà thoát hẳng luân hồi lục đạo mà nguyện sinh lên cõi trời thì coi chừng như "công tử bạc liêu" ấy nha.
    "không cầu phước báu trời người
    thanh văn duyên giác hay nơi quyền thừa
    chỉ nương tối thượng thừa tâm nguyện
    mà phát tâm vô thượng trong lành"

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi 67890000 Xem Bài Gởi
    lẽ đời ,mỗi cái tên đều được người đặt gửi gắm ý nghĩa của mình trong đó
    ai có duyên với mình thì hiểu ,hiểu rồi thì cười ,cười vì cái hiểu
    ________
    tôi chẳng dám làm chủ trần gian ,cũng chẳng phải là khách trần gian
    nhà là nhà chung ,đâu có ai là chủ ai là khách đâu
    điều quan trọng là có vào được nhà hay không thôi
    vài dòng tâm sự cỏn con..
    Cái tên của bác 67890000 cả Nsb và Kiencang đều cùng có duyên hiểu điều bác muốn gửi gắm vào đó rồi. Và hiểu rồi thì cười , cười vì cái hiểu...
    Nhưng chữ ký hôm nọ của bác : " Đêm khuya không dám dang chân ngủ, vì sợ sơn hà xã tắc xiêu " thì chúng em bàn mãi mà không có hiểu. Phải không Kiến Càng?
    Vào đây được bác 67890000 cho nghe cải lương hay thật. Lâu quá rồi không nghe cải lương...
    Có gì hok phải mong bác 67890000 hỉ xả nhé.

  12. #12

    Mặc định

    không phát nguyện vãng sinh thì công đức tu hành đờinày sẽ là cái họa đời sau.
    daibatnha noi rat chi ly.

  13. #13

    Mặc định

    do đó phật nói nêu không phát nguyện vãng sinh thì công đức tu hành đời này sẽ là cái họa đời sau.
    Câu này không có bất cứ trong Kinh nào cả.

    Chỉ có trong Kinh Hoa Nghiêm nói:

    Tu Hành Các Thiện Nghiệp
    Không Phát Bồ Đề Tâm
    Đều Là Ma Nghiệp.
    Nói Pháp phải cẩn thận Khẩu Nghiệp nói trái Phật Pháp hại mình hại người.
    Lobsang Nyma

    Om Mani Padme Hum

  14. #14

    Mặc định

    DBN thay dieu minh noi chả trái với phật pháp mà là ứng dụng phật pháp vào đời thường mà thôi đọc nhiều kinh điểm mà không tự đúc kết cho mình điều gì thì bộ óc trở thành cái máy photocopy.

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    DBN thay dieu minh noi chả trái với phật pháp mà là ứng dụng phật pháp vào đời thường mà thôi đọc nhiều kinh điểm mà không tự đúc kết cho mình điều gì thì bộ óc trở thành cái máy photocopy.
    Còn là Phàm Phu không nương Kinh Luận Phật dạy mà tự nói càng bậy làm lầm lạc người sơ cơ thì như vậy là Hại Mình Hại Người.

    Chư Tổ nói ra còn phải nương Kinh Phật nói chi là một Phàm Phu.

    do đó phật nói nêu không phát nguyện vãng sinh thì công đức tu hành đời này sẽ là cái họa đời sau.
    Tự đặt điều nói trái Kinh Phật dạy rồi nói là Đức Phật nói đây là Tà Kiến.
    Last edited by kimcang; 11-07-2008 at 05:26 PM.
    Lobsang Nyma

    Om Mani Padme Hum

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •