Cùng với chữ Hán, nhiều danh sĩ nước ta còn viết câu đối Tết bằng chữ Nôm. Ðầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn của cụ thì 47 câu đối Nôm. Ðây là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vân phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến:

Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà"

Hiểu rõ vần xoay của tạo hóa, cụ ước ao:

"Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái
Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân"

Câu đối mừng

Câu đối đấu trí thử tài thường phát triển rộng rãi ở khắp mọi nơi mọi lúc. Ngày xưa những khi nhàn tả, những buổi đình đám hội hè, những lúc họp mặt bên mâm rượu, bàn trà các cụ thường đọc cho nhau nghe những câu đối hay, hoặc ra những vế xuất đối để cùng nhau nghiền ngẫm đối lại.

Lê Văn Hưu khi nhỏ đi học ở Cổ Bôn (Đông Sơn) có ghé vào lò rèn để rèn dùi đóng sách vở. Bác phó rèn biết đất Bôn vốn là tay hay chữ muốn thử tài cậu bé từng nổi tiếng "Thần đồng" nên đã ra vế đối:

"Than trong lò, lửa trong lò, sắt trong lò thổi phì phò rèn nêm dùi sắc"

Lê Văn Hưu đối lại:

"Sách trong túi, mực trong túi, bút trong túi viết lúi húi thi đỗ khôi nguyên"

Cụ cử Vương Thúc Quý là thầy dạy chữ Nho của Nguyễn Sinh Cung. Năm 1902 cậu Cung 12 tuổi, trong một một buổi học, lúc cậu Cung rót dầu vào đèn, do sơ ý để dầu đổ ra đế đèn, nhân đó Thầy Quý đã ra cho cả lớp một vế đối

"Thắp đèn lên dầu vương ra đế"
“Vương” vừa có nghĩa chảy dính vào vừa có nghĩa là vua.

“Đế” vừa có nghĩa là đế đèn vừa là hoàng đế. Trong lúc cả lớp còn suy nghĩ thì cậu Cung đã xin được đối lại:

"Cưỡi ngựa phi thẳng tấn lên đường"

Câu đối sách



Là câu đối lấy chữ nghĩa đã có sẵn trong sách hoặc lấy những điển cố, điển tích để đưa vào câu đối. Khi vế xuất đối lấy điển tích hoặc lấy chữ trong sách, trong truyện thì vế đối lại cũng phải lấy điển tích
hoặc chữ trong sách trong truyện có thể lấy trong cùng một quyển sách và cũng có thể lấy ở hai quyển, hai truyện khác nhau.


“Thúy Kiều đi qua cầu thấy bóng chàng Kim lòng đã Trọng

Trọng Thủy nhìn vào nước thoáng hình nàng Mỵ mắt sa Châu”


Hà Tôn Quyền đọc vế đối, lấy nguyên một câu trong sách “Trung Dung”:


“Quân tử ố kỳ văn chi trứ”


Có nghĩa là người quân tử rất ghét cái lòe loẹt bề ngoài, nhưng nghĩa bón lại hàm ý: Người quân tử rất ghét cái giọng văn của ông Trứ.

Nghe xong, Nguyễn Công Trứ cũng lấy luôn một câu trong sách “Trung Dung” để đối lại:

“Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền”

Có nghĩa là bậc thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dùng đến quyền lực.
Nhưng nghĩa bóng lại hàm ý là bậc thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dùng đến ông Quyền.

Câu đối thờ các vị nhân thần, thiên thần


Nhân thần là những vị có công lớn đối với dân, với nước khi chết được phong thần và các vị Thiên thần giáng thế:


Đức đại yên dân thiên cổ thịnh;
Công cao hộ quốc vạn niên trường

(Đức lớn giúp dân lưu muôn thuở;
Công cao giữ nước rạng ngàn thu)

Câu đối ở đền thờ Trần Hưng Đạo:

Gia hiếu tử, quốc trung thần, công liệt chiến đan thanh, ninh chỉ lưỡng hồi an xã tắc;
Văn kinh thiên, vũ bát loạn, anh linh tham khí hóa, thượng lưu chung cổ điện sơn hà”

(Làm con hiếu, làm tôi chung, công lớn chói sử xanh không chỉ hai lần yên đất nước;
Nào văn hay, nào võ giỏi, anh linh trùm cõi tục vẫn còn muôn thuở giúp non sông)

Câu đối ở đên thờ Lê Lai (Ngọc Lặc Thanh Hóa):

Lê triều hiển tích trung lương tướng;
Nam quốc phương danh thượng đẳng thần

Câu đối ở đền thờ hai cha con Đặng Dung, Đặng Tất (Cả hai cha con đều là dũng tướng chống giặc Minh thời hậu Lê)

Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ;
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng

Câu đối ở đền thờ Nguyễn Công Trứ (Làng Đông Quách huyện Tiền Hải Thái Bình):

Đắc địa sinh từ Đông ấp nhất bách niên kỷ niệm;
Kình thiên trụ thạch Hồng Sơn thiên vạn cổ tề cao

(Đất tốt dựng đền thờ, làng Đông ấp trăm năm lưu kỷ niệm;
Trời cao xây cột đá, núi Hồng Sơn muôn thuở sánh công lao)

Câu đối Đức Ông tại chùa Thiên Phức (Còn gọi là chùa Bộc) ở Khương Thượng Đống Đa:

Động lý vô trần đại địa sơn hà lưu đống vũ;
Quang trung hóa phật tiểu thiên thế giới chuyển phong vân

(Bụi trần trong động không còn, non sông đất nước lưu rường cột;
Ánh sáng hóa thành phật cõi tiểu thiên thế giới chuyển gió mây)

Có tài liệu nói vua Quang Trung được thờ ở chùa Bộc, tượng Đức Ông chính là tượng Quang Trung, nhưng để tránh trả thù của nhà Nguyễn nên tượng và câu đối không dám đề rõ.

Câu đối ở Quốc Tử Giám:

Đông Tây Nam Bắc do tự đạo;
Công, Khanh, Phu, Sĩ xuất thử đồ

Câu đối ở đền thờ Thánh Gióng:

Phá tặc đãm hiềm tam tuế vãn
Đằng vân do hận cửu thiên đê

(Lên ba tuổi phá được giặc còn cho là muộn;
Vượt chín từng mây còn hận trời vẫn chưa cao)

Câu đối ở đền Hùng:

Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Thao non nước vẫn quay về đẩt tổ;
Văn minh đang buổi mới, con Hồng cháu Lạc giống nòi còn nhớ đến mồ ông

Hoặc:

Có tôn, có tổ, có tổ, có tôn tôn tổ tổ cũ;
Còn nước, còn non, còn nước, nước non non nước nước non nhà

Hoặc:

Thập bát đại thừa truyền Lô bích, Tản thanh đồ bản cựu;
Nhị thiên niên linh chức Âu phong, á vũ, miết đường cao

Câu đối thờ gia tiên


Thờ gia tiên trong các gia đình hoặc trong nhà thờ họ thường có những câu như:
Nhật nguyệt quang chiếu thập phương;
Tổ tông lưu thùy vạn thế

(Vầng nhật nguyệt chiếu mười phương rạng rỡ;
Đức tổ tiên lưu muôn thuở sáng ngời)

Mộc xuất thiên chi do hữu bản;
Thủy lưu vạn phái tổ tòng nguyên

(Cây sinh ngàn nhánh do từ gốc;
Nước chảy muôn nơi bởi có nguồn)

Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh;
Phúc ấm nhi tôn vạn đại vinh

(Tổ tiên tích đức nghìn năm thịnh;
Con cháu ơn nhờ vạn đại vinh)

Bản căn sắc thái ư hoa diệp;
Tổ khảo tinh thần tại tử tôn

(Sắc thái cội cành thế hiện ở hoa lá;
Tinh thần tiên tổ lưu lại trong cháu trong con)

Cúc dục âm thâm Đông hải đại;
Sinh thành nghĩa trong Thái ơn cao

(Ơn nuôi dưỡng sâu tựa biển Đông;
Nghĩa sinh thành cao như non Thái)

Câu đối tức cảnh cảm hứng


Câu đối của Cao Bá Quát:

Nhà trống ba gian một thầy một cô, một chó cái;
Học trò dăm đứa nửa người nửa ngợm nửa đười ươi

Tương truyền khi ông bị cùm gông trong ngục, ông còn có câu ngẫu hứng:

Một chiếc cùm lim chân có đế;
Ba vòng xích sắt bước thì vương

Vừa vịnh cảnh bị gông cùm vừa ngụ ý coi khinh bậc đế vương, coi đế, coi vương ở dưới chân mình.

Hoặc:

Tiền bạc của giời chung trống trải thế mới vòng khuyên sáo;
Công danh đường đất rộng kèn cựa chi cho thẹn chí tang bồng

Câu đối của một quan văn vịnh bạn là một ông quan võ. Ông quan võ chột một mắt nhưng vốn nổi tiếng dũng cảm trong các trận chiến đấu chống Pháp:

Cung kiếm ra tay thiên hạ đổ dồn hai mắt lại;
Triều đình cử mục, anh hùng chỉ có một ngươi thôi

(Ý: Tài cung kiếm đã ra tay chiến đấu thì cả thiên hạ phải trố mắt ra. Nhìn trong triều đình chỉ có mình nhà người là bậc anh hùng. Nhưng nghĩa bóng còn có ý cả triều đình chỉ có mình ông bị chột mắt, chỉ còn có một con ngươi).

Một ông bạn khác còn tặng ông quan chột hai câu thơ:

Bình tây sát tả thiếu chi người;
Ngó lại anh hùng chỉ một ngươi

Một anh nhà nho sinh phải đi đào kênh Hạc (Đông sơn Thanh Hóa). Hôm đó quan huyện cũng ra công trường thị sát. Quan nằm trên chiếc cáng, khi vén diềm màn nhìn thấy một thanh niên đang so vai rụt cổ gánh lèo tèo mấy cục đất. Quan cho gọi anh thanh niên lại mắng:

- Mày nhác nhưởi, không chịu làm việc, gồng gánh như thế thì đáng phải ăn đòn.

Anh thanh niên thưa:

- Bẩm quan lớn con là học trò, chưa quen gồng gánh xin quan lớn xá cho.

Quan là tay hay chữ nên khi nghe đên hai tiếng học trò, quan liền bảo:

- Nếu là học trò thì thử đối lại câu này. Đối được thì ta sẽ tha cho. Rồi quan đọc:

Gia công đào kênh Hạc, giang vai gánh đất cổ cò

Vế ra lấy việc đào kênh Hạc mà làm đề để vịnh cảnh anh học trò giang vai rụt cổ gánh đất và dụng ý của quan là nhân có tên Hạc là tên loài chim nên đã lấy tên một số loài chim như gia, công, hạc, giang cò để vận dụng vào câu đối. Anh nho sinh đối lại:

Cáng phượng mắc màn loan sáo rũ khách nằm kêu két két

Vế đối lại cũng vận dụng đủ năm loại chim, Phượng, loan, sáo khách két để đối lại năm loại của vế ra, vế đối vịnh cảnh quan thảnh thơi nằm trên cáng ngược với cảnh người đang lao động vất vả. Biết gặp phải tay không vừa nên quan vội biến.

Năm 1786, Lê Chiêu Thống nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh đánh dẹp Trịnh Bồng. Bồng thua chạy. Được dịp trả thù nên Lê Chiêu Thống cho đốt phủ chúa. Còn Nguyễn Hữu Chỉnh thì cho thu chuông đồng ở các đình chùa để đúc tiền. Trước những sự việc như vậy nhiều người tỏ ý bất bình, có người đã làm câu đối tức cảnh dán ở cửa Đại Hưng:

Thiên hạ thất tự chung, chung thất nhi đỉnh an tại
Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần tức điện diệc không

(Thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất hạc còn đâu nữa, Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu điện cũng trơ thôi)

Ý: Chuông đã mất thì vạc là thứ tượng trưng cho vương quyền cũng không còn. Vua Lê dựa vào chúa Trịnh và chúa Trịnh cũng dựa vào vua Lê để cùng tồn tại nhưng nay vua đốt phủ chúa thì cung điện của vua cũng trơ.

Thuở thiếu thời Lê Tư Thành (sau là vua Lê Thánh Tông) một hôm đi dạo mát bên bờ sông đào vùng Tống Sơn (Thanh Hóa) thấy một cô gái xinh đẹo đang vo gạo ở bến sông. Tức cảnh sinh tình nên Hoàng tử đọc một vế đối nhưng còn bỏ lửng ở câu cuối:

Gạo trắng nước trong mến cảnh lại càng thêm mến cả…

Không ngờ cô gái dừng tay nhìn Hoàng tử rồi đáp lại cũng bằng một vế đối bỏ lửng:

Cát lầm gió bụi lo đời đâu đấy hãy lo cho…

Hoàng tử sửng sốt về tài ứng đối của cô gái xinh đẹp, sau đó mới biết tên cô gái là Ngọc Hằng, con của một vị quốc công, mẹ con bị thất thế nên về vùng này. Về sau khi được lên ngôi, Lê Thánh Tông đã lấy Ngọc Hằng làm vợ.