kết quả từ 1 tới 2 trên 2

Ðề tài: Phần chánh kinh Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Lược Giảng

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Phần chánh kinh Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Lược Giảng

    II. Giải thích đề mục chương Viên Thông
    Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương

    Đại Thế Chí là người khải giáo, [chỉ bày] giáo pháp Niệm Phật tu Tịnh Độ. Hai mươi lăm vị Bồ Tát mỗi vị [dạy một pháp môn] khác nhau, Đại Thế Chí dạy chúng ta chuyên tu pháp môn Niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Ngài là Sơ Tổ của Tịnh Tông.

    Trong cuốn Tịnh Tông Tiệp Yếu, lão cư sĩ Hạ Liên Cư là người đầu tiên đề xướng Đại Thế Chí Bồ Tát là Sơ Tổ Tịnh Tông, trong hư không đề xướng pháp môn Niệm Phật chỉ có Đại Thế Chí Bồ Tát. Một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng cực, từ sơ phát tâm cho mãi đến khi thành Phật chẳng thay đổi, thành Phật rồi vẫn niệm A Di Đà Phật, trong mười phương thế giới rộng độ chúng sanh cũng vẫn dùng một câu A Di Đà Phật, xưng là Tịnh Tông Sơ Tổ quả là danh xứng với thật. Dùng tâm niệm Phật nhập Vô Sanh Nhẫn. Nói thông thường, Thất, Bát, Cửu Địa Bồ Tát của Viên Giáo mới chứng được Vô Sanh Nhẫn.

    “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” hai câu này là phương pháp niệm Phật. “Chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai”: Chẳng cần mượn bất cứ phương pháp nào để hỗ trợ, “tâm khai” là như Thiền Tông nói đại triệt đại ngộ và như Mật Tông bảo là Tam Mật Tương Ứng hay Tức Thân Thành Phật. “Tự được tâm khai” là Lý Nhất Tâm Bất Loạn, “nhập Tam Ma Địa” là chứng đắc Thủ Lăng Nghiêm đại định.

    Hai vị đại Bồ Tát Đại Thế Chí và Quán Thế Âm hiện đang sống trong Sa Bà thế giới, nhiếp thủ người niệm Phật chẳng bỏ, khiến họ lìa tam đồ, được sanh về Tịnh Độ. Niệm Phật là phương pháp, có trí tuệ mới có thể niệm Phật. Người thông minh trong thế gian chưa hẳn đã có trí huệ, thông minh là thế trí biện thông, là một trong tám nạn, bất cứ nạn nào trong tám nạn cũng đều có thể chướng ngại tu đạo, chướng ngại xuất tam giới, chướng ngại liễu sanh tử, thoát luân hồi, thành Phật đạo. Tánh thể trọn khắp là Viên, diệu dụng vô ngại là Thông. Lại nữa, Lý Diệu Trí để chứng gọi là Viên Thông. Dùng phương pháp Niệm Phật có thể đạt đến cảnh giới Viên Thông.


    III. Giải Thích Kinh Văn

    Chánh kinh:
    Đại Thế Chí pháp vương tử, dữ kỳ đồng luân, ngũ thập nhị Bồ Tát, tức tùng tòa khởi, đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn:

    (Đại Thế Chí pháp vương tử cùng những với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng chí hướng với Ngài, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng)

    Kinh Tư Ích chép: “Nơi ta (Đại Thế Chí Bồ Tát tự xưng) đặt chân, chấn động tam thiên đại thiên thế giới và cung điện ma, nên tên là Đại Thế Chí”. Kinh Tư Ích nói đầy đủ là Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh.

    Danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát là do oai thế của Bồ Tát mà kiến lập, trong Tây Phương Tam Thánh, Ngài tượng trưng cho trí huệ. Trí huệ viên mãn rốt ráo mới có oai đức tối thù thắng, oai đức ấy có thể chấn động tam thiên đại thiên thế giới, cũng như chấn động cung điện ma. Quán Kinh nói: “Lúc vị Bồ Tát này đi, mười phương thế giới hết thảy chấn động. Lúc vị Bồ Tát này ngồi, cõi nước bảy báu đồng thời lay động”, nghĩa là nói oai đức, trí huệ của Bồ Tát từa tựa như kinh Tư Ích. Đấy đều là nói về phương diện tự lợi của Bồ Tát.

    Kinh Bi Hoa nói: “Nguyện thế giới của tôi giống như thế giới của Quán Thế Âm, giống hệt không khác”. Bảo Tạng Phật nói: “Do ông nguyện lấy đại thiên thế giới, ta nay đặt tên ông là Đắc Đại Thế”. Đấy là nói về đại nguyện của Bồ Tát.

    Trong kinh Phật có nói, trong tương lai A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng có lúc bát Niết Bàn, thời gian ấy lâu phi thường. Phật nói là giả sử chúng sanh trong mười phương thế giới đều chứng đắc Bích Chi Phật, đều có đại thần thông như Mục Kiền Liên, suốt trọn vạn ức năm cũng chẳng tính nổi thọ mạng của Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc kỳ diệu phi thường, chẳng hề có những thời kỳ Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp và diệt pháp. Sau khi Phật A Di Đà nhập diệt, Quán Thế Âm ngay lập tức thành Phật tiếp nhiệm; Quán Thế Âm nhập diệt, Đại Thế Chí liền tiếp nối thành Phật.

    Nếu có kẻ hoài nghi: Phật cũng nhập diệt, ta sanh về đó làm chi? Nói “nhập diệt” nghĩa là Ứng Thân nhập diệt, chứ Pháp Thân bất sanh bất diệt, Báo Thân hữu sanh vô diệt. Trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ và Phương Tiện Hữu Dư Độ, thấy được Ứng Thân Phật A Di Đà, trong Thật Báo Trang Nghiêm Độ thấy được Báo Thân, trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ thấy được Pháp Thân. Trong kinh, đức Thế Tôn thường nói: phàm phu tu thành Phật Quả phải tu ba đại a-tăng-kỳ kiếp, sanh về Tây Phương liền được vô lượng thọ, cho nên chẳng cần sợ A Di Đà Phật nhập diệt.

    Quán kinh nói: “Dùng trí huệ quang chiếu khắp hết thảy, khiến lìa tam đồ, đắc vô thượng lực”, tức là nói về phương diện dùng lòng từ bi lợi tha. Kinh Lăng Nghiêm nói Đại Thế Chí có ba đức lớn, tức là niệm Đại Thế Phật (thượng cầu), nhiếp thủ vọng niệm nơi sáu căn (trung tu), tiếp độ người niệm Phật (hạ hóa). Đầy đủ ba đức này, oai đức đến cùng cực, nên gọi là Đại Thế Chí. Đại Thế Phật chính là A Di Đà Phật. Cách tu hành của ngài Đại Thế Chí là dùng “tịnh niệm tiếp nối”, một câu Phật hiệu niệm đến rốt ráo, hết thảy những người niệm Phật cầu sanh Cực Lạc thế giới trong mười phương thế giới đến lúc lâm chung, Ngài và A Di Đà Phật cùng đến tiếp dẫn. Oai thần, trí lực của Ngài trong tất cả các Bồ Tát không có ai cao hơn được nên xưng là Chí.

    “Pháp vương tử” là danh hiệu của vị Bồ Tát bổ xứ, giống như Thái Tử trong thế gian, Ngài là hậu bổ Phật (vị Phật sẽ kế nhiệm sau này). Vị hậu bổ Phật thứ nhất là Quán Thế Âm, Ngài là vị hậu bổ Phật thứ hai. Câu Phật hiệu chứa đựng ý nghĩa sâu xa phi thường, đạt đến chót đỉnh của mọi oai đức, thế lực thế gian lẫn xuất thế gian. Tự tánh vốn sẵn có đủ trí huệ, Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh vốn là sẵn có”. Vốn có sẵn đủ nên gọi là “tánh cụ” hay là “tánh đức”. Vì phàm phu mê mất nên Tánh Đức phải nhờ vào Tu Đức mới có thể hiển lộ, Tánh Đức có hiển thị đến mức viên mãn rốt ráo thì mới thật sự thành Phật. Ngài Đại Thế Chí dùng phương pháp Tu Đức nào để hiển lộ Tánh Đức? Chính là niệm A Di Đà Phật, do đây biết một câu danh hiệu này công đức chẳng thể nghĩ bàn.

    “Đồng luân” nói theo cách bây giờ là “đồng chí”. Đồng chí trong thế gian là hữu danh vô thực, đối với điều này, cổ nhân đã lập nghĩa nhất định: bạn đồng học gọi là “bằng”, người cùng chí hướng với mình gọi là “hữu”. Là đồng chí thật sự thì phải tâm đồng, nguyện đồng, giải đồng, hạnh đồng! Kinh Hoa Nghiêm nói đến tám mươi bốn thứ đồng, hoặc tám mươi tám thứ đồng, rất tỉ mỉ. Đại Thế Chí và A Di Đà Phật hoàn toàn tương đồng, trong mười phương thế giới, phàm những ai phát tâm niệm Phật đều là “đồng luân” của ngài Đại Thế Chí cả.

    “Năm mươi hai” là chữ dùng để phân biệt thứ loại: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác; tổng cộng năm mươi hai giai đoạn, từ sơ phát tâm thẳng đến khi thành Phật chẳng biến cải; hết thảy người tu pháp môn niệm Phật đều có thể gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát, đều là đồng luân của Đại Thế Chí Bồ Tát.

    Pháp môn bình đẳng chẳng có cao thấp, do phù hợp căn cơ nên pháp nào cũng tốt. Nhưng con người phần nhiều chẳng phải là căn tánh thông lợi, chỉ e sự nhiều công ít, khó thể thành công. Chỉ có pháp môn Niệm Phật này ai cũng có thể niệm được, đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể niệm được, thời thời khắc khắc chẳng gián đoạn, giúp chúng ta siêu xuất sanh tử luân hồi, bởi thế, người niệm Phật đều có trí huệ chân thật vô thượng.

    * Thập Tín: Mọi người nói chung đối với chuyện vì sao phải học Phật, vì sao phải cầu thành Phật chẳng hiểu rõ lắm. Phật là chân tâm của chính mình, mà cũng là bổn tánh của chính mình. Thành Phật là thành tựu trí huệ viên mãn của tánh đức. Phật chính là tâm, vốn sẵn có đủ vạn đức, vạn năng. Kinh Kim Cang dạy: “Lòng tin thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng”. Do lòng tin trong sạch mức độ khác nhau nên mới có mười giai đoạn (Thập Tín), tu mãn địa vị Thập Tín sẽ nhập Sơ Trụ, Sơ Trụ là bước đầu của Đại Thừa.

    * Thập Trụ: trụ trong tam-muội, tức là trụ trong thanh tịnh - bình đẳng - giác, luôn gìn giữ chân tâm thường trụ, chẳng bị thoái chuyển. Quán Thật Tướng Phật chính là nhìn vào tự tánh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”. Tánh đức của Ngài tỏ lộ, liền tự hiểu rõ chân tướng của nhân sanh, vũ trụ.

    * Thập Hạnh: Hạnh là pháp môn Niệm Phật, chỉ niệm một câu Phật hiệu, dùng pháp khó tin dễ hành để độ người niệm Phật. Công phu niệm Phật càng sâu, càng thể hội được việc niệm Phật.

    * Thập Hồi Hướng: Xoay niệm hướng về tâm Phật, tất cả hết thảy công đức hồi hướng về Phật tâm, thông thường hồi hướng ba nơi:

    a. Hồi hướng Thật Tế: Thật Tế chính là chân tướng sự thật.

    b. Hồi hướng Bồ Đề: Bồ Đề là trí huệ chân thật.

    c. Hồi hướng chúng sanh: sau khi chính mình đã thành tựu, vẫn còn bao người mê mất tự tánh, hy vọng họ thảy đều giác ngộ.

    “Hồi hướng” là đem hết thảy công đức mình đã tích lũy, chẳng cần đến nữa, đem cho hết thảy chúng sanh. Đấy chính là phá Ngã Chấp, lợi ích của việc hồi hướng chính là phá Nhị Chấp.

    * Thập Địa: Địa tức là Phật địa. Hồi hướng viên mãn bèn nhập Phật địa, rất gần với Phật, địa vị mình chứng được rất gần với quả vị Phật. Đẳng Giác chính là bằng với quả Phật viên mãn. Niệm Phật là công đức ngay trên quả vị Như Lai. Người niệm Phật là thượng thượng nhân, cũng là hoa phân-đà-lợi (hoa sen trắng) trong loài người.


    Chánh kinh:
    Ngã ức vãng tích, hằng hà sa kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Vô Lượng Quang. Thập nhị Như Lai, tương kế nhất kiếp, kỳ tối hậu Phật, danh Siêu Nhật Nguyệt Quang.

    (Con nhớ xưa kia trong hằng hà sa kiếp, có Phật xuất thế, tên là Vô Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai nối tiếp nhau [xuất hiện] trong một kiếp. Đức Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang)

    Đại Thế Chí Bồ Tát bảo cho chúng ta biết về sư thừa của Ngài, trong vô lượng kiếp trước có một đức Phật, tên là Vô Lượng Quang. Có mười hai vị Như Lai nối tiếp nhau xuất thế trong một kiếp. Kinh Vô Lượng Thọ, chương hai mươi lăm có nói: “A Di Đà Phật, quang minh tốt lành, sáng hơn mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần, ấy tôn quý nhất trong các quang minh, là vua trong các Phật. Vì thế, Vô Lượng Thọ Phật còn có tên là Vô Lượng Quang Phật”.

    Nói trên mặt Lý, Phật Phật đạo đồng, tuyệt chẳng có cao thấp, xưng tụng là “tôn quý nhất trong các quang minh, là vua trong các Phật” tựa hồ giáo nghĩa mâu thuẫn nhau? Nên biết rằng, luận trên mặt Lý là bình đẳng, nhưng trên mặt Sự lại chẳng bình đẳng. Sau khi thành Phật chứng quả, do lúc ban đầu khi tu nhân phát nguyện sai khác, nên về mặt tướng, chư Phật chẳng thể sánh bằng Phật A Di Đà. Chư Phật thấy A Di Đà Phật phát ra bốn mươi tám nguyện, thành quả là thế giới Cực Lạc trang nghiêm, đương nhiên nhất trí ủng hộ, khen ngợi, đều muốn giúp A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về thế giới Cực Lạc, bất tất phải mở riêng trường phái. Kinh Vô Lượng Thọ còn nêu danh xưng của mười hai Như Lai, lược nói như sau:

    1. Vô Lượng Quang Phật tiêu biểu chân trí huệ.

    2. Vô Biên Quang Phật, tiêu biểu giải thoát bình đẳng nhất như.

    3. Vô Ngại Quang Phật, tiêu biểu “thể tịch, dụng diệu” tự tại: Thể tánh thanh tịch, tịch tĩnh; “dụng diệu” là khởi tác dụng mầu nhiệm tự tại. “Thể tịch” là tánh không, “dụng diệu” là diệu hữu.

    4. Vô Đẳng Quang Phật, là do tâm đại bi kiến lập, dẹp nỗi khổ cho chúng sanh không ai có thể sánh bằng.

    5. Trí Huệ Quang Phật, trừ bụi nhơ vô minh, ban cho lợi ích chân thật. Chỉ có trí huệ chân chánh mới phá được vô minh, vô minh là hồ đồ, tự mình khi mê, khi ngộ. Do vậy cũng có thể quán sát, thời thời khắc khắc giúp đỡ người khác, niệm niệm lợi ích chúng sanh, tức là trí huệ. Lợi ích chân thật là khuyên người niệm Phật, sau khi vãng sanh tất cả vô minh đều phá sạch.

    6. Thường Chiếu Quang Phật: Giống như chư Phật phóng quang, chiếu khắp pháp giới. Thường quang của Phật A Di Đà chiếu khắp pháp giới, tịch nhưng thường chiếu. Tịch là tâm thanh tịnh. Chiếu là tâm bình đẳng mà cũng là tâm đại từ bi. Niệm niệm muốn phổ độ chúng sanh nhưng tâm không nhiễm trước.

    7. Thanh Tịnh Quang Phật là ba nghiệp chẳng nhiễm, quyết chẳng chấp trước, biến phước đức thành công đức, dùng tâm thanh tịnh tu phước đức, chẳng hạn như tu Bố Thí có thể đạt đến “tam luân không tịch” (7), lại còn thực hiện hạnh ấy một cách vô cùng tích cực.

    8. Hoan Hỷ Quang Phật: Từ là làm cho an lạc, làm cho hết thảy chúng sanh an lạc.

    9. Giải Thoát Quang Phật, lìa tướng mà lợi ích khắp tất cả, cả Tiểu lẫn Đại Thừa đều bàn đến. Giải là muôn vàn gút mắc trong tâm đều tháo gỡ cả. Tiểu Thừa chỉ đoạn được Kiến Tư mà ra khỏi tam giới; Đại Thừa ngoại trừ Kiến Tư, còn có Trần Sa, Vô Minh.

    10. An Ổn Quang: ý nghĩa gần giống với chữ Thủ Lăng Nghiêm, có nghĩa là hết thảy rốt ráo kiên cố, lìa tướng sanh diệt. Có sanh diệt là chẳng an ổn. Nói trên mặt Lý, chân tâm bổn tánh chẳng sanh chẳng diệt, ai ấy đều có đủ; phàm phu tuy có nhưng không dùng được, có ý niệm sanh diệt bèn bị chướng ngại, bị luân hồi oan uổng trong lục đạo.

    Mười thứ quang minh nói trên đây đều thuộc Thường Quang, hai loại quang minh tiếp theo đây thuộc về Phóng Quang.

    11. Siêu Nhật Nguyệt Quang: quang minh của đức Phật vượt xa mặt trời, mặt trăng.

    12. Bất Tư Nghị Quang: Cổ đức nói quang minh này có năm điều chẳng thể nghĩ bàn:

    a. Vượt ngang ra khỏi tam giới, chẳng cần phải đợi đến khi đoạn Hoặc:

    Quang minh của Phật A Di Đà chiếu khắp hết thảy, nhưng chúng ta không thấy được, cũng chẳng nhận biết. Hiện tại, người có công năng định lực mới có thể thấy được. Quang minh này thật đáng sánh với tâm thanh tịnh. Vọng niệm chẳng đoạn, quyết định chẳng thể thoát khỏi lục đạo luân hồi. Thiền gia chẳng qua chỉ đè nén được Kiến Tư Hoặc nên chẳng thể thoát tam giới. Chẳng đoạn phiền não mà có thể thoát khỏi tam giới thì chỉ riêng mình pháp Niệm Phật mà thôi.

    b. Hễ sanh về Tây Phương liền đầy đủ cả bốn cõi theo chiều ngang, chẳng phải do tiến tu dần dần:

    Tất cả pháp Đại Thừa, tu nhân chứng quả đều có thứ tự, những thế giới khác đều có đủ cả bốn cõi, nhưng không phát khởi cùng một lúc. Phàm Thánh Đồng Cư Độ có phàm phu mà cũng có thánh nhân, có phàm phu giác ngộ, có người chân chánh tu hành, nhưng công phu chưa đạt đến tột cùng, chẳng thể siêu việt. Lại còn có Bồ Tát, La Hán thị hiện trong cõi này để hóa độ chúng sanh. Nếu đoạn được Kiến Tư phiền não, sẽ vượt khỏi lục đạo, dự vào Phương Tiện Hữu Dư Độ, ở ngoài tam giới. Nếu như phá được một phẩm vô minh, chứng được một phần Pháp Thân, liền nhập Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Hai cõi trước là do A Lại Da Thức biến hiện, là Tướng Phần (8) của A Lại Da Thức. Thật Báo Trang Nghiêm Độ là pháp tánh độ, do Chân Như Bổn Tánh biến hiện ra. Thường Tịch Quang là Lý, xuyên suốt các cõi kia.

    Trong thực tế, chỉ có ba cõi, nhưng trong Cực Lạc thế giới, bốn cõi đồng thời khởi. Tuy trình độ bất đồng nhưng vẫn khởi cùng lúc, cho nên một thứ sanh thì hết thảy đều sanh. Phàm phu sanh trong Đồng Cư Độ, Tiểu Thừa La Hán hồi Tiểu hướng Đại sanh trong Phương Tiện Độ, Bồ Tát sanh cõi Thật Báo. Đến Tây Phương hết thảy cùng khởi.

    3. Chỉ trì danh hiệu, chẳng cần đến phương tiện nào khác:

    Chẳng cần phải tu pháp môn nào khác, cũng chẳng cần phải đọc kinh điển nào khác, chỉ dựa vào một câu Phật hiệu, chẳng cần đến những thứ nào khác.

    4. Lấy bảy ngày làm kỳ hạn, chẳng cần phải nhiều đời nhiều kiếp:

    Hết thảy mọi sự thế gian, xuất thế gian đều buông xuống hết, thành tâm niệm Phật, bảy ngày liền có thể thành tựu.

    5. Trì danh hiệu một đức Phật, liền được chư Phật hộ niệm, chẳng khác gì trì danh hiệu hết thảy Phật:

    Hết thảy chư Phật tán thán thế giới Cực Lạc y báo, chánh báo trang nghiêm. Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ là chương trình tu luyện chính để học Phật, các kinh điển khác đều để phụ trợ.

    Mười hai đức Phật vừa nói trên là cổ Phật, A Di Đà Phật thành Phật chẳng qua mới mười kiếp, cổ Phật cùng với đức Phật A Di Đà hiện tại đồng danh đồng hiệu. Ở Trung Quốc, vào thời xưa, cha mẹ đặt tên cho con cái nhằm bày tỏ niềm hy vọng nơi con cái. Danh hiệu của một đức Phật là do trí huệ, đức năng, và phương pháp, biện pháp giáo hóa chúng sanh của Ngài mà kiến lập, bởi thế mới có những vị Phật danh hiệu giống nhau.


    Chánh kinh:
    Bỉ Phật giáo ngã, Niệm Phật Tam Muội.

    (Đức Phật ấy dạy con Niệm Phật Tam Muội)

    Vô Lượng Thọ Phật dạy Đại Thế Chí Bồ Tát pháp Niệm Phật Tam Muội. Tam Muội là tiếng Phạn, nghĩa là Chánh Thọ. Niệm Phật, niệm thật hoan hỷ phi thường, niệm đến mức tinh thần no đủ, càng niệm càng lên tinh thần, là đạt Niệm Phật Tam Muội. Cảm thọ của phàm phu gồm năm thứ: khổ, sướng, buồn, vui, xả. Từ trời Dục Giới trở xuống, có đủ năm thứ này. Không có năm thứ này thì cuộc sống luôn bình ổn. Trời Sắc Giới khổ, sướng, buồn, vui đều chẳng có, chỉ có mỗi Xả thọ, chia thành tám đẳng cấp Tứ Thiền Bát Định. Do chẳng thể giữ được Định ấy vĩnh cữu, giống như đá đè cỏ, nên chỉ là tạm thời; nếu như đoạn dứt được cái gốc, liền thành tam-muội.

    Niệm Phật có Sự và Lý, Sự Niệm là nhất tâm nghĩ nhớ, chẳng quản là Sự hay Lý, mấu chốt là Nhất Tâm, hễ có tạp niệm vọng tưởng thì chẳng phải là Nhất Tâm. Thông thường, quá nửa người đời dùng tạp tâm niệm Phật, chứ nếu thật sự nhất tâm, sẽ trong một thất hay hai thất liền đắc tam muội.

    Về Lý Niệm, niệm chính là Thỉ Giác, Phật là Bổn Giác. Bổn và Thỉ hợp nhau, Thỉ - Bổn chẳng hai, gọi là Niệm Phật. Lý niệm tức là Thật Tướng Niệm Phật. Người sơ học rất khó thực hiện được, hãy nên hạ thủ bằng Sự Niệm, từ Sự Nhất Tâm niệm đến Lý Nhất Tâm. Từ bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên mới thuộc về Lý Niệm, từ Thập Tín trở xuống đều thuộc về Sự Niệm. Niệm Phật có bốn cách:

    - Một là Thật Tướng Niệm Phật, tức là niệm đức Phật nơi tự tánh, hiểu cặn kẽ chân tánh của tự tâm, chẳng dùng tâm ý thức, chúng ta chẳng thực hiện nổi.

    - Hai là Quán Tưởng Niệm Phật như mười sáu phép quán. Lúc tâm tưởng Phật thì tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo. Tâm tưởng Phật biến thành Phật, tưởng cái gì liền biến thành cái đó. Tưởng chỗ nào có bệnh, chỗ ấy bèn có bệnh, thật đúng là chỗ nào cũng bệnh. Ngày ngày nghĩ tưởng khổ não, sao quý vị đoạn phiền não cho được? Mười sáu phép quán, tu phép nào cũng có thể thành tựu. Mười hai phép quán đầu đều là quán tưởng, phép quán thứ mười ba là quán tượng, phép quán thứ mười sáu sau rốt là Trì Danh Niệm Phật.

    - Ba là Quán Tượng Niệm Phật, quán tượng Phật vẽ, đắp, hay đúc. Kinh dạy: “Đứng lên chắp tay, nhất tâm quán Phật”. Trong nhà nếu có điện thờ Phật, nếu có thời gian rảnh rỗi, chẳng được lìa khỏi Phật đường.

    - Bốn là Trì Danh Niệm Phật, nhất tâm chấp trì danh hiệu, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn. Đây là điều Đại Thế Chí Bồ Tát gọi là “tịnh niệm tiếp nối”. Trong bản chú sớ Quán Kinh, Thiện Đạo đại sư chỉ dạy vô cùng tường tận, phải tin vào lời Phật, đặc biệt là kinh Vãng Sanh. Ngoại trừ ba kinh Tịnh Độ ra, còn có Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm và Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương. Dẫu cho cổ Phật tái lai, thuyết pháp hoàn toàn mâu thuẫn với những kinh trên cũng chẳng tin theo.

    Tiếng Phạn “tam-muội”, Tàu dịch là Chánh Định, còn dịch là Chánh Tư. Tứ Thiền Bát Định của thế gian chẳng thể gọi là Chánh Định Chánh Tư, bởi chẳng thể giữ được chúng vĩnh cửu, chỉ tạm thời đè ép được phiền não chứ không đoạn được phiền não; còn Chánh Tư Duy đã ly khai vọng tưởng. Phàm phu khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là tội, thiện ác hỗn tạp. Nhất tâm niệm Phật chính là Niệm Phật Tam Muội, cảnh giới ấy có sâu cạn khác nhau, công phu chẳng giống nhau. Đọc truyện ký xưa nay, thấy rất nhiều người niệm Phật ba năm liền có thể sanh tử tự ý, tùy nguyện vãng sanh, xem thế giới này có ai hữu duyên chăng, nếu vẫn còn có cơ duyên để độ, bèn chẳng ngại lưu lại thêm một thời gian nữa, nếu không sẽ sớm ngày vãng sanh.

    Niệm Phật Tam Muội còn gọi là Nhất Hạnh Tam Muội, cũng gọi là Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội, Bát Nhã Tam Muội, Phổ Đẳng Tam Muội. Từ xưa, tổ sư đại đức đem hơn ba trăm hội giảng kinh trong cả một đời giáo hóa của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chia thành môn loại khác nhau, gọi là “phán giáo”. Tông Thiên Thai chia thành tám giáo, tông Hiền Thủ chia thành năm giáo. Ở đây, theo tông Hiền Thành chia thành Tiểu, Chung, Thỉ, Đốn, Viên.

    Niệm Phật Tam Muội có Sự Niệm và Lý Niệm. Phàm những gì trọng nơi sự tướng là thuộc về Tiểu giáo sơ cấp, giống như tiểu học. Các tông khác: Tiểu chẳng thông Đại; pháp môn này tuy có thứ lớp nhưng cũng viên dung. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ giảng về Nhất Hạnh Tam Muội rất tường tận, Ngài truyền dạy Thiền Tông đốn ngộ. Thiền được nói trong Thiền Tông chẳng phải là Thiền Định trong Lục Độ, mà là Bát Nhã Ba La Mật. Vừa mở đầu Đàn Kinh, Lục Tổ dạy mọi người niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, minh xác Thiền Tông tu Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

    “Nhất Hạnh” nghĩa là ý chuyên chú, pháp môn Tịnh tông từ Sự Niệm có thể nhập Lý Niệm, cũng thuộc vào Nhất Hạnh Tam Muội, thuộc về Đốn Ngộ. Sau khi ngộ khởi tu, chưa thấy ai cũng có thể đốn chứng. So với Thiền Tông, Niệm Phật không đốn ngộ bằng, nhưng về mặt đốn chứng lại trỗi hơn Thiền Tông. Một đằng siêu thắng về mặt Ngộ, một đằng siêu thắng về mặt Chứng. Nhưng ngộ rồi chẳng nhất định sẽ chứng, bởi thế, cổ đức nói:

    Đản đắc kiến Di Đà,
    Hà sầu bất khai ngộ.
    (Chỉ được thấy Di Đà,
    Lo chi chẳng khai ngộ?)
    Thấy đức Di Đà, tự nhiên khai ngộ, bởi thế so với Thiền Tông, Niệm Phật phải thù thắng hơn!

    Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội thuộc vào cảnh giới Đại Thừa Chung Giáo, niệm một câu A Di Đà Phật bao gồm danh hiệu hết thảy chư Phật, chẳng sót một đức Phật nào. Tựa đề kinh A Di Đà vốn là “Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh” (kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm). Hết thảy chư Phật đều vì chúng sanh giảng kinh A Di Đà! Phật giảng kinh là ứng cơ thuyết pháp, các kinh điển chủ yếu đều đã được dịch sang Trung Văn, trong đó, kinh khế cơ nhất là kinh A Di Đà, độ khắp ba căn, thâu trọn lợi độn, khiến cho chúng sanh bình đẳng được độ. Vì thế, đại sư Thiện Đạo nói: “Sở dĩ Như Lai xuất hiện trong thế gian chỉ là để nói Di Đà nguyện hải”.

    Phật đã vì một sự kiện này mà xuất hiện trong thế gian, vì sao vẫn phải nói những pháp môn khác? Chỉ là do chúng sanh chẳng tin pháp môn này, chỉ có mỗi pháp môn này là pháp môn thành Phật ngay trong một đời. Ai có cơ hội một đời thành Phật thì người đó mới có thể chuyên tâm tin tưởng pháp môn này, nhưng những người như thế rất ít.

    Trong cách phán giáo của tông Hoa Nghiêm, Bát Nhã Tam Muội thuộc về Đại Thừa Thỉ Giáo. Sơ Trụ Bồ Tát thật sự là bước mở đầu của Đại Thừa, Sơ Trụ phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Vì thế, gọi là Đại Thừa Thỉ Giáo. Nếu quý vị có dịp, hãy đọc cuốn sách vỡ lòng của Đại Thừa là Đại Thừa Khởi Tín Luận. Luận ấy là sách giáo khoa của Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, đương nhiên chúng ta xem chẳng hiểu!

    Tiểu Thừa La Hán, Bích Chi Phật đã đoạn Kiến Tư Hoặc, vượt thoát tam giới lục đạo luân hồi, trong ba đức đạt được Giải Thoát đức, được tự tại; ngoài ra, Pháp Thân đức lẫn Bát Nhã đức đều chưa chứng đắc. Thập Trụ là giai đoạn mở đầu của Đại Thừa, Thập Địa là rốt cục của Đại Thừa. Địa thứ mười gọi là Pháp Vân địa.

    Kinh Kim Cang cũng là Đại Thừa Thỉ Giáo, nêu lên những tiêu chuẩn của Bồ Tát, kinh dạy: “Nếu có Bồ Tát có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải là Bồ Tát”. Lìa được bốn tướng mới tính là nhập môn, phân nửa trên là “ly tướng”; phân nửa dưới là: “Thế Tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến chẳng phải là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến thì mới gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến”. “Kiến” là ý niệm, [câu trên đây ý nói] chẳng khởi tâm, chẳng động niệm. Nửa phần sau này là “ly kiến”. Ngay nơi một câu Phật hiệu liền khế nhập cảnh giới này, bốn tướng, bốn kiến đều chẳng có, phương pháp đơn giản, cũng là Đại Thừa Thỉ Giáo.

    Cuối cùng là Phổ Đẳng Tam Muội. “Phổ” là phổ biến, rộng lớn vô biên, “Đẳng” là bình đẳng, tận hư không, khắp pháp giới, trọn chẳng có tướng sai khác, thật sự viên mão rốt ráo. Đem câu “nam mô A Di Đà Phật” dịch thành “quy y Vô Lượng Thọ” là Phổ Đẳng Tam Muội. Đem vô lượng công đức Phật A Di Đà đã chứng đắc biến thành cái nhân để tu cho chính mình, nhân tột biển quả, quả thấu nguồn nhân, nhân quả chẳng hai. Ta niệm là niệm Phật A Di Đà trong tâm ta, A Di Đà Phật là chúng sanh trong cái tâm niệm Phật. Chúng sanh, tâm và Phật là nhất tâm, nhất tâm không hai tâm, lập tức trong một niệm công đức viên mãn của chư Phật và chính mình dung hợp thành một phiến. Do đây, ta biết rằng: một câu Phật hiệu gồm đủ cả Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên.

    Niệm Phật Tam Muội, cổ nhân gọi là đường tắt, nhưng Trì Danh là đường tắt nhất trong các đường tắt, dễ đi mau đến, xưng danh hiệu Ngài, bổn nguyện như thế. Tâm người phương này tạp loạn, ắt phải làm cho chuyên tâm một cảnh mới hòng được vãng sanh. Tôi thường yêu cầu các vị niệm kinh Vô Lượng Thọ ba ngàn lần, là nhằm tu tâm thanh tịnh, lại dùng lòng tin thanh tịnh kiên định để chấp trì danh hiệu, có thể đạt đến minh tâm kiến tánh, đắc Vô Thượng Bồ Đề, trong một đời có thể đạt được.

    Lão pháp sư Đàm Hư khai thị trong Phật thất tại đạo tràng nọ ở Hương Cảng, có lưu lại một cuốn băng thâu âm, Ngài lại nói giọng Thiên Tân, tôi phải nghe hết ba ngày mới hiểu hoàn toàn. Người có thiện căn nghe được cuốn băng ấy có thể vãng sanh, tôi nhờ người làm thành CD, rồi lại chế thành băng thâu âm. Có người chuyên niệm một câu Phật hiệu, rồi đứng mà qua đời hoặc ngồi mà qua đời; người thật, việc thật, bọn họ làm được như thế, thân tâm lẫn thế giới đều buông xuống cả, cái gì cũng chẳng có. Thiện căn của mình có hợp với tiêu chuẩn hay không chính mình phải tự biết. Nếu vẫn là ba tâm hai ý thì chưa đạt được tiêu chuẩn! Cũng chẳng nghĩ đến Phật pháp, thế sự lại càng chẳng tưởng đến. Việc gì cần cứ làm, làm xong không nghĩ đến nữa, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật.

    Lại như pháp quán tưởng và quán tượng, cứ chiếu theo Thập Lục Quán Kinh, quán mặt trời lặn, mở mắt, nhắm mắt vẫn có vầng thái dương. Dẫu có quán thành vẫn là chấp tướng, để đạt đến Tây Phương phải bỏ được tướng, nhưng trừ tướng cũng chẳng dễ gì.

    Chánh kinh:
    Thí như hữu nhân, nhất chuyên vi ức, nhất nhân chuyên vong, như thị nhị nhân, nhược phùng bất phùng, hoặc kiến phi kiến. Nhị nhân tương ức, nhị ức niệm thâm, như thị nãi chí tùng sanh chí sanh, đồng ư hình ảnh.

    (Ví như có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như thế dù gặp cũng như không gặp, dù có thấy cũng như không thấy. Hai người nhớ nhau, hai người nhớ nghĩ nhau sâu xa, như thế cho đến từ đời này sang đời khác, giống như hình với bóng)

    Ví dụ thứ nhất là Phật nghĩ đến chúng sanh, nhưng chúng sanh trọn chẳng nghĩ đến Phật. Nếu cả hai nhớ nghĩ lẫn nhau bèn cảm ứng đạo giao. Cha mẹ nghĩ đến con cái thì chỉ một đời, đời sau chẳng còn gặp gỡ, dẫu có gặp nhau cũng chẳng nhận biết. Đối với chúng sanh, Phật nghĩ nhớ đời đời kiếp kiếp chẳng đoạn, tâm Ngài đối với chúng sanh chỉ có người chứng quả mới nhận hiểu nổi. Phật nói hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh, câu nói ấy là chân lý và cũng là sự thật. Hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian đều do tâm tưởng sanh, chúng sanh là chúng sanh trong tâm Phật; chư Phật là Phật trong tâm chúng sanh, tâm tâm tương đồng. Nếu chẳng phải là tự tánh biến hiện, sẽ chẳng thể có cảm ứng. Lúc khởi tâm niệm Phật, tâm ấy biến thành cái tâm có đức Phật ba mươi hai tướng, tâm là chủ tể. Niệm Phật lâu ngày, tâm thành từ bi, tướng mạo cũng nhu hòa, thể hiện ra tướng, ta thường nói “tướng tùy tâm chuyển”.

    Trong sách chú giải Quán Kinh, Thiện Đạo đại sư viết: “Chín phẩm vãng sanh đều là do gặp duyên sai khác”. Vừa nghe đến pháp môn Niệm Phật, bèn tin tưởng ngay lập tức, tiếp nhận, chết một lòng niệm Phật, ấy chính là người thiện căn chín muồi, người ấy một đời niệm Phật nhất định đắc lực. Còn như người thiện căn chưa chín muồi, gặp duyên là điều rất quan trọng. Lâm chung, gặp bạn lành, nhất tâm bất loạn, niệm Phật vãng sanh, có thể lay động túc căn trong quá khứ, chuyên tâm niệm Phật mau được thành tựu.


    Chánh kinh:
    Thập phương Như Lai, mẫn niệm chúng sanh, như mẫu ức tử, nhược tử đào thệ, tuy ức hà vi?

    (Mười phương Như Lai nghĩ thương chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn đi, dù nhớ làm gì được?)

    Mẹ con tỷ dụ thân thiết nhất, mẹ nào chẳng nghĩ đến con! Từ xưa đến nay, lòng mẹ u mê, dẫu biết con chẳng nghĩ đến mình, vẫn cứ canh cánh, chẳng buông bỏ được. Ví Phật với mẹ, nhưng chẳng phải là chỉ thương nhớ một đời.

    Chánh kinh:
    Tử nhược ức mẫu, như mẫu ức tử, mẫu tử lịch sanh, bất tương vi viễn.

    (Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng trái xa nhau)

    Ở đây ví dụ cả mẹ lẫn con cùng nhớ chẳng xa lìa, tự nhiên cảm ứng đạo giao, ắt có thể thấy Phật vãng sanh. Chúng ta phải thể hội sâu xa: Vì sao niệm Phật nhất định được vãng sanh? Vì sao mười phương Như Lai riêng khen ngợi đức Di Đà?

    Cao Tề là vương triều do Cao Hoan thành lập vào thời đại Nam Bắc Triều trong lịch sử, quốc hiệu là Tề. Đương thời, có vị Đại Hạnh hòa thượng nói: “Tin - nhớ hai chữ chẳng lìa nơi tâm, xưng - kính hai chữ chẳng lìa nơi miệng”. Chẳng cần nghĩ gì khác, ngay cả với Đại Thừa Phật pháp cũng chẳng tưởng đến. Đại Thừa dạy chúng ta vượt thoát luân hồi, nhưng quý vị có vượt thoát được chưa? Muốn vượt thoát luân hồi phải đoạn phiền não, chưa đoạn phiền não thì tất cả trí huệ đều là gọi là tà trí huệ, chỉ tăng trưởng tà tri, tà kiến. Thanh Lương đại sư nói: “Có hiểu nhưng không hành, tăng trưởng tà kiến”. Phật nói thất tình, ngũ dục chẳng đoạn, quả báo của quý vị vẫn là Dục Giới, chẳng thể đạt tới Sắc Giới. Đoạn ngũ dục mới có thể lên tới trời Sơ Thiền. Nếu người ta nói quý vị một câu nghe chẳng thuận tai, trong tâm quý vị vẫn còn chút phần chẳng cao hứng, quý vị chẳng thể lên được trời Sơ Thiền.

    Trong truyện ký về ngài An Thế Cao có đoạn kể: Có lần ngài xuống Cửu Giang thuộc Giang Nam để độ bạn đồng học. Người đồng học đó làm Long Vương; trong quá khứ, ông ta là người xuất gia, hiểu kinh, thích bố thí, có một lần ra ngoài khất thực, cơm, thức ăn không ngon, trong tâm rất bực bội. Bởi một niệm tâm sân hận đó, chết đi lạc vào đường súc sanh, biến thành đại mãng xà, làm Long Vương ở Cửu Giang. Do ông ta hiểu kinh, nên có trí huệ, rất linh, nhang đèn cực thạnh. Chỉ vì sân tâm quá nặng, thuyền phu nào chẳng lạy ổng, ổng sẽ lật thuyền đó để trừng phạt. Bởi thế, đến khi hết thân rắn, ắt đọa địa ngục.

    Các vị nghĩ coi: Khất thực chẳng vừa ý, mới khởi lên một niệm nóng giận, còn mắc phải báo đó, chúng ta phải nên kiêng dè. Tu hành là khử sạch tham, sân, si. Tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng, tu tâm từ bi, tu tâm hoan hỷ, mới có thể sửa đổi được tập khí bệnh căn của chính mình. Tất cả hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng tốt, nhưng thực tại, chúng ta chẳng có biện pháp gì để đoạn phiền não. Một câu Phật hiệu có thể đè nén tham, sân, si, ngũ dục, lục trần, chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm. Một ý niệm vừa khởi, trong ý niệm thứ hai bèn niệm Phật hiệu. Niệm niệm liên tục, niệm Phật đắc lực hay không là do đây.

    Vạn phần chẳng để Phật hiệu vẫn niệm, nhưng phiền não vẫn khởi tác dụng. Luôn luôn nỗ lực, luôn luôn buông xuống. Hiểu lý mới có thể buông xuống, mới có thể khuất phục được phiền não. Phải thường luôn bồi đắp, điều thứ nhất là phải đọc kinh, trong kinh đức Phật dạy chúng ta chân tướng của nhân sanh, vũ trụ, thế gian, xuất thế gian. Đọc kinh nhằm mục đích thấy rỗng toang, buông xuống, sau đấy dùng một câu Phật hiệu để giúp chúng ta vượt thoát tam giới.

    Hòa Thượng Đại Hạnh nêu lên bốn chữ “tin, nhớ, xưng, kính”, xem Vãng Sanh Truyện, ta thấy những người niệm Phật vãng sanh trong các đời nói chung đều đã thực hiện được bốn chữ ấy. Lại kiểm điểm mình, nếu mình làm chưa được, chỉ đành đợi đến những đời sau, nhưng đời sau có được thân người, có gặp được Phật pháp hay không đều là những nan đề cả! Bởi thế, nhất định phải nắm lấy cơ hội này, trọn chẳng để vuột mất.


    Chánh kinh:
    Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật.

    (Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, [sẽ trong] hiện tại hay trong tương lai, nhất định thấy Phật)

    Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Một câu chuyên niệm”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Nhất tâm hệ niệm”. Kinh A Di Đà (bản dịch của ngài La Thập) chép: “Nhất tâm bất loạn”. Văn tự ba kinh tuy đây kia sai khác, nhưng ý nghĩa tương đồng. Kinh điển dạy chúng ta phải chú trọng cương lãnh tu hành, nếu muốn đạt được lợi ích công đức thù thắng, nhất định phải hiểu phương pháp tu học thì mới hòng mãn nguyện.

    Chú tâm xem kỹ kinh điển, ta thấy trọng điểm chính là nhất tâm, chẳng những nhất tâm khi niệm Phật, ngay cả trong sanh hoạt thường ngày cũng phải nhất tâm. Niệm Phật chẳng qua chỉ là phương cách để huấn luyện nhất tâm đó thôi, chỉ có mỗi một niệm này, không còn niệm nào khác. Niệm niệm nối tiếp nhau, thành tựu tam-muội, trong hết thảy thời, hết thảy nơi, trong cảnh thuận hay cảnh nghịch đều giữ được nhất tâm. Công phu niệm Phật thành phiến, liền có sức để hàng phục phiền não, đó gọi là Sự Nhất Tâm. Cổ đại đức tán thán pháp môn này đều tán thán nơi một điểm sau: nhờ vào chút công phu bèn có thể siêu xuất tam giới.

    “Sẽ trong hiện tiền hay trong tương lai, nhất định thấy Phật”. Thấy Phật là trong mộng thấy hoặc là trong định thấy. Định là tâm chẳng tán loạn. Kinh Hoa Nghiêm có đoạn chép khi Thiện Tài tham phỏng trưởng giả Uất Hương, vị đại đức ấy thích ra chợ để tu định tại đó. Lại như trong các bức bích họa ở Đôn Hoàng, Phật giảng kinh, thuyết pháp, trên trời có thiên nữ vừa ca vừa múa. Tu học ở mức độ cao chẳng giống với kẻ sơ học. Kẻ sơ học nhất định phải tìm cách xa lìa xã hội nhiễu nhương, đấy là điểm khác biệt giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa. Trong hiện tại, tu học nếu thành tựu thì so ra sẽ cao hơn cổ nhân nhiều lắm. Nếu tu chẳng thành tựu, lui sụt cũng lẹ.

    Kế đó, trong mộng thấy Phật cũng là tướng lành tốt phi thường, nhưng ngẫu nhiên gặp thì được, nếu thường thấy chỉ sợ là cảnh ma. Học pháp môn Tịnh Độ có Phật, Bồ Tát gia bị, ma chẳng dám đến dụ hoặc. Kinh Lăng Nghiêm dạy rất tường tận. Người niệm Phật lúc lâm chung, ắt được Phật A Di Đà đến đón; nếu thấy bất cứ vị Phật hay Bồ Tát nào khác đến đón đều chẳng muốn theo, chỉ đợi A Di Đà Phật, các cảnh giới tốt đẹp khác bất tất phải quan tâm đến. Huệ Viễn đại sư, sơ tổ Tịnh Tông, lúc lâm chung nói: Một đời Ngài thấy Phật A Di Đà ba lần, còn thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới nữa, hoàn toàn giống như kinh nói.

    Nhất tâm nhất ý chuyên niệm Tịnh Độ ngũ kinh, niệm đủ cả năm bộ cũng được, chọn lấy bất cứ bộ nào để niệm cũng được. Người niệm Phật thì nhiều nhưng vãng sanh thì ít, nguyên nhân là do miệng niệm nhưng tâm không niệm. Trong tâm thanh tịnh, bình đẳng, đại từ, đại bi, mới xứng là tâm niệm Phật, bởi lẽ tâm giống như tâm Phật. Tâm và nguyện đều giống với Phật thì Chân Như bổn tánh hiện tiền, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Giống như Thiền Tông “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”; chúng ta dùng một câu A Di Đà Phật cũng có thể đạt được. Vị Phật ấy là “phần chứng Phật”, chẳng phải là viên mãn Báo Thân Phật, chỉ là sơ trụ phần chứng Phật, vẫn còn có bốn mươi hai giai đoạn mới viên mãn.

    Có những kẻ cả đời niệm Phật nhưng chẳng thể vãng sanh, nguyên nhân nói đại lược gồm 4 điều:

    1. Một là vì niệm Phật chẳng tinh thành, niệm thứ nhất vừa mới tinh thuần, niệm thứ hai bèn xen tạp.

    Lịch đại tổ sư đại đức đều là bậc thông Tông, thông Giáo, sau khi hiểu rõ Tịnh Độ bèn buông bỏ hết những thứ khác, chuyên tu Tịnh Độ. Trong những trước tác của đại sư Liên Trì, tinh hoa là bộ Di Đà Sớ Sao; trước tác tối trọng yếu của đại sư Ngẫu Ích là Di Đà Yếu Giải, Ấn Quang đại sư vào tuổi già chỉ dùng một bộ kinh A Di Đà, một câu Phật hiệu, ngoài ra chẳng còn có gì khác nữa.

    2. Hai là vì sanh nghi, chẳng dốc lòng tin.

    Tuy tu Tịnh Độ, cũng chịu niệm Phật, nhưng chẳng thể hoàn toàn tin mình có thể vãng sanh. Chỉ cần có một điểm nghi tình, lúc lâm chung dù có phước báo, thân không bệnh khổ, trí não sáng suốt, nhưng chỉ có thể sanh về biên địa. Kẻ phước báo kém hơn, thần trí chẳng sáng suốt, nghi chướng nổi lên, liền chẳng được vãng sanh. Nếu muốn phá trừ những nghi chướng ấy, hãy nên thâm nhập, nghiên cứu kinh giáo và tìm đọc những chuyện vãng sanh thật sự.

    3. Thứ ba là do chẳng có nguyện vãng sanh.

    Chẳng nguyện vãng sanh là mâu thuẫn với niệm Phật, dùng việc niệm Phật để tu phước, tương lai làm một con quỷ giàu có, có kẻ còn mong sanh lên trời, hy vọng tương lai hưởng phước trời, cầu phước báo trong cõi trời, cõi người.

    4. Điều thứ tư là vì chẳng thể đoạn tham ái.

    Tham cầu các thứ hưởng thọ trong tam giới lục đạo, phàm phu tham ngũ dục lục trần thế gian, người cõi trời tham phước báo thanh tịnh cõi trời, người Sắc Giới, Vô Sắc Giới tham hưởng thọ Thiền Định. Có tham ắt thành chướng ngại, chẳng thể vãng sanh.

    Người tu Tịnh Độ chân chánh, ma chẳng dám đến nhiễu loạn. Thứ nhất là do niệm lực, tức là như kinh này nói: “Nhớ Phật, niệm Phật”. Thứ hai là bổn nguyện có Phật tánh lực, điều được niệm là tự tánh Phật, thanh tịnh bình đẳng đại từ bi là Phật. Thứ ba là được bổn nguyện của chư Phật gia trì. Với sức bổn nguyện oai thần gia trì của mười phương ba đời hết thảy Như Lai, ma dù có sức cũng chẳng thể đến nhiễu loạn.

    Tập khí mang theo từ nhiều đời nhiều kiếp; nếu thường khởi ác niệm, thường gặp ác mộng, đấy đều là do ác nghiệp quá khứ, phải nỗ lực tu pháp môn sám hối. Chắc thật niệm Phật là chân sám hối. Niệm tướng hảo của Phật để đối trị hôn trầm, niệm công đức của Phật để đối trị vọng tưởng. Cảnh thuận nghịch trong một đời chẳng nhất định, hãy nhớ kinh Kim Cang dạy: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Vinh hoa phú quý thế gian là vướng bận, có ai thỉnh mình làm Đại Phạm Thiên Vương mình cũng chẳng làm. Bệnh khổ cũng là một duyên gây thoái thất, đừng nghĩ tới nó, hãy nghĩ tới tướng hảo trang nghiêm của đức Phật.

    Trong Quán Kinh Trực Chỉ, ngài Từ Vân đại sư đời Thanh nói: “Người thế gian nghiệp chướng sâu nặng, lúc hết thảy kinh chú sám pháp đều chẳng thể tiêu trừ được thì rốt cuộc một câu Phật hiệu có thể tiêu sạch, phương pháp hữu hiệu nhất là niệm Phật”.

    Chánh kinh:

    Khứ Phật bất viễn, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai.

    (Cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ đến phương tiện, tâm được tự khai)

    Sự Niệm, niệm đến một công phu nhất định, sẽ nhập vào Lý Niệm, có thể thấy được Pháp Thân và Báo Thân Phật. Công phu chẳng đạt tới mức, chỉ thấy được Ứng Hóa Thân Phật. Trong sớ luận, tổ sư đại đức nói niệm Phật niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, là nói về thượng phẩm Sự Nhất Tâm, đã đoạn Kiến Tư phiền não, thấy được Ứng Hóa Thân Phật. Nếu niệm đến Lý Nhất Tâm Bất Loạn, thấy được Báo Thân Phật, Pháp Thân Phật. Cái gọi là “kiến tánh thành Phật” chính là thấy được đức Phật nơi tự tánh, Phật tâm bình đẳng thanh tịnh, tự tánh thật và Phật là một.

    Phật tâm bình đẳng, quyết chẳng có phân biệt, chấp trước, nguyện đồng Phật nguyện. Hết thảy các kinh Phật nói đều do trong tự tánh tự nhiên lưu lộ ra. Nếu ai nhập được cảnh giới này, mở xem kinh Phật, thấy những điều Phật giảng hoàn toàn giống với kiến giải của chính mình, bởi lẽ tự tha bình đẳng.

    Một câu Phật hiệu chính là phương tiện thù thắng, lạ lùng, chẳng cần nhờ vào phương tiện, pháp môn khác nào để hỗ trợ. Niệm Phật chính là niệm tâm, tâm và Phật không khác, tự - tha bất nhị, bởi thế chẳng cần có ông Phật nào khác ở ngoài tâm để làm phương tiện. Nếu tự và tha là hai pháp thì chẳng phải là Phật pháp, Lục Tổ bảo như thế. Những điều được nói trong Đàn Kinh toàn là nguyên lý, nguyên tắc, bất cứ Phật pháp Đại Thừa nào cũng chẳng thể trái nghịch những nguyên lý, nguyên tắc được nói trong kinh ấy.

    Chánh kinh:

    Như nhiễm hương nhân, thân hữu hương khí. Thử tắc danh vi Hương Quang Trang Nghiêm.

    (Như người nhiễm hương, thân có mùi thơm. Đó gọi là Hương Quang Trang Nghiêm)

    Phần trên, Đại Thế Chí Bồ Tát đã trình bày toàn bộ phương pháp tu học và hiệu quả tu học của chính mình rồi; giờ đây, Ngài đem danh xưng của pháp môn này bảo với chúng ta. Hai câu đầu là tỷ dụ. Hai câu sau nêu danh xưng của pháp môn này: Hương Quang Trang Nghiêm. Thân gần gũi thân Phật (Giới), tâm khai Phật tâm (Định - Huệ). Lời lẽ, hành vi của Phật đều từ tâm thanh tịnh phát khởi, trọn chẳng lầm lỗi, đáng là giới luật cho thế gian.

    Luận trên mặt chân tâm, tâm Phật và tâm chúng không hai, không khác. Phật giác ngộ hoàn toàn; tướng của Giác là Định, tướng của Mê là động. Tâm bất động gọi là Định, tác dụng của nó là trí huệ chân thật. Trí huệ thông minh của phàm phu là dùng tưởng tượng, dùng tư duy, dùng suy tưởng, nên gọi là thế trí biện thông. Tâm định như gương, tịnh như nước lặng, thấy được chân tướng sự thật, cũng có thể thấy được quá khứ, vị lai. Tam thế, mười phương là “bất tương ưng hành pháp”, nói theo cách bây giờ là khái niệm trừu tượng, chẳng phải thực sự tồn tại.

    Cương lãnh giáo dục của đức Phật trong bốn mươi chín năm trên đời là: Có Định, có Huệ, tâm liền khai mở Phật tâm! Nếu ngôn ngữ, hành vi chúng ta tương ứng với giới luật thì gọi là thân gần thân Phật, như người nhiễm hương. Hết thảy pháp của Đức Phật nói do vì sự, do vì người, do vì địa bất đồng nên [nhiều] vô lượng vô biên, nếu nắm được tư tưởng trung tâm (tức điều cốt lõi) của chúng thì hết thảy ngôn hạnh sẽ tương ứng với Phật pháp.

    Đại Tạng Kinh có mấy ngàn quyển, không cách gì đọc tụng khắp hết được, thông thường chúng ta chỉ có thể học tập chưa đến năm mươi bộ. Con người hiện tại rất bận bịu, chẳng thể có đủ thời gian để nghiên cứu kinh lớn, luận lớn. Kinh Vô Lượng Thọ số chữ không nhiều, nhưng bao quát hết thảy nguyên tắc, lý luận, nếu có thể đọc thuần thục bộ kinh này, thâm nhập lý giải kinh đó thì tốt lắm.

    Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Đề tâm hương trừ được các nhiệt não: tham, sân, si v.v… Bồ Đề là giác. Tâm Bồ Đề đối trị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, có thể làm cho chúng sanh đầy đủ trí huệ, thanh lương, không nhiệt não. Bồ Đề tâm thể và dụng rộng lớn, chứa đựng cả thái hư. Hiện tại chúng ta chỉ mê thích cái nhỏ nhoi, chỉ nghĩ đến bản thân, nhà cửa của mình, bởi thế phải lưu chuyển trong lục đạo, chẳng thể xuất ly. Lục đạo sanh từ mê, nếu chẳng mê thì đại thiên thế giới cũng chẳng có. Là phàm hay thánh chỉ trong khoảng mê hay ngộ, Tứ Thánh là giác, lục đạo là mê. Chân chánh giác ngộ liền có thể vượt thoát lục đạo.

    Hòa Thượng Hư Vân một năm tắm một lần, cạo tóc một lần. Nghe nói thân ngài có mùi thơm, y phục cũng có mùi thơm. Chúng ta ba ngày chẳng tắm giặt, bốc mùi khó chịu đựng nổi. Chúng ta vào chùa nếu thấy có treo tấm biển Hương Quang Thất, ta biết nơi đó là đạo tràng niệm Phật.


    Chánh kinh:
    Ngã bổn nhân địa, dĩ niệm Phật tâm, nhập Vô Sanh Nhẫn.

    (Nhân địa của con, dùng tâm niệm Phật, nhập Vô Sanh Nhẫn)

    Pháp môn Niệm Phật chẳng giống với bất cứ pháp môn nào khác. Mọi pháp môn đều là tu nhân chứng quả, nhân quả chẳng đồng thời. Pháp môn Niệm Phật là nhân quả đồng thời, gọi là “triệt quả hạch nhân”. Phật hiệu đây chẳng phải chỉ là đức hiệu của riêng A Di Đà Phật khi Ngài chứng quả, mà còn là đức hiệu chứng đắc nơi quả vị của mười phương chư Phật Như Lai. Chúng ta lấy quả làm nhân, nên chẳng giống với bất cứ pháp môn nào khác.
    Niệm Phật trọng tại niệm tâm, nhưng chẳng thể phế khẩu niệm. Tâm và miệng phải tương ứng nhau, phải như một, miệng đọc suông là vô ích, nhất định phải miệng niệm tâm ứng, chẳng thể dùng cái tâm ý thức phân biệt để niệm, mà phải nhiếp trọn sáu căn nhất tâm bất loạn mà niệm. Hai mươi lăm vị Bồ Tát trong kinh Lăng Nghiêm đều là Pháp Thân đại sĩ, các Ngài chẳng có vọng tâm, chân tâm đã hiển lộ. Dù chúng ta chưa đạt tới cảnh giới của các Ngài, nhưng muốn học theo thì trọng yếu nhất là chắc thật niệm Phật.

    Phương pháp [niệm Phật] rất nhiều, trong quá khứ, tại chùa Linh Nham ở Tô Châu có một tấm bia đá khắc một bài kệ, dạy người đời phương pháp niệm Phật, chẳng cần phải đếm số, chỉ quán tưởng màu sắc, mùi thơm, ánh sáng của hoa sen. Căn cứ vào kinh Di Đà nói trong ao bảy báu có hoa sen: màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng. Niệm A Di Đà Phật câu thứ nhất tưởng hoa sen màu xanh ánh sáng xanh, niệm sang câu thứ hai tưởng hoa sen vàng ánh sáng vàng, câu thứ ba tưởng hoa sen đỏ ánh sáng đỏ, câu thứ tư tưởng hoa sen màu trắng ánh sáng trắng. Theo thứ tự đó, hết một vòng lại trở về đầu, luân lưu quán tưởng, dùng phương pháp này để nhiếp trọn sáu căn, chẳng cần phải đếm số. Ấn Quang đại sư nói cách niệm này phù hợp ý kinh.

    “Ngộ” là ngộ nhập, chia thành giải ngộ và chứng ngộ. Đoạn nghi sanh tín, gọi là giải ngộ, nhưng phiền não tập khí chưa đoạn, vẫn còn chướng ngại trí huệ thanh tịnh, chướng ngại vãng sanh thành Phật, cần phải chân chánh khế nhập cảnh giới Phật. Kinh Lăng Nghiêm giảng về chân tướng của vũ trụ nhân sanh, phương pháp và trình tự tu hành tường tận hơn các kinh khác. Kinh Hoa Nghiêm nói tu hành có năm mươi hai địa vị, nhưng kinh Lăng Nghiêm nói đến sáu mươi địa vị, tỉ mỉ hơn kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh Hoa Nghiêm, trước địa vị Thập Tín có ba địa vị tiệm thứ (tiến dần dần). Ba địa vị tiệm thứ ấy chính là cơ sở tu hành, như các lớp dự bị đại học.

    Thứ nhất là tu tập, mục đích trước hết là trừ các trợ duyên của tập khí phiền não. Chẳng hạn như người tu hành phải đoạn ngũ tân (năm thứ hôi nồng). Ngũ tân là hành, tỏi, kiệu, hẹ, hưng cừ (9), đều là những thứ trợ duyên bất hảo, nên gọi là các thứ rau hôi. Ăn sống can hỏa dễ động, ăn chín làm cho hormone tăng thêm, có thể gây nên những xung động tình dục.

    Thứ hai là chân tu, chân tu là dùng cái tâm chân thật để tu. Trước hết, nhất quyết phải trì giới, giữ bốn giới trọng “giết, trộm, dâm, dối”, nặng nhất là tội đại vọng ngữ: chưa chứng bảo là đã chứng. Như Vĩnh Minh đại sư là A Di Đà Phật tái lai, một khi thân phận bị lộ Ngài bèn viên tịch. Bố Đại hòa thượng xuất hiện dưới thời Nam Tống, là Di Lặc Bồ Tát tái lai, chính Ngài tự nói ra, nói xong bèn viên tịch. Kẻ nào nói xong chẳng viên tịch thì đích thực là giả mạo.

    Thứ ba là tăng tấn, dùng sức định huệ đoạn trừ nguồn ác, không ngừng cầu tiến lên, xa lìa tập khí phiền não của chính mình, sau đấy mới nhập địa vị Thập Tín. Dù có viên mãn địa vị Thập Tín, vẫn chỉ thuộc về Giải vị (địa vị mới giải ngộ, chưa thật chứng), trọn chưa kiến tánh, chưa tự thấy hiểu chân tướng của vũ trụ, nhân sanh. Từ Sơ Trụ trở lên, phá một phần vô minh, thấy một phần bổn tánh, mới tính là thật chứng.

    Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác gọi là chứng nhập, cho đến địa vị bốn mươi mốt của hàng Pháp Thân đại sĩ. Tiểu thánh đã chứng Nhân Không, nhưng chưa chứng nhập Pháp Không, chẳng qua là giải ngộ, phá được Ngã Chấp, nhưng chưa thể trừ được Pháp Chấp.

    Tiêu chuẩn nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn trong kinh Nhân Vương khá cao: phải đạt đến Thất, Bát, Cửu Địa mới được tính là chứng nhập, dùng tịnh niệm chân chánh để trừ diệt tà kiến, vọng tưởng, và các thứ nhiễm ô tư tưởng, kiến giải nơi tâm lý, tinh thần. Trước kia thấy thế giới là đời ác năm trược, bây giờ, tâm thanh tịnh rồi, thấy thế giới là thanh tịnh, tâm thanh tịnh thế giới cũng thanh tịnh, hết thảy pháp sanh từ tâm tưởng. Tâm là mấu chốt, nội pháp ngoại pháp đều không, hết thảy vô sanh, đó là cảnh giới của bậc từ Thất Địa trở lên. Không thể không biết cương lãnh tu học như thế, trong lúc niệm Phật, bất cứ chuyện gì chẳng được nghĩ đến.

    Có kẻ nói càng niệm Phật vọng tưởng càng nhiều, đó chỉ là lúc bình thường chẳng hay biết đấy thôi, nào phải bình thường chẳng có vọng tưởng. Lúc niệm Phật, y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây Phương đều có thể dùng để tưởng được cả, chẳng riêng gì hoa sen, nhưng chỉ nên tưởng một thứ, bởi mục đích là để dẹp tạp niệm.

    Kinh Hoa Nghiêm giảng Vô Sanh Pháp Nhẫn là chẳng thấy có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy chút pháp nào diệt. Đó là nói đến hiện tượng của Vô Sanh Pháp Nhẫn. Khi nào quý vị thấy cùng tột hư không khắp pháp giới chẳng có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy có chút pháp nào diệt, quý vị đã chứng đắc cảnh giới Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô sanh vô diệt mới là chân tướng, có sanh có diệt là sự hiểu lầm của chúng ta; nhưng nếu ta chưa tự chứng cảnh giới này, rất khó hiểu được nổi.

    Nói chung, tâm ta và tâm Phật, tâm Bồ Tát chẳng khác gì, nhưng tâm Phật, tâm Bồ Tát bất động, tâm bất động là chân tâm, những điều được thấy đều là tướng chân thật. Tâm chúng ta là tâm sanh diệt, tâm hư vọng, nên toàn thấy những tướng hư vọng, đến khi nào chúng ta tu định đạt đến trình độ tương đương, tự mình chứng đắc rồi thì mới có thể hiểu rõ lý luận này. Kinh Đại Thừa nói: “Phật chẳng độ chúng sanh”. Ngài chỉ giảng rõ chân tướng chính Ngài đã tự chứng, chúng ta có tự chứng được hay không là do công phu của chính mình.

    Không sanh, không đến, lìa dục, không nguyện đều là “không”, đây là nói theo mặt Lý. Không diệt, không tận, không đi là “chẳng không”, đây là luận trên mặt Sự. Ly cấu, vô biệt, vô xứ, tịch tĩnh, vô trụ, không nhưng chẳng không chính là Trung Đạo. Sự là có, nhưng thể của nó là không. Sự từ đâu có? Phật nói vạn pháp do nhân duyên sanh. Bất cứ một pháp nào sanh khởi đều có vô lượng nhân duyên. Cái gì sanh bởi nhân duyên ắt không có tự thể, tức là không! Đừng hiểu Không là không có gì. Không là Có, chỉ vì sáu căn của chúng ta chẳng tiếp xúc được nên tạm gọi là Không, chứ chúng thật sự là Có. Nếu hiểu rõ được sự thực, liền có thể sử dụng Trung Đạo, chẳng nghiêng lệch về Không Lý hay chấp vào Giả Tướng.

    Nho gia nói đến đạo Trung Dung, nhưng chưa thấu triệt Phật pháp. Châu Hy là người đời Tống, cũng từng học Phật, bỏ không ít công phu học Phật, bộ Tứ Thư do ông ta biên soạn nhất định chịu ảnh hưởng cách chỉ dạy trong kinh Hoa Nghiêm, nhưng tôi chưa dám khẳng định, bởi lẽ kết cấu Tứ Thư rất giống với kinh Hoa Nghiêm. Điểm đặc sắc lớn nhất của kinh Hoa Nghiêm là có lý luận, có phương pháp, lại còn có cả biểu diễn nữa. Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử là biểu diễn, ứng dụng lý luận vào sanh hoạt thường nhật.

    Kết cấu của Tứ Thư cũng giống như vậy, Trung Dung là lý luận, Đại Học là phương pháp, Luận Ngữ và Mạnh Tử là biểu diễn, thuyết minh thánh hiền vận dụng cái đạo Trung Dung trong sanh hoạt thường nhật như thế nào. Khổng Tử đãi người tiếp vật cả một đời đều tuân thủ cái đạo Trung Dung. Thời xưa, đế vương đều lấy lẽ trung hòa để trị thiên hạ. Ba ngôi đền lớn trong hoàng cung Bắc Kinh có tên là Thái Hòa điện, Trung Hòa điện và Bảo Hòa điện.
    Last edited by luckyboy624; 26-06-2011 at 11:45 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Kinh Quán Phổ Hiền bồ tát
    By Cầu Trí Bát Nhã in forum Đạo Phật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 21-02-2013, 05:07 AM
  2. Trả lời: 162
    Bài mới gởi: 24-06-2012, 10:16 PM
  3. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •