http://www.xaluan.com/modules.php?na...ticle&sid=6489

Các ngôi mộ đá ở Kim Bôi - Hoà Bình đều tuân thủ một nguyên tắc chung: phía đầu mộ chôn ba khối đá cao, to nhất thành một hàng thẳng, còn chân mộ chôn ba khối nhỏ hơn, thấp hơn đối xứng với đầu mộ: Có khối cao đến 5m, nặng cả chục tấn...
Ông Bùi Minh Lợi trước ngôi mộ còn sót lại.

Có một nữ tiến sĩ người Nhật, đã nhiều năm nghiên cứu văn hóa dân tộc Mường ở Việt Nam. Bà biết đến khu rừng mộ đá độc đáo ở Kim Bôi, Hòa Bình qua tài liệu nghiên cứu của các nhà khoa học. Bà đã cùng các nhà khảo cổ sang Việt Nam khai quật khu mộ này. Khi chứng kiến cảnh hoang tàn của rừng mộ đá 400 năm tuổi, bà đã bật khóc vì tiếc nuối.

Ông Bùi Minh Lợi, Trưởng ban Văn hóa xã Vĩnh Đồng (Kim Bôi, Hòa Bình) cứ kể đi kể lại câu chuyện đó khi tôi hỏi về khu mộ đá Đống Thếch. Ông đã bỏ công việc đồng áng cả tháng trời để xem những người Nhật Bản yêu khảo cổ làm việc miệt mài trên đống mồ hoang còn lại do bị bọn “mộ tặc” đào bới. Nước mắt của vị nữ tiến sĩ người Nhật làm ông xúc động.

Ông Lợi là Trưởng ban Văn hóa xã, quyền hành chẳng có là bao, nhưng ông rất có trách nhiệm với khu rừng mộ đá huyền bí nằm giữa thung lũng có hình miệng rồng này. Những giọt nước mắt tiếc nuối một di chỉ khảo cổ cực quý của nữ tiến sĩ người Nhật làm cho ông hiểu thêm giá trị của nó.

Vậy nên, dù khu mộ đá chẳng còn lại là bao, ông vẫn ngày hai lần, tối hai lượt đạp xe lọc cọc vào khu mộ đá để xua đuổi những tên “mộ tặc” chuyên săn lùng đồ cổ. Tất nhiên, chẳng ai trả lương cho ông vì việc đó. Ông cần mẫn làm vậy để mong con cháu đời sau còn được biết đến văn hóa dân tộc Mường Động của mình xưa kia.

Tôi thật sự khâm phục sự cẩn thận của ông Lợi khi ông lôi trong chiếc tủ đã mối mọt ra một chồng tài liệu ố vàng, cũ kỹ, toàn là nói về văn hóa Mường và những nghiên cứu khảo cổ khu rừng mộ đá Đống Thếch.

Ngày ông Lợi còn nhỏ, ông cùng đám trẻ trong bản thường xua trâu bò lên núi, quanh khu rừng mộ đá. Dù tò mò lắm song bọn trẻ cũng không dám vào khu rừng mộ đá, bởi nó quá lạnh lẽo, u ám. Khi đó, rừng phủ khắp nghĩa địa mộ đá. Hàng vạn cột đá đen trũi nằm im lìm trong sương mờ, trải khắp thung lũng. Nơi đây được mệnh danh là vùng đất của người chết, cọp beo và các vị thần linh.

Theo tài liệu cổ của người Mường, ngày xưa, các vị quan lang ở xứ Mường Động rộng lớn đã chọn khu vực núi non hình miệng rồng này làm nơi yên nghỉ vĩnh hằng nhằm giữ long mạch cho con cháu đời sau mãi được cơ đồ.

Theo truyền thuyết, người vợ thứ ba của Vua Hùng giận chồng đã bỏ kinh đô, dắt theo hai người con lên rừng khai hoang lập ấp, tạo nên vùng đất vô cùng trù phú. Khi ba mẹ con mất hóa thành 3 ngọn núi dáng rồng chầu và cùng hướng về kinh đô. Hàng năm, vào những ngày tết, các bản Mường dắt trâu, bò lên núi, nơi có rừng mộ đá mổ thịt cúng Vua Hùng.

Mỗi bản Mường thường có một bà mỡi (tương tự như thầy mo, thầy cúng) và các bà mỡi có quyền lực rất lớn trong bản. Điều đặc biệt là các bà mỡi đều thờ Vua Hùng. Để quyền năng của mình cao hơn, các bà mỡi thường sắm lễ mang vào rừng mộ đá cúng bái.

Khi một vị quan lang hoặc gia tộc có người chết thì cả vùng Mường Động làm đại tang. Quan tài là một khúc gỗ quý được khoét rỗng ruột. Sau nhiều ngày cúng bái, quan tài mới được khiêng đi chôn ở nghĩa địa mộ đá. Người ta rải một lớp than củi đốt bằng gỗ trai, và đổ vào quan tài một lớp gạo rang khá dày rồi mới lấp đất.

Chỉ với những vị quan lang mới được táng cẩn thận như vậy để giữ xác lâu phân hủy. Những đồ vật cũng được chôn theo khá nhiều. Người nào làm quan to, giàu có thì được chôn theo rất nhiều vật quý. Thậm chí, theo truyền thuyết, người ta còn chôn sống gia nhân là các cô gái xinh đẹp để phục vụ người chết ở cõi âm.

Sau khi lấp mộ, lính tráng, cùng hàng trăm thanh niên khỏe mạnh khắp xứ Mường Động phải cưỡi voi vào tận Thanh Hóa khai thác đá xanh vĩnh cửu rồi vận chuyển ra. Điều này được kể trong những mo Mường và cũng khớp với nhận định của các nhà khoa học, bởi loại đá xanh vĩnh cửu như ở khu mộ này chỉ có ở Thanh Hóa. Những khối đá lớn này được đẽo gọt, chạm trổ rồi đem chôn xung quanh mộ.

Các ngôi mộ đều tuân thủ một nguyên tắc chung: phía đầu mộ chôn ba khối đá cao, to nhất thành một hàng thẳng, còn chân mộ chôn ba khối đối xứng với đầu mộ và những khối này nhỏ hơn, thấp hơn. Nhiều nhà khảo cổ đã sững sờ trước cảnh tượng hàng ngàn khối đá lớn, có khối cao đến 5m, nặng cả chục tấn, được dựng thẳng đứng quanh những ngôi mộ sau vài trăm năm dãi dầu mưa nắng mà vẫn vững chãi. Với các nhà khoa học, việc đưa ra những giả thuyết về cách khai thác, vận chuyển những khối đá lớn này trên đoạn đường rất dài của người xưa là hết sức thú vị.

Trên mỗi khối đá đều khắc chữ Hán nói về thân thế, công danh, gia tộc của người nằm dưới mộ. Với những khối đá xanh vĩnh cửu, các quan lang, gia tộc người Mường tin rằng con cháu đời sau sẽ mãi khắc ghi công trạng của tổ tiên mình.

Ông Lợi cho tôi xem bản dịch của một chuyên gia khảo cổ học nội dung của những dòng chữ trên một hòn đá mồ: Ông Đinh Công Kỷ, tước Uy lộc hầu, thổ tù kiêm cai quản vùng Mường Động. Sinh năm 1582, mất giờ sửu, ngày 13 tháng 10 năm Đinh Hợi 1647. Khi chết được ban tước Chưởng vệ đề đốc uy quận công. Đến ngày 22 tháng 2 năm Canh Dần (1650) được đưa về huyệt trên núi bằng 15 xe tang, 7 con voi, 5 con ngựa...

Con cháu, thê thiếp của các vị quan lại thổ tù cũng đều có mồ riêng với những cột đá sừng sững uy nghi. Có một điều gây ấn tượng đặc biệt đối với các nhà khảo cổ học trong nước và quốc tế, ấy là những tấm bia đều ghi ngày mất và ngày hạ huyệt cách nhau rất lâu, đến vài năm. Tuy nhiên, các cụ già người Mường lại rất hiểu điều này.

Những bài mo Mường kể rằng, khi người chết, xác được cho vào trong khúc gỗ quý có lót than gỗ trai, gạo rang rồi treo trong nhà hoặc bếp vài năm sau mới đem chôn. Trong suốt thời gian đó, gia đình phải cúng tế đều đặn với những nghi lễ rất phức tạp để linh hồn người chết được siêu thoát.

Cũng chính việc mai táng người chết phức tạp, kéo dài như vậy nên nền văn hóa Mường một thời được thể hiện rất đầy đủ qua các nghi lễ mai táng. Nữ tiến sĩ người Nhật nói với ông Lợi rằng, bà đã đi rất nhiều nơi trên thế giới, nhưng chưa gặp nơi nào có rừng mộ rộng lớn và chứa đựng nhiều câu trả lời về văn hóa, lịch sử như khu mộ Đống Thếch của người Mường. Chỉ tiếc rằng nó đã bị phá gần hết.

Vẫn với chiếc xe đạp lọc cọc, ông Bùi Minh Lợi dẫn tôi qua những con đường quanh co tìm vào hõm núi hình miệng rồng. Khu mộ đá hiện ra trước mắt thật thảm hại. Cả một thung lũng rộng lớn, từng là rừng mộ mênh mông xưa kia, nay là cánh đồng mía bạt ngàn, những thửa ruộng trồng đủ các loại rau cỏ. Trâu bò nhẫn nại kéo cày, người kiên trì cuốc đất.

Để bảo vệ rừng mộ đá cổ kính, bí ẩn một thời, các cơ quan chức năng tỉnh Hòa Bình đã trình thủ tục lên trung ương và lập tức khu mộ cổ Đống Thếch trở thành di tích lịch sử quốc gia. Ngay sau đó, khu mộ đá cổ còn sót lại được đầu tư làm đường, xây tường rào, nhà bảo vệ và có cả ban bảo vệ di tích, cùng với hướng dẫn viên phục vụ khách tham quan.

Tuy nhiên, khi chúng tôi đến thì thấy cảnh tượng bảo vệ di tích cấp quốc gia này thật... buồn. Tường xây thấp lè tè, không có hàng rào thép gai bảo vệ, cổng mở suốt ngày đêm, nhà bảo vệ không một bóng người. Trong khu vực còn sót lại của rừng mộ rộng 3 ha được “bảo vệ nghiêm ngặt” này, người dân vẫn dắt trâu bò vào cày bừa, gieo trồng quanh những ngôi mộ cho đỡ... phí đất.

Các hố khai quật đã được san bằng để trồng ngô, đậu tương, rau cỏ. Những tảng đá được người dân khiêng về lót cầu ao, đập vỡ nung vôi, hoặc đẩy vào một xó để lấy đất trồng cấy. Tệ hại hơn, người ta còn xây cả hố chứa phân chuồng, ủ phân xanh bón cho cây trồng trong khu vực bảo vệ.

Không hiểu sao, trong khi du khách lên Hòa Bình có rất ít chỗ để tham quan, tìm hiểu văn hóa Mường, vậy mà ngay tại “thủ phủ Mường Động” này người ta lại bỏ phí một khu di tích quý như vậy?

Rừng mộ đá cổ Đống Thếch bị phá nát kể từ khi bọn trộm cổ vật nhòm ngó trước sự thờ ơ của chính quyền địa phương. Một lý do nữa là bởi những vị quan lang, thổ tù xưa kia khi về cõi âm thường “mang theo” rất nhiều vật quý.

Người dân quanh vùng còn kể những câu chuyện huyễn hoặc về bọn trộm mồ mả. Chuyện rằng, có một đoàn lái buôn đi qua đã ghé vào khu rừng mộ đá nghỉ đêm. Sáng hôm sau, dân làng kéo vào thấy vài ngôi mộ bị quật lên, cuốc, thuổng, ngựa thồ, hàng hóa còn đó nhưng không thấy người. Từ bấy, dân làng càng sợ khu rừng mộ đá thiêng. Có lẽ đây là chuyện do người Mường quanh vùng dựng lên để khiến những kẻ trộm đồ cổ khiếp sợ, nhưng câu chuyện này cũng phản ánh rằng, khu mộ đã bị trộm xâm nhập.

Ông Lợi kể, vào năm 1988 và 1989, các bản Mường nơi đây lâm vào cảnh mất mùa, đói kém. Đúng lúc đó, dân buôn kéo lên gạ đồng bào quanh vùng vào rừng mộ đá đào đồ cổ bán cho chúng. Đang đói khát thì sợ gì ma, thế là người dân cùng những tên “mộ tặc” kéo vào đào xới, tàn phá nghĩa địa mộ đá. Người ta đánh cả xe thồ, xe ba gác vào núi chở đồ cổ ra. Giới buôn bán phóng xe con, xe to rầm rập từ Hà Nội lên, từ TP HCM ra để thu mua đồ cổ.

Đến khi cả rừng mộ tan hoang thì chính quyền mới vào cuộc. Mặc dù vào cuộc chậm, song vẫn thu được khá nhiều cổ vật. Ngoài cổ vật của nhiều triều đại nước Việt còn có đồ gốm Trung Quốc, Nhật Bản thế kỷ XVII. Trong số những cổ vật thu được quý nhất là 4 chiếc trống đồng. Theo người dân, có đến cả trăm chiếc trống đồng được tìm thấy và đã bán trôi nổi ngoài thị trường.

Khi Nhà nước triển khai bảo vệ rừng mộ đá cổ thì chỉ còn lại trơ trọi 9 ngôi mộ. Các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật mộ ông Đinh Công Kỷ vào năm 1990 và tìm được cỗ quan tài bằng gỗ trám đen, bên ngoài sơn son thếp vàng, còn khá nguyên vẹn, cùng với rất nhiều vàng bạc châu báu. Thứ đặc biệt quý tìm thấy trong ngôi mộ này là chiếc trống đồng Ngọc Lũ.

Số lượng cổ vật ở khu vực rừng mộ đá cổ nhiều đến nỗi, gần đây, Công an huyện Kim Bôi vẫn còn bắt được một vụ buôn bán chiếc thạp cổ. Trong vụ buôn bán đó, cái thạp này được định giá tại chỗ là 200 triệu đồng. Theo tiết lộ của một vị cán bộ ở Bảo tàng tỉnh Hòa Bình, hiện tại, Công an tỉnh đang giữ một món cổ vật đặc biệt quý, được cho là đào thấy ở rừng mộ đá Đống Thếch. Món đồ này được Hội đồng định giá cổ vật (Bộ VH-TT) định giá lên đến 2,5 tỉ đồng. Công an tỉnh thu giữ vật này từ tay bọn săn trộm đồ cổ, nhưng chưa bàn giao cho Bảo tàng vì chưa đủ điều kiện bảo vệ an toàn.

Khu vực quanh rừng mộ đá vốn là Tổng huyện Mường Động ngày xưa. Trong văn hóa người Mường vẫn còn câu “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”, để chỉ những địa phương sầm uất, giàu có nhất xứ Mường một thời. Mỗi xứ Mường đều có khu nghĩa địa riêng dành cho quan lang, thổ tù, song chỉ có khu nghĩa địa mộ đá của xứ Mường Động là còn tồn tại đến ngày nay và cũng là di chỉ có giá trị nhất về mặt lịch sử cũng như khảo cổ học.

Theo gia phả họ Đinh, người dựng nên xứ Mường Động là ông Đinh Văn Cương, người Ngọc Lặc, Thanh Hóa. Sau khi có công lớn giúp Lê Lợi diệt nhà Mạc cuối thế kỷ XVI, ông đã được Vua Lê, Chúa Trịnh phong tước, đổi họ thành Đinh Công, cho cai quản xứ Mường Động, là vùng Kim Bôi ngày nay. Chính việc xác lập vị trí vững vàng của dòng họ Đinh mà nhiều đời sau cha truyền con nối làm tù trưởng.

Nổi bật nhất trong dòng họ Đinh là ông Đinh Công Kỷ. Ông là một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Trung Hưng, được phong chức Quận công. Để con cháu đời sau không quên công đức, dòng họ này đã xây dựng nghĩa địa mộ đá rộng lớn như một khu rừng, những mong trường tồn vĩnh cửu với thời gian. Tuy nhiên, chỉ những gia đình quan tướng trong dòng họ mới được chôn cất trong thung lũng hình miệng rồng này và khu rừng mộ có cả quân lính canh gác, bảo vệ.

Có thể nói, khu mộ đá cổ Đống Thếch 400 năm tuổi vô cùng quý giá về mặt lịch sử cũng như khảo cổ học. Mặc dù, số ngôi mộ còn lại không nhiều, song việc bảo tồn, tu tạo là hết sức cần thiết, nếu không, chỉ thời gian nữa sẽ không còn chút dấu tích nào của cái gọi là rừng mộ đá bí ẩn một thờ.

(Theo CAND)

http://vtc.vn/phongsu/kysu/5628/index.htm
Bí ẩn rừng mộ đá

Không biết bao nhiêu huyền thoại kỳ bí đã được thêu dệt ở khu mộ cổ Đống Thếch nằm trên địa bàn xã Vĩnh Đồng huyện Kim Bôi, Hoà Bình. Nơi đây ngày xưa từng là khu thánh địa bất khả xâm phạm của người Mường. Tương truyền, khu mộ đá như một mê trận kỳ bí, người lạ lạc vào đây sẽ không có đường ra và sự mất tích của nhiều người vô tình đi lạc vào đây đến nay vẫn là điều bí hiểm. Và tới những năm 80 nó trở thành địa chỉ tìm đến của những kẻ săn lùng đồ cổ…



Lạc vào huyền thoại Mường Bi



Trước đây, cả khu vực rộng lớn này là cả một khu rừng âm u, rậm rạp và linh thiêng…, đó là những lời miêu tả về cánh rừng mộ cổ Đồng Thếch xưa kia. Hàng nghìn cột đá cao thấp khác nhau đứng đan nhau bên cạnh những ụ đất.Trước kia, chỉ cần nghe nói đến rừng đá này người ta đã nổi da gà, rụng rời chân tay, không ai dám bước chân vào đấy.


Mộ đá ở Đồng Thếch

Đến nay, trong cộng đồng người dân tộc Mường ở khu vực Mường Động (địa danh ngày xưa, nay thuộc huyện Kim Bôi) vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện mang tính huyền bí về chốn linh thiêng này. Chuyện rằng, có một đoàn lái buôn đi qua, thấy cánh rừng mát lại có nhiều cột đá nên dừng chân nghĩ đêm bên những cột đá. Sáng hôm sau người ta chỉ còn thấy ngựa và hàng hoá, đoàn người đã biến mất. Sau này mọi người mới biết đó không phải là đoàn lái buôn mà là nhóm chuyên đào trộm đồ cải táng.



Khi dân làng vào khu mộ kiểm tra thấy một vài ụ đất bị đào nhưng bọn trộm chưa lấy được cái gì. Xung quanh những hố đất này vẫn còn cuốc, thuổng dùng đào đất nhưng không thấy người. Có lẽ chỉ những người được giao trông coi rừng mộ mới biết số phận những tay đào trộm này. Câu chuyện được thêu dệt theo nhiều chiều hướng mang tính huyền bí khác nhau và truyền tụng qua nhiều đời nay. Từ đó về sau không ai dám bước chân vào rừng mộ, và nơi này trở thành thánh địa bất khả xâm phạm của người Mường Bi.



Đó là một trong những câu chuyện được truyền tụng trong dân gian nó mang nhiều màu sắc huyền bí. Hiện nay trong vùng có tất cả 5 bà Mỡi (giống thầy Mo), mỗi bà thờ một thần chuyên cúng tế cho người dân. Đặc biệt, tất cả những bà Mởi đều thờ vua Hùng. Người trong vùng giải thích điều này bằng truyền thuyết về người vợ thứ 3 của vua Hùng. Giận chồng, bà đã đem theo hai người con cả và út chạy về vùng đất này sinh sống, gây dựng nên một vùng đất trù phú với hàng ngàn dân sinh sống. Sau 3 mẹ con mất hóa thành 3 ngọn núi đứng bên nhau nhìn về nơi họ đã ra đi.



Hàng năm, sau những ngày tết người dân trong vùng lại đem bò lên núi Khụ Động mổ thịt cúng vua Hùng, cái lệ này mới bị bỏ từ những năm 1970.



Những bà Mỡi hàng năm đều tìm ra rừng mộ Đống Thếch làm lễ mà theo lời họ là để cho thần họ thờ linh thiêng hơn. Rừng mộ Đống Thếch còn gắn với những câu chuyện về thần giữ của, mỗi ngôi mộ đều phải chôn sống theo một cô gái còn trinh. Trước khi chôn cô gái được cho tắm rửa sạch sẽ, ăn những loại thức ăn dành riêng cho mình và được ngậm sâm khi chôn. Khi khai quật mộ phát hiện ra rất nhiều hình nộm người mà theo truyền thuyết, các hình nộm này đều được yểm bùa, ngâm trong chất độc, ai chạm vào chất độc sẽ ngấm vào người chết ngay.



Những chuyện này, đến nay vẫn còn rất nhiều người truyền tụng và kể lại cho đám người hiếu kỳ nếu ai có ý định bước chân vào rừng mộ. Bên cạnh đó là về những cái chết bất đắc kỳ tử đầy bí ẩn của những người đào trộm mộ, những tai nạn hết sức bất ngờ và số phận bi thương của gia đình khiến câu chuyện trở lên ly kỳ và chưa rõ thực hư ra sao được những người già ở đây kể lại...



Nước mắt của một người ngoại quốc…



Ông Bùi Minh Lợi, trưởng ban văn hoá xã Vĩnh Đồng ngồi lật lại đống tài liệu đã úa màu chỉ cho chúng tôi những đoạn viết về khu rừng mộ Đống Thếch. Theo nguồn tài liệu ông Lợi cung cấp, trước năm 1975 khu mộ Đống Thếch còn rộng hàng chục ha với hàng nghìn cột đá được chôn xen kẽ nhau, mỗi cột cao khoảng 2,3m, nặng hàng tấn.



Một điều lạ là vùng núi Hoà Bình không có loại đá xanh Hoa Cương này, sau này những nhà nghiên cứu mới phát hiện ra loại đá này được chuyển từ Thanh Hoá lên (loại đá dùng làm bia Vĩnh Lăng ở Lam Kinh, Thanh Hoá). Trên các phiến đá có khắc chữ, ghi tên tuổi, chức sắc của người dưới mộ cùng ngày tháng dựng mộ.



Theo những tài liệu chúng tôi thu thập được, khu mộ cổ này của người dân tộc Mường với hàng nghìn ngôi. Vùng đất này thuộc khu vực trung tâm của nền văn hoá Mường Bi, nơi còn lưu giữ nhiều nét văn hoá của người Mường.
Ông Bùi Minh Lợi: "Một người ngoại quốc đã khóc!"



Nơi đây vốn là tổng huyện Mường Động ngày xưa, đến nay còn lưu giữu câu "Nhất Bi nhì Vang, tam Thàng tứ Động", chỉ những địa phương sầm uất, giàu có của xứ Mường thời xa xưa.



Khu Đống Thếch được quây thành thánh địa, nơi an nghỉ riêng của nhà Lang (nhà quan lại) thuộc dòng họ Đinh Công. Dòng họ Đinh nơi đây có nguồn gốc từ vùng Ngọc Lặc, Thanh Hoá.



Người đặt nền cho xứ Mường nơi đây là ông Đinh Văn Cương vốn là người Ngọc Lặc, Thanh Hoá. Ông có công giúp Lê Lợi đánh giặc và được phong công thần nên đổi tên đệm thành "Đinh Công" và trấn giữ vùng Kim Bôi Ho à Bình ngày nay. Khi ông chết người ta phải dùng hàng chục con voi về Thanh Hoá chuyển đá ra làm mộ. Con trai ông là Đinh Công Kỷ là một tướng giỏi dưới thời vua Lê Trung Hưng, được phong Quận công.



Từ đó dòng họ Đinh Công ngày càng phát triển mạnh ở vùng đất Mường Động này. Những người làm quan trong dòng họ Đinh mới được chôn trong khu mộ Đống Thếch và quanh năm có người trông coi cẩn thận. Một điều đặc biệt là mỗi khi có người chết lại phải về Thanh Hoá chuyển đá ra làm mộ. Người ta bảo làm thế để con cháu họ Đinh luôn nhớ về nguồn gốc của mình.



Ông Bùi Minh Lợi kể với giọng đầy tiếc nuối, trước năm 1975 khu Đống Thếch còn hàng nghìn ngôi mộ với bạt ngàn là cột đá, trông đẹp lắm. Thời đó đám thanh niên hay kéo nhau vào đây chơi, thả trâu… Sau khi hoà bình, người dân tràn vào khu mộ làm ruộng cấy và họ hạ hết cột đá xuống vứt đi nơi khác. Ngày đó chính quyền còn khuyến khích thanh niên ra hạ cột đá… chỉ trong một thời gian ngắn rừng đá đã biến mất. Đến năm 1984 người dân địa phương tràn vào tàn phá khu mộ. Họ đào xới ngày đêm tìm các vật quý chôn theo người chết, rồi dân săn đồ cổ dựng lều lán ngủ ngay tại khu rừng…



Các ngôi mộ đều tuân theo một nguyên tắc là kê đá hình mái nhà hoặc hình chữ nhật. Trong các ngôi mộ người ta phát hiện nhiều than củi dày hàng mét, theo nghiên cứu than dùng để hút ẩm cho xác người. Người ta còn thu được hàng nghìn đồ dùng cá nhân như nghiên mực, xoong, nồi, ly, tiền… Nhiều đồ dùng có xuất xứ từ Trung Quốc.



Trong hai năm 1988 và 1989, do đói kém, mất mua dân đổ xô đi đào tiếp. Thời gian này chính quyền thu được 4 trong số 9 chiếc trống đồng tìm thấy ở đây và hàng trăm đồ vật khác. Khi Nhà nước ra tay cứu vớt rừng mộ thì chỉ còn trơ lại 9 ngôi mộ vùng trung tâm, phục vụ công tác nghiên cứu khảo cổ của các nhà khoa học.



Ngôi mộ của ông Đinh Công Kỷ được khai quật năm 1990, đây là một trong những ngôi mộ còn nguyên vẹn nhất với cỗ quan tài bằng gỗ trám đen, bên ngoài sơn son thếp vàng và nhiều vàng bạc châu báu. Đặc biệt còn phát hiện một chiếc trống đồng Ngọc Lũ và nhiều hình nhân nữ. Sâu nhất là mộ ông Đinh Công Cương, trong mộ tìm được rất nhiều đồ vật dùng trong sinh hoạt hàng ngày, răng và xương ngựa…



Xen kẽ trong câu chuyện của ông Lợi là những tiếng thở dài, cách đây 10 năm, một Tiến sĩ người Nhật đến thăm rừng mộ đã phải bật khóc lên trước sự tàn phá của con người. Nguyên vị Tiến sĩ này đã từng tiến hành nghiên cứu văn hoá Mường Bi ở Hoà Bình nhiều năm và ông đ ã nhiều lần đến với rừng mộ Đồng Thếch. Vị Tiến sĩ cũng đ ã từng thốt lên rằng ông đã đi nhiều nơi trên thế giới nhưng chưa gặp nơi nào có rừng mộ rộng lớn và chứa đựng nhiều câu trả lời về văn hoá và lịch sử như vậy.



Hiện nay khu lưu giữ dấu tích của rừng mộ cổ Đống Thếch chỉ còn rộng khoảng 3ha, nằm trên cánh đồng xóm Chiềng. Ông Lợi cười méo mó: "Con cháu người Mường sau này sẽ không còn được thấy rừng mộ Đồng Thếch, quả là một thiệt thòi lớn…!".



Bùi Lương Việt

Bí ẩn những ngôi mộ cổ Đống Thếch

Chữ Hán khắc trên các mộ cổ.

(Dân trí) - Khu mộ cổ Đống Thếch nằm trên địa phận xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi (Hoà Bình). Từ nhiều năm nay, hàng trăm mồ đá nằm im lìm u tịch và lạnh lẽo giữa vùng rừng núi Tây Bắc ấy là một bí ẩn lớn đối với bất cứ ai từng một lần đặt chân tới.

Rừng mộ cổ chốn đất thiêng

Từ thành phố Hoà Bình, ngược lên huyện Kim Bôi, qua khu vực suối nước nóng độ dăm cây số là tới địa phận xã Vĩnh Đồng, ở đó có khu mộ cổ Đống Thếch. Năm 2000, khu mộ cổ này đã được Bộ VH-TT công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Giữa một vùng rừng núi, hàng trăm ngôi mộ với những cột đá sừng sững im lìm, cỏ mọc rêu xanh, xung quanh bạt ngàn hoa dại. Trải qua bao nhiêu “thỏ lặn ác tà”, khung cảnh hoang vu càng gợi lên nhiều suy tưởng.

Những người dân bản xứ không biết nhiều về gốc tích hay truyền thuyết rừng mộ đá này. Họ kể rằng trước đây khu vực này rất rộng, gồm hàng trăm ngôi mộ và hàng ngàn phiến đá chôn xung quanh. Người ta gọi cả quần thể ấy là rừng mộ đá. Tất cả các ngôi mộ đều chôn ba khối đá cao phía đầu mộ thành một hàng, khối đá to nhất chôn ở giữa. Chân mộ chôn ba khối nhỏ hơn. Những khối đá cẩm thạch được xác định là mang về từ xứ Thanh, ở vùng này không có loại đá ấy. Phiến đá to nhất có chiều rộng hơn 1m, cao khoảng 4m, có phiến nặng hàng tấn.

Khu mộ là tâm điểm mang màu sắc kỳ bí, hoang đường. Những câu chuyện truyền miệng rỉ tai nhưng có sức lan toả rất nhanh khiến cho dân bản xứ đều sợ sệt e dè, ít người dám qua lại nơi đây. Chuyện rằng có một đoàn người ngựa nghỉ đêm bên những cột đá, đến sáng hôm sau người ta chỉ còn thấy hành lý và những con ngựa nhẩn nha gặm cỏ, tuyệt nhiên không thấy một bóng người. Đến khi dân bản đánh liều vào xem thì phát hiện hành lý của đoàn người toàn là cuốc thuổng. Hoá ra bọn chúng là lũ trộm chuyên đào mồ trộm đồ cải táng.

Từ câu chuyện này, người dân thêu dệt thành nhiều chuyện khác không kém phần ly kỳ, huyền bí. Không ai biết gì về số phận những tên trộm đêm ấy, người dân vì thế ngày càng kiêng dè, sợ hãi khu đất thiêng.

Người ta cũng kể cho nhau truyền thuyết về mấy ngọn núi ở đây. Tương truyền rằng người vợ thứ ba của Vua Hùng giận chồng đã bỏ kinh đô, dắt theo hai người con lên rừng khai hoang lập bản, tạo nên vùng đất trù phú. Khi ba mẹ con mất đã hoá thành ba ngọn núi dáng rồng chầu và cùng hướng về kinh đô. Hàng năm, vào những ngày Tết, các bản Mường dắt trâu, bò lên núi, nơi có rừng mộ đá để mổ thịt cúng Vua Hùng.

Khu mộ chôn những ai?

Tương truyền khu mộ cổ này có niên đại hơn 400 năm. Hầu hết, các phiến đá được khắc chữ Hán cổ, ghi lại thân thế, công danh, gia tộc của người nằm dưới mồ, rằng đây là khu mộ của dòng họ Đinh Công, một trong những dòng họ lớn của Mường Động xưa. Dân bản xứ lưu truyền câu “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động” để chỉ những vùng Mường sầm uất giàu có khi xưa. Mường Động là một trong bốn xứ ấy.

Một bản dịch (từ những dòng chữ khắc trên đá) ghi lại công trạng của Quận công Đinh Công Kỷ, người có công giúp vua Lê xây dựng triều chính, có nội dung như sau: Ông Đinh Công Kỷ, tước Uy lộc hầu, thổ tù kiêm cai quản vùng Mường Động. Sinh năm 1592, mất giờ sửu, ngày 13 tháng 10 năm Đinh Hợi 1647. Khi chết được ban tước Chưởng vệ đề đốc uy quận công. Đến ngày 22 tháng 2 năm Canh Dần 1650 được đưa về huyệt trên núi bằng 15 xe tang, 7 con voi, 5 con ngựa...

Theo tài liệu để lại, người có công dựng nên xứ Mường Động là ông Đinh Văn Cương, người vùng Ngọc Lặc, Thanh Hoá. Sau khi có công lớn, ông đã được vua Lê, chúa Trịnh phong tước, đổi thành họ Đinh Công, cho cai quản xứ Mường Động - một trong những vùng biên viễn, phên dậu phía tây bảo vệ kinh thành Thăng Long. Nổi bật nhất trong dòng họ Đinh là ông Đinh Công Kỷ, một vị tướng giỏi của vua Lê Trung Hưng, được phong tước Quận công. Để con cháu đời sau không quên công đức, dòng họ này đã xây dựng nghĩa địa mộ đá rộng lớn như một khu rừng, những mong tên tuổi các vị sẽ trường tồn cùng tuế nguyệt.

Còn thấy gì dưới nấm mồ sâu

Trong khi các nhà khảo cổ còn “lừng khừng” thì những tên trộm bạo gan đã ra tay. Khu mộ cổ Đống Thếch mang giá trị văn hoá, khảo cổ lớn lao như thế nhưng trong suốt một thời gian dài đã bị bọn trộm không tiếc tay đào bới tìm cổ vật.

Năm 1974, Viện Khảo cổ đã khảo sát, nghiên cứu, khu mộ cổ hầu như vẫn còn nguyên vẹn với hơn 100 ngôi mộ và hàng ngàn phiến đá có khắc chữ. Nhưng phải đến năm 1984, công việc khai quật mới được tiến hành. Lúc này, hầu hết các ngôi mộ đã bị đào bới, nhiều hiện vật bị lấy trộm, rơi vào tay các nhà sưu tầm đồ cổ, thậm chí bị tuồn ra nước ngoài.

Khi ấy, Sở VH-TT Hoà Bình phối hợp với Viện Khảo cổ, Bảo tàng lịch sử Việt Nam chỉ còn cách khai quật nốt những ngôi mộ còn sót lại. Hàng trăm hiện vật được tìm thấy, chuyển về Bảo tàng tỉnh Hoà Bình. Thật bất ngờ, ngoài bộ sưu tập cổ vật của nhiều triều đại nước Việt còn có cả những đồ gốm sứ của Trung Quốc, Nhật Bản thế kỷ XVII rất tinh xảo.

Lúc ấy, cả quần thể khu mộ cổ giống như một công trường, một bãi đào đá quý. Ngoài các chuyên gia khảo cổ làm việc, xung quanh còn có hàng trăm người đào bới, trong số ấy có cả những người vùng khác đến “hôi của”. Các tay buôn đồ cổ đánh hơi được vụ làm ăn lớn, đã đến chầu chực ăn dầm nằm dề ở đây hàng tháng. Nhiều cổ vật như đồ gốm, sứ, đồng... được đám con buôn ngã giá ngay tại chỗ.

Trải qua bao dâu bể, bao cuộc đào bới lục lọi tìm kiếm của đủ mọi thành phần, khu mộ cổ tan hoang. Người ta thậm chí ăn cắp cả những phiến đá khắc chữ Hán. Khu mộ bị xâm hại nghiêm trọng.

Và phải đến năm 2000, khu mộ mới được Bộ VH-TT công nhận là khu di tích lịch sử cấp quốc gia, sau đó được đầu tư một số hạng mục khôi phục, tu bổ, tôn tạo và bảo vệ. Tiếc thay đến lúc ấy, rừng đá mộ cổ Đống Thếch chỉ còn lại chưa đầy chục ngôi mộ nằm trên diện tích 2 ha, xung quanh là hoa màu của người dân tự ý canh tác.

Đã có những bí ẩn về ngôi mộ được giới khoa học làm sáng tỏ, nhưng cũng có những bí ẩn mãi mãi bị chôn vùi theo những cổ vật bị đánh cắp. Khu mộ cổ có tuổi thọ hơn 400 năm đến giờ chỉ còn chút dấu tích về một thời phồn vinh cực thịnh của người xứ Mường Động khi xưa.

theo Dân trí