Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 33

Ðề tài: Tác động của Thần khí nơi các tôn giáo khác

  1. #1

    Mặc định Tác động của Thần khí nơi các tôn giáo khác

    Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP.

    Đúc kết quan điểm của các Nghị phụ tham dự Thượng hội đồng Giám mục Á châu, Tông thư “Giáo hội tại Á châu” đề cao vai trò của Thần khí trong công cuộc sáng tạo và trong lịch sử cứu độ. Sau khi nhắc lại quan điểm truyền thống về chức năng ban sự sống của Chúa Thánh thần, Tông thư viết tiếp như sau: “Thật vậy, Thần khí là nguồn gốc những ý tưởng cao thượng và những khởi điểm tốt đẹp của nhân loại lữ hành:

    Do sự quan phòng kỳ diệu, Ngài hướng dẫn dòng chảy thời gian và đổi mới bộ mặt của trái đất. Theo hướng đi của Công đồng Vatican II, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nhấn mạnh đến hoạt động phức biệt và đa dạng của Chúa Thánh thần. Chính Ngài liên lỉ gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, cũng như giữa các tôn giáo, các văn hóa và triết học của họ. Điều đó có nghĩa là các tôn giáo, văn hóa và triết học này có khả năng giúp đỡ các dân tộc, một cách cá nhân hay tập thể, chống lại sự dữ và phục vụ sự sống cũng như tất cả những gì thiện hảo. Các quyền lực của sự chết cô lập các dân tộc, các xã hội và các cộng đồng tôn giáo, tạo nên nỗi ngờ vực và đối nghịch dẫn đến những xung đột. Trái lại, Chúa Thánh thần nâng đỡ các dân tộc trong cố gắng tìm kiếm để hiểu biết và chấp nhận nhau. Do đó, Thượng Hội đồng có lý khi nhìn Thần khí của Thiên Chúa như là tác nhân đầu tiên của cuộc đối thoại giữa Giáo hội với tất cả các dân tộc, các văn hóa và tôn giáo”[1].

    Chúng tôi trích dẫn bản văn khá dài ở trên nhằm dẫn nhập vào vai trò của Thần khí nơi các tôn giáo và văn hóa. Chính Thần khí âm thầm hoạt động trong lòng lịch sử nhân loại ngay từ ban đầu và vẫn tiếp tục hoạt động suốt dòng lịch sử cứu độ, mà cao điểm là biến cố Nhập thể của Đức Kitô. Chúng ta cùng nhau khai triển và đào sâu ý tưởng căn bản đó trong những dòng dưới đây.

    1- Vai trò phổ quát của Ngôi Lời

    Trong Tân ước, từ “Logos” vừa có nghĩa là Thiên Chúa vĩnh hằng (Ga 1,1), vừa có nghĩa là Ngôi Lời đã nhập thể (1,14). Thánh sử Gioan nói rõ : Ngôi Lời là một ngôi vị Thiên Chúa (1,1-2), nhưng “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (1,14). Như vậy, Logos vừa siêu thời gian và không gian, vừa đi vào lịch sử và mặc xác phàm trong con người Giêsu-Kitô. Đức tin Kitô giáo xưng tụng Ngài là Đấng mạc khải, biến đổi và cứu độ gian trần.

    Theo “Lời tựa” của Tin Mừng theo thánh Gioan, Ngôi Lời vẫn hiện diện và tác động thật sự trong lịch sử từ trước khi Ngài nhập thể trong Đức Giêsu Kitô: “Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời (…) và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa (…). Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành và không có Ngài, chẳng có vật gì hiện hữu” (Ga 1,1-3). Chính Ngài là “ánh sáng chân thật…chiếu soi mọi người” (1,9). Nhưng cũng chính Ngài đã nhập thể và đi vào lịch sử để trở thành Đấng cứu độ của nhân loại: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (…). Từ nguồn sung mãn của Ngài, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,14,16).

    Truyền thống Kitô giáo nhấn mạnh những hoạt động tiền Nhập thể của Ngôi Lời nhằm mục đích chuẩn bị cho biến cố Nhập thể, một biến cố được coi là cao điểm trong lịch sử cứu độ. Ngôi Lời vĩnh hằng, hiện hữu từ muôn thuở, và Ngôi Lời nhập thể trong một thời gian và không gian, chỉ là một Thực Tại duy nhất và bất khả phân ly. Cho nên Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, phải là trung tâm điểm của kế hoạch cứu độ. Tuy nhiên, nhìn từ một góc độ khác, biến cố nhập thể của Đức Giêsu Kitô vẫn không tát cạn quyền năng và mầu nhiệm của Ngôi Lời. Tác động cứu độ của “Ngôi Lời không nhập thể” (Logos asarkos), mà thánh Gioan gọi là “ánh sáng thật, chiếu soi mọi người” (Ga 1,9) trải rộng cả trước lẫn sau biến cố nhập thể lịch sử của Đức Giêsu Kitô[2] .

    Dù gặp nhiều khó khăn trong việc chú giải “Lời tựa” này, ý nghĩa của bản văn vẫn khá rõ rệt: Ngôi Lời của Thiên Chúa là nguồn ánh sáng cho mọi hữu thể nhân loại trong suốt dòng lịch sử, kể cả giai đoạn trước biến cố Nhập thể. Sức mạnh chiếu sáng và cứu độ của Ngài mang tính phổ quát và trải rộng khắp mọi thời, mọi nơi và mọi người. Do quyền năng phát xuất từ thiên tính, chỉ duy Ngài có cuộc sống thần linh và khả năng ban ơn cứu độ cho con người.

    Chắc chắn, trong mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời không thể tách rời xác phàm mà Ngài đã đảm nhận. Nhưng dù bất khả tách biệt đến đâu đi chăng nữa, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy vẻ khác biệt giữa Ngôi Lời và kinh nghiệm nhân loại của Đức Giêsu Kitô. Có thể coi hành động nhân loại của Ngôi Lời nhập thể (Logos ensarkos) là bí tích phổ quát của hành động cứu độ, nhưng nó không tát cạn tác động cứu độ của Thiên Chúa. Tác động riêng của Ngôi Lời không nhập thể (Logos asarkos) vẫn tiếp tục hiện hữu. Dĩ nhiên không hề có chuyện thiết lập một chương trình cứu độ khác, song song với chương trình đã được thực hiện nơi Đức Kitô, bởi vì Thần khí nhập thể và Thần khí không nhập thể cũng chỉ là Thần khí của Đức Kitô[3].

    Mặt khác, mầu nhiệm Nhập thể chính là một tặng vật ân tình và tuyệt đối nhất, mà Thiên Chúa có thể ban cho nhân loại: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết”(Ga 1,18). Vì thế, mạc khải của Ngài là mạc khải chung cuộc, “nơi Ngài, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể và trong Ngài, anh em được sung mãn: Ngài vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (Cl 2, 9-10)[4].

    Mối tương quan chặt chẽ giữa tính đặc thù của biến cố Đức Kitô với tính phổ quát của chương trình cứu độ đã khai mở một viễn tượng mới cho thần học về tôn giáo trong bối cảnh đa phức tôn giáo. Tông thư “Giáo hội tại Á châu” đúc kết vấn đề như sau: “Dưới sự hướng dẫn của Thần khí, lịch sử cứu độ trải rộng ở mức độ thế giới và ngay cả ở bình diện vũ trụ, theo chương trình đời đời của Thiên Chúa. Chương trình này, do Thần khí chủ động ngay từ giây phút đầu tiên của công cuộc sáng tạo, đã hiện diện trong Cựu ước và được hoàn thành nhờ hồng ân của Đức Giêsu Kitô. Đồng thời được tiếp nối trong công cuộc sáng tạo mới dưới sức tác động của chính Thần khí cho đến khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang lúc thời gian kết thúc. Biến cố Nhập thể của Con Thiên Chúa được coi là công trình tuyệt diệu của Thần khí: “Việc thụ thai và chào đời của Đức Giêsu Kitô thực sự là công trình lớn lao nhất mà Chúa Thánh thần đã thực hiện trong lịch sử sáng tạo và cứu độ, đó là ân sủng tuyệt diệu –ân sủng hợp nhất– suối nguồn của tất cả những ân sủng khác”[5]. Đây là biến cố mà qua đó Thiên Chúa qui tụ mọi sự về với Ngài trong một hợp nhất mới và chung kết không những cho con người, mà còn cho tất cả tạo vật và lịch sử”[6].

    Tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu đã trình bày vấn đề dưới một lăng kính cởi mở và sâu sắc hơn: “Thần khí của Thiên Chúa động chạm, thanh tẩy và cứu vớt không những các cá nhân, mà cả các nền văn hóa và tôn giáo nữa. Kể từ đây, các nền văn hóa và các tôn giáo có chức năng cứu độ, như giáo chủ Gioan Phaolô II ghi nhận: “Sự hiện diện và hoạt động của Thần khí không chỉ liên hệ đến các cá nhân, mà còn liên hệ đến xã hội và lịch sử, các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo. Thật vậy, Thần khí khởi động những ý tưởng cao thượng và những sáng kiến tốt đẹp của nhân loại lữ hành. Do sự quan phòng đáng thán phục, Ngài hướng dẫn những biến chuyển của thời gian và đổi mới bộ mặt của trái đất”[7]. Ngài tiếp tục gieo những mầm chân lý và ân sủng giữa tất cả các dân tộc, các nền triết học và các tôn giáo của các dân tộc nói trên”[8].

    Thượng Hội đồng Giám mục Á châu “xác tín rằng trong lòng dân chúng, văn hoá và tôn giáo tại Á châu có một cơn khát “Nước hằng sống” (Ga 4,10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ duy Đức Giêsu mới có thể thoả mãn đầy đủ. Giáo hội mong chờ Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị các dân tộc Á châu cho cuộc đối thoại cứu độ với Đấng Cứu Thế của mọi người. Nhờ Thần Khí hướng dẫn trong sứ vụ phục vụ và yêu thương, Giáo hội có thể tạo nên cuộc gặp gỡ giữa Chúa Kitô và các dân tộc Á châu, trong cố gắng tìm kiếm sự sống viên mãn. Chỉ nơi cuộc gặp gỡ này mới gặp được một nguồn Nước hằng sống, vọt lên sự sống đời đời, nghĩa là nhận biết một Thiên Chúa duy nhất và Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên sai”[9].

    Như vậy, Nhập thể là một biến cố độc đáo và duy nhất, bởi vì chính Con Thiên Chúa đã làm người và khi đảm nhận thân phận con người, Ngài đã mang khuôn mặt nhân loại của một Thiên Chúa tự thân bất khả kiến, bất khả tri và vô thủy vô chung. Nếu như vậy những khuôn mặt cứu độ khác có còn đóng vai trò nào không trong chương trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa? Và nhất là có được Đức Kitô chiếu sáng để trở thành dấu chỉ cứu độ cho tín đồ của các tôn giáo hay không?

    2- Chiều kích vũ trụ của Ngôi Lời

    Trong giáo huấn của một số giáo phụ, chúng ta gặp thấy chủ trương cho rằng lịch sử cứu độ được trải rộng đến mọi dân tộc và tôn giáo, vượt rất xa biên giới của Do thái giáo và Kitô giáo. Thánh Giustinô được nhìn nhận là người đầu tiên đã trình bày chiều kích vũ trụ của Ngôi Lời.

    Áp dụng một cách linh động quan niệm “logos” của triết học Hy lạp vào biến cố Đức Giêsu-Kitô, Giustinô đã đi đến xác quyết sau: “Con Thiên Chúa – Đấng duy nhất được gọi là Con đích thực, Ngôi Lời hiện hữu cùng với Thiên Chúa và được sinh ra trước khi tạo dựng vũ trụ, khi mà Thiên Chúa tạo dựng và xếp đặt mọi sự – mệnh danh là Đức Kitô, vì được xức dầu và qua Ngài Thiên Chúa đã xếp đặt và quản trị tất cả vũ trụ”[10].

    Dưới cái nhìn của vị thánh triết gia này, việc Thiên Chúa biểu lộ qua trung gian của Ngôi Lời không bị giới hạn bởi chương trình cứu độ thực hiện nơi dân tộc được tuyển chọn hay nơi biến cố Nhập thể. Thật vậy, Ngôi Lời đã hiện diện trước khi Ngài thực sư nhập thể. Khắp nơi chúng ta gặp thấy những hiền nhân đã sống theo linh ứng của Lời Thiên Chúa và đáng được mệnh danh là Kitô hữu. “Đức Kitô là trưởng tử của Thiên Chúa, Ngôi Lời của Ngài, nhờ Ngài tất cả mọi người được dự phần. Đó là điều chúng tôi đã lãnh nhận và là điều chúng tôi đã công bố. Những ai sống theo linh ứng của Ngôi Lời đều là Kitô hữu, cho dù xem ra đã trở thành vô thần, chẳng hạn nơi dân Hy lạp, Socrate, Héraclite và đồng nghiệp của các ông, và nơi dân man di, Abraham, Ananias, Azarias, Misael, Elia và rất nhiều người khác mà chúng ta không thể liệt kê danh tính của họ nơi đây vì quá dài. Tương tự như thế tất cả những ai sống trái ngược với Logos là bọn xấu, thù địch với Đức Kitô, sát hại các môn đệ của Logos. Còn những ai đã sống và đang sống theo Logos là Kitô hữu, không sợ nguy hiễm và âu lo”[11].

    Trong cuốn Minh giáo II, Giustinô trình bày rõ hơn quan niệm về Logos như là nguồn suối duy nhất của tất cả chân, thiện, mỹ trong vũ trụ. Từ viễn quan đức tin, Giustinô đã muốn ôm trọn tất cả lịch sử nhân loại và đặt nó dưới sức tác động của Thần khí: Tất cả những gì thiện hảo đều phát xuất từ Thần khí và như vậy có tương quan với Kitô giáo. “Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ đã thiết lập những nguyên tắc luân lý đúng đắn; các thi sỹ cũng trình bày như vậy, bởi vì mầm bẩm sinh của Logos tiềm ẩn trong nhân loại”[12].

    Ngôi Lời được quan niệm là nguồn duy nhất của tất cả mọi tri thức trong vũ trụ. Sự khác biệt giữa những cấp độ nhận thức khác nhau là do mức độ tham dự nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp vào nguồn chân lý chung này. Chính vì vậy, Giustinô đã có một cái nhìn rất lạc quan về lịch sử nhân loại: “Tất cả những gì thiện hảo thuộc về chúng ta, thuộc về các Kitô hữu chúng ta. Bởi vì sau Thiên Chúa, chúng ta tôn thờ và yêu mến Ngôi Lời, sinh bởi Chúa Cha nhưng không phải tạo thành và khôn tả, đã làm người cho chúng ta, ngõ hầu chữa trị sự xấu của chúng ta (…). Các văn sỹ đã có thể nhìn một cách mờ mờ ảo ảo nhờ hạt giống Ngôi Lời gieo nơi họ”[13].

    Nói tóm lại, tất cả các văn hóa và các tôn giáo cùng dự phần vào Logos, nhưng theo mức độ rất khác biệt. Trong khi tín đồ các tôn giáo khác chỉ tham dự một phần gia tài cứu độ, các Kitô hữu được hân hạnh đón nhận sự biểu lộ trọn vẹn nhờ biến cố Nhập thể. Đối với Giustinô, biến cố Nhập thể là đỉnh cao của tiến trình cứu độ, chạy dài từ công cuộc sáng tạo cho đến ngày thế mạt, bởi vì Đấng hiện hữu từ muôn thủa đã đi vào thời gian và trở thành hữu hình khi Ngài mang thân phận con người nơi Đức Giêsu-Kitô.

    Các Giám mục Á châu cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự hiện diện của “hạt giống Ngôi Lời” được Thần khí gieo vào các nền văn hóa và các tôn giáo. “Tài liệu làm việc” của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu ghi nhận như sau: “Nhiều bản trả lời nhấn mạnh rằng tất cả những gì đã đề cập về sự hiện diện cứu độ của Thần khí nơi các dân tộc thì đặc biệt đúng đối với lục địa Á châu, chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới. Xét về mặt thực tiễn, các tôn giáo này đã là con đường dẫn đưa đại đa số dân chúng Á châu đến với Thiên Chúa, cũng như là một cách thế Thiên Chúa sử dụng để tiếp cận họ. Thần khí của Thiên Chúa đã tác động trong tâm trí của các hiền giả Á châu cổ đại. Chính các vị đã để lại cho dân tộc mình chứng từ của những giác ngộ tâm linh trong các kinh điển. Giáo huấn của các ngài vẫn còn hướng dẫn đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội của một số lớn người Á châu”[14].

    3- Hai bàn tay cứu độ của Thiên Chúa

    Tiếp nối hướng đi của thánh Giustinô, thánh Irênêô cũng quan niệm công cuộc tạo dựng là mạc khải đầu tiên mà Thiên Chúa biểu lộ cho nhân loại. Kể từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục bộc lộ cho nhân loại dưới nhiều dạng thức và cách thế khác nhau. Cho dù có khác biệt đến đâu đi chăng nữa, tất cả mọi hình thức biểu lộ nói trên đều là công trình của Ngôi Lời. Chính Ngài “đã dẫn đưa tất cả mọi sự, từ khởi đầu cho đến chung cục, ngõ hầu đạt đến sự viên mãn của nó và nếu không có Ngài chẳng ai có thể nhận biết Thiên Chúa. Bởi vì việc nhận biết Chúa Cha, chính là Chúa Con và việc nhận biết Chúa Con được Chúa Cha mạc khải qua sự trung gian của Chúa Con… Thật vậy, từ khởi thủy, Chúa Con (…) mạc khải Chúa Cha cho tất cả những ai mà Chúa Cha muốn, vào thời điểm và theo cách thế mà Ngài qui định. Do đó, trong tất cả mọi thời và trải qua vạn sự, chỉ có một Thiên Chúa Cha duy nhất, chỉ có một Ngôi Lời, một thần khí và một chương trình cứu độ cho tất cả những ai tin nơi Ngài”[15].

    Dưới cái nhìn của Irênêô, nhận biết Thiên Chúa không phải là một tri thức lý thuyết, kết quả của lý luận và suy tư, mà là nhìn nhận Ngài như một Đấng vô thủy vô chung đã đoái thương chiếu cố tới con người. Trong ý nghĩa đó, sự nhận biết Thiên Chúa luôn luôn giả thiết một sự gặp gỡ cá nhân với Ngài. Cuộc gặp gỡ này nói cho cùng chỉ là gặp gỡ với Ngôi Lời và chỉ có thể trở thành hiện thực nhờ công cuộc tạo dựng, bởi vì qua tạo dựng, Ngôi Lời nói với con người. Do đó, công cuộc tạo dựng là một thành phần của chương trình mạc khải và cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại.

    Về vấn đề này, thánh Irênêô đã để lại cho chúng ta một số bản văn vừa hàm xúc vừa rất gợi hứng, mà các tác giả sau này đã đưa ra nhiều lối giải thích khác nhau: “Thực Tại bất khả kiến là Thiên Chúa, nhờ quyền năng, Ngài ban cho mọi người một trí huệ lớn lao và một tri giác về vẻ tuyệt hảo và toàn năng của Ngài. Từ đó, nếu như “không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con và kẻ mà Ngài muốn mạc khải cho” (Mt 11,27; Lc 10,22), tuy vậy tất cả mọi người có thể nhận biết Thực Tại bất khả kiến này (…) bởi vì Ngôi Lời, vốn tiềm ẩn nơi trí huệ, dẫn đưa các hữu thể và mạc khải cho nó về sự hiện hữu của Thiên Chúa duy nhất, Chúa tể mọi loài”[16].

    Công cuộc sáng tạo được coi là giai đoạn đầu tiên trong tiến trình mạc khải của Thiên Chúa qua Ngôi Lời. Chương trình cứu độ mà Ngài đã thực hiện qua Do Thái giáo và Kitô giáo là những giai đoạn kế tiếp. Có bốn giao ước chính đã được thực hiện với nhân loại: giao ước qua Adam, giao ước qua Noê, giao ước qua Mô-sê và giao ước qua Đức Kitô. Ngôi Lời đã hiện diện và tác động trong tất cả và nơi mỗi một giao ước đó. Tuy nhiên sự hiện diện và tác động của Ngài trở thành minh nhiên và độc sáng nhất nơi biến cố nhập thể của Đức Kitô. Đây là một biến cố độc nhất vô nhị trong không gian cũng như thời gian, đồng thời là đảm bảo tính cá biệt và mới mẻ của Kitô giáo. Thật vậy, nhiều lần trong lịch sử nhân loại, Ngôi Lời đã biểu lộ một cách nào đó cho tâm trí con người, dưới nhiều cách thế và dạng thức khác nhau, nhưng Ngài chỉ thực sự trở thành khả kiến và khả tri cho người trần mắt thịt qua biến cố Nhập thể.

    Đức Giêsu Kitô và Thần khí của Thiên Chúa được thánh Irênêô trình bày như “hai bàn tay”, tức hai cách thế Thiên Chúa sử dụng để chuyển giao ơn cứu độ cho nhân loại[17]. Công cuộc cứu độ của Đức Kitô không tách rời khỏi tiến trình cứu độ chung, trải dài từ biến cố sáng tạo cho đến ngày cánh chung, mà chính là trung tâm và trọng điểm của tiến trình đó. Quan điểm thần học này không những đặt nổi chiều kích lịch sử của chương trình cứu độ, mà còn đặt tất cả những “dòng suối cứu độ” tiền hay hậu Kitô giáo vào cùng một dòng sông cứu độ chung.

    Để hiểu rõ vấn đề hơn, chúng ta hãy cùng nhau đọc lại hai bản văn phong phú và sâu sắc của thánh Irênêô: “Đấng tác động mọi sự trong mọi người có sức mạnh và quyền năng bất khả tri, bất khả giác đối với các thụ tạo. Tuy nhiên, đối với họ, Ngài không phải hoàn toàn không thể nhận biết được, bởi vì tất cả đã được Ngôi Lời dạy cho biết chỉ có Thiên Chúa Cha duy nhất, Ngài bao trùm vạn sự và ban sự sống cho tất cả theo đúng như lời Chúa Kitô nói: “không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).

    Ngôi Lời là vị ban phát ân sủng của Thiên Chúa cho loài người. Chính Ngài đã hoàn thành một chương trình cứu độ vĩ đại để mạc khải Thiên Chúa cho con người và giao hòa con người với Thiên Chúa, bảo toàn tính bất khả kiến của Chúa Cha nhưng đồng thời cũng làm cho Ngài thành khả kiến đối với con người. Bởi vì vinh quang của Thiên Chúa chính là con người sống động và cuộc sống của con người chính là nhận biết Thiên Chúa. Nếu qua công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trao ban sự sống cho tất cả hữu thể sống động ở trần gian, thì qua hành động mạc khải của Chúa Cha trong Ngôi Lời, Ngài càng trao ban sự sống hơn nữa cho những ai đón nhận ân sủng của Ngài”[18].

    Mạc khải của Thiên Chúa Cha qua Ngôi Lời được thực hiện một cách tiệm tiến và theo nhiều cách thế rất đa dạng để đạt tới cao điểm trong biến cố Nhập thể. Nét độc sáng của biến cố này trong tiến trình mạc khải và cứu độ được thánh Ireneô đúc kết một cách sâu sắc và độc đáo qua công thức sau đây: “Thực-tại-khả-kiến của Chúa Cha chính là Chúa Con” (Visibile Patris Filius). Chúa Con là một cách thế vừa khả kiến vừa bất khả kiến để mạc khải về Chúa Cha tuyệt đối bất khả kiến và vô thủy vô chung. Chính nơi Ngôi Con, Thiên Chúa Cha vừa biểu lộ vừa ẩn mặt đối với nhân loại. Trong khi đó, nhờ thực tại bất khả kiến và nhiệm mầu của Chúa Cha mà biến cố Nhập thể của Chúa Con mang một ý nghĩa vô song, siêu việt và duy nhất: “Thực Tại bất khả kiến của Chúa Con là Chúa Cha, nhưng Thực tại khả kiến của Chúa Cha là Chúa Con” (Invisibile etenim Filii Pater, visibile autem Patris Filius”[19].

    Tuyên ngôn “Dominus Jesus” của thánh bộ Đức tin trình bày tác động hỗ tương giữa Chúa Thánh thần và Đức Kitô như sau: “Thần khí không hoạt động ở bên cạnh hay bên ngoài Đức Kitô. Chỉ có một chương trình cứu độ của Thiên Chúa Duy nhất và Ba ngôi, thể hiện trong mầu nhiệm nhập thể, chết và phục sinh của Con Thiên Chúa, được thực hiện với sự cộng tác của Chúa Thánh thần và trải rộng ảnh hưởng cứu độ tới toàn thể nhân loại và toàn thể vũ trụ: “Do đo, con người chỉ có thể vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa qua Đức Kitô, dưới tác động của Chúa Thần khí”[20].

    4- Vai trò “trung gian” của triết học

    Trong tác phẩm của Clementê thành Alexandria, từ ngữ “Ngôi Lời” chiếm một vị trí rất quan trọng, mặc dù nguyên tắc căn bản về Kitô học của ông vẫn tương tự với quan điểm của Irenêô. Theo ông, tất cả mọi biểu lộ đặc biệt của Chúa Cha đều thực hiện qua trung gian của Ngôi Lời: “Chính do Thần linh và do Ngôi Lời duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa, mà con người có thể nhận thức Đấng vô danh”[21].

    Nếu như đối với Giustinô và Irênêô, tất cả mọi tri thức mà chúng ta có được về Thiên Chúa là do tác động của Ngôi Lời, thì Clementê phân biệt những gì nhân loại tuyệt đối không thể hiểu được, mà phái ngộ đạo gọi là vực thẳm, với những gì con người có thể lãnh hội một khi được Chúa Con mạc khải. Trước hết, con người có thể đạt tới tri thức chung và sơ đẳng về Thiên Chúa qua suy luận của lý trí. Đây là loại tri thức tự nhiên mà mọi người có thể đạt được. Thứ đến, trên một bình diện cao và đặc biệt hơn, với tác động độc đáo, Ngôi Lời dẫn đưa con người vào những con đường huyền nhiệm mà tự sức mình con người không thể vươn tới.

    Ảnh hưởng của Ngôi Lời trải rộng khắp nơi, vượt xa bên ngoài ranh giới của truyền thống Do thái giáo và Kitô giáo, bởi vì thế giới “ngoại đạo” cũng có những ngôn sứ riêng. Một số người Hy lạp, dưới tác động của Ngôi Lời, đã thực sự thi hành sứ vụ ngôn sứ: “Phải chăng đó đã là một ân huệ tiên báo hay một thứ thần giao cách cảm? Đó là những hình thức tiên tri? Các triết gia sâu sắc nhất của Hy lạp nhìn thấy Thiên Chúa qua hình ảnh mờ nhạt, nhưng cũng có khi với tất cả vẻ trong sáng”[22].

    Clementê có một cái nhìn khá lạc quan và tích cực về triết học: triết học đến từ Thiên Chúa và hướng tới Ngài. Đối với thế giới Hy lạp, triết học nằm trong kế hoạch đặc biệt của Thiên Chúa, nếu không tương ứng ít nhất cũng song song với chương trình cứu độ Thiên Chúa đã thực hiện nơi người Do Thái qua Luật Mô-sê. Cả hai đều do Thiên Chúa thiết lập để dẫn đưa nhân loại hướng tới Đức Kitô. “Đối với người Do Thái, Ngài đã trao ban Lề Luật, đối với người Hy lạp Ngài ban tặng triết học, ngõ hầu dân ngoại không có cớ tự bào chữa. Bởi vì qua hai tiến trình khác nhau, Hy lạp và man di, Ngài dẫn đưa con người tới sự hoàn thiện trông chờ do đức tin”[23].

    Nói một cách rõ rệt hơn, theo Clementê, triết học đã là một phương tiện cứu độ Thiên Chúa ban cho người Hy lạp. “Trước khi Chúa đến trần gian, đối với người Hy lạp, triết học đã được coi là bất khả thay thế trong việc dẫn đưa họ tới sự công chính, bây giờ triết học trở thành hữu ích để dẫn đưa họ tới việc tôn thờ Thiên Chúa. Triết học đóng vai trò chuẩn bị cho những tâm hồn muốn đạt tới niềm tin tôn giáo qua lý chứng (…). Rất có thể triết học cũng được trao ban cho người Hy lạp như một sự thiện trực tiếp, trước khi Chúa nới rộng lời mời gọi đến họ. Bởi vì, cũng như Lề Luật đối với người Do Thái, triết học giáo dục người Hy lạp, ngõ hầu dẫn đưa họ tới Đức Kitô. Triết học làm công tác chuẩn bị. Dĩ nhiên chỉ có một con đường chân lý, nhưng nó giống như một dòng sông không hề khô cạn mà nhiều con suối ở nhiều nơi khác nhau cùng đổ vào đó”[24].

    Một vài lần Clementê còn đi xa hơn. Ông không ngần ngại định nghĩa triết học như một giao ước (diathèke) giữa Thiên Chúa với nhân loại, một lợi khí để vươn tới một nền triết học Kitô giáo: “Triết học đã được ban tặng cho người Hy lạp như một giao ước đặc biệt theo ý hướng của họ, làm như một tấm ván nhún để vươn tới một triết học phù hợp với giáo huấn của Đức Kitô”[25].

    Trong viễn tượng đó, các triết gia có một sứ mệnh cao cả đối với dân tộc của họ và triết học là biểu hiệu đức khôn ngoan, cũng như tâm tình tôn giáo của nhân loại. Điều đó giả thiết các triết gia đã nhận được sự yểm trợ đặc biệt của sức mạnh thần linh. Đối với người Hy lạp chẳng hạn, “triết học đã có một chức năng tương tự như Lề Luật đối với người Do Thái. Triết học và Lề luật đã đóng vai trò chuẩn bị để hướng tới sự viên mãn nơi Đức Kitô. Tuy nhiên có một sự khác biệt rõ rệt giữa tác động của Thiên Chúa nơi các triết gia và nơi Cựu ước. Mặt khác, chỉ trong Đức Giêsu là ánh sáng soi cho mọi người, thì mới có thể chiêm ngắm Lời hoàn hảo và chân lý tròn đầy. Dù vậy, những mảnh vụn của chân lý cũng thuộc về toàn thể chân lý”[26].

    Giá trị của triết học được đề cập ở đây trước tiên phải hiểu là triết học Hy lạp. Tuy nhiên, chính Clementê cũng thú nhận là các triết gia Hy lạp không phải là những bậc thầy vĩ đại đã cảm nghiệm được linh ứng thần linh để dẫn đưa các dân tộc về với Đức Kitô. Ông cho rằng các triết gia Hy lạp đã vay mượn rất nhiều ở các hiền giả cổ điển. Chính các hiền giả này mới thực sự là những vị hướng đạo chân chính của nhân loại, những người được Thượng đế linh ứng và dưới sức tác động của Ngôi Lời, họ đã dạy những chân lý thần linh cho các dân tộc. Trong số các vị này, Clementê đặc biệt nói đến các hiền giả Ấn độ: “Ở Ấn độ có hai loại hiền giả, gọi là Sarmanes và giáo sỹ Bàlamôn… Một số người Ấn độ tin theo giáo pháp của Đức Phật, một người được họ tôn sùng như chính thượng đế, do sự thánh thiện trổi vượt của Ngài” [27].

    Dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo, Clementê quả quyết: “Ngôi Lời của Chúa Cha chính là ngọn đuốc sự thiện, là Đức Chúa đã mang ánh sáng, đức tin và ơn cứu độ cho tất cả”[28]. Ngài hiện diên và hoạt động ở mọi thời mọi nơi để gieo vãi chân lý và ánh sáng cho nhân loại. Nói cách khác, Ngôi Lời là “ánh sáng của nhân loại”. Đây là ánh sáng phổ quát chiếu soi mọi người: “Xin hãy lắng nghe, anh em những người ở xa; xin hãy lắng nghe, anh em những người ở gần, Ngôi Lời không hề lẩn trốn bất cứ ai; Ngài là ánh sáng chung, Ngài chiếu soi mọi người”[29].

    Cũng như Giustinô và Irênêô, Clementê kết thúc suy tư của mình với cái nhìn lạc quan về viễn tượng cứu độ phổ quát: “Ý định muôn thuở của Thiên Chúa là cứu độ cộng đồng nhân loại. Chính vì vậy Thiên Chúa đã sai mục tử nhân lành. Ngôi Lời ban chân lý cho con người để chỉ cho họ thấy tất cả chiều cao rộng của ơn cứu độ, ngõ hầu họ được cứu độ khi biết sám hối, hoặc sẽ bị luận phạt, nếu bất phục tùng”[30].

    5- Tác động phổ quát của Thần khí

    Nếu biến cố Nhập thể của Đức Giêsu-Kitô, xét về phương diên nhân loại, bị giới hạn một cách nào đó do điều cụ thể của lịch sử, tác động của Thần khí không hề bị giới hạn bởi không gian hay thời gian. Hoạt động của Thần khí, trái lại, hoàn toàn tự do, nhiệm mầu và thiên biến vạn hóa. Chúng ta chỉ mờ mờ nhìn thấy một số hiệu quả, nhưng không thể nhận diện chính Thần khí và sức tác động vạn năng của Ngài: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi về đâu” (Ga 3,8).

    Thần khí của Thiên Chúa luôn hiện diện suốt dòng lịch sử nhân loại và vẫn tiếp tục tác động ở bên ngoài ranh giới của Kitô giáo. Chính Ngài linh ứng cho tín đồ các tôn giáo khác trên hành trình truy tầm chân lý. Một số thần học gia đã đặt câu hỏi: Nếu các Kitô hữu được ơn cứu độ qua niềm tin vào Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu Kitô, thì tín đồ các tôn giáo khác có thể lãnh nhận ơn cứu độ qua tác động trực tiếp của Thần khí hay không? Sự phân biệt giữa “hai bàn tay” của Thiên Chúa có biện minh cho sự hiện hữu của hai phương thế khác nhau mà Thiên Chúa sử dụng để chuyển giao ơn cứu độ cho tín đồ các tôn giáo khác? Nếu Thần khí là “đầu vào” cần thiết của Thiên Chúa trong đời sống của các tôn giáo và các dân tộc, phải chăng khi đặt nổi sức tác động của thần khí trong lịch sử nhân loại sẽ khai mở một lối đi mới cho thần học về tôn giáo?

    Có thể ví Thần khí như “đầu vào” của Thiên Chúa ở mọi thời và mọi nơi, khi Thiên Chúa tự mạc khải và truyền đạt sứ điệp của Ngài cho con người. Chính sự hiện diện nội tại và tiềm ẩn của Thần khí là bảo chứng ân sủng cứu độ của Thiên Chúa. Dưới nhãn quan đức tin Kitô giáo, hoạt động của Thần khí có thể khác biệt với hoạt động của Đức Kitô, nhưng không bao giờ tách biệt và đối lập nhau. Càng không thể giải thích như hai chương trình cứu độ song song hay đối lập. Đúng hơn đây là hai phương thế bất khả phân ly, hai yếu tố bổ túc hay “hai bàn tay” của Thiên Chúa trong cùng một tiến trình cứu độ[31].

    Nói cho cùng, Thần khí của Thiên Chúa đồng thời cũng là Thần khí của Đức Giêsu Kitô. Do đó không thể triệt để tách rời hoạt động phổ quát của Thần khí khỏi tác động phổ quát của Đức Kitô phục sinh. Chức năng cứu độ của Thần khí là chuẩn bị và dẫn đưa con người gặp gỡ Đức Kitô, Đấng mà Thiên Chúa đã thiết lập như Trung gian và Con đường cứu độ chính thức. Nói rõ hơn, chính Đức Kitô là trung tâm điểm của con dường cứu độ, chứ không phải thần khí.

    Trong viễn tượng đó, nếu Thần khí hiện diện và hoạt động trong lịch sử từ trước biến cố Đức Giêsu Kitô, chính là để chuẩn bị hay tiếp nối biến cố Nhập thể, một biến cố được coi là trung tâm của lịch sử cứu độ. Sứ vụ đặc biệt của Thần khí, dù trước hay sau biến cố Nhập thể, đều nhằm mục đích làm cho nhân loại tham dự hữu hiệu và phổ quát hơn vào mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô[32]. Trong mọi hoàn cảnh, Thần khí dun dủi và soi sáng để nhân loại nhận thức được rằng cao điểm của chương trình cứu độ là mầu nhiệm Nhập thể. Như vậy, nhờ sức mạnh và sự hiện diện nhiệm mầu của Thần khí, biến cố của Đức Kitô luôn được hiện đại hóa ở mọi thời và mọi nơi.

    Rất hữu lý khi một số thần học gia đặt nổi quan điểm Kitô học theo chiều hướng “thần khí học” như một chiều hướng thần học thích hợp hơn để trình bày yếu tố duy nhất và phổ quát trong biến cố Đức Kitô: “Một Kitô học được trình bày trong viễn tượng thần khí học cho phép liên kết dễ dàng hơn duy nhất tính với phổ quát tính của Đức Giêsu Kitô. Nó có khả năng chứng tỏ rằng Thần khí đã tác động trong Đức Kitô với tất cả tính sung mãn cũng chính là thần khí hoạt động khắp nơi trong lịch sử nhân loại theo những mức độ khác hơn. Một Kitô học như thế cũng có khả năng chứng minh rằng Đức Kitô là đích điểm và thủ lãnh của mọi người. Thân xác của Đức Kitô, tức Giáo hội, thì lớn hơn và trải rộng hơn những giới hạn cơ chế của Giáo hội(…). Tất cả những ai để cho Thần khí của Đức Kitô hướng dẫn trong niềm tin, hy vọng và bác ái, đều thuộc về Ngài”[33].

    Kể từ Công đồng Vatican II, chủ trương cho rằng những ai vì một lý do nào đó chưa gia nhập Giáo hội, nhưng chân thành sống theo lương tâm cũng được cứu độ, đã trở thành một quan điểm chung. Giáo huấn chính thức của Giáo hội cũng đề cao vai trò và hoạt động của Thần khí trong mầu nhiệm cứu độ. Hiến chế mục vụ về “Giáo hội trong thế giới hôm nay” xác quyết: “Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực sự là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên chúng ta phải tin chắc rằng Thần khí ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh, theo cách thế mà chỉ duy Thiên Chúa biết thôi”[34]. Chính trong viễn tượng tác động phổ quát của Thần khí mà thần học về tôn giáo đã xác quyết giá trị cứu độ của các tôn giáo.

    Theo Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo, “Thần khí đã hoạt động nơi trần gian trước khi Đức Kitô được tôn vinh”, nhưng sự hiện diện của Ngài được biểu lộ một cách đặc biệt qua biến cố Đức Giêsu Kitô và “trong ngày lễ Ngũ tuần”. Thành ra, “các Kitô hữu cần làm chứng đức tin và đời sống Kitô giáo, đồng thời phải nhìn nhận, bảo tồn và phát huy các giá trị siêu việt, đạo đức, xã hội và văn hóa nơi những người theo các tôn giáo khác” (NA 2).

    Hiến chế “Ánh sáng muôn dân” vừa nhấn mạnh vai trò cần thiết của Giáo hội, vừa nhìn nhận giá trị của các tôn giáo khác trong tiến trình cứu độ: “Tất cả những gì là chân lý và ân sủng đã tìm thấy nơi các dân tộc như một sự hiện diện thầm kín của Thiên Chúa, sẽ được hoạt động truyền giáo tháo gỡ khỏi những vết xấu và đưa về Đức Kitô là Đấng tác thành chúng… Bởi vậy, những giá trị tích cực đã được gieo vãi trong tâm hồn con người hay trong các lễ nghi và văn hóa của các dân tộc, không những không bị hủy diệt, mà phải được thanh tẩy, thăng tiến và hoàn tất để Thiên Chúa được tôn vinh, ma quỷ phải xấu hổ và con người được hạnh phúc”[35].

    Trong Thông điệp về Chúa Thánh thần (Dominum et vivificantem) ( 1986) giáo chủ Gioan Phaolô II nhấn mạnh hơn sự hiện diện và tác động của Thần khí trong lịch sử. Ngày xưa Ngài đã âm thầm hoạt động trong nhân loại trước khi Kitô giáo xuất hiện và ngày nay Ngài vẫn không ngừng hoạt động trong thế giới, ngay bên ngoài phạm vi của Giáo hội hữu hình. Thật vậy, chúng ta không thể giới hạn tác động của Thần khí “chỉ vào hai ngàn năm, kể từ ngày Giáng sinh của Đức Kitô. Cần phải ngược dòng thời gian, bao trọn tất cả tác động của Chúa Thánh thần trước Đức Kitô –ngay từ khởi thủy – trong toàn thế giới và đặc biệt trong chương trình cứu độ nơi giao ước cũ”.

    Thông điệp “Sứ vụ cứu độ” còn đi xa hơn. Tác động của thần khí không chỉ giới hạn ở chiều kích nội tâm và cá nhân, nhưng còn mang chiều kích văn hóa và xã hội: “Thần khí ấy đã hoạt động trong công cuộc nhập thể, trong đời sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu và đang tác động trong Giáo hội. Ngài không tự thay thế Đức Kitô và cũng không lấp đầy khoảng trống giữa Đức Kitô và Ngôi Lời… Điều mà Thần khí thực hiện trong tâm hồn con người và trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và tôn giáo, là chu toàn nhiệm vụ chuẩn bị cho Tin Mừng. Công tác này của Thần khí phải được thực hiện trong tương quan với Đức Kitô”[36].

    Vì Thần khí đã và đang tác động nơi các tôn giáo mà vấn đề thần học căn bản về giá trị cứu độ của các tôn giáo được nêu lên. Tài liệu “Kitô giáo và các tôn giáo khác” của Ủy ban thần học quốc tế ghi nhận: “Vì đã minh nhiên công nhận rằng Thần khí của Đức Kitô hiện diện nơi các tôn giáo, chúng ta không thể phủ nhận việc các tôn giáo, trong tư thế của mình, có thể mang một chức năng cứu độ nào đó, nghĩa là các tôn giáo có thể giúp con người đạt đến cứu cánh tối hậu của mình, cho dù còn mập mờ và thiếu sót (…). Thật khó có thể quan niệm rằng những gì Thần khí thực hiện trong tâm hồn mỗi người có giá trị cứu độ, trong khi đó những điều cũng do chính Thần khí ấy thực hiện nơi các tôn giáo và các nền văn hóa lại không có giá trị cứu độ như thế. Giáo huấn của Giáo hội gần đây dường như không chấp nhận sự phân biệt triệt để như vậy. Ngoài ra cần phải lưu ý rằng nhiều bản văn mà chúng ta đã qui chiếu không những chỉ nói đến các tôn giáo mà còn nhắc đến các nền văn hóa, lịch sử các dân tộc… bên cạnh các tôn giáo này. Tất cả các dữ kiện đó cũng có thể được ân sủng tác động”[37].

    6- Nước Trời trải rộng…

    Tính độc đáo và vẻ nghịch thường của Nhập thể đã nối kết một cách tài tình cá biệt và phổ quát, hữu hạn với Tuyệt Đối, thời gian và Vô thường. Chính tính độc đáo này cho phép ta nối kết ý nghĩa phổ quát của chương trình cứu độ nơi Đức Kitô với giá trị cứu độ nơi các tôn giáo khác. Mối bận tâm của nhiều thần học gia là giải thích làm sao để có thể bảo vệ duy nhất tính của Đức Giêsu Kitô và đồng thời chấp nhận giá trị tích cực của các tôn giáo khác. Theo E. Schillebeeckx, “Đức Giêsu là biểu hiện duy nhất của ân huệ cứu độ đến từ Thiên Chúa cho tất cả mọi người, nhưng xét theo một phương diện nào đó cũng là biểu hiệu bất tất, nghĩa là mang tính lịch sử và do đó bị giới hạn”. Chính vì tính cá biệt và lịch sử này của biến cố Nhập thế, mà “mạc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, theo như Tin Mừng tường thuật, không có nghĩa tuyệt đối thần linh hóa một đặc thù lịch sử (…). Trái lại mạc khải này dạy chúng ta rằng không một đặc thù nào có thể tự cho là tuyệt đối (…). Chính Đức Giêsu cũng không ngừng hướng chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cao trọng hơn Ngài. Ta có thể nói như sau: Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô và trong Thần khí, tự biểu lộ như Đấng Tạo hóa và Đấng cứu độ, như một Thiên Chúa của con người, của tất cả nhân loại. Chỉ duy Thiên Chúa là Tuyệt đối, và chẳng có tôn giáo nào tuyệt đối cả”.

    Trong viễn tượng đó, thần học xét như một suy tư của con người về Thiên Chúa dưới ánh sáng của đức tin sẽ đi xa hơn Kitô học. Jacques Dupuis nghĩ rằng “Đức Kitô vừa mạc khải đồng thời vừa che dấu Thiên Chúa, bởi vì Ngài xuất hiện giữa chúng ta trong một nhân tính không thần thiêng, một nhân tính của thụ tạo. Xét như là một con người, Ngài là một hữu thể lịch sử và bất tất, nên không thể trình bày tất cả vẻ phong phú của Thiên Chúa (…), ngoại trừ khi người ta phủ nhận giá trị đích thực của nhân tính nơi Ngài”.

    Chương trình cứu độ của Thiên Chúa chỉ là một và bao trọn tất cả lịch sử nhân loại. Biến cố Nhập thể của Ngôi Lời trong Đức Giêsu Kitô là cao điểm của tiến trình tiệm tiến qua đó Thiên Chúa đã tự mạc khải cho con người. Hành động “làm người”, cuộc sống nhân loại, giáo huấn, cái chết và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài nói lên ý nghĩa sâu thẳm và tuyệt vời nhất tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.

    Tuy nhiên, tính độc đáo của biến cố Nhập thể trong chương trình cứu độ cũng không cho phép chúng ta lãng quên hay đánh giá thấp hoạt động thường xuyên của Thần khí. Sức mạnh chiếu sáng và cứu độ này không hề bị giới hạn bởi tính đặc thù của biến cố lịch sử, trái lại luôn vượt trên tất cả những giới hạn về không gian và thời gian. Quyền lực siêu việt của Ngài cho phép chúng ta nghĩ đến tính đa diện trong cách thế can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại và chấp nhận giá trị tích cực của các tôn giáo khác.

    Theo thánh Gioan, “từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời (…). Ngài là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,1 &9). Ngài đã soi sáng và hướng dẫn nhân loại từ trước khi Ngài mặc xác phàm. Ngài ban thần khí không phải chỉ cho các cá nhân –hiền triết Socrate, đức Phật, đức Khổng và bao nhiêu trí giả khác– mà còn cho các nền văn hóa, các truyền thống tôn giáo và triết học. Có thể coi đây là những “con đường” hay “phương tiện” được sử dụng để truyền thông ánh sáng thần linh cho con người. Giao ước giữa Thiên Chúa với Noé, chẳng hạn, là biểu tượng giao ước với các dân tộc trong khung cảnh văn hóa và tôn giáo riêng của họ. Một cách cụ thể hơn, giao ước Thiên Chúa thực hiện với Abraham và Maisen là giao ước đặc biệt với dân tộc được tuyển chọn. Chúng ta gặp thấy trong tiên tri Isaia nhiều bản văn đề cập đến sự cứu độ của các dân tộc trong bối cảnh chương trình cứu độ dân Israel (Is. 42- 66). Nhiều thần học gia đã đề cập đến một giao ước có tầm vóc vũ trụ, như triết học chẳng hạn. Công đồng Vatican 2 cũng nhìn thấy trong truyền thống các tôn giáo của nhân loại nhiều yếu tố của “chân lý và ân sủng” (AG 9).

    Khai triển hướng đi của Vatican 2, nhiều văn kiện chính thức của Giáo hội công nhận là, xét về phương diện hiện thực lịch sử, Nước Trời trải rộng bên ngoài biên giới của Hội Thánh. Nước Trời đến với mọi người trong nhân loại, hiện diện trong tất cả truyền thống văn hóa cũng như tôn giáo và dưới sức tác động của Thần khí vẫn đang tiếp tục mở rộng thêm mãi.

    Thông điệp “Redemptoris Missio” công nhận một cách dè dặt: “Đành rằng dưới dạng thức sơ khởi, Nước Thiên Chúa cũng có thể có mặt ngoài ranh giới của Hội thánh, giữa các dân nước ở khắp nơi trên thế giới, theo nghĩa là họ sống thật “những giá trị của Tin Mừng” và biết mở lòng đón nhận tác động của Thần khí, là Đấng muốn thổi lúc nào và bao giờ thì thổi (xem Ga 3,8). Nhưng cần phải nói thêm ngay rằng bao lâu chưa được nối kết với Nước Đức Kitô hiện diện trong Hội thánh và chưa cố gắng tiến tới mức viên mãn cánh chung, bấy lâu dạng thức trần thế của Nước Thiên Chúa vẫn chưa tròn đầy” (số 20).

    Hiệp Hội các Hội đồng Giám mục Á châu nêu rõ tính ưu tiên của Nước Thiên Chúa so với Giáo hội. Là bí tích của Nước Thiên Chúa ở trong thế giới, Giáo hội có trách vụ thông truyền cho người khác Tin Mừng về Nước Thiên Chúa đã được Đức Kitô khai mở giữa lòng lịch sử. Công tác xây dựng Nước Thiên Chúa vượt xa bên ngoài biên giới của Kitô giáo. Khi biết nhất trí dấn thân để bảo vệ nhân quyền, khi nỗ lực hoạt động cho công cuộc phát triển toàn diện mỗi người và mọi người, đặc biệt là những người nghèo và những người bị áp bức, khi hăng say cố võ những giá trị tôn giáo và tâm linh, con người đang cùng nhau xây dựng Nước Thiên Chúa:

    “Nước Thiên Chúa… hiện diện và hoạt động ở khắp mọi nơi. Ở đâu con người biết mở rộng lòng để đón nhận mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa tác động trên họ và biết vượt ra khỏi bản thân cá nhân mình để yêu mến và phục vụ anh chị em đồng loại, thì ở đó Nước Thiên Chúa đang thực sự hoạt động. Như BIRA[38] đã nhận định: “Nơi nào có người đón nhận Thiên Chúa, có người sống thật những giá trị của Phúc Âm, nơi nào biết tôn trọng phẩm giá con người, thì nơi đó Nước Thiên Chúa có mặt” (II,1, FABC II,423). Trong viễn tượng đó, con người trả lời tương xứng nghĩa cử của Thiên Chúa ban tặng ân sủng qua Đức Kitô trong Thần khí, và bước vào Nước Thiên Chúa qua hành vi đón nhận của lòng tin (…).

    Điều đó cho thấy rằng Nước Thiên Chúa là một thực thể phổ quát, trải rộng ra ngoài biên giới của Hội Thánh. Nước ấy chính là thực tại của ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô – thực tại mà Kitô hữu và những tín hữu khác đều cùng tham dự- và là “mầu nhiệm hiệp nhất” cơ bản có một sức nối kết bền sâu kiên vững hơn là lực phân rẽ mà những khác biệt về tín ngưỡng có thể khơi dậy để chia cắt và phân ly chúng ta”[39].

    Nói cho cùng khi “Ngôi Lời đã nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14), tức là cõi vĩnh hằng đã đi vào thời gian và tuyệt đối bắt gặp tương đối để biến đổi nó từ bên trong. Khi “ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi người” (Ga.1,9) thì cuộc đời và con người được biến đổi, vì từ đó đã mang trong mình một hứa hẹn tuyệt đối. Và như vậy, theo lời quả quyết của Đức Kitô, “Nước Trời đang ở trong anh em” (Lc.17,21). Kể từ đó, tất cả những gì hữu hạn, tương đối, giới hạn, bất tất… không còn y nguyên nữa, mà phần nào đã được chắp cánh, thăng hoa và tuyệt-đối-hóa. Rồi khi “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế (…), vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8) cho muôn người được tha tội (Mt 26,28) thì đương nhiên con đường cứu độ phổ quát đã khai mở.

    Trong viễn tượng đó, hồng y Walter Kasper có lý để kết luận: “đức tin Kitô giáo, đặc biệt nhất trong tính chất phổ quát của nó, mà bao nhiêu người từng đặt nghi vấn, là một lời mời gọi và một nền tảng cho thái độ bao dung và sự tôn trọng lẫn nhau, cho chia sẻ và truyền thông, để trao đổi, cảm thông, giao hoà và hoà bình. Niềm tin Kitô giáo chỉ cho ta con đường đi tới Đấng là “điểm hội tụ của tất cả mọi ước vọng của lịch sử và của văn minh, là trung tâm của nhân loại, niềm vui của mọi tâm hồn và sự hoàn thành của mọi khát vọng”(GS 45)[40].

    ————————————-

    [1] Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, số 15.

    [2] Nữ tu Mai Thành đã “Ngỡ ngàng” cảm xúc trước biến cố Nhập thể này và diễn tả bằng những lời thơ đẹp, thâm sâu và đầy âm điệu Á Đông:

    “Ngỡ ngàng lặng ngắm Hài Nhi
    Mong manh hơi thở, đôi mi dịu hiền
    Phải đây Chúa tể vô biên,
    Hôm nay nằm đó, giữa miền đất trơ?
    Không gian vô lượng, vô bờ,
    Một tay sáng thế, nguyên sơ thủa nào.
    Hôm nay lặng lẽ Ngài vào,
    Nằm trong lịch sử , đẩy rào thời gian.
    Chào đời một tối đông sang,
    Làm con trái đất, mỏng dòn, phù du.
    Đấng mà tên gọi Thiên Thu,
    Vô chung, vô thủy, vượt bờ tử sinh.
    Đấng từng ném rải bình minh,
    Ngân hà, nhật nguyệt lung linh ngợp trời.
    Ngài không xuống tự cao vời,
    Mà từ bụi đất, giữa đời bạc đen.

    (Ngỡ Ngàng, 1998)

    [3] Tuyên ngôn “Dominus Jesus” xác quyết: “Việc tách biệt hành động cứu độ của Ngôi Lời tự thân và hành động cứu độ của Ngôi Lời Nhập thể là trái ngược với đức tin Công giáo. Với biến cố Nhập thể, tất cả những hành động cứu độ của Ngôi Lời Thiên Chúa luôn được thực hiện với nhân tính, mà Ngài đảm nhận để cứu độ mõi người. Chính ngôi vị duy nhất của Ngôi Lời là chủ thể duy nhất hoạt động trong hai bản tính, thần linh và nhân loại” (ssố 10).

    [4] Xc. Tuyên ngôn của Thánh Bộ Đức tin, Dominus Jesus, số 5.

    [5] Gioan Phaolô II, Dominum et vivificantem , số 50.

    [6] Gioan Phaolô II, Giáo hội tại Á châu, số 16.

    [7] Gioan Phaolô II, Redemptoris missio, số 28.

    [8] Synode des Évêques/ Assemblée spéciales pour l’Asie, Jésus-Christ, le Sauveur, et sa mission d’amour et de service en Asie…. Instrumentum Laboris, Vatican 1998, số 31.

    [9] Tông huấn Giáo hội tại Á châu, số 18.

    [10] Giustinô, 2 Apol. VI, 3.

    [11] Giustinô, 1 Apol. XLVI, 1- 4.

    [12] Giustinô, 2 Apol. VIII,1.

    [13] Ibidem, 2 Apol. VIII,1

    [14] Instrumentum Laboris, op.cit., số 32.

    [15] Thánh Irênêô, Adv. haer. IV,6,7

    [16] Adv. haer. II,6,1.

    [17] Xem O. Cullmann, Christ et le temps. Temps et histoire dans le christianisme primitif, Neuchâtel, 1947.

    [18] Adv. haer. IV, 20, 6- 7.

    [19] Cf. Adv. Haer. IV, 6,6.

    [20] Dominus Jesus, số 12.

    [21] Clementê thành Alexandria, Strom. V,12.

    [22] Strom.I,19.

    [23] Strom. VII,2.

    [24] Strom. I,5, 1- 3.

    [25] Strom. VI,8.

    [26] Ủy ban Thần học quốc tế, Kitô giáo và các tôn giáo khác, 1997, số 43.

    [27] Strom. I,15.

    [28] Protreptikos VIII,80.

    [29] Protrept. IX,88.

    [30] Proptrept. XI,116.

    [31] Xem Y. Congar, La Parole et le souffle, Paris, Desclée, 1984.

    [32] Xc. Vatican II, Gaudium et Spes, 22.

    [33] W. Kasper, Jésus le Christ, Paris, Cerf, 1977, tr.409. Xin coi M. Bordoni, La cristologia nell’orizzonte dello Spirito, Brescia, Queriniana, 1995; R. del Colle, Christ and the Spirit: Spirit Christology in Trinitarian Perspective, Oxford University Press, 1994.

    [34] Vatican II, Gaudium et Spes, số 22.

    [35] Ad Gentes, số 9.

    [36] Redemptoris Missio, số 29.

    [37] Ủy ban thần học quốc tế, Kitô giáo và các tôn giáo, (1970, số 84.

    [38] “BIRA” là ký hiệu của “Bishops’ Institute for Inter-religious Affairs”, tức là ban bí thư của FABC đặc trách về vấn đề liên tôn.

    [39] Xin xem toàn bản văn trong FABC Papers, số 64, Hong Kong 1993, tr. 23- 37.

    [40] Walter Kasper, “L’universalité du Christ et le dialogue interreligieux”, art. cit., tr. 372.

    Bài liên quan:

    Dấu ấn Thần Khí nơi các tôn giáo lớn
    Kitô giáo chống nền văn hóa băng hoại ngày nay
    Chủ nghĩa vô thần theo Công đồng Vatican II
    “Tinh thần Assisi” là gì?
    Quan điểm và động thái của Tòa Thánh Vatican đối với cái chết của Gadhafi và Hội đồng chuyển tiếp ở Lybia
    Giáo Hội với truyền giáo: Sứ mệnh phổ quát và sứ vụ địa phương
    Sứ điệp của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI cho Ngày Thế giới Truyền giáo 2011
    Phận vụ tông đồ người tín hữu giáo dân trong Công đồng Vatican II
    Chủ nghĩa vô thần, trò chơi và sự thật
    Người vô thần và Giáo hội của một chân lý
    Đức Giêsu Kitô và các con đường cứu độ khác
    Niềm tin mù quáng và bất hợp lý của chủ nghĩa vô thần
    Ðối thoại liên tôn từ Công đồng Vaticanô II chiều kích chiêm niệm đơn tu
    Vai trò của Giáo dân dưới ánh sáng Công đồng Vatican II
    Tôn giáo và các cuộc tranh chấp hoàn cầu
    Đối thoại với người vô thần

    Nguồn: http://www.lamhong.org/2011/10/30/ta...ton-giao-khac/
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  2. #2

    Mặc định

    Tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu đã trình bày vấn đề dưới một lăng kính cởi mở và sâu sắc hơn: “Thần khí của Thiên Chúa động chạm, thanh tẩy và cứu vớt không những các cá nhân, mà cả các nền văn hóa và tôn giáo nữa. Kể từ đây, các nền văn hóa và các tôn giáo có chức năng cứu độ, như giáo chủ Gioan Phaolô II ghi nhận: “Sự hiện diện và hoạt động của Thần khí không chỉ liên hệ đến các cá nhân, mà còn liên hệ đến xã hội và lịch sử, các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo. Thật vậy, Thần khí khởi động những ý tưởng cao thượng và những sáng kiến tốt đẹp của nhân loại lữ hành. Do sự quan phòng đáng thán phục, Ngài hướng dẫn những biến chuyển của thời gian và đổi mới bộ mặt của trái đất”[7]. Ngài tiếp tục gieo những mầm chân lý và ân sủng giữa tất cả các dân tộc, các nền triết học và các tôn giáo của các dân tộc nói trên”[8].
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  3. #3

    Mặc định

    Đoạn khác : Trong cuốn Minh giáo II, Giustinô trình bày rõ hơn quan niệm về Logos như là nguồn suối duy nhất của tất cả chân, thiện, mỹ trong vũ trụ. Từ viễn quan đức tin, Giustinô đã muốn ôm trọn tất cả lịch sử nhân loại và đặt nó dưới sức tác động của Thần khí: Tất cả những gì thiện hảo đều phát xuất từ Thần khí và như vậy có tương quan với Kitô giáo. “Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ đã thiết lập những nguyên tắc luân lý đúng đắn; các thi sỹ cũng trình bày như vậy, bởi vì mầm bẩm sinh của Logos tiềm ẩn trong nhân loại”[12].

    Ngôi Lời được quan niệm là nguồn duy nhất của tất cả mọi tri thức trong vũ trụ. Sự khác biệt giữa những cấp độ nhận thức khác nhau là do mức độ tham dự nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp vào nguồn chân lý chung này. Chính vì vậy, Giustinô đã có một cái nhìn rất lạc quan về lịch sử nhân loại: “Tất cả những gì thiện hảo thuộc về chúng ta, thuộc về các Kitô hữu chúng ta. Bởi vì sau Thiên Chúa, chúng ta tôn thờ và yêu mến Ngôi Lời, sinh bởi Chúa Cha nhưng không phải tạo thành và khôn tả, đã làm người cho chúng ta, ngõ hầu chữa trị sự xấu của chúng ta (…). Các văn sỹ đã có thể nhìn một cách mờ mờ ảo ảo nhờ hạt giống Ngôi Lời gieo nơi họ”[13].

    Nói tóm lại, tất cả các văn hóa và các tôn giáo cùng dự phần vào Logos, nhưng theo mức độ rất khác biệt. Trong khi tín đồ các tôn giáo khác chỉ tham dự một phần gia tài cứu độ, các Kitô hữu được hân hạnh đón nhận sự biểu lộ trọn vẹn nhờ biến cố Nhập thể. Đối với Giustinô, biến cố Nhập thể là đỉnh cao của tiến trình cứu độ, chạy dài từ công cuộc sáng tạo cho đến ngày thế mạt, bởi vì Đấng hiện hữu từ muôn thủa đã đi vào thời gian và trở thành hữu hình khi Ngài mang thân phận con người nơi Đức Giêsu-Kitô.

    Các Giám mục Á châu cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự hiện diện của “hạt giống Ngôi Lời” được Thần khí gieo vào các nền văn hóa và các tôn giáo. “Tài liệu làm việc” của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu ghi nhận như sau: “Nhiều bản trả lời nhấn mạnh rằng tất cả những gì đã đề cập về sự hiện diện cứu độ của Thần khí nơi các dân tộc thì đặc biệt đúng đối với lục địa Á châu, chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới. Xét về mặt thực tiễn, các tôn giáo này đã là con đường dẫn đưa đại đa số dân chúng Á châu đến với Thiên Chúa, cũng như là một cách thế Thiên Chúa sử dụng để tiếp cận họ. Thần khí của Thiên Chúa đã tác động trong tâm trí của các hiền giả Á châu cổ đại. Chính các vị đã để lại cho dân tộc mình chứng từ của những giác ngộ tâm linh trong các kinh điển. Giáo huấn của các ngài vẫn còn hướng dẫn đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội của một số lớn người Á châu”[14].
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  4. #4

    Mặc định

    Khi đọc câu này: "Xét về mặt thực tiễn, các tôn giáo này đã là con đường dẫn đưa đại đa số dân chúng Á châu đến với Thiên Chúa, cũng như là một cách thế Thiên Chúa sử dụng để tiếp cận họ.Thần khí của Thiên Chúa đã tác động trong tâm trí của các hiền giả Á châu cổ đại. Chính các vị đã để lại cho dân tộc mình chứng từ của những giác ngộ tâm linh trong các kinh điển. Giáo huấn của các ngài vẫn còn hướng dẫn đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội của một số lớn người Á châu".

    Vậy thì Phật Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, vv... các tư tưởng Phật giáo, triết học Đạo Khổng, Lão giáo,vv... đều là các phương cách Thiên Chúa tiếp cận với con người. Vì các giá trị đó hướng tới Chân-Thiện-Mỹ.
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  5. #5

    Mặc định

    Các tiên tri trong các Tư tưởng ngoài Do thái giáo và TCG: Ảnh hưởng của Ngôi Lời trải rộng khắp nơi, vượt xa bên ngoài ranh giới của truyền thống Do thái giáo và Kitô giáo, bởi vì thế giới “ngoại đạo” cũng có những ngôn sứ riêng. Một số người Hy lạp, dưới tác động của Ngôi Lời, đã thực sự thi hành sứ vụ ngôn sứ: “Phải chăng đó đã là một ân huệ tiên báo hay một thứ thần giao cách cảm? Đó là những hình thức tiên tri? Các triết gia sâu sắc nhất của Hy lạp nhìn thấy Thiên Chúa qua hình ảnh mờ nhạt, nhưng cũng có khi với tất cả vẻ trong sáng”[22].
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  6. #6

    Mặc định

    Không biết trong tôn giáo họ có chân lý thật không,chỉ thấy họ sì sụp thờ lạy đủ thứ thần, vi phạm Điều Răn Đầu Tiên là thấy tà ma rõ mười rồi.

    Kinh Thánh, Lời Chúa, thì không nghe, nghe mấy ông giáo sư tiến sĩ phán cứ như đúng rồi ấy mà đem ra hoài, coi phát mệt
    ”Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”

  7. #7

    Mặc định

    “Vả, Đức Thánh Linh phán tỏ tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ sẽ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỷ dữ,” (I Ti-mô-thê 4:1)
    ”Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”

  8. #8

    Mặc định

    Đến các giám mục, đức giáo hoàng Gioan Phaolo II mà bạn còn bảo là đạo lý của quỷ dữ thì tôi cũng lạy bạn và tôn bạn lên làm thần thôi.
    Hãy đọc xem cách nhìn nhận của các Ngài về vai trò của Thần Khí và Chúa Ki tô trong tương quan với các tôn giáo khác thế nào.

    Bạn hãy đọc và nghiền ngẫm. Nhiệt tình cộng với thiếu hiểu biết thường dẫn tới sự phá hoại.

    Tốt hơn là bạn nên in bài viết này của Đức giám mục Phao Lô Nguyễn Thái Hợp- Giám mục chính tòa giáo phận Vinh ra, và đi hỏi khoảng 10 Linh mục. Thay vì ngồi đây mà ném đá và giới hạn sự hiểu biết của mình trong 1 cái hộp.
    Last edited by minhthai; 28-01-2013 at 06:07 PM.
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Abe no Genji Xem Bài Gởi
    Không biết trong tôn giáo họ có chân lý thật không,chỉ thấy họ sì sụp thờ lạy đủ thứ thần, vi phạm Điều Răn Đầu Tiên là thấy tà ma rõ mười rồi.

    Kinh Thánh, Lời Chúa, thì không nghe, nghe mấy ông giáo sư tiến sĩ phán cứ như đúng rồi ấy mà đem ra hoài, coi phát mệt
    ông bạn tôi chẳng thấy nơi ông bạn có chút khiêm nhường và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và ngôn luận chút nào . người khác nói ông tối thì ông ko thừa nhận . pó tay.com.canh.vn
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  10. #10

    Mặc định

    chúa giesu đã phán đừng xét đoán người khác để anh em khỏi bị xét đoán . ông bạn luôn nói kinh thánh . nhưng ông bạn có hiểu câu này không vậy . vì thế khi ông bạn xét đoán người khác ông bạn có nghĩ người khác cũng sẽ xét đoán ông bạn không . tôi thấy ông bạn chỉ đem đến cho dân ngoại cái nhìn không tốt về thiên chúa
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  11. #11

    Mặc định

    Thực ra để hiểu được những gì Giám mục Phaolo Nguyễn Thái Hợp viết, cần những hiểu biết không chỉ về Thiên Chúa giáo.

    Chính những nền tảng Thần học như thế này là động lực để Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II cổ vũ cho đối thoại các tôn giáo, kêu gọi các tôn giáo cùng hiệp sức chống lại sự xuống cấp về đạo đức của thời đại.

    Nhiều khi chúng ta chỉ nhìn thấy cái vỏ, không nhìn thấy bản chất bên trong thôi thúc.

    Abe mới gia nhập đạo CG, 1 số người không chịu tìm hiểu, tôi cũng chẳng chấp họ làm gì. Tự họ đã giới hạn sự hiểu biết của họ về Thiên Chúa, đấy chính là cái họ chịu thiệt thòi.
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  12. #12

    Mặc định Bài viết này sẽ rất hữu ích cho các bạn ngoài TCG đang tìm hiểu về TCG.

    TÁC ĐỘNG CỦA THẦN KHÍ NƠI CÁC TÔN GIÁO



    Cho đến ngày nay, thế kỷ 20 sau Chúa Giáng sinh, chúng ta đang sống trong khung cảnh có nhiều tôn giáo trên thế giới. Nhiều tôn giáo đã tồn tại trên 20 thế kỷ, nay vẫn còn hiển hiện quanh cuộc sống của ta. Những người thuộc về tôn giáo khác, họ có niềm tin khác ta, nhưng cuộc sống của họ ẩn tàng những sự thiêng thánh lại còn sinh những hoa trái tốt lành cho trần gian.
    Nếu để tâm quan sát cách hành đạo của họ, ai lại không tự nghĩ, "giáo lý của họ chắc hẳn là tốt lắm, nên mới có những con người tốt cho đời như vậy". Đứng trong đức tin Công giáo, chúng ta nhìn thấy cuộc sống của họ chất chứa những giáo lý sự thật tốt lành, mà sự thật - sự thiện tuyệt đối là từ Thiên Chúa mà ra. Vì thế, nguồn gốc các giáo lý mang chân lý chí thiện đều ẩn chứa dấu ấn của Thần Khí Thiên Chúa. Với lòng tin như thế, chúng ta sẽ tìm hiểu cách thức tác động của Thần Khí nơi các tôn giáo, và trình bày một số tôn giáo lớn để thấy sự tác động của Thần Khí nơi các tôn giáo đó.



    Trong công trình tạo dựng trời đất muôn vật, sự tác động của Ba Ngôi Thiên Chúa đã làm cho vũ trụ hoạt động trật tự và hài hòa. Sự tác động của Thần Khí Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trên mặt đất. Sau công trình sáng tạo ban đầu, Thần Khí tiếp tục tác động trong vũ trụ để bảo tồn vạn vật. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã để lại hình ảnh của mình trong vạn vật khi sáng tạo con người. Thiên Chúa đặt trong con người có lý trí, ý chí và tự do theo hình ảnh của Ngài, để con người có khả năng làm chủ mọi loài thọ tạo khác trong vũ trụ được tạo thành và có khả năng để nhận biết Thiên Chúa đã tạo nên mình. Vì có khả năng nhận biết Thiên Chúa, con người có thể trở nên với Thiên Chúa. Bởi vì, ngay sau khi hoàn tất công trình tạo dựng, Thiên Chúa hứa sẽ gìn giữ và cứu độ muôn vật được tạo thành. Với lập luận này, con người trở nên với Thiên Chúa bằng cách nào, do khả năng Chúa ban ngay từ đầu hay do mặc khải của Thần Khí Thiên Chúa? Chắc hẳn, cả hai đều có lý, nếu là khả năng tự thân con người thì cũng đúng. Bởi vì, trong thân phận yếu đuối và giới hạn của phàm nhân, Thiên Chúa đã phú ban một phần linh thánh bất tử của ngài cho con người. Do đó, con người dù sống trong sự ô trọc của cuộc sống thì cũng được lương tâm hay cái Ngã (Atman theo Ấn giáo) hoặc nhân tâm ... trong con người thúc bách để hướng về Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mình. Đàng khác, nếu nói đến sự mặc khải của Thần Khí Thiên Chúa cũng đúng. Bởi lẽ con người trằn trọc tìm kiếm Thiên Chúa dù phải ăn chay, giữ giới, tĩnh niệm hay quyên cả bản thân mình mà Thiên Chúa lại bàng quan để mặc hay sao? Chẳng phải Đức Kitô, Đấng được gọi là Người Con của vị Thần Linh Tối cao đã giáng trần và mặc khải thế này sao: "Hãy xin thì sẽ được, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho...". Vậy, Thần Khí Thiên Chúa chắc hẳn cũng đáp lời cho những ai đứng lì trên nẻo đường tìm kiếm và cầu xin Thiên Chúa thì cũng được nhận lãnh một sự soi sáng nào đó.

    Bởi thế, trước khi Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế để mặc khải và khai sáng cho nhân loại mọi điều trên trời dưới đất thì đã có một số con đường mù mờ nào đó đã tồn tại trong nhân gian rồi vậy. Những con đường ấy tuy không giống nhau, không trực tiếp, hoặc không rõ ràng nhưng cũng dẫn đến một đích điểm trong ý nghĩa chung cuộc của cõi nhân sinh. Họ luôn luôn thao thức và ao ước có một cách thế giải thoát nào đó được rõ ràng và hoàn thiện. Những con đường ấy, tuy không tiên tri về một Đấng giải thoát như các bản văn của dân Israel nói về sự xuất hiện của đấng Mêsia, nhưng một cách ít ỏi và không rõ ràng đã hé lộ một chút trong cách hành đạo của con đường giải thoát của Phật giáo. Các phật tử thường niệm trên môi một lời mà Phật đã dạy: "Nam mô Adiđà Phật". Theo lời thầy Lý Minh Tuấn giải thích trong lúc dạy học rằng "Phật Adiđà là một Phật vị lai, một vị Phật đầy ánh sáng, Ngài sẽ đến để cứu độ chúng sinh. Vì thế, ai thường xuyên niệm lời này trên môi thì Phật vị lai ấy sẽ sớm đến cứu độ nhân loại, và người niệm cũng sẽ được cứu độ. Vị ấy đã đến rồi, đó là Đức Giêsu".

    Đến thời viên mãn, Con Thiên Chúa giáng trần, Ngài trở nên người phàm và sống như người phàm để cứu độ chúng sinh. Cách thức cứu độ của Đức Giêsu là đem con người trong thế gian đến với Thiên Chúa, không những thế mà Ngài còn đem con người trở nên một với Thiên Chúa. Việc Người Con của Đấng tuyệt đối giáng trần, không một tôn giáo nào giám nghĩ đến, ngay cả người Dothái cũng được tiên báo rằng có một đấng được gọi là Mêsia đến từ Thiên Chúa, Ngài như một con người nhưng được Thiên Chúa sai đến để giải thoát Israel khỏi cảnh lầm than khốn khổ mà thôi. Vì thế, Đức Kitô là vị khai sáng duy nhất, "nhuy nhất độc đáo và duy nhất tương quan". Đúng là độc đáo, vì chỉ mình Ngài là Con của Đấng tối cao mà đã làm người. Là vị Cứu Chúa duy nhất trong cái nhìn tương quan, nghĩa là bao hàm về sự cứu độ cho toàn thể nhân loại. Như Tin Mừng Gioan viết: "các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông" (Gan 8,32), và: "Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật" (Gan 4,24). Như vậy, cá nhân nào, tôn giáo nào sống cho sự thật là chân lý thì họ đã sống cho Thiên Chúa rồi còn gì. Và, Đức Giêsu cũng nói mình là sự thật như Tin Mừng viết: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Nếu hiểu theo nghĩa này, chúng ta có thể kết luận rằng, những ai sống tốt lành theo chân lý thì họ đã đón nhận Đức Kitô một các gián tiếp rồi. Vì thế, họ cũng được đến với Thiên Chúa là Cha hoặc là Đấng Cao cả nhất mà mình đã thờ phượng, bởi họ cũng một cách thế nào đó đã đi qua Đức Kitô, con đường cứu độ duy nhất.

    Giờ đây, chúng ta có thể hiểu rằng, Thần Khí Thiên Chúa đã tác động và vạch ra những con đường chân lý trong một số nền văn hoá và trong một số tôn giáo khác nhau để cứu độ con người. Bởi vì, con người vốn là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, nên Ngài cũng mở rộng cánh cửa để những kẻ có thiện tâm thiện chí được vào chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa. Những con đường đó như thế nào, chúng ta sẽ tìm hiểu một số tôn giáo lớn để thấy được những dấu chứng của Thần Khí, và hiểu đươc các tôn giáo khác đã thờ phượng Thiên Chúa thế nào.

    Với đạo Nho, Khổng tử đã khai mở cho thế giới một con đường thành nhân. Không tử nói: "Đức hạnh của bậc thành nhân là: thấu hiểu cái lý của tình tính, thông suốt cái biến của loài vật, biết cái cớ ẩn hiện, rõ cái nguồn gốc của khí thoát"[1].

    Trong lời nói ngắn ngủi này đã chất chứa rất nhiều ý nghĩa mà bậc thành nhân có được. Con người phải hiểu cái lý của tình tính. Tính là bản chất tinh thần của con người. Tính đó có từ ban sơ, là sự tốt lành, là Đạo trời đã được đặt sẵn trong con người. Tính còn có nghĩa là Thiên mệnh hay Minh đức, tức là phần thuần thiêng. Vô Cực tiềm tàng trong con người. Tình là sự thể hiện của Tính, tức là bản chất tinh thần con người. Như thế, Tính tốt sẽ thể hiện sự tốt ra bên ngoài là Tình. Bậc thánh nhân còn phải biết rõ cái cớ ẩn hiện của loài vật, biết sự biến hoá của những linh lực siêu nhiên. Mục đích của sự tu tập của con người không chỉ thế, mà còn phải đạt được thịnh đức, là phải hiểu đến năng lực thần, biết rõ lẽ biến hoá.

    Chúng ta không tìm thấy Giáo lý của Khổng giáo nói đến sự sống đời sau của con người. Tuy vậy, chúng ta cũng dề tìm thấy trong Hình Nhi Hạ Học, đặc biệt trong Hình Nhi Thượng Học, Khổng giáo trình bày những khái niệm Vô Cực, Thiên Mệnh, Minh Đức, hoặc Tính trong con người. Những khái niệm ấy phản ánh sự trường tồn, vì con người mang trong mình cái Tính, Tính ấy phát xuất từ Đạo Trời, có nghĩa là Đấng Tuyệt đối, một Thực Thể siêu việt, chúng ta gọi là Thiên Chúa. Như vậy, Khổng Tử cũng nhắm đến một sự trường tồn của con người, và sự trường tồn ấy gắn liên với Thượng Đế. Về sự sống đời sau, Khổng Tử không dám nói, vì hai lý do. Thứ nhất, Ngài cũng là con người, nên không thể nói nào nói được về thế giới siêu hình, nếu nói thì cũng có thể dẫn đến hiểu lầm. Thứ hai, Ngài chủ trương an lạc thái hòa trong đời sống của nhân dân. Nếu nói có sự sống đời sau, dân có thể cùng chết để sống với người thân của mình. Nếu nói không, đời sống xã hội có thể gây xáo trộn.

    Với sự chiêm niệm sâu xa, Khổng Tử đã thấy được phần nào về đấng Vô Cực, thấy được Thiên Mệnh. Bởi thế, Ngài đã trình bày cho người thường một con đường sống, con đường ấy hợp với Tính Thiên Mệnh trong sâu thẳm của con người. Một khi đạt được sự hợp nhất với Tính Thiên Mệnh thì cũng gặp được với đấng Vô Cực, Đấng là nguồn cội của mọi sự. Với quan niệm này, chúng ta thấy, Khổng giáo đã để lại một con đường khá gần với quan niệm của Công giáo. Chắc hẳn, Thần Khí đã tác động lên vị Giáo tổ để họ khai sáng nên một con đường của Chân lý để cứu độ chúng sinh.

    Dưới nhãn quan Lão giáo, Lão giáo đã suy tư và tìm kiếm nên được khai sáng để nhận ra chân lý. Chân lý tối cao là Đạo. Vì thế, Lão giáo đã trình bày cho nhân thế một con đường trở về với Đạo, là con đường trở nên bậc thánh nhân. Bậc thánh nhân là sống được với cái lẽ của Trời, của Đạo. Với sự sâu sắc của bậc thánh nhân, Lão tử viết: "Bậc toàn thiện ngày xưa, tinh tế, nhiệm mầu, sâu sắc, thông suốt, thăm thẳm chẳng thể biết". Các vị đã sống trong bậc huyền đồng, tức là trở nên một với Đạo và với mọi người. Lão tử viết tiếp: "Vậy nên thánh nhân giữ Một làm mẫu cho thiên hạ, không cho mình là thấy rõ cho nên sáng, không cho mình là phải cho nên rực rỡ, không tự khoe công cho nên có công, không tự khoe mình cho nên đứng đầu". Như thế, chẳng phải là bậc thánh nhân trong Lão giáo đã từ bỏ mình cách triệt để rồi sao, các vị đã thể hiện sự "Vô Vi" mà Lão tử đã nghiệm thấy trong Đạo. Cái mục đích của bậc thánh nhân nhắm tới, không phải là để cho mình được mọi người kính trọng, cũng không ôm lấy những sự tốt lành cho riêng mình mình. Nhưng họ làm mọi việc chỉ vì Đạo. Đạo là gì, bậc thông suốt nhất cũng không thể thấu hiểu, nhưng họ chỉ cảm nghiệm được phần nào về Đạo trong sự từ bỏ của mình mà thôi. Họ chỉ làm trong sự quy hướng về Đạo, theo ý của Đạo. Nên bậc thánh nhân được trở nên sáng, bình an, và tĩnh lặng trong sự vĩnh hằng. Đạo giáo quả đã rất gần với cách thực hành của Công giáo xét theo nguồn gốc và căn nguyên của triết lý. Vì ý thức rằng, việc mình làm là do Trời ban, nhờ Đạo, và nhờ Chúa đã hỗ trợ trong ân ban của đấng Tối cao. Như vậy, con đường của Lão giáo đã chất chứa những chân lý cao siêu, mà chân lý chẳng phải là Thần Khí sao. Hơn nữa, trong cách hành đạo theo lý thuyết tinh tuyền của Lão giáo, quả là triệt để như Đức Kitô đã dạy các môn đệ của mình về sự từ bỏ cách triệt để, để sống cho Thiên Chúa. Cũng vậy nơi bậc thánh nhân, họ phải sống cho Đạo, vì ở nơi Đạo, họ tìm được sự bình an tối cao, và niềm vui tuyệt đỉnh.

    Đức Phật Thích Ca đã dày công đi tìm chân lý, nên đã thành công trong sự giác ngộ. Ngài đã chứng đạo và để lại cho hậu thế một con đường đi tìm sự giải thoát. Suy tư về cuộc đời, Đức Phật đã tìm ra nguyên do của sự khổ, nên đã tìm ra phương cách để chữa trị. Ngài đã đề ra con đường trung đạo là Bát chánh đạo. Với Tứ diệu đế, tức là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế, đây là con đường học hỏi và tập luyện của người Phật tử. Người Phật tử phải học cho biết về sự khổ, rồi từ đó, họ tu tập bản thân để tự giải thoát chính mình. Hướng đến của phật tử là giác ngộ để đạt đến niết bàn. Với người đã giác ngộ, tức là họ đã thoát ra khỏi chính mình, không lệ thuộc vào trần gian tức là đã quên cái bản ngã dục trần này. Lúc ấy, theo Đại thừa giáo là người ấy đã đạt đến tâm bát nhã. Tuy con người còn sống trong thế gian, nhưng không còn chịu sự chi phối bởi trần gian, điều này như Đức Giêsu đã nói, "Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con đây không thuộc về thế gian" (Ga 17, 15-16). Như thế, người Kitô hữu hay người Phật tử, cuộc sống của họ là thuộc về một thế giới khác, thế giới mà họ đã gặp lại căn nguyên của mình trong "tính không" tức là "tâm bát nhã", "chân như" hoặc "Nước trời". Vậy, sự giác ngộ của Phật Thích Ca đã khai mở cho thế giới một con đường tu đức. Con đường ấy có phải do bởi sự thuần nỗ lực của con người như người ta thường nói hay không? Nếu chỉ do con người mà thành thì cũng không sai, vì trong con người có khả năng Chúa ban từ khởi thuỷ, và đó chính là linh lực của Thiên Chúa. Thế nhưng, Thần Khí vẫn luôn luôn lôi kéo, tác động và thúc bách con người hướng về Thiên Chúa.

    Triết học Ấn Độ với sự suy tư đạt đến đỉnh cao "Chân tri" của một số bậc thầy trong các giáo phái đã giúp cho dân chúng tìm ra con đường giải thoát. Muốn được giải thoát thì phải đi tìm chân tướng của mình và của sự vật, nghĩa là phải đạt được sự hiểu biết thực sự. Để thực hiện chân tri, theo các đạo sĩ thấu thị thì phải có ba yếu tố: Tín, Trí và Hành. Như thế, bước đầu tiên của việc chân tri là niềm tin. Bởi vì niềm tin đem đến sự hy vọng cho con người, nâng đỡ sự giới hạn của lý trí con người, và cũng là động lực hay sức mạnh để con người đạt đến sự đồng nhất với Brahman. Biết là phải biết được mình, trong mình có "Ngã" (Atma), tìm cho ra cái "Ngã" tự hữu ở ngoài và ở trên mọi giới hạn của thân xác và tinh thần (Brahman). Khi đã có niềm tin và biết hướng đi thì cần phải thực hành. Cái ngã của ta nằm ở tự tâm, nên phải quy về nội tâm mà tìm. "Chủ thể tinh thần cần phải rời bỏ ngoại vật, kiềm thúc thân xác, rời bỏ ngũ quan bằng phép thiền định, chỉ chú trọng vào hơi thở; nhưng rồi cũng quên cả hơi thở để nhập vào cõi siêu hình"[2]. Một khi chủ thể rời bỏ ngoại vật, kiềm thúc thân xác và ngay cả việc quên cả hơi thở, đây chính là việc từ bở chính mình, quên bản thân. Quên vì không chiều theo các ước muốn của thân xác, của các khuynh hướng tự nhiên của mình. Chính lúc ấy, thân chủ sẽ gặp được bản thân, tức là tìm gặp cái "Ngã" tự thân. Tuy vậy, dầu có thiền định cũng không dễ để thấy được cái ngã tự tâm. Upanishad kêu gọi rằng "hãy bước vào con đường tâm linh, nó mới làm cho tâm hồn trong sáng. Thực nghiệm tâm linh mới là mục đích của sự cố gắng của nhân loại". "Con người chỉ có thể đạt được tự do tối cao khi nào ý trở nên hợp nhất với Thượng đế". Lời kêu gọi con người hãy thực nghiệm tâm linh của Upanishad đòi hỏi con người phải vượt lên trên những thực tại tạm bợ mới có thể tiếp cận con đường tâm linh. Cho dầu, người ấy có ở trong trần gian, thực nghiệm hay dùng đến những gì là của thế gian, nhưng họ không bị lệ thuộc vào thứ gì do bởi lòng tham, sân, si. Những người ấy, họ đã đạt đến bậc thượng trí trong trong một tâm hồn bình an và kết hợp được cái Ngã bên trong và đại Ngã bên ngoài. Như vậy, tìm sự giải thoát theo Ấn Độ là một sự nỗ lực hướng đến con đường tâm linh để tìm cho ra cái ngã trong tâm. Nhận ra cái ngã ấy thì ta sẽ gặp được đại Ngã bên ngoài, đó là sự hợp nhất chính mình với Thượng đế.

    Con đường giải thoát theo triết học Ấn Độ, đặc biệt là phái Upanishad đã triển khai cho chúng ta thấy, tâm thức của các đạo sĩ người Ấn năng hướng về sự kết hiệp với Brahman. Sự kết hiệp với Đấng tuyệt đối ấy, chắc hẳn rằng, họ không thể diễn tả được nỗi hạnh phúc như thế nào. Cũng như sự trở nên một với Thiên Chúa đối với người Công giáo vậy. Bởi vì, Brahman theo người Ấn là Đấng hằng hữu, đấng là Chân như, Đấng ấy không thể nói được nên gọi là tính Không, nghĩa là có cái có huyền nhiệm siêu việt tuyệt đối. Với người tín đồ Kitô giáo, chúng ta diễn tả sao hết với Chúa của mình, thì suy tư về Brahman của người Ấn cũng dùng những ngôn ngữ giới hạn mà thôi. Với sự hiểu biết về Brahman và trở về với Brahman, người Ấn đã trình bày một con đường, và con đường ấy là nhận cho ra tự Ngã bên trong là Atman. Atman có thể hiểu được như người Công giáo là linh hồn của con người. Con đường nhận ra tự Ngã, họ đã phải sống triệt để, có thể so sánh đời sống ấy như thánh nhân Công giáo vậy. Vậy, những suy tư của các đạo sĩ Ấn giáo có được thần khí tác động hay không? Chắc hẳn là có. Bởi vì, họ đã thao thức và miệt mài tìm kiếm chân lý; họ đã phải từ bỏ bản thân và thế gian để tìm kiếm chân lý tuyệt đối. Thần Khí Thiên Chúa sẽ mở cửa cho những ai miệt mài và kiên trì kêu xin Người trong danh Đức Giêsu. Mà, Đức Giêsu là sự thật, sự sống, sự sáng, và là tình yêu. Cho nên, những ai kêu lên Thiên Chúa nhân danh sự thật với lòng mến thì họ đã gián tiếp kêu lênh danh Giêsu, Ngôi Lời nhập thể rồi.

    Nhìn chung về các tôn giáo ta thấy rằng, những nỗ lực suy tư của các giáo tổ đã có một điểm gặp gỡ nhau trong Đấng tuyệt đối. Đấng ấy được thể hiện bằng những danh từ khác nhau như: Thiên Mệnh, Minh Đức, Đạo, Chân Như, Brahman... Dù cách gọi khác nhau nhưng được thể hiện cùng một nghĩa và có thể xem như Thiên Chúa của Công Giáo. Các con đường hành đạo là quy về với phần linh tính mà Đấng Tuyệt đối đã thể hiện trong con người đó là Tính Thiên Mệnh, Nhân Tâm, Atman và Linh hồn. Con người cần phải làm cho Tính trời trong con người được sáng ra, khi ấy, con người sẽ kết hợp được với đấng Brahman, Đạo... là Thiên Chúa. Tình trạng kết hợp ấy là trở nên "cuộc sống sung mãn, được giải thoát hay giác ngộ, đạt tới mức độ viên mãn, tự thực hiện, hạnh phúc vĩnh cửu, kết hợp với Thực Tại Tối Hậu"; Và: "yến tiệc, hôn lễ, đời sống vĩnh hằng, bất tử, không còn bị huỷ hoại, ánh sáng, bình an, an toàn, toại nguyện, viên mãn, hiển trị với Thiên Chúa,..."[3]

    Vậy, để tâm quan sát và học hỏi nơi các tôn giáo khác, chúng ta có thể tìm ra chân lý sự thật trong đó. Chính Thần Khí đã tác động lên tập thể và cá nhân để hướng dẫn con người trở về kết hợp với Thiên Chúa. Các tôn giáo đã thể hiện được sự trong sáng và tình tuyền của mình để sống cho Đạo và cho con người. Tuy họ được Thần Khí tác động để trở về với Thiên Chúa, nhưng đó vẫn còn là cách thế mù mờ và nhiều lúc làm cho con người cảm thấy tuyệt vọng vì sự yếu đuối của thân phận xác phàm. Giá như, họ gặp được một Người Con của Đấng Tuyệt đối như họ hằng theo đuổi, Đấng ấy sinh xuống trần gian làm người như họ thì họ đã trở về với Chúa họ thờ thật dễ biết bao. Thực ra, Đấng ấy đã sinh xuống làm người rồi, đã trở nên như họ, sống như họ và hằng đem họ về với Chúa của họ. Thế nhưng, họ lại không nhận ra Người. Chắc hẳn rằng, họ vẫn còn suy tư, vẫn còn tìm kiếm. Cho nên, Thần Khí vẫn tiếp tục tác động, và Thần Khí sẽ giúp họ nhận ra Người Con của Đấng Tối Cao đang sống bên họ hằng ngày. Có thể nói được như vậy, vì, có những tôn giáo sự thật đều xuất phát từ một nguồn gốc là sự tác động và mặc khải của Thiên Chúa.





    [1] Lý Minh Tuấn, "Đông Phương Triết Học Cương Yếu", trang 158
    [2] Xem sách đã dẫn nốt 1, trang 356.
    [3] Nguyễn Thái Hợp, "Đường Vào Thần Học Về Tôn Giáo", Dẫn thân-Houston, 2004, tr.105-106


    nguồnhttp://jbxuanthanh.vnweblogs.com/post/9028/161703
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  13. #13

    Mặc định

    Chúa Thánh Thần Trong Sứ Vụ Truyền Giáo Của Giáo Hội








    CHÚA THÁNH THẦN

    TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI

    Lời mở

    Bàn về sứ mệnh của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định rằng: “Chúa Thánh Thần tỏ mình một cách đặc biệt trong Giáo hội và trong các phần tử của Giáo hội. Tuy nhiên, Người hiện diện và hoạt động ở khắp nơi, không bị giới hạn bởi không gian cũng như thời gian”[1]. Vì thế, để tìm hiểu về đề tài này, chúng ta đề cập đến hai khía cạnh chủ chốt về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội và ngoài biên cương của Giáo hội.

    1. Thánh Thần hướng dẫn sứ vụ của Giáo hội

    Trước hết, dựa vào nền thần học của thánh Gioan, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định sứ vụ của Giáo hội là công trình của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, khởi đi từ lễ Ngũ tuần, các tông đồ đầu tiên đã được Thần Khí của Đấng Phục sinh hướng dẫn, soi sáng tâm trí để hiểu về mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài (x. Ga 16, 13; 14, 26).



    Cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ từ những người nhút nhát đã trở nên can đảm và xác tín một cách mạnh mẽ hơn vào Chúa đến độ họ không thể giữ riêng trong lòng mình: “điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống… chúng tôi đã thấy và chúng tôi làm chứng… chúng tôi loan báo cho cả anh em để anh em cũng được hiệp thông với Chúa Cha và Con Người là Chúa Giêsu Kitô” (1Ga 1, 1-3).

    Vâng, chỉ khi các Tông đồ gặp được “Mặt Trời” chân lý thì lời rao giảng của họ sẽ không dừng lại tại một mớ lý thuyết trừu tượng khó hiểu như trước nữa, nhưng lời rao giảng của các Tông đồ càng trở nên xác tín hơn, sống động hơn xuyên qua một kinh nghiệm sống, một cuộc gặp gỡ thân tình với Đấng đã chết và đã sống lại. Và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, lời rao giảng của các Tông đồ giờ đây trở nên như “gươm hai lưỡi”, có sức đánh động và làm thay đổi tâm hồn con người như tác giả sách Tông đồ Công vụ thuật lại: “nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông đồ khác : thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Ông Phêrô đáp: “anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2, 37-38).

    Theo trình thuật trên đây, Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh không chỉ hoạt động trong các Tông đồ - là những người được Đức Kitô tuyển chọn và sai đi (x. Mt 28, Mc 16, Lc 24 và Ga 20), mà chính Ngài còn làm cho những người nghe lời giảng của các Tông đồ được thấu hiểu và được biến đổi để trở nên người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Nói khác đi, Chúa Thánh Thần vừa hoạt động trong những người rao giảng Tin mừng, vừa tác động một cách mạnh mẽ trong tâm hồn của những người nghe lời rao giảng.

    Ngoài ra, để củng cố tinh thần hiệp nhất giữa các tông đồ, Thần Khí còn thúc đẩy họ biết sống chia sẻ tình hiệp thông huynh đệ, trở nên cộng đoàn kiểu mẫu của Giáo hội tiên khởi (x. Cv 2, 42-47) đồng thời tiếp tục làm chứng cho Chúa Giêsu, Đấng đã phục sinh (x. RM 26; EN 41-42).

    Các Tông đồ làm chứng cho Chúa Phục Sinh, chắc chắn không chỉ bằng lời nói suông, song bằng cả hành động nữa (x. EN 75) kể cả khi họ gặp thử thách gian nan thì chính Thánh Thần sẽ dạy họ biết điều phải làm như chính Chúa Giêsu đã báo trước: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, nhưng là chính Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10, 18-20). Vậy Thánh Thần không chỉ hiện diện và hoạt động trong Giáo hội mà thôi, nhưng Đấng là “gió muốn thổi đâu thì thổi” cũng luôn hiện diện và tác động ngoài biên cương của Giáo hội.

    2. Hoạt động của Thánh Thần ngoài Giáo hội


    Như chúng ta đã biết, sách Tông đồ Công vụ kể lại việc Chúa Thánh Thần tác động trên viên đại đội trưởng Cornelio. Ông là một người lương dân, có lòng đạo đức, kính sợ Thiên Chúa và chuyên cần cầu nguyện (x. Cv 10, 1-2) mặc dù ông chưa biết Thiên Chúa. Qua cung cách sống của ông và gia đình ông, có thể nói họ được soi chiếu dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần (x. Cv 10, 4). Còn Phêrô, khi tiếp nhận người ngoại giáo đầu tiên, trưởng hội đường Roma là Cornelio ở Cesarea vào cộng đoàn tiên khởi, Phêrô biết rõ không chút nghi ngờ về hành động tiếp nhận của ông. Chắc chắn thái độ này không phải do phong tục tôn giáo, nhưng là vì đó là ý muốn của Chúa như Phêrô đã xác tín điều đó giữa Hội đường rằng: “Quý vị thừa biết: giao du hay vào nhà một người khác chủng tộc là điều cấm kỵ đối với người Do thái. Nhưng tôi thì Thiên Chúa đã cho tôi thấy là không được gọi ai là ô uế hay không thanh sạch” (Cv 10, 28). Theo đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, sự kiện này diễn tả một biến cố lớn lao trong lịch sử cứu độ đó là Phêrô đã giữ lại nguồn gốc cho Hội thánh tiên khởi; tuy nhiên, Phêrô cũng hiểu rằng mình còn phải là dụng cụ của Chúa Thánh Thần để khởi đầu sứ mệnh đến với “các dân tộc” theo lệnh truyền của Chúa Kitô (x. Mt 28, 19). Biến cố này cũng mạc khải tính cách phổ quát của Nước Thiên Chúa trong thế giới: Phêrô đã mở ra một con đường mới cho Luật mới, trong đó, Tin mừng của ơn cứu độ phải đạt tới nơi mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, giai cấp, quốc gia, văn hóa và tôn giáo.

    Nhưng để đạt tới sự nhận thức đặc biệt về biến cố này, đức giáo hoàng Gioan Phaolô II còn nói thêm rằng sách Tông đồ Công vụ mô tả trước hết về một tiến trình nội tâm, một “thị kiến” mà qua đó, chúng phát sinh ra những vấn nạn, những suy tư mập mờ còn để lại trong tâm hồn của Phêrô do tác động của Chúa Thánh Thần liên hệ đến lệnh truyền của Chúa Kitô trong sứ mệnh truyền giảng Tin mừng: “Hôm sau, đang khi họ đi đường và đến gần Gia-phô, thì ông Phê-rô lên sân thượng cầu nguyện; lúc đó, vào khoảng giờ thứ sáu. Ông thấy đói và muốn ăn. Đang khi người ta dọn bữa thì ông xuất thần. Ông thấy trời mở ra va một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống đất. Trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết sống trên đất, cùng mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: "Phê-rô, đứng dậy, làm thịt mà ăn! Ông Phê-rô thưa: "Lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch". Lại có tiếng phán bảo ông lần thứ hai: "Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế". Việc ấy xảy ra đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên trời”. (Cv 10, 9-16).

    Khi tiến trình nội tâm đã thực hiện xong, thì Phêrô được sai đến nhà ông Cornelio bởi Thần Khí. Tại đây, Phêrô bằt đầu bài giảng của mình với những lời lẽ thần học truyền giáo: “Quả thật tôi biết Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận. Ngài đã gửi đến cho con cái nhà Israel lời loan báo Tin mừng bình an, nhờ đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người …” (Cv 10, 34-43). Đức Gioan Phaolô II cho rằng bài giảng kerygma và giáo lý về ngày lễ Ngũ tuần của Phêrô đã được lập lại ở Cesarea trong nhà của người ngoại giáo Cornelio, nơi biến cố tiệc ly diễn ra một lần nữa, biến cố đó có thể gọi là lễ Ngũ tuần cho các dân ngoại. Quả thật, “Ông Phêrô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Những tín hữu thuộc giới cắt bì cũng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả dân ngoại nữa, bởi họ nghe những ngừơi này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa” (Cv 10, 44-45). Việc này không phải chỉ có các tông đồ biết, nhưng kể cả các “anh em” khác cũng cảm thấy hành động “thúc đẩy” của Chúa Thánh Thần, chẳng hạn như trừơng hợp của tông đồ Stephano (x. Cv 6, 5), Barnaba hay Phaolô (x. Cv 13, 2.4.9)[2]. Sau cùng, tác gỉa sách Công vụ kết luận Phêrô “truyền làm phép rửa cho họ nhân danh đức Giêsu Kitô” (Cv 10, 48). Với quyền của người tông đồ, Phêrô, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, đã khởi đầu việc truyền bá Tin mừng và Giáo hội của Người đến các biên cương của dân tộc Israel.

    Vậy dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ là những người đại diện Giáo hội tiên khởi được sai đi rao giảng và đem Tin mừng cứu độ của Chúa Kitô, không chỉ cho dân tộc Do thái và những tín hữu đã tin vào Chúa Kitô mà thôi; nhưng khởi đi từ Giáo hội của Chúa Kitô, ơn cứu độ còn được Thánh Thần ban xuống cho các dân ngoại ở mọi nơi trong khắp cùng bờ cõi trái đất như thánh Tông đồ dân ngoại đã diễn tả một cách xác tín rằng: Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và được nhận biết danh Ngài (x.1Tm 2, 4).

    nguồn: http://www.cuocdoidanghien.com/index...id=128&lang=vi
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  14. #14

    Mặc định

    Làm sao để biết ta đang theo một tôn giáo sai lầm hay một niềm tin không đúng đắn. Hãy quan sát chính những tư tưởng nảy sinh trong ta, những thói quen hình thành trong ta. Nếu những tư tưởng đó, những thói quen đó dẫn dắt ta đi đến sự bác ái, tình yêu thương, lòng tốt, sự minh mẫn, sự cân bằng nội tâm và một sức khỏe bền bỉ thì niềm tin của chúng ta là đúng, tôn giáo của chúng ta là đúng bất kể nó có tên là thiên chúa, đạo Hồi hay đạo Phật.
    Nếu những gì chúng ta tin, những gì chúng ta theo dẫn dắt chúng ta đến những tư tưởng bạo động, ích kỷ, thù ghét, và sẵn sàng thực hiện những điều đó, thì niềm tin sẽ là sai, tôn giáo đó là sai bất kể nó có tên là thiên chúa, đạo Hồi hay đạo Phật hay gì đi nữa.
    Điều quan trọng là hãy biết quan sát chính mình với những đổi thay trong tư tưởng, hành vi và thấy được chân giá trị của hạnh phúc.

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minhthai Xem Bài Gởi
    Vấn đề là bạn không thể chấp nhận 1 Đức Ki tô và Thánh Linh hoạt động ngoài Ki tô giáo
    Vậy sao? để tui nói cho bạn nghe

    Ơn Chúa thánh linh tác động cho TẤT CẢ MỌI NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT biết để họ nghe và biết về Thiên Chúa nhưng chúa thánh linh không bao giờ tác động kéo 2 chân của 1 cá nhân nào đó bước vào nhà thờ cả mà là cá nhân đó phải tự muốn như thế! Vậy thì Chúa thánh linh chỉ mang thông tin về Thiên Chúa -có 1 vị THiên Chúa như thế, như thế,... cho nhân loại biết

    Bạn sẽ hỏi vậy mấy người ở trong hang hốc, nơi hoang vu mọi rợ thì sao biết Thiên Chúa? Ngoài các vị truyền giáo làm việc tông đồ không nói đến, thì có 1 số bộ tộc họ biết kính sợ Thượng đế- bộ tộc nào, hình thức thờ phượng ra sao? thì là chuyện khác, chứ không thể thờ con bò vàng , con voi, con bò, con chuột là thượng đế được, mấy cái đoạn bạn trích từ LM Nguyen Thai Hợp và mấy đoạn khác nữa , nó giống như 1 mệnh đề toán học vậy, bạn phải có những yếu tố nào, thỏa mãn điều kiện gì thì từ đó bạn mới suy ra là tam giác đó cân, vuông.v.v... bạn nói là đạo nào thờ thượng đế của họ thì đạo đó là thờ Thiên Chúa của TCG vì đức thánh linh hoạt động trên tất cả mọi tôn giáo?? bạn hiểu theo cách như thế vx thấy lâu rồi đó mà tại vì vx không muốn tranh luận nên vx không nói gì thôi

    Vậy thì dĩ nhiên Đức Thánh linh hoạt động cho cả người tôn giáo khác và người không tôn giáo nữa, bằng chứng là có người đang chạy vào nói chuyện Thiên Chúa tạo dựng ra Adam và Ave là chuyện hư cấu , là loạn luân, nếu gặp 1 người cuồng quá, ghét quá thì sẽ viết sách chống đạo TCG ..vv... như nhóm SH đã làm đấy.

    Vậy rõ ràng Chúa Thánh Linh đã hoạt động với họ rồi đúng không? họ biết chuyện Adam & Ave là do Chúa thánh linh đó, nhưng họ không tin thì vx hỏi bạn, Chúa thánh linh có hiện ra nói con phải tin không?? Còn lâu! Thiên Chúa không lôi kéo ai cả, tất cả là do bản thân họ muốn chống đối , họ biết mà họ không nghe, họ nghe mà họ không tin, đó là cốt lõi của vấn đề!!

    Đức thánh linh hoạt động ở khắp mọi nơi nhưng ơn cứu rỗi dành cho ai bạn đã biết rồi đấy vx không cần nói

    Sao tui lại tin đức thánh linh không hoạt động nhĩ? nếu đức thánh linh không hoạt động thì phòng chúng ta đâu có 2 bạn là A & H , bạn A bây giờ rành kinh thánh còn hơn người đạo gốc, 2 bạn đó hồi trước đạo gì bạn biết rồi đó! Chúa Giê Su đâu có hiện ra bắt 2 bạn ấy phải vào đạo mà 2 bạn ấy tự chọn, bạn hỏi họ xem CHúa có hiện ra với họ không? Tui chưa hỏi mà tui đã biết câu trả lời là không, nhưng họ hơn nhiều người là có đức tin , từ đức tin qua chuyện đi nhà thờ thì dễ ợt, vậy thì chả cần CHúa thánh linh kéo họ vào nhà thờ mà đức tin của họ làm chuyện đó cho họ rồi !!

    Vậy lúc nào thì Chúa thánh linh giúp trực tiếp?CHúa thánh linh sẽ giúp những người có ý định tìm cứu rỗi, tìm Thiên CHúa thì Chúa thánh linh sẽ dùng nhiều cách cho họ nhận biết hay lắm, nhưng họ phải có ý đi tìm Thiên Chúa kìa

    Đừng nói với tui là trên trái đất này có những người không biết THiên CHúa là gì, không lẽ cả đời họ chưa bao giờ đi qua cái nhà thờ có cây thánh giá, không lẽ cho tới chết họ cũng không biết cái thánh giá đó là gì, chuyện gì xảy ra với người chết trên thánh giá? vấn đề là họ bịt tai lại hoặc là cứng lòng không muốn nghe, như vậy trong kinh thánh nói gì về người cứng lòng? vậy CHúa thánh linh nên rượt theo mấy người cứng lòng à? bạn nghĩ Chúa Thánh linh phải đi lôi kéo họ như là người thế gian phải đi treo cờ, phải đi bầu, phải không được phản động, THiên CHúa đâu có thấp hèn như con người đâu bạn, bạn đi tìm Thiên Chúa và tự bạn quì xuống thờ lạy Chúa , chứ Thiên chúa không ép họ

    Còn gián tiếp thì CHúa thánh linh vẫn làm đấy nhưng lòng người ơ hờ họ đâu biết Chúa thánh linh đã đến hay là không, bằng chứng là phòng này lúc nào cũng có những nhân vật còn đem kinh thánh ra để bắt người trong đây trả lời, rồi họ vặn vẹo tùm lum, chứng tỏ là họ có biết kinh thánh rồi chứ không phải là khôgn biết gì đâu, Vậy có phải Chúa Ki Tô/CHúa Thánh linh đã đem đồ ăn tới mà họ đạp ra chê không ăn không?

    Còn những tôn giáo nào khác như đạo Phật, vx nói nhiều lần là vx tôn trọng họ nhưng phương cách họ thực hành là để cho kiếp sau họ được làm người , hay được lên niết bàng chứ không bị hóa kiếp thành động vật, hình mẫu của họ là ông Phật, chứ không phải là THiên Chúa, bạn đang tin Phật hay tin Chúa? bạn là người đạo Phật thì tui kệ bạn rồi tranh luận làm gì, nhưng bạn cứ phê bình vx là 2 bên giống nhau là giống thế nào? cái chuyện phán xét ai đúng ai sai để cho THiên CHúa làm đi, bạn đừng làm Thiên CHúa mà nói ai đúng,thế nào là đúng là do Chúa quyết định, hãy sống như 1 con chiên của Chúa chứ đừng pha trộn cái này cái kia !
    Last edited by Vitxiem; 03-02-2013 at 07:01 AM.
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

  16. #16

    Mặc định

    nói thêm về PG và các đạo giáo của Trung Quốc

    bên PG tin về từ bi hỹ xả, bên CG cũng tin vào bác ái, thương yêu, tha cho người thì Chúa tha cho ta, nhưng đó là điểm giống duy nhất

    còn thì khác hoàn toàn nên không thể kết luận 2 cái giống nhau rồi lại suy ra khổng tử , lảo tử, đạo giáo, lão giáo cũng giống , nên thực hành theo đạo giáo , lão giáo chả sao là sai , khi thực hành hãy xem cách thức của họ như thế nào, có được giáo hội công nhận hay không, còn tự tung tự tác suy luận rồi làm theo thì đó là suy diễn cá nhân chứ đạo Công Giáo hoàn toàn nghiêm cấm các việc thực hành như vậy
    Last edited by Vitxiem; 03-02-2013 at 07:20 AM.
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minhthai Xem Bài Gởi
    Chúa Thánh Thần Trong Sứ Vụ Truyền Giáo Của Giáo Hội

    Vậy dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ là những người đại diện Giáo hội tiên khởi được sai đi rao giảng và đem Tin mừng cứu độ của Chúa Kitô, không chỉ cho dân tộc Do thái và những tín hữu đã tin vào Chúa Kitô mà thôi; nhưng khởi đi từ Giáo hội của Chúa Kitô, ơn cứu độ còn được Thánh Thần ban xuống cho các dân ngoại ở mọi nơi trong khắp cùng bờ cõi trái đất như thánh Tông đồ dân ngoại đã diễn tả một cách xác tín rằng: Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và được nhận biết danh Ngài (x.1Tm 2, 4).
    trước khi Chúa Giê Su xuống thế thì đạo TCG là của duy nhất 1 dân tộc Do Thái, còn sau khi Chúa về trời thì Chúa Thánh Linh/Chúa Thánh thần giúp cho các thánh tông đồ trong nghĩa vụ truyền giáo trên toàn thế giới, ngay tới thế kỷ 17-18-19 phần đông các vị truyền giáo , vị linh mục,các giáo dân bị xử tử , chém đầu tại Việt Nam ,vậy thần khí Chúa đã đến VN nhưng chỉ có 6.87% đón nhận, số còn lại vẫn quay lưng với Thiên Chúa, không biết đây là chuyện tốt hay xấu cho 1 dân tộc
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vitxiem Xem Bài Gởi
    trước khi Chúa Giê Su xuống thế thì đạo TCG là của duy nhất 1 dân tộc Do Thái, còn sau khi Chúa về trời thì Chúa Thánh Linh/Chúa Thánh thần giúp cho các thánh tông đồ trong nghĩa vụ truyền giáo trên toàn thế giới, ngay tới thế kỷ 17-18-19 phần đông các vị truyền giáo , vị linh mục,các giáo dân bị xử tử , chém đầu tại Việt Nam ,vậy thần khí Chúa đã đến VN nhưng chỉ có 6.87% đón nhận, số còn lại vẫn quay lưng với Thiên Chúa, không biết đây là chuyện tốt hay xấu cho 1 dân tộc
    Không biết đây là chuyện tốt hay xấu cho thiên chúa.

  19. #19

    Mặc định

    TÔI MUỐN HỎI TẤT CẢ CÁC ĐẠO HỮU THIÊN CHÚA GIÁO TRÊN ĐÂY CÓ TRÍ TUỆ VÀ LÒNG TỰ TRỌNG , ĐỨC LIÊM SỈ 1 CÂU HỎI THÔI :
    VÀO THỜI KÌ 1000 NĂM TRƯỚC ĐÂY , KHI NƯỚC TA CÒN HOÀN TOÀN CHƯA BIẾT ĐẾN THIÊN CHÚA GIÁO THÌ ÔNG CHA TỔ TIÊN CHÚNG TA VÌ KHÔNG CÓ GIÁO HỘI VÀ NHÀ THỜ NÊN TRƯỚC MẮT THƯỢNG ĐẾ DÙ HỌ CÓ SỐNG TỐT LÀNH TỚI MẤY CŨNG KHÔNG ĐÁNG ĐƯỢC ĐỂ THƯỢNG ĐẾ CỨU RỖI......??? PHẢI CHĂNG HỌ SINH RA TRONG 1 ĐẤT NƯỚC KHÔNG CÓ ĐẠO THIÊN CHÚA VÀ KHÔNG BIẾT TỚI CHÚA JESU LÀ 1 CÁI TỘI CỦA HỌ NÊN HỌ KHÔNG ĐƯỢC PHÉP CÓ SỰ CỨU RỖI TỪ THIÊN CHÚA ...???

  20. #20

    Mặc định

    quangcom & thaiduong162 vx có quyền không nc với 2 bạn vì vx không muốn chuốc sự bực mình và gây ồn ào trong cái phòng này, các bạn không thích những lời phát biểu của vx thì đừng đọc pót của vx , vx cũng đã đang làm như vậy với những cái pót của 2 bạn, cám ơn!
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. VÌ SAO PHẬT GIÁO SUY TÀN TẠI ẤN ĐỘ
    By Bin571 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 24
    Bài mới gởi: 20-10-2022, 08:20 AM
  2. ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU
    By vohinh69 in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 52
    Bài mới gởi: 30-12-2015, 10:54 AM
  3. Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 12:09 AM
  4. Trả lời: 20
    Bài mới gởi: 06-04-2012, 11:22 PM
  5. TÂM VŨ TRỤ
    By doxuantho in forum Đạo Việt Nam
    Trả lời: 242
    Bài mới gởi: 26-03-2012, 02:27 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •