Tôi sưu tầm được 1 quyển sách nói về các pháp tu của Đức Quán Thế Âm.Kính chuyển mọi người tham khảo.
------------------
Phật Lịch 2537 HIỂU BIẾT ĐÚNG PHẬT PHÁP HÀNH TRÌ PHÁP QUÁN THẾ ÂM LH Tịnh Huệ (Phổ biến nội bộ)


LỜI TỰA
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam vì đã được ghi đậm nét trong tâm trí của mọi người.
Bồ Tát Quán Thế Âm tiêu biểu cho đức tánh Đại Từ Bi cứu khổ nạn trong Phật giáo, giống như đức mẹ Maria được các tín đồ Thiên Chúa giáo sùng kính từ lâu nay. Cả hai vị đều thị hiện thân nữ vì nữ giới tượng trưng cho bà mẹ ban phát tình thương cho các con. Tuy 2 vị khác nhau về tướng mạo nhưng cũng đồng tâm, đó là tâm bằng cứu vớt.
Từ sau ngày 30-4-1975, có rất nhiều câu chuyện về thuyền nhân Việt Nam, khi vượt biển gập nạn được Bồ Tát Quán Thế Âm cứu thoát, những câu chuyện này đã không ngớt lưu truyền trong các giới Phật tử, khiến cho mọi người Việt Nam ngày càng thêm tin tưởng nơi tình thương cao cả Ngài.
Trong tinh thần phát huy tâm Đại Từ Bi cứu khổ cứu nạn của Ngài, chúng tôi nghĩ rằng cần phải sớm biên soạn và phổ biến 1 quyển sách trình bày đầy đủ các pháp môn mà Ngài đã từng hành trì trong vô lượng kiếp về trước để giúp cho các giới Phật tử Việt Nam từ đây có thêm phương tiện tu tập.
Pháp hệ Đại Bi Quán Thế Âm là pháp hệ được nhiều dân tộc ở Á Châu ngưỡng mộ và tu học, như ở Tây Tạng, Trung Quốc và Việt Nam, bởi lẽ nó dễ hành và dễ có kết quả. Sở dĩ nó được phổ biến rộng rãi khắp nơi từ thành thị cho đến thôn quê, từ kẻ dốt nát cho đến người trí thức lá vì nó rất thích hợp với chúng sanh đời mạt pháp, xa Phật thiếu pháp, luôn bị lôi cuốn và mê mờ trước nền văn minh khoa học vật chất. Hơn nữa, pháp Quán Thế Âm chẳng phải là 1 pháp chỉ biết nương tựa vào tự lực mà bỏ tha lực như pháp Thiền, trái lại nó lúc nào cũng phối hợp chặt chẽ 2 lực này để giúp chúng ta khắc phục được ma lực của thất tình, lục dục từ lâu đã ngự trị trong thân tâm mình. Vì thế, pháp Quán Thế Âm còn được gọi là pháp Thiền Mật song tu, được triển khai rải rác trong các kinh như Thủ Lăng Nghiêm, Diệu Pháp Liên Hoa, nhứt là trong Tâm kinh Bát Nhã.
Tâm kinh tuy hết sức cô động, chỉ gồm có 260 chữ nhưng lại được đúc kết bằng câu đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú : << YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TÁT BÀ HA >> .
Câu chú ngắn gọn này sẽ được triển khai đầy đủ để trở thành Thần Chú Đại Bi Cứu khổ cứu nạn vô cùng linh hiển mà bất cứ ai, nếu biết qua công năng vi diệu của nó, cũng không thể lơ là mà không trì niệm.
Chúng tôi mong rằng quyển sách bé nhỏ này sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho quý độc giả trong những năm còn lại của thế kỷ 20, nhưng đã và sẽ ghi nhận những biến cổ lịch sử lớn nhứt có tính cách quyết định về tương lai của nhân loại.
Tuy nhiên, trong tinh thần cầu tiến, chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những lời chỉ giáo của các bậc cao minh về những sơ sót, khuyết điểm có thể tìm thấy trong quyển sách nhỏ này. Khi có dịp, chúng tôi sẽ dựa theo đó để tu chỉnh trong những lần tái bản về sau.
L.H. Tịnh Huệ
Cần khải.
Mùa hè năm Nhâm Thân, 1992

HÀNH TRÌ PHÁP QUÁN THẾ ÂM
Phần A : DẪN NHẬP
I. NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT
Pháp Quán Thế Âm là đệ nhứt tâm pháp vì nó là một sản phẩm cao quý của lý tưởng Đại Thừa, được đức Phật đề cập trong ba bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Kinh Bát Nhã, và Diệu Pháp Liên Hoa.
Pháp Quán Thế Âm có tính cách phổ môn vì nó được phổ biến khắp cửa nhà, khắp nơi chốn nhằm biến tối thành sáng, biến sầu hận thành an vui, biến đau thương thành hạnh phúc.
Bồ Tát Quán Thế Âm rất gần gũi với chúng ta. Tiêu biểu cho đức tánh Đại Từ Bi, Ngài luôn cứu giúp chúng sanh đau khổ và lâm nạn, không phân biệt nam nữ, tín ngưỡng, quốc gia, dân tộc, dưới dạng một nữ Bồ Tát mà người đời thưòng tôn xưng là Phật Bà Quán Âm Nam Hãi.
Tình thương mà Ngài ban rãi cho muôn loài là một thứ tình thương bất vụ lợi, vô tư giống như ngàn hoa cùng đua nở để tô điểm cho cuộc đời được thêm tươi.
Trong thế giới cuồng loạn ngày nay, mọi người đang tranh giành quyền lợi, cấu xé lẫn nhau vì miếng cơm manh áo, vì bả vinh hoa, phú quí nên đau khổ và phiền não là những hậu quả đương nhiên, khó bề tránh khỏi.
Để có thể giúp mọi người vượt qua khổ ách, chúng ta phải phát huy tình thương bằng cách hành các pháp mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành tựu trong vô lượng kiếp về trước. Những cảnh khổ đau càng diễn tả ra trên đời nhiều chừng nào thì chúng ta càng phải ra sức công phu hành trì các pháp ấy càng nhiều chừng nấy. Đời càng khổ, pháp Quán Thế Âm mới càng có gía trị thiết thực. Đó là lý mâu thuẫn, đối kháng luôn diễn bày trong cảnh giới nhị nguyên, giữa hai thế lực, một của đau khổ phá hoại và một của tình thương xây dựng. Đó cũng là nguyên nhân chánh yếu chứng minh sự cần thiết của pháp Quán Thế Âm trong thời kỳ mạt pháp, xa Phật thiếu pháp, nặng vật chất, nhẹ tinh thần như thời kỳ mà chúng ta đang sống vào cuối thế kỷ 20, sắp bước sang thế kỷ 21. Có thể nói mà không sợ sai lầm, pháp Quán Thế Âm là pháp tu tập của thời đại.
Vì thế trước khi hành chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận pháp này, đúng theo một quy trình quen thuộc trong Phật pháp, đó là quy trình TÍN, GIẢI, HẠNH, QUẢ.
Chúng ta tin vào khả năng gia hộ của Bồ Tát, tin vào giá trị của các pháp mà Ngài đã từng hành trì. Từ đó chúng ta mới tìm hiểu sâu rộng, tìm biết cho đúng chánh pháp của Ngài.
Thông thường, hể nói đến pháp Quán Thế Âm thì người ta liền liên tưởng đến pháp Phổ Môn, cứu khổ cứu nạn của Ngài trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Pháp Phổ Môn nằm trong Phần 25, kinh Pháp Hoa, là pháp xiển dương công đức cứu độ của Bồ Tát, bởi lẽ Quán Thế Âm là << ánh sáng thanh tịnh, là mặt trời huệ soi sáng các chỗ tối tăm, hàng phục nạn tai khói lửa, là tâm Đại Bi rưới mưa pháp cam lồ dứt trừ phiền não xua đuổi hận thù nơi pháp đình cũng như nơi trận địa >>. (Phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa).
Nhưng thật ra, pháp Quán Thế Âm không phải đơn thuần chỉ có pháp Phổ Môn, nó còn gồm có pháp tu Nhĩ căn viên thông trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, và pháp chiếu soi hay chiếu kiến ngủ uẩn giai không trong Tâm kinh Bát Nhã.
Hai pháp này rất quan trọng đối với những ai đang và sẽ tu Phật vì chúng có khả năng giúp chúng ta bước vào cửa động Thiếu Thất của Thiền Đông Độ để hòa nhập với bản thể Chơn như thanh tịnh.
Không hành hai pháp này, làm sao chúng ta có thể tỏ thấu được pháp tánh vô sanh ? Tuy việc thể nhập Chơn Như chỉ là cái bước đầu làm căn bản cho quá trình tu tập của chúng ta để đi đến chứng đắc tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, nhưng xét cho chùng bất cứ ai tu Phật mà không thể nhập được Chơn Như, dù thể nhập từng phần, từng phần cũng vậy, thì cũng như người đó không tu, không sửa, không làm được điều gì có lợi cho người và cho mình.

II. SỰ TÍCH CỦA BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM :
Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhản Quán Thế Âm Bồ Tát, quảng đại, viên mãn, vô ngại đại bi tâm Đà la ni, được Samôn Bạc Già Đạt ma (Bhagavaddharma) người Ấn dịch từ Phạn sang Hoa ngữ, vào đầu thế kỷ thứ 7, sau Tây lịch, đời nhà Đường, thì đức Phật Thích Ca khi ngự tại Đạo Tràng Bảo Trang Nghiêm của Bồ Tát Quán Thế Âm, đã giới thiệu cho tự chúng biết về sự tích và công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm qua việc hành trì thần chú Đại Bi mà Bồ Tát đã thọ nhận trong vô lượng ức kiếp về trước nơi đức Phật Thiên quang Vương Tịnh Trụ.
Lúc được Phật Tịnh Trụ trao cho thần chú Đại Bi, Bồ Tát vẫn còn ở đảng vị Sơ Địa. Vừa nghe xong thần chú, Ngài liền chứng được đệ bát Địa. Vô cùng cảm kích, Ngài vội vàng phát ra lời đại nguyện sau đây :
“Nếu trong đời vị lai, con có thể đem lợi ích và an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này thì xin khiến cho con được 1000 tay, 1000 mắt”. Phát nguyện xong, 1000 tay và 1000 mắt đều hiện ra đủ nơi thân Ngài. Theo lời giải thích của Phật thì mỗi tay tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Mà chúng sanh luôn mong cầu và mong cầu rất nhiều việc, do đó Bồ Tát mới nguyện cho có đủ 1000 tay để giúp đở chúng sanh.
Theo kinh Bi Hoa, tiền thân của Bồ Tát là Thái tử BẤT HUYỀN, có em ruột là Vương tử Ni Ma mà kinh Phật thường gọi là Bồ Tát Đại Thế Chí, cả hai đều là con của vua Vô Tranh Niệm. Về sau, Vua thị hiện làm 1 trong 16 Vương tử, còn của một vị vua bỏ ngôi đi tu thành Phật, hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai (Kinh Pháp Hoa, Phẩm 7 : Thí dụ về Hóa Thành). Tất cả 16 vương tử đều thành Phật, vị thứ 9 là Phật A Di Đà, phạn ngữ là Amitabha, dịch nghĩa là Vô Lương Thọ, Vô Lượng Quang ở phương Tây, còn vị thứ 16 là Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi Ta Bà.
Đức Phật A Di Đà chính là vua Vô Tranh Niệm thường được tượng thờ chung với hai vị nữ Bồ Tát, bên trái là Bồ Tát Quán Thế Âm đứng trên lưng rồng, tay câm hồ lô và cành dương liễu, bên phải là Bồ Tát Đại Thế Chí, một vị tiêu biểu cho tâm Bi, một vị cho Đại Trí.
Dưới con mắt của người đời, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là Phật Bà Quan Âm Nam Hải luôn thị hiện cứu giúp chúng sanh lâm nạn và hóa độ để tiếp dẫn họ về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà lúc lâm chung. Ngài là vị cổ Phật được biết dưới danh hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI.
Do đâu mà ngày nay các chùa chiền lấy ngày 19 tháng 2 Âm lịch làm ngày vía đản sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm? Đây là một sự tích bên Trung Hoa ở đời nhà Tùy (581-618) của một vị Hòa Thượng, sanh nhằm ngày 19-2 ÂL. Sau khi tịch diệt, nhục thân của vị Hòa thượng được hỏa táng. Ngay lúc đó, tự nhiên hiện ra giữa hư không một thân người vô cùng tốt đẹp khiến cho mọi người cho đó là hóa thân cùa Bồ Tát Quán Thế Âm.
*
* *
Phần B : CÁC PHÁP TU CỦA
QUÁN THẾ ÂM

I. PHÁP TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG
Sau khi đã ý thức được điều kiện mở gút các căn, ông Anan, nhân vật chánh đối thoại với đức Phật trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, mới thỉnh cầu Ngài chỉ dạy thêm cho ông biết phải tu căn nào mới được viên thông ?
Đức Phật bèn bảo 25 vị thánh trong pháp hội trần thuật lại pháp tu nào đã giúp họ chứng đắc đạo qủa.
Lần lượt 25 vị A La hán và Bồ Tát đứng lên trình bày pháp tu chứng của mình. Trước tiên có 6 vị giải bày rằng nhờ tu 6 trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà được thành đạo. Kế đó có 5 vị cho biết nhờ tu nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý căn mà được viên thông. Tiếp theo có 6 vị tu lục thức chứng được viên thông. Còn có 7 vị khác nhờ tu 7 đại mà cũng chứng được đạo quả. Vị thứ 25 cũng là Bồ Tát Quán Thế Âm trần thuật trước Phật và pháp hội pháp VĂN, TỰ, TU (nghe, suy tư và tu tập) của Ngài.
Ngài nói khi vừa nghe âm thanh, Ngài liền xoay cái nghe đó trở vào Chơn tâm, nhờ đó thể nhập được Chơn tâm thanh tịnh, chứng được hai quả thù thắng, đó là trên chỉ hiệp với đức tánh Từ độ của chúng sanh. Ngoài ra Ngài còn hiện ra 32 ứng hóa thân hộ độ chúng sanh khiến cho họ được 14 món vô úy và 4 món vô tác vi diệu, khó thể nghỉ bàn.
Sau khi 25 vị A La Hán và Bồ Tát trình bày xong, Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hãy chọn lựa một pháp môn nào trong số 25 pháp tu chứng của các vị A La Hán và Bồ Tát, có khả năng giúp cho ông A nan và các chúng sanh đời sau để thành đạo vô thượng Bồ Đề.
Bồ Tát Văn Thù nói rằng pháp Đại Thừa vốn có nhiều, pháp nào cũng có thể giúp đạt kết quả tốt, tuy rằng đối với người tu sơ cơ thì thấy dường như có pháp dễ, có pháp khó.
Ngài nhận định rằng trong cõi Ta Bà, Phật đã dùng lời nói để thuyết pháp, còn chúng sanh thì dùng nghe đễ lãnh hội, do đó cũng nên dùng pháp tu nhĩ căn để tu chứng tam muội. Bồ Tát Văn Thù liền xưng tán nhĩ căn vì nhĩ căn thông cùng khắp và có 3 đức tánh viên, thông và thường hơn hẳn các căn khác. Viên là tròn, giúp mình nghe được âm thanh khắp 10 phương, thông là không ngăn ngại vì mình có thể nghe cách vách, nghe được tiếng xa, tiếng gần thường vì tánh nghe vẫn hoạt động dù mình đang hôn mê hay đã chết.
Bồ Tát Văn Thù cũng không quên tán thán công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm vì Bồ Tát đã chứng được tánh nghe nhiệm mầu, ứng hợp với mọi hoàn cảnh nhưng vẫn không rời chơn tâm thanh tịnh.
Dưới đây là bản văn pháp tu nhĩ căn viên thông trích từ bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm.
1. PHÁP TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG
Pháp này gồm có 3 giai đoạn sau đây :
Giai đoạn 1: Sở ư văn trung, nhập lưu vong sở, sở nhập kỷ tịch, động tịnh nhị tướng, liễu nhiên bất sanh.
Tạm dịch : Trước tiên trong chỗ nghe, liền đưa những gì mình nghe nhập vào tánh nghe (chơn tâm), nhờ vậy mà quên đi những gì đã nghe. Khi chỗ nhập đã yên ỗn thì hai tướng động tịnh rốt ráo không còn nữa.
Giai đoạn 2: Như thị tiệm tăng, văn, sở văn tận, tận văn bất trụ, giác, sở, giác không, không giác tịch viên.
Tạm dịch : Như thế cứ tăng dần, cái nghe và cái bị nghe đều đứt. Nhưng không trụ ở chỗ hết nghe. Cái biết rằng mình không trụ như thế và cái bị biết (chính là sự việc mình không trụ ở chỗ hết nghe) cũng không. Cuối cùng cái biết “tướng không” ấy được tăng trưởng đến mức độ tròn đầy, vắng lặng.
Giai đoạn 3: Không, sở Không diệt, sanh diệt dĩ diệt, tịch diệt hiện tiền.
Tạm dịch : Cái biết tướng không và cái tướng Không là cái bị biết, cả hai cũng dứt luôn. Đến đây cãnh giới sanh diệt, đối kháng hoàn toàn mất, chỉ còn trạng thái tịch diệt, vắng lặng tuyệt đối mà thôi.
Cả ba giai đoạn trên đây đều nhằm tạo cái “không” trong đầu của hành giả. Giai đoạn 1 là không nghe, giai đoạn 2 là không biết, giai đoạn 3 là không cái không biết tức là cái không biết cũng không luôn.
Nếu chúng ta chấp văn tự thì chúng ta liền rơi vào lối suy diễn của Nhị Thừa vốn chấp Không: không nghe, không biết, không cái không biết. Thật vậy, Nhị Thừa chủ trương không nghe, không biết vì họ muốn dứt bặt thọ và tưởng để từ đó có thể đi vào cái không, tuyệt đối vắng lặng.
Chúng ta thử phân tích từng giai đoạn một như sau.
Trong giai đoạn 1, hành giả đưa cái gì đã nhe nhập vào bản thể thanh tịnh của Chơn tâm, cốt đễ quên cái đã nghe. Nhập được yên ổn rồi thì 2 tướng động, tịnh không sanh. Động là nghe, tịnh là không nghe. 2 tướng này cũng chi là 2 tướng đối đãi về mặt văn tự, chớ thật ra không có ý nghĩa gì trong vấn đề thể hiện trạng thái vắng lặng tuyệt đối, bởi lẽ trong giai đoạn 2, hành giã còn phải lo dứt trừ cái biết, mà cái biết tức là tưởng động.
Mục đích của giai đoạn 1 là nhằm làm bặt cái khả năng nghe âm thanh của lỗ tai, y hệt như nhét bông gòn hay bịt lỗ tai vậy.
Trong giai đoạn 2, hành giả không còn nghe gì nữa, nhưng còn biết, biết rằng mình đã hết nghe. Cái biết này xuất phát từ ý thức, cũng phải dứt luôn. Dứt bằng cách nào ?
Phải chăng bằng cách đè bẹp tư tưởng biết, giống như người ta lấy đá đè cỏ. Tư tưởng biết sẽ tạm thời chấm dứt, nhưng sau đó sẽ tiếp tục xẹt ra trong đầu, vì tư tưởng là dòng thác từ nguồn đổ xuống làm sao chận được ?
Vẫn biết rằng hàng Nhị Thừa có thể làm tê liệt 6 thức, từ nhãn thức cho đến ý thức nhưng họ chỉ có thể tạm thời làm được công việc vô bổ này mà thôi. Do đó câu “không giác tịch viên”, hoàn toàn không đúng với chơn lý.
Đến giai đoạn 3, hành giả phải dứt bặt hết mọi tư tưởng như tư tưởng biết mình không còn nghe nữa, tư tưởng biết mình đang ở trong trạng thái trống không. Dứt bặt kiểu này là dứt bặt mọi cảm thọ liên quan đến cái nghe, dứt bặt tư tưởng biết mình hết nghe, biết đầu mình đang rỗng không.
Câu “không, sở không diệt” được ghi trong giai đoạn 3 thật hết sức khó hiểu. Vì sao ? Bởi lẽ nó quá vắn tắt, khiến cho chúng ta phân vân về ý nghĩa của chữ không. Ở trên đả đề cập đến “ không giác” là cái biết mình đã không còn nghe nữa, nay lại nói đến chữ Không. Phải chăng nó hàm ý rằng hành giả biết mình đang ở trong trạng thái rỗng không. Đây là cái năng biết, còn trạng thái rỗng không là cái bị biết mà kinh gọi là sở không. Còn phân biệt năng, sở tức là còn trong vòng đối đãi. Vì thế kinh dạy phải diệt phải dứt trừ cái tâm phân biệt này mới có thể đạt được trạng thái tịch diệt.
Trạng thái tịch diệt là như thế nào ?
Theo phương pháp này thì hành giả phải ở trong trạng thái không còn nghe, không còn biết gì hết, thậm chí không biết mình có còn thở nữa hay không ? Đó là trạng thái tịch diệt của người hành pháp Thiền DIỆT TẬN ĐỊNH, hoàn toàn vô tri, vô giác, như gỗ đá.
Xét cho chung, pháp tu nhĩ căn viên thông như được trích trên đây không khác gì pháp Thiền Diệt Tận Định.
Như thế thì pháp tu này có tánh không thiết thực, khó thực hành đối với người đời, vì người đời trong ngày lúc nào cũng nghe đủ thứ âm thanh, từ những lời chửi mắng, chê trách, gièm pha đến những lời nịnh hót, tâng bốc, ngợi khen. Không lẽ khi mới vừa nghe một tiếng nói nặng của người láng giềng, mình vội chạy vào phòng riêng để thực hành pháp tu nhĩ căn hay sao ?
Chỉ có những đạo sĩ, các hàng Nhị Thừa, sống cô đơn, xa lánh cuộc đời, nơi rừng sâu, núi thẳm, mới có thể hành pháp Thiền Diệt tận định, nói cách khác, hành pháp tu nhĩ căn viên thông như trên đã trình bày. Chúng ta nhớ lại trường hợp ông Xá Lợi Phất đang nhập Diệt Tận định dưới gốc cây trong rừng bị ông Duy Ma Cật chỉnh một phen mà không biết cách nào để đối đáp.
Nhiều nhà tu hành gọi pháp tu nhĩ căn viên thông là đại định hay tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Gọi như thế có phần nào không đúng, bởi lẽ Thủ Lăng Nghiêm tượng trưng cho trí huệ Phật, do đó khi đã nhập tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì không có pháp chi mà hành giả không liễu ngộ. Đằng này, trong tiến trình nhập Diệt tận định với pháp nhĩ căn viên thông, hành giã hoàn toàn không biết gì nữa hết, thì làm sao gọi là liễu ngộ các pháp. Biết với tâm vô trụ mới gọi là liễu ngộ, là trí huệ.
Người tu Phật Thừa luôn luôn niệm rằng hề mang thân tướng nào thì phải sống và tiếp xúc với cảnh giới thân tướng đó, nghĩa là không lìa cảnh giới nhộn nhịp của người đời, vì nếu, lìa thì không thể nào biết các pháp để rồi, sử dụng chúng một cách vô ngại.
Với quan niệm trên, chúng ta phải sống với đời, sử dụng nhĩ căn của mình để nghe trọn vẹn mọi thứ âm thanh ở trên đời, nghe nhưng không để bị nhiễm, bị lôi cuốn, vì nếu để bị ngoại cảnh lôi cuốn thì tâm mình sẽ mê mờ, làm sao biết được thực tướng của các pháp, làm sao nhập được bản thể chơn như ?
Vì thế Chân sư của chúng tôi gọi pháp tu nhĩ căn viên thông với cái tên mới cho phù hợp với thời đại ngày nay. Đó là pháp nghe mà như không nghe, mà là nghe như thật, còn gọi là pháp lắng nghe, lắng nhìn vô sở thọ.
Pháp này không khác pháp chiếu Kiến trong Tâm kinh, vì chiếu kiến hay chiếu soi của cặp mắt là thấy, nhìn, chiếu, soi của lỗ tai là nghe.
2. PHÁP LẮNG NGHE, LẮNG NHÌN VÔ SỞ THỌ.
Trong phần trình bày trên đây, chúng tôi chỉ đề cập đến pháp lắng nghe vì các sự thấy, nghe, hay, biết của mình đều là những cảm thọ của lục căn có cùng một tánh chất. Thật vậy, chúng ta thọ vui, thọ khổ, thọ không vui không khổ, chớ không có cách cảm thọ nào khác hơn.
Do đó, chúng ta chỉ cần nắm vững pháp lắng nghe là đủ rồi. Hơn nữa lỗ tai có tới 1,200 công đức, trội hơn rất nhiều công đức của mắt chỉ có 800 mà thôi. Chúng ta nên nhớ rằng cứu cánh tu tập là hòa nhập Phật tánh, Chơn Như tâm, pháp giới tánh. Tuy được gọi dưới nhiều tên khác nhau, nhưng tất cả những danh từ ấy đều có cùng một nghĩa. Hòa nhập Phật tính tức là hòa nhập trọn vẹn 4 đặc tánh: Thường hằng, Năng Sanh, Chiếu Soi và Thanh tịnh hay tỏ thấu được 3 mặt: Thể, Tướng, Dụng của Phật tánh.
Nếu hòa nhập đầy đủ 4 đặc tánh thì gọi là đắc qủa Vô thượng Bồ Đề, Hòa nhập chưa đủ thì gọi là từng phần giác. Đó là trường hợp của các bậc A La hán, của các vị Tam Hiền chỉ đạt được một đặc tánh Thanh tịnh trong 4 đặc tánh nói trên, nên chưa phát huy được hết Tướng và Dụng của Phật tánh.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng xưa nay tất cả động tác như suy nghĩ, tính, toán, lý luận, phê phán, phân biệt v.v… của chúng ta đều do tâm chủ động cả. Mà cái tâm ấy vốn vô tướng, không thể lấy phàm nhân mà thấy được, lấy ý thức mà biết được. Tâm vốn vô tướng nên không biến đổi, không chết sống, không thọ dụng.
Thí dụ như ý khởi niệm ăn, nhưng ý không ăn, chỉ có sắc thân này ăn. Tâm khởi phát ý nghĩ có lấy, có bỏ nhưng thật ra tâm chẳng có lấy chẳng có bỏ gì cả. Sở dĩ tâm phân biệt có lấy, có bỏ là vì tâm lầm chấp, là vì tâm còn mê vọng. Tâm mê vọng được gọi là vọng tâm, tâm không lầm chấp là chơn tâm.
Như vậy, chơn hay vọng cũng chỉ là tên gọi cái vô tướng đó mà thôi, giống như ta gọi người uống rượu say là người say rượu, khi người đó hết say thì gọi là người tỉnh rượu. Say hay tỉnh rượu cũng chỉ là cách gọi một người mà thôi.
Đề cập đến vấn đề thọ tụng, chúng ta thấy rằng tâm vô tướng không cảm thọ bất cứ điều gì. Vì tâm lầm chấp nên cho rằng cảnh hát xướng là cảnh vui, cảnh tù tội là cảnh khổ, nhưng trên thực tế, tâm không bao giờ cảm thọ.
Đối với các pháp ngoài sắc thân như núi sông, rừng rậm, đồng cỏ, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, tất cả đều biến hiện, sanh diệt liên tục, nhưng cái vô tướng chỉ đạo không bao giờ sanh diệt, giống như tâm sai khiến xác thân làm đủ thứ việc nhưng bổn tâm vẫn hằng hữu.
Vậy thì cái vô tướng chỉ đạo sơn hải đại địa và cái vô tướng chi đạo xác thân này đều đồng một tánh năng sanh. Như thế trong cái tướng hư vọng luôn có cái vô tướng. Tốm lại, không phải chỉ có con người hay súc vật mới có cái vô tướng mà nơi âm thanh, sắc tướng, sơn hà, đại địa cũng có cái vô tướng. Trong kinh, Phật dạy ông Tu Bồ Đề muốn hàng phục vọng tâm để hiển bày chơn tâm, thì phải vô trụ, không chấp, nghĩa là muốn lấy nước thì phải múc ngay nơi sống, muốn thấy chơn thì phải tìm nơi vọng, muốn thấy đạo thì phải chung sống với đời.
Nay muốn tìm chơn mà có thể lìa bỏ các pháp tức là làm bặt cái nghe, cái thấy hay sao ?
Muốn thấu triệt pháp tu nhĩ căn viên thông, chúng ta nên phân biệt 3 trường hợp như sau ?
a) Nghe và không nghe.
b) Nghe mà không nghe.
c) Nghe như không nghe mà lại nghe như thật.
Trường hợp 1. NGHE VÀ KHÔNG NGHE.
Đó là trường hợp chung cho kẻ phàm phu chúng ta, có khi nghe, có khi không nghe.
Không nghe là khi chúng ta điếc hay lảng tai hoặc bị ngăn cách. Dù có nghe hay không nghe, chúng ta cũng đều phát khởi ý niệm phân biệt yêu ghét, lấy bỏ. Tâm chạy theo ngoại cảnh được gọi là tâm nhiễm ô, tâm chấp tướng. Mà hễ còn chấp tướng thì làm sao thấy được tánh ? Vì thế phàm phu chúng ta phải bị lưu chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, phải thọ lãnh nghiệp báo vui sướng, khổ không khổ.
Trường hợp 2. NGHE MÀ KHÔNG NGHE.
Hàng Nhị Thừa vì chủ trương ngăn ngừa nhĩ căn không có cho tiếp xúc với âm thanh bên ngoài nên không thể phân biệt được tướng của âm thanh, êm dịu hay chua chát, thanh hay thô. Do không phân biệt nên họ không khởi tâm yêu ghét, lấy bỏ, tất nhiên không bị nhiễm ô, nên họ không tạo nghiệp ác để lãnh quả báo sanh tử.
Trường hợp này liên hệ trực tiếp đến đạo qủa của Nhị Thừa.
1) Nghe là trường hợp của Thanh Văn, nhờ nghe được pháp Tứ Đế mà đạt được quả giải thoát gọi là tiểu quả Niết Bàn.
2) Không nghe là trường hợp của A La Hán.
A La Hán chủ trương không nghe tất cả mọi thứ âm thanh nên chẳng những ngăn nhĩ căn không để bị tác động mà còn tìm cách an trụ trong cái không, tịch diệt của Diệt tận định. Dù đạt được quả vô sanh, nhưng A La Hán vẫn còn chấp pháp vì còn phân biệt có pháp thanh thô, yêu ghét, lấy bỏ, như họ nghĩ rằng tất cả các thứ âm thanh đều là ô trược cần phải loại bỏ.
Tu theo pháp nghe mà không nghe vẫn còn bị kẹt, vì khi chúng ta không tiếp xúc với các pháp thế gian, chúng ta không thể nào tỏ ngộ được tánh của chúng.
Trường hợp 3. NGHE NHƯ KHÔNG NGHE MÀ LẠI NGHE NHƯ THẬT.
Do nguyên tắc tướng của âm thanh tuy có thanh thô khác nhau, nhưng tánh của nó là chơn không, bình đẳng, không thanh, không thô. Nói cách khác, lìa sóng không thấy nước, lìa tướng không thấy tánh, lìa thế gian không Phật, lìa vọng niệm hay chúng sanh tánh, không thấy Phật tánh hay Phật tâm.
Vì thế muốn lắng nghe một cách tự tại và viên thông, chúng ta không nên phân biệt tướng thanh thô của âm thanh, không nên phân biệt cái gì cần nghe, thích nghe, và cái gì không cần nghe, không thích nghe. Nếu nghe được thì chúng ta cứ nghe mà như không nghe, nghĩa là cứ nghe mà lòng không chấp, không trụ, không sanh tâm ưa ghét, nhờ vậy mà chúng ta rốt cuộc được nghe như thật.
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Nói không chấp, không trụ thì dễ nhưng khi thực hành mới thấy khó khăn vô cùng. Nếu áp dụng khoa động lực học, chúng ta sẽ tìm ra được một phương cách tương đối dễ thực hiện.
Người tu Bát Nhã không chủ trương tận diệt mọi tư tưởng. Họ chỉ tìm cách dứt trừ mọi tư tưởng tham, sân, si, thất tình, luc dục (tâm chấp ngã, chấp pháp) khi đối cảnh, đối pháp hay những hình ảnh có sức quyến rũ được ghi trong ký ức.
Thất tình, lục dục, tham, sân, si là những tướng thô của các thứ tâm chấp ngã là ngã si, ngã mạn, ngã kiến, ngã ái. Thất tình gồm có: hỉ, nộ, ố, ái, dục, cụ còn lục dục thì có tài, danh, sắc, thực, thùy (ngủ nghĩ), tật đố (ganh ghét) hoặc 6 thứ ham muốn của 6 căn.
Vì không chủ trương tận diệt tư tưởng nên người tu chỉ muốn làm chủ tất cả tư tưởng, bất luận chơn hay vọng, đang diễn biến trong nội tâm nghĩa là chẵng những họ không để cho các thứ tâm chấp ngã lôi cuốn mà còn tùy nghi sử dụng chúng để làm lợi người, lợi mình.
Có đối pháp, tâm liền phát khởi. Tâm phát khởi là tâm bị động, tâm nghe bên trong là tâm tịnh. Tuy nói hai tâm nhưng cả hai đều cùng sử dụng một lực, đó là tâm lực nói chung, trung tính, không thiện, không ác.
Tâm lực đó có sẵn trong mỗi người chúng ta cũng như có sẵn trong vũ trụ, trùm khắp không gian và thời gian. Vì vậy tâm lực của chúng ta chính là LỰC của VŨ TRỤ còn gọi là lực năng sanh của Chơn Như tâm.
Khi đối pháp, nếu chúng ta sanh lòng tham thì liền đó có một lực thúc đẩy chúng ta phải hành động. Nếu chúng ta kịp thời lắng nghe nội tâm thì lực tham sẽ mất, khiến cho tư tưởng tham lần hồi mất theo.
Vậy thì với kỷ thuật làm tăng trưởng lực lắng nghe đến mức tối đa, chúng ta đã làm tan biến ma lực của thất tình, lục dục, bởi lẽ nếu mình đã tận dụng trước tâm lực ở nơi lòng thì còn tâm lực nào khác để cho thất tình, lục dục sử dụng ?
Thí dụ như đi xem vở tuồng cải lương Lan và Điệp, các bà mẹ và các cô thường hay rơi lệ khi nghe những lời ca oán than não nùng của Lan quyết tâm cắt đứt mối tình xưa giữa hai người. Do đâu mà các bà và các cô phải mgậm ngùi, bi lụy như thế ? Có phải là vì các bà, các cô chưa từng tu tập pháp lắng nghe nên đã vô tình để cho âm thanh lôi cuốn. Nếu đã thuần thục được pháp này rồi thì làm gì còn có vấn đề thương cảm số kiếp hồng nhan đa truân ?
Thực hành liên tục pháp lắng nghe, tức là tập cho tâm lắng nghe có một cái lực mạnh mẽ đủ sức hàng phục các vọng niệm chấp ngã, chấp pháp cũng như thất tình, lục dục.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao có người hành pháp lắng nghe mà vẫn bị lôi cuốn bởi các ma lực của vọng niệm ?
Chúng ta nên hiểu tâm lực có tánh chất trung tính. Khi bắt đầu tu tập pháp lắng nghe, chúng ta đã lấy một phần của tâm lực chuyển sang cho tâm lắng nghe. Từ đó tâm lắng nghe mới có được một lực, nhưng lực này vẫn còn yếu, so với ma lực của tham, sân si vốn đã được un đúc từ vô lượng kiếp về trước.
Lúc bấy giờ tâm lực bị chia thành hai phân lực, một phân lực đi với tâm lắng nghe, một phân lực đi với tham, sân, si, thất tình, lục dục, phân lực này chính là ma lực nói trên.
Đừng ngần ngại trốn tránh các cơ hội đối pháp, bởi lẽ mỗi lần đối pháp, chúng ta có dịp huấn tập lực lắng nghe, huấn tập nhiều chừng nào thì lực này sẽ được mạnh chừng nấy. Dĩ nhiên ma lực của tham, sân, si sẽ yếu dần cho đến cuối cùng không còn có đủ khả năng để lôi cuốn chúng ta nữa. Do đó mới nói đời là một lò rèn vô giá để tôi luyện tâm phàm phu thành tâm Phật. Đi tìm đạo giác ngộ mà lìa đời là một sự sai lầm rất lớn.
Bí quyết dụng công nằm trong câu << Phản văn, văn tự tánh >>. Phản văn là xoay cái nghe vào trong, vào chơn tâm thanh tịnh. Văn tự tánh có nghĩa là lắng nghe chơn tâm, tức là giữ cho tâm mình yên lặng. Sau khi tâm được yên tịnh rồi thì dù có nghe trở lại âm thanh bên ngoài, mình vẫn được bình thản, không còn cảm thọ.
Đối với những vị mới tu tập, muốn thành tựu pháp lắng nghe nội tâm cũng thật là khó khăn. Vì thế chúng tôi xin đề nghị một phương pháp lắng nghe như sau: Mỗi buổi tối, khi trong nhà được yên tĩnh, chúng ta có thể nằm hoặc ngồi để tập lắng nghe nội tâm. Trong bốn uy nghi, ngồi là tư thế lợi nhứt, vì nó có thể giúp mình dễ dàng theo dõi tạp niệm có thể xẹt ra trong đầu mà không bị mệt mõi hay buồn ngủ. Nếu tạp niệm, vọng niệm xẹt ra thì phải cố gắng tỉnh táo giác cho kịp. Giác niệm đúng lúc thì niệm liền mất. Nên nhớ rằng nhờ có lắng nghe nội tâm, chúng ta mới có thể kịp thời giác niệm. KHÔNG LẮNG NGHE, CHÚNG TA KHÔNG BAO GIỜ GIÁC ĐƯỢC NIỆM.
Đừng sợ niệm xẹt ra, chỉ sợ chúng ta lơ là mà giác không kịp. Vọng niệm, tạp niệm càng xẹt ra nhiêu chừng nào thì chúng sẽ được chuyển hóa càng sớm chừng nấy.
Đối với bất cứ loại âm thanh nào, dù là một bản nhạc tango êm dịu, hay một bản nhạc rốc kích động, chúng ta phải tập lắng nghe, tự tại, vô sở thọ, không duyên theo chúng, nghĩa là không tỏ ra vui buồn, khen chê, thích không thích không thích.
Pháp môn NGHE NHƯ KHÔNG NGHE MÀ LẠI NGHE NHƯ THẬT thuộc Phật thừa, vốn chủ trương nghe rốt ráo, đầy đủ cả âm thanh, không phân biệt chơn vọng, thanh thô.
Người đời khi đau khổ thường than thở đủ điều. Chư Phật và Bồ Tát đều nghe hết nhưng như không nghe, vì các Ngài không khởi tâm đau khổ, cảm xúc theo, mà lại nghe như thật, vì các Ngài thấu rõ nhân duyên, nhân quả, hoàn cảnh, ảnh hưởng hay hậu quả của âm thanh, từ đó các Ngài mới tùy thuận sử dụng các phương tiện khéo léo nhằm cứu độ các chúng sanh đau khổ.
Khi nhĩ căn đã viên thông rồi, được mở gút rồi thì 5 căn còn lại sẽ được viên thông theo. Tánh biết lúc đó không còn bị các căn chi phối nữa, mà chỉ thời nhờ chúng để hiện bày. Tánh biết là chủ, các căn là tớ. Các căn sẽ dung thông nhau, 1 căn là 6 căn, 6 căn là 1 căn.
II. PHÁP CHIẾU KIẾN TRONG TÂM KINH BÁT NHÃ.
Tâm kinh Bát Nhã khởi đầu bằng một định lý như định lý hình học, toán học. Đó là định lý thoát khỏi khổ ách, nằm trong câu sau đây:
" QUÁN TỰ BỒ TÁT HÀNH THÂM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA THỜI, CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHỨT THIẾT KHỔ ÁCH ".
Tạm dịch:
" Khi Bồ Tát Quán Tự tại thực hành sâu rộng Bát Nhã Ba la mật đa (liền) soi thấy 5 uẩn đều không, (nhờ thế nên) vượt qua mọi khổ ách ".
Theo Phật giáo, việc đặt danh hiệu các vị Bồ Tát thường dựa theo các pháp môn hay công hạnh mà các Ngài đã chuyên tu và chứng đắc. Sở dĩ ở đây vị Bồ Tát này được gọi là Bồ Tát Quan Tự Tại là vì nhờ hành pháp quán 5 uẩn đều không nên tâm Ngài được tự tại. Bồ Tát Quán Tự Tại còn được tôn xưng dưới nhiều danh hiệu khác nữa, nào là Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Bất Nhị, Bồ Tát Bát Nhã.
1. Bát Nhã và tánh KHÔNG.
Lý Bát Nhã là nguyên lý tuyệt đối, bật hết mâu thuẫn mặc dù trong đó có những thành phần mới thoáng qua, đường như có tánh cách mâu thuẫn đối kháng nhau. Lý Bát Nhã còn được gọi là lý sắc không vì nó bao gồm một cách hài hòa, nói khác đi, vì nó viên dung cả sắc Không, cả tướng lẫn tánh.
Chữ KHÔNG ở đây, ngụ ý Chơn tâm hằng hữu còn sắc là tâm còn mê vọng, là "vọng tâm". Vọng và chơn tuy hai mà là một, giống như sóng và nước vậy. Nước không lìa sóng, cũng như chơn không lìa vọng. Sóng yên trở thành nước, cũng vậy vọng hết liền trở thành chơn.
Nhà Phật còn gọi cái KHÔNG này là CHƠN KHÔNG, vì nó đã có từ vô thỉ, trước khi có vũ trụ và con người, vì nó có tánh cách thường hằng, không biến đổi trong không gian vô tận và trong thời gian vô cùng.
Có nhiều người hiểu lầm chữ KHÔNG, cho là không Cố định, trong khi đó Tâm kinh đã định nghĩa rõ ràng chữ KHÔNG như sau: tướng KHÔNG hay tánh của vạn pháp là không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, tức là không có đối đải gì cả, không có ngã (được hình dung bằng thân ngũ uẩn với 6 căn, 6 trần, 18 giới) và cũng không có pháp nào cả, dù là các pháp xuất thế, giải thoát như pháp Tứ Đế, pháp 12 Nhân Duyên, pháp Lục Độ.
Tuy là Chơn Không nhưng cũng Diệu hữu vì nó có khả năng sanh sanh, hoá hoá ra muôn loài, muôn vật.
Vạn pháp duy tâm tạo, tâm ở đây là Chơn tâm, Chơn Không. Sở dĩ tâm tạo ra vạn pháp là vì tâm có đặc tánh năng sanh như đã nói ở trên. Tâm cũng còn có những đặc tánh khác như Thường Hằng, Chiếu Soi và Thanh Tịnh. Đặc tánh Chiếu Soi là Trí Huệ Bát Nhã, là Chơn Giác, Chơn Trí, vượt lên trên các cặp đối đãi, mâu thuẫn của cảnh giới nhị nguyên. Hành thâm Bát Nhã Ba la Mật đa có nghĩa là lúc nào cũng sử dụng Chơn TRí, Chơn Giác để không còn làm chấp ngã và pháp, như thế mới có thể đến bờ giác bên kia. Sử dụng chơn trí để chiếu soi vạn pháp bằng cách giữ tâm không trụ, không chấp. Tâm không trụ, không chấp còn được gọi là tâm không.
Người đời cũng như hàng Nhị Thừa vì hiểu sai hai chữ Tâm KHÔNG cho đó là tâm rỗng không, không suy nghĩ, không tính toán, không vọng niệm, không chơn niệm nên đã rơi vào trạng thái KHÔNG, ngu đần mà nhà Phật gọi là ngoan không (ngoan có nghĩa là ngu si, mê muội).
Nhờ có tâm không trụ nên người tu trí huệ Bát nhã mới có thể tỏ thấu được thực tướng, tướng hằng hữu của vạn pháp, mới có thể thấy biết tất cả sự vật trên đời đều như thật, đúng theo tướng đồng nhứt còn gọi là tướng Chơn Như, tướng như thật. Tất cả chúng sanh tuy tướng trạng bề ngoài có vô cùng sai khác nhưng đồng một tướng Chơn Như.
Thấy biết như thật hay thấy biết Trung Đạo là nhìn thấy ba mặt TƯỚNG, THỂ, DỤNG của một vấn đề, của một sự vật. Mặt ngoài, là mặt huyễn tướng, giả tướng mặt trong là mặt thực tướng, là mặt của thể tánh và mặt hữu dụng vô cùng thiết yếu cho đời sống vật chất và tinh thần của muôn loài trên thế gian.
Người tu trí huệ Bát Nhã lúc nào cũng tích cực hành động trong tinh thần KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC. Không là tâm không, tâm không chấp, không trụ theo nghĩa tổng quát, Vô Tướng là tâm không chấp tướng, VÔ TÁC là tâm không chấp kết quả việc làm.
2. NGŨ UẨN GIAI KHÔNG.
Ngũ uẩn hay ngũ ấm có nghĩa là 5 nhóm, 5 chúng ẩn tàng hay được che lấp trong xác thân con người hay loài vật. Thân ngũ uẩn chính là thân này do 5 chúng tạm thời kết hợp mà thành. Vì thế mới có danh từ Chúng sanh để nói lên tính cách giả hợp của 5 uẩn làm thành thân và tâm của 4 loài chúng sanh (thai sanh, noãn sanh, thấp sanh là sanh ở chỗ ẩm ướt như côn trùng, hóa sanh như các loài bướm).
Ngũ uẩn gồm có: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
Sắc uẩn thuộc thành phần vật chất bao gồm 5 đại, đất nước, gió, lửa và hư không, làm thành thân người. Còn 4 uẩn kia thuộc tinh thần được gọi chung là danh vốn bao gồm 2 đại còn lại của thất đại là kiến đại và thức đại, tức là 2 khả năng thấy và biết của con người.
Vì thế, hai chữ danh, sắc được dùng ghép để chỉ ngủ uẩn hay thất đại.
a) Do đâu mà có ngủ uẩn, có thân này ?
Nhà Phật gọi thân này là thân ngủ uẩn vì nó gồm đầy đủ hai phần: vật chất là thân, là sắc, là sắc thân và tinh thần là tâm, là danh.
Nếu biết được nguyên nhân sanh ra thân ngũ uẩn thì chúng ta có thể tìm cách dứt trừ nó. Dứt trừ được thì chúng ta sẽ thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật đã từng dạy rằng nguồn gốc nguyên nhân của ngủ uẩn là vọng tưởng, là vọng tâm.
Vì chúng ta lầm chấp từ vô lượng kiếp xác thân này là TA thật, vì vọng tưởng kiên cố như thế nên mới sanh ra Sắc uẩn.
Các thứ cảm thọ của lục căn làm cho chúng ta thấy, nghe, hay, biết không thật, đó là một thứ vọng thưởng u tối của thọ uẩn.
Tư tưởng của con người tuy có khả năng trùm khắp không gian và thời gian, tuy có thể sanh khởi bất cứ lúc nào, lúc ngủ cũng như lúc thức, nhưng nó vẫn là vọng tưởng vì nó còn mang lấy cái tôi, còn chấp ngã. Đó là tưởng uẩn.
Ngoài ra tư tưởng còn thiên diễn không ngừng, luôn sanh diệt, luôn âm thầm tìm cách hiện hành bằng lời nói và việc làm. Đó là hành uẩn.
Cuối cùng tư tưởng tuy là huyễn nhưng nó có khả năng bám sâu gốc rễ trong tàng thức của chúng ta khiến chúng ta khó dứt trừ, khó chuyển hóa chúng. Đó là thức uẩn, do vọng tưởng vi tế, nhỏ nhiệm tạo thành.
Qua phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng sở dĩ chúng ta mang lấy thân ngủ uẩn là do vô minh, mẹ đẻ của vô số vọng tưởng, vọng niệm chấp ngã.
b) Làm thế nào để dứt ngủ uẩn tức là để thoát khỏi sanh tử luân hồi ?
Tâm kinh Bát Nhã dạy phải chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Có thể nói 6 chữ này là bí quyết tu tập để vượt qua mọi khổ ách do thân ngũ uẩn gây nên và để đi tới bờ đại giác. 6 chữ này cũng là chía khóa để mở cửa giải thoát. Không có chìa khóa tức là không soi thấy 5 thứ vọng tưởng này đều là không mà hễ không soi thấy được như vậy thì không được giải thoát.
Trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Đức phật củng đem bí quyết này ra giảng dạy, nhưng Ngài nói một cách khác như sau:
" Phàm Sở hữu tướng giai hư vọng ... Nhược kiến chư tướng phi tướng tức Như Lai ".
Tạm dịch:
Phàm cái gì có sắc tướng đều là hư vọng, không thật... Nếu soi thấy các sắc tướng chẵng phải tướng (tức là tướng chơn thật) thì thấy Như Lai.
Thật vậy, cái gì có hình tướng đều phải chịu quy luật vô thường chi phối, đều biến đổi theo nguyên lý thành, trụ, hoại, không. Vì thế kinh mới nói các tướng đều là hư vọng, Không thật. Người tu Kim Cang Bát Nhã phải soi thấy cái tướng hằng hữu, chơn thật. vô hình ẩn tàng bên trong các tướng hữu hình. Cái tướng hằng hữu vô hình đó là cái thực tướng, cái thể tánh của vạn pháp vạn vật, còn được gọi là cái Chơn Không vô tướng.
Thiền Tông do Tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền sang đất Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 6 sau Tây Lịch cũng chủ trương trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật nghĩa là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật.
Tóm lại Tâm kinh Bát Nhã, Kim Cang Bát Nhã cũng như Thiền Tông đều cùng dạy chúng ta 1 bí quyết giải thoát, đó là Soi thấy cho được thể tánh KHÔNG của ngủ uẩn, thấy cho được thực tướng của vạn pháp.
c) Định nghĩa 3 chữ PHÁP TƯỚNG TÂM.
Tâm là nguồn gốc sanh ra vạn pháp, là tánh của vạn pháp. Tánh này là tánh KHÔNG. Khi pháp chưa hiện hành, còn đang chuyển biến trong tâm thì gọi là PHÁP TƯỚNG TÂM. Một khi đã chuyển biến xong, pháp xuất hiện ra ngoài, thành pháp tướng có thể nhìn thấy, sờ mó và hình dung được. Như thế PHÁP TƯƠNG TÂM là trung gian giữa tâm và pháp tướng, chính là pháp tướng còn trong giai đoạn chuyển biến ở nội tâm.
Thân người là pháp tướng, xuất phát từ tâm chúng sanh, nhưng phải qua trung gian của sắc uẩn được coi là Pháp tướng tâm.
d) LÂN TRẦN hay một siêu nguyên tử của ngày mai.
Căn bản của vật chất được khoa học phát minh đến ngày hôm nay, trước sau vẫn là nguyên tử. Trong nguyên tử có những vật thể vi tế chỉ có thể thấy được qua kính hiển vi mà thôi.
Về mặt khoa học, thân người gồm có vô số tế bào, trong một tế bào có vô số nguyên tử.
Trong tương lai, nhân loại sẽ phát minh thêm một số siêu nguyên tử nữa, nhỏ hơn rất nhiều so với kích thước và khối lượng của nguyên tử hiện được biết. Trong số các siêu nguyên tử của ngày mai, cái nhỏ nhứt mà chúng tôi tạm gọi là lân trần, là một thứ vật thể vô cùng vi tế, có thể ví như hư không. Do đó hư không mà chúng ta thường xem như là một bầu trời rỗng không, thật ra là một kho chứa vô lượng, vô biên, lân trần.
Theo khoa học, không có gì mất mà cũng không có gì tự lập.
Khi thân người chết, tất cả vật chất làm thành thân này, liền trở về hư không, dưới dạn lân trần, vì thế mới nói không có gì mất.
Thân này cũng không thể tự lập. Dù cho khoa học có tiến bộ tột đỉnh đi nữa cũng không tự nó làm ra con người, bởi lẽ con người là kết qủa của một số nhân duyên, của tứ đại tụ hợp lại làm thành. Mà tứ đại : đất, nước, gió, lửa là vật chất, là tổng hợp các lân trần trong hư không. Cũng vậy, vạn pháp đều do lân trần kết hợp mà hình thành.
Với thuyết lân trần được trình bày như trên, chúng ta mới hiểu vì sao chơn không của nhà Phật lại trở thành Diệu Hữu. Không có thuyết này, chúng ta không thể nào giải được do đâu mà có vũ trụ, có tinh tú, có ngân hà, có cả hành tinh v.v... ? Khi tìm cách giải thích những hiện tượng kỳ bí ấy, các tôn giáo thương cho rằng tất cả những thứ lạ lùng, vĩ đại hoặc vi tế ấy đều do một bàn tay của Đấng Tạo Hóa làm ra. Rồi từ quan niêm ấy, các giáo chủ mới bày ra những nghi thức tôn thờ lễ bái, cúng kiến hướng về đấng Tối Cao, chính đấng ấy, cách đây trên 2.500 năm, đức Phật Thích Ca đã đơn thuần tạm gọi là Chơn Không với dụng đích ám chỉ cái không thể mô tả, không thể định danh, không thể nghĩ bàn, cái không tăng, không giảm, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, tức là cái không chấp, không trụ.
e) Các phương thức chiếu kiến ngũ uẩn.
Chiếu kiến còn được gọi là quán chiếu, là chiếu soi. Có nhiều phương thức quán chiếu ngũ uẩn. Chúng ta chỉ cần quán chiếu một uẩn, đó là sắc uẩn, chớ khỏi cần quán chiếu đầy đủ 5 uẩn. Nếu chúng ta quán thấy Sắc uẩn là không, thì 4 uẩn kia còn lại đương nhiên cũng là không.
Chúng ta cũng có thể quán trực tiếp thân ngủ uẩn vì thân tướng hữu hình là pháp tướng, còn ngũ uẩn là pháp tướng tâm.
Cuối cùng, chúng ta cũng có thể chiếu soi vọng tâm của chúng ta, vì vọng tâm là danh từ tổng hợp dùng để gọi các uẩn : thọ, tưởng, hành, thức.
Từ một câu chiếu kiến ngũ uẩn giai không, chúng ta tìm ra được ba phương thức quán chiếu đó là quán chiếu sắc uẩn, quán chiếu thân, quán chiếu tâm.
* e1. PHƯƠNG THỨC QUÁN CHIẾU SẮC UẨN.
Nguồn gốc sanh ra sắc uẩn là vọng tưởng kiên cố. Như trước đã nói, sắc uẩn là pháp tướng tâm còn trong giai đoạn chuyển biến ở nội tâm, chưa hiện ra để trở thành pháp tướng tức là thân người. Nhưng pháp tướng tâm, trong khi chuyển biến lại tạo thành những làn sóng tư tưởng với những tần số riêng biệt. Chính các làn sóng này quy tụ các lân trần trong vũ trụ để cấu tạo vật chất, cấu tạo tứ đại. Do ở chỗ vật chất được cấu tạo từ lân trần, mà lân trần lại nằm trong hư không nên vật chất hay tứ đại lúc nào cũng nằm trong hư không. Vì thế tứ đại phải gắn liền với hư không. Đó là lý do vì sao trong cơ thể con người lại có những chỗ trống ấy thì làm sao chúng ta có thể cử động, phát triển và tồn tại ?
Trong buổi sơ khai, chưa có vật chất, vũ trụ và con gnười cũng như chưa có các loài chúng sanh khác, chỉ có cái chơn không mà thôi. Chơn không viên dung hai thế lực động và tĩnh, vọng và chơn. Hai thế lực này ở thế cân bằng nên tuy thấy hai nhưng mà như một. Do đặc tánh năng hóa của chơn không nên hai thế lực ấy tạm thời mất sự cân bằng. Thế lực động liền phát khởi, chuyển biến các lân trần thành một thứ đại đầu tiên gọi là GIÓ đại.
Gíó thổi không ngừng, càng nhiều và càng mạnh, vì thế lân trần tụ hợp lại càng đầy, càng kiên cố nên làm thành ĐẤT đại, trong đó có cả loại kim khí.
Gió thổi kim khí làm cho chúng cọ xát nhau mãi nên sanh ra LỬA đại và vì có lửa nên kim khí chảy sanh ra NƯỚC đại. Từ khi có tứ đại mới sanh ra côn, đảo, biển, núi non, cây cối và các loài chúng sanh.
Qua sự trình bày trên đây, chúng ta thấy thế lực động được phát khởi từ tánh năng sanh của Chơn Không hay của Chơn Như. Mà động tức là vọng, vì thế nhà Phật mới bảo do vọng tâm mới sanh ra tứ đại. Tâm chúng sanh lại gồm có 2 phần vọng và chơn, chính là 2 thế lực động tịnh nằm trong Chơn Không ở buổi sơ khai vậy.
Nếu vọng tâm là một thế lực của Chơn Như Tâm, thế lực ấy lại sanh ra tứ đại, sắc uẩn, ngược lại sắc uẩn tức là con đẻ của Chơn Như Tâm, nói khác đi sắc uẩn tức là Chơn Như Tâm, tức là Chơn Không. Do vậy SẮC TỨC LÀ KHÔNG, 4 uẩn còn lại cũng tức là Không.
Chúng ta cũng có thể quán chiếu trực tiếp Sắc tức là không, không qua trung gian của Tứ đại.
Như đã nói, Không, Chơn Không, Chơn Như, Chơn Như Tâm có đặc tánh năng sinh, năng hóa. Đó là ý nghĩa của câu "Vạn pháp duy tâm tạo". Nhưng trước khi hình thành vạn pháp còn gọi là pháp tướng, các tư tưởng phải trải qua một giai đoạn chuyển biến trong nội tâm với sự xuất hiện của các pháp tướng tâm, sắc uẩn tức là pháp tướng tâm.
Chơn Như vô hình, vô tướng, sắc uẩn cũng vô hình, vô tướng. Sắc uẩn chính là một loại vọng tâm kiên cố. Mà vọng tâm, chơn tâm, trên căn bản chỉ là một tâm mà thôi, giống như sóng và nước. Vì thế, chúng ta có thể kết luận Sắc tức là không.
* e2. PHƯƠNG PHÁP QUÁN CHIẾU THÂN NGŨ UẨN.
Như đã nói, tứ đại hay sắc làm thành thân người.
Mà thân thể chúng ta được hình thành vì nuôi dưỡng bằng vật chất do đó thân thể gồm có vô lượng, vô biên tế bào. Trong mổi tế bào còn có vô lượng, vô biên nguyên tử.
Khi thân này chết, thịt xương lần hồi tan rã, các tế bào và các nguyên tử cũng phải biến theo. Chúng trở về với là cái kho tàng vĩ đại chứa đựng vô lượng, vô biên nguyên tử, siêu nguyên tử còn gọi là lân trần.
Vì thế thân ngũ rốt ráo chỉ là một tổng hợp của lân trần, mà lân trần là một loại siêu nguyên tử của ngày mai, kích thước và khối lượng không thể thấy được bằng mắt thường, chỉ có thể thấy qua kính hiển vi siêu điện tử. Lân trần do đó có thể ví như hư không.
Để kết luận, thân ngũ uẩn sau một quá trình tan biến sẽ trở thành hư không. Mà hư không lại là biểu tượng của Chơn Như. Tóm lại, tuy thân tướng con người có hình, có dạng nhưng bên trong luôn luôn có cái thể tánh Chơn Như Xuyên qua tướng mà thấy được tánh như thế mới gọi là chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Với trí Bát Nhã, với tâm không, không trụ, không chấp tướng, chúng ta mới có thể thấy tánh, nói khác đi, KHÔNG, VÔ TƯỚNG là 2 đều kiện cốt yếu có thể giúp chúng ta thấy Tánh, thoát khỏi sanh tử, luân hồi, không còn bị bắt buộc phải mang lấy xác thân nặng nề trong tương lai.
e3. PHƯƠNG PHÁP QUÁN TÂM.
Vì tâm thuộc về tinh thần nên bao gồm 4 uẩn còn lại, đó là thọ, tưởng, hành, thức. Quán chiếu tâm tức là quán chiếu, chiếu soi 4 uẩn này.
4 uẩn này là 4 vọng tưởng có sức tác hại lớn lao nhứt đối với sự an vui và hạnh phúc của con người. Chúng ta thành ma, quỉ, thánh, thần hay Tiên, Phật cũng đều do chúng.
" Trồng bông kiểng, giống chi hưởng nấy.
Địa ngục cũng tại tâm làm quấy,
Về Thiên đàng, tâm ấy tạo ra.
Cái chữ tâm là quỉ hay ma,
Tiên hay Phật cũng là tại nó.
Vì thế, người tu pháp chiếu soi cần phải hết sức thận trọng, luôn tỉnh táo mới có thể kịp thời đối phó, chống trả các ma lực của chúng.
Định lý chiếu kiến ngũ uẩn giai không trong Tâm kinh Bát nhã là do Bồ Tát Quán Tự tại hay Quán Thế Âm mà ra. Khi đưa ra định lý này, Ngài đã xác định giá trị tuyệt đối của nó. Nay trong chương trình tu học Bát Nhã, chúng ta chỉ cần hiểu vì sao 5 uẩn đều là Không, đều là Chân Như, nói khác đi, chúng ta chỉ cần tỏ thấu định lý "vọng tâm, vọng niệm chính là chơn tâm, chơn niệm, vọng tức là chơn, chơn tức là vọng".
Định lý này chính là nguyên lý nhứt như hay bất nhị không hơn không kém.
Chúng ta đã rõ sắc uẩn là không, nếu suy diễn rộng ra, 4 uẩn còn lại, tức là tâm, đương nhiên cũng là không.
Sở dĩ chúng ta quán thêm phần tâm là vì chúng ta muốn phát huy pháp chiếu soi bằng cách triệt để áp dụng định lý của Bồ Tát Quán Thế Âm trong khi đối pháp, đối cảnh.
Chúng ta nên nhớ rằng thân này cũng như sự vật và ngoại cảnh, tức là ngã và pháp, tự chúng không gây tác hại nào cả. Chúng là những phương tiện để chúng ta sử dụng trong cuộc sống vật chất và tinh thần của chúng ta.
Vì thế mới nói chúng có cái tướng dụng riêng. Nếu trong khi đối pháp, chúng ta biết khai thác cái tướng dụng của chúng, chúng ta sẽ làm cho đời càng thêm tươi đẹp. Nếu chúng ta không biết thì chúng là chúng, ngã và pháp vẫn là ngã và pháp, không có một chút liên hệ gì đến sự an vui và hạnh phúc của chúng ta.
Tứ tổ Đạo Tín có lần giải đáp như sau cho một đệ tử chân truyền lá Pháp Dung : "Cảnh vật không có tốt hay xấu, tốt xấu tại nơi tâm. Tâm chẳng khởi, thất tình làm sao có ? Thất tình không khởi thì chơn tâm tha hồ hiện bày ! "
Lời nói của Tứ Tổ xác đáng làm sao ! Ngã và pháp là những gì đã hình thành từ vô lượng kiếp về trước, đã được cu sinh, nghĩa là sinh ra một lượt với con người, do đó chúng ta hãy để yên ngã và pháp, bằng cách đừng chấp, đừng Ôm ngã và pháp, thì tự nhiên chúng ta sẽ được an vui và hạnh phúc.
Mà muốn không chấp, không trụ ngã và pháp, tức là không chấp, không trụ các thứ vọng tâm, vọng niệm, chúng ta hãy áp dụng nguyên lý nhứt như theo đó thì vọng và chơn đều là một.
Chúng ta nên nhớ rằng, Chơn Như tuy bất biến mà tùy duyên, tuy tịnh mà động. Tịnh là thể, động là dụng. Do đó tất cả vọng tâm, vọng niệm, ngã và pháp đều là cái dụng của Chơn Như, đều là Phật pháp, mà Phật pháp chính là pháp giải thoát. Mặc dù cái dụng của ngã và pháp là cái dụng thô trược, nhưng nó sẽ thúc đẩy chúng sanh với thời gian đạt đến chỗ giác ngộ, giải thoát giống như bùn lầy sẽ thúc đẩy hoa sen trổ bông thơm ngát.
Tu bát Nhã, chiếu soi ngã pháp, chúng to hãy theo gương của chư Phật và Bồ Tát chỉ thấy có tánh năng sanh trong bất cứ việc gì, từ những tư tưởng chấp ngã cho đến lời nói và hành động của mình và của người, chớ đừng để ý đến hiện tượng, bởi lẽ hiện tượng chỉ là những vật ảo hóa do tánh năng sanh biếc hiện ra mà thôi.
" Chiếu soi ! Chiếu soi ! soi cho rõ.
Trăm ngàn niệm, niệm khởi trong lòng.
Niệm niệm chẳng khác nào niệm không,
Bát Nhã ! Bát Nhã ! bừng sáng tỏ. "
Niệm không trong bài kệ đây có nghĩa là niệm chơn, là chơn niệm, còn niệm niệm là vọng niệm. Nếu chúng ta đã thấm nhuần nguyên lý vọng chẳng khác nào chơn thì liền đó Bát Nhã bừng sáng tỏ.
Mỗi khi đối pháp, đối cảnh mà thấy thất tình, lục dục khởi nơi lòng, chúng ta hãy nhớ ngay lúc đó chúng là cái dụng của Chơn Như, củng là những hiện tượng do tánh năng sanh biến hiện.
Biết được như vậy, chúng ta sẽ không còn làm nô lệ cho ngã pháp, chúng ta sẽ được an nhiên, tự tại, sẽ được hưởng một thứ hạnh phúc tuyệt vời mà nhà Phật gọi là Đại Bát Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Đừng bao giờ nghỉ vọng niệm khác với chơn niệm, nghỉ như thế tức là nghỉ theo lối nhị nguyên. Chúng ta hãy quán tưởng cho thật nhuần nhuyễn nguyên lý nhứt như, hãy thâm nhập nguyên lý để không còn phân biệt vọng chơn, thiện ác v.v... Nhờ thâm nhập như thế, chúng ta sẽ soi thấy được cái dụng của mọi vọng tưởng, vọng tâm chấp ngã, chấp pháp, từ đó chúng ta mới thấu triệt được đặc tánh năng sanh của bản thể chơn như của các hiện tượng đang diễn biến trước mắt chúng ta hằng giờ, hằng phút.
Tóm lại câu ngủ uẩn giai không sắc tức là không, không tức là sắc đồng nghĩa với câu vọng tức là chơn, chơn tức là vọng, bởi lẽ sắc cũng như ngũ uẩn đều do vọng tưởng sanh ra nên chúng là vọng, còn không là chơn không, là chơn.
Vì quen soi rọi các tư tưởng của mình nên lúc nào chúng ta cũng tỉnh táo, bén nhạy để kịp thời biết các vọng niệm đang xẹt ra trong đầu. Khi đối pháp mà thấy tâm mình động thì liền biết một vọng tình sắp phát sanh. Biết kịp như thế tức là mình đã làm chủ được nó rồi. Mà làm chủ được nó thì đương nhiên mình đã chuyển hóa được nó.
Trong tất cả pháp môn tu tập của Bồ Tát chỉ có pháp chiếu soi là pháp môn đem lại hiệu quả nhanh nhứt vì nó vốn bao gồm cả Định lẫn Huệ. Từ lâu rồi, đa số các Phật tử vì lầm chấp Định Huệ là hai pháp riêng biệt, họ cho rằng định có trước ; Huệ mới có sau, nên đã quên mất đi cái diệu thể đồng nhứt nằm trong 2 pháp, bởi lẻ nơi Định có Huệ, nơi Huệ có Định. Đinh Huệ tuy nói hai nhưng thật ra chỉ là một.
Gọi là Huệ vì thấy được 3 mặt Tướng, Thể, Dụng của một vấn đề, thấy được như thế là thấy đúng như thật mà văn chương Phật giáo gọi là NHƯ THỊ.
Còn gọi là Định vì trước mọi cảnh vật bên ngoài, vẫn được bình thân, không dao động, không bị lôi cuốn, không bị nhiễm ô.
Pháp chiếu soi rất phù hợp với người đời nay vì hết sức đơn giản, trong khi các loại Thiền khác rất phức tạp. Bất cứ giờ phút nào, chúng ta cũng có thể thực hành được, không cần phải có sẵn nơi thanh tịnh hay phải có đủ phương tiện cần thiết.
Viên bi đang lăn trên mặt bằng tượng trưng cho 2 pháp Định và Huệ, bởi lẽ nó không bị cát bụi bám vào, đó là Định. Mặt ngoài của viên bi càng lăn càng thêm bóng láng, sáng sủa nhờ cọ xát, đó là Huệ.
Pháp Chiếu soi chính là pháp hành thâm Bát nhã. Gíá trị của nó có tánh cách muôn đời và vô cùng lớn lao. Nếu được hành trì liên tục, nó có thể giúp mọi người một mạch đi đến quả vị giác ngộ.
III. PHÁP PHỔ MÔN TRONG KINH PHÁP HOA
Pháp này nằm trong Phẩm 25 của bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, được đức Phật giảng dạy trong giai đoạn chót của cuộc đời Ngài.
Dưới đây là phần tóm lược những gì có liên quan đến pháp này.
1. TÓM LƯỢC.
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý Bạch Phật ! Thế Tôn ! Do nhân duyên nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm có danh hiệu là Quán Thế Âm ?
Phật bảo : “ Chúng sanh nào đang đau khổ mà một lòng xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát thì Bồ Tát biết ngay và chúng sanh ấy liền thoát khỏi đau, liền được giải thoát ”.
Người nào trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì :
• Vào lửa, lửa chẳng cháy.
• Bị nước cuốn trôi thì liền đến chổ cạn,
• Đi thuyền giữa đại dương tìm châu báu mà tấp vào nước của quỉ La Sát thì dược thoát nạn La Sát.
• Sắp bị người đánh chém, thì dao gậy liền gãy.
• Không bị quỉ Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Phú đơn Na ám Hại.
• Bị xiềng xích, gông cùm thì xiềng gông tan rã.
• Đi lạc vào nơi hiểm trở, gặp giặc cướp thì liền thoát khỏi và không sợ sệt.
• Nếu chúng sanh nào còn nhiều ái dục, giận hờn, ngu si mà niệm hồng danh Quán Thế Âm thì sẽ hết dục, hết giận hờn và ngu si.
Người nữ nào lễ bái, cúng dường để cầu con trai thì được con trai đầy đủ phước huệ. Cầu con gái thì được con gái xinh đẹp, hiền lành, được nhiều người mến yêu.
Lễ bái, cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm được phước đức nhiều như phước đức của người trì niệm danh hiệu và cúng dường 62 ức hằng Sa Bồ Tát.
Bố Tát Vô Tận Ý Bạch Phật : “ Thế Tôn ! Bồ Tát Quán Thế Âm làm cách nào đi dạo khắp cõi Ta Bà ? Sức phương tiện của Bồ Tát về việc này như thế nào ? ”
Phật bảo : “ Nếu cần 1 thân Phật để độ thoát 1 chúng sanh nào đó thì Bồ Tát Quán thế Âm liền niệm hìện thân Phật để nói pháp. Nếu đáng dùng thân của Duyên Giác, Thinh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trường Giả, của cư sĩ, của tể quan, của Ba là môn, thân con trai, con gái, thậm chí đến thân của Bát Bộ chúng để độ chúng sanh ở nước nào đó, thì Bồ Tát Quán Thế Âm tùy thuận mà hiện thân. Này Vô Tận Ý ! Công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm to lớn như thế các ông phải một lòng cúng dường. Bồ Tát vốn được cõi Ta Bà tôn vinh là bậc bố thí Vô Uý ”.
Đáp câu hỏi của Bồ Tát Vô Tân Ý về danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm Phật nói bài kệ đại ý như sau :
“ Ông đã biết công danh của Quán thế Âm, đó là vì Quán Thế Âm đã phát thệ sâu rộng, khó nghĩ bàn, nhằm hầu hạ vô lượng đức Phật để đạt sự thanh tịnh tuyệt đối ”.
Những người luôn tưởng nhớ Bồ Tát Quán Thế Âm thì thoát khỏi mọi nạn tai. Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân cùng khắp, nhằm dứt trừ 4 thứ khổ và 3 đường dữ cho cúng sanh. Hãy thường xuyên chiêm ngưỡng Bồ Tát bằng cách áp dụng thứ quán sau đây:
Chơn quán
Thanh tịnh quán
Trí huệ quán
Từ Bi quán
Quán Thế Âm là ánh sáng thanh tịnh, là mặt trời Huệ, soi sáng các chỗ tối tăm, hàng phục nạn tai khói lửa, là tâm đại bi rưới mưa pháp cam lồ, dứt trừ phiền não, xua đuổi hận thù nơi pháp đình cũng như nơi trận địa.
Bồ Tát Quán Thế Âm là Diệu Âm, Phạm Âm, Hải triều Âm Vi diệu hơn tất cả các tiếng thế gian. hãy thường xuyên trì niệm và lễ bái.
Phần TÓM LƯỢC trên đây được trích dẫn trong quyển PHÁP HOA TÂM ẤN do chúng tôi biên soạn năm 1990.
Việc trước tiên mà chúng ta có thể tự hỏi là vì sao Phẩm Phổ Môn được đức Phật giảng trong kinh Pháp Hoa, Tại sao Ngài không giảng trong các kinh khác như Thủ Lăng Nghiêm, Viên Giác ?
Kinh Pháp Hoa Được Ngài nói không bao lâu trước khi Ngài tịch diệt. Từ lúc mới bắt đầu hoằng pháp cho đến giờ phút nhập diệt, Ngài đã dẫn dắt các đệ tử qua nhiều đoạn chứng ngộ, từ thấp đến cao.
Qua Pháp Tứ Đế, các đệ cử đã tỏ ngộ đời là bể khổ, cần phải sớm nhàm chán để lo tu các pháp giải thoát. Đó là giai đoạn chứng khổ đầu tiên.
Thời gian trôi qua, các môn đồ của Ngài đã thấm nhuần pháp Tứ Đế, cảm thấy quả thật mình đã nhàm chán cuộc đời, không còn luyến tiếc những gì mình đã ôm ấp trước kia. Để giúp cho họ thật sự buông bỏ mọi thứ có ở trên đời, Phật bèn giảng dạy các pháp trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác... theo đó chỉ vạn pháp thế gian này đều là huyễn hóa, người tu biết huyễn liền phải lìa ngay. Giai đoạn 2 này là giai đoạn ngộ được tánh chất huyễn hóa của cuộc đời để từ đó thật sự dứt trừ tâm chấp ngã, chấp pháp.
Nhưng đức Phật chưa ngừng tại đây. Tiến lên một tầng nữa. Ngài liền đem chơn lý "vạn pháp đều không" ra giảng dạy cho các cao đồ. Giai đoạn 3 này là giai đoạn dài nhứt nói về lý Bát nhã, chiếm trọn 22 năm trời hoằng pháp của Ngài. Sở dĩ Ngài kéo dài thời gian nói pháp KHÔNG là vì pháp này vốn là pháp căn bản tối yếu của người tu Phật. Chẳng liểu ngộ lý KHÔNG thì làm sao hòa nhập được bản thể Chơn Không Diệu Hữu ? Phật dạy Bát Nhã suốt 22 năm chỉ nhằm mục đích giúp các đệ tử có đủ thời gian tu tập để thấm nhuần cái tâm không chấp, không trụ nhưng lại có thể dung nhiếp vạn pháp, vạn vật để rồi hoàn tất lộ trình tu Huệ đi từ Sắc trở về Không.
Cuối cùng khi thấy có một số đệ tử đã hòa nhập được bản thể chung cùng, đức Phật mới giảng các bộ kinh Viên Giác như Pháp Hoa, Duy Ma Cật, cốt để thúc giục các vị này sớm phát đại hạnh nguyện, lăn lộn trở lại thế gian để xây dựng, củng cố và hoàn mãn công đức độ sanh, đồng thời để thành tựu và trang nghiêm quốc độ thanh tịnh của mình. Đó là lộ trình thứ hai tu Phước, ngược với lộ trình đầu, còn gọi là lộ trình đi từ Không trở về Sắc.
Trong lộ trình này, các Bồ Tát sẽ sắp vào hạng ưu tiên 1, tất cả những gì phải làm để cứu độ chúng sanh, khai thị ngộ nhập cho họ nhằm giúp họ thoát khỏi căn nhà lửa của 3 cõi.
Chính trong thời kỳ cuối này, Phật mới nói pháp Phỗ Môn của Bồ Tát Quán Thế Âm vốn được chúng sanh vinh tặng danh hiệu là Bồ Tát bố thí vô úy.
Hôm nay, tu tập pháp Phổ Môn, chúng ta cũng ôm ấp một hoài bảo độ sanh như Bồ Tát, bởi ở thời buổi cuối thế kỷ 20 này, tất cả mọi người đang cấu xé lẫn nhau vì miếng cơm, manh áo, vì của cải vật chất, do đó đã vô tình tạo ra không biết bao nhiêu nỗi khỗ đau cho nhân loại, khiến cho chúng ta mặc dù chưa hoàn tất lộ trình tu Huệ không lẽ nhắm mắt ngồi yên mà không ra tay cứu vớt ? Tuy không làm được những công tác xã hội lớn lao như các tổ chức từ thiện quốc tế, nhưng chúng ta cũng phãi góp công sức, tiền bạc, để giúp đỡ phần nào những kẻ nghèo đói, bệnh tật, cô đơn đang chịu tai trời, ách nước. Ngoài những phần đóng góp bằng vật chất, chúng ta cần đạt trọng trâm vào công việc giải thích cho các tín hữu đang chịu khổ hiểu rõ về bộ máy nhân quả, về sự cần thiết phải làm lành lánh dữ, nhứt là về khả năng thánh Phật của mỗi người, bởi lẽ ai ai cũng có Phật tâm, cũng có ngội Tam Bảo nơi lòng.
Đây là lý do vì sao pháp Phổ Môn được Phật giảng dạy trong kinh Pháp Hoa trước khi Ngài nhập diệt.
Diệu Pháp Liên Hoa, cái tên của bộ kinh vĩ đại mà Phật đã để lại cho chúng ta, cái tên ấy có nghĩa là vạn pháp đang diễn biến hằng ngày trước mắt chúng ta đều có tánh cách vi diệu đều là Phật pháp. Vì thế người tu Phật khi đã nhìn thấy các pháp đều là diệu rồi thì tâm sẽ trở nên bất nhiễm giống như hoa sen đang tỏa hương thơm ngát trên vũng bùn lây nước đọng. Với cái tâm bất nhiễm ấy, người tu sẽ tự tại hành trì pháp Phổ Môn cứu khổ cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành như không hành mà là hành. Đó là hạnh vô công dụng của Bồ Tát từ đệ bát Địa trở lên. Ở phần trước, chúng tôi đã trình bày rằng muốn hòa nhập bản thể Chơn Như, chúng ta phải đi qua hai cửa ải, đó là cửa KHÔNG và cửa VÔ TƯỚNG. Nay cửa ải thứ ba đang chờ chúng ta, đó là cửa VÔ TÁC.
Qua lọt cửa ải này, chúng ta đã hoàn tất lộ trình tu Phước, đi từ Không trở về Sắc.
Noi gương của bồ Tát Quán Thế Âm, chúng ta hãy phát đại nguyện hành trì pháp Phổ Môn của Ngài. Với pháp này, chắc chắn chúng ta sẽ có ngay hoàn mãn sự nghiệp xây dựng công đức và phát huy trí huệ.