Nam Hoa Tào Khê – Bửu Lâm Đạo Tràng, tọa lạc phía nam của thành phố Thiều Quang khoảng 20 cây số. Nơi đây lưng dựa núi mặt nhìn nước, phong cảnh kỳ tú. Chùa Nam Hoa là một đạo tràng Phật giáo nổi tiếng của Phật giáo Trung Quốc, cũng là nơi phát nguyên của thiền phái Nam Tông với sự hoằng dương của Lục tổ Huệ Năng. Chùa được xây dựng vào niên hiện Thiên Giám nguyên niên đời vua Lương Vũ Đế, Bắc triều (502) đến nay đã có gần 1500 năm lịch sử, là một đơn vị văn vật trọng điểm của toàn quốc. Diện tích kiến trúc của chùa Nam Hoa khoảng 12.000 mét vuông. Các kiến trúc hiện nay trừ tháp Linh Chiếu và điện Lục tổ ra thì đều do ngài Hư Vân Hòa thượng hóa duyên trùng tu năm 1934. Từ đó diện mạo của chùa bắt đầu thay đỗi. Các kiến trúc chính của chùa gồm có: Ngũ hương đình, Thiên vương điện, Đại hùng Bảo điện, Tàng kinh các, Tháp Linh chiếu, Lục tổ điện, các các điện đường được sắp xế chủ thứ phân minh, kết cấu nghiêm mật. Ngũ hương đình có hình bát giác, dựng trên cầu phóng sinh, qua cầu chúng ta sẽ thấy sơn môn thứ hai treo tấm biển lớn đề bốn chữ: “Bảo Lâm Đạo Tràng”. Hai bên cổng có hai câu đối rằng: “Đông áo đệ nhất bảo sát, Thiền tông bất nhị pháp môn”.

Thiên vương bảo điện được xây vào đời Minh năm Thành Hóa 14 (1474), trước là La Hán điện trùng tu vào đời Thanh, giữa điện thờ tượng Phật Di Lặc, đâu lưng là Hộ pháp Vi Đà, hai bên hông điện là Tứ đại thiên vương. Phía sau Thiên vương điện là hai lầu chuông và lầu trống xây vào đời Nguyên Đại Đức năm thứ 5 (1310) và gần đây được trừng tu vào năm 1933, bên trong có đại hồng chung đúc vào đời Tống. Đại hùng bảo điện còn gọi là Tam Bảo điện xây dựng vào triều Nguyên, năm Đại Đức thứ 10 (1306), đã qua nhiều lần trùng tu và lần cuối là năm 1934. Trong điiện có tôn thờ Tam Bảo Phật (Thích Ca, Dược Sư và Di Đà) cao khoảng 8 thước. Hai bên tường chung quanh có đắp tượng 500 vị La hán theo phong cách nghệ thuật đời Thanh, bối cảnh là cơn sóng dữ để nêu tinh thần “Khổ hải vô biên, Hồi đầu thị ngạn”. Tàng kinh các sau Đại hùng bảo điện hiện còn chứa nhiều kinh bản do các hoàng đế qua nhiều triều đại ban tặng.









Về Đầu Trang


ht74
Đai Cam



Ngày tham gia: 06 11 2006
Số bài: 115

Gửi: Thứ Năm 08/02/2007 8:01 AM Tiêu đề:

--------------------------------------------------------------------------------

Lục tổ điện được xây lại vào năm Minh Hoàng Trì thứ 3 (1490), trùng tu lần cuối vào năm 1933. Trong điện này hiện nay vẫn còn tôn thờ nhục thân của Lục tổ Huệ Năng (sinh đường Trinh Nguyên năm 12, tịch Đường Khai Nguyên năm đầu 638-713), cùng với nhục thân ngài Hám Sơn Đại sư và ngài Đan Điền Đại sư. Chùa Nam Hoa còn có 360 tượng gỗ A La hán vô cùng sinh động, khắc vào đời Bắc Tống. Sau chùa có Phục Hổ đình, kỷ niệm nơi ngài Hư Vân hàng phục hổ. Câu chuyện được kể rằng:

Một buổi tối nọ, khi bốn chúng đồng tụ hội tại chánh điện để hành lễ, bỗng phát hiện trước cửa chùa có hai luồng ánh sáng chói lòa. Nhìn rõ thấy đó là một con hổ nên mọi người đồng la lên hoảng sợ. Ngài Hư Vân bấy giờ bước ra và hổ bấy giờ quỳ xuống trước mặt ngài. Hòa thượng Hư Vân thuyết pháp tam quy y và dạy nó rằng, hãy nên ẩn trong rừng sâu chớ ra hại người. Hổ cuối đầu ba lần rồi đứng dậy đi vào rừng, dáng điệu quyến luyến. Kể từ đó mỗi năm hổ đều xuất hiện một hai lần trong những kỳ lễ lớn. Hòa thượng Hư Vân đôi khi ra rừng gặp nó, vỗ về an ủi lời lành.

Phía sau điện Lục tổ trên triền núi phía tay trái có một tháp đá trắng, nơi đây tôn thờ Xá lợi của hòa thượng Hư Vân, bậc được tôn xưng là thiền sư đắc đạo đương thời và cũng nhờ có ngài mà đạo tràng Nam Hoa mới được còn nguyên vẹn và hưng thịnh trong thời chiến tranh. Phía tay phải của tháp cách một đường mòn có ngôi điện thờ tượng ngài. Bên phải ngôi điện cách một triền núi là dòng suối Tào khê gọi là Trác trích tuyền. Tương truyền khi xưa Lục tổ Huệ Năng chống tích trượng đến tại nơi đây xin với sơn thần cho dòng nước ngọt để nuôi tăng chúng, khấn xong ngài cắm tích trượng xuống đất, khi ngài rút lên thì dòng nước ngọc theo tích trượng vọt lên lan chảy khắp mặt đất. Cũng nhờ đó mà chư tăng các nơi tụ họp về đạo tràng Bửu Lâm có nước sinh hoạt uống dùng. Một điều kỳ lạ là vị của nước này ngọt và mát, chảy liên miên không dứt cho đến ngày nay trong khi các vùng phụ cận đến mùa nắng các giếng nước đều cạn, nhưng dòng nước này vẫn không bị cạn. Vì chư tăng các nơi đều vân tập về đây dưới sự giảng dạy của ngài Lục tổ, cùng uống chung dòng nước của mạch đất này nên từ đó có câu: “Một dòng Tào khê, chảy về phía đông lan, tỏa ngàn núi trăm sông, nơi đâu cũng là Phật pháp”, ý là chỉ nhờ dòng nước này giống như nước pháp của Phật tổ và chư tăng đem những Phật pháp này làm hưng thạnh khắp nước non.

Hiện nay Tào khê là Phật học viện Nam Hoa cùng với Phật học viện Linh Nham là những nơi tập trung đào tạo chư tăng cho Phật giáo Giang Nam.

Về Đầu Trang


ht74
Đai Cam



Ngày tham gia: 06 11 2006
Số bài: 115

Gửi: Thứ Năm 08/02/2007 8:04 AM Tiêu đề:

--------------------------------------------------------------------------------




Hòa thượng Hư Vân


Về Đầu Trang


ht74
Đai Cam



Ngày tham gia: 06 11 2006
Số bài: 115

Gửi: Thứ Năm 08/02/2007 8:09 AM Tiêu đề:

--------------------------------------------------------------------------------

Hòa Thượng Hư Vân sanh tại tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa, năm 1840. Từ thuở ấu thơ ngài đã tỏ ý chí xuất trần nên dù bao nhiêu cản trở ngài vẫn quyết một lòng lặn lội tìm thầy học đạo. Ngài từng tu khổ hạnh “Tam thường bất túc”, ngày chỉ ăn một chén cơm nhỏ và ai cho gì thêm cũng không nhận, y áo chỉ có hai bộ đổi thay dù đông hàn giá lạnh hay hè rực lửa nồng. Miệt mài nhiều năm chẳng thấy được gương tâm, ngài quyết dốc lòng tận lực thêm nữa, bèn rời nơi thị tứ, tìm vào hang động rừng sâu, ăn đọt lá, uống nước suối, màn trời chiếu đất, y áo rách rưới tả tơi chẳng đủ che thân ngài vẫn chẳng màng. Vậy mà lạ thay, sức khỏe của ngài mỗi ngày mỗi thêm tráng kiện, tâm nhẹ như mây, bước nhanh như gió, tai nghe tiếng từ xa, mắt thấy vật nhiều dặm. Nhận ra sự đổi thay nơi công lực, ngài rời hang động, vân du đây đó để tự kiểm chứng. Trên bước đường du hóa, tình cờ ngài gặp một đạo sư. Thấy diện mạo cổ quái của ngài, vị đạo sư hỏi ngài tu theo môn phái gì? Ngài thành thật trả lời là ngài theo gương người xưa, “ép xác tìm tâm” tự tu tự chứng. Vị đạo sỹ bèn nói: “Vậy là ngài chỉ học theo cách tu thân thôi, còn người xưa tu tâm ra sao, ngài có biết hay không? Tu thân cách này, bất quá chỉ giải thoát mình chứ chẳng cứu được ai. Nếu phát Bồ Đề Tâm theo lời Phật dạy thì tuy tu đạo xuất thế gian mà phải không rời thế gian pháp mới là con đường Trung Đạo.” Nghe thế, ngài giật mình, tỉnh ngộ, từ đấy đem sở học bôn ba hoằng pháp.

Suốt cuộc đời 120 năm, không lúc nào ngài ngưng nghỉ Phật sự, đi tới đâu cũng tu sửa chùa chiền đổ nát vì chiến tranh, thiết lập đạo tràng, dìu dắt tứ chúng. Ngài đã đạt thành 10 hạnh nghiệp lớn lao mà Tam Bộ Nhất Bái nằm trong Hạnh Hiếu Thảo.

Khi đọc lên bốn chữ Tam Bộ Nhất Bái, ai cũng có thể hiểu là “Đi ba bước, lạy một lạy” nhưng hình dung ra bốn chữ này thì thật khó tưởng tượng là đi thế nào, lạy thế nào; đi đâu và lạy ai? Hạnh nguyện của ngài quả là điều ngoài sức con người. Với bối cảnh chiến tranh, loạn lạc thời xưa, đường xá gập ghềnh, núi đồi ngăn trở, thú dữ khắp nơi, khí hậu nghiệt ngã …..một vị tăng đơn độc, lặng lẽ, cứ bước ba bước lại quỳ xuống, thành tâm lạy một lạy suốt non ba ngàn dặm gian nan, quả thật là không ai theo nổi. Nhưng khi khởi tâm nguyện, có lẽ ngài chỉ tự nghĩ rằng, ơn cha mẹ như trời biển, làm con chẳng đền đáp được mảy may; Nay, cha mẹ không còn, muốn báo đền hãy tận dụng hết tâm hết lực mà thôi. Tâm lực ấy, nếu không thực hành thì biết thế nào mới là hết tâm hết lực. Với ý nghĩ đó, ngài tự nguyện sẽ khởi đi từ hướng đông núi Phổ Đà tới hướng bắc núi Ngũ Đài, đường thiên lý hiểm trở gian nan đó dài non ba ngàn dặm !!!!!.
Trong lều trúc bình yên, giữa khu vườn chan hòa nắng ấm, người bạn đạo của tôi rơi nước mắt khi chúng tôi nói tới đoạn ngài suýt tử vong bên bờ sông Hoàng Hà vào mùa đông tuyết rơi ngập lối. Khi ngài quỳ lạy đến nơi này thì trời đổ bão tuyết; chung quanh hoang vắng, không nhà cửa, không bóng người, chỉ thấy một chòi lá ven sông. Ngài vào đó trốn tuyết nhưng chòi lá trống trải, bốn bề gió thốc. Tuyết tiếp tục rơi ba ngày ba đêm. Đói, lạnh đã đưa ngài dần vào hôn mê …..Giữa ranh giới của sự sống và cõi chết, ngài bỗng lờ mờ thấy dáng dấp một người hành khất bước vào chòi. Người ấy cởi bớt y phục của mình mà đắp cho ngài, lại lấy trong túi vải một nắm gạo rang, nhóm lửa, nấu cháo rồi đỡ ngài dậy. Ngài được người hành khất đó cứu sống, không phải chỉ một lần mà hầu như suốt chặng đường gian truân, khi nào gặp hiểm nguy cùng cực thì người ấy lại tình cờ có mặt. Suốt thời gian thực hành hạnh nguyện, chỉ trừ khi qua sông, lội suối hoặc bão giông không thể cất bước, ngoài ra, ngài không hề ngưng nghỉ, chỉ Nhất Tâm bước ba bước, quỳ xuống lạy một lạy. Cuối cùng, sau ba năm ròng rã, ngài cũng tới được chùa Hiển Thông trên núi Ngũ Đài. Nơi đây, ngài muốn tìm tung tích người hành khất ân nhân để tạ ơn thì một lão- sư, khi nghe xong câu chuyện đã điềm đạm bảo ngài rằng: “Chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đó. Bồ Tát thường hiện thân hành khất trợ duyên cho người cầu đạo.” Nghe thế, Hòa Thượng Hư Vân sụp xuống, lạy khắp mười phương tạ ơn vị Bồ Tát xuất thế gian mà không rời thế gian pháp.

Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây. Ôn lại truyện xưa, chúng tôi cùng quán chiếu để hiểu rằng noi gương xưa không phải là noi theo đúng hình thức mới là theo, mà phải hiểu cốt lõi, tinh túy của sự việc, của hành động. Đại lão Hòa thượng Hư Vân dạy chúng ta những gì qua hạnh nguyện phi thường mà ngài đã đạt ? Ngài dạy chúng ta sự quyết tâm. Phàm làm gì cũng phải quyết tâm. Quyết tâm là hùng lực đưa tới thành công vì nếu không quyết tâm thì chỉ một trở ngại nhỏ cũng đủ khiến tâm lung lay, thối chuyển; Khi tâm lung lay, thối chuyển rồi thì sự thành công sẽ ở ngoài tầm tay.