Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là kết hợp cả ba mối Đạo chánh đã có từ ngàn xưa là : NHO, THÍCH, ĐẠO, chuyển cả ba Đạo ấy hiệp lại làm một. Nên chi, chúng ta tu theo Tam Kỳ Phổ Độ thì phải noi theo tông chỉ của Tam Giáo mà tập rèn Tâm, Tánh, nắm trọn Tam Cang, Ngũ Thường, vẹn giữ Tam Qui, Ngũ Giái, Tứ Đại Điều Qui và cần luyện Tam Bửu Ngũ Hành.

Người mà gồm được hết cả các điều kiện trên là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy

Nhưng, trải qua cuộc sống vất vã lăn lộn với thế tình, nếm đủ mùi vị của đời, chúng ta mới cảm thấy : Trần ai thật là khổ lụy, có chi ham ! Đời người lại quá ngắn ngủi, tuổi xanh không mấy chốc, kế đến đã bạc đầu. Kiếp sống chẳng bao ngày, cái chết lại kề cận. Tuổi 70 của một người, kể ra thật rất hiếm có ! (Nhân sinh thất thập cổ lai hi !)

Tấm thân tứ đại hiệp thành mang nặng cái khổ đau của sanh, lão, bệnh, tử mà Thượng Đế đã an bày, dầu cho các bậc Đế Vương, những nhà Hiền Triết từ trước đến nay có mấy ai thoát khỏi bến đò tử sanh của Tạo Hóa !

Phải chăng cảm thông cho cuộc đời giả tạm của con người, nên Ơn Trên ban cho câu liển dưới đây và dạy niêm yết trên Thuyền Bác Nhã là chiếc xe tang của Hội Thánh dùng để đưa thi hài người quá cố đến nơi an nghĩ cuối cùng, để giác ngộ khách trần, như sau : "Vạn sự viết vô, nhục thể Thổ sanh huờn tại Thổ. Thiên nhiên tự hửu, linh hồn Thiên tứ, phản hồi Thiên”; có nghĩa là : Tất cả đều là hư vô. Thể xác do đất sanh, phải trở về vớùi đất, có nghĩa cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Thiên nhiên tự có, Linh hồn do Trời ban, sẽ trở về Trời là lẽ hằng.

Câu liển trên rất trùng hợp với ý nghĩa hai chữ : “Sắc, Không” của nhà Phật; cũng như định luật : “Thành, Trụ, Hoại, Không” của Tiên gia, và luật Tiến hóa của Vạn Linh, theo triết học Cao Đài .

Thật vậy, ai đã từng chứng kiến cảnh người thân của mình đang hấp hối. Mọi vẻ linh hoạt đều không còn. Mắt không sáng, miệng thôi không nói, không cười, tay chân không cử động. Thôi thế là hết. Từ đây đã đành vĩnh biệt ... ! Còn đâu người thân yêu mà ta từng quen biết, nắêm tay, quàng vai nhau, chia xẻ buồn vui một thời. Tiếng cười, giọng nói của người thân còn bên tai mà bây giờ chỉ thấy thi hài nằm kia trơ trọi chết cứng đơ một mình !

Ôi ! Cảnh sanh ly tử biệt.., sao mà buồn vậy ! Người đời mục kiến cảnh nầy làm sao tránh khỏi được nỗi đau thảm chạnh lòng !

Nghỉ đến cái chết, đôi khi ta tự hỏi : bao giờ sẽ đến lượt mình ?

Vất vả cả một đời, biết bao lao tâm khổ trí, trăm mưu nghìn kế mới tạo dựng một tài sản, một cơ ngơi, thế mà Thần Chết lẳng lặng, bất ngờ đến. Ta phải bỏ lại tất cả của cải và những người thân, ra đi với hai bàn tay trắng ! Đúng như Thánh Nhơn đã dạy : “Hởi ôi ! Còn 3 tấc hơi Trời dành sẳn, thì tất cả đều dùng được. Rủi một phút bất ngờ, muôn sự kể là không “. ( Ô hô! Tam thốn Thiên ban dụng. Nhứt đáng vô thường vạn sự hưu).

Đã biết rằng : mọi người ai cũng phải chết, bởi lẽ hữu sanh, hữu hoại. Nhưng Chết có phải là hết không ?

Xin thưa : Chết không phải là hết. Chết rồi sẽ tái kiếp trở lại theo luật Luân Hồi, để linh hồn tiến hóa theo vòng xoay chuyển của Đấng Tạo Đoan. Mỗi đơn vị linh hồn phải đi hoài đi mãi đến khi nào đoạt đến Phật vị nhập vào Đại Linh Quang của Thượng Đế mới thôi. Con đường đó người Đệ Tử Cao Đài thường gọi là : “Dục tấn trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống”.

Hỏi : Có thế giới nào khác bên kia cửa tử không ?

Đáp : Bên kia cửa tử còn có hai thế giới khác. Thế giới thứ nhứt là nơi Thượng Đế sẳn dành để ban thưởng cho những linh hồn an hưởng cảnh an nhàn, nếu lúc sanh tiền biết tu hành, lập công bồi đức. Nơi ấy là cõi Cực Lạc, Niết Bàn hay cõi Thiên Đàng.

Thế giới thứ hai gọi là Phong Đô, Địa Ngục hay Âm Quang, là nơi Thần Linh Học gọi là nơi Trường Đình của chư hồn giải thể hay nhập thể mà Đại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là : “Tịnh Tâm Xá”; nghĩa là nơi của chư hồn bị sa đọa đến đó đặng xét mình coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội, để tự hối hay đặng giáo hóa, ăn năng sám hối tội tình.

Chúng ta có giải đáp được 2 nang đề nầy, thì sẽ tìm được con đường giải thoát cho Thể xác và tạo được phương cứu cánh cho Tâm hồn.

Sự Sống và Chết đều liên quan mật thiết đến con người. Chúng ta đã kinh nghiệm nhiều về lẽ Sống, thì nay con người cần tìm tòi, học hỏi thêm về cái Chết để hoạch định cho mình một chương trình thực tiển là : Tìm phương cách nào khi còn sanh tiền chúng ta có một cuộc “Sống hạnh phúc, yêu đời, và sau khi Chết được hưởng phước an nhàn ?”

Thầm nghỉ rằng : chúng ta ra đời với tư cách một con người là đã được Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu ban cho chúng ta một kiếp Sống vẹn toàn. Có đầy đủ thể xác lẫn tâm hồn. Dù đã phải chịu nhiều phiền toái, khổ đau, chúng ta vẫn may mắn có trí thông minh, có sự tỉnh thức của Tâm linh không khác gì ai. Chúng ta lại được nghe những lời giảng huấn thâm sâu của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, hơn nữa còn có khả năng hiểu được giáo Pháp của các Đấng Giáo Chủ, làm ánh sáng rọi đường cho chúng ta nương theo đó từng bước thực hành, để tầm đường về ngôi vị cũ .

Chúng ta đều hiểu rõ : thâm tâm tất cả mọi người, không ai muốn bị đau khổ, người nào cũng muốn Sống Hạnh Phúc. Nhưng, sự khổ đau, họa phước là kết quả của những tư tưởng sai lầm và hành động bất thiện. Trong khi hạnh phúc là kết quả của những hành nghiệp tốt đẹp. Kinh Sám Hối có câu: “Điều họa phước không hay tìm tới. Tự mình dời nên mới theo mình.”

Đã đành như thế, nhưng muốn bỏ điều xấu làm điều tốt, chúng ta không thể chỉ thay đổi cách nói năng hoặc hành động lơ là chiếu lệ, mà chúng ta chỉ có thể làm được chuyện nầy bằng cách chuyển hóa cái Tâm của mình thành Thiện Tâm.

Trong đời sống, chúng ta nên hành động một cách thông minh, có mục đích và phải biết coi các mục tiêu đó có thể thực hiện được chăng. Trong truyền thống tu học, mục tiêu chúng ta là đạt tới Cực Lạc, Niết Bàn, để được hưởng phước thanh nhàn.

Loài người chúng ta may mắn được Đức Chí Tôn ban cho có khả năng đạt tới các mục tiêu này, như lời Đức Phật dạy : “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta là Phật ở quá khứ. Chúng Sanh là Phật ở tương lai”. Quả vị Giác Ngộ chúng ta tìm kiếm chính là sự tự do, nhờ vượt thoát được những vọng tưởng thiêu đốt của Tâm tư.

Đức Ngài còn dạy : “Tâm là nhân duyên chính, khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính Tâm lại là cái duyên lớn nhất, giúp ta thoát vòng sinh tử”.

Sự giải thoát này thực hiện được khi ta kiểm soát những tư tưởng tích cực hướng thiện. Điều cần biết là công việc chuyển đổi nầy đòi hỏi sự kiên trì của nhiều năm trường, gian khổ hành đạo. Chúng ta đừng nên mong có kết quả tức thời. Hãy nghĩ tưởng tới các bậc chân tu trong quá khứ. Quý Ngài đã chịu rất nhiều gian khổ trong việc thực chứng tu tập. Cuộc đời tu hành của Đức Phật Thích Ca, của Chúa Jésus, của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, của các Triết Nhân trước đây, là tấm gương toàn thiện nhất cho chúng ta.

Người đời ai cũng ưa sống hạnh phúc, vui tươi, không ai muốn bị đau khổ. Phải biết rằng : khổ đau không phải lúc nào cũng do ngoại cảnh đưa tới cho ta. Không phải đợi đến lúc đói kém hoặc bị hạn hán mới khổ. Vì trong hai trường hợp trên, chúng ta có thể tự bảo vệ, chẳng hạn bằng cách tích trữ lương thực. Nhưng những nỗi khổ như Sanh, Già, Bệnh, Chết, là những cái khổ liên hệ tới bản chất sâu xa của dòng đời, thì chúng ta không thể giải quyết bằng những điều kiện ngoại biên được.

Ngoài ra, chúng ta còn có sẳn trong mình một cái Tâm không thuần hòa. Nó có thể tiếp nhận đủ mọi vấn đề rắc rối. Nó chứa đựng nhiều tư tưởng bất thiện, tiêu cực như : Nghi Ngờ, Tham, Sân, Si, Hận. Khi Tâm ta còn bị những tư tưởng tiêu cực này bủa vây, thì dù có quần áo lụa là để mặc, thực phẩm tuyệt hảo để ăn, sự êm ấm của vợ con gia đình, nhưng chúng cũng không giúp ta giải quyết được vấn đề.

Ngày xưa, Đức Phật Thích Ca đã để tâm quán sát những chuyện đó, và quán tưởng về bản chất của chính cuộc đời Ngài. Thấy mọi người đều khổ, Ngài cũng biết rằng chúng ta sở dĩ khổ chỉ vì cái Tâm vô kỷ luật. Ngài thấy rằng Tâm ta chạy như thú hoang đến nỗi nhiều đêm ta mất ngũ. Đối diện với cái Tâm chất chứa những đau khổ và khó khăn của con người, Ngài dùng trí tuệ để tìm xem phải chăng có một phương pháp nào giúp cho người ta thoát được những khổ đau đó ? Ngài đã tìm được và đưa ra triết thuyết Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo dìu dắt người đời tìm cơ giải thoát.

Học Đạo nghiêm túc, đàng hoàng, ta sẽ có Lòng Tin và có Trí Tuệ. Ta nên cố gắng học cho hiểu và hành trì những lời dạy, ta sẽ phát triển được Trí Tuệ và lòng Từ Bi. Dần dà, ta sẽ giữ được kỷ luật cho Tâm mình. Chúng ta không tin rằng mọi sự vật được hình thành hay chủ động bởi những yếu tố bên ngoài. Chúng ta cũng không tin sự vật có những nhân duyên bất biến. Chúng ta cho là Hạnh Phúc hay Đau Khổ là do chính mình tạo ra. Tính chất của các hành nghiệp chúng ta làm ra tùy thuộc tình trạng của Tâm thức mình, tùy Tâm có kỷ luật hay không mà thôi.

Khó khăn và khổ đau tới từ cái Tâm vô kỷ luật. Vậy nên, hạnh phúc thật sự ở ngay trong tay ta. Chúng ta tự mình gánh lấy trách nhiệm, chúng ta không thể mong đợi người khác mang tới cho ta Hạnh Phúc. Muốn được Hạnh Phúc, ta cần nhận biết những nhân duyên tạo ra nó, rồi phát triển những cái duyên này. Trong khi đó, ta nhận diện những nguyên nhân gây khổ đau, rồi loại bỏ chúng đi.

Nếu ta biết nên tập những gì, nên bỏ những gì, thì ta tự nhiên không còn bị phiền não, nhiên hậu sẽ hạnh hưởng cuộc Sống Hạnh Phúc sung sướng và đến lúc Chết được hưởng phước An Nhàn.

Kết luận : Căn nguyên của đau khổ là Vô Minh. Vô Minh có nghĩa là quan niệm sai lầm về tự ngã. Tất cả những khổ đau vô lượng chúng ta gặp phải đều do quan niệm sai lầm của cái Tâm Vô Minh mà ra. Vậy nên, khi nói rằng : Phật vì lòng Từ Bi mà loại trừ mọi tà niệm, có nghĩa là Phật do lòng Từ Bi mà làm lợi cho muôn loài.

Vì muốn vậy, Ngài đã giảng dạy nhiều giáo pháp có trình độ khác nhau, để mọi người tùy theo căn cơ mà tu học, giải thoát được sự Vô Minh và những tư tưởng Bất Thiện.

Ai học hiểu được chánh kiến và chuyên cần thực tập thì sẽ thoát được khổ đau phiền lụy, vui sống Hạnh phúc, an bần lạc đạo, tiêu trừ nghiệc chướng tiền khiên.

Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ, tại Báo Ân Từ ngày 15-8-Đinh Hợi (dl 29-9-47) do Đức Cao Thượng Sanh & Bảo Văn Pháp Quân Phò Loan, ban cho bài Thánh Thi về đề tài chữ TÂM dưới đây, để chúng ta nghiên cứu tu học :

Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,


Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm.


Tâm thành ắt đạt đường tu vững,


Tâm chánh mới mong mối Đạo thành.


Tâm ái nhân sanh an bốn biển,


Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.


Đường tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,


Có buổi hoài công bước Đạo tầm.

(TNHT. Q.2 Trg 259).