LỜI GIỚI THIỆU
Quyển sách VÔ NHẤT ĐẠI SƯ - THÍCH THIỀN TÂM - MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI này do Ưu bà di BẢO ĐĂNG sau gần một năm dài chí tâm và đơn độc biên soạn thành.

Vì là một tại gia đệ tử của tôi (gần 10 năm qua) nên cô cũng được xem như là môn đồ, pháp quyến của ngài – Cố Hòa thượng Đại Ninh – THÍCH THIỀN TÂM và là một đồ tôn trong dòng pháp (pháp duệ) của sư môn, đã và đang đảm nhận các Phật sự – Hoằng dương Tịnh độ tông theo đúng đường lối, tôn chỉ của cố Hòa thượng – qua sự chỉ đạo của tôi – tại PHÁP HOA tự Tucson, Arizona, USA từ năm 1985 cho đến hiện nay.

Với ý niệm báo đức cho Sư Ông, dù là chưa được duyên may diện kiến và thọ pháp ở nơi Đại sư lần nào, nhưng qua ý của câu:

Cây có gốc mới trổ nhành, sanh ngọn,
Nước có nguồn mới bể rộng, sông sâu …
nên vào thời gian khoảng hơn một năm trước đây, cô có trình bạch lên tôi ý định muốn biên soạn quyển sách “đặc biệt” này. Tôi cũng đã có nói cùng với cô rằng: đây là một việc rất khó chớ không phải dễ … ngay như thầy e cũng còn không đủ sức thực hiện nổi huống chi là con. Nhưng cô rất quả quyết và tin tưởng một cách mãnh liệt rằng:

- Thế nào rồi đây giác linh của Sư Ông cũng sẽ chứng minh và “phò hộ” cho con thành toàn ý định…

Thấy cô kiên quyết và phát đại tâm như thế nên tôi hứa khả sự trợ duyên và tùy hỷ của mình.

Sau hai lần về Việt Nam và trải qua rất nhiều vất vả, xuôi ngược đến đi, từ Sài Gòn ra miền Trung, từ miền Trung trở về lại Sài Gòn rồi xuống Mỹ Tho, Bến Tre, Gò Công, Chợ Gạo… là những nơi đầy kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất mà khi xưa – chú ruột tôi – cố Hòa thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM, lúc còn sanh tiền đã từng có một thời gian lâu, mau… nào đó lưu trú ở đấy trên bước đường tu tập và hoằng dương đạo pháp.

Từ các nơi ấy, cô đã thu thập được khá nhiều tài liệu liên quan đến cuộc đời tu hành của Đại sư, khi trở về Mỹ lại, cô liền bắt tay ngay vào việc khởi công biên soạn, đồng thời cô cũng đã thỉnh cầu tôi tích cực cung cấp thêm cho cô các chi tiết khác nữa về cuộc đời của cố Hòa thượng mà tôi đã từng nghe biết hay còn lưu giữ được.

Vì xét thấy quả nhiên cô có một “tấm chơn tình” đối với Sư Ông – dù chỉ là một đồ tôn khiếm diện – mà ngay chính trong các hàng môn đồ, pháp quyến của ngài cũng ít ai có được tâm thành như thế nên tôi rất lấy làm an ủi, cảm động và sau đó tôi bèn trợ giúp cho cô thêm các tài liệu khác về cuộc đời của cố Hòa thượng từ thuở còn nhỏ cho đến khi xuất gia, mãi đến sau này để cho cô được thuận duyên hơn hầu sớm hoàn thành tâm nguyện.

Một năm sau, cô đệ trình lên bản thảo để nhờ tôi duyệt khán.

Xem xong, tôi rất mực kinh ngạc, hy hữu và vô cùng hoan hỷ trước cái công trình phi thường này – một quyển sách tuyệt diệu mà có lẽ chính tôi (liệu sức) cũng khó thể nào hoàn tất nổi – huống lại là cô, một đệ tử mới phát tâm tu học chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm ư?!

Rồi tôi chợt nghĩ:
- Nếu không phải là có giác linh của chú tôi – cố Hòa thượng Đại Ninh – trợ giúp hay âm thầm ám trợ cùng gia hộ cho cô tăng trưởng thêm trí huệ thì chắc chắn là quyển sách này không thể nào thành hình một cách mỹ mãn tuyệt vời như thế này được cả.

“Hữu cầu tất ứng” chính là đây chăng?

*******
Nơi đây, trong phần viết đôi lời giới thiệu này, trước hết tôi cũng xin thay mặt cho đại gia đình bên họ nội của tôi – Sư Cô Phương Liên Thích nữ THANH NGUYỆT trưởng tử của Đại sư cùng với các môn đồ, pháp quyến thân tín của ngài, tại gia cũng như xuất gia, trong cũng như ngoài nước, hoặc gần, hoặc xa … và sau hết là riêng cá nhân tôi – cháu đích tôn kiêm đệ tử của cố Hòa thượng – gởi đến Ưu bà di BẢO ĐĂNG những lời cảm ơn chân thành và thân thiết nhất, bởi vì cô đã làm xong được một việc hy hữu mà từ trước đến nay, trong các hàng môn đệ của ngài chưa hề có một ai đủ khả năng để hoàn tất được việc đại sự như thế này – kể luôn cả tôi nữa!

Qua tác phẩm đầu tay đặc biệt và “vô tiền khoáng hậu” này, cô đã hoàn mãn được việc “báo tôn sư ân đức” một cách hết sức tuyệt diệu, phi thường – không phải chỉ bằng ngôn từ suông trên đầu môi chót lưỡi như những ai khác nơi chốn thế tình – mà lại là bằng vào một hành động hết sức tích cực đúng với câu “ngôn hành hợp nhất, sự lý đủ đầy” rất cần phải có của người Phật tử trên bước đường tu, cầu chơn giải thoát.

Với tư cách của một người thầy, bổn sư dẫn dắt cô trên đường đạo, tôi cũng rất hãnh diện có được một người đệ tử như cô, mà đã gần 10 năm qua cùng chung tay, sát cánh với thầy trong công việc duy trì và phát huy đạo pháp đúng theo lời Phật dạy, hòa hợp cùng với đường lối của sư môn nơi PHÁP HOA tự Tucson bé nhỏ, hẻo lánh của miền sa mạc Arizona này.

Xin gởi đến cô một người đệ tử trung kiên, một Phật tử thuần hành – dày công trong Phật sự từ bấy lâu nay và sẽ còn mãi mãi đến sau này – đã làm cho Phật giáo (tại địa phương Tucson) mỗi ngày càng thêm tăng huy rạng rỡ, lời khen tặng sau đây:

KHEN ƯU BÀ DI BẢO ĐĂNG

Khá khen BẢO ĐĂNG Ưu bà di,
THIỀN TÂM lược sử quyết lòng ghi
Thân yếu nhưng người tâm chẳng yếu,
Báo đức Sư Ông quản ngại gì.
PHÁP HOA PHẬT TỰ từ lâu đã,
Hoằng pháp gian truân kể xiết chi.
Đấy chính tại gia BỒ TÁT hạnh,
Nương theo đường PHẬT bước chân đi.
Trọng Đông – Quý Dậu niên
Sa môn THÍCH HẢI QUANG
(Cảm tặng)
Những mong sao cho trong các hàng môn đệ của cố Hòa thượng Đại Ninh, Vô Nhất Đại sư THÍCH THIỀN TÂM còn có thêm nhiều đệ tử, đồ tôn biết nhớ ơn, báo đức cho THẦY, TỔ và sư môn cũng y như đồ tôn: Ưu bà di BẢO ĐĂNG đây vậy.

Thành kính và mong mỏi vậy thay.
Viết tại Hương Vân tịnh thất
Omaha – Nebraska
Vào tiết Trọng Đông năm Quý Dậu
(Phật lịch 2538 – Dl. 1994)
THÍCH HẢI-QUANG
(Cẩn bút)

THAY LỜI TỰA
Thời gian… gần đây (cuối năm Nhâm Thân 1992 dương lịch), Phật giáo Việt Nam đã bị một tổn thất cực kỳ lớn lao qua sự viên tịch của cố đại lão Hòa Thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM, một bậc danh đức cao tăng, một bậc thạc sư Phật học, và là một tôn sư hoằng dương 2 pháp môn Tịnh độ cùng Mật tông lừng lẫy nhất của Phật giáo Việt Nam đương kim, mà từ lâu đại danh của Ngài đã được hầu hết các Tăng, Ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam khắp nơi trong quốc hội cũng như ngoài quốc ngoại cúi đầu ngưỡng vọng, nhất là từ năm 1974 trở về sau này, khí tiết và chí nguyện giải thoát kiên cường của Ngài càng thêm sáng tỏ như ánh nhật quang phổ chiếu rạng ngời.

Sau tang lễ của cố Hòa Thượng, có vài ba vị đời cũng có, đạo cũng có, phát tâm muốn viết lại đôi phần tiểu sử của Ngài, trước là để hiển dương đức hạnh của một bậc vãng sanh cao tăng, sau là để lưu truyền lại cho các hàng hậu học cùng chư thiện tín lấy đó làm một gương sáng cho cuộc đời tu học Phật pháp và cầu giải thoát của mình.

Nhưng có một điều gây nhiều khó khăn và trở ngại nhất cho ý định này là cố Hòa Thượng đã không cho lưu lại các chi tiết về cuộc đời của Ngài. Theo lời kể lại của ĐĐ. Thích Hải Quang là cháu ruột gọi cố Hòa Thượng bằng chú, thì khi còn sanh tiền, tánh tình của Ngài rất là đạm bạc, trọn cuộc đời chỉ biết chuyên tâm tu học để cầu giải thoát mà thôi, ngoài ra đối với các việc lợi, danh của thế tình Ngài vô cùng lợt lạt, từ các việc khen chê, phải, quấy, thấp, cao, v.v… Hòa Thượng đều không quan tâm đến (Việc này được hầu hết các bạn đồng tu cùng thời với cố Hòa Thượng và chư tăng, ni, Phật tử thuần thành đều đồng ý xác thực như vậy).

Vì thế cho nên trước kia, một số đệ tử thân cận nhất của cố Hòa Thượng cũng đã nhiều lần thỉnh cầu, xin Ngài cho phép được ghi lại đôi chút tiểu sử để lưu hậu, nhưng Ngài đều cương quyết chối từ. Do vậy mà các chi tiết về cuộc đời, đường đạo của cố Hòa Thượng hầu hết đều bị thất lạc, và đây là một điều rất đáng tiếc vậy.

Riêng cá nhân tôi, dù chưa đủ hạnh duyên để diện kiến và bái yết cùng thọ pháp nơi ngài lần nào nhưng bổn sư của tôi, Đại đức Thích Hải Quang lại là cháu ruột và cũng là đệ tử của Ngài, từ nơi ĐĐ. bổn sư, tôi gián tiếp thọ học giáo pháp của cố Hòa Thượng, cho nên các thiện căn, kiến thức về Phật pháp của tôi mới được dịp phát huy, và tăng trưởng, khả dĩ có thể đảm nhận được các Phật sự theo đúng đường lối của cố Hòa Thượng nơi hải ngoại và riêng chùa Pháp Hoa của vùng sa mạc Tucson, Arizona USA này cho đến ngày hôm nay là cũng nhờ ở nơi cội gốc của Ngài mà ra cả. Vì thế nên tôi gọi cố Hòa Thượng là Sư Ông và tôn kính Ngài lên hàng Sư Tổ là như vậy.

Qua tư cách này và cộng thêm vào đó là tấm lòng quý kính sâu xa của tôi đối với một bậc tôn sư đầy đủ tài đức như cố Hòa Thượng, tôi đã tự xem mình như là một “ký danh đồ tôn” của Ngài, có đôi lúc tôi tự suy nghĩ: phải nên làm thế nào để đền đáp tôn sư ơn đức đây? và tôi kết luận rằng: tôi sẽ phải cố gắng hết sức mình để biên soạn thành một quyển sách nhỏ ghi lại đôi chút về thân thế, đạo nghiệp và sự giải thoát của cố Hòa Thượng để lưu truyền về sau cho các hàng Phật tử xa gần lấy đó làm gương trên con đường tu tập của mình nhất là trong thời buổi mạt pháp và điên đảo nhân tâm này.

Tâm trí tôi thì định như vậy, nhưng rồi lại bị lâm vào cảnh “lực bất tùng tâm”, [Lực bất tùng tâm: tâm trí thì muốn làm mà sức thì không cho phép (tâm mạnh, sức yếu) ý nói muốn làm như thế mà không được] bởi vì tôi không có một chút xíu hiểu gì biết về cố Hòa Thượng hết!

- Vậy phải làm thế nào đây?

Sau vài ba lần suy nghĩ, tôi đánh bạo bày tỏ ý định này lên ĐĐ. bổn sư và xin thầy giúp đỡ phương tiện vì tôi nghĩ rằng thầy là cháu và cố Hòa Thượng lại là chú ruột của thầy. Trong thời gian nhiều năm về trước, khi còn ở bên quê nhà, thầy đã từng làm thị giả, đệ tử thân cận, hầu hạ bên mình của cố Hòa Thượng, thì trong những lúc thanh vắng, rỗi rảnh, chỉ có hai thầy trò, chú cháu nơi tịnh thất, chắc có lẽ không nhiều thì ít Hòa thượng cũng đã có kể lại cho cháu của mình nghe về những kinh nghiệm của bản thân cùng những sự buồn vui, thăng trầm trong cuộc đời tu hành để cho cháu mình thu thập được thêm ít nhiều kiến thức, hầu sau này khỏi bị vấp ngã khi rời khỏi sư môn ra làm Phật sự chớ.

Sau khi nghe tôi trình bày xong về việc này, ĐĐ. bổn sư tỏ vẻ vui mừng lắm, thầy khen tôi là một đồ tôn có lòng hiếu thảo với Sư Ông và hứa sẽ tận tình giúp đỡ để cho tôi hoàn thành ý định.

Cách khoảng hơn một tuần sau thầy có trao cho tôi hai tập tài liệu cực kỳ quý giá về cuộc đời thơ ấu của cố Hòa Thượng.

Tài liệu thứ nhất là quyển “Tây liên tùy bút lục”. Đây là một quyển nhật ký viết trên cuốn vở 100 trang rất cũ của thân phụ thầy: Phật tử Tây Liên Nguyễn Văn Thông và cũng là bào huynh của cố Hòa Thượng (trong đại gia đình thì cố Hòa Thượng đứng hàng thứ 10, còn bào huynh của ngài đứng hàng thứ 5). Quyển nhật ký này ghi chép lại một số sự việc có liên quan đến thời thơ ấu của cố Hòa Thượng, bắt đầu vào ngày 12/5/1932 trở về sau.

Tài liệu thứ hai là quyển: “Nhựt Thăng tu sĩ di cảo” (Nhựt Thăng là thế danh của cố Hòa Thượng). Đây cũng là một quyển nhật ký mỏng chép trên quyển vở 50 trang rất xưa cũ, mở đầu ghi vào ngày 01/9/1935 trong đó là nét chữ của chính tay cố Hòa Thượng viết nên gồm cả chữ quốc ngữ lẫn chữ Nho, ghi lại một vài bài thơ do Ngài sáng tác lúc chưa xuất gia và một số kỷ niệm của thuở ấu thời.

Được hai tập tài liệu quý báu này, tôi “mừng hết lớn”, và tự nhủ thầm rằng đây là do tâm thành của mình chiêu cảm nên được giác linh của Hòa Thượng âm thầm tá trợ đây chăng?

Và tôi quả quyết “chắc là như vậy”.

ĐĐ. bổn sư có nói rằng 2 tập nhật ký này là của Hòa Thượng ban cho để làm kỷ niệm khi thầy tuân lịnh ngài lên đường xuất ngoại 15 năm về trước. Trong gia đình, dòng họ cũng chưa ai thấy được 2 quyển nhật ký này, vì lẽ ở dưới quê ai cũng bận lo làm ruộng rẫy, đầu tắt, mặt tối, dang nắng dầm mưa, cho nên rất ít người để ý đến vấn đề ghi chép lưu bút lắm.

Thầy giữ 2 quyển nhật ký này bên mình không rời dù đi bất cứ nơi đâu, vì đây là kỷ niệm của cha và chú. Nhưng nay thầy thấy đã đến lúc cần phải sử dụng đến nên mới trao ra để cho tôi hoàn thành tâm nguyện.

Mấy tháng kế sau đó, nhân có chút duyên sự về thăm quê nhà, sẵn dịp này tôi có bạch cùng Đại đức bổn sư xin thầy chỉ dẫn thêm vài nơi, vài người mà tôi có thể đến gặp gỡ để tìm thêm vài ba dấu tích về cuộc đời của cố Hòa Thượng hầu cho quyển sách được thêm ít nhiều phong phú hơn. Trong vòng 5 tháng tôi về bên Việt Nam đến 2 lần, mỗi lần đi như vậy là có đến tam, tứ, ngũ, lục tiện … như nào là thăm viếng gia đình, thân thuộc, đi chùa, cúng dường, lễ tháp của cố Hòa Thượng, in kinh ấn tống (Đại Bảo Tích), đúc tượng Phật cho chùa Tucson – Arizona v.v… trong đó có một trách nhiệm quan trọng do thầy bổn sư giao phó là truy tìm thêm chi tiết về thuở ấu thời của cố Hòa Thượng, do đó nên trong thời gian lưu lại bên nhà, tôi đã nhiều lần xuôi ngược lên Đà Lạt, xuống Gò Công, Mỹ Tho, Chợ Gạo, đặc biệt là chùa Vĩnh Tràng ở Mỹ Tho (là ngôi chùa đầu tiên mà cố Hòa Thượng nương ở, tu học thuở thiếu thời), chùa Sắc Tứ (nơi cố Hòa Thượng xuất gia, thọ giới và trụ trì một thời gian ngắn ở nơi đây).

Tôi cũng đã được dịp gặp lại một số quý cụ của 4, 5 thập niên về trước cùng thời với cố Hòa Thượng, phỏng vấn, thu băng và thu hình để làm tài liệu xác thực cho quyển sách, đi riết đến nỗi thân thể ốm gầy, da đen sạm lên vì nắng gió (cho việc này), khi về Mỹ lại ai cũng quở là sao mà tang thương, ốm yếu đến thế!!!

Các tài liệu ấy mặc dù không được hoàn toàn như ý nhưng tôi nghĩ như vậy cũng tạm đủ trong giai đoạn đầu tiên, sau này từ từ sẽ bổ túc thêm, vả lại đã có ĐĐ. bổn sư là cháu ruột của Ngài hứa “yểm trợ”nên tôi cảm thấy mình cũng vững tâm, không đến nỗi nào phải bị lo lắng cho lắm.

Quyển sách này được thành hình và đến tay quý vị hôm nay, như trên vừa bày tỏ, chỉ là để xiển dương lại cái “đại đức” của một bậc cao tăng đạo hạnh, suốt đời lo chơn thật tu hành, nhất tâm cần cầu giải thoát chớ không màng chi đến thế tục lợi danh. Sống không xa hoa, phù phiếm, mà trọn đời chỉ ưa an ẩn nơi chốn lan nhã, núi rừng, giữ đời đạm bạc, sống lo cho đạo, chết về giải thoát, đối với mọi duyên đời chẳng hề khởi niệm luyến lưu.

Và đây mới là quả thật là chơn Phật tử vậy.

Tôi cũng nguyện cho mọi hữu duyên nhơn sau khi xem xong được cốt chuyện xác thực, hiện đại trong quyển sách này rồi, lấy đó mà làm gương cho mình và phát ý tu hành tinh tấn thêm lên như cố Hòa Thượng vậy để hái lấy quả mầu vô sanh nơi Phật quốc. Ngoài ra chớ nên chấp thủ theo lối thường tình, bởi một duyên đời đều như mộng huyễn nào có bền lâu. Lòng nguyện của tôi (nơi quyển sách này) chỉ như thế mà thôi, tuyệt nhiên không còn có thêm vào bất cứ ý niệm chi sai khác như thủ lợi, cầu danh… bởi vì đây chỉ là một quyển sách nhỏ, ấn tống, được viết lên với tất cả tấm lòng thành.

Đương nhiên trong đây còn có rất nhiều thiếu sót, bởi vì cố Hòa Thượng đã tự xóa hết tất cả các phần lý lịch của mình không để lưu hậu. Vì thế nên không một ai trên cõi đời này, kể luôn các thân nhân ruột thịt của Ngài biết được chính xác về cuộc đời của vị “phi tích cao Tăng” [Phi tích cao tăng: là vị cao tăng có những kỳ tích phi thường, đặc biệt, khác hẳn với các vị tăng thông thường khác nơi trường thế tục lợi danh] này được cả. Một con người mà sống không chút tham luyến, chết chẳng chút sầu não như các dòng thơ cuối cùng của Ngài lưu lại:

Đời ta chí gởi chốn liên trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm
Mừng nay được thấy đức A DI.
Thích Thiền Tâm
(Những dòng thơ cuối)
Kính bạch Hòa thượng Giác Linh,
Con cũng biết việc làm này có thể đã trái với bổn ý của Ngài là không muốn lưu lại những cái “ta” và cái “của ta” (ngã và ngã sở) của cá nhân mình (dù là cao đẹp) lại cho đời phê phán, khen chê, nhưng xin Ngài chứng giám cho tấm lòng chơn thành của con: một đứa đồ tôn xa xôi, khiếm diện – về những gì mà con viết lên đây, trong quyển sách nhỏ này, con xin dưng cúng dường lên Giác linh Hòa thượng. Nếu như (trong đây) con có gây tạo nên ít nhiều sơ sót, sai lầm chi, ngưỡng mong ngài từ bi miễn thứ.

Con xin cúi đầu khấn nguyện:
- Hòa thượng Giác linh, hằng trụ Tây phương, bất ly uế độ, sắc không liễu ngộ, hóa độ quần sanh. Nhứt niệm liễu thông, chứng minh hiến cúng.

- Nam mô Phương liên cập Hương nghiêm đường thượng, thượng THIỀN hạ TÂM đại lão Hòa thượng giác linh.

Tác đại chứng minh.
(Đồng kính bái).
Viết xong vào cuối mùa thu, Năm Quý Dậu
1993 Tại Chùa PHÁP HOA
Tucson, Arizona - USA

Phật tử BẢO ĐĂNG
Bái bạch

I- PHẦN DẪN NHẬPKhải đề:
Non xanh lặng lẽ tợ ngui than,
Kiếp tạm phù du, chớp điện quang
Người theo nhau mất, non còn đó,
Kết cuộc Nam Kha, giấc mộng vàng!
Thơ Liên Du
(Thích Thiền Tâm)
Bài thơ trong phần dẫn nhập trên đây của Cố Hòa thượng đã gợi ý cho chúng ta nên thức tỉnh trước mọi duyên đời vô thường, mong manh, và giả tạm.

Kiếp người qua mau nào có lâu bền, trăm năm mới nghe qua thì tựa như rất lâu dài, nhưng các bậc trí giả, liễu ngộ xem nó dường như thoáng kiếp phù du (1) [Kiếp phù du: kiếp sống ngắn ngủi (phù du là một sinh vật nhỏ sống nơi sông biển, từ khi sanh đến lúc chết chưa đầy một phút đồng hồ]hay như ánh chớp giữa trời mà thôi. Ấy thế mà trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, nhơn sanh vì cái sắc thân hư dối này mà gây tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp duyên, nhân quả sai lầm, đến nỗi tự mình phụ phàng lấy mình mà chôn vùi đi cái chơn tánh tinh minh, tịch mịch.

Trong kinh Hoa Nghiêm Phật dạy:“Giả sử như nghiệp duyên mà có hình tướng thì mười phương hư không cũng chẳng thể nào dung chứa cho hết”

Và nếu cứ mãi như thế, thì đến ngày 30 tháng chạp của cuộc đời rồi, tất nhiên sẽ theo các nghiệp ấy mà đi trong ba cõi, sáu đường [Ba cõi, sáu đường: Ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Sáu đường là trời, thần, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh] mịt mịt mù mù, chịu biết bao nỗi đớn đau thảm sầu, thương xót!

Người dương thế, hễ trai gái lớn lên, thì kẻ mong có vợ, người tưởng lấy chồng, trông sao cho sớm được cái cảnh “loan phượng hòa minh, sắc cầm hảo hiệp”, con cháu quý xinh, cửa rộng nhà cao, bạc tiền dư dả, nhung gấm lụa là, xuống ngựa lên xe … ngàn muôn ước vọng cao sang trước sau như thế, nhưng mấy ai nghĩ đến tất cả duyên đời tuồng như mộng ảo mà quay đầu, hồi tâm thức tỉnh nơi bước đường tu.

Có thơ rằng:
Hoàng lương mộng,(*)
Mộng hoàng lương.
Một giấc hoàng lương mộng đẹp dường,
Áo tím, đai vàng, mờ bóng cũ.
Mồ xanh, cỏ ấy bạc màu sương!
Từ đây tĩnh,
Chớ lo lường.
Phú quý công danh cũng mộng trường!
Thơ Liên Du
(Thích Thiền Tâm)
[(*) Hoàng lương mộng: là giấc mộng kê vàng.
Sơ lược điển tích: có một thư sinh đi thi không đậu, trên đường về nhà, ghé qua một quán nhỏ bên đường tìm thức ăn đỡ dạ. Chủ quán lấy hoàng lương (là bắp hột vàng) để nấu cho ăn. Trong khi chờ đợi thì thư sinh nằm ngủ quên đi, trong mơ thấy mình thi đậu, được vua gả công chúa làm vợ, kế đến làm quan to đến cực phẩm, vinh hiển hơn 30 năm trời, sau thấy trận, bị vua cách chức cho về hưu. Vợ chồng buồn rầu than khóc, giật mình thức dậy mới biết là chiêm bao, cảm ngộ cảnh đời vô thường, ngó lại thì nồi bắp nấu vẫn còn chưa chín, thư sinh sực tỉnh cất tiếng cười khan, bỏ vào núi sâu tu luyện, không thấy trở ra nữa.]

Từ ngàn xưa đến nay, há chẳng thấy thế hệ này nối tiếp qua thế hệ kia, kẻ này tiếp theo người khác lìa bỏ cõi đời, chôn lấp tứ đại sắc thân nơi gò hoang, huyệt lạnh ư! Ôi, non xanh vẫn còn kia làm chứng nhân cho biết bao thế hệ, lặng lẽ như than thở, khóc thầm trước bao điều tử biệt, sanh ly.

Hỡi người nhân thế có thấy hay chăng?
Tranh danh, đoạt lợi, rộn ràng, lăng xăng cho thế mấy đi nữa, chừng hồi tỉnh lại thì nào còn có chi đâu! Rõ ràng nhất là từ năm Ất Mão 1975 đến nay, trước mắt ta đã thấy xảy ra không biết bao nhiêu là tang thương, đổ nát, suy biến đổi đời.

Có thơ rằng:
Lửa cháy tàn tro bụi
Xoay vần lẽ tự nhiên.
Nhìn tang thương đổ nát,
Xương trắng lụy tròng nghiêng.
(Cổ thi)
Bậc trí giả quán sát các duyên đời như thế, lòng sao tránh khỏi buông ra một tiếng than dài!

Cho nên người hiểu đạo cùng các bậc thức lượng sâu xa cảm ngộ các cảnh duyên đời đổi thay dâu bể, tự nhiên thấy lòng nguội lạnh chẳng còn chi chút luyến lưu, ngoảnh mặt, xây lưng xả bỏ cảnh trần, cắt tóc ly gia, lìa thân xả ái, trọn đời an phận đạm bạc nơi chốn thiền môn, sớm kệ chiều kinh, một dạ tu hành không nài gian khổ, nguyện thân này, kiếp này là thân chót, kiếp chót nơi cõi tạm trần lao, mong sao cho ngày cuối của cuộc đời tới nơi rồi, theo Phật về Tây, biệt đường sanh tử.

Và đó mới xác thật là phong cách của bậc trượng phu đại nhơn vậy.

Đến đây tôi muốn dẫn nhập vào và đề cập đến một người tăng sĩ, một vị danh đức cao tăng, một ngôi sao bắc đẩu trên vòm trời Phật giáo Việt Nam mới vừa lịm tắt về hướng trời Tây của miền An Dưỡng, để lại cho đời muôn tiếc, ngàn thương:

Đó là:
Cố Hòa thượng Đại Ninh.
VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
THÍCH THIỀN TÂM
Viện chủ Hương Nghiêm tịnh viện (Tu viện Vĩnh Minh). Pháp chủ Phương Liên tịnh xứ Mật Tịnh đạo tràng. Viên tịch ngày 21/11 Âl năm Nhâm Thân (14/12 dl 1992)
Hưởng thọ 68 tuổi đời và 48 tuổi đạo.
Ngài chính là người mà ngay từ trong lứa tuổi ấu thơ đã sớm ngộ cảnh thế vô thường, duyên đời hư giả nên chẳng những đã không bao giờ xây đắp cho mình giấc mộng Hoàng lương như bao chàng thanh thiếu niên khác mà trái lại, đã sớm xả bỏ tục trần, cắt ái từ thân, chân chánh tu hành, giữ tròn đạo hạnh … nêu tấm gương sáng cho các hàng tứ chúng trong hiện tại và lẫn cả về sau quy ngưỡng.

Để cho quý hữu hiểu biết thêm một ít phần về cuộc đời của vị cao tăng này, trong các tiết mục kế tiếp đây, Bảo Đăng tôi sẽ lần lượt giới thiệu lên một vài khoảng đời của Ngài, từ thuở ấu niên cho đến lúc trưởng thành, xuất gia tu hành và đạt được đạo mầu giải thoát.

II- THÂN THẾ VÀ THUỞ ẤU THỜI

A. THÂN THẾ:
Cố Hòa thượng sanh quán tại làng Bình Xuân, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công (nay đổi lại là tỉnh Tiền Giang) thuộc miền Đông Nam bộ.

Sanh trưởng trong một gia đình Nho giáo có khuynh hướng sùng bái đạo Phật. Thân phụ của ngài là cụ ông Nguyễn Văn Hương, một bậc túc nho, có học vấn và là một nông dân có tánh chơn chất, thật thà của người nơi miền ruộng nương rẫy báy. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Giác Ân Trần Thị Dung, một người nội trợ, đảm đang, hiền đức nổi tiếng trong làng.

Cả gia đình của Ngài đều được mọi người trong vùng quý trọng, thường gọi là ông bà “Sáu Hương”. Trong dòng con của gia đình theo thứ tự các huynh đệ, tỷ muội, thì Ngài đứng vào hàng thứ 10 (trong số 13 người con của dòng họ).

Theo lời cụ bà Giác Ân, thân mẫu của Ngài kể lại, thì trong một đêm đó, bà đang ngủ mơ màng, chợt thấy ngoài sân có ánh sáng chói rực, vía bà tưởng chắc có lẽ Tây (người Pháp) thả trái sáng ở gần nhà, (vì các khoảng thời gian đó là những năm loạn lạc đánh nhau giữa Tây và Việt Minh) bà e rằng trái sáng rớt xuống sẽ làm cho nhà bị cháy (vì ở miền quê mái nhà lợp bằng lá dừa nước), nên lật đật dậy chạy ra ngoài xem chừng, thì không thấy có lính tráng hay chuyện gì khác hết. Trong khi bà còn đang ngạc nhiên ngó qua lại để tìm kiếm thì bỗng nghe có tiếng gọi rằng:

- Người nữ kia đến đây ta bảo.
Giọng nói rất oai nghiêm vang ra từ phía trên đầu làm cho bà giật mình ngước mắt nhìn lên thì thấy giữa không trung có một lão bà đang từ từ giáng hạ xuống đất, chính cái ánh sáng mà bà tưởng là do trái châu của Tây bắn ra lúc nãy là từ ở nơi thân mình của bà lão này phát ra.

Cụ bà nghĩ đây chắc là tiên, hay Phật gì giáng hạ nên lật đật quỳ xuống lạy dài. Bà lão khen tốt bảo đứng dậy đoạn kêu bà tới gần và trao cho một hài nhi khoảng chừng 3, 4 tháng mà nói rằng:

- Ngươi hãy nhận lấy và nuôi dưỡng đứa bé này cho ta.
Cụ bà ngần ngại không muốn lãnh vì cụ đã trải qua nhiều lần sanh nở, dưỡng nuôi, sự đau đớn và cực khổ đã làm cho bà ngán ngẩm nên chần chờ, do dự sự quyết định.

Bà lão trợn mắt, ra oai mà bảo:
- Đây là La Hầu La quý tử chẳng phải người thường, bởi ta thấy ngươi là một người hiền đức nên mới trao cho, sao dám từ chối. Hãy nhận lấy mà nuôi dưỡng, sau này sẽ được nhờ nó độ thoát cho về với Phật.

Phần thấy bà lão trợn mắt, ra oai, lớn giọng, phần nghe nói quý tử nên cụ bà cũng ham, đưa tay bồng lấy đứa bé, thấy nó trắng trẻo, dễ thương nên bà cũng vừa ý đẹp lòng. Vừa bồng hài nhi vào tay xong thì bà lão thăng bổng lên cao đi mất, ánh sáng kia cũng theo bà lão mà tắt đi luôn.

Cụ bà giật mình thức dậy thì ra chỉ là một giấc chiêm bao, trong lòng lấy làm lạ lắm, sáng ra cụ mới kể lại cho chồng nghe giấc mộng hồi khuya.

Cụ Ông bảo:
- Chắc có lẽ trời Phật sẽ cho mình sanh con “quý tử” không chừng.

Kể từ đó bà mang thai và điều đặc biệt là kể từ khi cấn thai đứa con này, cụ bà không chịu được mùi thịt cá, nên ăn chay trường. Ở miền quê thì việc chay lạt rất là đạm bạc chớ không cầu kỳ như ở thành phố nên thức ăn chỉ có toàn là rau luộc, tương chao thôi, ấy vậy mà bà vẫn khỏe mạnh, khác hẳn với mấy lúc trước kia đau ốm rề rề.

Trong xã Bình Xuân có một ngôi chùa làng xưa nho nhỏ, không sư trụ trì, chỉ có một ông từ già giữ chùa thắp nhang, tụng kinh, ông có gia đình bên ngoài nên chùa ít khi mở cửa, chỉ trừ vào các ngày 14, rằm, 30, mồng một mới đến chùa tụng niệm mà thôi. Vì thế nên chùa thường bị lâm vào cảnh nhang tàn, khói lạnh.

Cụ bà thấy vậy nên mỗi ngày dành ít thời giờ đến chùa quét dọn, đốt nhang, dộng chuông. Việc này từ trước đến nay cụ chưa bao giờ biết hay phát tâm làm cả, thế mà kể từ khi có mang đứa con này, đối với các việc chùa chiền, công quả cụ bà lại hăng hái và siêng năng hơn bao giờ hết.

Âu cũng là do thiện căn, phúc đức của đứa con mà bà đang mang trong người chiêu cảm ra vậy.

Cụ ông là một bậc thâm Nho, có đọc nhiều sách vở xưa (viết bằng chữ Hán) vì thế nên cụ biết rằng đứa con tương lai của mình chắc sẽ có một cái gì đó đặc biệt hơn các anh chị của nó, cho nên việc mà cụ bà phát tâm làm công quả, đi chùa, lạy Phật, chẳng những cụ ông không ngăn cản chút nào, trái lại cụ còn khuyến khích thêm nữa.

Ngày cụ bà khai hoa, lúc đó vào khoảng rạng đông, bỗng dưng có một cơn mưa nhỏ, hài nhi chào đời nhẹ nhàng chớ không có làm cho cụ đau đớn nhiều như những người con trước.

Cụ ông chiếu theo ngày giờ và vài ba triệu chứng khi sanh ấu nhi ra, tra cứu trong sách toán mệnh học chữ nho xong rồi bảo cụ bà rằng:

- Đứa con này nguyên nó là căn tiên, cốt Phật đầu thai, chớ không phải là con thường như mấy đứa trước đâu. Có điều nó tuổi Ất Sửu mà sanh ra vào buổi rạng đông tức là nhằm lúc con trâu sắp sửa ra đồng cày ruộng, nên lỗi giờ sanh e sau này nó sẽ tha hương khổ cực, nhưng bù lại khi mới sanh có một đám mưa nhỏ, sách nói về sau, khi lớn lên nó không bị nhiễm vào trong đường tình ái, vợ chồng, và nếu như đi tu ắt sẽ được đắc thành chánh quả.

Ví có các sự việc như vậy nên cả hai cụ đều đặc biệt để ý và rất yêu quý đứa con này.

B. THUỞ ẤU THỜI:

Ngài được cha mẹ đặt cho tên là Nguyễn Nhựt Thăng (khác với các anh em được lót chữ văn ở giữa, như người con trai thứ ba thì tên Nguyễn Văn La, thứ năm tên Nguyễn Văn Thông, út tên Nguyễn Văn Thắng) có nghĩa là mỗi ngày càng thêm thăng tiến. (Nhựt là ngày - Thăng là thăng tiến).

Đó là ý của song thân muốn cho Ngài sau này càng ngày càng thêm được thăng hoa, tiến đạt nên mới ban cho đứa con đặc biệt này một cái tên có nhiều ý nghĩa hay ho như vậy.

Mà quả đúng như thế, bé trai này càng ngày (đương nhiên là càng lớn lên) rồi mà tánh tình cũng khác lạ hơn các anh chị em trong nhà nữa. Trong những năm đầu tiên khoảng từ 1 tuổi đến 5 tuổi bé không ưa chạy giỡn, chơi đùa như những đứa trẻ cùng trang lứa khác, mà thường hay ở trong nhà, ra trước bàn thờ đốt nhang, bái xá và theo thân phụ học tập chữ Nho.

(Thời gian của thập niên 1920-1930 này, chữ quốc ngữ chưa được thông dụng như bây giờ nên đa số dân chúng đều học, viết và đọc sách vở, tất cả gần như đều bằng chữ Nho hết. Đến khi vào lớp đầu tiên ở trường làng thầy giáo cũng dạy vỡ lòng cho bằng chữ Nho, và ở vào thời buổi này thì hầu hết bài vở của học sinh nơi các chốn học đường gần như được dạy toàn bằng chữ Hán trích ra từ trong các sách giáo khoa Hán học cả. Vì thế cho nên phần lớn các bậc phụ lão, trưởng bối của thế hệ này còn sót lại đến ngày nay, ít nhiều đều biết đọc và viết chữ Nho hết).

Riêng về cố Hòa thượng thì kể từ khi bắt đầu cắp sách đến trường là đã được dạy chữ Nho một cách cẩn thận và đúng phương pháp từ nơi thân phụ (cũng như ở học đường), vì vậy mà căn bản chữ Hán của ngài rất vững chắc và mau chóng tiến bộ hơn so với các bạn đồng học khác cùng trang lứa.

Ngài rất mực thông minh, lại thêm chăm chỉ và hiếu học cho nên có thể nói là ngài học một mà biết hai và hầu như luôn luôn được điểm hạng đứng đầu lớp trong suốt các thời gian dùi mài kinh sử.

Đến năm lên chín tuổi, thì trình độ chữ Nho văn của ngài đã giỏi, có thể đọc lưu loát được các sách Hán học và viết (chữ Nho) một cách thành thục, thông thạo, tựa như một người đã từng có học, viết qua Hán tự mười mấy năm trường.

Ở miền ruộng rẫy thì đương nhiên là các sách vở giáo khoa bằng chữ Nho không được mấy đầy đủ như chốn thị thành, nhưng cũng may nhờ thân phụ của ngài là một Nho gia, cho nên trong nhà cũng có trữ được vài ba bộ sách Nho học quý giá như là Tứ Thơ, Ngũ Kinh, cùng với năm bảy bộ sách Hán học khác như các bộ truyện Tàu, chuyện xưa, tích cũ của Trung Hoa v.v… chẳng hạn. Nhờ vậy mà sự hiểu biết của ngài rất rộng rãi không kém chi những người có học thức cao ở nơi phố chợ.

Song song với việc học chữ Hán, ngài còn lại phải học thêm chữ Tây và Quốc ngữ, vì thời gian này vẫn còn bị người Pháp cai trị nên việc biết chữ Tây là một điều bắt buộc và cần thiết – còn chữ Quốc ngữ là tiếng mẹ đẻ của mình cho nên phải học nó là lẽ đương nhiên. Vả lại thời gian của những thập niên này thì phong trào học, đọc, viết chữ Quốc ngữ đang được các nhà làm văn hóa Việt Nam phát khởi một cách rầm rộ để chuẩn bị thay thế cho chữ Nho của Tàu và chữ Tây của Pháp vốn đã có một ảnh hưởng sâu rộng từ lâu trong văn hóa nước nhà.

Vào thời kỳ này, khắp nơi gần như ai cũng biết và thuộc lòng các phương thức vận động học chữ quốc như như:

- “Người Việt phải nên học chữ Việt”.
Hoặc là:
- “Tiếng Quốc ngữ, chữ nước ta,
Văn hóa nhà, cần phải học”

vân vân… Do đó nên Ngài vừa giỏi chữ Nho, chữ Quốc ngữ và luôn cả chữ Pháp nữa. Nhưng cũng bởi vì gia đình sống ở miền quê, sách vở về tân học không được mấy đầy đủ, cho nên phần lớn quãng đời thơ ấu và các kiến văn của ngài có khuynh hướng nghiêng về bên phía Nho học nhiều hơn.

Các bộ môn Nho văn của cụ ông trước sau đều đã được ngài đọc và nghiền ngẫm thường xuyên, nằm lòng như cháo, cho nên mặc dù tuổi đời còn nhỏ mà ngài đã sớm ngộ được nhiều điều đạo lý của Khổng giáo rồi và cũng vì vậy mà ngài có cái phong cách của một ông “Đồ nho con” đạo mạo, lễ giáo chớ không giống như các trẻ con cùng trang lứa khác trong làng – và ngay cả đến các anh chị em ruột của ngài trong gia đình nữa.

Tánh hạnh của ngài cũng khác thường, ít ưa nói năng cười đùa hay hài hước, tạp nhạp, quá lố.

Những khi rỗi rảnh thay vì đùa giỡn hay bắn bi, đánh đáo… là các trò chơi ưa thích của trẻ con, nhưng ngài lại thường ở nhà, đem sách Nho ra đọc và giảng giải cho thân mẫu nghe tựa như một ông thầy đồ đứng tuổi đang giảng sách vậy. Cho nên thân mẫu của ngài vừa thương vừa quý trọng ngài hơn các người con khác.

Trong số 13 anh chị em của gia đình gồm 4 trai 9 gái thì ngài thường thân cận và gần gũi với người anh thứ năm (tức là cố thân phụ của ĐĐ. Thích Hải Quang hiện giờ) nhiều nhất. Giữa hai huynh đệ này có một sự cảm thông và gắn bó với nhau một cách đặc biệt hơn các anh chị em khác, nên có thể nói rằng hai người vừa là anh em và cũng vừa là đôi bạn tâm giao thân thiết nữa.

Suốt thời gian thơ ấu khắn khít sống bên nhau, hai anh em đã cùng chia sẻ các kiến thức về văn học và các tâm sự vui buồn, mãi cho đến sau này khi lớn lên trong lứa tuổi trưởng thành rồi mới cùng nhau giã biệt, kẻ theo đường đời, người nương lối đạo, (anh năm của ngài lập gia đình vào năm 1940, còn ngài thì bắt đầu vào chùa khoảng giữa năm 1938).

Và cũng chính nhờ vào cái nhân duyên đặc biệt đó khiến xui (như thế) cho nên một số các kỹ niệm về thuở ấu thời của cố Hòa thượng được người anh thứ năm này ghi lại trong cuốn nhật ký của người mang tên là:

“TÂY LIÊN tùy bút lục”

Mà Bảo Đăng tôi căn cứ vào đây để làm tài liệu tham chiếu chánh khi viết lại các quãng đời thơ ấu của Ngài nơi quyển sách nhỏ này.

Riêng về cá nhân của cố Hòa thượng, chắc có lẽ nhờ thiện căn tu hành trong quá khứ dẫn lối đưa đường, cho nên mặc dù tuổi đời còn nhỏ mà Ngài lại rất ưa thích nghiên cứu về bộ môn đạo học hơn là các bộ môn khác (một cách đặc biệt). Ngoài các bộ sách Nho học của thân phụ ra, Ngài vẫn thường xuyên đến ngôi chùa xưa trong làng để đọc cùng mượn các Kinh sách Phật giáo về xem và so sánh với các tôn giáo khác, như đạo Nho và đạo Lão, vì vậy mà sau này càng ngày càng lớn lên, kiến văn về đạo học của Ngài rất là uyên bác bao gồm luôn cả Nho – Thích – Đạo (tức là Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo (tiên)).

Trong quyển “Tây Liên tùy bút lục” của anh năm của Ngài để lại, có ghi một câu chuyện ngắn rất lạ lùng, phi thường và ký bí như sau:

- Vào năm 1932 tức là năm cố Hòa thượng được bảy tuổi, nhân mục kích sự tử vong (chết) của một người thanh niên chòm xóm, thông thấu cảnh khóc than, sầu khổ của gia đình người chết cùng với các việc khác như là khiêng quan tài ra ngoài đồng chôn cất v.v… Ngài có vẻ suy tư và bồn chồn lo lắng lắm.

Một hôm Ngài hỏi cụ ông rằng:
- Thưa cậu, có phải rồi ai cũng sẽ chết hết chăng? (Ở trong miền Nam, có vài ba địa phương con cái gọi cha bằng cậu, bằng ba hoặc bằng tía – gọi mẹ bằng mợ, bằng má… đó là chuyện thường).

Lấy làm lạ khi thấy con mình mới có bảy, tám tuổi mà biết hỏi chuyện người lớn như vậy, nhưng thân phụ của ngài cũng vẫn đáp:

- Phải, mọi người ai rồi cũng sẽ phải chết hết. Hoặc chết trẻ, chết già, hoặc chết sớm, chết muộn mà thôi. Như thằng sáu Các mà con thấy đám ma đó, nó chết rất trẻ vì mới có 16 tuổi đầu!

Ngài hỏi tiếp:
- Như vậy thì có cách nào làm cho khỏi bị chết hay không?
Thân phụ Ngài đáp:
- Không có cách nào hết, đời vô thường mà, như con với cậu đây có ngày rồi cũng phải chết như những người đi trước mà thôi.

Khi nghe thân phụ trả lời như thế thì ngài làm thinh nhưng mà trên gương mặt của người ấu nhi này đã thấy đượm lên một vẻ buồn lo, suy nghĩ. Đâu có ai biết được trong lòng của cậu bé mới lên 7 tuổi này đang lo nghĩ điều chi?

Từ đó trở đi, gia đình thường thấy Ngài trầm lặng và có vẻ suy tư nhiều hơn dạo trước. Đối với các sinh hoạt thường ngày trong gia đình và giữa các anh chị em với nhau, ngài cũng ít còn hăng hái tham dự vào như những thường nhật đã qua.

Vào một ngày khác, Ngài cũng đem câu hỏi trên mà hỏi nơi thân mẫu của mình.

Cụ bà đáp rằng:
- Xưa nay đâu có người nào khỏi chết bao giờ!
Ngài hỏi:
- Vậy thì làm sao mà được khỏi chết?
Cũng như cụ ông, cụ bà rất lấy làm lạ lùng trước câu hỏi có vẻ người lớn của con mình. Tuy nhiên cụ bà cũng vẫn đáp rằng:

Má đâu có biết được, nếu như mầy muốn khỏi chết thì mầy nên NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT thì may mới khỏi mà thôi.

(Đây là cụ bà trả lời chiếu lệ, lấy có để qua vấn đề cho rồi, chớ cụ đâu có bao giờ ngờ rằng câu trả lời của cụ sẽ trở thành bất tử (nơi quyển sách này) trong tương lai, và hiện tại là gieo vào nơi tâm thức của con mình một sự phấn khởi, hy vọng, cùng với một niềm tin tưởng vững chắc hơn về phương cách giải quyết việc sanh tử trong suốt cả cuộc đời của nó).

Ngài nghe thân mẫu mình dạy như thế thời mừng vui lắm, bởi vì từ bây giờ trở đi, Ngài đã biết làm cách nào để khỏi bị chết rồi. Cho nên bắt đầu từ dạo đó, mỗi ngày khi đi đâu, làm gì và chí đến những lúc đi, đứng, nằm, ngồi, người ấu nhi 7 tuổi mà đã có một đức TIN kiên quyết này lúc nào cũng lâm râm trì niệm câu:

“NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT, cho con khỏi chết”.
Cậu bé cứ niệm mãi và niệm mãi … như thế với lòng tin tưởng tuyệt đối là mình sẽ không bao giờ bị chết như những người khác hết!

Và cứ như thế, thời gian tuần tự trôi qua … cho đến hai năm sau, lúc đó ngài đã được 9 tuổi, thì có một điều phi thường, lạ lùng xuất hiện:

Sự việc ấy như sau:
Trong một đêm khuya vắng nọ, lúc đó cả nhà đều yên giấc hết, chỉ có một mình cậu bé Nguyễn Nhựt Thăng mới lên 9 tuổi này là còn đang thao thức. Và như thường lệ mỗi đêm của suốt hai năm qua, cậu nằm im trên bộ ván gõ kê gần cửa sổ ở bên hông nhà trên – (gọi là nhà trên vì còn có nhà dưới nữa, thông thường ở miền quê trong Nam thì người ta dùng nhà trên làm phòng ngủ, phòng khách – nhà dưới thì làm nhà chứa lúa, nhà bếp, nhà ăn v.v…) – miệng lâm râm đọc câu:

“NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT, cho con khỏi chết”.
“NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT, cho con khỏi chết”.
Trước khi thiếp đi vào trong giấc ngủ êm ấm của mỗi đêm dài. Bỗng nhiên cậu thấy ngoài sân, qua khung cửa sổ phát ra ánh sáng chói lòa, rực rỡ như ban ngày.

Lấy làm lạ, Nhựt Thăng đồng tử vội lồm cồm ngồi dậy và đi đến bên cửa sổ đứng nhìn ra tìm duyên cớ, thì cậu thấy bên ngoài, giữa không trung từ phía trên trời, có bốn người cao lớn, dung mạo hơi khác thường, chung quanh mình họ có ánh sáng phát ra như trái châu lửa.

Bốn người này khiêng bốn góc của một cái kiệu xưa rất đẹp đang từ từ giáng hạ xuống phía trước sân nhà. Ánh sáng chói lòa, rực rỡ mà cậu thấy ban nãy chính là ánh sáng từ nơi thân của bốn người này phát ra vậy.

Trong khi cậu còn đang ngạc nhiên, sửng sốt và ngây người ra nhìn thì thấy bốn vị này để cái kiệu ở ngoài sân, bay xuyên qua cửa sổ đáp xuống bên cậu làm cho cậu giựt mình, thối lui ra sau, trong lòng có ý lo sợ, thì một vị nói:

- Nhỏ kia, chớ có sợ. Chúng ta là người ở trên trời, hôm nay vì ngươi mà xuống đây. Bởi vì đã hai năm qua rồi, ngày nào ngươi cũng NIỆM TRỜI cầu cho khỏi chết, nên cảm động đến bề trên sai chúng ta xuống đây rước ngươi về trời để cho ngươi được trường sanh bất lão.

Vậy xin hãy yên tâm và theo chúng ta lên kiệu mà đi cho kịp thời giờ.

Ngài nghe nói vậy thì trong lòng mừng lắm, liền bước chân theo bốn vị “thiên nhơn” kia ra sân.

Lúc bốn vị ấy đưa tay ra định tiếp Ngài lên kiệu, bỗng nhiên Ngài sực nhớ lại là mình chưa chào giã biệt cha mẹ và anh năm, nên Ngài mới nói cùng với bốn vị “thiên nhơn” kia rằng:

- Khoan đã, hãy chờ một chút vì tôi còn phải vào nhà tự biệt phụ mẫu cùng với huynh trưởng rồi mới đi theo quý vị lên trời được.

(Vì huynh trưởng là người anh thứ ba lúc đó đi theo kháng chiến xa nhà, nên người anh thứ năm lên làm quyền anh cả).

Nói xong ngài quay người lại định bước vào nhà từ giã cha mẹ, bỗng nhiên nghe bên tai có mấy tiếng chuông “boong boong” ngân lên tất thanh kèm theo mấy câu “NIỆM PHẬT – NIỆM PHẬT”, âm hưởng của giọng niệm Phật này cực kỳ thanh tao và êm dịu làm cho trong tâm Ngài cảm thấy tự nhiên dâng lên một sự ấm áp và khỏe khoắn lạ thường.

Vì bình nhật ngài chuyên trì một câu niệm, mà trong đó có 2 chữ NIỆM PHẬT đã nhập tâm rồi, nên bây giờ khi nghe tiếng NIỆM PHẬT tuyệt vời kia khiến cho lòng Ngài bỗng dưng cảm động, vội vàng cất tiếng niệm Phật hòa theo và quay đầu ngó khắp các nơi tìm kiếm. Thì ngài thấy từ nơi hướng mặt trời lặn (phương Tây) phía trên không trung có một vị đại tăng vóc người cao lớn, mình mặc áo vàng, tay cầm chuỗi hột, dung mạo và thần thái cực kỳ thanh nhã, đang nhìn ngài mỉm cười và từ từ giáng hạ xuống đất, chung quanh mình của vị đại sư này, có một thứ ánh sáng màu vàng tỏa ra vô cùng tươi đẹp.

Lúc ấy Ngài bỗng cảm thấy thân tâm mình được cực kỳ an lạc, một sự an lạc phi thường, tuyệt diệu không sao tả xiết. Thoạt tiên, khi mới nhìn thấy vị đại sư đó, ngài có cảm tưởng là hình như mình đã được gặp một vài lần ở đâu rồi và Ngài sực nhớ ra liền là mấy lúc trước đây khi theo thân mẫu đến chùa lạy Phật, thì ông Phật trên bàn thờ mà mình cùng với mẹ quỳ lạy đó chính là vị đại sư này chớ không phải ai khác hết.

Ngài mừng lắm, liền bỏ bốn vị “thiên nhơn” kia, chạy đến bên “PHẬT HÒA THƯỢNG” quỳ lạy và ôm lấy chân Ngài.

PHẬT Hòa Thượng lấy tay vuốt đầu ngài và cất giọng thanh tao nói rằng:

- Này con, nay con nên niệm PHẬT, đừng nên niệm TRỜI nữa vì NIỆM PHẬT mới sống hoài, chớ NIỆM TRỜI thì còn có ngày phải chết.

Ngài nghe Phật Hòa Thượng bảo vậy, liền cất to giọng xướng câu: NIỆM PHẬT – NIỆM PHẬT – NIỆM PHẬT.

Phật hòa thượng lấy tay bồng ngài lên, nhìn vào mặt ngài và tươi cười nói:

- Con rất ngoan ngoãn, biết nghe theo lời dạy của ta.
Đoạn đặt ngài xuống, kế đó hòa thượng lấy trong mình của NGÀI ra một con dấu (ấn) màu vàng chói rực, vuông góc bốn cạnh, in lên trán ngài một ẤN rồi nói:

- Nay ta đóng cái “PHẬT ẤN” này lên trán của con để làm tín chứng và thâu nhận con vào làm con ruột của ta. Với cái dấu ấn này đây, ngay sau khi con về nhà ta sẽ không có một ai dám ngăn cản cả.

Vậy con hãy luôn nhớ câu “NIỆM PHẬT, NIỆM PHẬT, NIỆM PHẬT” đừng quên. Ta chờ con đó.

Nói xong PHẬT Hòa Thượng dùng tay xoa đầu ngài niệm một lần nữa, kế đến nghe có tiếng chuông rất thanh ngân lên và NGÀI từ từ thăng lên không hướng về phía trời Tây bay mất.

Ngài cúi mọp đầu xuống đất, quỳ lạy tiễn đưa.
Trong khi ngài còn đang bàng hoàng nuối tiếc, đứng ngẩn người ra nhìn theo hướng bay của PHẬT Hòa Thượng, chợt nghe có tiếng nói xì xào vang lên ở phía sau mình nên vội vã quay người ngó lại, thì thấy bốn vị “thiên nhơn” kia đứng ở đàng xa, đang dụm đầu vào nhau bàn tán, một lát sau cả bốn người chạy đến và ngó vào mặt ngài một cách chăm chú.

Có một vị “thiên nhơn” nói rằng:
- Nay trên trán của đồng tử này đã có dấu “PHẬT ẤN” đóng vào rồi thì nó là con của PHẬT, chúng ta làm sao dám mang nó đi. Vậy phải trở về trình lại.

Đoạn bốn “thiên nhơn” ấy quay mình trở lại khiên cái kiệu trống không, bay bổng lên cao đi mất!

Nhựt Thăng đồng tử đứng ngơ ngẩn một hồi rồi đi trở vào nhà, kế đó giựt mình tỉnh giấc, trong lòng lấy làm lạ lắm. Sau này khi kể lại cho người anh thứ năm nghe câu chuyện này, ngài vẫn còn nhớ rõ từng chi tiết và thắc mắc hoài một việc, Ấy là:

Rõ ràng khi sự việc xảy ra như vậy, lúc đó mình còn thức chớ đâu có ngủ, thế mà khi đi trở vào nhà lại thấy mình vừa ngủ dậy nghĩa là sao?

(Đến đây Bảo Đăng tôi xin mạn phép dừng bút lại đôi chút để chú giải và làm minh (sáng) cái ý nghĩa của sự việc phi thường này ngõ hầu cho quý đọc giả hiểu thêm mà phát tâm trân trọng:

Sách có câu:
Hữu cầu tất ứng
Và trong Kinh cũng có dạy rằng:

Cảm ứng đạo giao nan tư nghì.
(Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn).
mà chúng ta vẫn thường tụng niệm mỗi khi vào trong khóa lễ hằng ngày chính là đây, là trường hợp này vậy.

Như cố Hòa thượng của chúng ta khi còn thơ ấu – Mà đã thơ ấu như thế tức là còn mang tâm đồng tử. “Tâm đồng tử” này Kinh còn gọi một tên khác nữa là “Tâm vô phân biệt” chỉ có ở nơi Phật, Bồ tát cùng các vị thánh nhơn giải thoát mà thôi.

Gọi là “Tâm vô phân biệt” là vì trong tâm ấy tuyệt nhiên không có các niệm trần: ghét, thương, phải quấy cho chí đến thiện, ác … cả. Tâm ấy vắng lặng đồng như hư không.

Chúng ta thấy trong Kinh có các vị đồng tử chẳng hạn như là Thiện Tài đồng tử, Văn Thù Sư Lợi đồng tử v.v… mà Phật vẫn thường nhắc đến, là người học Phật, chúng ta phải hiểu rằng hai vị đồng tử Thiện Tài và Văn Thù đây không phải là hai đứa con nít đâu, mà chính là hai vị đại Bồ tát ở trong “Cảnh giới bất tư nghì giải thoát”, sở chứng của hai người đồng như chư Phật, duy chỉ thiếu có một điều là chưa thành bậc đại giác (Phật) mà thôi.

Sở dĩ gọi danh xưng là đồng tử cho hai Ngài là vì tâm của hai Ngài đã hoàn toàn dứt hết các vọng niệm phân biệt của chúng sanh và trở nên thuần chơn, trong sạch, tinh anh như tờ giấy trắng – lại giống như tâm của đứa con nít mới sanh ra chẳng vướng chút niệm trần.

Và vì thế nên được gọi là “đồng tử”. Tất cả các đại Bồ tát khác ở mười phương cúng đều được Phật gọi là đồng tử, vì quý NGÀI đã tu chứng được cái tâm “vô phân biệt” này hết rồi.

Trở lại và tiếp tục câu chuyện trên – Ta nhận xét thế nào và thấy gì qua sự việc này?

Ta nhận xét và thấy rằng:

1. Bởi vì lúc đó cố Hòa thượng còn gọi là một “đồng nhi” mới lên 8, 9 tuổi nên tâm của ngài rất là “đồng tử”, rất là CHƠN thật, lại thêm sanh ra và lớn lên nơi chốn rẫy bái, vườn ruộng quê mùa, nơi mà đa số dân chúng đều có tâm chơn thật (hơn người ở chốn thị thành).

2. Cả gia đình ngài cũng đều quê mùa – chơn thật.

3. Môi trường sống chung quanh ngài (các anh chị em trong gia đình) cũng đều chơn thật.

Ba, bốn cái “chơn thật” đó đã sớm hun đúc và nhào luyện con người đồng tử này khiến cho tâm Ngài trở nên thuần CHƠN, đạo đức và có nhiều niệm TIN TƯỞNG nơi đấng PHẬT trời.

Nghe mẹ dạy hễ “NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT” thì khỏi chết, nên cái tâm đồng tử, chơn thật của Ngài khiến Ngài liền tín nhận không một chút nghi ngờ, liên tiếp suốt hai năm dài, Ngài chấp trì danh hiệu ấy không xao lãng, và như thế mà vô tình ngài đã hành đúng theo lời Phật dạy về chữ ĐỨC TIN và chữ CHẤP TRÌ.

Kinh “Hoa Nghiêm” dạy:

“... lòng TIN là bước đầu vào đạo... là mẹ của tất cả công đức... lòng TIN hay nuôi lớn căn lành... lòng TIN hay thành tựu quả Bồ đề của PHẬT.

Cho nên cổ đức nương theo ý đó, dạy rằng:

Niềm tin là bước đạo sơ nguyên...
(Liên Du)
Và cũng bởi vì TIN cũng chấp trì danh hiệu “NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT” như thế suốt nhiều ngày, tháng, năm, không xen tạp, do đó mà phát sanh ra một sự “Cảm ứng”.

Chúng ta thấy sự cảm ứng của ấu nhi Nguyễn Nhựt Thăng này được chia làm hai phần:

a). Cảm ứng đến TRỜI (Thiên cảm ứng) vì trong câu niệm có hai chữ ”NIỆM TRỜI”.

b). Cảm ứng đến PHẬT (Phật cảm ứng) vì trong câu niệm có hai chữ ”NIỆM PHẬT”.

Do vì sự cảm ứng này đã đến thời điểm “chín mùi” rồi, cho nên đồng một lúc cả hai TRỜI – PHẬT đều hiện thân xuống chứng.

Trời thì cho rước về Trời để sống hoài nhưng (vì có học giáo lý cho nên ta biết rằng) cõi trời cũng vẫn còn nằm trong vòng sanh tử, chớ đâu có được trường tồn, bất diệt. Vì thế cho nên PHẬT mới hiện đến để minh chánh lại cho đồng tử Nguyễn Nhựt Thăng khỏi bị gạt lầm giữa hai cái “Bất lão” và “Bất tử”. Bởi vì thiên dân ở cỏi trời chỉ được bất lão (không già) thì có, chớ bất tử (không chết) thì không có.

Mà cái chủ đích, cái tác ý của Nhựt Thăng đồng tử là làm sao cho được “Bất tử” kìa chớ không phải là “Bất lão”. Vì thế nên PHẬT mới khai thị cho đồng tử rằng:

- “Này con, nay con nên niệm PHẬT đừng nên niệm TRỜI nữa, vì niệm PHẬT mới sống hoài, chớ niệm TRỜI thì còn có ngày phải chết”.

Cũng bởi do cái tác nhân [Túc nhân: là cái nhân mình gây tạo ra trong quá khứ, đại khái thì có 2 loại túc nhân: Một là túc nhân thiện, hai là túc nhân ác – lại có thêm 2 loại túc nhân khác, một là túc nhân có tu (đạo) – hai là túc nhân không tu (đời)] sâu đây dẫn dắt, khiến xui nên sau khi nghe xong lời dạy kia, ngài niệm PHẬT liền không đắn đo, do dự vì vậy mà được Phật thọ ký vãng sanh ngay lập tức, tiêu biểu cho việc thọ ký này là đóng con dấu “PHẬT ẤN” vào trán.

Sở dĩ ngài được thọ ký vãng sanh lẹ làng như thế là nhờ vô tình mà ngài hội đủ được bốn điều kiện sau đây:

1). Bỏ ngay bốn “thiên nhơn” không một chúc nuối tiếc và chạy liền về phía PHẬT – đây là tượng trưng cho hạnh “tốc xả tam giới”. [Tốc xả tam giới: Tức tốc rời bỏ 3 cõi là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Theo pháp môn Tịnh Độ, thì khi lâm chung chỉ cần giữ được chánh niệm (tức là khi gần chết chỉ cần nhớ niệm được chừng 10 câu Phật hiệu rồi tắt hơi, kẻ ấy sẽ nương theo nguyện lực của đức A DI ĐÀ Thế tôn siêu ra khỏi tam giới, và lập tức vãng sanh về Cực lạc Tịnh độ.]

2). Ôm lấy chân Phật – đây là tượng trưng cho hạnh “nhứt tâm quy mạng”. [Nhất tâm quy mạng: là một lòng nương về (nơi Phật) chớ không nương theo ai khác, dù kẻ đó là Trời, rồng, thần tiên, đi nữa cũng nhứt định chối từ]

3). Niệm Phật liên tục ba câu: đây là tượng trưng cho hạnh niệm Phật trọn vẹn cả ba thời: Ban đầu, giữa và rốt sau.

(Niệm Phật tam thời túc) [Niệm phật có đầu, có giữa, có cuối, nghĩa là từ khi phát tâm nguyện niệm Phật cho đến khi chết vẫn giữ y như vậy không thay đổi. Nếu trái nguyện thì gọi là “bất túc” thí dụ như ban đầu có niệm, vài ba năm sau thì không còn niệm nữa, v.v... Các trường hợp này đều không đủ tam thời và bất túc.]

4). Được tâm vô phân biệt của đồng tử – tức là tượng trưng cho nhứt tâm hạnh.

Đây rõ ràng là bốn cái yếu tố chánh để được vãng sanh về cõi Cực lạc thế giới của đức A DI ĐÀ Thế tôn trong Tịnh Độ pháp môn. Mà sau này khi lớn lên, xuất gia và trở thành một bậc đại tăng danh đức rồi, Ngài chuyên ròng tu hạnh niệm Phật và hoằng dương pháp môn Tịnh Độ, nổi danh là một Việt Nam Tịnh Độ tôn sư lừng lẫy nhứt của thế hệ đương thời.

Còn về việc “thắc mắc” của Ngài trong lúc nhỏ tức là:

- “Không hiểu tại sao rõ ràng THỨC chớ đâu có NGỦ thế mà khi đi trở vào nhà lại thấy mình vừa mới NGỦ DẬY”?

Và đây cũng chính là cái thắc mắc của tôi khi tôi đọc quyển “Tây Liên tùy bút lục” đến đoạn này.

Tôi có hỏi Đại Đức bổn sư Thích Hải Quang để nhờ thầy minh nghĩa rằng:

- Bạch thầy sao vậy?

Thầy giải đáp như sau:

- Thật ra, việc ấy cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Sở dĩ có chuyện như vậy là vì mình không thể nào dùng cái nhục thân tứ đại bất tịnh này để gặp và thấy chư Thiên, chư Phật được. Bởi thân tứ đại của ta là thân “Thô phù” [Thô phù: to lớn nặng nề (vì chứa đầy tứ đại và nghiệp nhân phiền não)] còn thân của quý NGÀI là thân “thạnh tịnh” và “cực vi tế” [Cực vi tế: là vô cùng nhỏ nhiệm gần như là vô hình, vô ảnh vậy. Mắt thường không thể nào thấy được mà phải dùng thiên nhãn mới trông rõ mà thôi. Trong Niết Bàn kinh nói: “Lúc ấy trong hư không, một khoảng trống nhỏ bằng đầu mũi kim cũng dung chứa vô lượng thiên chúng.”. Như vậy cũng đủ thấy cái “Cực vi tế” ấy như thế nào rồi.]. Muốn thấy thân thanh tịnh và cực vi tế ấy thì không thể dùng nhục nhãn (là con mắt thịt của mình) để thấy mà phải dùng “thức nhãn”(tức là con mắt của pháp thân) mới thấy được mà thôi.

Khi đồng tử Nguyễn Nhựt Thăng “LỒM CỒM NGỒI DẬY VÀ ĐI ĐẾN BÊN CỬA SỔ ĐỂ NHÌN” thì chính ngay lúc đó là lúc mà cái THỨC (tức là cái hồn) của Ngài ngồi dậy và bước đi ra khỏi thân tứ đại chớ không phải cái xác của Ngài đi đâu, thân xác của Ngài thì vẫn còn nằm ngủ mê ở trên bộ ván, hay nói cho dễ hiểu là:

“Xác thân nằm đó, hồn đi chơi rồi”
Việc này cũng như chiêm bao vậy. Có hai loại chiêm bao chánh là: mộng và mị.

- Sao gọi là “mộng” và sao gọi là “mị”?

- Mộng đây tức là “Mộng thực” do nơi tâm tịnh và thức nhãn mà thấy được các việc sẽ xảy ra trong tương lai. Khi thức dậy thì nhớ biết rõ ràng từng chi tiết không lầm lộn. Như chiêm bao thấy khóc thì lúc thức dậy vẫn còn thổn thức và nước mắt chứa chan, thấy bị rượt chạy thì khi thức dậy vẫn còn bị mệt mỏi và chân tay bải hoải, rã rời v.v...

- Mị đây tức là giả dối, do nơi mơ tưởng thái quá mà thành, đây gọi là “A lại da biến tướng” tức là nó duyên theo tâm tưởng mà hiện ra chớ không có thật, khi thức dậy thì quên hết hoặc có nhớ thì đầu đuôi lộn xộn, chút sau thì liền quên bẵng đi ngay.

Như trường hợp của cố Hòa thượng đây thì được gọi là mộng và cũng tương tự như phép xuất hồn ở bên đạo tiên vậy. Tối lại thì họ nằm xuống ngủ, mũi ngáy khò khò, mà hồn đã xuất ra đi dạo chơi nơi Bồng lai tiên cảnh rồi, sáng mới trở về nhập lại vào thân, thức dậy như thường.

Tôi hỏi:
- Bạch thầy cố Hòa thượng lúc đó mới có 9 tuổi mà làm sao Ngài có được khả năng xuất hồn như vậy?

Đại Đức bổn sư đáp:

- Đương nhiên là Ngài không có khả năng ấy đâu. Nhưng sở dĩ hồn (thức) của Ngài xuất ra được như vậy là nhờ nơi thần lực của bốn vị thiên nhơn kia muốn rước (hồn) Ngài đi mà thôi và nếu như trường hợp này mà suôn sẻ, tức là không nhờ Phật hiện thân ra ngăn cản, thì thần thức của Ngài sẽ lên kiệu về “Chầu trời” ngay trong đêm đó rồi còn sống đâu mà tu hành và làm đại lão Hoà thượng thọ đến 68 tuổi sau này được.

***
Kể từ khi cố Hòa thượng chiêm bao thấy các sự việc như thế và được đóng “Phật ấn” vào trán rồi thì mấy hôm sau ngay chính giữa trán của Ngài nổi lên một “cục thịt u” lớn như đồng xu ai nấy cũng đều trông thấy (mấy tháng sau mới lặn mất).

Phụ mẫu của Ngài cùng với các huynh đệ trong gia đình và các người quen biết chung quanh thấy lạ nên hỏi duyên cớ, Ngài chỉ nói rằng vì sơ ý đụng vào cột nhà nên bị u đầu mà thôi.

- Từ đó trở đi, tự nhiên Ngài phát trí huệ một cách lạ lùng mới có 9, 10 tuổi đầu mà Ngài đã có thể đọc và hiểu chữ Nho một cách rõ ràng như một người đã từng học Hán văn mười mấy năm dài. Các bộ sách Nho văn của thân phụ như là: Tứ thơ, ngũ kinh, v.v... Ngài đều thông thuộc hết, chẳng những thế mà ngài còn hiểu được tường tận nghĩa lý của nó như một nhà Nho chánh hiệu (Nho giả) không khác.

Những khi rỗi rảnh Ngài thường ưa đem sách Nho ra đọc và giảng giải cho thân mẫu của Ngài nghe một cách mạch lạc và có phương pháp rõ ràng khiến cho phụ mẫu của Ngài cũng phải sửng sờ kinh ngạc. Vì thế cho nên trong số các con của gia đình thì Ngài là người được phụ mẫu thương, quý nhiều nhất.

Một ngày nọ, bỗng nhiên Ngài hỏi anh của Ngài rằng:
- Anh năm còn nhớ giấc chiêm bao mà tôi kể cho anh nghe lúc trước chăng?

Anh năm của Ngài đáp:
- Có, tôi còn nhớ rõ lắm, với lại nữa những gì mà chú kể tôi nghe, tôi đều vào trong quyển vở riêng của tôi để sau này làm kỷ niệm.

Ngài cười nói:
- Vậy cũng tốt, nay tôi có bài thơ này trao cho anh để anh giữ luôn cho trọn bộ.

Trong lúc anh năm của Ngài còn đang ngạc nhiên không hiểu thơ gì sao mà đứa em nhỏ của mình lại biết làm thơ? Thì Ngài trao cho anh tờ giấy tập, trong đó ghi một bài thơ (tuyệt diệu bất hủ) như sau:

Niệm PHẬT niệm TRỜI công đức huân
Mẫu từ lời dạy trẻ liền tuân
Mưa nắng hai mùa chuyên gắng niệm
Tứ thánh, kiệu vàng giáng hạ “KHUÂN”
Thương trẻ bị lầm, chơn PHẬT hiện
Ấn vàng in trán khiến “Đình KHUÂN”
Từ nay thôi niệm trời con nhé,
Niệm PHẬT sống hoài bất biến xuân
Nhựt Thăng
(Những ngày thơ ấu)
Rõ ràng đây là một bài thơ Đường luật, thất ngôn bát cú rất khó làm, chưa chắc gì thân phụ của Ngài là một nhà nho (hoặc là chính chúng ta đi nữa) mà có thể sáng tác được, huống chi là một đứa trẻ mới có 9, 10 tuổi đầu!

Vả lại, từ khi Ngài chào đời và lớn lên chừng tuổi này, trước sau vẫn ở nơi quê mùa, ruộng rẫy, chưa từng lên chốn thị thành hay gặp một cao nhơn nào khác ngoài phụ mẫu, và ông giáo học trường làng ra, vậy thì làm thế nào, và làm sao mà Ngài lại có thể sáng tác được một bài thơ tuyệt vời, đúng niệm luật như vậy được?

Qua bài thơ trên ta thấy chỉ nội trong vòng 8 câu thi thôi mà Ngài tóm lược hết tất cả giấc mộng và việc hành trì của Ngài suốt hơn hai năm về trước. Nếu không phải là Phật đã ban cho Ngài cái trí huệ khác thường, thì không có cách chi mà một đồng nhi mới 9, 10 tuổi đầu lại có thể hạ bút thành thi, và đó là một bài thơ rất có giá trị về đạo học, nhất là riêng cho pháp môn Tịnh Độ (mà Ngài hoằng dương sau này).

Riêng cá nhân tôi khi xem quyển “Tây liên tùy bút lục” và đọc đến bài thơ này, tôi cảm phục Cố Hòa thượng vô cùng. Tôi hồi tưởng lại thuở Ngài còn ấu thơ mà đầy đủ tài đức như vậy... và bây giờ thì:

Nước trời đà cách biệt từ dung,
Mộ biếc chỉ hắt hiu thu thảo.
Khiến cho lòng tôi đau xót, ngậm ngùi, nuối tiếc một bậc tôn sư đạo hạnh đã vĩnh viễn ra đi.

Ôi thôi!
Từ đó trở đi không gặp lại,
Trời Tây ẩn dạng bóng thần long.
Và mặc dầu ý của bài thơ trên đã rõ ràng như thế, như Bảo Đăng tôi vẫn còn e rằng các đọc giả trẻ tuổi, theo tân học không rõ thấu hết nghĩa chăng? Nếu như vậy thì luống phụ công ơn của Sư Ông đã có lời nhắn gởi qua “thơ ý” cho lớp người mai hậu sau khi ngài viên tịch là phải nên nhớ niệm Phật và niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh.

Để bảo đảm được “chắc ý” hơn, tôi xin lược giảng ý nghĩa của bài thơ này cho dễ hiểu như sau:

Câu thứ nhất:
Niệm Phật, niệm trời công đức huân,
(Là ý, nói khi ta niệm Phật niệm trời (tức là niệm Thiên) là ta đã huân tập (chất chứa) đầy đủ công đức rồi).
Câu thứ hai:
Mẫu từ lời dạy trẻ liền tuân.
(Là ý nói lời của mẹ hiền đã dạy như thế thì con trẻ tuân theo liền không đắn đo gì hết).
Câu thứ ba:
Mưa nắng hai mùa chuyên gắng niệm,
(Là ý nói hai năm – một năm có 1 mùa mưa và 1 mùa nắng – chuyên cần và gắng sức niệm như lời mẹ dạy).
Câu thứ tư:
Tứ thánh, kiệu vàng giáng hạ KHUÂN.
(Lá ý nói bốn ông thánh ở trên trời khiêng cái kiệu vàng xuống KHUÂN (mang vác) ngài lên trời).
Câu thứ năm:
Thương trẻ bị lầm chơn Phật hiện.
(Là ý nói Phật động lòng từ bi khi thấy con trẻ bị lầm cầu về cõi trời là nơi vẫn còn nằm trong vòng sanh tử nên hiện thân ra chỉ dẫn lại cho đúng).
Câu thứ sáu:
Ấn vàng in trán khiến “Đình khuân”
(Là ý nói Phật lấy cái ấn vàng “Tam bảo ấn” in lên trán để làm dấu đây là con của Phật, khiến 4 ông thánh kia phải đình chỉ lại việc khuân ngài về chầu trời).
Câu thứ 7 và thứ 8:
Từ nay thôi niệm Trời con nhé,
Niệm Phật sống hoài bất biến xuân
(Là ý nói nếu như muốn sống mãi trong mùa xuân bất biến nơi cõi Cực lạc Tịnh độ thì từ nay trở đi nên niệm Phật (A DI ĐÀ) chớ đừng có niệm TRỜI. Vì cõi trời vẫn còn có biến đổi và hoại diệt).
Đây quả thật là một bài thơ của ngài khuyên các hàng thiện, tín đời sau phải nên phát tâm niệm Phật cầu sanh Cực lạc chớ không phải là một bài thơ theo lối thông thường. Theo ý tôi nghĩ thì lúc Ngài làm bài thơ này và mang đến trao cho anh năm của ngài lưu giữ cả điềm mộng lẫn bài thơ (Trong quyển Tây liên tùy bút lục) chắc là có Phật, Bồ tát gì đó tá trợ, khiến cho Ngài làm nên việc này để lưu hậu chăng?

Sở dĩ Bảo Đăng tôi nghĩ như thế là vì sau khi đọc kỹ lại những lời Ngài hỏi và nói với anh của Ngài, tôi nhận thấy trong đó có tàng ẩn cái phong cách của một người trưởng thượng, nhất là qua câu:

- “Vậy cũng tốt, nay tôi có bài thơ này trao anh để anh giữ luôn cho trọn bộ”.

Chắc có lẽ quý vị đồng ý với tôi về điểm này?
Hơn nữa, khoảng giữa bút lục cũng có một vài dòng ghi về Ngài như sau:

“Mấy lúc sau này mình thấy chú Thăng nó có vẻ gì hơi khác lúc trước, đi đứng và nói chuyện giống như một “ông sư con chưa cạo đầu” không bằng.

Và ở đoạn khác có câu:
“Làm cho mình không dám coi thường chú nó nữa”.
Mà quả thật vậy, một đồng nhi mới có 9, 10 tuổi đầu mà đã có thể sáng tác được một bài thơ Đường đầy đủ ý nghĩa như thế thì gọi là một “Ông sư con”và “không dám coi thường”cũng không có chi là quá đáng.

Riêng về phần Ngài, mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng sự thông minh và hiểu biết của Ngài không phải nhỏ. Mỗi lần ngồi trên ghế uống trà, nghe Ngài đọc sách và giảng giải nghĩa lý cho cụ bà nghe, cụ ông cũng phải lắc đầu khâm phục.

Cụ ông vẫn thường nói với cụ bà rằng:
- Trong một đám con của mình thì thằng Thăng nó cũng tựa như là long phụng...

Còn cụ bà thì nhắc:
- Tôi nhớ trước kia trong chiêm bao, khi trao nó cho tôi bà tiên có nói rằng: đây là La hầu La quý tử... Vậy La Hầu La là ai vậy?

Cụ ông giải thích:
- La Hầu La là con của Phật lúc ngài còn làm Thái tử ở vương cung. Sau này khi Thái tử xuất gia và tu thành Phật rồi thì ngài về độ La Hầu La theo Ngài đi tu luôn.

Cụ bà nghe nói như vậy thì trong lòng lấy làm lo lắm, bởi vì bà sợ rằng một ngày nào đó, đứa con của bà yêu quý nhất sẽ bỏ nhà đi tu.

Bà đem ý đó bày tỏ cùng chồng.
Cụ ông an ủi:
- Nó có phần nó. Bà đừng lo nghĩ nhiều mà thêm bệnh. (Bởi vì bà cụ sanh sản nhiều lần – 13 đứa con, nên sức khỏe yếu kém, đau bệnh dây dưa không dứt, chính vì việc này mà cố Hòa thượng phải đi học đông y để trị bệnh cho mẹ. Đó là việc sau).

Về tư cách cá nhân của Ngài, tuy là còn thơ ấu, nhưng tánh siêng năng, hiếu học, giỏi dắn và thông minh của ngài đã khiến cho mọi người trong xóm đều trầm trồ khen ngợi và thường đem Ngài ra làm gương để rầy la, dạy dỗ con cháu của mình.

Chẳng hạn như là: Mầy hư quá biết không? Bộ mầy không thấy thằng Mười Thăng con của Bà sáu Hương sao, người ta bằng tuổi mầy thôi mà giỏi như vậy, còn mầy thì...

Hoặc là: Mầy đã dốt đặc rồi mà còn thêm làm biếng học nữa, sao không noi theo gương của thằng Mười Thăng con Bác sáu Hương mà (bắt chước chớ) không lo học hành thì sau này chỉ còn có nước là đi chăn trâu mà thôi con ạ....

(Đến đây tôi chợt nhớ đến bài hát “em bé quê”của nhạc sĩ Phạm Duy tự nhiên tôi mĩm cười, tôi nghĩ rằng bà cụ nào mà la rầy con “chỉ có nước đi chăn trâu thôi”... là vì bà chưa nghe bài hát này có câu rằng:

Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chớ... Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau mà miệng hát nghêu ngao...

Cho nên đối với con nít thuộc loại làm biếng học mà mình hăm he nó đi chăn trâu nó đâu có sợ, bởi vì nó nghĩ rằng đi chăn trâu sướng hơn đi học nhiều như là khỏi bị học bài, khỏi bị thầy giáo khẻ tay khi không thuộc bài … v.v...)

Trong những chuỗi ngày thơ ấu của cố Hòa thượng, ngoại trừ những sinh hoạt bình nhật cá nhân và đại gia đình ra, thỉnh thoảng nếu như có ai là người tinh tế và để ý một chút ắt sẽ thấy ở nơi con người của Ngài – nhất là về phần tánh tình – có rất nhiều nét đặc biệt khác thường mà một đứa trẻ ở vào tuổi ngang bằnghoặc lớn hơn (như các anh chị của ngài) không sao có được.

- Chằng hạn như về sự an nhiên và điềm đạm của Ngài thì lúc nào cũng êm đềm và phẳng lặng như mặt nước hồ thu, sự thông minh và hiểu rộng (về sách vở) của Ngài thì cả làng, xã không ai dám sánh, đặc biệt nhất là TÂM ĐẠO của Ngài thì chẳng những các anh chị em trong gia đình thôi, mà cho chí đến bậc phụ mẫu của Ngài cùng với những người lối xóm, chung quanh cũng không có một ai theo kịp.

Người không học đạo ắt sẽ không hiểu vì sao mà lại có những sự việc khác lạ như vậy ở nơi người ấu nhi mới 9, 10 tuổi này. Nhưng vì có học và hiểu đạo, nên chúng ta biết rằng, sở dĩ những đức tánh đó đều hội đủ và thể hiện ra ở nơi người đồng tử này là do nơi “thiện căn” và “chủng tử” tu hành trong tiền kiếp của Ngài nó huân tập (chất chứa) lại phát ra (trong hiện kiếp này) nhất là khi Ngài còn đang ở vào trong lứa tuổi ấu thơ, vô tư, không tội vạ (vô phân biệt).

Tại sao các thiện căn và chủng tử này chỉ phát hiện ra phần nhiều ở vào trong lứa tuổi đồng tử mà hiếm xảy ra nơi người lớn?

Bởi vì ở lứa tuổi đồng tử thì tâm chưa có vọng sanh ra các cấu uế, phiền não, nhơn, ngã, thị phi, thấp cao, phải quấy … v.v... cho nên cái tâm ấy nó “thuầnchơn” sạch sẽ và trắng trong như một tấm lụa trắng chưa có nhuộm màu, vì vậy mà nó rất dễ dàng phản ảnh lại các túc căn tiền kiếp.

Còn ở nơi người lớn thì ngược lại cái tâm “thuần chơn” đó đã bị các duyên đời cùng các trần lao, phiền não, cấu trược, ... khác dẫn dắt kéo lôi, nên chìm đi mà vọng sanh ra điên đảo, mê lầm, mất phần sở thủ, giống như mảnh lụa đã nhuộm màu rồi thì đâu còn trong trắng nữa, cho nên vì thế mà quên hết các thiện căn túc tập trong quá khứ của mình. Rồi từ đó trở đi cho chí đến ngày cuối của cuộc đời, cứ theo duyên trần cùng với những nghiệp (mới) tạo ra trong hiện kiếp đây trôi lăn trong trầm lụy.

Tôi đã thấy rất nhiều sự việc như vậy:
Xin đơn cử ra đây một bằng cứ:
- Lúc nhỏ tôi có một người bạn gái, chị cũng bình thường như những thiếu nữ khác thôi chớ không có gì đặc sắc cho lắm. Đến khi lập gia đình rồi thì vợ chồng chị sanh một đứa con trai (đầu lòng và duy nhất) đứa bé có dung mạo rất khả ái, ai nhìn thấy đều cũng sanh lòng cảm mến hết.

Ấu nhi này có một đặc biệt là nó không ăn và không chịu được các mùi hành, tỏi, thịt, cá. Mỗi lần cha mẹ cho ăn các thứ này thì nó ói và khóc đi như chết vậy. Trái lại với cơm trắng, tàu hủ, nước tương, rau luộc thì nó ăn ngon lành vui vẻ.

Hai vợ chồng chị đều thấy lấy làm lạ, và phải chi con mình nó ăn như vậy chừng 5, 7 tháng, một hai năm thì còn miễn cưỡng chịu được, đằng này đến khi lên 4, 5 tuổi sắp đi học rồi mà nó vẫn y chang như cũ, khiến cha mẹ lo ngại, sợ nó ốm o, bịnh hoạn, không đầy đủ sinh tố và sức khỏe. Nhà chị là một gia đình khá giả lại có độc nhất một mụn con này nên cưng lắm, do vậy nên từ đó vợ chồng chị mới bắt đầu tìm đủ mọi cách, nào gạt gẩm (như trộn nước thịt, cá vào cơm) ép buộc, dụ dỗ (ăn thịt thì cho tiền, cho kẹo v.v...) khiến sao cho con mình ăn được thịt cá mới nghe, cứ riết như vậy cho đến năm đứa nhỏ lên 8 tuổi, thì vợ chồng chị hoàn toàn thành công, chiến thắng và ca khúc khải hoàn, còn đứa bé thì từ đó trở đi chỉ ưa ăn toàn là cá thịt, lâu lâu vợ chồng chị thử cho ăn lại như xưa (xem sao) thì nó chê và không còn thèm nữa.

Lúc đó tôi còn nhỏ tuổi, chưa có học và hiểu biết gì về đạo pháp nên mặc dù thấy như vậy mà cũng không có ý kiến hay khuyên ngăn chi hết (và cũng không quan tâm đến nữa). Sau này khi lớn khôn, lập gia đình, học hiểu đạo pháp và làm Phật sự... mỗi khi nhớ đến việc này là lòng tôi bùi ngùi, cảm khái, thương cho đứa bé kia và cũng thương cho một bậc làm cha mẹ sai lầm, đến nổi dìm mất và tiêu hủy đi cái căn tu của con mình trong quá khứ.

Còn ở nơi cố Hòa thượng đây, nhờ được sanh trưởng trong một gia đình quê mùa, chơn chất nơi rẫy bái, ruộng vườn, cha mẹ tuy không hiểu nhiều về Phật lý, nhưng đều có khuynh hướng Phật giáo, vả lại vì ở quê làm ruộng thì chỉ tạm đủ sống qua ngày, đâu có dư dả bạc tiền để ăn cho nhiều thịt, cá như các người giàu sang nơi thành thị, mà phần lớn những bữa ăn trong gia đình chỉ dùng toàn các loại rau, đậu trồng phía sau vườn nhà, các con muốn ăn uống thế nào phụ mẫu cũng không ép uống, vả lại nhiều con quá 13 đứa con thì làm sao có đủ tiền để mua thịt cá ăn mỗi ngày, phần thì chợ búa ở xa, mỗi lần muốn đi chợ phải chèo ghe mất mấy tiếng đồng hồ mới đến, nên ông bà cụ còn cầu cho các con ăn càng nhiều rau đậu, tương chao, dưa muối bao nhiêu lại càng tốt bấy nhiêu.

Và như vậy mà vô tình ông bà cụ đã tùy thuận theo căn tánh của mỗi đứa con mình, đứa nào căn đời thì theo đời, người nào căn đạo thì theo đạo chớ không cưỡng ép.

Cũng đồng trong hai sự việc vô tình, nhưng trường hợp vô tình của ông bà cụ đây là “vô tình thuận duyên” cho các con, còn vô tình của vợ chồng người bạn tôi ở trên là một “vô tình tai hại” cho thiện căn của con mình trong quá khứ và đường đạo cùng sự giải thoát của nó ở tương lai.

Cũng nhờ như thế cho nên cố Hòa thượng của chúng ta khi còn thơ ấu đã được dịp ăn chay “thả cửa” thỏa thích, no lòng (khỏi lo ói mửa) lại thêm vào đó là có tâm niệm PHẬT, niệm TRỜI cho nên cảm ứng đến bề trên xuống rước... và được Phật đóng “Phật ấn” vào trán thọ ký vãng sanh, khỏi bị mai một đi cái thiện căn tu hành trong tiền kiếp.

Đây gọi là “trong cái rủi có cái may” vậy.
- Sao gọi là rủi mà có may?
- Rủi là sanh ra trong gia đình nghèo, quê mùa rẫy bái nên không được mặc quần áo đẹp sang, lên xe xuống ngựa, ăn uống dư thừa. Còn may là khỏi bị mất thiện căn tiền kiếp, sau này xuất gia, đi tu, trở thành một vị cao tăng đủ đầy đạo hạnh và được giải thoát vãng sanh, mang lại tiếng tốt cho gia đình, niềm tin cho Phật tử cùng đạo pháp, khiến cho ngàn vạn người lưu luyến tiếc thương, danh lưu vạn thuở.

Còn như trường hợp đứa bé con của vợ chồng người bạn tôi ở trên thì gọi là “trong may mà có rủi” vậy. Rốt lại thì cuộc đời của nó sau này khi lớn khôn lên rồi thì cũng vị kỷ, cũng cá nhân, cũng lục lục thường tài và cuối cùng rồi nó cũng chết đi một cách tầm thường như những người khác trong xã hội vậy mà thôi.

Đáng tiếc, đáng tiếc!!!
Điều này người đời mấy ai biết, ai hay và để tâm lưu ý đến mà hồi đầu tu niệm?

Qua ý này, cổ đức bài thơ rằng:
Nhựt lặn giờ Dậu,
Tàn dương sắp tàn, màn đêm rũ.
Tử sanh việc lớn biết chăng ai?
Kẻ ngu tầm mắt nhìn gần gũi.
Luyến tiền tài,
Thích trà rượu.
Dong rủi đông tây không biết đủ!
Bôn ba chẳng rảnh niệm Di Đà,
Già chết kề bên đành thúc thủ!
(Hoàng Phủ Sĩ Phương)
(Liên du dịch)
Bảo Đăng xin lược qua ý của bài thơ này:
- Giờ Dậu bắt đầu từ 7 giờ tối, hoàng hôn đến rồi và mặt trời sắp lặn, tàn dương chỉ còn sót lại vài ba tia sáng chói, le lói ở cuối chân trời. Màn đêm đang từ từ buông xuống.

Đây là tượng trưng cho khoảng thời gian già héo và các ngày cuối cùng của cuộc đời ta sẽ còn không bao lâu nữa.

Sống, chết là việc lớn lao nhất trên cõi đời này mà người thế gian có biết hay chăng? Hãy xử sự như người có trí huệ, hiểu biết cao xa, chớ đừng nên làm như các kẻ ngu mê vô trí, thấy hiện tại mà chẳng thấu tương lai, trọn đời chỉ có biết tiền bạc, rượu chè, bôn ba nơi đường danh, nẻo lợi, tham cầu hoài, được bao nhiêu cũng không thấy đủ. Thảng như có ai nhắc đến việc niệm Phật, tu hành thì lắc đầu nói rằng không có rảnh rang, hoặc để thủng thẳng rồi sẽ tính...vv...

Quang âm thấm thoát, thời tiết đổi dời, tháng lại qua ngày qua... Già chết đến nơi thì chỉ còn có một cách là cúi đầu thúc thủ trước Diêm vương, rồi theo nghiệp đọa vào trong địa ngục mà thôi, tránh sao cho thoát.

Chừng đó làm sao ăn năn cho kịp!

Khoảng gần cuối năm 1935, lúc cố Hòa thượng được hơn 10 tuổi, thì lại có thêm một việc ngẫu nhiên, lạ lùng khác nữa xảy ra làm căn bản cho con đường xuất gia tu học của ngài sau này.

Sự việc ấy như sau:
- Buổi sáng hôm đó nhằm ngày nghỉ học, ngài theo thân phụ ra đồng để cắt cỏ lúa (Gọi là cắt cỏ lúa bởi vì nhà nông sau khi cấy lúa xuống ruộng xong rồi, thì một thời gian ngắn sau cỏ dại cũng bắt đầu mọc lên xen lẫn với lúa, lúa mọc cao thì cỏ dại cũng mọc cao theo,vì vậy mà phải cắt bỏ cỏ dại này thì lúa mới tốt bằng không thì sẽ bị cỏ làm cho yếu sức đi. Khi trổ bông ra sẽ không có nhiều hột và như thế sẽ bị thất mùa. Việc này các giới nông gia ở miền Tây đều biết rõ hết).

Trong lúc đang cùng với thân phụ cắt cỏ lúa ở trong ruộng, ngài bất chợt nhìn lên và thấy trên bờ lộ có một vị tăng sĩ, mình mặc áo vàng chân đang bước đi nhàn nhã... Bỗng dưng ngài cảm thấy lòng mình bồi hồi xúc động, hình ảnh vị “PHẬT HÒA THƯỢNG” trong mơ năm xưa bỗng dưng hiện ra rõ ràng nơi tâm khảm, khiến cho đầu óc của ngài bàng hoàng, ngây ngất như vừa uống xong một ly rượu mạnh.

Ngài liền dừng tay lại, đứng thẳng người lên, sửng sốt ngó theo vị Hòa thượng đang đi ấy một hồi rồi tự nhiên bước chân ra khỏi ruộng lúa, leo lên bờ đê và chạy ùa theo Hòa thượng khiến cho thân phụ ngài ngạc nhiên hết sức.

Khi chạy qua khỏi Hòa thượng, khoảng chừng 5, 6 thước rồi, ngài liền quỳ đại xuống mặt lộ, đón đầu Hòa thượng đang đi đến, lạy đùa một hơi 3, 4 lạy.

Thấy một chú bé không rõ từ đâu ở phía sau chạy tới đón đầu mình rồi “a thần phù” quỳ xuống lạy đùa “bất kể hà xứ” như vậy, ban đầu thì hòa thượng hơi có vẻ ngạc nhiên một chút, nhưng rồi ngài cũng dừng chân lại, lấy tay vò đầu chú bé khôi ngô và dễ thương kia mấy cái mà khen rằng:

- Con giỏi lắm, biết cung kính chư tăng và lạy chào ta là một người hòa thượng.

Khen xong hòa thượng lại tiếp tục bước đi theo hướng của mình.

Ngài đứng bơ vơ một mình trên đường lộ, ngây người ngó theo, có lẽ do nơi thiện căn và túc duyên trong tiền kiếp đối với hòa thượng cho nên ngài cảm thấy tự đáy lòng mình dâng lên một niềm thương mến và lưu luyến vị hòa thượng đang đi ấy vô bờ, ngài liền chạy theo và một lần nữa cũng y như trước, quỳ xuống đón đầu hòa thượng cung kính lạy chào.

Hòa thượng rất lấy làm ngạc nhiên vì đây là lần thứ hai mà chú bé dễ thương kia chạy theo đón đầu mình đảnh lễ, tuy nhiên ngài cũng dừng bước lại, vò đầu chú bé và khen ngợi thêm một lần nữa rồi lại tiếp tục bước đi theo hướng của mình.

Nhưng hòa thượng đi chưa đầy trăm thước thì ngài thấy vẫn y chang là chú bé khi nảy chạy vù qua mặt mình rồi quỳ xuống đón đầu lạy bất kể, tựa như tế sao vậy. Hòa thượng ngạc nhiên quá sức, vì lần thứ nhất thôi hãy xem như là bình thường đi, đến lần thứ hai thì thấy hơi “là lạ” rồi bây giờ là lần thứ ba nó đón đầu mình mà lạy thiếu điều muốn nhào đầu, nhào cổ! Vậy là sao? Từ trước đến nay mình chưa bao giờ và bị lạy một cách kỳ lạ, đặc biệt giữa đường, giữa lộ như vậy hết. Cớ chi một đứa con nít nhỏ xíu lại có lòng cung kính người tu đến thế?

Thôi thì “bất quá tam” (không quá 3 lần) ta sẽ hỏi cho ra lẽ mới được. Đoạn hòa thượng trụ lại, đỡ cậu bé đứng lên và khom lưng xuống nhìn kỹ vào gương mặt của nó một hồi, bổng dưng ngài nhận thấy có một sự việc gì đó rất đáng lưu ý ở nơi con người của cậu bé này, nên ngài mới khen rằng:

- Tốt lắm, giỏi lắm, này con, con đã 3 lần con có lòng cung kính chạy theo đón đầu ta làm lễ bái như vậy tất cũng đủ biết rằng con có căn tu rất lớn rồi. Sách có câu: “Trọng thầy mới được làm thầy”. Nay con có lòng quý trọng người tu và riêng ta là một hòa thượng như thế thì sau này khi lớn lên ắt con sẽ được đi tu và rồi cũng sẽ trở thành một hòa thượng như ta ngày hôm nay vậy.

Con tên gì, cha mẹ là ai và nhà cửa ở đâu có gần đây hay không?

Đồng tử cung kính đáp:
- Bạch hòa thượng, con tên Nguyễn Nhựt Thăng, năm nay con được 10 tuổi. Nhà con cũng ở gần đây chớ không xa mấy.

Hòa thượng bảo:
- Hãy dẫn ta đến gặp mặt ba má con có được không?
Đồng tử đáp:
- Bạch hòa thượng được. Tiện dịp ba con đang làm cỏ lúa ở gần đây, để con hướng dẫn hòa thượng đến.

Đoạn dẫn hòa thượng tới gặp thân phụ của ngài nơi ruộng lúa và giới thiệu.

Hòa thượng nói với thân phụ của ngài rằng:
- Cậu bé con của ông đây có căn tu lớn lắm chớ không phải tầm thường đâu. Tôi đã xem kỹ tướng của nó rồi thì thấy nhơn duyên nó sau này là nhơn duyên xuất gia chớ không phải ở ngoài đời. Ông nên cho nó đi tu chớ đừng nên giữ nó ở gia đình mà tội nghiệp cho nó bị mai một cái thiện căn tu hành trong kiếp trước uổng lắm.

Tôi là Hòa thượng PHẬT ẤN trụ trì chùa Vĩnh Tràng tại chợ Mỹ Tho. Nếu như về sau ông muốn cho đứa bé này đi tu, hãy dẫn nó đến gặp tôi ở đấy.

Sau đó rồi hòa thượng từ giã hai cha con và tiếp tục đi lo công việc của mình, để lại trong cõi lòng của đồng tử Nhựt Thăng ngàn nỗi muôn nhớ nhung, hoài vọng.

(Đến đây tôi xin dừng lại một phút để nhắc quý đọc giả lưu ý một điều quan trọng, đặc biệt nhất.

Đó là:
- Hơn một năm về trước cố Hòa thượng của chúng ta nằm mơ thấy được “Phật Hòa thượng” đóng một cái PHẬT ẤN vào trán và nhận ngài làm Phật tử, tách ngài ra khỏi cảnh giới của chư thiên.

- Hơn một năm sau ngài lại gặp được một vị hòa thượng cũng tên PHẬT ẤN hứa sẽ tiếp độ ngài đi tu. Hai cái PHẬT ẤN này tự nhiên trùng hợp lại. Rõ ràng là cái việc xuất gia, đi tu và thành đạo của ngài sau này không phải là một sự ngẫu nhiên đâu mà chính là Phật đã có định trước (tiền định) cho ngài rồi vậy.

Sau lần được diện kiến, đảnh lễ và hầu cùng với PHẬT ẤN Hòa thượng nơi quan lộ rồi, từ đó trở đi ngoài giờ học và cách sinh hoạt bình nhật trong gia đình ra, ngài dành hầu hết các thời giờ rỗi rảnh của mình đến lễ Phật nơi ngôi chùa cổ ở trong làng nhiều hơn có đôi khi ở đó luôn cả buổi mới về nhà.

Tánh tình của ngài vốn dĩ đã trầm lặng, nay lại còn trầm lặng và trang nghiêm hơn khiến cho phụ mẫu của ngài đôi lúc cũng phải thầm e ngại và để ý quan sát các chuyển biến về nội tâm nơi đứa con trai nhỏ của mình. Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm của hai cụ đều cùng có chung một niềm cảm nghĩ rằng:

- Rồi một ngày nào kia, đứa con trai nhỏ yêu quý của mình chắc cũng sẽ bỏ nhà đi tu mà thôi và sau này có thể nó cũng trở thành một người hòa thượng giống như ông hòa thượng mà mình đã gặp dạo nào không chừng.

Và rồi thời gian như thế...